SlideShare a Scribd company logo
1 of 196
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VŨ THỊ TUYẾT
ĐẶC ĐIỂM NGỮ NGHĨA CỦA TỪ NGỮ
TRONG CA DAO TÌNH YÊU NGƯỜI VIỆT
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC
HÀ NỘI, 2018
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VŨ THỊ TUYẾT
ĐẶC ĐIỂM NGỮ NGHĨA CỦA TỪ NGỮ
TRONG CA DAO TÌNH YÊU NGƯỜI VIỆT
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 9229020
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC
Người hướng dẫn khoa học: GS. TS. Đỗ Việt Hùng
HÀ NỘI, 2018
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài.......................................................................................1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ......................................................................3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.......................................................................4
4. Phương pháp nghiên cứu.....................................................................................4
5. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn .................................................................................6
6. Những đóng góp mới của luận án .......................................................................6
7. Bố cục luận án .....................................................................................................7
CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ
LÍ THUYẾT..............................................................................................................8
1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu..............................................................8
1.1.1. Tình hình nghiên cứu về từ và nghĩa của từ..............................................8
1.1.2. Tình hình nghiên cứu về ca dao tình yêu người Việt dưới góc độ ngôn ngữ...20
1.1.3. Tình hình nghiên cứu về nghĩa biểu trưng trong ca dao tình yêu người Việt...21
1.2. Cơ sở lí thuyết của đề tài..............................................................................23
1.2.1. Từ và nghĩa của từ...................................................................................23
1.2.2. Trường nghĩa...........................................................................................31
1.2.3. Biểu trưng................................................................................................35
1.2.4. Vài nét về ca dao.....................................................................................48
Kết luận chương 1................................................................................................52
CHƯƠNG 2. ĐẶC ĐIỂM NGỮ NGHĨA CỦA TỪ NGỮ CHỈ THỰC VẬT
TRONG CA DAO TÌNH YÊUNGƯỜI VIỆT......................................................53
2.1. Bức tranh tổng quát về từ ngữ chỉ thực vật trong ca dao tình yêu
người Việt..................................................................................................53
2.2. Sự chuyển nghĩa của từ ngữ chỉ thực vật trong ca dao tình yêu người Việt....55
2.2.1. Khái quát về sự chuyển nghĩa của từ ngữ chỉ thực vật trong ca dao tình
yêu người Việt...................................................................................................55
2.2.2. Sự chuyển nghĩa của các từ ngữ chỉ cây trong ca dao tình yêu người Việt...57
2.2.3. Sự chuyển nghĩa của từ ngữ chỉ hoa trong ca dao tình yêu người Việt..58
2.2.4. Sự chuyển nghĩa của từ ngữ chỉ quả trong ca dao tình yêu người Việt.58
2.3. Ý nghĩa biểu trưng của từ ngữ chỉ thực vật trong ca dao tình yêu
người Việt ............................................................................................................59
2.3.1. Mối quan hệ giữa đặc điểm bản thể và ý nghĩa biểu trưng của từ ngữ chỉ
thực vật trong ca dao tình yêu người Việt.........................................................59
2.3.2. Nghĩa biểu trưng của từ ngữ chỉ cây trong ca dao tình yêu người Việt..61
2.3.3. Nghĩa biểu trưng của từ ngữ chỉ hoa trong ca dao tình yêu người Việt.79
2.3.4. Nghĩa biểu trưng của từ ngữ chỉ quả trong ca dao tình yêu người Việt..98
Kết luận chương 2..............................................................................................105
CHƯƠNG 3 ĐẶC ĐIỂM NGỮ NGHĨA CỦA TỪ NGỮ CHỈ VẬT THỂ
NHÂN TẠO TRONG CA DAO TÌNH YÊU NGƯỜI VIỆT.............................107
3.1. Bức tranh tổng quát về từ ngữ chỉ vật thể nhân tạo trong ca dao tình yêu
người Việt ...........................................................................................................107
3.2. Sự chuyển nghĩa của từ ngữ chỉ vật thể nhân tạo trong ca dao tình yêu
người Việt...........................................................................................................110
3.2.1. Sự chuyển nghĩa của từ ngữ chỉ công trình kiến trúc trong ca dao tình
yêu người Việt.................................................................................................112
3.2.2. Sự chuyển nghĩa của từ ngữ chỉ vật dụng sinh hoạt gia đình trong ca dao
tình yêu người Việt..........................................................................................112
3.2.3. Sự chuyển nghĩa của từ ngữ chỉ đồ dùng cá nhân trong ca dao tình yêu
người Việt........................................................................................................113
3.2.4. Sự chuyển nghĩa của từ ngữ chỉ phương tiện và công cụ sản xuất trong
ca dao tình yêu người Việt ..............................................................................114
3.3. Nghĩa biểu trưng của từ ngữ chỉ vật thể nhân tạo trong ca dao tình
yêu người Việt...................................................................................................114
3.3.1. Mối quan hệ giữa đặc điểm bản thể và ý nghĩa biểu trưng của từ ngữ chỉ
vật thể nhân tạo trong ca dao tình yêu người Việt ..........................................114
3.3.2. Nghĩa biểu trưng của từ ngữ chỉ công trình kiến trúc trong ca dao tình
yêu người Việt.................................................................................................115
3.3.3. Nghĩa biểu trưng của từ ngữ chỉ vật dụng sinh hoạt gia đình trong ca dao
tình yêu người Việt..........................................................................................123
3.3.4. Nghĩa biểu trưng của từ ngữ chỉ đồ dùng cá nhân trong ca dao tình yêu
người Việt........................................................................................................132
3.3.5. Nghĩa biểu trưng của từ ngữ chỉ phương tiện và công cụ sản xuất trong
ca dao tình yêu người Việt ..............................................................................142
Kết luận chương 3..............................................................................................148
KẾT LUẬN............................................................................................................149
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
LUẬN ÁN...............................................................................................................151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................152
PHỤ LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Bảng thống kê sự xuất hiện và tương quan của các từ ngữ chỉ TV: cây/ hoa/ quả
trong CDTY người Việt...............................................................................................54
Bảng 2.2. Bảng thống kê các từ ngữ chỉ TV được dùng với nghĩa gốc............................56
Bảng 3.1. Bảng thống kê các từ ngữ chỉ VTNT được dùng với nghĩa gốc và nghĩa chuyển
trong CDTY người Việt.............................................................................................111
HÌNH VẼ, BIỂU ĐỒ
Hình 2.1. Biểu đồ so sánh sự tương quan của các từ ngữ chỉ TV: cây/ hoa/ quả .....55
trong CDTY người Việt ............................................................................................55
Hình 2.2. Biểu đồ so sánh tương quan của các từ ngữ chỉ cây mang nghĩa biểu trưng
trong CDTY người Việt ............................................................................................62
Hình 2.3. Sơ đồ biểu thị mối quan hệ giữa các giai đoạn phát triển của cây với các
giai đoạn trong cuộc đời người phụ nữ .....................................................................66
Hình 2.4. Biểu đồ so sánh sự tương quan của các từ ngữ chỉ hoa mang nghĩa biểu
trưng trong CDTY người Việt...................................................................................81
Hình 2.5. Biểu đồ so sánh tương quan của các từ ngữ chỉ quả mang nghĩa biểu trưng
trong CDTY người Việt ..........................................................................................100
Hình 3.1. Biểu đồ so sánh từ ngữ chỉ các VTNT có tần số xuất hiện cao nhất thuộc
bốn nhóm (CTKT/ ĐDCN/ VDSHGĐ/ PT&CCSX) trong CDTY người Việt ......110
Hình 3.2. Biểu đồ so sánh sự xuất hiện của các từ ngữ chỉ CTKT mang nghĩa biểu
trưng trong CDTY người Việt.................................................................................116
Hình 3.3. Biểu đồ so sánh sự tương quan của các từ ngữ chỉ VDSHGĐ mang nghĩa
biểu trưng trong CDTY người Việt.........................................................................124
Hình 3.4. Biểu đồ so sánh tương quan của các từ ngữ ĐDCN mang nghĩa biểu
trưng trong CDTY người Việt.................................................................................132
Hình 3.5. Biểu đồ so sánh sự tương quan của các từ ngữ chỉ PT&CCSX mang nghĩa
biểu trưng trong CDTY người Việt.........................................................................142
DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU VIẾT TẮT
CDTY : Ca dao tình yêu
BT : Biểu trưng
CN : Chuyển nghĩa
TV : Thực vật
TH : Tín hiệu
THNN : Tín hiệu ngôn ngữ
THTM : Tín hiệu thẩm mĩ
VTNT : Vật thể nhân tạo
CTKT : Công trình kiến trúc
VDSHGĐ : Vật dụng sinh hoạt gia đình
ĐDCN : Đồ dùng cá nhân
PT&CCSX : Phương tiện và công cụ sản xuất
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Từ là đơn vị căn bản của hệ thống ngôn ngữ, là đối tượng có lịch sử nghiên cứu lâu
dài và phức tạp. Từ có nhiều chức năng khác nhau, trước hết đó là chức năng định danh
gọi tên các sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan. Từ còn biểu hiện nội dung, tình
cảm, sự tình, ý niệm. Từ trong hoạt động hành chức có chức năng tạo lời, tạo câu. Nghĩa
của từ cũng là một khái niệm có nội hàm rất phức tạp, “nghĩa của từ về bản chất là một
thực thể tinh thần được mã hóa, được kí hiệu trong từ. Nghĩa từ vựng của từ phản ánh,
phản xạ” [115, 61]. Cũng có thể hiểu “nghĩa của từ là toàn bộ nội dung tinh thần xuất
hiện trong suy nghĩ của một người bản ngữ khi người đó tiếp xúc (tạo lập hoặc lĩnh hội)
với một hình thức âm thanh ngôn ngữ nhất định” [58, 38]; “Nghĩa của từ, mặt quan trọng
mà ta đang nói đến có chức năng phản ánh, biểu đạt, ánh xạ thực tại, tư duy,… Ngôn ngữ
của từ ngữ, xét trong thể toàn vẹn là hệ thống kí hiệu đặc biệt, là công cụ trọng yếu của
giao tiếp, của tư duy” [112, 61]. Từ là đối tượng có vị trí cốt yếu, điều đặc biệt và quan
trọng khi khám phá các đơn vị ngôn ngữ là cần nắm được nghĩa của từ. Đây được xem là
chìa khóa để giải mã các lớp ý nghĩa của các đơn vị ngôn ngữ.
1.2. Việc phân lập vốn từ của mỗi ngôn ngữ thành các trường từ vựng - ngữ nghĩa đã
tạo điều kiện dễ dàng cho việc phát hiện ra tính hệ thống cũng như các cơ chế thuộc về kết
cấu và ngữ nghĩa của bản thân ngôn ngữ ấy. Mặt khác, việc giải thích vốn từ của của một
ngôn ngữ phải được bắt đầu từ sự phân tích các nhóm từ hay lớp từ hoặc các trường từ
vựng ngữ nghĩa với tư cách là phạm vi từ vựng cơ sở. Đây cũng là một con đường nghiên
cứu của ngôn ngữ học hiện đại nhằm vận dụng rộng rãi quan niệm hệ thống cấu trúc và
những tư tưởng vĩ đại của F.Saussure vào nghiên cứu ngôn ngữ.
1.3. Trong ngôn ngữ học, việc dùng lí thuyết ngôn ngữ để nghiên cứu văn học là một
hướng nghiên cứu đã xuất hiện và phát triển mạnh mẽ từ thế kỉ XX và tiếp tục duy trì và
phát triển đạt được nhiều thành tựu trong thế kỉ XXI. Nghiên cứu từ góc độ này tạo nên cái
nhìn đa chiều khi nghiên cứu, giúp cho việc tìm hiểu văn chương được toàn diện hơn.
Đồng thời, sự nghiên cứu này cũng góp phần củng cố và làm rõ hơn các lí thuyết ngôn
ngữ. Đây là một hướng nghiên cứu thu hút được sự quan tâm rộng khắp của giới nghiên
cứu. Địa hạt mà ngôn ngữ học hướng tới nghiên cứu trong văn học rất đa dạng không giới
2
hạn ở một loại hình hay loại thể nào. Việc nghiên cứu về ngữ nghĩa của từ vẫn còn được
tiếp tục như một xu hướng tất yếu của khoa học nghiên cứu ngôn ngữ. Ngôn ngữ trong văn
chương nghệ thuật có những nét đặc trưng riêng, là thứ ngôn ngữ đã được khúc xạ qua
lăng kính của người sáng tác. Hơn nữa, văn chương cũng luôn gắn liền với một bối cảnh
văn hóa nhất định, có những khi từ ngữ trong đó đã vượt ra khỏi ngữ nghĩa thông thường
để trở thành phương tiện tạo nghĩa biểu trưng. Việc nghiên cứu ngôn ngữ trong phạm vi
văn chương trong tương quan với văn hóa là một hướng nghiên cứu cơ bản hiện nay. Đây
được xem là hướng nghiên cứu khá độc đáo và mang lại cho người đọc những tri thức
mang tính đa chiều. Nghiên cứu theo phương thức này sẽ cho ta thấy được mối liên hệ mật
thiết giữa ngôn ngữ và văn hóa, ngôn ngữ và tư duy đã được khẳng định từ lâu.
1.4. Nghiên cứu ngữ nghĩa của từ trong văn học dân gian mà cụ thể trong phạm vi
đề tài này là loại hình ca dao tình yêu của người Việt cũng là một trong những
hướng nghiên cứu dùng lí thuyết ngôn ngữ để giải mã văn học. Nghiên cứu vấn đề
này, chúng tôi đi sâu phân tích những đặc điểm ngữ nghĩa của các từ ngữ thuộc một
số trường nghĩa tiêu biểu trong ca dao tình yêu. Cụ thể trong phạm vi nghiên cứu
của luận án, chúng tôi tập trung làm rõ phân tích các nghĩa chuyển, sự chuyển
trường cũng như nghĩa biểu trưng của các từ ngữ tiêu biểu thuộc hai trường nghĩa
“thực vật” và “vật thể nhân tạo” trong ca dao tình yêu người Việt. Qua đó góp phần
tìm hiểu sâu hơn về ca dao tình yêu cũng như làm nổi bật những đặc điểm trong tư
duy văn hóa của người Việt xưa. Để chiếm lĩnh được nội dung, ý nghĩa của các lời
ca dao tình yêu cũng như để khám phá được nét độc đáo, tinh tế trong tâm hồn,
những nét đặc trưng trong văn hóa và tư duy của người Việt xưa người đọc cần có
một hệ tri thức phong phú và đa dạng. Trước hết người đọc cần nắm được đặc điểm
ngữ nghĩa của từ ngữ, sự chuyển nghĩa, chuyển trường cũng như nghĩa biểu trưng
của chúng. Điều này, theo chúng tôi, vừa có ý nghĩa về mặt lí luận (góp thêm tiếng
nói minh chứng cho hướng nghiên cứu mới trong ngôn ngữ đang được các nhà ngôn
ngữ học chú ý – mối liên hệ giữa ngôn ngữ và văn học), vừa có ý nghĩa về mặt thực
tiễn (giúp cho những người quan tâm đến từ vựng tiếng Việt, đặc biệt là những sinh
viên nghiên cứu về ngôn ngữ có được cái nhìn toàn diện hơn về bức tranh ngôn ngữ
của người Việt trên bình diện nghĩa của từ).
3
Với những ý nghĩa trên, chúng tôi đã lựa chọn vấn đề Đặc điểm ngữ nghĩa của từ
ngữ trong ca dao tình yêu người Việt làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là tập trung tìm hiểu nghĩa chuyển, ý nghĩa biểu
trưng, cơ chế tạo nghĩa biểu trưng của từ ngữ ở trường nghĩa chỉ thực vật và vật thể
nhân tạo trong ca dao tình yêu người Việt. Qua đó, luận án sẽ chỉ ra những nét đặc
trưng trong bức tranh ngữ nghĩa của từ ngữ và những đặc trưng tư duy của người Việt
xưa về tình yêu trong ca dao tình yêu người Việt. Đồng thời, luận án cũng muốn làm
rõ những điểm tương đồng và sự phái sinh của các nghĩa biểu trưng mà từ ngữ trong
hai trường nghĩa tiêu biểu mang lại trên cơ sở các nghĩa biểu trưng được khái quát
trong Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận án sẽ thực hiện những nhiệm vụ sau:
- Tổng quan vấn đề nghiên cứu, xây dựng những cơ sở lí luận có liên quan đến đề tài
luận án như các nghiên cứu về nghĩa của từ, sự chuyển nghĩa, trường nghĩa, trường
nghĩa “thực vật”, trường nghĩa “vật thể nhân tạo” và các nghiên cứu về nghĩa biểu
trưng.
- Thống kê, xác lập được hệ thống các tiểu trường, các nhóm từ thuộc hai trường
nghĩa chỉ “thực vật” và “vật thể nhân tạo”.
- Phân tích ngữ nghĩa của từ, sự chuyển trường của từ cũng như nghĩa biểu trưng
của các từ ngữ chỉ “thực vật” và “vật thể nhân tạo” tiêu biểu trong ca dao tình yêu
người Việt.
- Chỉ ra được đặc trưng văn hóa của dân tộc trong việc sử dụng từ ngữ chỉ thực vật,
vật thể nhân tạo để biểu trưng cho một số vấn đề trong ca dao tình yêu. Trên cơ sở
các nghĩa biểu trưng được nêu trong Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, chúng tôi
soi chiếu vào hệ thống các nghĩa biểu trưng có được trong CDTY người Việt. Qua
đó, làm rõ điểm tương đồng cũng như sự phái sinh các nghĩa biểu trưng trên cơ sở
các mẫu gốc. Đồng thời, các kết quả sẽ góp phần khẳng định về mối quan hệ giữa
ngôn ngữ, tư duy và văn hóa của dân tộc Việt Nam.
4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Với số lượng khảo sát là 6102 lời CDTY trên tổng số 11821 lời ca dao trong Kho
tàng ca dao người Việt, chúng tôi tập trung nghiên cứu ngữ nghĩa của từ ngữ thuộc hai
trường nghĩa “thực vật” (là đại diện điển hình cho nhóm từ ngữ chỉ thế giới tự nhiên) và
trường nghĩa chỉ “vật thể nhân tạo”. Các từ ngữ chỉ thế giới tự nhiên vô cùng phong phú.
Trong đó, các từ ngữ chỉ TV là nhiều nhất nên chúng tôi chọn để nghiên cứu như một đại
diện của các từ ngữ chỉ giới tự nhiên được đặt trong tương quan với các từ ngữ chỉ VTNT.
Vấn đề nghiên cứu của đề tài là ngữ nghĩa của từ ngữ chỉ TV và VTNT trong CDTY
người Việt. Ngữ nghĩa của từ ngữ là một phạm trù rất rộng với nhiều vấn đề khác nhau.
Tuy nhiên, các từ trong CDTY được dùng nhiều với nghĩa chuyển, những ý nghĩa ấy đã
vượt qua khỏi giới hạn nghĩa thông thường để biểu trưng cho những ý nghĩa nào đó trong
tương quan với văn hóa của đời sống xã hội. Luận án không hệ thống hóa các loại ngữ vì
nó quá phong phú. Trong quá trình phân tích ngữ nghĩa của từ, chúng tôi luôn đặt từ trong
các ngữ để làm rõ nghĩa của chúng. Cũng trong các ngữ, từ mới thể hiện được hết các ý
nghĩa. Trọng tâm của luận án là tìm hiểu về sự CN, YNBT của các từ chỉ “thực vật” và
“vật thể nhân tạo” được đặt trong mối quan hệ với các từ khác trong các ngữ với hi vọng
làm rõ một phương diện ngữ nghĩa của từ ngữ trong CDTY người Việt.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Ngữ liệu được chọn nghiên cứu là các lời CDTY trong Kho tàng ca dao người Việt
(do Nguyễn Xuân Kính, Phan Đăng Nhật làm chủ biên), NXB Khoa học xã hội năm 1998.
Sự khảo sát và phân tích sẽ tập trung vào các từ ngữ chỉ các loại thực vật, vật thể nhân tạo
xuất hiện trong CDTY người Việt.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong luận án, chúng tôi chủ yếu sử dụng một số phương pháp và thủ pháp nghiên
cứu sau:
4.1. Phương pháp miêu tả
Đây là phương pháp chính để giải quyết các vấn đề của luận án. Từ những nguồn
ngữ liệu đã thu thập, chúng tôi tiến hành phân tích miêu tả đặc điểm ngữ nghĩa và nghĩa
biểu trưng của các từ ngữ tiêu biểu thuộc trường nghĩa “TV” và “VTNT” trong CDTY
người Việt.
5
4.2. Phương pháp phân tích ngữ nghĩa
Phương pháp phân tích ngữ nghĩa là phương pháp dùng để phân tích mối quan
hệ bình diện hệ thống – cấu trúc và bình diện hoạt động, chỉ ra sự khác biệt giữa
nghĩa bản thể và nghĩa liên hội, nghĩa sự vật – logic và nghĩa biểu trưng, sự biến đổi
ý nghĩa theo cả trục đồng đại và lịch đại. Khi xem xét nghĩa biểu trưng trong CDTY
cần so sánh đối chiếu các yếu tố trên trục hệ hình để thấy rõ hướng nghĩa biểu trưng
của từng nhóm từ ngữ dựa trên những đặc điểm tương đồng và khác biệt.
4.3. Thủ pháp phân tích ngữ cảnh
Đây là thủ pháp nhằm chỉ ra ngữ cảnh của một hiện tượng ngôn ngữ. Xem xét
từ ngữ trong ca dao tình yêu cần quan tâm đến các yếu tố ngôn ngữ nằm trong văn
bản mà từ ngữ được xét. Đó là các yếu tố thuộc về ngôn cảnh tình huống. Ngôn
cảnh tình huống là thế giới xã hội và tâm lí mà trong đó, ở một thời điểm nhất định
người ta sử dụng ngôn ngữ. Đồng thời, khi xem xét đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ
cũng cần chú ý đến ngữ cảnh văn hóa. Đó là những tiền ước và tri thức nền. Tiền
ước chính là những hiểu biết chung về lịch sử, văn hóa, tập quán,… mà người giao
tiếp cần có được. Tri thức nền là sự hiểu biết và khả năng cảm nhận các hiện tượng
văn hóa của cả hai bên giao tiếp. Nó được coi là yếu tố không lời của quá trình giao
tiếp, chúng quện vào nhau trong văn bản của một tác phẩm ngôn ngữ. Khi phân tích
ngữ nghĩa của từ ngữ trong CDTY, chúng tôi xem xét đến cả ngữ cảnh tình huống
và ngữ cảnh văn hóa. Bởi nghĩa của từ đặc biệt là nghĩa biểu trưng chịu sự chi phối
rất lớn của ngữ cảnh.
4.4. Thủ pháp thống kê
Thủ pháp này nhằm xác định số lượng lời và lượt cũng như và tỉ lệ các từ
trong mỗi trường nghĩa, từ đó có thể xác lập được các tiểu trường trong các trường
nghĩa. Bên cạnh đó, thủ pháp này còn dùng để thống kê các từ ngữ được dùng với
nghĩa gốc, nghĩa chuyển, để từ đó xác lập YNBT và mối quan hệ với các loại ý
nghĩa đó.
Ngoài các phương pháp kể trên, chúng tôi còn sử dụng các phương pháp
nghiên cứu ngôn ngữ học khác như phương pháp nghiên cứu trường hợp, phương
pháp phân tích thành tố nghĩa…
6
5. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn
5.1. Ý nghĩa lí luận
Với đề tài này, chúng tôi cho rằng kết quả đạt được sẽ góp phần làm sâu sắc hơn
về tính hệ thống cấu trúc, tính tầng bậc và tính giao thoa trong ngôn ngữ. Do đó, luận
án góp phần vào việc nghiên cứu lí thuyết về trường nghĩa, nghĩa chuyển, chuyển
trường, mối quan hệ giữa nghĩa của từ và YNBT, những giá trị văn hóa trong tiếng
Việt. Đồng thời giúp cho những nghiên cứu tiếp theo có thêm những cơ sở lý thuyết và
thực tiễn trong việc đi sâu hơn nghiên cứu trường nghĩa nói riêng và ngữ nghĩa của từ
tiếng Việt nói chung cũng như mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa.
5.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu mà luận án mang lại có thể sử dụng như một tài liệu phục
vụ cho việc học tập, nghiên cứu và giảng dạy ngôn ngữ và văn học trong nhà
trường. Những kết quả nghiên cứu của luận án góp phần làm rõ thêm một đường
hướng nghiên cứu văn học từ góc độ ngôn ngữ. Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng cung
cấp cho người làm công tác giảng dạy thêm một công cụ chiếm lĩnh văn chương từ
phương diện ngôn ngữ. Đồng thời, những kết quả này còn được sử dụng để nghiên
cứu về văn hóa cũng như làm sáng rõ các đặc trưng văn hóa của người Việt xưa
trong sự nhận thức về tình yêu và cuộc sống. Các kết quả nghiên cứu có thể phục vụ
cho việc biên soạn từ điển về nghĩa biểu trưng trong kho tàng ca dao Việt Nam.
6. Những đóng góp mới của luận án
- Luận án đã hệ thống hóa được các nhóm từ cơ bản, điển hình trong CDTY
người Việt. Từ đó, sẽ cho người đọc thấy được một bức tranh khái quát về hệ thống
các từ ngữ trong loại hình CDTY của người Việt.
- Luận án cũng xác lập và phân tích được nghĩa gốc, nghĩa chuyển, chỉ ra
được cơ chế CN của các từ ngữ tiêu biểu mang tính đại diện cho hệ thống các từ
ngữ trong CDTY người Việt.
- Trên cơ sở phân tích đặc điểm nghĩa của từ về các phương diện nghĩa gốc,
nghĩa chuyển, luận án cũng chỉ ra được cơ chế tạo nghĩa biểu trưng, YNBT của các
từ ngữ tiêu biểu trong nhóm từ chỉ TV và VTNT. Những phân tích này cũng góp
phần làm rõ mối quan hệ giữa ngôn ngữ - văn hóa và tư duy.
7
7. Bố cục luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận án gồm 3 chương.
Chương 1: Tổng quan về tình hình nghiên cứu và cơ sở lí thuyết
Chương 2: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ chỉ thực vật trong ca dao tình yêu
người Việt
Chương 3: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ chỉ vật thể nhân tạo trong ca dao
tình yêu người Việt
8
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ THUYẾT
Dẫn nhập
Nghĩa của từ và sự chuyển biến ý nghĩa của từ là một trong các vấn đề cơ bản của
ngôn ngữ học. Trong chương này, luận án sẽ điểm lại các xu hướng cũng như các công
trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài, từ đó xác định cơ sở lí luận có tính đường hướng
cho đề tài.
1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu
1.1.1. Tình hình nghiên cứu về từ và nghĩa của từ
1.1.1.1. Tình hình nghiên cứu về từ và nghĩa của từ trên thế giới
Có thể nói rằng từ, nghĩa của từ từ lâu đã trở thành vấn đề trọng tâm của ngôn
ngữ học nói chung và ngữ nghĩa học nói riêng. Từ và nghĩa của từ chính là một bộ
phận quan trọng của ngữ nghĩa học. Ngữ nghĩa học với tư cách là một bộ môn khoa
học độc lập được hình thành vào khoảng cuối thế kỉ XIX được đánh dấu bằng công
trình của M. Bréal – Essai de Sémantique (1877). Nhưng có thể thấy rằng, sự quan
tâm đến nghĩa của ngôn ngữ không phải chỉ đến cuối thế kỉ XIX mới xuất hiện mà
được bắt đầu từ rất sớm và kéo dài từ thời kì cổ đại cho đến nay với nhiều xu hướng
Trong thời kì Cổ Trung đại, từ cũng như ý nghĩa của từ đã trở thành một vấn
đề được quan tâm đặc biệt. Trong thời kì cổ đại, ngôn ngữ học, trong đó có vấn đề
về nghĩa khá phát triển ở Ấn Độ và các nhà khoa học châu Âu: Platon (429 – 347),
Aristole (384 – 322 trước CN) qua các công trình như Giải thích (On
Interpretation), Tu từ học (Rhetoric), Thi học (Poetics). Các cuộc tranh luận về sự
tương ứng giữa tên gọi với sự vật được biểu thị kéo dài từ thời kì cổ đại đến thời kì
trung đại. Giai đoạn tiếp theo chính là thời kì Phục hưng, sự phát triển mối quan
tâm về nghĩa tiếp tục trong các tác phẩm thời kì này, đặc biệt là trong thế kỉ Ánh
sáng. Một bước ngoặt quan trọng trong ngôn ngữ học thế kỉ XIX là sự khẳng định
và phát triển của khuynh hướng so sánh - lịch sử,... Từ giữa thế kỉ XX cho đến nay,
việc nghiên cứu ngữ nghĩa của từ ngữ vẫn diễn ra sôi nổi. Sự tranh chấp giữa việc
ủng hộ và phản đối nghiên cứu nghĩa của ngôn ngữ đã nghiêng về việc ủng hộ.
9
Nghiên cứu về nghĩa của từ trải qua nhiều giai đoạn khác nhau gắn liền với nhiều xu
hướng và trường phái. Từ góc độ ngôn ngữ học cấu trúc, tác giả Lê Quang Thiêm cho rằng
