SlideShare a Scribd company logo
1 of 80
Download to read offline
NỘI DUNG
1. Lý do lựa chọn đề tài
1.1. Được coi là một trong những thể loại “nhạy bén” của nền văn học
hiện đại, thành tựu và những quy luật vận động của truyện ngắn có ý nghĩa rất
quan trọng đối với việc nghiên cứu văn học của một dân tộc. Ở nước ta, văn
học từ sau 1986 nói chung và truyện ngắn nói riêng có vị thế vô cùng quan
trọng trong nền văn chương Việt. Bởi đó là cột mốc đánh dấu sự đổi mới,
phát triển toàn diện của nền văn học nước nhà.
1.2. Sau 1986, văn học Việt Nam chứng kiến “sự bức phá ngoạn mục”
của các cây bút nữ. Từ những hiện tượng đơn lẻ chỉ xuất hiện chủ yếu ở thể
loại thơ trong giai đoạn văn học trước 75, ở giai đoạn này các nữ văn sĩ đã
chứng tỏ bút lực dồi dào cũng như khả năng bao quát ở tất cả các thể loại văn
xuôi, đặc biệt là truyện ngắn. Chính sự đồng hành ấy đã làm nên bộ phận
truyện ngắn nữ, một trong những “điểm sáng” của nền văn học đương đại.
1.3. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về truyện ngắn nữ nhưng chủ
yếu chỉ dừng lại ở từng tác giả, tác phẩm cụ thể hoặc đi sâu vào một phương
diện nào đó trong sáng tác của cây bút nữ. Vì vậy, việc nghiên cứu truyện
ngắn nữ một cách hệ thống, bao quát được nhiều bình diện của vấn đề vẫn
còn là một hướng đi giàu gợi mở. Trên cơ sở tiếp thu những thành tựu đã đạt
được trong việc nghiên cứu truyện ngắn nữ, chúng tôi muốn có một cái nhìn
hệ thống và khái quát về sự vận động cũng như những thành tựu, đặc điểm
của truyện ngắn nữ từ sau 1986 đến nay. Đề tài nghiên cứu góp phần trong
việc phác thảo diện mạo của truyện ngắn Việt Nam nói riêng và văn học Việt
Nam nói chung trong tiến trình vận động của văn học dân tộc.
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN THỊ QUỲNH LÊ
TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY
Ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 9 22 01 21
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1.PGS.TS. Lưu Khánh Thơ
2.PGS.TS. Nguyễn Thị Bích Thu
HÀ NỘI - 2019
HÀ NỘI-năm
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong luận án là trung thực và chưa từng công bố trong bất kỳ công
trình nào khác.
Tác giả luận án
TRẦN THỊ QUỲNH LÊ
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU................................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài .....................................................................................1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án..................................................2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu......................................................................2
4. Phương pháp nghiên cứu....................................................................................3
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án.............................................................4
6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận án...............................................4
7. Cấu trúc của luận án...........................................................................................5
CHƯƠNG 1:TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU.............................6
1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước....................................................................6
1.2. Tình hình nghiên cứu ở ngoài nước ..............................................................34
1.3. Nhận xét tình hình nghiên cứu và hướng nghiên cứu của đề tài...................37
Chương 2: TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY TRONG
BỔI CẢNH ĐỔI MỚI VÀ HỘI NHẬP...............................................................42
2.1.Những tác động “ngoại sinh”.........................................................................42
2.2.Những vận động “nội tại” ..............................................................................55
2.3.Truyện ngắn nữ - “phần tinh túy làm nên bản lai diện mục” của nền văn học
Việt Nam đương đại.............................................................................................68
Chương 3: NHỮNG MÔ HÌNH GIAO TIẾP TRONG TRUYỆN NGẮN NỮ
VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY........................................................................74
3.1. Mô hình giao tiếp với thiên nhiên.................................................................75
3.2. Mô hình giao tiếp với cuộc sống và con người.............................................87
3.3. Mô hình giao tiếp với chính mình.................................................................98
Chương 4: NHỮNG DẠNG THÁI BIỂU HIỆN TRONG TRUYỆN NGẮN NỮ
VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY......................................................................108
4.1. Không gian và thời gian nghệ thuật ............................................................108
4.2. Diễn ngôn mang đặc trưng giới trong truyện ngắn nữ Việt Nam từ 1986
đến nay...............................................................................................................126
KẾT LUẬN........................................................................................................148
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ...............................151
TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................................152
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Truyện ngắn là thể loại có lịch sử lâu đời trong văn học thế giới nói
chung và Việt Nam nói riêng. Được coi là một trong những thể loại năng động,
“nhạy bén” của nền văn học hiện đại, thành tựu và những quy luật vận động của
truyện ngắn có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc nghiên cứu văn học của một
dân tộc. Ở Việt Nam, cùng với tiểu thuyết, truyện ngắn đã khẳng định vai trò và
vị thế của một trong những thể loại luôn tiên phong trong việc nắm bắt những
chuyển động của cuộc sống và thời đại để tự làm mới mình.