vấn đề và sự phát triển nghĩa của từ được chia thành ba thời kì chính gắn liền với tên tuổi
của các tác giả lớn cùng với những thành tựu nghiên cứu của họ. Đó là thời kì tiền cấu trúc
luận, thời kì cấu trúc luận và thời kì hậu cấu trúc luận.
Thời kì tiền cấu trúc luận, theo tác giả Lê Quang Thiêm, tác giả người Pháp Michel
Bréal với công trình Essai de Sesmantique (Science des significations) xuất bản năm 1877
được xem là người đi tiên phong trong nghiên cứu bộ môn khoa học này. Nghiên cứu
nghĩa của từ trong giai đoạn này chủ yếu được tiến hành nhằm mục đích phát hiện ra các
quy luật biến đổi nghĩa của từ, trước hết từ góc độ thời gian lịch sử.
Năm 1825, cuốn “Semasiology” (ngữ nghĩa học) được ra đời ở Đức, đó là cuốn sách
tập hợp các bài nghiên cứu của tác giả Reizig Berary về ngữ nghĩa. Bên cạnh đó, ngữ
nghĩa giai đoạn này cũng gắn với tên tuổi nhiều nhà nghiên cứu tên tuổi như: Agathon
Benary, Karl Reisig, Oskar Hey, Friedrich Haase, …. Nghiên cứu của họ chủ yếu tập trung
vào vấn đề thay đổi nghĩa, những nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi nghĩa trên quan điểm
lịch sử [113, 14]. Đặc biệt, tác giả Reisig trong công trình của mình nghiên cứu về tiếng
Latinh (1839) đã cho rằng đối tượng của khoa học mà ông gọi là Semansiology cần phải là
những quy luật biến đổi nghĩa của từ. Có thể nói, giai đoạn này trong nghiên cứu nghĩa của
từ là giai đoạn nghiên cứu các quy luật biến đổi nghĩa từ vựng.
Tác giả đặt nền móng cho ngữ nghĩa học là nhà ngôn ngữ học người Anh Benjamin
Humphrey Smart. Ông được xem là người có đóng góp to lớn tới khoa học ngữ nghĩa với
một số bài nghiên cứu về khoa học này. Năm 1850, tác giả Horne Tooke đã xuất bản cuốn
sách “Metaphisical Etymology”. Và tác giả đã dùng từ Semasiology đặt tên cho bộ môn
này. Nghiên cứu về nghĩa và sự CN giai đoạn này cũng gắn liền với nhiều tác giả như: Ch.
Ogden, V. Lady Welly, I. Richard, Peirce,… Các tác giả đã lí giải cặn kẽ về nghĩa cũng
như sự thay đổi nghĩa theo quan điểm lịch sử. Đồng thời, họ cũng phân tích sâu hơn và đưa
ra các luận giải về các bình diện TH học [113, 14].
Cạnh đó, một trong những đóng góp lớn cho việc hình thành ngữ nghĩa học
trong thời gian này là công trình của V.F. Humboldt (1767 – 1835). Dưới cách nhìn
mới, V.F. Humboldt đặt lại vấn đề về mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tư duy. Tư
10
tưởng này của V.F. Humboldt được mở ra tiếp tục trong các giả thuyết của Sapir –
Whorf (The Sapir – Whorf Hypothesis) và nhiều trường phái hậu V.F. Humboldt ở
thế kỉ XX. Thế giới quan thể hiện trong cấu trúc ngôn ngữ được gọi là bức tranh
ngôn ngữ về thế giới. Quan niệm bức tranh ngôn ngữ về thế giới của V.F.Humboldt
và những người kế tục tiếp tục trở thành một trong những nhiệm vụ quan trọng của
miêu tả ngữ nghĩa học cuối thế kỉ XX.
Ngôn ngữ học cấu trúc đánh dấu sự trở lại vào những năm 20 của thế kỉ XX
với cuốn Giáo trình ngôn ngữ học đại cương của F. de Saussure (1916). Giai
đoạn này có rất nhiều các công trình nghiên cứu nổi tiếng của giả G. Stern, S. Uilimann,
A. Schaff… Nghiên cứu ngữ nghĩa đánh một dấu mốc quan trọng xác lập vị trí của mình
với các công trình của Bloomfield và Chomsky. Hai tác giả này đã tạo nên ảnh hưởng
quan trọng trong khuôn mẫu ở một ngôn ngữ học không cần ý nghĩa. Thời kì này, ngữ
nghĩa còn đi cùng với tâm lí thực nghiệm và logic toán. Nghiên cứu ngữ nghĩa gắn liền với
các nhà nghiên cứu như: A. Taski, B. Russell. G. Frege, R. Montague [113, 15].
Thời kì tiền cấu trúc luận và cấu trúc luận, các nghiên cứu đa số đều tập trung
vào vấn đề ngữ nghĩa và sự biến đổi ngữ nghĩa. Các nghiên cứu thời kì này xem xét
ngữ nghĩa của từ tách rời, biệt lập, không chú ý đến văn cảnh, ngữ cảnh. Dù ra đời
sau, với cái nhìn toàn diện và tích cực hơn về nghĩa của từ trong cấu trúc hệ thống
song các luận điểm mà họ đưa ra lại chịu nhiều ảnh hưởng của cấu trúc luận thuần
túy trong khi đó hoạt động hành chức lại là nhân tố đáng chú trọng.
Cho đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu của các nhà ngôn ngữ học
trên thế giới bàn về sự phát triển ngữ nghĩa của từ. Trước hết, phải kể đến tác giả
người Anh Aitchison với cuốn Language change: Progress or Decay? [138] và
tác giả Crowley với cuốn An Introduction to Historical Linguistics [1402], ngoài
ra còn có công trình nghiên cứu An Introduction to Language [155] của tác giả
Fromkin… Qua các nghiên cứu này, các tác giả đặc biệt quan tâm đến sự phát
triển CN của từ dưới ảnh hưởng của tâm lí xã hội. Tác giả Lê Thị Thanh Tâm
trong luận án của mình [105] đã chỉ ra rằng việc nghiên cứu sự phát triển nghĩa
của từ của các nhà ngôn ngữ học nước ngoài có thể tạm chia làm ba khuynh
hướng chính:
11
Thứ nhất là nghiên cứu theo logic học mà Paul là người khởi xướng với
bảng phân loại logic học các hiện tượng phát triển nghĩa, trong đó chú ý so sánh
nội dung khái niệm trước và sau khi biến đổi, đồng thời nêu lên mối quan hệ
logic giữa chúng; Thứ hai là nghiên cứu theo tâm lí học mà đại diện là Wundt
với sự giải thích hiện tượng phát triển nghĩa căn cứ vào đặc trưng tâm lí với
phương châm “việc nghiên cứu sự CN cuối cùng phải vĩnh viễn quy thành
nghiên cứu tâm lí”; Thứ ba là khuynh hướng nghiên cứu theo lịch sử do
Wellander đứng đầu với quan niệm: “sự CN là một quá trình lịch sử, chỉ khi nào
nó được chứng thực trong thực tế trưởng thành của nó, quá trình này mới được
trưởng thành một cách vừa ý”. Các nhà nghiên cứu theo khuynh hướng này đã
trả lời câu hỏi ý nghĩa của từ đã nảy sinh như thế nào trong lịch sử. Họ cho rằng
kết quả của quá trình CN được bảo lưu trong ý nghĩa mới của từ [dt 105, 3].
Nguyên nhân chủ yếu của hiện tượng CN theo các nhà nghiên cứu này là do sự
biến đổi lịch sử xã hội. Theo đó, tìm nghĩa mới của từ ở những giai đoạn khác
nhau của lịch sử là cách mà các tác giả thực hiện “sự chuyển hóa ý nghĩa là một
quá trình lịch sử, chỉ khi nào nó được chứng thực trong quá trình thực tế trưởng
thành của nó, quá trình này mới được trưởng thành một cách vừa ý” [dt 105,
tr.5]. Các tác giả cũng đưa ra các nhận định khác nhau về các hình thức phát
triển nghĩa của từ. Tuy nhiên, theo nhiều nhà nghiên cứu ngôn ngữ, đại diện là
nhà ngôn ngữ học Crowley trong quyển An Introduction to Historical
Linguistics cho rằng: có bốn hình thức phát triển nghĩa: Mở rộng (broadening),
thu hẹp (narrowing), chia nhánh (bifurcation), và chuyển đổi (shift) trong tiếng
Anh [142, 149].
Trong lịch sử ngôn ngữ học, các nhà nghiên cứu cố gắng tập hợp và hệ thống hóa
những nguyên nhân ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến sự phát triển nghĩa của từ. Theo
Aitchison, có hai nguyên nhân chính: “nguyên nhân chủ quan (do đặc điểm thuộc về bản
chất của ngôn ngữ và tâm lí của người sử dụng) và nguyên nhân khách quan (yếu tố xã
hội)” [138, 106]. F. de Sausure nhấn mạnh: “phong tục của một dân tộc có tác động
mạnh đến ngôn ngữ và mặt khác, trong chừng mực khá quan trọng, chính ngôn ngữ
làm nên dân tộc” [151, 106]. Theo đó, nhiều nhà ngôn ngữ sau này cùng có quan điểm
12
với Saussure và Aitchison. Ngược lại, Fromkin và một số tác giả khác trong cuốn An
Introduction to Language cho rằng: “có hai nguyên nhân chính cho hiện tượng này là
do sự tái cấu trúc ngôn ngữ trong quá trình học tiếng của trẻ và sự thay đổi tâm sinh lí
của người học qua nhiều thế hệ” [153, 366]. Không đồng quan điểm trên, Lyons cho
rằng sự thay đổi xã hội là nguyên nhân chủ yếu của thay đổi trong ngôn ngữ [156, 213].
Tác giả Lê Quang Thiêm [114] đã tổng hợp về các vấn đề nghiên cứu về nghĩa của
từ trên thế giới. Tác giả chỉ ra rằng trong lịch sử ngữ nghĩa học từ khi ra đời, kể từ khi M.
Bréal đến nay, sự chuyển biến nghĩa của từ vẫn là một chủ đề quan trọng được nhiều tác
giả nghiên cứu. Có thể kể ra một vài quan niệm về vấn đề này như: quan niệm của G.
Stern, của S. Ullmann. Trong tác phẩm Nghĩa và sự biến đổi nghĩa (Meaning of Meaning)
với quan niệm “chúng ta có thể nghiên cứu nghĩa với sự thừa nhận nội dung tư tưởng của
nó và những yếu tố khác nhau tạo thành nội dung của nghĩa”. Stern cũng đã chia ra 7 lớp
hạng biến đổi nghĩa, 5 nguyên nhân và điều kiện biến đổi nghĩa. Các lớp hạng biến đổi
nghĩa bao gồm: 1. Sự thay thế (subsitution), 2. Sự loại suy (analogy), 3. Rút ngắn
(shortening), 4. Định danh (nomination), 5. Chuyển đổi (transfer – regular), 6. Sự đổi trật
tự (permutation), 7. Sự tương xứng (adequation). Tác giả cũng cho rằng trong 7 lớp trên thì
có 1 lớp thuộc về ngoài ngôn ngữ (external). Còn 6 lớp còn lại là trong ngôn ngữ (internal),
ở đó sự CN xảy ra do hoạt động nói năng, nó được hình thành như một sản phẩm của sự
tổng hợp lời nói. Trong 6 nguyên nhân và điều kiện CN, tác giả cũng phân biệt nguyên
nhân ngôn ngữ, nguyên nhân phi ngôn ngữ, nguyên nhân tâm lí xã hội. Tròn 20 năm sau
công trình của Stern, chúng ta bắt gặp một quan niệm của một tác giả ngữ nghĩa học khá
quen thuộc: Stephen Ulmannn trong tác phẩm “Những nguyên lí của ngữ nghĩa học”
(1951). Trong tác phẩm, ông đã nêu ra các nhân tố và nguyên nhân của sự chuyển biến ý
nghĩa. Theo Ulmann, đó là 6 nhân tố sau: cách gián đoạn di truyền (discontinuous) từ thế
hệ này qua thế hệ khác, 2. Sự mơ hồ trong ý nghĩa (vagueness), 3. Mất nguồn đối (loss of
motivation), 4. Tồn tại đa nghĩa – một yếu tố linh hoạt (flexibility) trong ngôn ngữ, 5. Văn
cảnh tối nghĩa (ambiguous contexts) và 6. Nhân tố quan trọng nhất là cấu trúc của vốn từ
(structure of the vocabulary). Ulmann nêu ra 4 nguyên nhân chính và các tiểu nguyên nhân
ở trong đó. Cuối cùng, tác giả cũng chỉ ra đặc điểm bản chất và hậu quả của sự chuyển
biến ý nghĩa. Tác giả cũng phân tích về bản chất của sự CN [114]. Ngoài ra, chúng ta còn
13
bắt gặp cách phân loại sự thay đổi ý nghĩa của V. A. Zvegincev, Meillet, Sperber,… Cần
nhấn mạnh một điều rằng, trong lịch sử nghiên cứu, nguyên nhân của sự CN có lúc này
hoặc lúc khác nhấn mạnh tách rời hai nhân tố biểu cảm và hiệu quả. Thời kì ngữ nghĩa học
mới ra đời (tạm gọi là thời tiền cấu trúc luận) thường nhấn mạnh vào nhân tố biểu cảm.
Thời kì cấu trúc luận lại nhấn mạnh vào nhân tố hiệu quả.
Một xu hướng khác trong nghiên cứu từ ngữ là nghiên cứu về vấn đề trường
từ vựng – ngữ nghĩa, đó là một trong những lí thuyết ngôn ngữ hết sức quan trọng
của ngôn ngữ học, được các nhà ngôn ngữ đề cập đến từ rất sớm. Lí thuyết này
được ra đời trên cơ sở các luận điểm về ngôn ngữ học được hình thành từ trước đó.
Công trình đầu tiên trên thế giới theo hướng này là Kho từ ngữ tiếng Anh
(Thésaurus of English Words and Phrases) của P. A. Roget. Đây là công trình nói
về cách tiếp cận nghĩa từ vựng ở trường – tầng nghĩa vĩ mô. Tiếp sau Roget, cũng ở
Anh là hai tác giả C. K. Ogden và I. A. Richards. Hai tác giả có công trình Ngữ
nghĩa học lớn trước đó đã tuyển chọn, tập hợp 1993 từ được gọi là từ cơ sở trong
cuốn Tiếng Anh cơ sở vào năm 1928. Và nói đến trường nghĩa không thể không nói
đến giả thuyết về “tính tương đối ngôn ngữ” do Sapir (1921) và Whorf (1956) khởi
xướng. Sapir và Whorf đã làm sáng tỏ quan niệm coi ngôn ngữ là cái phản ánh tinh
thần của một dân tộc nào đó. Mỗi ngôn ngữ có một hệ thống từ vựng riêng. Hệ
thống từ vựng này phản ánh cách chia thực tế khách quan và phạm trù hóa hiện thực
riêng của dân tộc ngay trong bản thân nghĩa của các từ. Năm 1986, nhà nghiên cứu
M.Pokrovxkij đặt ra nhiệm vụ nghiên cứu từ vựng một cách hệ thống. Ông chia các
trường trên cơ sở sử dụng đồng thời cả ba tiêu chí: 1. Nội dung (các từ có quan hệ
với cùng “một phạm vi biểu tượng” theo lời của M.Pokrovxkij), 2. Sự đồng nhất, 3.
Quan hệ hình thái học. Từ những năm 90 của thế kỉ XIX ông đã có sự phân chia
trường dựa trên ba tiêu chí kể trên. Nhưng lí thuyết về trường ngữ nghĩa chỉ thực sự
được nghiên cứu vào những năm 20 của thế kỉ thứ XX, bắt nguồn từ những lí thuyết
ngôn ngữ học của V.F. Humboldt và F. de. Saussure. Các nhà ngôn ngữ khác như
G. Ipsen (1924), A. Jolles (1934), W. Porzig (1934), Talmy (1981), Langacker
(1987) và Lakoff (1987)… Đặc biệt I. Trier (1934) được coi là người mở ra một giai
đoạn mới trong lịch sử ngữ nghĩa học. I. Trier là người đầu tiên sử dụng thuật ngữ
14
“trường nghĩa (semantic field)” trong ngôn ngữ học. Tác giả không dùng khái niệm
trường ngữ nghĩa mà chỉ nói tới trường khái niệm và trường từ vựng. Lí thuyết
trường nghĩa của ông thường được coi là trường đối vị (dọc).
Theo đánh giá của tác giả Đỗ Hữu Châu thì những giá trị lí thuyết “trường”
của Trier cũng chỉ dừng lại ở mức độ gợi ý. Điều này xuất phát từ nguyên nhân
trong đó có việc Trier không phân biệt ý nghĩa với khái niệm, các lớp ý nghĩa, từ
với khái niệm và quan niệm quá dứt khoát về ranh giới của trường khái niệm và các
“vùng” khái niệm của từ với nhau. Đặc biệt là cách sử dụng các tư liệu cổ thiếu thận
trọng để đối chiếu hai trạng thái khác nhau của cùng một trường khiến cho những
kết luận của Trier dễ bị phản bác và phương pháp của ông không được vận dụng
một cách có hiệu quả. Tuy nhiên, với những nghiên cứu của mình, Trier đã “mở ra
một giai đoạn mới trong lịch sử ngữ nghĩa học”. Sau I. Trier, một số nhà ngôn ngữ
khác như Weisgerber, John Lyons cũng đã có những quan niệm bổ sung cho lí
thuyết trường. John Lyons trong cuốn Nhập môn ngôn ngữ học lí thuyết đã đưa ra
được một định nghĩa về ý nghĩa của từ (sense) có phần khoa học hơn: “cái mà ta
cho ta là ý nghĩa của một đơn vị từ vựng là toàn bộ tập hợp các quan hệ ý nghĩa
giữa nó với các đơn vị khác trong từ vựng” [60, 672]. Trên cơ sở quan niệm này,
Lyons đã miêu tả cấu trúc ngữ nghĩa của các từ trong hệ thống từ vựng bằng các
quan hệ đồng nghĩa, trái nghĩa, đồng âm, đa nghĩa,… Một số nhà ngôn ngữ học sau
này đã phân chia hệ thống từ vựng của một ngôn ngữ thành trường nghĩa ở nhiều
cấp độ lớn nhỏ khác nhau dựa vào nét nghĩa phạm trù chung nhất đến các nét nghĩa
phạm trù nhỏ hơn rồi các nét nghĩa loại, hạng và nét nghĩa riêng biệt. Nhìn chung,
khi nghiên cứu về trường nghĩa, các nhà ngôn ngữ học đều dựa vào các quan hệ dọc
của các đơn vị ngôn ngữ.
W. Porzig – nhà ngôn ngữ học người Đức đã phát triển một ý tưởng lí thuyết
trường nghĩa được các học giả khác gọi là trường cú pháp “In contrast with Trier’s
theory, another German linguist Porzig developed a notion of semantic field which
is called syntactic field by some scholars”. Cái cốt lõi của lí thuyết trường nghĩa cú
pháp là các thành phần trong một ngữ đoạn không chỉ có mối quan hệ về ngữ pháp
mà còn có quan hệ về ngữ nghĩa.
15
Những lí thuyết về trường nghĩa của J. Trier và W. Porzig là những lí thuyết cơ sở,
nền tảng. Những lí thuyết này có những điểm đồng nhất và khác biệt nhất định. Kể từ khi
công trình đầu tiên đề cập trực tiếp đến lí thuyết trường nghĩa của M. P. Roget ra đời đến
nay đã trải qua một thế kỉ rưỡi. Nhưng hầu như những nghiên cứu về trường chỉ thuộc bình
diện miêu tả đồng đại.
1.1.1.2. Tình hình nghiên cứu về từ và nghĩa của từ trong Việt ngữ học
Trải qua ba thời kì là tiền cấu trúc luận, cấu trúc luận, hậu cấu trúc luận, việc nghiên
cứu ngữ nghĩa của ngôn ngữ đã được các nhà nghiên cứu trên thế giới quan tâm từ cuối thế
kỉ XIX đến nay. Ở Việt Nam từ năm 1954, từ vựng học đã trở thành vấn đề rất được quan
tâm nghiên cứu, các giáo trình nghiên cứu về vấn đề này lần lượt ra đời như Từ vựng học
tiếng Việt hiện đại và Từ và vốn từ tiếng Việt hiện đại của Nguyễn Văn Tu, Từ vựng – Ngữ
nghĩa tiếng Việt, Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng,… của Đỗ Hữu Châu, Từ năm 1978 trở đi,
một loạt các cuốn sách, các luận án phó tiến sĩ nghiên cứu về từ vựng tiếng Việt ra đời của
các tác giả như: Nguyễn Thiện Giáp, Hoàng Văn Hành, Vũ Đức Nghiệu, Nguyễn Đức
Tồn, Lê Quang Thiêm, Hà Quang Năng, Phạm Hùng Việt, Đỗ Việt Hùng,…
Trên cơ sở kế thừa các thành tựu nghiên cứu của các nhà ngôn ngữ học trên thế giới,
ở Việt Nam, vấn đề nghĩa của TH ngôn ngữ được rất nhiều các tác giả quan tâm. Tác giả
Nguyễn Văn Tu trong cuốn Từ và vốn từ tiếng Việt hiện đại đã hệ thống các quan niệm
khác nhau về nghĩa [125, 93 - 97]. Theo đó, tác giả đã chia các quan niệm khác nhau này
theo 7 khuynh hướng chính (1) Nghĩa là đối tượng: Theo quan điểm này thì mối quan hệ
giữa từ và đối tượng là rất khăng khít. Mỗi từ phải có một nghĩa và mỗi sự vật phải có một
tên; (2) Nghĩa là biểu tượng: Nghĩa của từ không quan hệ trực tiếp với đối tượng mà chính
là biểu tượng của nó. Nghĩa được coi một cách máy móc là tổng hợp những biểu niệm; (3)
Nghĩa của từ là khái niệm; (4) Nghĩa của từ là quan hệ giữa TH và đối tượng; (5) Nghĩa là
chức năng của TH – từ; (6) Nghĩa của từ là bất biến thể của thông tin; (7) Nghĩa là phản
ánh hiện thực: Nghĩa của từ được coi là sự phản ánh của vật khách quan vào trong ý thức
của người ta. Tác giả Đỗ Hữu Châu trong cuốn Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt đã khẳng
định: “Cái gọi là nghĩa của từ không phải là một khối phân hóa mà được xem là một “vi
hệ thống” chia thành nhiều lớp nghĩa. Thứ nhất là lớp nghĩa bao gồm những yếu tố cố
định, chung cho mọi thành viên trong xã hội và đã đi vào mạng quan hệ ngữ nghĩa của từ
16
vựng tức là đã cấu trúc hóa. Lớp nghĩa này lại được chia thành nghĩa từ vựng và nghĩa
ngữ pháp. Thứ hai là lớp nghĩa xã hội – tâm lí (còn gọi là nghĩa liên hội, nghĩa liên tưởng)
là những nghĩa chưa cố định, mang tính chất lâm thời, cá nhân” [19, 96].
Tác giả Lê Quang Thiêm trong cuốn Sự phát triển nghĩa từ vựng tiếng Việt từ 1945
đến 2005 [114] đã phân tách hệ thống nghĩa của từ thành những bộ phận hợp thành có
thứ bậc rõ ràng rồi tiến hành mô tả phân tích chúng một cách cụ thể. Theo đó, “nghĩa
từ vựng của từ là một hệ thống, hệ thống này gồm hai kiểu: hệ thống nghĩa của từ một
nghĩa, hệ thống nghĩa của từ đa nghĩa. Nghĩa (meaning) của từ là một tồn tại, nhưng
không phải là đơn nhất mà có thể chia ra các bộ phận hợp thành là nét nghĩa
(semantic feature), “khi nét nghĩa tham gia tạo thành hệ thống nghĩa thì nó là thành tố
tạo lập nghĩa. Nét nghĩa kết hợp với nhau để tạo thành nghĩa như là một hệ thống. Cấp
hệ này là hệ thống nghĩa của từ đơn nghĩa”. Trong hệ thống nghĩa của từ đa nghĩa thì
“ngoài hệ thống của từng nghĩa riêng trong từ lại còn có hệ thống các nghĩa mà mỗi
nghĩa là thành tố tạo thành hệ thống nghĩa của từ đa nghĩa”. Các nghĩa của một từ đa
nghĩa tạo thành một cấp hệ cao hơn – tức là nghĩa là thành tố. Tác giả gọi cấp hệ này là
hệ thống cấp 2 để phân biệt với hệ thống cấp 1 là hệ thống nghĩa của từ đơn nghĩa mà
nét nghĩa là thành tố. Nét nghĩa chính là yếu tố cơ sở của nghĩa từ vựng. Như vậy nghĩa
của từ và nét nghĩa là những thành tố của các cấp hệ khác nhau như tầng nghĩa, trường
nghĩa. Tổ hợp nét nghĩa tạo thành nghĩa. Đây chính là điểm gặp gỡ trong tư tưởng của
nhiều nhà nghiên cứu” [114, 11].
Như vậy, có thể thấy rằng xung quanh vấn đề nghĩa của từ còn khá nhiều quan niệm
và các cách biện giải khác nhau. Do vậy, khi nghiên cứu nghĩa của từ cần phải có những
quan điểm chung để có sự nhất quán trong việc xem xét và giải quyết vấn đề. Nói đến
nghĩa của từ (thực từ) như một TH, trong ngôn ngữ học, thường người ta muốn nói đến
mối liên hệ (quan hệ) tồn tại trong ý thức của chúng ta giữa TH – từ với cái mà nó biểu thị.
Nếu mối liên hệ này là giữa vỏ ngữ âm của TH – từ với cái phản ánh của sự vật trong ý
thức của chúng ta thì đó là nghĩa biểu niệm (nghĩa sở biểu – significative meaning). Nếu
đây là mối liên hệ giữa một bên là vỏ ngữ âm và nghĩa biểu niệm (nghĩa sở biểu) với một
bên là sự vật thì được gọi là nghĩa biểu vật (denotative meaning). Trong từ vựng ngữ nghĩa
học, người ta thường chỉ bàn đến nghĩa biểu niệm và gọi tắt là nghĩa của từ.
17
Nghiên cứu ngữ nghĩa của từ, ở Việt Nam còn có một hướng nghiên cứu nữa, đó là
nghiên cứu về sự phát triển ngữ nghĩa. Đó chính là kết quả của quá trình CN của từ. Đây là
nguyên nhân dẫn đến hiện tượng nhiều nghĩa của từ. Theo chúng tôi, hầu hết các công
trình nghiên cứu về sự phát triển nghĩa của từ đều bàn đến các nội dung như: hướng CN,
nguyên nhân CN, các phương thức phát triển nghĩa, mối quan hệ giữa nghĩa cũ và nghĩa
mới. Cho đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu của các nhà ngôn ngữ học trên thế
giới bàn về sự phát triển ngữ nghĩa của từ. Ở Việt Nam, xu hướng này đang phát triển
mạnh mẽ và trở thành nhiều đề tài trong các công trình khoa học. Ở trong nước cũng có rất
nhiều nhà khoa học nghiên cứu về sự phát triển nghĩa của từ. Tác giả Nguyễn Thiện Giáp
trong cuốn Giáo trình ngôn ngữ học [36] và Từ vựng học tiếng Việt [38] đã trình bày khá
chi tiết về hiện tượng phát triển ngữ nghĩa của từ, ông gọi đó là hiện tượng chuyển đổi
nghĩa của từ. Tác giả đã trình bày cụ thể và chi tiết về sự phát triển nghĩa của từ ở các nội
dung: nguyên nhân của sự CN, các hướng CN, kết quả của sự CN. Ở Việt Nam có thể kể
đến các công trình nghiên cứu về vấn đề sự phát triển ngữ nghĩa như [9], [52], [53],…
Ở Việt Nam, khi nghiên cứu về sự phát triển nghĩa của từ, các tác giả thường chú
ý đến các vấn đề sau:
Thứ nhất là: Khi nghiên cứu về sự phát triển nghĩa của từ trong các ngôn ngữ, các
nhà ngôn ngữ học trong và ngoài nước đặc biệt chú ý tới các phương thức CN của từ. Đại
đa số các nhà ngôn ngữ đều chỉ ra rằng có hai phương thức CN dựa trên quan hệ liên
tưởng tương đồng và liên tưởng tương cận đó là phương thức CN ẩn dụ và phương thức
CN hoán dụ.
Thứ hai là: Khi bàn về sự phát triển nghĩa của từ, các nhà khoa học cũng đề
cập đến vấn đề nguyên nhân của sự phát triển nghĩa. Ở Việt Nam, tác giả Đỗ
Hữu Châu cho rằng sự phát triển nghĩa của từ tiếng Việt là do nguyên nhân đơn
giản nhằm đáp ứng nhu cầu tạo thêm từ mới, giải quyết mâu thuẫn giữa một bên
là tính vô hạn của sự vật hiện tượng trong thực tế khách quan với một bên là tính
hữu hạn của các yếu tố ngôn ngữ [19, 98]. Tác giả Đỗ Hữu Châu đã bàn đến vấn
đề “động lực thúc đẩy sự CN”. Ông có đề cập đến một số trường hợp như: 1. Do
bản thân sự thay đổi của sự vật hiện tượng được gọi tên làm cho từ phải thay đổi
cấu trúc khái niệm; 2. Do sự kiêng kị cũng khiến nghĩa của từ biến đổi. Song
18
theo tác giả, động lực chủ yếu thúc đẩy sự chuyển đổi ý nghĩa vẫn là những nhu
cầu do giao tiếp đặt ra, có nhu cầu về mặt trí tuệ, có nhu cầu về mặt tu từ. Tác
giả Nguyễn Thiện Giáp lại cho rằng CN do nhiều nguyên nhân khác nhau: “do
hiện tượng kiêng kị, do muốn diễn đạt bóng bẩy, hoặc muốn giữ bí mật trong một
nhóm người nào đó” [36, 221]. Trong nội dung này, tác giả cũng nhấn mạnh:
yếu tố tâm lí xã hội có ảnh hưởng không nhỏ đến việc thay đổi môi trường của
các từ [38, 223]. Tác giả Đỗ Việt Hùng khẳng định: “ngoài nguyên nhân đáp ứng
nhu cầu gọi tên, sự CN của từ còn xuất phát từ nguyên nhân người nói muốn làm
mới cách diễn đạt của mình” [57, 66].
Sự chuyển biến ý nghĩa của từ thường mang đến những điều độc đáo, nhất là
trong ngôn ngữ văn chương. Năm 1990, tác giả Đỗ Hữu Châu đã đề cập đến vấn đề
này với việc nghiên cứu văn học từ góc độ ngôn ngữ. Theo đó, ngôn ngữ tự nhiên
chưa thực sự là ngôn ngữ của văn học. Giữa ngôn ngữ tự nhiên và tác phẩm văn học
có một phương tiện chuyển tiếp đó là các THTM. Hai mặt cái biểu đạt và cái được
biểu đạt của ngôn ngữ tự nhiên đã trở thành cái biểu đạt của THTM. Hay nói cách
khác, cái ngôn ngữ tự nhiên là ngôn ngữ chất liệu (thuộc bình diện bề mặt) của ngôn
ngữ thực sự của văn học – THTM (ngôn ngữ bề sâu). Và sự CN tất yếu đã xuất hiện
ở đây. Đỗ Hữu Châu cũng khẳng định rằng, THTM có tính có lí do bởi chúng được
tạo ra theo một trong hai cách: ẩn dụ hoặc hoán dụ. Chính cơ chế ấy giúp giải thích
tại sao THTM ấy lại được biểu đạt bằng hình thức ấy. Đồng thời, khi những THTM
có tính ổn định thì ở đó dần hình thành các nghĩa biểu trưng nhất định. Quan điểm
đó sau này được rất nhiều nhà nghiên cứu như: Bùi Minh Toán, Nguyễn Thị Ngân
Hoa,… đề cập đến.
Hiện nay, trong nghiên cứu ngữ nghĩa, còn xuất hiện xu hướng so sánh nghĩa
chuyển trong các ngôn ngữ khác nhau. Ở Việt Nam, trước hết phải kể đến tác giả Lê
Quang Thiêm, ông đã tiến hành đối chiếu giữa tiếng Bungari và tiếng Việt. Sau này, có
hàng loạt các luận án tiến sĩ nghiên cứu về vấn đề đối chiếu từ ngữ nói chung và sự CN
của từ nói riêng giữa các ngôn ngữ: Nguyễn Thúy Khanh, Đặng Đức Hoàng,…
Khi nghiên cứu về sự phát triển ngữ nghĩa của từ vựng, hầu hết các nhà nghiên
cứu đều cố gắng tìm hiểu, lí giải cách thức, con đường CN trong mỗi ngôn ngữ. Các
19
nhà nghiên cứu cho rằng mỗi ngôn ngữ có con đường CN riêng dựa trên sự liên
tưởng khác nhau. Sự liên tưởng khác nhau ấy là do sự chi phối của nền văn hóa dân
tộc. Điều này rất đúng, bởi ngôn ngữ - văn hóa – tư duy có mối quan hệ hết sức chặt
chẽ. Vì vậy, hiện tượng CN của từ, một hiện tượng thể hiện rõ nét đặc trưng văn
hóa dân tộc là vấn đề đang được nhiều nhà ngôn ngữ học quan tâm nghiên cứu.
Việc nghiên cứu ngữ nghĩa cũng thường gắn với lí thuyết trường nghĩa.
Đó là việc nghiên cứu nghĩa của các từ có liên quan với nhau ở một hay một vài
nét nghĩa nhất định và các nhà Việt ngữ dùng một thuật ngữ đó là trường nghĩa
(trường từ vựng – ngữ nghĩa). Ở Việt Nam có khá nhiều các nhà nghiên cứu đề
cập đến lí thuyết trường nghĩa: Nguyễn Văn Tu, Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Thiện
Giáp,… Người giới thiệu về lí thuyết trường nghĩa đầy đủ, hệ thống nhất là Đỗ
Hữu Châu, thông qua một loạt các bài viết trên các tạp chí chuyên ngành và các
công trình [13], [15], [16], [19]. Tác giả cho rằng “giữa các từ có không ít những
sự đồng nhất về hình thức và về ý nghĩa. Căn cứ vào những cái chung giữa các
từ, chúng ta sẽ phân lập toàn bộ từ vựng tiếng Việt thành những hệ thống nhỏ
hơn và phát hiện ra những quan hệ giữa các từ trong từ vựng” [19, 169]. Nhưng
hệ thống từ vựng là quá lớn nên việc tìm ra mối liên hệ nghĩa trực tiếp giữa các
từ ngữ được ngẫu nhiên lựa chọn. Bởi vậy, tác giả đã chỉ ra giải pháp:“đặt các từ
(nói cho đúng ra là cá ý nghĩa của từ) vào những hệ thống con thích hợp. Nói
cách khác, tính hệ thống về ngữ nghĩa của từ vựng thể hiện qua những tiểu hệ
thống ngữ nghĩa trong lòng từ vựng và quan hệ ngữ nghĩa giữa các từ riêng lẻ
thể hiện qua những tiểu hệ thống ngữ nghĩa chứa chúng” [19, 170]. Từ đó có thể
thấy, các từ có sự đồng nhất với nhau về một phạm trù ngữ nghĩa được gọi là
một tiểu trường nghĩa. Mối quan hệ giữa ý nghĩa của các từ trong trường nghĩa
và mối quan hệ giữa các từ khác trường với nhau là cơ sở nhận diện ra hệ thống
ngữ nghĩa từ vựng của một ngôn ngữ.
Tác giả Bùi Minh Toán cũng nghiên cứu một cách hệ thống lí thuyết về
trường nghĩa. Ngoài những lí thuyết cơ bản, tác giả còn vận dụng lí thuyết này
để xem xét sự vận động chuyển hóa về nghĩa, trường nghĩa của tiếng Việt trong
giao tiếp,…
20
1.1.2. Tình hình nghiên cứu về ca dao tình yêu người Việt dưới góc độ ngôn ngữ
Từ góc độ ngôn ngữ, ca dao nói chung và CDTY nói riêng đã được khai thác
ở nhiều phương diện khác nhau: trường nghĩa, hiện tượng nhiều nghĩa, nghệ thuật
ca dao,… [1], [21], [79], [80], [88], [91], [92], [116],… Những nghiên cứu đó đã
mang lại nhiều kiến thức ngôn ngữ về ca dao nói chung, tất yếu trong đó một vài
khía cạnh của CDTY cũng được hiện lên rõ nét. Một bức tranh tổng quát về ngữ
nghĩa của từ ngữ trong loại hình này là chưa xuất hiện. Mặt khác, khi phân tích từ
góc độ này sẽ giúp chúng ta khám phá ra những nét độc đáo về mặt ngữ nghĩa của
từ ngữ trong CDTY.
CDTY dưới góc nhìn của các nhà ngôn ngữ được khai thác ở nhiều góc độ
như các biện pháp tu từ được sử dụng trong ca dao: “So sánh và ẩn dụ trong ca dao
trữ tình người Việt” của tác giả Hoàng Kim Ngọc (2004), “Đặc điểm của nghệ
thuật so sánh trực tiếp trong CDTY người Việt” của Đỗ Thị Hòa (2000)…; các
hành động, hành vi ngôn ngữ: “Hành vi trách của người Việt trong ca dao trữ tình”
của Phan Thị Việt Anh” (2009), “Hành động hỏi gián tiếp trong ca dao Việt Nam”
của Tô Lan Phương (2011), Hành động hỏi trong ca dao người Việt” của tác giả Hà
Thị Hồng Mai (2013), “Hành vi cầu khiến trong ca dao người Việt” của tác giả
Nguyễn Thị Hài (2015), … Nghiên cứu về ngữ nghĩa của từ ngữ trong CDTY được
khai triển trên một số phương diện: “Đặc điểm ngữ pháp – ngữ nghĩa của từ ngữ
biểu thị tâm trạng trong CDTY người Việt” của Lương Thị Bích Nga (2008), “Hiện
tượng chuyển di trường nghĩa trong CDTY” của Lê Thị Minh (2011),... Với các
công trình nghiên cứu về từ ngữ trong ca dao ở những phạm vi khác nhau đều cho
thấy những đặc trưng rất riêng của ngôn ngữ trong loại hình văn học dân gian này.
Do ảnh hưởng của văn hóa xưa, ngôn ngữ trong ca dao nói về tình yêu thường rất tế
nhị, kín đáo được ẩn tàng dưới các biện pháp tu từ và đó là kết quả của rất nhiều từ
ngữ đã CN. Đồng thời, một quy luật tất yếu là khi trở thành ngôn ngữ trong văn
học, nhiều từ ngữ của ngôn ngữ tự nhiên đã trở thành các THTM. Điều đó càng có
cơ sở khẳng định rằng, trong CDTY người Việt, sự CN của từ cũng là điều có tính
tất yếu. Nhiều từ ngữ khi CN tiến tới sự ổn định trong sự tương tác với văn hóa đã
hình thành nên các YNBT. Song, với sự phong phú của từ ngữ trong CDTY thì sự
21
phân tích toàn diện là điều không thể. Qua quá trình khảo sát, chúng tôi thấy rằng,
các từ ngữ trong CDTY tập trung chủ yếu vào hai mảng lớn là các từ ngữ chỉ thế
giới tự nhiên, các từ ngữ chỉ các VTNT. Sự xuất hiện của các từ ngữ đó được thể
hiện như sau: 1955 lời ca có các từ ngữ chỉ TV, 1309 lời ca có các từ ngữ chỉ các
loài động vật, 1054 lời ca có các từ ngữ chỉ các hiện tượng tự nhiên (mây, gió, bão,
biển, sấm, chớp,…), 606 lời ca có các từ ngữ chỉ thời gian, 2816 lời ca có các từ
ngữ chỉ VTNT. Với hi vọng làm rõ một phương diện ngữ nghĩa của từ ngữ trong
CDTY, chúng tôi chọn phân tích trường TV là một trường nghĩa tiêu biểu của hệ
thống các trường chỉ từ ngữ chỉ thế giới tự nhiên như một đại diện và trường nghĩa
chỉ các VTNT. Sự phân tích đó được khai triển qua quá trình phân tích sự CN của
các từ ngữ đó, chỉ ra quy luật của chúng. Với những ý nghĩa đã ổn định, đã được
xác lập trong sự tương tác, cọ xát với cộng đồng văn hóa, chúng tôi sẽ làm rõ những
YNBT mà các từ ngữ thuộc hai trường nghĩa đó mang lại.
1.1.3. Tình hình nghiên cứu về nghĩa biểu trưng trong ca dao tình yêu người Việt
Biểu trưng (symbol) là vấn đề có tính chất liên ngành. Khoa học nghiên cứu về
biểu trưng, biểu tượng đã du nhập vào Việt Nam từ hơn một thế kỉ qua theo hướng tiếp cận
hàn lâm của phương Tây. Mục tiêu của việc nghiên cứu các biểu trưng, biểu tượng là lí
giải thành công các ý nghĩa của của các biểu trưng, biểu tượng đó hay nói cách khác đó là
công việc tìm hiểu quá trình biểu tượng hóa các sự vật, hiện tượng trong văn hóa và xã hội
loài người.
Ở nước ta, biểu trưng (biểu tượng) cũng được nghiên cứu trên nhiều lĩnh vực khác
nhau: văn hóa, văn chương, tôn giáo, hội họa,… Trong số các biểu trưng, biểu trưng trong
tác phẩm văn học là một trường hợp đặc biệt. Đó là các hình ảnh, hình tượng nghệ thuật
được tạo nên từ chất liệu đặc biệt là ngôn từ. Điều đó khiến cho các biểu tượng văn học
phức tạp hơn, nội dung phong phú và thường diễn giải rộng hơn. Ở Việt Nam có rất
nhiều các công trình nghiên cứu về biểu trưng, biểu tượng ở những góc độ, quy mô
khác nhau: Nguyễn Duy Lẫm với cuốn Biểu trưng (2005), các công trình của Trịnh
Bá Đĩnh tiêu biểu nhất là công trình Từ kí hiệu đến biểu tượng (2017). Tác giả Đinh
Hồng Hải đã hệ thống hóa sự nghiên cứu biểu tượng với cái nhìn tổng quát, toàn
diện trong cuốn Nghiên cứu biểu tượng một số hướng tiếp cận lí thuyết (2014),…
22
Với sự vận dụng các lí thuyết biểu tượng (symbol), hàng loạt các công trình nghiên
cứu đã được ra đời như: Sự phát triển ý nghĩa của hệ biểu tượng trang phục trong
ngôn ngữ thơ ca Việt Nam (tác giả Nguyễn Thị Ngân Hoa), Biểu tượng ngôn ngữ
trong ca từ của Trịnh Công Sơn (tác giả Nguyễn Thị Bích Hạnh),…
Nghĩa biểu trưng của từ ngữ trong ca dao là một xu hướng nghiên cứu ca dao ở góc
độ ngôn ngữ. Những nghiên cứu này được thực hiện nhiều góc độ và phạm vi khác nhau.
Những YNBT này được mang đến từ các hình ảnh nghệ thuật và được kiến tạo từ chất liệu
ngôn ngữ. Trên cơ sở kế thừa các thành tựu nghiên cứu trong và ngoài nước, sự nghiên
cứu ca dao từ góc độ này đã gặt hái được nhiều thành công với các công trình: Biểu tượng
nghệ thuật trong ca dao truyền thống người Việt của Nguyễn Thị Ngọc Điệp (2002), Biểu
trưng trong ca dao Nam Bộ của Trần Văn Nam (2003), Thế giới động vật trong ca dao cổ
truyền người Việt của Đỗ Thị Hòa (2008), Một số biểu trưng trong ca dao Việt Nam
(nhóm chất liệu là thế giới các hiện tượng thiên nhiên) của Nguyễn Thùy Vân (2013),…
Trong số đó, luận án của Nguyễn Thị Thùy Vân đã hệ thống hóa một cách tương đối toàn
diện về hệ thống các nghĩa biểu trưng của các từ ngữ chỉ các hiện tượng tự nhiên trong ca
dao Việt Nam. Những kết quả nghiên cứu của tác giả đã giúp chúng tôi hình dung rõ hơn
về nghĩa biểu trưng, về từ ngữ chỉ hiện tượng tự nhiên. Với đối tượng nghiên cứu là ngữ
nghĩa của từ ngữ trong CDTY người Việt, chúng tôi tập trung khảo sát ngữ nghĩa của từ ở
hai nhóm “TV” và “VTNT”. TV cũng là một trường nghĩa nhỏ nằm trong trường
nghĩa chỉ thế giới tự nhiên. Trên cơ sở kế thừa các nghiên cứu trước đó, khi
nghiên cứu từ ngữ thuộc các nhóm được chọn, chúng tôi tiến hành phân xuất
thành các tiểu trường, phân tích nghĩa gốc, hiện tượng CN. Từ đó, các YNBT
được tập trung phân tích. Sự phân tích đó theo quy trình đi từ những ý nghĩa
chung rồi đến các trường hợp cụ thể. Luận án cũng cố gắng chỉ ra cơ chế của
việc tạo ra YNBT của các từ ngữ tiêu biểu. Mặt khác, đối tượng được lựa chọn
của luận án là CDTY, nên việc nghiên cứu tập trung vào vấn đề tình yêu của loại
hình ca dao này. Luận án của Nguyễn Thùy Vân đã giúp chúng tôi kế thừa được
cách tiếp cận với sự tìm hiểu YNBT nói chung và những YNBT mà tác giả khái
quát được từ các từ ngữ chỉ TV. Trên cơ sở đó, luận án của chúng tôi triển khai
thêm sự phân tích trên các phương diện: về phương thức cấu tạo của các từ ngữ
23
chỉ TV, về nghĩa gốc, nghĩa chuyển, mối quan hệ giữa nghĩa của từ với các nghĩa
biểu trưng. Đồng thời chúng tôi cũng khái quát ra quy luật của sự CN. Mặt khác,
luận án cũng làm rõ những điểm tương đồng và phái sinh của những YNBT mà
từ ngữ trong CDTY mang lại với các nghĩa được khái quát trong Từ điển biểu
tượng văn hóa thế giới. Tác giả Nguyễn Thùy Vân tập trung làm rõ nghĩa của
các từ chỉ TV với đối tượng là các từ ngữ chỉ cây và hoa, trong luận án của mình,
chúng tôi triển khai sự phân tích trên cả nhóm từ ngữ chỉ quả. Gần đây nhất là
luận án TH ngôn ngữ thẩm mĩ trong ca dao Nam Trung Bộ của Nguyễn Thị Vân
Anh (2015). Nghiên cứu này tập trung nghiên cứu về hệ thống THTM, đặc trưng
tư duy nhận thức của người phương Nam trong phạm vi ngữ liệu là ca dao Nam
Trung Bộ. Ngoài ra còn có khá nhiều nghiên cứu về nghĩa biểu trưng trong ca
dao ở phạm vi nhỏ hơn. Tuy nhiên, chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu về
vấn đề ngữ nghĩa của từ ngữ nói chung, nghĩa biểu trưng của từ ngữ nói riêng
trong CDTY một cách cụ thể. Và đây chính là hướng đi ngỏ để chúng tôi chọn
làm đối tượng nghiên cứu cho luận án của mình với đề tài “Đặc điểm ngữ nghĩa
của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt”. Trong khuôn khổ luận án, chúng
tôi tập trung làm rõ ngữ nghĩa của từ với trọng tâm là YNBT của một số từ ngữ
tiêu biểu trong một vài trường nghĩa. Với sự nghiên cứu này, chúng tôi mong
muốn làm rõ thêm xu hướng nghiên cứu về CDTY dưới lí thuyết ngữ nghĩa.
1.2. Cơ sở lí thuyết của đề tài
1.2.1. Từ và nghĩa của từ
1.2.1.1. Quan niệm về từ
Vấn đề từ và ý nghĩa của từ là vấn đề cơ bản của các nhà ngôn ngữ học trong
và ngoài nước quan tâm đặc biệt. Thậm chí trong tâm lí học, triết học,… vấn đề này
cũng được chú ý sớm. Để hiểu được nghĩa của từ cũng như các đặc điểm của nó,
trước hết cần phải hiểu được từ là gì? Tác giả Nguyễn Thiện Giáp trong cuốn Dẫn
luận ngôn ngữ học đã cho rằng khái niệm này rất khó định nghĩa. Cái khó nhất
trong việc định nghĩa từ là sự khác nhau về cách định hình, về chức năng và những
đặc điểm ý nghĩa của từ trong các ngôn ngữ khác nhau cũng như trong cùng một
ngôn ngữ. Có từ mang chức năng định danh, có từ không mang chức năng định
24
danh; có từ biểu thị khái niệm, có từ chỉ là dấu hiệu của những cảm xúc nào đó; có
từ liên hệ với những sự vật, hiện tượng ngoài thực tế, có từ lại chỉ biểu thị những
quan hệ trong ngôn ngữ,… Vì vậy, theo Nguyễn Thiện Giáp không có sự thống nhất
trong cách định nghĩa và miêu tả các từ. Hiện nay có tới trên 300 định nghĩa khác nhau
về từ. Nói chung, không có định nghĩa nào về từ làm mọi người thỏa mãn. Với tư cách
là định nghĩa sơ bộ, có tính chất giả thiết, tác giả đã định nghĩa từ như sau: “Từ là đơn
vị nhỏ nhất của ngôn ngữ, độc lập về ý nghĩa và hình thức” [38, 60 – 61]. Tác giả Đỗ
Hữu Châu đưa ra định nghĩa về từ như sau:“ Từ của tiếng Việt là một hoặc một số âm
tiết cố định, bất biến, mang những đặc điểm ngữ pháp nhất định, tất cả ứng với một
kiểu ý nghĩa nhất định, lớn nhất trong tiếng Việt và nhỏ nhất để tạo câu” [19, 16]. Đỗ
Hữu Châu cho rằng từ có các đặc điểm: a, Có hình thức ngữ âm và ý nghĩa; b, Có tính
sẵn có, cố định và bắt buộc; c, Là những đơn vị thực tại, hiển nhiên của ngôn ngữ. Tức
là đơn vị lớn nhất của hệ thống ngôn ngữ; d, Là đơn vị nhỏ nhất ở trong câu [19, 8-9].
Chúng tôi sẽ vận dụng cách hiểu của tác giả Đỗ Hữu Châu về từ để làm cơ sở cho các
bước nghiên cứu có liên quan của mình.
1.2.1.2. Nghĩa của từ
a. Quan niệm về nghĩa của từ
Từ là đơn vị cơ bản trong hệ thống ngôn ngữ, mang hai chức năng cơ bản
là định danh và tạo câu. Nghĩa của từ thuộc về bình diện tinh thần được vật chất
hóa thông qua vỏ âm thanh của từ. Nghĩa của từ là một khái niệm khó định
nghĩa, có rất nhiều ý kiến khác nhau của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước
về vấn đề này. Vì thuộc bình diện tinh thần, nghĩa của từ luôn là đối tượng khó
nắm bắt. Trong khi đó, việc nắm bắt nghĩa của từ là yếu tố đầu tiên quyết định
hiệu quả của hoạt động giao tiếp. Vậy nên khi nghiên cứu ngôn ngữ, vấn đề ngữ
nghĩa được các nhà khoa học dành cho một sự quan tâm đặc biệt. Cho đến nay,
gần như không có công trình nghiên cứu ngôn ngữ nào lại không đề cập đến
nghĩa ở mức độ nhất định, ngay cả ở những công trình ngôn ngữ học cấu trúc
thuần túy thì nghĩa cũng vẫn được dành cho một vị trí xứng đáng. Nghĩa của từ
được nhìn nhận từ nhiều góc độ khác nhau: nghĩa của từ là bản thể, nghĩa của từ
là quan hệ, nghĩa của từ là thực thể tinh thần, cụ thể:
25
Ở Việt Nam, tác giả Nguyễn Thiện Giáp đã căn cứ vào khái niệm nghĩa của từ
của một số tác giả nước ngoài tiêu biểu và rút ra hai xu hướng chính là: thứ nhất, cho
nghĩa của từ là một bản thể nào đó (đối tượng, khái niệm, sự phản ánh,…), thứ hai, cho
nghĩa của từ là một quan hệ nào đó (quan hệ của từ với đối tượng hoặc quan hệ của từ
với khái niệm…). Tác giả đi đến nhận định về nghĩa của từ “Nghĩa của từ là một đối
tượng phức tạp, bao gồm một số thành tố đơn giản hơn” như “nghĩa sở chỉ”, “nghĩa
sở biểu”, “nghĩa sử dụng” và “nghĩa kết cấu” [38, 122-125].
Bên cạnh đó, việc nghĩa của từ là một thực thể tinh thần cũng là một quan
niệm trong nghiên cứu. Tác giả Lê Quang Thiêm cho rằng “nghĩa là một thực
thể tinh thần trừu tượng tồn tại trong mọi biểu hiện, cấp độ của ngôn ngữ để
ngôn ngữ thực hiện chức năng công cụ giao tiếp và tư duy cũng như mọi loại
chức năng cụ thể đa dạng khác, đặc biệt là trong lời nói, trong văn bản, diễn
ngôn” và “Nghĩa là nội dung xác định hình thành nhờ chức năng, song không là
chức năng riêng rẽ trong hoạt động mà là một loại chức năng thể hiện qua văn
cảnh”. Tác giả đi đến nhận định rằng “nội dung của ngữ nghĩa học bao gồm:
ngữ nghĩa học từ vựng, ngữ nghĩa học ngữ pháp, và ngữ nghĩa học ngữ dụng”
và cần phải nghiên cứu cả ba loại ngữ nghĩa học này độc lập và có quan hệ chặt
chẽ với nhau [112, 86 - 87].
Tác giả nghiên cứu tập trung nhất bàn về nghĩa của từ là Đỗ Hữu Châu. Ông
cho rằng “nghĩa của từ là một thực thể tinh thần cùng với phương diện hình thức
lập thành một thể thống nhất gọi là từ”. Nói cách khác, “nghĩa của từ là hợp điểm,
là kết quả của những nhân tố và tác động giữa những nhân tố tạo nên nghĩa. Trong
số những nhân tố đó, có những nhân tố ngoài ngôn ngữ và có những nhân tố nằm
trong ngôn ngữ. Hai nhân tố ngoài ngôn ngữ là sự vật, hiện tượng của thế giới
khách quan, có thể thuộc thế giới nội tâm, có thể thuộc thế giới ảo tưởng. Nhân tố
kia là các hiểu biết về loại nhân tố thứ nhất”. Như vậy, số lượng kiểu nghĩa sẽ tăng
lên tùy theo số lượng những nhân tố được phát hiện thêm [13, 98].
Có thể khẳng định rằng nghĩa của từ là một khái niệm phức tạp. Sự phức tạp
này được thể hiện ở số lượng các quan niệm khác nhau về nghĩa của từ. Và nghĩa
của từ cũng được nhìn nhận từ nhiều khía cạnh với nhiều ý kiến khác nhau. Có quan
26
điểm cho rằng nghĩa của từ là thực thể tinh thần, nghĩa của từ là bản thể, nghĩa của
từ là quan hệ nào đó,… Trong luận án, chúng tôi lựa chọn quan niệm của tác giả Đỗ
Hữu Châu làm cơ sở lí thuyết cho sự nghiên cứu.
b. Nét nghĩa và cấu trúc nghĩa của từ
Theo ngữ nghĩa học hiện đại, ý nghĩa của từ lập thành một cấu trúc, bao gồm một
số nghĩa vị (hay còn được gọi là nét nghĩa) được kết hợp với nhau theo quy tắc nhất định,
chi phối và quy định lẫn nhau. Chính vì thế U. Weinreich đã viết: “Mong muốn phân
tích một nghĩa tổng quát ra những thành tố và xác lập một cấp hệ giữa các thành tố,
luôn luôn là một trong những động cơ chủ yếu của nghiên cứu ngữ nghĩa”[157]. Theo tư
tưởng lí thuyết đó, Hoàng Phê trong bài “Phân tích ngữ nghĩa” khi tổng hợp lại các ví
dụ phân tích nghĩa thành nét nghĩa của những từ mẹ, cha, vợ, chồng đã đi đến kết luận:
“Nói tóm lại, nghĩa của từ nói chung: a/ là một tập hợp những nét nghĩa có quan hệ quy
định lẫn nhau; b/ Giá trị của nét nghĩa không như nhau (giữa các nét nghĩa có quan hệ
cấp bậc) biểu hiện ở khả năng tham gia khác nhau vào việc thực hiện chức năng thông
báo; c/ Các nét nghĩa có tính độc lập tương đối… [98, 15].
Đỗ Hữu Châu sau khi phân tích nghĩa của một số danh từ và động từ bàn,
búa, chân, đứng nói đi,… thành nét nghĩa đã đi đến kết luận: “Tập hợp một số nét
nghĩa thành nghĩa biểu niệm là một tập hợp có quy tắc… Chúng ta thấy có những
nét nghĩa chung cho nhiều từ và những nét nghĩa riêng cho từng từ” [13, 107].
Như vậy, có thể khẳng định rằng nội dung ý nghĩa của từ được tạo nên từ các
nét nghĩa. Và có những nét nghĩa riêng cho từng từ bên cạnh đó cũng có những nét
nghĩa chung cho nhiều từ. Tổ hợp các nét nghĩa để tạo thành nghĩa là một “cấu tạo
có quy tắc, có quan hệ lẫn nhau”.
Từ những kiến giải và phân tích của các nhà ngôn ngữ học có thể khẳng định
rằng nét nghĩa là yếu tố hạt nhân tạo nên cấu trúc nghĩa của từ. Trong luận án, “nét
nghĩa” có vai trò quan trọng trong việc xác định mối quan hệ giữa các nghĩa trong
quá trình phát triển nghĩa của từ.
c. Hiện tượng chuyển nghĩa của từ
Chuyển nghĩa từ vựng là một trong những nội dung cơ bản trong nghiên
cứu của ngôn ngữ học truyền thống. Bàn về vấn đề này, các nội dung như: sự
27
CN, chuyển trường, mối quan hệ giữa các nghĩa chuyển, phương thức CN,…
thường được các công trình nghiên cứu tập trung luận giải.
Kết quả của sự chuyển biến nghĩa của từ đã tạo ra hiện tượng từ nhiều nghĩa. Từ
lúc mới xuất hiện chỉ có một nghĩa biểu vật. Sau một thời gian sử dụng, nó có thể có
thêm những nghĩa biểu vật mới. Các nghĩa biểu vật mới xuất hiện ngày càng nhiều thì
nghĩa biểu niệm của nó ngày càng có khả năng biến đổi. Trong sự chuyển biến ý
nghĩa, có khi nghĩa biểu vật đầu tiên không còn nữa. Nhưng thường thường thì cả
nghĩa đầu tiên và các nghĩa mới đều cùng tồn tại, cùng hoạt động, khiến cho đối với
những người không chuyên từ nguyên học khó nhận biết hay khó khẳng định nghĩa
nào là nghĩa đầu tiên của từ. Giữa nghĩa đầu tiên và các nghĩa mới có thể diễn ra sự
biến đổi theo kiểu móc xích song sự chuyển biến theo lối “tỏa ra” chiếm tỉ lệ nhiều
hơn. Sự chuyển biến ý nghĩa cũng là một phương thức để tạo thêm từ mới bên cạnh
các phương thức ghép hoặc láy [19]. Khi các nghĩa chuyển biến còn liên hệ với nhau,
sự CN có thể làm cho ý nghĩa của từ được mở rộng ra hoặc thu hẹp lại. Sự chuyển
biến về nghĩa có thể làm thay đổi ý nghĩa biểu thái (nghĩa “xấu đi” hay “tốt lên”).
Động lực thúc đẩy sự CN có nhiều, bản thân sự thay đổi sự vật, hiện tượng được
gọi tên làm cho từ phải thay đổi cấu trúc biểu niệm. Sự kiêng kị cũng làm cho
nghĩa của từ biến đổi. Tuy nhiên động lực chủ yếu thúc đẩy sự chuyển biến ý
nghĩa vẫn là do nhu cầu giao tiếp đặt ra [19].
d. Các phương thức CN
Sự chuyển biến nghĩa của từ chủ yếu diễn ra theo hai phương thức: phương thức ẩn
dụ và phương thức hoán dụ:
- Sự CN của từ theo phương thức ẩn dụ:
Phương thức ẩn dụ là phương thức “lấy tên gọi A của x để gọi tên y (để biểu
thị y), nếu như x và y giống nhau. Các sự vật được gọi tên, tức x và y, không có liên
hệ khách quan, chúng thuộc những phạm trù hoàn toàn khác nhau. Sự chuyển tên
gọi diễn ra tùy thuộc vào nhận thức có tính chất chủ quan của con người về sự
giống nhau giữa chúng” [15, 154 – 155].
Tác giả Nguyễn Thiện Giáp trong [38] đã phân chia ẩn dụ từ vựng trên tính
chất của sự giống nhau. Kết quả là có những loại ẩn dụ dựa trên những sự tương
đồng về: hình thức, màu sắc, chức năng, thuộc tính, tính chất, đặc điểm, vẻ ngoài
28
nào đó, ẩn dụ cụ thể trừu tượng, chuyển tên các con vật thành cách gọi con người,
chuyển tính chất của sinh vật sang sự vật hoặc hiện tượng
Dựa trên nhiều tiêu chí, Đỗ Hữu Châu [13] phân chia thành các kiểu ẩn dụ từ vựng
khác nhau:
Thứ nhất, tùy theo x và y là các sự vật cụ thể (có thể cảm nhận bằng giác quan) hay
trừu tượng mà ẩn dụ được chia thành ẩn dụ cụ thể - cụ thể (miệng người – miệng chén), ẩn
dụ cụ thể - trừu tượng (con đường – con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội).
Thứ hai, quan trọng hơn là phân biệt cơ chế ẩn dụ theo nét nghĩa phạm trù dựa vào
đó mà xuất hiện ẩn dụ. Theo đó có các kiểu ẩn dụ: ẩn dụ hình thức, ẩn dụ vị trí, ẩn dụ cách
thức, ẩn dụ chức năng, ẩn dụ kết quả, ẩn dụ chuyển đổi cảm giác,
- Sự CN của từ theo phương thức hoán dụ:
Phương thức CN hoán dụ là “phương thức lấy tên gọi A của x để gọi y nếu x và y
đi đôi với nhau trong thực tế. Mối liên hệ đi đôi với nhau giữa x và y là có thật, không tùy
thuộc vào nhận thức của con người. Cho nên các hoán dụ có tính khách quan hơn các ẩn
dụ” [15, 154 – 155]. Ví dụ: từ cổ có nghĩa gốc chỉ bộ phận cơ thể người hay động vật, ở vị
trí nối giữa đầu và cơ thể, có chức năng giữ đầu trên cơ thể. Nó được CN để chỉ bộ phận
của trang phục (cổ áo). Từ tay cũng có nghĩa gốc chỉ bộ phận cơ thể người được CN để chỉ
bộ phận của trang phục (tay áo)…
Ẩn dụ và hoán dụ là sự chuyển từ ý nghĩa biểu vật này sang ý nghĩa biểu vật
khác. Hiện tượng chuyển biến ý nghĩa theo cùng một hướng thường diễn ra giữa các
từ trong cùng phạm vi biểu vật. Hiện tượng CN (ẩn dụ hay hoán dụ) của ngôn ngữ
“không phải là hiện tượng ngẫu nhiên, chỉ bị chi phối bởi quy luật nhận thức mà
trước hết là những hiện tượng ngôn ngữ. Chính vì vậy, các nghĩa chuyển (ẩn dụ và
hoán dụ) và nói rộng ra các nghĩa chuyển của từ mới có tính dân tộc sâu sắc.
Chúng vừa là kết quả của cách tiếp cận thực tế của dân tộc, vừa là kết quả của những
quy luật điều khiển sự tạo nghĩa mới cho từ” [19, 157].
Tuy vậy, không phải mọi hiện tượng CN của từ đều được giải thích bằng hai
phương thức ẩn dụ và hoán dụ. Bởi lẽ, ngôn ngữ nói chung và từ vựng nói riêng chịu sự
chi phối bởi những quy luật nội tại và ngoại tại nên nghĩa của từ có thể biến đổi theo các
quy luật đó. Hoặc đôi khi hiện tượng chuyển biến ý nghĩa của từ xảy ra do sự “cảm nhiễm”
nghĩa của ngữ cảnh.
29
 Mối quan hệ giữa các nghĩa chuyển
Hiện tượng CN của từ đã tạo ra các nghĩa cũ và nghĩa mới. Các nhà ngôn
ngữ cũng thừa nhận mối quan hệ giữa các loại nghĩa đó. Các nghĩa mới (nghĩa phái
sinh được nảy sinh trên cơ sở nét nghĩa ban đầu của từ hoặc trên cơ sở một hay vài
nét nghĩa cơ bản trong cấu trúc biểu niệm của từ, và tác giả Đỗ Hữu Châu gọi đó là
nét nghĩa cơ sở “Nét nghĩa cơ sở của cấu trúc biểu niệm trung tâm sẽ đảm bảo cho
sự thống nhất giữa các ý nghĩa biểu vật. Như thế, các nghĩa biểu vật của một từ tuy
khác nhau, tuy đối lập nhau - nhưng giữa chúng vẫn có sự thống nhất trên có sở nét
nghĩa chung. Nói khác đi, các ý nghĩa khác nhau của một từ lập nên một hệ thống
ngữ nghĩa trong lòng một từ nhiều nghĩa” [13, 133]. Nguyên tắc để xác định từ
nhiều nghĩa chính là nét nghĩa cơ sở. Ngược lại, nếu mối liên hệ ấy bị đứt quãng
hoặc đã cách biệt quá xa, không thể tìm được nét nghĩa cơ sở giữa chúng thì lúc
này, từ vốn là một nhưng đã tách ra thành hai từ đồng âm [13, 138]. John Lyons
nhận xét: “Các nghĩa có liên hệ với nhau rõ rệt, nhiều hay ít theo đúng nguyên tắc
….thì truyền thống không xem là khác nhau đến mức đủ để chứng thực sự thừa
nhận các từ riêng biệt. Nhà ngữ nghĩa học truyền thống sẽ không nói rằng miệng
của sông và miệng với tư cách là một bộ phận của cơ thể là những từ đồng âm mà
nói rằng miệng có hai nghĩa liên hệ nhau. Do đó, ngoài hiện tượng đồng nghĩa và
đồng âm, ta còn có cái gọi là đa nghĩa trong sự phát triển mới đây của ngữ nghĩa
học truyền thống” [60, 638].
Theo quan điểm này, trong luận án, chúng tôi chỉ quan tâm đến sự CN của
từ. Ở Việt Nam trong những nghiên cứu ngữ nghĩa học - từ vựng, các nhà nghiên
cứu đều cho ra rằng: hiện tượng “đa nghĩa” (hay: “nhiều nghĩa”) là kết quả của sự
“chuyển biến” ý nghĩa của từ. Trong đa nghĩa có sự phân biệt giữa “nghĩa chính”
(nghĩa cơ bản/ cơ sở), “nghĩa gốc”, “nghĩa đen” - từ đó mà “móc xích” ra hay “tỏa”
ra các nghĩa mới, xuất hiện sau, tức các “nghĩa phụ”, “nghĩa chuyển”, “nghĩa bóng”.
Trong quá trình phát triển nghĩa của từ: “thường cả nghĩa đầu tiên và nghĩa mới
của từ đều cùng tồn tại, cùng hoạt động khiến cho chúng ta khó nhận diện hay khẳng
định được đâu là nghĩa đầu tiên của từ” [13, 137]. Lại có trường hợp tuy cả nghĩa gốc
và nghĩa chuyển cùng tồn tại cùng hoạt động song nghĩa gốc của từ ngày càng mờ nhạt,
30
dần dần trở thành nghĩa phụ trong khi một vài nghĩa chuyển nào đó lại được dùng
thường xuyên và phổ biến hơn trở thành nghĩa chính của từ. Quá trình phát triển ngữ
nghĩa của từ còn được quan niệm là cách định danh gián tiếp. Đó là quá trình lan tỏa về
mặt ý nghĩa của từ xuất phát từ sự biểu vật đầu tiên của tên gọi (tức là từ nghĩa gốc,
nghĩa định danh trực tiếp). Vì vậy, việc xác định nghĩa gốc và nghĩa chuyển có ý nghĩa
quan trọng bởi các nét nghĩa trong nghĩa gốc là căn cứ quan trọng làm cơ sở để tập hợp
các nghĩa chuyển và xác định các hướng CN của từ.
Một cách tổng quát, theo quan điểm của ngôn ngữ học truyền thống, các
nghĩa khác nhau của từ đa nghĩa có đặc điểm sau:
+ Giữa nghĩa đầu tiên với các nghĩa chuyển có thể có sự biến đổi theo quan
hệ kiểu “móc xích” hay “tỏa ra từ gốc” nhưng chủ yếu là theo kiểu “tỏa ra từ gốc”.
+ Các từ có ý nghĩa biểu vật cùng thuộc một phạm vi hoặc có các ý nghĩa biểu
niệm cùng một cấu trúc thì CN theo cùng hướng “Cơ sở để nhận ra tính nhiều nghĩa
của từ chính là khả năng từ đó có thể đi vào nhiều trường khác nhau” [13, 164]
+ Khi các nghĩa chuyển còn liên hệ với nhau, sự chuyển biến ý nghĩa có thể
làm ý nghĩa “mở rộng ra” hoặc “thu hẹp lại”, và điều này, trước hết, được xét ở
phạm vi từ. Việc thu hẹp – mở rộng nghĩa còn được xem xét ở phạm vi các nghĩa
trong từ nhiều nghĩa.
1.2.1.3. Khái niệm ngữ
Từ là đơn vị gồm hai mặt âm thanh và ý nghĩa, là đơn vị lớn nhất trong hệ
thống ngôn ngữ và nhỏ nhất để tạo câu. Khi tham gia vào câu, từ thường trở thành
thành phần của các ngữ (cụm từ). Bởi trong mối quan hệ với các từ khác, bản thân
từ mới thể hiện rõ được đặc điểm ngữ nghĩa của nó. Ngữ được xem là tổ hợp của
các từ theo một quan hệ ngữ pháp nhất định, có thể là quan hệ chủ - vị, quan hệ
đẳng lập hoặc quan hệ chính phụ.
Ngữ bao gồm hai loại là ngữ cố định và ngữ tự do. Ngữ cố định bao gồm
thành ngữ và quán ngữ. Ngữ tự do bao gồm ngữ đẳng lập, ngữ chủ vị và ngữ chính
phụ. Căn cứ vào thành tố chính của các ngữ chính phụ mà loại ngữ này được chia
làm ba loại: ngữ danh từ, ngữ động từ và ngữ tính từ. Trong phạm vi của luận án,
chúng tôi chủ yếu quan tâm đến các ngữ tự do đặc biệt là các ngữ danh từ. Đó là các
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt
Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt

More Related Content

What's hot

Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết hồ anh tháitruonghocso.com
Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết hồ anh tháitruonghocso.comNghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết hồ anh tháitruonghocso.com
Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết hồ anh tháitruonghocso.comThế Giới Tinh Hoa
 
Cac phuong cham hoi thoai - Tieng Viet
Cac phuong cham hoi thoai - Tieng VietCac phuong cham hoi thoai - Tieng Viet
Cac phuong cham hoi thoai - Tieng VietBích Phương
 
Luận văn: Tình yêu trong thơ Nôm thế kỷ XV đến thế kỷ XIX dưới góc nhìn văn h...
Luận văn: Tình yêu trong thơ Nôm thế kỷ XV đến thế kỷ XIX dưới góc nhìn văn h...Luận văn: Tình yêu trong thơ Nôm thế kỷ XV đến thế kỷ XIX dưới góc nhìn văn h...
Luận văn: Tình yêu trong thơ Nôm thế kỷ XV đến thế kỷ XIX dưới góc nhìn văn h...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Luận án: Đạo làm người trong tục ngữ, ca dao Việt Nam và ý nghĩa - Gửi miễn p...
Luận án: Đạo làm người trong tục ngữ, ca dao Việt Nam và ý nghĩa - Gửi miễn p...Luận án: Đạo làm người trong tục ngữ, ca dao Việt Nam và ý nghĩa - Gửi miễn p...
Luận án: Đạo làm người trong tục ngữ, ca dao Việt Nam và ý nghĩa - Gửi miễn p...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

What's hot (20)

Luận văn: Hàm ngôn trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, HAY
Luận văn: Hàm ngôn trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, HAYLuận văn: Hàm ngôn trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, HAY
Luận văn: Hàm ngôn trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, HAY
 
Luận văn: Phương tiện và biện pháp tu từ trong ca dao Nam Bộ
Luận văn: Phương tiện và biện pháp tu từ trong ca dao Nam BộLuận văn: Phương tiện và biện pháp tu từ trong ca dao Nam Bộ
Luận văn: Phương tiện và biện pháp tu từ trong ca dao Nam Bộ
 
Khóa luận tốt nghiệp cái say trong thơ nguyễn khuyến
Khóa luận tốt nghiệp cái say trong thơ nguyễn khuyếnKhóa luận tốt nghiệp cái say trong thơ nguyễn khuyến
Khóa luận tốt nghiệp cái say trong thơ nguyễn khuyến
 
Luận văn: Yếu tố phong tục trong truyện cổ tích người Việt từ góc nhìn văn hoá
Luận văn: Yếu tố phong tục trong truyện cổ tích người Việt từ góc nhìn văn hoáLuận văn: Yếu tố phong tục trong truyện cổ tích người Việt từ góc nhìn văn hoá
Luận văn: Yếu tố phong tục trong truyện cổ tích người Việt từ góc nhìn văn hoá
 
Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết hồ anh tháitruonghocso.com
Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết hồ anh tháitruonghocso.comNghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết hồ anh tháitruonghocso.com
Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết hồ anh tháitruonghocso.com
 
Luận văn: Yếu tố kì ảo trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, HAY
Luận văn: Yếu tố kì ảo trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, HAYLuận văn: Yếu tố kì ảo trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, HAY
Luận văn: Yếu tố kì ảo trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, HAY
 
Luận án: Tư tưởng chính trị Nguyễn Trãi, HAY
Luận án: Tư tưởng chính trị Nguyễn Trãi, HAYLuận án: Tư tưởng chính trị Nguyễn Trãi, HAY
Luận án: Tư tưởng chính trị Nguyễn Trãi, HAY
 
Luận văn: Song tính trữ tình, tự sự trong thơ Nôm Đường luật, HAY
Luận văn: Song tính trữ tình, tự sự trong thơ Nôm Đường luật, HAYLuận văn: Song tính trữ tình, tự sự trong thơ Nôm Đường luật, HAY
Luận văn: Song tính trữ tình, tự sự trong thơ Nôm Đường luật, HAY
 
Luận án: Biểu tượng đá trong truyền thuyết dân gian Việt Nam
Luận án: Biểu tượng đá trong truyền thuyết dân gian Việt NamLuận án: Biểu tượng đá trong truyền thuyết dân gian Việt Nam
Luận án: Biểu tượng đá trong truyền thuyết dân gian Việt Nam
 
Cac phuong cham hoi thoai - Tieng Viet
Cac phuong cham hoi thoai - Tieng VietCac phuong cham hoi thoai - Tieng Viet
Cac phuong cham hoi thoai - Tieng Viet
 
Đề tài: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu
Đề tài: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Minh ChâuĐề tài: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu
Đề tài: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu
 
Dấu ấn hiện sinh trong tiểu thuyết “Một thế giới không có đàn bà”, HAY
Dấu ấn hiện sinh trong tiểu thuyết “Một thế giới không có đàn bà”, HAYDấu ấn hiện sinh trong tiểu thuyết “Một thế giới không có đàn bà”, HAY
Dấu ấn hiện sinh trong tiểu thuyết “Một thế giới không có đàn bà”, HAY
 
Luận văn: Tình yêu trong thơ Nôm thế kỷ XV đến thế kỷ XIX dưới góc nhìn văn h...
Luận văn: Tình yêu trong thơ Nôm thế kỷ XV đến thế kỷ XIX dưới góc nhìn văn h...Luận văn: Tình yêu trong thơ Nôm thế kỷ XV đến thế kỷ XIX dưới góc nhìn văn h...
Luận văn: Tình yêu trong thơ Nôm thế kỷ XV đến thế kỷ XIX dưới góc nhìn văn h...
 
Luận văn: Xây dựng và sử dụng mẫu trong dạy học làm văn nghị luận
Luận văn: Xây dựng và sử dụng mẫu trong dạy học làm văn nghị luậnLuận văn: Xây dựng và sử dụng mẫu trong dạy học làm văn nghị luận
Luận văn: Xây dựng và sử dụng mẫu trong dạy học làm văn nghị luận
 
Luận văn: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu, HOT
Luận văn: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu, HOTLuận văn: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu, HOT
Luận văn: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu, HOT
 
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAYLuận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
 
Luận án: Đạo làm người trong tục ngữ, ca dao Việt Nam và ý nghĩa - Gửi miễn p...
Luận án: Đạo làm người trong tục ngữ, ca dao Việt Nam và ý nghĩa - Gửi miễn p...Luận án: Đạo làm người trong tục ngữ, ca dao Việt Nam và ý nghĩa - Gửi miễn p...
Luận án: Đạo làm người trong tục ngữ, ca dao Việt Nam và ý nghĩa - Gửi miễn p...
 
Luận văn: Truyện ngắn Nguyễn Dậu dưới góc nhìn văn hóa, HAY
Luận văn: Truyện ngắn Nguyễn Dậu dưới góc nhìn văn hóa, HAYLuận văn: Truyện ngắn Nguyễn Dậu dưới góc nhìn văn hóa, HAY
Luận văn: Truyện ngắn Nguyễn Dậu dưới góc nhìn văn hóa, HAY
 
Luận văn: Quản lý Nhà nước về di tích lịch sử - văn hóa, HOT
Luận văn: Quản lý Nhà nước về di tích lịch sử - văn hóa, HOTLuận văn: Quản lý Nhà nước về di tích lịch sử - văn hóa, HOT
Luận văn: Quản lý Nhà nước về di tích lịch sử - văn hóa, HOT
 
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt namLuận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
 

Similar to Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt

Luận án: Đối chiếu các đơn vị từ vựng thuộc trường thị giác, HAY - Gửi miễn p...
Luận án: Đối chiếu các đơn vị từ vựng thuộc trường thị giác, HAY - Gửi miễn p...Luận án: Đối chiếu các đơn vị từ vựng thuộc trường thị giác, HAY - Gửi miễn p...
Luận án: Đối chiếu các đơn vị từ vựng thuộc trường thị giác, HAY - Gửi miễn p...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Đặc điểm định danh tên cây thuốc Việt Nam (có liên hệ tiếng Latinh)
Đặc điểm định danh tên cây thuốc Việt Nam (có liên hệ tiếng Latinh) Đặc điểm định danh tên cây thuốc Việt Nam (có liên hệ tiếng Latinh)
Đặc điểm định danh tên cây thuốc Việt Nam (có liên hệ tiếng Latinh) nataliej4
 
Luận văn: Vận dụng lý thuyết tiếp nhận vào dạy học văn học dân gian ở Trung ...
Luận văn:  Vận dụng lý thuyết tiếp nhận vào dạy học văn học dân gian ở Trung ...Luận văn:  Vận dụng lý thuyết tiếp nhận vào dạy học văn học dân gian ở Trung ...
Luận văn: Vận dụng lý thuyết tiếp nhận vào dạy học văn học dân gian ở Trung ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 

Similar to Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt (20)

Luận án: Đặc điểm trường từ vựng - ngữ nghĩa chỉ trang phục, HAY
Luận án: Đặc điểm trường từ vựng - ngữ nghĩa chỉ trang phục, HAYLuận án: Đặc điểm trường từ vựng - ngữ nghĩa chỉ trang phục, HAY
Luận án: Đặc điểm trường từ vựng - ngữ nghĩa chỉ trang phục, HAY
 
Luận án: Từ ngữ Công giáo trong các bản kinh nguyện của các Giáo phận Dòng tạ...
Luận án: Từ ngữ Công giáo trong các bản kinh nguyện của các Giáo phận Dòng tạ...Luận án: Từ ngữ Công giáo trong các bản kinh nguyện của các Giáo phận Dòng tạ...
Luận án: Từ ngữ Công giáo trong các bản kinh nguyện của các Giáo phận Dòng tạ...
 
Luận án: Đặc điểm ngôn ngữ của từ ngữ xưng hô trong Phật giáo
Luận án: Đặc điểm ngôn ngữ của từ ngữ xưng hô trong Phật giáoLuận án: Đặc điểm ngôn ngữ của từ ngữ xưng hô trong Phật giáo
Luận án: Đặc điểm ngôn ngữ của từ ngữ xưng hô trong Phật giáo
 
THÀNH NGỮ CÓ TỪ NGỮ THUỘC TRƯỜNG NGHĨA THỜI TIẾT TRONG TIẾNG VIỆT - TẢI FREE...
THÀNH NGỮ CÓ TỪ NGỮ THUỘC TRƯỜNG NGHĨA THỜI TIẾT TRONG TIẾNG VIỆT  - TẢI FREE...THÀNH NGỮ CÓ TỪ NGỮ THUỘC TRƯỜNG NGHĨA THỜI TIẾT TRONG TIẾNG VIỆT  - TẢI FREE...
THÀNH NGỮ CÓ TỪ NGỮ THUỘC TRƯỜNG NGHĨA THỜI TIẾT TRONG TIẾNG VIỆT - TẢI FREE...
 
Luận án: Nhóm động từ chỉ hoạt động nhận thức trong tiếng Việt
Luận án: Nhóm động từ chỉ hoạt động nhận thức trong tiếng ViệtLuận án: Nhóm động từ chỉ hoạt động nhận thức trong tiếng Việt
Luận án: Nhóm động từ chỉ hoạt động nhận thức trong tiếng Việt
 
Luận án: Đối chiếu các đơn vị từ vựng thuộc trường thị giác, HAY - Gửi miễn p...
Luận án: Đối chiếu các đơn vị từ vựng thuộc trường thị giác, HAY - Gửi miễn p...Luận án: Đối chiếu các đơn vị từ vựng thuộc trường thị giác, HAY - Gửi miễn p...
Luận án: Đối chiếu các đơn vị từ vựng thuộc trường thị giác, HAY - Gửi miễn p...
 
Luận án: Nghiên cứu từ ngữ nghề nghiệp ở Quảng Nam - Đà Nẵng
Luận án: Nghiên cứu từ ngữ nghề nghiệp ở Quảng Nam - Đà NẵngLuận án: Nghiên cứu từ ngữ nghề nghiệp ở Quảng Nam - Đà Nẵng
Luận án: Nghiên cứu từ ngữ nghề nghiệp ở Quảng Nam - Đà Nẵng
 
Luận án: Thành ngữ có yếu tố chỉ loài vật trong tiếng Hán, HAY
Luận án: Thành ngữ có yếu tố chỉ loài vật trong tiếng Hán, HAYLuận án: Thành ngữ có yếu tố chỉ loài vật trong tiếng Hán, HAY
Luận án: Thành ngữ có yếu tố chỉ loài vật trong tiếng Hán, HAY
 
Ý niệm về thị trường chứng khoán trong tiếng anh và tiếng việt
Ý niệm về thị trường chứng khoán trong tiếng anh và tiếng việtÝ niệm về thị trường chứng khoán trong tiếng anh và tiếng việt
Ý niệm về thị trường chứng khoán trong tiếng anh và tiếng việt
 
Luận án: Tiểu thuyết có tính chất tự truyện trong văn học Việt Nam
Luận án: Tiểu thuyết có tính chất tự truyện trong văn học Việt NamLuận án: Tiểu thuyết có tính chất tự truyện trong văn học Việt Nam
Luận án: Tiểu thuyết có tính chất tự truyện trong văn học Việt Nam
 
Luận án: Đối chiếu thuật ngữ thời trang Anh Việt, HAY
Luận án: Đối chiếu thuật ngữ thời trang Anh Việt, HAYLuận án: Đối chiếu thuật ngữ thời trang Anh Việt, HAY
Luận án: Đối chiếu thuật ngữ thời trang Anh Việt, HAY
 
Luận văn: Giải quyết tranh chấp về phân chia di sản thừa kế tại Tòa án nhân d...
Luận văn: Giải quyết tranh chấp về phân chia di sản thừa kế tại Tòa án nhân d...Luận văn: Giải quyết tranh chấp về phân chia di sản thừa kế tại Tòa án nhân d...
Luận văn: Giải quyết tranh chấp về phân chia di sản thừa kế tại Tòa án nhân d...
 
Luận án: Tiểu thuyết Việt Nam thập niên đầu thế kỷ XXI, HAY
Luận án: Tiểu thuyết Việt Nam thập niên đầu thế kỷ XXI, HAYLuận án: Tiểu thuyết Việt Nam thập niên đầu thế kỷ XXI, HAY
Luận án: Tiểu thuyết Việt Nam thập niên đầu thế kỷ XXI, HAY
 
Kính ngữ tiếng Hàn và các phương tiện biểu hiện tương đương, HOT
Kính ngữ tiếng Hàn và các phương tiện biểu hiện tương đương, HOTKính ngữ tiếng Hàn và các phương tiện biểu hiện tương đương, HOT
Kính ngữ tiếng Hàn và các phương tiện biểu hiện tương đương, HOT
 
Kính ngữ tiếng Hàn và biểu hiện tương đương trong tiếng Việt, HAY
Kính ngữ tiếng Hàn và biểu hiện tương đương trong tiếng Việt, HAYKính ngữ tiếng Hàn và biểu hiện tương đương trong tiếng Việt, HAY
Kính ngữ tiếng Hàn và biểu hiện tương đương trong tiếng Việt, HAY
 
Đặc điểm định danh tên cây thuốc Việt Nam (có liên hệ tiếng Latinh)
Đặc điểm định danh tên cây thuốc Việt Nam (có liên hệ tiếng Latinh) Đặc điểm định danh tên cây thuốc Việt Nam (có liên hệ tiếng Latinh)
Đặc điểm định danh tên cây thuốc Việt Nam (có liên hệ tiếng Latinh)
 
Luận án: Những yếu tố triết học trong tín ngưỡng dân gian, HAY
Luận án: Những yếu tố triết học trong tín ngưỡng dân gian, HAYLuận án: Những yếu tố triết học trong tín ngưỡng dân gian, HAY
Luận án: Những yếu tố triết học trong tín ngưỡng dân gian, HAY
 
Đặc điểm tiếng anh chuyên ngành dược học đối chiếu với tiếng việt
Đặc điểm tiếng anh chuyên ngành dược học đối chiếu với tiếng việtĐặc điểm tiếng anh chuyên ngành dược học đối chiếu với tiếng việt
Đặc điểm tiếng anh chuyên ngành dược học đối chiếu với tiếng việt
 
Luận văn: Vận dụng lý thuyết tiếp nhận vào dạy học văn học dân gian
Luận văn: Vận dụng lý thuyết tiếp nhận vào dạy học văn học dân gianLuận văn: Vận dụng lý thuyết tiếp nhận vào dạy học văn học dân gian
Luận văn: Vận dụng lý thuyết tiếp nhận vào dạy học văn học dân gian
 
Luận văn: Vận dụng lý thuyết tiếp nhận vào dạy học văn học dân gian ở Trung ...
Luận văn:  Vận dụng lý thuyết tiếp nhận vào dạy học văn học dân gian ở Trung ...Luận văn:  Vận dụng lý thuyết tiếp nhận vào dạy học văn học dân gian ở Trung ...
Luận văn: Vận dụng lý thuyết tiếp nhận vào dạy học văn học dân gian ở Trung ...
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877

Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877 (20)

Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...
 
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...
 
Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...
Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...
Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...
 
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...
 
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
 
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y Tế
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y TếHoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y Tế
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y Tế
 
Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...
Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...
Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...
 
Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!
Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!
Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!
 
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!
 
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.
 
Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!
Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!
Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!
 
Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!
Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!
Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!
 
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
 
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!
 
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...
 
Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!
Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!
Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!
 
Quy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện Taf
Quy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện TafQuy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện Taf
Quy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện Taf
 
Thực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng Cáo
Thực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng CáoThực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng Cáo
Thực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng Cáo
 
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
 
Hoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu Tư
Hoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu TưHoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu Tư
Hoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu Tư
 

Recently uploaded

powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxpowerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxAnAn97022
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoámyvh40253
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfTrnHoa46
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfVyTng986513
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (20)

powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxpowerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 

Luận án: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt

  • 1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VŨ THỊ TUYẾT ĐẶC ĐIỂM NGỮ NGHĨA CỦA TỪ NGỮ TRONG CA DAO TÌNH YÊU NGƯỜI VIỆT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC HÀ NỘI, 2018
  • 2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VŨ THỊ TUYẾT ĐẶC ĐIỂM NGỮ NGHĨA CỦA TỪ NGỮ TRONG CA DAO TÌNH YÊU NGƯỜI VIỆT Chuyên ngành: Ngôn ngữ học Mã số: 9229020 LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC Người hướng dẫn khoa học: GS. TS. Đỗ Việt Hùng HÀ NỘI, 2018
  • 3. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 1. Tính cấp thiết của đề tài.......................................................................................1 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ......................................................................3 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.......................................................................4 4. Phương pháp nghiên cứu.....................................................................................4 5. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn .................................................................................6 6. Những đóng góp mới của luận án .......................................................................6 7. Bố cục luận án .....................................................................................................7 CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ THUYẾT..............................................................................................................8 1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu..............................................................8 1.1.1. Tình hình nghiên cứu về từ và nghĩa của từ..............................................8 1.1.2. Tình hình nghiên cứu về ca dao tình yêu người Việt dưới góc độ ngôn ngữ...20 1.1.3. Tình hình nghiên cứu về nghĩa biểu trưng trong ca dao tình yêu người Việt...21 1.2. Cơ sở lí thuyết của đề tài..............................................................................23 1.2.1. Từ và nghĩa của từ...................................................................................23 1.2.2. Trường nghĩa...........................................................................................31 1.2.3. Biểu trưng................................................................................................35 1.2.4. Vài nét về ca dao.....................................................................................48 Kết luận chương 1................................................................................................52 CHƯƠNG 2. ĐẶC ĐIỂM NGỮ NGHĨA CỦA TỪ NGỮ CHỈ THỰC VẬT TRONG CA DAO TÌNH YÊUNGƯỜI VIỆT......................................................53 2.1. Bức tranh tổng quát về từ ngữ chỉ thực vật trong ca dao tình yêu người Việt..................................................................................................53 2.2. Sự chuyển nghĩa của từ ngữ chỉ thực vật trong ca dao tình yêu người Việt....55 2.2.1. Khái quát về sự chuyển nghĩa của từ ngữ chỉ thực vật trong ca dao tình yêu người Việt...................................................................................................55 2.2.2. Sự chuyển nghĩa của các từ ngữ chỉ cây trong ca dao tình yêu người Việt...57 2.2.3. Sự chuyển nghĩa của từ ngữ chỉ hoa trong ca dao tình yêu người Việt..58 2.2.4. Sự chuyển nghĩa của từ ngữ chỉ quả trong ca dao tình yêu người Việt.58
  • 4. 2.3. Ý nghĩa biểu trưng của từ ngữ chỉ thực vật trong ca dao tình yêu người Việt ............................................................................................................59 2.3.1. Mối quan hệ giữa đặc điểm bản thể và ý nghĩa biểu trưng của từ ngữ chỉ thực vật trong ca dao tình yêu người Việt.........................................................59 2.3.2. Nghĩa biểu trưng của từ ngữ chỉ cây trong ca dao tình yêu người Việt..61 2.3.3. Nghĩa biểu trưng của từ ngữ chỉ hoa trong ca dao tình yêu người Việt.79 2.3.4. Nghĩa biểu trưng của từ ngữ chỉ quả trong ca dao tình yêu người Việt..98 Kết luận chương 2..............................................................................................105 CHƯƠNG 3 ĐẶC ĐIỂM NGỮ NGHĨA CỦA TỪ NGỮ CHỈ VẬT THỂ NHÂN TẠO TRONG CA DAO TÌNH YÊU NGƯỜI VIỆT.............................107 3.1. Bức tranh tổng quát về từ ngữ chỉ vật thể nhân tạo trong ca dao tình yêu người Việt ...........................................................................................................107 3.2. Sự chuyển nghĩa của từ ngữ chỉ vật thể nhân tạo trong ca dao tình yêu người Việt...........................................................................................................110 3.2.1. Sự chuyển nghĩa của từ ngữ chỉ công trình kiến trúc trong ca dao tình yêu người Việt.................................................................................................112 3.2.2. Sự chuyển nghĩa của từ ngữ chỉ vật dụng sinh hoạt gia đình trong ca dao tình yêu người Việt..........................................................................................112 3.2.3. Sự chuyển nghĩa của từ ngữ chỉ đồ dùng cá nhân trong ca dao tình yêu người Việt........................................................................................................113 3.2.4. Sự chuyển nghĩa của từ ngữ chỉ phương tiện và công cụ sản xuất trong ca dao tình yêu người Việt ..............................................................................114 3.3. Nghĩa biểu trưng của từ ngữ chỉ vật thể nhân tạo trong ca dao tình yêu người Việt...................................................................................................114 3.3.1. Mối quan hệ giữa đặc điểm bản thể và ý nghĩa biểu trưng của từ ngữ chỉ vật thể nhân tạo trong ca dao tình yêu người Việt ..........................................114 3.3.2. Nghĩa biểu trưng của từ ngữ chỉ công trình kiến trúc trong ca dao tình yêu người Việt.................................................................................................115 3.3.3. Nghĩa biểu trưng của từ ngữ chỉ vật dụng sinh hoạt gia đình trong ca dao tình yêu người Việt..........................................................................................123
  • 5. 3.3.4. Nghĩa biểu trưng của từ ngữ chỉ đồ dùng cá nhân trong ca dao tình yêu người Việt........................................................................................................132 3.3.5. Nghĩa biểu trưng của từ ngữ chỉ phương tiện và công cụ sản xuất trong ca dao tình yêu người Việt ..............................................................................142 Kết luận chương 3..............................................................................................148 KẾT LUẬN............................................................................................................149 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN...............................................................................................................151 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................152 PHỤ LỤC
  • 6. DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 2.1. Bảng thống kê sự xuất hiện và tương quan của các từ ngữ chỉ TV: cây/ hoa/ quả trong CDTY người Việt...............................................................................................54 Bảng 2.2. Bảng thống kê các từ ngữ chỉ TV được dùng với nghĩa gốc............................56 Bảng 3.1. Bảng thống kê các từ ngữ chỉ VTNT được dùng với nghĩa gốc và nghĩa chuyển trong CDTY người Việt.............................................................................................111
  • 7. HÌNH VẼ, BIỂU ĐỒ Hình 2.1. Biểu đồ so sánh sự tương quan của các từ ngữ chỉ TV: cây/ hoa/ quả .....55 trong CDTY người Việt ............................................................................................55 Hình 2.2. Biểu đồ so sánh tương quan của các từ ngữ chỉ cây mang nghĩa biểu trưng trong CDTY người Việt ............................................................................................62 Hình 2.3. Sơ đồ biểu thị mối quan hệ giữa các giai đoạn phát triển của cây với các giai đoạn trong cuộc đời người phụ nữ .....................................................................66 Hình 2.4. Biểu đồ so sánh sự tương quan của các từ ngữ chỉ hoa mang nghĩa biểu trưng trong CDTY người Việt...................................................................................81 Hình 2.5. Biểu đồ so sánh tương quan của các từ ngữ chỉ quả mang nghĩa biểu trưng trong CDTY người Việt ..........................................................................................100 Hình 3.1. Biểu đồ so sánh từ ngữ chỉ các VTNT có tần số xuất hiện cao nhất thuộc bốn nhóm (CTKT/ ĐDCN/ VDSHGĐ/ PT&CCSX) trong CDTY người Việt ......110 Hình 3.2. Biểu đồ so sánh sự xuất hiện của các từ ngữ chỉ CTKT mang nghĩa biểu trưng trong CDTY người Việt.................................................................................116 Hình 3.3. Biểu đồ so sánh sự tương quan của các từ ngữ chỉ VDSHGĐ mang nghĩa biểu trưng trong CDTY người Việt.........................................................................124 Hình 3.4. Biểu đồ so sánh tương quan của các từ ngữ ĐDCN mang nghĩa biểu trưng trong CDTY người Việt.................................................................................132 Hình 3.5. Biểu đồ so sánh sự tương quan của các từ ngữ chỉ PT&CCSX mang nghĩa biểu trưng trong CDTY người Việt.........................................................................142
  • 8. DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU VIẾT TẮT CDTY : Ca dao tình yêu BT : Biểu trưng CN : Chuyển nghĩa TV : Thực vật TH : Tín hiệu THNN : Tín hiệu ngôn ngữ THTM : Tín hiệu thẩm mĩ VTNT : Vật thể nhân tạo CTKT : Công trình kiến trúc VDSHGĐ : Vật dụng sinh hoạt gia đình ĐDCN : Đồ dùng cá nhân PT&CCSX : Phương tiện và công cụ sản xuất
  • 9. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài 1.1. Từ là đơn vị căn bản của hệ thống ngôn ngữ, là đối tượng có lịch sử nghiên cứu lâu dài và phức tạp. Từ có nhiều chức năng khác nhau, trước hết đó là chức năng định danh gọi tên các sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan. Từ còn biểu hiện nội dung, tình cảm, sự tình, ý niệm. Từ trong hoạt động hành chức có chức năng tạo lời, tạo câu. Nghĩa của từ cũng là một khái niệm có nội hàm rất phức tạp, “nghĩa của từ về bản chất là một thực thể tinh thần được mã hóa, được kí hiệu trong từ. Nghĩa từ vựng của từ phản ánh, phản xạ” [115, 61]. Cũng có thể hiểu “nghĩa của từ là toàn bộ nội dung tinh thần xuất hiện trong suy nghĩ của một người bản ngữ khi người đó tiếp xúc (tạo lập hoặc lĩnh hội) với một hình thức âm thanh ngôn ngữ nhất định” [58, 38]; “Nghĩa của từ, mặt quan trọng mà ta đang nói đến có chức năng phản ánh, biểu đạt, ánh xạ thực tại, tư duy,… Ngôn ngữ của từ ngữ, xét trong thể toàn vẹn là hệ thống kí hiệu đặc biệt, là công cụ trọng yếu của giao tiếp, của tư duy” [112, 61]. Từ là đối tượng có vị trí cốt yếu, điều đặc biệt và quan trọng khi khám phá các đơn vị ngôn ngữ là cần nắm được nghĩa của từ. Đây được xem là chìa khóa để giải mã các lớp ý nghĩa của các đơn vị ngôn ngữ. 1.2. Việc phân lập vốn từ của mỗi ngôn ngữ thành các trường từ vựng - ngữ nghĩa đã tạo điều kiện dễ dàng cho việc phát hiện ra tính hệ thống cũng như các cơ chế thuộc về kết cấu và ngữ nghĩa của bản thân ngôn ngữ ấy. Mặt khác, việc giải thích vốn từ của của một ngôn ngữ phải được bắt đầu từ sự phân tích các nhóm từ hay lớp từ hoặc các trường từ vựng ngữ nghĩa với tư cách là phạm vi từ vựng cơ sở. Đây cũng là một con đường nghiên cứu của ngôn ngữ học hiện đại nhằm vận dụng rộng rãi quan niệm hệ thống cấu trúc và những tư tưởng vĩ đại của F.Saussure vào nghiên cứu ngôn ngữ. 1.3. Trong ngôn ngữ học, việc dùng lí thuyết ngôn ngữ để nghiên cứu văn học là một hướng nghiên cứu đã xuất hiện và phát triển mạnh mẽ từ thế kỉ XX và tiếp tục duy trì và phát triển đạt được nhiều thành tựu trong thế kỉ XXI. Nghiên cứu từ góc độ này tạo nên cái nhìn đa chiều khi nghiên cứu, giúp cho việc tìm hiểu văn chương được toàn diện hơn. Đồng thời, sự nghiên cứu này cũng góp phần củng cố và làm rõ hơn các lí thuyết ngôn ngữ. Đây là một hướng nghiên cứu thu hút được sự quan tâm rộng khắp của giới nghiên cứu. Địa hạt mà ngôn ngữ học hướng tới nghiên cứu trong văn học rất đa dạng không giới
  • 10. 2 hạn ở một loại hình hay loại thể nào. Việc nghiên cứu về ngữ nghĩa của từ vẫn còn được tiếp tục như một xu hướng tất yếu của khoa học nghiên cứu ngôn ngữ. Ngôn ngữ trong văn chương nghệ thuật có những nét đặc trưng riêng, là thứ ngôn ngữ đã được khúc xạ qua lăng kính của người sáng tác. Hơn nữa, văn chương cũng luôn gắn liền với một bối cảnh văn hóa nhất định, có những khi từ ngữ trong đó đã vượt ra khỏi ngữ nghĩa thông thường để trở thành phương tiện tạo nghĩa biểu trưng. Việc nghiên cứu ngôn ngữ trong phạm vi văn chương trong tương quan với văn hóa là một hướng nghiên cứu cơ bản hiện nay. Đây được xem là hướng nghiên cứu khá độc đáo và mang lại cho người đọc những tri thức mang tính đa chiều. Nghiên cứu theo phương thức này sẽ cho ta thấy được mối liên hệ mật thiết giữa ngôn ngữ và văn hóa, ngôn ngữ và tư duy đã được khẳng định từ lâu. 1.4. Nghiên cứu ngữ nghĩa của từ trong văn học dân gian mà cụ thể trong phạm vi đề tài này là loại hình ca dao tình yêu của người Việt cũng là một trong những hướng nghiên cứu dùng lí thuyết ngôn ngữ để giải mã văn học. Nghiên cứu vấn đề này, chúng tôi đi sâu phân tích những đặc điểm ngữ nghĩa của các từ ngữ thuộc một số trường nghĩa tiêu biểu trong ca dao tình yêu. Cụ thể trong phạm vi nghiên cứu của luận án, chúng tôi tập trung làm rõ phân tích các nghĩa chuyển, sự chuyển trường cũng như nghĩa biểu trưng của các từ ngữ tiêu biểu thuộc hai trường nghĩa “thực vật” và “vật thể nhân tạo” trong ca dao tình yêu người Việt. Qua đó góp phần tìm hiểu sâu hơn về ca dao tình yêu cũng như làm nổi bật những đặc điểm trong tư duy văn hóa của người Việt xưa. Để chiếm lĩnh được nội dung, ý nghĩa của các lời ca dao tình yêu cũng như để khám phá được nét độc đáo, tinh tế trong tâm hồn, những nét đặc trưng trong văn hóa và tư duy của người Việt xưa người đọc cần có một hệ tri thức phong phú và đa dạng. Trước hết người đọc cần nắm được đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ, sự chuyển nghĩa, chuyển trường cũng như nghĩa biểu trưng của chúng. Điều này, theo chúng tôi, vừa có ý nghĩa về mặt lí luận (góp thêm tiếng nói minh chứng cho hướng nghiên cứu mới trong ngôn ngữ đang được các nhà ngôn ngữ học chú ý – mối liên hệ giữa ngôn ngữ và văn học), vừa có ý nghĩa về mặt thực tiễn (giúp cho những người quan tâm đến từ vựng tiếng Việt, đặc biệt là những sinh viên nghiên cứu về ngôn ngữ có được cái nhìn toàn diện hơn về bức tranh ngôn ngữ của người Việt trên bình diện nghĩa của từ).
  • 11. 3 Với những ý nghĩa trên, chúng tôi đã lựa chọn vấn đề Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt làm đề tài nghiên cứu của mình. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của đề tài là tập trung tìm hiểu nghĩa chuyển, ý nghĩa biểu trưng, cơ chế tạo nghĩa biểu trưng của từ ngữ ở trường nghĩa chỉ thực vật và vật thể nhân tạo trong ca dao tình yêu người Việt. Qua đó, luận án sẽ chỉ ra những nét đặc trưng trong bức tranh ngữ nghĩa của từ ngữ và những đặc trưng tư duy của người Việt xưa về tình yêu trong ca dao tình yêu người Việt. Đồng thời, luận án cũng muốn làm rõ những điểm tương đồng và sự phái sinh của các nghĩa biểu trưng mà từ ngữ trong hai trường nghĩa tiêu biểu mang lại trên cơ sở các nghĩa biểu trưng được khái quát trong Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Luận án sẽ thực hiện những nhiệm vụ sau: - Tổng quan vấn đề nghiên cứu, xây dựng những cơ sở lí luận có liên quan đến đề tài luận án như các nghiên cứu về nghĩa của từ, sự chuyển nghĩa, trường nghĩa, trường nghĩa “thực vật”, trường nghĩa “vật thể nhân tạo” và các nghiên cứu về nghĩa biểu trưng. - Thống kê, xác lập được hệ thống các tiểu trường, các nhóm từ thuộc hai trường nghĩa chỉ “thực vật” và “vật thể nhân tạo”. - Phân tích ngữ nghĩa của từ, sự chuyển trường của từ cũng như nghĩa biểu trưng của các từ ngữ chỉ “thực vật” và “vật thể nhân tạo” tiêu biểu trong ca dao tình yêu người Việt. - Chỉ ra được đặc trưng văn hóa của dân tộc trong việc sử dụng từ ngữ chỉ thực vật, vật thể nhân tạo để biểu trưng cho một số vấn đề trong ca dao tình yêu. Trên cơ sở các nghĩa biểu trưng được nêu trong Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, chúng tôi soi chiếu vào hệ thống các nghĩa biểu trưng có được trong CDTY người Việt. Qua đó, làm rõ điểm tương đồng cũng như sự phái sinh các nghĩa biểu trưng trên cơ sở các mẫu gốc. Đồng thời, các kết quả sẽ góp phần khẳng định về mối quan hệ giữa ngôn ngữ, tư duy và văn hóa của dân tộc Việt Nam.
  • 12. 4 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Với số lượng khảo sát là 6102 lời CDTY trên tổng số 11821 lời ca dao trong Kho tàng ca dao người Việt, chúng tôi tập trung nghiên cứu ngữ nghĩa của từ ngữ thuộc hai trường nghĩa “thực vật” (là đại diện điển hình cho nhóm từ ngữ chỉ thế giới tự nhiên) và trường nghĩa chỉ “vật thể nhân tạo”. Các từ ngữ chỉ thế giới tự nhiên vô cùng phong phú. Trong đó, các từ ngữ chỉ TV là nhiều nhất nên chúng tôi chọn để nghiên cứu như một đại diện của các từ ngữ chỉ giới tự nhiên được đặt trong tương quan với các từ ngữ chỉ VTNT. Vấn đề nghiên cứu của đề tài là ngữ nghĩa của từ ngữ chỉ TV và VTNT trong CDTY người Việt. Ngữ nghĩa của từ ngữ là một phạm trù rất rộng với nhiều vấn đề khác nhau. Tuy nhiên, các từ trong CDTY được dùng nhiều với nghĩa chuyển, những ý nghĩa ấy đã vượt qua khỏi giới hạn nghĩa thông thường để biểu trưng cho những ý nghĩa nào đó trong tương quan với văn hóa của đời sống xã hội. Luận án không hệ thống hóa các loại ngữ vì nó quá phong phú. Trong quá trình phân tích ngữ nghĩa của từ, chúng tôi luôn đặt từ trong các ngữ để làm rõ nghĩa của chúng. Cũng trong các ngữ, từ mới thể hiện được hết các ý nghĩa. Trọng tâm của luận án là tìm hiểu về sự CN, YNBT của các từ chỉ “thực vật” và “vật thể nhân tạo” được đặt trong mối quan hệ với các từ khác trong các ngữ với hi vọng làm rõ một phương diện ngữ nghĩa của từ ngữ trong CDTY người Việt. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Ngữ liệu được chọn nghiên cứu là các lời CDTY trong Kho tàng ca dao người Việt (do Nguyễn Xuân Kính, Phan Đăng Nhật làm chủ biên), NXB Khoa học xã hội năm 1998. Sự khảo sát và phân tích sẽ tập trung vào các từ ngữ chỉ các loại thực vật, vật thể nhân tạo xuất hiện trong CDTY người Việt. 4. Phương pháp nghiên cứu Trong luận án, chúng tôi chủ yếu sử dụng một số phương pháp và thủ pháp nghiên cứu sau: 4.1. Phương pháp miêu tả Đây là phương pháp chính để giải quyết các vấn đề của luận án. Từ những nguồn ngữ liệu đã thu thập, chúng tôi tiến hành phân tích miêu tả đặc điểm ngữ nghĩa và nghĩa biểu trưng của các từ ngữ tiêu biểu thuộc trường nghĩa “TV” và “VTNT” trong CDTY người Việt.
  • 13. 5 4.2. Phương pháp phân tích ngữ nghĩa Phương pháp phân tích ngữ nghĩa là phương pháp dùng để phân tích mối quan hệ bình diện hệ thống – cấu trúc và bình diện hoạt động, chỉ ra sự khác biệt giữa nghĩa bản thể và nghĩa liên hội, nghĩa sự vật – logic và nghĩa biểu trưng, sự biến đổi ý nghĩa theo cả trục đồng đại và lịch đại. Khi xem xét nghĩa biểu trưng trong CDTY cần so sánh đối chiếu các yếu tố trên trục hệ hình để thấy rõ hướng nghĩa biểu trưng của từng nhóm từ ngữ dựa trên những đặc điểm tương đồng và khác biệt. 4.3. Thủ pháp phân tích ngữ cảnh Đây là thủ pháp nhằm chỉ ra ngữ cảnh của một hiện tượng ngôn ngữ. Xem xét từ ngữ trong ca dao tình yêu cần quan tâm đến các yếu tố ngôn ngữ nằm trong văn bản mà từ ngữ được xét. Đó là các yếu tố thuộc về ngôn cảnh tình huống. Ngôn cảnh tình huống là thế giới xã hội và tâm lí mà trong đó, ở một thời điểm nhất định người ta sử dụng ngôn ngữ. Đồng thời, khi xem xét đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ cũng cần chú ý đến ngữ cảnh văn hóa. Đó là những tiền ước và tri thức nền. Tiền ước chính là những hiểu biết chung về lịch sử, văn hóa, tập quán,… mà người giao tiếp cần có được. Tri thức nền là sự hiểu biết và khả năng cảm nhận các hiện tượng văn hóa của cả hai bên giao tiếp. Nó được coi là yếu tố không lời của quá trình giao tiếp, chúng quện vào nhau trong văn bản của một tác phẩm ngôn ngữ. Khi phân tích ngữ nghĩa của từ ngữ trong CDTY, chúng tôi xem xét đến cả ngữ cảnh tình huống và ngữ cảnh văn hóa. Bởi nghĩa của từ đặc biệt là nghĩa biểu trưng chịu sự chi phối rất lớn của ngữ cảnh. 4.4. Thủ pháp thống kê Thủ pháp này nhằm xác định số lượng lời và lượt cũng như và tỉ lệ các từ trong mỗi trường nghĩa, từ đó có thể xác lập được các tiểu trường trong các trường nghĩa. Bên cạnh đó, thủ pháp này còn dùng để thống kê các từ ngữ được dùng với nghĩa gốc, nghĩa chuyển, để từ đó xác lập YNBT và mối quan hệ với các loại ý nghĩa đó. Ngoài các phương pháp kể trên, chúng tôi còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu ngôn ngữ học khác như phương pháp nghiên cứu trường hợp, phương pháp phân tích thành tố nghĩa…
  • 14. 6 5. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn 5.1. Ý nghĩa lí luận Với đề tài này, chúng tôi cho rằng kết quả đạt được sẽ góp phần làm sâu sắc hơn về tính hệ thống cấu trúc, tính tầng bậc và tính giao thoa trong ngôn ngữ. Do đó, luận án góp phần vào việc nghiên cứu lí thuyết về trường nghĩa, nghĩa chuyển, chuyển trường, mối quan hệ giữa nghĩa của từ và YNBT, những giá trị văn hóa trong tiếng Việt. Đồng thời giúp cho những nghiên cứu tiếp theo có thêm những cơ sở lý thuyết và thực tiễn trong việc đi sâu hơn nghiên cứu trường nghĩa nói riêng và ngữ nghĩa của từ tiếng Việt nói chung cũng như mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa. 5.2. Ý nghĩa thực tiễn Kết quả nghiên cứu mà luận án mang lại có thể sử dụng như một tài liệu phục vụ cho việc học tập, nghiên cứu và giảng dạy ngôn ngữ và văn học trong nhà trường. Những kết quả nghiên cứu của luận án góp phần làm rõ thêm một đường hướng nghiên cứu văn học từ góc độ ngôn ngữ. Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng cung cấp cho người làm công tác giảng dạy thêm một công cụ chiếm lĩnh văn chương từ phương diện ngôn ngữ. Đồng thời, những kết quả này còn được sử dụng để nghiên cứu về văn hóa cũng như làm sáng rõ các đặc trưng văn hóa của người Việt xưa trong sự nhận thức về tình yêu và cuộc sống. Các kết quả nghiên cứu có thể phục vụ cho việc biên soạn từ điển về nghĩa biểu trưng trong kho tàng ca dao Việt Nam. 6. Những đóng góp mới của luận án - Luận án đã hệ thống hóa được các nhóm từ cơ bản, điển hình trong CDTY người Việt. Từ đó, sẽ cho người đọc thấy được một bức tranh khái quát về hệ thống các từ ngữ trong loại hình CDTY của người Việt. - Luận án cũng xác lập và phân tích được nghĩa gốc, nghĩa chuyển, chỉ ra được cơ chế CN của các từ ngữ tiêu biểu mang tính đại diện cho hệ thống các từ ngữ trong CDTY người Việt. - Trên cơ sở phân tích đặc điểm nghĩa của từ về các phương diện nghĩa gốc, nghĩa chuyển, luận án cũng chỉ ra được cơ chế tạo nghĩa biểu trưng, YNBT của các từ ngữ tiêu biểu trong nhóm từ chỉ TV và VTNT. Những phân tích này cũng góp phần làm rõ mối quan hệ giữa ngôn ngữ - văn hóa và tư duy.
  • 15. 7 7. Bố cục luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận án gồm 3 chương. Chương 1: Tổng quan về tình hình nghiên cứu và cơ sở lí thuyết Chương 2: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ chỉ thực vật trong ca dao tình yêu người Việt Chương 3: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ chỉ vật thể nhân tạo trong ca dao tình yêu người Việt
  • 16. 8 CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ THUYẾT Dẫn nhập Nghĩa của từ và sự chuyển biến ý nghĩa của từ là một trong các vấn đề cơ bản của ngôn ngữ học. Trong chương này, luận án sẽ điểm lại các xu hướng cũng như các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài, từ đó xác định cơ sở lí luận có tính đường hướng cho đề tài. 1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu 1.1.1. Tình hình nghiên cứu về từ và nghĩa của từ 1.1.1.1. Tình hình nghiên cứu về từ và nghĩa của từ trên thế giới Có thể nói rằng từ, nghĩa của từ từ lâu đã trở thành vấn đề trọng tâm của ngôn ngữ học nói chung và ngữ nghĩa học nói riêng. Từ và nghĩa của từ chính là một bộ phận quan trọng của ngữ nghĩa học. Ngữ nghĩa học với tư cách là một bộ môn khoa học độc lập được hình thành vào khoảng cuối thế kỉ XIX được đánh dấu bằng công trình của M. Bréal – Essai de Sémantique (1877). Nhưng có thể thấy rằng, sự quan tâm đến nghĩa của ngôn ngữ không phải chỉ đến cuối thế kỉ XIX mới xuất hiện mà được bắt đầu từ rất sớm và kéo dài từ thời kì cổ đại cho đến nay với nhiều xu hướng Trong thời kì Cổ Trung đại, từ cũng như ý nghĩa của từ đã trở thành một vấn đề được quan tâm đặc biệt. Trong thời kì cổ đại, ngôn ngữ học, trong đó có vấn đề về nghĩa khá phát triển ở Ấn Độ và các nhà khoa học châu Âu: Platon (429 – 347), Aristole (384 – 322 trước CN) qua các công trình như Giải thích (On Interpretation), Tu từ học (Rhetoric), Thi học (Poetics). Các cuộc tranh luận về sự tương ứng giữa tên gọi với sự vật được biểu thị kéo dài từ thời kì cổ đại đến thời kì trung đại. Giai đoạn tiếp theo chính là thời kì Phục hưng, sự phát triển mối quan tâm về nghĩa tiếp tục trong các tác phẩm thời kì này, đặc biệt là trong thế kỉ Ánh sáng. Một bước ngoặt quan trọng trong ngôn ngữ học thế kỉ XIX là sự khẳng định và phát triển của khuynh hướng so sánh - lịch sử,... Từ giữa thế kỉ XX cho đến nay, việc nghiên cứu ngữ nghĩa của từ ngữ vẫn diễn ra sôi nổi. Sự tranh chấp giữa việc ủng hộ và phản đối nghiên cứu nghĩa của ngôn ngữ đã nghiêng về việc ủng hộ.
  • 17. 9 Nghiên cứu về nghĩa của từ trải qua nhiều giai đoạn khác nhau gắn liền với nhiều xu hướng và trường phái. Từ góc độ ngôn ngữ học cấu trúc, tác giả Lê Quang Thiêm cho rằng vấn đề và sự phát triển nghĩa của từ được chia thành ba thời kì chính gắn liền với tên tuổi của các tác giả lớn cùng với những thành tựu nghiên cứu của họ. Đó là thời kì tiền cấu trúc luận, thời kì cấu trúc luận và thời kì hậu cấu trúc luận. Thời kì tiền cấu trúc luận, theo tác giả Lê Quang Thiêm, tác giả người Pháp Michel Bréal với công trình Essai de Sesmantique (Science des significations) xuất bản năm 1877 được xem là người đi tiên phong trong nghiên cứu bộ môn khoa học này. Nghiên cứu nghĩa của từ trong giai đoạn này chủ yếu được tiến hành nhằm mục đích phát hiện ra các quy luật biến đổi nghĩa của từ, trước hết từ góc độ thời gian lịch sử. Năm 1825, cuốn “Semasiology” (ngữ nghĩa học) được ra đời ở Đức, đó là cuốn sách tập hợp các bài nghiên cứu của tác giả Reizig Berary về ngữ nghĩa. Bên cạnh đó, ngữ nghĩa giai đoạn này cũng gắn với tên tuổi nhiều nhà nghiên cứu tên tuổi như: Agathon Benary, Karl Reisig, Oskar Hey, Friedrich Haase, …. Nghiên cứu của họ chủ yếu tập trung vào vấn đề thay đổi nghĩa, những nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi nghĩa trên quan điểm lịch sử [113, 14]. Đặc biệt, tác giả Reisig trong công trình của mình nghiên cứu về tiếng Latinh (1839) đã cho rằng đối tượng của khoa học mà ông gọi là Semansiology cần phải là những quy luật biến đổi nghĩa của từ. Có thể nói, giai đoạn này trong nghiên cứu nghĩa của từ là giai đoạn nghiên cứu các quy luật biến đổi nghĩa từ vựng. Tác giả đặt nền móng cho ngữ nghĩa học là nhà ngôn ngữ học người Anh Benjamin Humphrey Smart. Ông được xem là người có đóng góp to lớn tới khoa học ngữ nghĩa với một số bài nghiên cứu về khoa học này. Năm 1850, tác giả Horne Tooke đã xuất bản cuốn sách “Metaphisical Etymology”. Và tác giả đã dùng từ Semasiology đặt tên cho bộ môn này. Nghiên cứu về nghĩa và sự CN giai đoạn này cũng gắn liền với nhiều tác giả như: Ch. Ogden, V. Lady Welly, I. Richard, Peirce,… Các tác giả đã lí giải cặn kẽ về nghĩa cũng như sự thay đổi nghĩa theo quan điểm lịch sử. Đồng thời, họ cũng phân tích sâu hơn và đưa ra các luận giải về các bình diện TH học [113, 14]. Cạnh đó, một trong những đóng góp lớn cho việc hình thành ngữ nghĩa học trong thời gian này là công trình của V.F. Humboldt (1767 – 1835). Dưới cách nhìn mới, V.F. Humboldt đặt lại vấn đề về mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tư duy. Tư
  • 18. 10 tưởng này của V.F. Humboldt được mở ra tiếp tục trong các giả thuyết của Sapir – Whorf (The Sapir – Whorf Hypothesis) và nhiều trường phái hậu V.F. Humboldt ở thế kỉ XX. Thế giới quan thể hiện trong cấu trúc ngôn ngữ được gọi là bức tranh ngôn ngữ về thế giới. Quan niệm bức tranh ngôn ngữ về thế giới của V.F.Humboldt và những người kế tục tiếp tục trở thành một trong những nhiệm vụ quan trọng của miêu tả ngữ nghĩa học cuối thế kỉ XX. Ngôn ngữ học cấu trúc đánh dấu sự trở lại vào những năm 20 của thế kỉ XX với cuốn Giáo trình ngôn ngữ học đại cương của F. de Saussure (1916). Giai đoạn này có rất nhiều các công trình nghiên cứu nổi tiếng của giả G. Stern, S. Uilimann, A. Schaff… Nghiên cứu ngữ nghĩa đánh một dấu mốc quan trọng xác lập vị trí của mình với các công trình của Bloomfield và Chomsky. Hai tác giả này đã tạo nên ảnh hưởng quan trọng trong khuôn mẫu ở một ngôn ngữ học không cần ý nghĩa. Thời kì này, ngữ nghĩa còn đi cùng với tâm lí thực nghiệm và logic toán. Nghiên cứu ngữ nghĩa gắn liền với các nhà nghiên cứu như: A. Taski, B. Russell. G. Frege, R. Montague [113, 15]. Thời kì tiền cấu trúc luận và cấu trúc luận, các nghiên cứu đa số đều tập trung vào vấn đề ngữ nghĩa và sự biến đổi ngữ nghĩa. Các nghiên cứu thời kì này xem xét ngữ nghĩa của từ tách rời, biệt lập, không chú ý đến văn cảnh, ngữ cảnh. Dù ra đời sau, với cái nhìn toàn diện và tích cực hơn về nghĩa của từ trong cấu trúc hệ thống song các luận điểm mà họ đưa ra lại chịu nhiều ảnh hưởng của cấu trúc luận thuần túy trong khi đó hoạt động hành chức lại là nhân tố đáng chú trọng. Cho đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu của các nhà ngôn ngữ học trên thế giới bàn về sự phát triển ngữ nghĩa của từ. Trước hết, phải kể đến tác giả người Anh Aitchison với cuốn Language change: Progress or Decay? [138] và tác giả Crowley với cuốn An Introduction to Historical Linguistics [1402], ngoài ra còn có công trình nghiên cứu An Introduction to Language [155] của tác giả Fromkin… Qua các nghiên cứu này, các tác giả đặc biệt quan tâm đến sự phát triển CN của từ dưới ảnh hưởng của tâm lí xã hội. Tác giả Lê Thị Thanh Tâm trong luận án của mình [105] đã chỉ ra rằng việc nghiên cứu sự phát triển nghĩa của từ của các nhà ngôn ngữ học nước ngoài có thể tạm chia làm ba khuynh hướng chính:
  • 19. 11 Thứ nhất là nghiên cứu theo logic học mà Paul là người khởi xướng với bảng phân loại logic học các hiện tượng phát triển nghĩa, trong đó chú ý so sánh nội dung khái niệm trước và sau khi biến đổi, đồng thời nêu lên mối quan hệ logic giữa chúng; Thứ hai là nghiên cứu theo tâm lí học mà đại diện là Wundt với sự giải thích hiện tượng phát triển nghĩa căn cứ vào đặc trưng tâm lí với phương châm “việc nghiên cứu sự CN cuối cùng phải vĩnh viễn quy thành nghiên cứu tâm lí”; Thứ ba là khuynh hướng nghiên cứu theo lịch sử do Wellander đứng đầu với quan niệm: “sự CN là một quá trình lịch sử, chỉ khi nào nó được chứng thực trong thực tế trưởng thành của nó, quá trình này mới được trưởng thành một cách vừa ý”. Các nhà nghiên cứu theo khuynh hướng này đã trả lời câu hỏi ý nghĩa của từ đã nảy sinh như thế nào trong lịch sử. Họ cho rằng kết quả của quá trình CN được bảo lưu trong ý nghĩa mới của từ [dt 105, 3]. Nguyên nhân chủ yếu của hiện tượng CN theo các nhà nghiên cứu này là do sự biến đổi lịch sử xã hội. Theo đó, tìm nghĩa mới của từ ở những giai đoạn khác nhau của lịch sử là cách mà các tác giả thực hiện “sự chuyển hóa ý nghĩa là một quá trình lịch sử, chỉ khi nào nó được chứng thực trong quá trình thực tế trưởng thành của nó, quá trình này mới được trưởng thành một cách vừa ý” [dt 105, tr.5]. Các tác giả cũng đưa ra các nhận định khác nhau về các hình thức phát triển nghĩa của từ. Tuy nhiên, theo nhiều nhà nghiên cứu ngôn ngữ, đại diện là nhà ngôn ngữ học Crowley trong quyển An Introduction to Historical Linguistics cho rằng: có bốn hình thức phát triển nghĩa: Mở rộng (broadening), thu hẹp (narrowing), chia nhánh (bifurcation), và chuyển đổi (shift) trong tiếng Anh [142, 149]. Trong lịch sử ngôn ngữ học, các nhà nghiên cứu cố gắng tập hợp và hệ thống hóa những nguyên nhân ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến sự phát triển nghĩa của từ. Theo Aitchison, có hai nguyên nhân chính: “nguyên nhân chủ quan (do đặc điểm thuộc về bản chất của ngôn ngữ và tâm lí của người sử dụng) và nguyên nhân khách quan (yếu tố xã hội)” [138, 106]. F. de Sausure nhấn mạnh: “phong tục của một dân tộc có tác động mạnh đến ngôn ngữ và mặt khác, trong chừng mực khá quan trọng, chính ngôn ngữ làm nên dân tộc” [151, 106]. Theo đó, nhiều nhà ngôn ngữ sau này cùng có quan điểm
  • 20. 12 với Saussure và Aitchison. Ngược lại, Fromkin và một số tác giả khác trong cuốn An Introduction to Language cho rằng: “có hai nguyên nhân chính cho hiện tượng này là do sự tái cấu trúc ngôn ngữ trong quá trình học tiếng của trẻ và sự thay đổi tâm sinh lí của người học qua nhiều thế hệ” [153, 366]. Không đồng quan điểm trên, Lyons cho rằng sự thay đổi xã hội là nguyên nhân chủ yếu của thay đổi trong ngôn ngữ [156, 213]. Tác giả Lê Quang Thiêm [114] đã tổng hợp về các vấn đề nghiên cứu về nghĩa của từ trên thế giới. Tác giả chỉ ra rằng trong lịch sử ngữ nghĩa học từ khi ra đời, kể từ khi M. Bréal đến nay, sự chuyển biến nghĩa của từ vẫn là một chủ đề quan trọng được nhiều tác giả nghiên cứu. Có thể kể ra một vài quan niệm về vấn đề này như: quan niệm của G. Stern, của S. Ullmann. Trong tác phẩm Nghĩa và sự biến đổi nghĩa (Meaning of Meaning) với quan niệm “chúng ta có thể nghiên cứu nghĩa với sự thừa nhận nội dung tư tưởng của nó và những yếu tố khác nhau tạo thành nội dung của nghĩa”. Stern cũng đã chia ra 7 lớp hạng biến đổi nghĩa, 5 nguyên nhân và điều kiện biến đổi nghĩa. Các lớp hạng biến đổi nghĩa bao gồm: 1. Sự thay thế (subsitution), 2. Sự loại suy (analogy), 3. Rút ngắn (shortening), 4. Định danh (nomination), 5. Chuyển đổi (transfer – regular), 6. Sự đổi trật tự (permutation), 7. Sự tương xứng (adequation). Tác giả cũng cho rằng trong 7 lớp trên thì có 1 lớp thuộc về ngoài ngôn ngữ (external). Còn 6 lớp còn lại là trong ngôn ngữ (internal), ở đó sự CN xảy ra do hoạt động nói năng, nó được hình thành như một sản phẩm của sự tổng hợp lời nói. Trong 6 nguyên nhân và điều kiện CN, tác giả cũng phân biệt nguyên nhân ngôn ngữ, nguyên nhân phi ngôn ngữ, nguyên nhân tâm lí xã hội. Tròn 20 năm sau công trình của Stern, chúng ta bắt gặp một quan niệm của một tác giả ngữ nghĩa học khá quen thuộc: Stephen Ulmannn trong tác phẩm “Những nguyên lí của ngữ nghĩa học” (1951). Trong tác phẩm, ông đã nêu ra các nhân tố và nguyên nhân của sự chuyển biến ý nghĩa. Theo Ulmann, đó là 6 nhân tố sau: cách gián đoạn di truyền (discontinuous) từ thế hệ này qua thế hệ khác, 2. Sự mơ hồ trong ý nghĩa (vagueness), 3. Mất nguồn đối (loss of motivation), 4. Tồn tại đa nghĩa – một yếu tố linh hoạt (flexibility) trong ngôn ngữ, 5. Văn cảnh tối nghĩa (ambiguous contexts) và 6. Nhân tố quan trọng nhất là cấu trúc của vốn từ (structure of the vocabulary). Ulmann nêu ra 4 nguyên nhân chính và các tiểu nguyên nhân ở trong đó. Cuối cùng, tác giả cũng chỉ ra đặc điểm bản chất và hậu quả của sự chuyển biến ý nghĩa. Tác giả cũng phân tích về bản chất của sự CN [114]. Ngoài ra, chúng ta còn
  • 21. 13 bắt gặp cách phân loại sự thay đổi ý nghĩa của V. A. Zvegincev, Meillet, Sperber,… Cần nhấn mạnh một điều rằng, trong lịch sử nghiên cứu, nguyên nhân của sự CN có lúc này hoặc lúc khác nhấn mạnh tách rời hai nhân tố biểu cảm và hiệu quả. Thời kì ngữ nghĩa học mới ra đời (tạm gọi là thời tiền cấu trúc luận) thường nhấn mạnh vào nhân tố biểu cảm. Thời kì cấu trúc luận lại nhấn mạnh vào nhân tố hiệu quả. Một xu hướng khác trong nghiên cứu từ ngữ là nghiên cứu về vấn đề trường từ vựng – ngữ nghĩa, đó là một trong những lí thuyết ngôn ngữ hết sức quan trọng của ngôn ngữ học, được các nhà ngôn ngữ đề cập đến từ rất sớm. Lí thuyết này được ra đời trên cơ sở các luận điểm về ngôn ngữ học được hình thành từ trước đó. Công trình đầu tiên trên thế giới theo hướng này là Kho từ ngữ tiếng Anh (Thésaurus of English Words and Phrases) của P. A. Roget. Đây là công trình nói về cách tiếp cận nghĩa từ vựng ở trường – tầng nghĩa vĩ mô. Tiếp sau Roget, cũng ở Anh là hai tác giả C. K. Ogden và I. A. Richards. Hai tác giả có công trình Ngữ nghĩa học lớn trước đó đã tuyển chọn, tập hợp 1993 từ được gọi là từ cơ sở trong cuốn Tiếng Anh cơ sở vào năm 1928. Và nói đến trường nghĩa không thể không nói đến giả thuyết về “tính tương đối ngôn ngữ” do Sapir (1921) và Whorf (1956) khởi xướng. Sapir và Whorf đã làm sáng tỏ quan niệm coi ngôn ngữ là cái phản ánh tinh thần của một dân tộc nào đó. Mỗi ngôn ngữ có một hệ thống từ vựng riêng. Hệ thống từ vựng này phản ánh cách chia thực tế khách quan và phạm trù hóa hiện thực riêng của dân tộc ngay trong bản thân nghĩa của các từ. Năm 1986, nhà nghiên cứu M.Pokrovxkij đặt ra nhiệm vụ nghiên cứu từ vựng một cách hệ thống. Ông chia các trường trên cơ sở sử dụng đồng thời cả ba tiêu chí: 1. Nội dung (các từ có quan hệ với cùng “một phạm vi biểu tượng” theo lời của M.Pokrovxkij), 2. Sự đồng nhất, 3. Quan hệ hình thái học. Từ những năm 90 của thế kỉ XIX ông đã có sự phân chia trường dựa trên ba tiêu chí kể trên. Nhưng lí thuyết về trường ngữ nghĩa chỉ thực sự được nghiên cứu vào những năm 20 của thế kỉ thứ XX, bắt nguồn từ những lí thuyết ngôn ngữ học của V.F. Humboldt và F. de. Saussure. Các nhà ngôn ngữ khác như G. Ipsen (1924), A. Jolles (1934), W. Porzig (1934), Talmy (1981), Langacker (1987) và Lakoff (1987)… Đặc biệt I. Trier (1934) được coi là người mở ra một giai đoạn mới trong lịch sử ngữ nghĩa học. I. Trier là người đầu tiên sử dụng thuật ngữ
  • 22. 14 “trường nghĩa (semantic field)” trong ngôn ngữ học. Tác giả không dùng khái niệm trường ngữ nghĩa mà chỉ nói tới trường khái niệm và trường từ vựng. Lí thuyết trường nghĩa của ông thường được coi là trường đối vị (dọc). Theo đánh giá của tác giả Đỗ Hữu Châu thì những giá trị lí thuyết “trường” của Trier cũng chỉ dừng lại ở mức độ gợi ý. Điều này xuất phát từ nguyên nhân trong đó có việc Trier không phân biệt ý nghĩa với khái niệm, các lớp ý nghĩa, từ với khái niệm và quan niệm quá dứt khoát về ranh giới của trường khái niệm và các “vùng” khái niệm của từ với nhau. Đặc biệt là cách sử dụng các tư liệu cổ thiếu thận trọng để đối chiếu hai trạng thái khác nhau của cùng một trường khiến cho những kết luận của Trier dễ bị phản bác và phương pháp của ông không được vận dụng một cách có hiệu quả. Tuy nhiên, với những nghiên cứu của mình, Trier đã “mở ra một giai đoạn mới trong lịch sử ngữ nghĩa học”. Sau I. Trier, một số nhà ngôn ngữ khác như Weisgerber, John Lyons cũng đã có những quan niệm bổ sung cho lí thuyết trường. John Lyons trong cuốn Nhập môn ngôn ngữ học lí thuyết đã đưa ra được một định nghĩa về ý nghĩa của từ (sense) có phần khoa học hơn: “cái mà ta cho ta là ý nghĩa của một đơn vị từ vựng là toàn bộ tập hợp các quan hệ ý nghĩa giữa nó với các đơn vị khác trong từ vựng” [60, 672]. Trên cơ sở quan niệm này, Lyons đã miêu tả cấu trúc ngữ nghĩa của các từ trong hệ thống từ vựng bằng các quan hệ đồng nghĩa, trái nghĩa, đồng âm, đa nghĩa,… Một số nhà ngôn ngữ học sau này đã phân chia hệ thống từ vựng của một ngôn ngữ thành trường nghĩa ở nhiều cấp độ lớn nhỏ khác nhau dựa vào nét nghĩa phạm trù chung nhất đến các nét nghĩa phạm trù nhỏ hơn rồi các nét nghĩa loại, hạng và nét nghĩa riêng biệt. Nhìn chung, khi nghiên cứu về trường nghĩa, các nhà ngôn ngữ học đều dựa vào các quan hệ dọc của các đơn vị ngôn ngữ. W. Porzig – nhà ngôn ngữ học người Đức đã phát triển một ý tưởng lí thuyết trường nghĩa được các học giả khác gọi là trường cú pháp “In contrast with Trier’s theory, another German linguist Porzig developed a notion of semantic field which is called syntactic field by some scholars”. Cái cốt lõi của lí thuyết trường nghĩa cú pháp là các thành phần trong một ngữ đoạn không chỉ có mối quan hệ về ngữ pháp mà còn có quan hệ về ngữ nghĩa.
  • 23. 15 Những lí thuyết về trường nghĩa của J. Trier và W. Porzig là những lí thuyết cơ sở, nền tảng. Những lí thuyết này có những điểm đồng nhất và khác biệt nhất định. Kể từ khi công trình đầu tiên đề cập trực tiếp đến lí thuyết trường nghĩa của M. P. Roget ra đời đến nay đã trải qua một thế kỉ rưỡi. Nhưng hầu như những nghiên cứu về trường chỉ thuộc bình diện miêu tả đồng đại. 1.1.1.2. Tình hình nghiên cứu về từ và nghĩa của từ trong Việt ngữ học Trải qua ba thời kì là tiền cấu trúc luận, cấu trúc luận, hậu cấu trúc luận, việc nghiên cứu ngữ nghĩa của ngôn ngữ đã được các nhà nghiên cứu trên thế giới quan tâm từ cuối thế kỉ XIX đến nay. Ở Việt Nam từ năm 1954, từ vựng học đã trở thành vấn đề rất được quan tâm nghiên cứu, các giáo trình nghiên cứu về vấn đề này lần lượt ra đời như Từ vựng học tiếng Việt hiện đại và Từ và vốn từ tiếng Việt hiện đại của Nguyễn Văn Tu, Từ vựng – Ngữ nghĩa tiếng Việt, Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng,… của Đỗ Hữu Châu, Từ năm 1978 trở đi, một loạt các cuốn sách, các luận án phó tiến sĩ nghiên cứu về từ vựng tiếng Việt ra đời của các tác giả như: Nguyễn Thiện Giáp, Hoàng Văn Hành, Vũ Đức Nghiệu, Nguyễn Đức Tồn, Lê Quang Thiêm, Hà Quang Năng, Phạm Hùng Việt, Đỗ Việt Hùng,… Trên cơ sở kế thừa các thành tựu nghiên cứu của các nhà ngôn ngữ học trên thế giới, ở Việt Nam, vấn đề nghĩa của TH ngôn ngữ được rất nhiều các tác giả quan tâm. Tác giả Nguyễn Văn Tu trong cuốn Từ và vốn từ tiếng Việt hiện đại đã hệ thống các quan niệm khác nhau về nghĩa [125, 93 - 97]. Theo đó, tác giả đã chia các quan niệm khác nhau này theo 7 khuynh hướng chính (1) Nghĩa là đối tượng: Theo quan điểm này thì mối quan hệ giữa từ và đối tượng là rất khăng khít. Mỗi từ phải có một nghĩa và mỗi sự vật phải có một tên; (2) Nghĩa là biểu tượng: Nghĩa của từ không quan hệ trực tiếp với đối tượng mà chính là biểu tượng của nó. Nghĩa được coi một cách máy móc là tổng hợp những biểu niệm; (3) Nghĩa của từ là khái niệm; (4) Nghĩa của từ là quan hệ giữa TH và đối tượng; (5) Nghĩa là chức năng của TH – từ; (6) Nghĩa của từ là bất biến thể của thông tin; (7) Nghĩa là phản ánh hiện thực: Nghĩa của từ được coi là sự phản ánh của vật khách quan vào trong ý thức của người ta. Tác giả Đỗ Hữu Châu trong cuốn Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt đã khẳng định: “Cái gọi là nghĩa của từ không phải là một khối phân hóa mà được xem là một “vi hệ thống” chia thành nhiều lớp nghĩa. Thứ nhất là lớp nghĩa bao gồm những yếu tố cố định, chung cho mọi thành viên trong xã hội và đã đi vào mạng quan hệ ngữ nghĩa của từ
  • 24. 16 vựng tức là đã cấu trúc hóa. Lớp nghĩa này lại được chia thành nghĩa từ vựng và nghĩa ngữ pháp. Thứ hai là lớp nghĩa xã hội – tâm lí (còn gọi là nghĩa liên hội, nghĩa liên tưởng) là những nghĩa chưa cố định, mang tính chất lâm thời, cá nhân” [19, 96]. Tác giả Lê Quang Thiêm trong cuốn Sự phát triển nghĩa từ vựng tiếng Việt từ 1945 đến 2005 [114] đã phân tách hệ thống nghĩa của từ thành những bộ phận hợp thành có thứ bậc rõ ràng rồi tiến hành mô tả phân tích chúng một cách cụ thể. Theo đó, “nghĩa từ vựng của từ là một hệ thống, hệ thống này gồm hai kiểu: hệ thống nghĩa của từ một nghĩa, hệ thống nghĩa của từ đa nghĩa. Nghĩa (meaning) của từ là một tồn tại, nhưng không phải là đơn nhất mà có thể chia ra các bộ phận hợp thành là nét nghĩa (semantic feature), “khi nét nghĩa tham gia tạo thành hệ thống nghĩa thì nó là thành tố tạo lập nghĩa. Nét nghĩa kết hợp với nhau để tạo thành nghĩa như là một hệ thống. Cấp hệ này là hệ thống nghĩa của từ đơn nghĩa”. Trong hệ thống nghĩa của từ đa nghĩa thì “ngoài hệ thống của từng nghĩa riêng trong từ lại còn có hệ thống các nghĩa mà mỗi nghĩa là thành tố tạo thành hệ thống nghĩa của từ đa nghĩa”. Các nghĩa của một từ đa nghĩa tạo thành một cấp hệ cao hơn – tức là nghĩa là thành tố. Tác giả gọi cấp hệ này là hệ thống cấp 2 để phân biệt với hệ thống cấp 1 là hệ thống nghĩa của từ đơn nghĩa mà nét nghĩa là thành tố. Nét nghĩa chính là yếu tố cơ sở của nghĩa từ vựng. Như vậy nghĩa của từ và nét nghĩa là những thành tố của các cấp hệ khác nhau như tầng nghĩa, trường nghĩa. Tổ hợp nét nghĩa tạo thành nghĩa. Đây chính là điểm gặp gỡ trong tư tưởng của nhiều nhà nghiên cứu” [114, 11]. Như vậy, có thể thấy rằng xung quanh vấn đề nghĩa của từ còn khá nhiều quan niệm và các cách biện giải khác nhau. Do vậy, khi nghiên cứu nghĩa của từ cần phải có những quan điểm chung để có sự nhất quán trong việc xem xét và giải quyết vấn đề. Nói đến nghĩa của từ (thực từ) như một TH, trong ngôn ngữ học, thường người ta muốn nói đến mối liên hệ (quan hệ) tồn tại trong ý thức của chúng ta giữa TH – từ với cái mà nó biểu thị. Nếu mối liên hệ này là giữa vỏ ngữ âm của TH – từ với cái phản ánh của sự vật trong ý thức của chúng ta thì đó là nghĩa biểu niệm (nghĩa sở biểu – significative meaning). Nếu đây là mối liên hệ giữa một bên là vỏ ngữ âm và nghĩa biểu niệm (nghĩa sở biểu) với một bên là sự vật thì được gọi là nghĩa biểu vật (denotative meaning). Trong từ vựng ngữ nghĩa học, người ta thường chỉ bàn đến nghĩa biểu niệm và gọi tắt là nghĩa của từ.
  • 25. 17 Nghiên cứu ngữ nghĩa của từ, ở Việt Nam còn có một hướng nghiên cứu nữa, đó là nghiên cứu về sự phát triển ngữ nghĩa. Đó chính là kết quả của quá trình CN của từ. Đây là nguyên nhân dẫn đến hiện tượng nhiều nghĩa của từ. Theo chúng tôi, hầu hết các công trình nghiên cứu về sự phát triển nghĩa của từ đều bàn đến các nội dung như: hướng CN, nguyên nhân CN, các phương thức phát triển nghĩa, mối quan hệ giữa nghĩa cũ và nghĩa mới. Cho đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu của các nhà ngôn ngữ học trên thế giới bàn về sự phát triển ngữ nghĩa của từ. Ở Việt Nam, xu hướng này đang phát triển mạnh mẽ và trở thành nhiều đề tài trong các công trình khoa học. Ở trong nước cũng có rất nhiều nhà khoa học nghiên cứu về sự phát triển nghĩa của từ. Tác giả Nguyễn Thiện Giáp trong cuốn Giáo trình ngôn ngữ học [36] và Từ vựng học tiếng Việt [38] đã trình bày khá chi tiết về hiện tượng phát triển ngữ nghĩa của từ, ông gọi đó là hiện tượng chuyển đổi nghĩa của từ. Tác giả đã trình bày cụ thể và chi tiết về sự phát triển nghĩa của từ ở các nội dung: nguyên nhân của sự CN, các hướng CN, kết quả của sự CN. Ở Việt Nam có thể kể đến các công trình nghiên cứu về vấn đề sự phát triển ngữ nghĩa như [9], [52], [53],… Ở Việt Nam, khi nghiên cứu về sự phát triển nghĩa của từ, các tác giả thường chú ý đến các vấn đề sau: Thứ nhất là: Khi nghiên cứu về sự phát triển nghĩa của từ trong các ngôn ngữ, các nhà ngôn ngữ học trong và ngoài nước đặc biệt chú ý tới các phương thức CN của từ. Đại đa số các nhà ngôn ngữ đều chỉ ra rằng có hai phương thức CN dựa trên quan hệ liên tưởng tương đồng và liên tưởng tương cận đó là phương thức CN ẩn dụ và phương thức CN hoán dụ. Thứ hai là: Khi bàn về sự phát triển nghĩa của từ, các nhà khoa học cũng đề cập đến vấn đề nguyên nhân của sự phát triển nghĩa. Ở Việt Nam, tác giả Đỗ Hữu Châu cho rằng sự phát triển nghĩa của từ tiếng Việt là do nguyên nhân đơn giản nhằm đáp ứng nhu cầu tạo thêm từ mới, giải quyết mâu thuẫn giữa một bên là tính vô hạn của sự vật hiện tượng trong thực tế khách quan với một bên là tính hữu hạn của các yếu tố ngôn ngữ [19, 98]. Tác giả Đỗ Hữu Châu đã bàn đến vấn đề “động lực thúc đẩy sự CN”. Ông có đề cập đến một số trường hợp như: 1. Do bản thân sự thay đổi của sự vật hiện tượng được gọi tên làm cho từ phải thay đổi cấu trúc khái niệm; 2. Do sự kiêng kị cũng khiến nghĩa của từ biến đổi. Song
  • 26. 18 theo tác giả, động lực chủ yếu thúc đẩy sự chuyển đổi ý nghĩa vẫn là những nhu cầu do giao tiếp đặt ra, có nhu cầu về mặt trí tuệ, có nhu cầu về mặt tu từ. Tác giả Nguyễn Thiện Giáp lại cho rằng CN do nhiều nguyên nhân khác nhau: “do hiện tượng kiêng kị, do muốn diễn đạt bóng bẩy, hoặc muốn giữ bí mật trong một nhóm người nào đó” [36, 221]. Trong nội dung này, tác giả cũng nhấn mạnh: yếu tố tâm lí xã hội có ảnh hưởng không nhỏ đến việc thay đổi môi trường của các từ [38, 223]. Tác giả Đỗ Việt Hùng khẳng định: “ngoài nguyên nhân đáp ứng nhu cầu gọi tên, sự CN của từ còn xuất phát từ nguyên nhân người nói muốn làm mới cách diễn đạt của mình” [57, 66]. Sự chuyển biến ý nghĩa của từ thường mang đến những điều độc đáo, nhất là trong ngôn ngữ văn chương. Năm 1990, tác giả Đỗ Hữu Châu đã đề cập đến vấn đề này với việc nghiên cứu văn học từ góc độ ngôn ngữ. Theo đó, ngôn ngữ tự nhiên chưa thực sự là ngôn ngữ của văn học. Giữa ngôn ngữ tự nhiên và tác phẩm văn học có một phương tiện chuyển tiếp đó là các THTM. Hai mặt cái biểu đạt và cái được biểu đạt của ngôn ngữ tự nhiên đã trở thành cái biểu đạt của THTM. Hay nói cách khác, cái ngôn ngữ tự nhiên là ngôn ngữ chất liệu (thuộc bình diện bề mặt) của ngôn ngữ thực sự của văn học – THTM (ngôn ngữ bề sâu). Và sự CN tất yếu đã xuất hiện ở đây. Đỗ Hữu Châu cũng khẳng định rằng, THTM có tính có lí do bởi chúng được tạo ra theo một trong hai cách: ẩn dụ hoặc hoán dụ. Chính cơ chế ấy giúp giải thích tại sao THTM ấy lại được biểu đạt bằng hình thức ấy. Đồng thời, khi những THTM có tính ổn định thì ở đó dần hình thành các nghĩa biểu trưng nhất định. Quan điểm đó sau này được rất nhiều nhà nghiên cứu như: Bùi Minh Toán, Nguyễn Thị Ngân Hoa,… đề cập đến. Hiện nay, trong nghiên cứu ngữ nghĩa, còn xuất hiện xu hướng so sánh nghĩa chuyển trong các ngôn ngữ khác nhau. Ở Việt Nam, trước hết phải kể đến tác giả Lê Quang Thiêm, ông đã tiến hành đối chiếu giữa tiếng Bungari và tiếng Việt. Sau này, có hàng loạt các luận án tiến sĩ nghiên cứu về vấn đề đối chiếu từ ngữ nói chung và sự CN của từ nói riêng giữa các ngôn ngữ: Nguyễn Thúy Khanh, Đặng Đức Hoàng,… Khi nghiên cứu về sự phát triển ngữ nghĩa của từ vựng, hầu hết các nhà nghiên cứu đều cố gắng tìm hiểu, lí giải cách thức, con đường CN trong mỗi ngôn ngữ. Các
  • 27. 19 nhà nghiên cứu cho rằng mỗi ngôn ngữ có con đường CN riêng dựa trên sự liên tưởng khác nhau. Sự liên tưởng khác nhau ấy là do sự chi phối của nền văn hóa dân tộc. Điều này rất đúng, bởi ngôn ngữ - văn hóa – tư duy có mối quan hệ hết sức chặt chẽ. Vì vậy, hiện tượng CN của từ, một hiện tượng thể hiện rõ nét đặc trưng văn hóa dân tộc là vấn đề đang được nhiều nhà ngôn ngữ học quan tâm nghiên cứu. Việc nghiên cứu ngữ nghĩa cũng thường gắn với lí thuyết trường nghĩa. Đó là việc nghiên cứu nghĩa của các từ có liên quan với nhau ở một hay một vài nét nghĩa nhất định và các nhà Việt ngữ dùng một thuật ngữ đó là trường nghĩa (trường từ vựng – ngữ nghĩa). Ở Việt Nam có khá nhiều các nhà nghiên cứu đề cập đến lí thuyết trường nghĩa: Nguyễn Văn Tu, Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Thiện Giáp,… Người giới thiệu về lí thuyết trường nghĩa đầy đủ, hệ thống nhất là Đỗ Hữu Châu, thông qua một loạt các bài viết trên các tạp chí chuyên ngành và các công trình [13], [15], [16], [19]. Tác giả cho rằng “giữa các từ có không ít những sự đồng nhất về hình thức và về ý nghĩa. Căn cứ vào những cái chung giữa các từ, chúng ta sẽ phân lập toàn bộ từ vựng tiếng Việt thành những hệ thống nhỏ hơn và phát hiện ra những quan hệ giữa các từ trong từ vựng” [19, 169]. Nhưng hệ thống từ vựng là quá lớn nên việc tìm ra mối liên hệ nghĩa trực tiếp giữa các từ ngữ được ngẫu nhiên lựa chọn. Bởi vậy, tác giả đã chỉ ra giải pháp:“đặt các từ (nói cho đúng ra là cá ý nghĩa của từ) vào những hệ thống con thích hợp. Nói cách khác, tính hệ thống về ngữ nghĩa của từ vựng thể hiện qua những tiểu hệ thống ngữ nghĩa trong lòng từ vựng và quan hệ ngữ nghĩa giữa các từ riêng lẻ thể hiện qua những tiểu hệ thống ngữ nghĩa chứa chúng” [19, 170]. Từ đó có thể thấy, các từ có sự đồng nhất với nhau về một phạm trù ngữ nghĩa được gọi là một tiểu trường nghĩa. Mối quan hệ giữa ý nghĩa của các từ trong trường nghĩa và mối quan hệ giữa các từ khác trường với nhau là cơ sở nhận diện ra hệ thống ngữ nghĩa từ vựng của một ngôn ngữ. Tác giả Bùi Minh Toán cũng nghiên cứu một cách hệ thống lí thuyết về trường nghĩa. Ngoài những lí thuyết cơ bản, tác giả còn vận dụng lí thuyết này để xem xét sự vận động chuyển hóa về nghĩa, trường nghĩa của tiếng Việt trong giao tiếp,…
  • 28. 20 1.1.2. Tình hình nghiên cứu về ca dao tình yêu người Việt dưới góc độ ngôn ngữ Từ góc độ ngôn ngữ, ca dao nói chung và CDTY nói riêng đã được khai thác ở nhiều phương diện khác nhau: trường nghĩa, hiện tượng nhiều nghĩa, nghệ thuật ca dao,… [1], [21], [79], [80], [88], [91], [92], [116],… Những nghiên cứu đó đã mang lại nhiều kiến thức ngôn ngữ về ca dao nói chung, tất yếu trong đó một vài khía cạnh của CDTY cũng được hiện lên rõ nét. Một bức tranh tổng quát về ngữ nghĩa của từ ngữ trong loại hình này là chưa xuất hiện. Mặt khác, khi phân tích từ góc độ này sẽ giúp chúng ta khám phá ra những nét độc đáo về mặt ngữ nghĩa của từ ngữ trong CDTY. CDTY dưới góc nhìn của các nhà ngôn ngữ được khai thác ở nhiều góc độ như các biện pháp tu từ được sử dụng trong ca dao: “So sánh và ẩn dụ trong ca dao trữ tình người Việt” của tác giả Hoàng Kim Ngọc (2004), “Đặc điểm của nghệ thuật so sánh trực tiếp trong CDTY người Việt” của Đỗ Thị Hòa (2000)…; các hành động, hành vi ngôn ngữ: “Hành vi trách của người Việt trong ca dao trữ tình” của Phan Thị Việt Anh” (2009), “Hành động hỏi gián tiếp trong ca dao Việt Nam” của Tô Lan Phương (2011), Hành động hỏi trong ca dao người Việt” của tác giả Hà Thị Hồng Mai (2013), “Hành vi cầu khiến trong ca dao người Việt” của tác giả Nguyễn Thị Hài (2015), … Nghiên cứu về ngữ nghĩa của từ ngữ trong CDTY được khai triển trên một số phương diện: “Đặc điểm ngữ pháp – ngữ nghĩa của từ ngữ biểu thị tâm trạng trong CDTY người Việt” của Lương Thị Bích Nga (2008), “Hiện tượng chuyển di trường nghĩa trong CDTY” của Lê Thị Minh (2011),... Với các công trình nghiên cứu về từ ngữ trong ca dao ở những phạm vi khác nhau đều cho thấy những đặc trưng rất riêng của ngôn ngữ trong loại hình văn học dân gian này. Do ảnh hưởng của văn hóa xưa, ngôn ngữ trong ca dao nói về tình yêu thường rất tế nhị, kín đáo được ẩn tàng dưới các biện pháp tu từ và đó là kết quả của rất nhiều từ ngữ đã CN. Đồng thời, một quy luật tất yếu là khi trở thành ngôn ngữ trong văn học, nhiều từ ngữ của ngôn ngữ tự nhiên đã trở thành các THTM. Điều đó càng có cơ sở khẳng định rằng, trong CDTY người Việt, sự CN của từ cũng là điều có tính tất yếu. Nhiều từ ngữ khi CN tiến tới sự ổn định trong sự tương tác với văn hóa đã hình thành nên các YNBT. Song, với sự phong phú của từ ngữ trong CDTY thì sự
  • 29. 21 phân tích toàn diện là điều không thể. Qua quá trình khảo sát, chúng tôi thấy rằng, các từ ngữ trong CDTY tập trung chủ yếu vào hai mảng lớn là các từ ngữ chỉ thế giới tự nhiên, các từ ngữ chỉ các VTNT. Sự xuất hiện của các từ ngữ đó được thể hiện như sau: 1955 lời ca có các từ ngữ chỉ TV, 1309 lời ca có các từ ngữ chỉ các loài động vật, 1054 lời ca có các từ ngữ chỉ các hiện tượng tự nhiên (mây, gió, bão, biển, sấm, chớp,…), 606 lời ca có các từ ngữ chỉ thời gian, 2816 lời ca có các từ ngữ chỉ VTNT. Với hi vọng làm rõ một phương diện ngữ nghĩa của từ ngữ trong CDTY, chúng tôi chọn phân tích trường TV là một trường nghĩa tiêu biểu của hệ thống các trường chỉ từ ngữ chỉ thế giới tự nhiên như một đại diện và trường nghĩa chỉ các VTNT. Sự phân tích đó được khai triển qua quá trình phân tích sự CN của các từ ngữ đó, chỉ ra quy luật của chúng. Với những ý nghĩa đã ổn định, đã được xác lập trong sự tương tác, cọ xát với cộng đồng văn hóa, chúng tôi sẽ làm rõ những YNBT mà các từ ngữ thuộc hai trường nghĩa đó mang lại. 1.1.3. Tình hình nghiên cứu về nghĩa biểu trưng trong ca dao tình yêu người Việt Biểu trưng (symbol) là vấn đề có tính chất liên ngành. Khoa học nghiên cứu về biểu trưng, biểu tượng đã du nhập vào Việt Nam từ hơn một thế kỉ qua theo hướng tiếp cận hàn lâm của phương Tây. Mục tiêu của việc nghiên cứu các biểu trưng, biểu tượng là lí giải thành công các ý nghĩa của của các biểu trưng, biểu tượng đó hay nói cách khác đó là công việc tìm hiểu quá trình biểu tượng hóa các sự vật, hiện tượng trong văn hóa và xã hội loài người. Ở nước ta, biểu trưng (biểu tượng) cũng được nghiên cứu trên nhiều lĩnh vực khác nhau: văn hóa, văn chương, tôn giáo, hội họa,… Trong số các biểu trưng, biểu trưng trong tác phẩm văn học là một trường hợp đặc biệt. Đó là các hình ảnh, hình tượng nghệ thuật được tạo nên từ chất liệu đặc biệt là ngôn từ. Điều đó khiến cho các biểu tượng văn học phức tạp hơn, nội dung phong phú và thường diễn giải rộng hơn. Ở Việt Nam có rất nhiều các công trình nghiên cứu về biểu trưng, biểu tượng ở những góc độ, quy mô khác nhau: Nguyễn Duy Lẫm với cuốn Biểu trưng (2005), các công trình của Trịnh Bá Đĩnh tiêu biểu nhất là công trình Từ kí hiệu đến biểu tượng (2017). Tác giả Đinh Hồng Hải đã hệ thống hóa sự nghiên cứu biểu tượng với cái nhìn tổng quát, toàn diện trong cuốn Nghiên cứu biểu tượng một số hướng tiếp cận lí thuyết (2014),…
  • 30. 22 Với sự vận dụng các lí thuyết biểu tượng (symbol), hàng loạt các công trình nghiên cứu đã được ra đời như: Sự phát triển ý nghĩa của hệ biểu tượng trang phục trong ngôn ngữ thơ ca Việt Nam (tác giả Nguyễn Thị Ngân Hoa), Biểu tượng ngôn ngữ trong ca từ của Trịnh Công Sơn (tác giả Nguyễn Thị Bích Hạnh),… Nghĩa biểu trưng của từ ngữ trong ca dao là một xu hướng nghiên cứu ca dao ở góc độ ngôn ngữ. Những nghiên cứu này được thực hiện nhiều góc độ và phạm vi khác nhau. Những YNBT này được mang đến từ các hình ảnh nghệ thuật và được kiến tạo từ chất liệu ngôn ngữ. Trên cơ sở kế thừa các thành tựu nghiên cứu trong và ngoài nước, sự nghiên cứu ca dao từ góc độ này đã gặt hái được nhiều thành công với các công trình: Biểu tượng nghệ thuật trong ca dao truyền thống người Việt của Nguyễn Thị Ngọc Điệp (2002), Biểu trưng trong ca dao Nam Bộ của Trần Văn Nam (2003), Thế giới động vật trong ca dao cổ truyền người Việt của Đỗ Thị Hòa (2008), Một số biểu trưng trong ca dao Việt Nam (nhóm chất liệu là thế giới các hiện tượng thiên nhiên) của Nguyễn Thùy Vân (2013),… Trong số đó, luận án của Nguyễn Thị Thùy Vân đã hệ thống hóa một cách tương đối toàn diện về hệ thống các nghĩa biểu trưng của các từ ngữ chỉ các hiện tượng tự nhiên trong ca dao Việt Nam. Những kết quả nghiên cứu của tác giả đã giúp chúng tôi hình dung rõ hơn về nghĩa biểu trưng, về từ ngữ chỉ hiện tượng tự nhiên. Với đối tượng nghiên cứu là ngữ nghĩa của từ ngữ trong CDTY người Việt, chúng tôi tập trung khảo sát ngữ nghĩa của từ ở hai nhóm “TV” và “VTNT”. TV cũng là một trường nghĩa nhỏ nằm trong trường nghĩa chỉ thế giới tự nhiên. Trên cơ sở kế thừa các nghiên cứu trước đó, khi nghiên cứu từ ngữ thuộc các nhóm được chọn, chúng tôi tiến hành phân xuất thành các tiểu trường, phân tích nghĩa gốc, hiện tượng CN. Từ đó, các YNBT được tập trung phân tích. Sự phân tích đó theo quy trình đi từ những ý nghĩa chung rồi đến các trường hợp cụ thể. Luận án cũng cố gắng chỉ ra cơ chế của việc tạo ra YNBT của các từ ngữ tiêu biểu. Mặt khác, đối tượng được lựa chọn của luận án là CDTY, nên việc nghiên cứu tập trung vào vấn đề tình yêu của loại hình ca dao này. Luận án của Nguyễn Thùy Vân đã giúp chúng tôi kế thừa được cách tiếp cận với sự tìm hiểu YNBT nói chung và những YNBT mà tác giả khái quát được từ các từ ngữ chỉ TV. Trên cơ sở đó, luận án của chúng tôi triển khai thêm sự phân tích trên các phương diện: về phương thức cấu tạo của các từ ngữ
  • 31. 23 chỉ TV, về nghĩa gốc, nghĩa chuyển, mối quan hệ giữa nghĩa của từ với các nghĩa biểu trưng. Đồng thời chúng tôi cũng khái quát ra quy luật của sự CN. Mặt khác, luận án cũng làm rõ những điểm tương đồng và phái sinh của những YNBT mà từ ngữ trong CDTY mang lại với các nghĩa được khái quát trong Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới. Tác giả Nguyễn Thùy Vân tập trung làm rõ nghĩa của các từ chỉ TV với đối tượng là các từ ngữ chỉ cây và hoa, trong luận án của mình, chúng tôi triển khai sự phân tích trên cả nhóm từ ngữ chỉ quả. Gần đây nhất là luận án TH ngôn ngữ thẩm mĩ trong ca dao Nam Trung Bộ của Nguyễn Thị Vân Anh (2015). Nghiên cứu này tập trung nghiên cứu về hệ thống THTM, đặc trưng tư duy nhận thức của người phương Nam trong phạm vi ngữ liệu là ca dao Nam Trung Bộ. Ngoài ra còn có khá nhiều nghiên cứu về nghĩa biểu trưng trong ca dao ở phạm vi nhỏ hơn. Tuy nhiên, chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu về vấn đề ngữ nghĩa của từ ngữ nói chung, nghĩa biểu trưng của từ ngữ nói riêng trong CDTY một cách cụ thể. Và đây chính là hướng đi ngỏ để chúng tôi chọn làm đối tượng nghiên cứu cho luận án của mình với đề tài “Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt”. Trong khuôn khổ luận án, chúng tôi tập trung làm rõ ngữ nghĩa của từ với trọng tâm là YNBT của một số từ ngữ tiêu biểu trong một vài trường nghĩa. Với sự nghiên cứu này, chúng tôi mong muốn làm rõ thêm xu hướng nghiên cứu về CDTY dưới lí thuyết ngữ nghĩa. 1.2. Cơ sở lí thuyết của đề tài 1.2.1. Từ và nghĩa của từ 1.2.1.1. Quan niệm về từ Vấn đề từ và ý nghĩa của từ là vấn đề cơ bản của các nhà ngôn ngữ học trong và ngoài nước quan tâm đặc biệt. Thậm chí trong tâm lí học, triết học,… vấn đề này cũng được chú ý sớm. Để hiểu được nghĩa của từ cũng như các đặc điểm của nó, trước hết cần phải hiểu được từ là gì? Tác giả Nguyễn Thiện Giáp trong cuốn Dẫn luận ngôn ngữ học đã cho rằng khái niệm này rất khó định nghĩa. Cái khó nhất trong việc định nghĩa từ là sự khác nhau về cách định hình, về chức năng và những đặc điểm ý nghĩa của từ trong các ngôn ngữ khác nhau cũng như trong cùng một ngôn ngữ. Có từ mang chức năng định danh, có từ không mang chức năng định
  • 32. 24 danh; có từ biểu thị khái niệm, có từ chỉ là dấu hiệu của những cảm xúc nào đó; có từ liên hệ với những sự vật, hiện tượng ngoài thực tế, có từ lại chỉ biểu thị những quan hệ trong ngôn ngữ,… Vì vậy, theo Nguyễn Thiện Giáp không có sự thống nhất trong cách định nghĩa và miêu tả các từ. Hiện nay có tới trên 300 định nghĩa khác nhau về từ. Nói chung, không có định nghĩa nào về từ làm mọi người thỏa mãn. Với tư cách là định nghĩa sơ bộ, có tính chất giả thiết, tác giả đã định nghĩa từ như sau: “Từ là đơn vị nhỏ nhất của ngôn ngữ, độc lập về ý nghĩa và hình thức” [38, 60 – 61]. Tác giả Đỗ Hữu Châu đưa ra định nghĩa về từ như sau:“ Từ của tiếng Việt là một hoặc một số âm tiết cố định, bất biến, mang những đặc điểm ngữ pháp nhất định, tất cả ứng với một kiểu ý nghĩa nhất định, lớn nhất trong tiếng Việt và nhỏ nhất để tạo câu” [19, 16]. Đỗ Hữu Châu cho rằng từ có các đặc điểm: a, Có hình thức ngữ âm và ý nghĩa; b, Có tính sẵn có, cố định và bắt buộc; c, Là những đơn vị thực tại, hiển nhiên của ngôn ngữ. Tức là đơn vị lớn nhất của hệ thống ngôn ngữ; d, Là đơn vị nhỏ nhất ở trong câu [19, 8-9]. Chúng tôi sẽ vận dụng cách hiểu của tác giả Đỗ Hữu Châu về từ để làm cơ sở cho các bước nghiên cứu có liên quan của mình. 1.2.1.2. Nghĩa của từ a. Quan niệm về nghĩa của từ Từ là đơn vị cơ bản trong hệ thống ngôn ngữ, mang hai chức năng cơ bản là định danh và tạo câu. Nghĩa của từ thuộc về bình diện tinh thần được vật chất hóa thông qua vỏ âm thanh của từ. Nghĩa của từ là một khái niệm khó định nghĩa, có rất nhiều ý kiến khác nhau của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước về vấn đề này. Vì thuộc bình diện tinh thần, nghĩa của từ luôn là đối tượng khó nắm bắt. Trong khi đó, việc nắm bắt nghĩa của từ là yếu tố đầu tiên quyết định hiệu quả của hoạt động giao tiếp. Vậy nên khi nghiên cứu ngôn ngữ, vấn đề ngữ nghĩa được các nhà khoa học dành cho một sự quan tâm đặc biệt. Cho đến nay, gần như không có công trình nghiên cứu ngôn ngữ nào lại không đề cập đến nghĩa ở mức độ nhất định, ngay cả ở những công trình ngôn ngữ học cấu trúc thuần túy thì nghĩa cũng vẫn được dành cho một vị trí xứng đáng. Nghĩa của từ được nhìn nhận từ nhiều góc độ khác nhau: nghĩa của từ là bản thể, nghĩa của từ là quan hệ, nghĩa của từ là thực thể tinh thần, cụ thể:
  • 33. 25 Ở Việt Nam, tác giả Nguyễn Thiện Giáp đã căn cứ vào khái niệm nghĩa của từ của một số tác giả nước ngoài tiêu biểu và rút ra hai xu hướng chính là: thứ nhất, cho nghĩa của từ là một bản thể nào đó (đối tượng, khái niệm, sự phản ánh,…), thứ hai, cho nghĩa của từ là một quan hệ nào đó (quan hệ của từ với đối tượng hoặc quan hệ của từ với khái niệm…). Tác giả đi đến nhận định về nghĩa của từ “Nghĩa của từ là một đối tượng phức tạp, bao gồm một số thành tố đơn giản hơn” như “nghĩa sở chỉ”, “nghĩa sở biểu”, “nghĩa sử dụng” và “nghĩa kết cấu” [38, 122-125]. Bên cạnh đó, việc nghĩa của từ là một thực thể tinh thần cũng là một quan niệm trong nghiên cứu. Tác giả Lê Quang Thiêm cho rằng “nghĩa là một thực thể tinh thần trừu tượng tồn tại trong mọi biểu hiện, cấp độ của ngôn ngữ để ngôn ngữ thực hiện chức năng công cụ giao tiếp và tư duy cũng như mọi loại chức năng cụ thể đa dạng khác, đặc biệt là trong lời nói, trong văn bản, diễn ngôn” và “Nghĩa là nội dung xác định hình thành nhờ chức năng, song không là chức năng riêng rẽ trong hoạt động mà là một loại chức năng thể hiện qua văn cảnh”. Tác giả đi đến nhận định rằng “nội dung của ngữ nghĩa học bao gồm: ngữ nghĩa học từ vựng, ngữ nghĩa học ngữ pháp, và ngữ nghĩa học ngữ dụng” và cần phải nghiên cứu cả ba loại ngữ nghĩa học này độc lập và có quan hệ chặt chẽ với nhau [112, 86 - 87]. Tác giả nghiên cứu tập trung nhất bàn về nghĩa của từ là Đỗ Hữu Châu. Ông cho rằng “nghĩa của từ là một thực thể tinh thần cùng với phương diện hình thức lập thành một thể thống nhất gọi là từ”. Nói cách khác, “nghĩa của từ là hợp điểm, là kết quả của những nhân tố và tác động giữa những nhân tố tạo nên nghĩa. Trong số những nhân tố đó, có những nhân tố ngoài ngôn ngữ và có những nhân tố nằm trong ngôn ngữ. Hai nhân tố ngoài ngôn ngữ là sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan, có thể thuộc thế giới nội tâm, có thể thuộc thế giới ảo tưởng. Nhân tố kia là các hiểu biết về loại nhân tố thứ nhất”. Như vậy, số lượng kiểu nghĩa sẽ tăng lên tùy theo số lượng những nhân tố được phát hiện thêm [13, 98]. Có thể khẳng định rằng nghĩa của từ là một khái niệm phức tạp. Sự phức tạp này được thể hiện ở số lượng các quan niệm khác nhau về nghĩa của từ. Và nghĩa của từ cũng được nhìn nhận từ nhiều khía cạnh với nhiều ý kiến khác nhau. Có quan
  • 34. 26 điểm cho rằng nghĩa của từ là thực thể tinh thần, nghĩa của từ là bản thể, nghĩa của từ là quan hệ nào đó,… Trong luận án, chúng tôi lựa chọn quan niệm của tác giả Đỗ Hữu Châu làm cơ sở lí thuyết cho sự nghiên cứu. b. Nét nghĩa và cấu trúc nghĩa của từ Theo ngữ nghĩa học hiện đại, ý nghĩa của từ lập thành một cấu trúc, bao gồm một số nghĩa vị (hay còn được gọi là nét nghĩa) được kết hợp với nhau theo quy tắc nhất định, chi phối và quy định lẫn nhau. Chính vì thế U. Weinreich đã viết: “Mong muốn phân tích một nghĩa tổng quát ra những thành tố và xác lập một cấp hệ giữa các thành tố, luôn luôn là một trong những động cơ chủ yếu của nghiên cứu ngữ nghĩa”[157]. Theo tư tưởng lí thuyết đó, Hoàng Phê trong bài “Phân tích ngữ nghĩa” khi tổng hợp lại các ví dụ phân tích nghĩa thành nét nghĩa của những từ mẹ, cha, vợ, chồng đã đi đến kết luận: “Nói tóm lại, nghĩa của từ nói chung: a/ là một tập hợp những nét nghĩa có quan hệ quy định lẫn nhau; b/ Giá trị của nét nghĩa không như nhau (giữa các nét nghĩa có quan hệ cấp bậc) biểu hiện ở khả năng tham gia khác nhau vào việc thực hiện chức năng thông báo; c/ Các nét nghĩa có tính độc lập tương đối… [98, 15]. Đỗ Hữu Châu sau khi phân tích nghĩa của một số danh từ và động từ bàn, búa, chân, đứng nói đi,… thành nét nghĩa đã đi đến kết luận: “Tập hợp một số nét nghĩa thành nghĩa biểu niệm là một tập hợp có quy tắc… Chúng ta thấy có những nét nghĩa chung cho nhiều từ và những nét nghĩa riêng cho từng từ” [13, 107]. Như vậy, có thể khẳng định rằng nội dung ý nghĩa của từ được tạo nên từ các nét nghĩa. Và có những nét nghĩa riêng cho từng từ bên cạnh đó cũng có những nét nghĩa chung cho nhiều từ. Tổ hợp các nét nghĩa để tạo thành nghĩa là một “cấu tạo có quy tắc, có quan hệ lẫn nhau”. Từ những kiến giải và phân tích của các nhà ngôn ngữ học có thể khẳng định rằng nét nghĩa là yếu tố hạt nhân tạo nên cấu trúc nghĩa của từ. Trong luận án, “nét nghĩa” có vai trò quan trọng trong việc xác định mối quan hệ giữa các nghĩa trong quá trình phát triển nghĩa của từ. c. Hiện tượng chuyển nghĩa của từ Chuyển nghĩa từ vựng là một trong những nội dung cơ bản trong nghiên cứu của ngôn ngữ học truyền thống. Bàn về vấn đề này, các nội dung như: sự
  • 35. 27 CN, chuyển trường, mối quan hệ giữa các nghĩa chuyển, phương thức CN,… thường được các công trình nghiên cứu tập trung luận giải. Kết quả của sự chuyển biến nghĩa của từ đã tạo ra hiện tượng từ nhiều nghĩa. Từ lúc mới xuất hiện chỉ có một nghĩa biểu vật. Sau một thời gian sử dụng, nó có thể có thêm những nghĩa biểu vật mới. Các nghĩa biểu vật mới xuất hiện ngày càng nhiều thì nghĩa biểu niệm của nó ngày càng có khả năng biến đổi. Trong sự chuyển biến ý nghĩa, có khi nghĩa biểu vật đầu tiên không còn nữa. Nhưng thường thường thì cả nghĩa đầu tiên và các nghĩa mới đều cùng tồn tại, cùng hoạt động, khiến cho đối với những người không chuyên từ nguyên học khó nhận biết hay khó khẳng định nghĩa nào là nghĩa đầu tiên của từ. Giữa nghĩa đầu tiên và các nghĩa mới có thể diễn ra sự biến đổi theo kiểu móc xích song sự chuyển biến theo lối “tỏa ra” chiếm tỉ lệ nhiều hơn. Sự chuyển biến ý nghĩa cũng là một phương thức để tạo thêm từ mới bên cạnh các phương thức ghép hoặc láy [19]. Khi các nghĩa chuyển biến còn liên hệ với nhau, sự CN có thể làm cho ý nghĩa của từ được mở rộng ra hoặc thu hẹp lại. Sự chuyển biến về nghĩa có thể làm thay đổi ý nghĩa biểu thái (nghĩa “xấu đi” hay “tốt lên”). Động lực thúc đẩy sự CN có nhiều, bản thân sự thay đổi sự vật, hiện tượng được gọi tên làm cho từ phải thay đổi cấu trúc biểu niệm. Sự kiêng kị cũng làm cho nghĩa của từ biến đổi. Tuy nhiên động lực chủ yếu thúc đẩy sự chuyển biến ý nghĩa vẫn là do nhu cầu giao tiếp đặt ra [19]. d. Các phương thức CN Sự chuyển biến nghĩa của từ chủ yếu diễn ra theo hai phương thức: phương thức ẩn dụ và phương thức hoán dụ: - Sự CN của từ theo phương thức ẩn dụ: Phương thức ẩn dụ là phương thức “lấy tên gọi A của x để gọi tên y (để biểu thị y), nếu như x và y giống nhau. Các sự vật được gọi tên, tức x và y, không có liên hệ khách quan, chúng thuộc những phạm trù hoàn toàn khác nhau. Sự chuyển tên gọi diễn ra tùy thuộc vào nhận thức có tính chất chủ quan của con người về sự giống nhau giữa chúng” [15, 154 – 155]. Tác giả Nguyễn Thiện Giáp trong [38] đã phân chia ẩn dụ từ vựng trên tính chất của sự giống nhau. Kết quả là có những loại ẩn dụ dựa trên những sự tương đồng về: hình thức, màu sắc, chức năng, thuộc tính, tính chất, đặc điểm, vẻ ngoài
  • 36. 28 nào đó, ẩn dụ cụ thể trừu tượng, chuyển tên các con vật thành cách gọi con người, chuyển tính chất của sinh vật sang sự vật hoặc hiện tượng Dựa trên nhiều tiêu chí, Đỗ Hữu Châu [13] phân chia thành các kiểu ẩn dụ từ vựng khác nhau: Thứ nhất, tùy theo x và y là các sự vật cụ thể (có thể cảm nhận bằng giác quan) hay trừu tượng mà ẩn dụ được chia thành ẩn dụ cụ thể - cụ thể (miệng người – miệng chén), ẩn dụ cụ thể - trừu tượng (con đường – con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội). Thứ hai, quan trọng hơn là phân biệt cơ chế ẩn dụ theo nét nghĩa phạm trù dựa vào đó mà xuất hiện ẩn dụ. Theo đó có các kiểu ẩn dụ: ẩn dụ hình thức, ẩn dụ vị trí, ẩn dụ cách thức, ẩn dụ chức năng, ẩn dụ kết quả, ẩn dụ chuyển đổi cảm giác, - Sự CN của từ theo phương thức hoán dụ: Phương thức CN hoán dụ là “phương thức lấy tên gọi A của x để gọi y nếu x và y đi đôi với nhau trong thực tế. Mối liên hệ đi đôi với nhau giữa x và y là có thật, không tùy thuộc vào nhận thức của con người. Cho nên các hoán dụ có tính khách quan hơn các ẩn dụ” [15, 154 – 155]. Ví dụ: từ cổ có nghĩa gốc chỉ bộ phận cơ thể người hay động vật, ở vị trí nối giữa đầu và cơ thể, có chức năng giữ đầu trên cơ thể. Nó được CN để chỉ bộ phận của trang phục (cổ áo). Từ tay cũng có nghĩa gốc chỉ bộ phận cơ thể người được CN để chỉ bộ phận của trang phục (tay áo)… Ẩn dụ và hoán dụ là sự chuyển từ ý nghĩa biểu vật này sang ý nghĩa biểu vật khác. Hiện tượng chuyển biến ý nghĩa theo cùng một hướng thường diễn ra giữa các từ trong cùng phạm vi biểu vật. Hiện tượng CN (ẩn dụ hay hoán dụ) của ngôn ngữ “không phải là hiện tượng ngẫu nhiên, chỉ bị chi phối bởi quy luật nhận thức mà trước hết là những hiện tượng ngôn ngữ. Chính vì vậy, các nghĩa chuyển (ẩn dụ và hoán dụ) và nói rộng ra các nghĩa chuyển của từ mới có tính dân tộc sâu sắc. Chúng vừa là kết quả của cách tiếp cận thực tế của dân tộc, vừa là kết quả của những quy luật điều khiển sự tạo nghĩa mới cho từ” [19, 157]. Tuy vậy, không phải mọi hiện tượng CN của từ đều được giải thích bằng hai phương thức ẩn dụ và hoán dụ. Bởi lẽ, ngôn ngữ nói chung và từ vựng nói riêng chịu sự chi phối bởi những quy luật nội tại và ngoại tại nên nghĩa của từ có thể biến đổi theo các quy luật đó. Hoặc đôi khi hiện tượng chuyển biến ý nghĩa của từ xảy ra do sự “cảm nhiễm” nghĩa của ngữ cảnh.
  • 37. 29  Mối quan hệ giữa các nghĩa chuyển Hiện tượng CN của từ đã tạo ra các nghĩa cũ và nghĩa mới. Các nhà ngôn ngữ cũng thừa nhận mối quan hệ giữa các loại nghĩa đó. Các nghĩa mới (nghĩa phái sinh được nảy sinh trên cơ sở nét nghĩa ban đầu của từ hoặc trên cơ sở một hay vài nét nghĩa cơ bản trong cấu trúc biểu niệm của từ, và tác giả Đỗ Hữu Châu gọi đó là nét nghĩa cơ sở “Nét nghĩa cơ sở của cấu trúc biểu niệm trung tâm sẽ đảm bảo cho sự thống nhất giữa các ý nghĩa biểu vật. Như thế, các nghĩa biểu vật của một từ tuy khác nhau, tuy đối lập nhau - nhưng giữa chúng vẫn có sự thống nhất trên có sở nét nghĩa chung. Nói khác đi, các ý nghĩa khác nhau của một từ lập nên một hệ thống ngữ nghĩa trong lòng một từ nhiều nghĩa” [13, 133]. Nguyên tắc để xác định từ nhiều nghĩa chính là nét nghĩa cơ sở. Ngược lại, nếu mối liên hệ ấy bị đứt quãng hoặc đã cách biệt quá xa, không thể tìm được nét nghĩa cơ sở giữa chúng thì lúc này, từ vốn là một nhưng đã tách ra thành hai từ đồng âm [13, 138]. John Lyons nhận xét: “Các nghĩa có liên hệ với nhau rõ rệt, nhiều hay ít theo đúng nguyên tắc ….thì truyền thống không xem là khác nhau đến mức đủ để chứng thực sự thừa nhận các từ riêng biệt. Nhà ngữ nghĩa học truyền thống sẽ không nói rằng miệng của sông và miệng với tư cách là một bộ phận của cơ thể là những từ đồng âm mà nói rằng miệng có hai nghĩa liên hệ nhau. Do đó, ngoài hiện tượng đồng nghĩa và đồng âm, ta còn có cái gọi là đa nghĩa trong sự phát triển mới đây của ngữ nghĩa học truyền thống” [60, 638]. Theo quan điểm này, trong luận án, chúng tôi chỉ quan tâm đến sự CN của từ. Ở Việt Nam trong những nghiên cứu ngữ nghĩa học - từ vựng, các nhà nghiên cứu đều cho ra rằng: hiện tượng “đa nghĩa” (hay: “nhiều nghĩa”) là kết quả của sự “chuyển biến” ý nghĩa của từ. Trong đa nghĩa có sự phân biệt giữa “nghĩa chính” (nghĩa cơ bản/ cơ sở), “nghĩa gốc”, “nghĩa đen” - từ đó mà “móc xích” ra hay “tỏa” ra các nghĩa mới, xuất hiện sau, tức các “nghĩa phụ”, “nghĩa chuyển”, “nghĩa bóng”. Trong quá trình phát triển nghĩa của từ: “thường cả nghĩa đầu tiên và nghĩa mới của từ đều cùng tồn tại, cùng hoạt động khiến cho chúng ta khó nhận diện hay khẳng định được đâu là nghĩa đầu tiên của từ” [13, 137]. Lại có trường hợp tuy cả nghĩa gốc và nghĩa chuyển cùng tồn tại cùng hoạt động song nghĩa gốc của từ ngày càng mờ nhạt,
  • 38. 30 dần dần trở thành nghĩa phụ trong khi một vài nghĩa chuyển nào đó lại được dùng thường xuyên và phổ biến hơn trở thành nghĩa chính của từ. Quá trình phát triển ngữ nghĩa của từ còn được quan niệm là cách định danh gián tiếp. Đó là quá trình lan tỏa về mặt ý nghĩa của từ xuất phát từ sự biểu vật đầu tiên của tên gọi (tức là từ nghĩa gốc, nghĩa định danh trực tiếp). Vì vậy, việc xác định nghĩa gốc và nghĩa chuyển có ý nghĩa quan trọng bởi các nét nghĩa trong nghĩa gốc là căn cứ quan trọng làm cơ sở để tập hợp các nghĩa chuyển và xác định các hướng CN của từ. Một cách tổng quát, theo quan điểm của ngôn ngữ học truyền thống, các nghĩa khác nhau của từ đa nghĩa có đặc điểm sau: + Giữa nghĩa đầu tiên với các nghĩa chuyển có thể có sự biến đổi theo quan hệ kiểu “móc xích” hay “tỏa ra từ gốc” nhưng chủ yếu là theo kiểu “tỏa ra từ gốc”. + Các từ có ý nghĩa biểu vật cùng thuộc một phạm vi hoặc có các ý nghĩa biểu niệm cùng một cấu trúc thì CN theo cùng hướng “Cơ sở để nhận ra tính nhiều nghĩa của từ chính là khả năng từ đó có thể đi vào nhiều trường khác nhau” [13, 164] + Khi các nghĩa chuyển còn liên hệ với nhau, sự chuyển biến ý nghĩa có thể làm ý nghĩa “mở rộng ra” hoặc “thu hẹp lại”, và điều này, trước hết, được xét ở phạm vi từ. Việc thu hẹp – mở rộng nghĩa còn được xem xét ở phạm vi các nghĩa trong từ nhiều nghĩa. 1.2.1.3. Khái niệm ngữ Từ là đơn vị gồm hai mặt âm thanh và ý nghĩa, là đơn vị lớn nhất trong hệ thống ngôn ngữ và nhỏ nhất để tạo câu. Khi tham gia vào câu, từ thường trở thành thành phần của các ngữ (cụm từ). Bởi trong mối quan hệ với các từ khác, bản thân từ mới thể hiện rõ được đặc điểm ngữ nghĩa của nó. Ngữ được xem là tổ hợp của các từ theo một quan hệ ngữ pháp nhất định, có thể là quan hệ chủ - vị, quan hệ đẳng lập hoặc quan hệ chính phụ. Ngữ bao gồm hai loại là ngữ cố định và ngữ tự do. Ngữ cố định bao gồm thành ngữ và quán ngữ. Ngữ tự do bao gồm ngữ đẳng lập, ngữ chủ vị và ngữ chính phụ. Căn cứ vào thành tố chính của các ngữ chính phụ mà loại ngữ này được chia làm ba loại: ngữ danh từ, ngữ động từ và ngữ tính từ. Trong phạm vi của luận án, chúng tôi chủ yếu quan tâm đến các ngữ tự do đặc biệt là các ngữ danh từ. Đó là các