1.2. Năm 1986 được xem là một dấu mốc quan trọng của lịch sử văn học
dân tộc. Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước thổi một luồng gió mới vào đời
sống văn học Việt, làm “bứt rễ” cả những điều tưởng đã trở thành bất biến của
nền văn học cũ. Chính trong không khí đó, sự xuất hiện đông đảo của các cây
bút nữ đã trở thành “hiện tượng” của nền văn chương đương đại. Không phải
đến giai đoạn này, các nữ văn sĩ mới xuất hiện trên văn đàn nhưng có lẽ chưa
bao giờ lực lượng các nhà văn nữ lại đông đảo và mạnh mẽ đến thế. Sự góp mặt
của họ không chỉ ấn tượng về con số mà quan trọng hơn còn là sự bứt phá của
những cá tính và bản lĩnh nghệ thuật dường như chưa được khai phóng đúng
mức ở các giai đoạn trước.
1.3. Bằng sự nhập cuộc sôi nổi và tinh thần phản tư sâu sắc những giá trị
về cuộc sống và thân phận con người, đặc biệt là những người đàn bà, các cây
bút nữ đã thực sự đem lại sắc diện mới, rất riêng về tâm hồn người phụ nữ trong
văn. Dấu ấn tài năng của họ được thể hiện trong nhiều thể loại nhưng đậm nét
nhất có lẽ là trong truyện ngắn. Đó dường như là một sự lựa chọn mang tính tự
giác đầy chủ ý của các nữ văn sĩ . Vì thế, việc lý giải cho sự gắn kết như duyên
nợ ấy sẽ nhằm “phát lộ” những đặc trưng riêng của người viết nữ trong việc
chuyển tải những thông điệp cuộc sống và con người trên những trang văn, để
2
làm nên cái người ta vẫn gọi là “văn học mang gương mặt nữ”. Những thành tựu
của truyện ngắn nữ Việt Nam từ 1986 đến nay là hệ quả từ sự tác động của hoàn
cảnh lịch sử, từ đặc trưng thể loại hay chính những đặc trưng về giới vẫn còn là
câu hỏi mở, đầy thú vị cho những người nghiên cứu
Vì những lý do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài: Truyện ngắn nữ Việt Nam
từ 1986 đến nay
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích: Trên cơ sở tìm hiểu và nghiên cứu truyện ngắn của một số
tác giả nữ tiêu biểu từ 1986 đến nay, luận án muốn chỉ ra được những nét đặc
trưng làm nên bản sắc của lối viết nữ. Đồng thời, qua đó khẳng định vị trí và tài
năng của các cây bút nữ trong dòng chảy văn học Việt Nam đương đại. Lựa chọn
giai đoạn từ 1986 đến nay, luận án cũng hướng đến việc khẳng định truyện ngắn
nữ không chỉ là một bộ phận mà còn là bộ phân tiêu biểu làm nên sự phong phú,
đặc sắc của văn học Việt Nam đương đại.
2.2. Nhiệm vụ: Xuất phát từ nhận thức trên, để thực hiện đề tài này, trước
tiên chúng tôi hệ thống những quan điểm và hướng nghiên cứu về văn xuôi nữ
nói chung và truyện ngắn nữ nói riêng để làm định hướng nghiên cứu của đề tài.
Ở chương 2, chúng tôi đặt truyện ngắn nữ trong bối cảnh đổi mới và hội nhập
của văn chương Việt Nam đương đại để nhìn thấy được sự hình thành và phát
triển mạnh mẽ của truyện ngắn nữ không chỉ là sự vận động tất yếu của đời sống
văn học mà còn là quá trình cộng hưởng từ nhiều yếu tố của lịch sử, xã hội, văn
hóa và tư tưởng. Sau đó, luận án sẽ tiếp tục làm sáng rõ đặc trưng của truyện
ngắn nữ thông qua sự khác biệt trong việc xây dựng mô hình giao tiếp của các
cây bút nữ ở chương 3 và cuối cùng đến chương 4 chúng tôi nghiên cứu một số
dạng thái biểu hiện của lối viết nữ để đem lại một cái nhìn tương đối toàn diện
về truyện ngắn nữ Việt Nam đương đại.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
3
Chúng tôi xác định đối tượng nghiên cứu của luận án là truyện ngắn nữ
Việt Nam từ 1986 đến nay trên các phương diện cụ thể như mô hình giao tiếp,
không gian, thời gian nghệ thuật và diễn ngôn mang đặc trưng của giới nữ.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận án tập trung khảo sát các tập truyện ngắn của những cây bút nữ tiêu
biểu như: Lê Minh Khuê, Phạm Thị Hoài, Trần Thùy Mai, Dạ Ngân, Nguyễn Thị
Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh, Y Ban, Nguyễn Ngọc Tư, Võ Thị Hảo, Võ Thị
Xuân Hà, Đỗ Bích Thúy. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng khảo sát truyện ngắn của
một số cây bút hải ngoại tiêu biểu như: Nguyễn Thị Hoàng Bắc, Nhung Uyển,
Trân Sa trong tuyển tập Khung trời bỏ lại (NXB Phụ Nữ - 1996)
Ngoài ra, để làm phong phú và tăng sức thuyết phục của luận án chúng tôi
còn khảo sát thêm một số tập truyện ngắn nữ như: Những truyện ngắn nữ đặc
sắc từ 1986 đến nay (NXB Phụ Nữ), Truyện ngắn nữ 2000 – 2006 (NXB Phụ
nữ); Truyện ngắn nữ đầu thế kỷ 21 (NXB Văn học), Truyện ngắn nữ 2000 –
2009 (NXB Phụ nữ), Truyện ngắn 9 cây bút nữ (NXB Văn học), Vũ điệu thân
gầy, truyện ngắn 12 cây bút nữ (NXB Trẻ), Độc thoại trên tháp nhà nhờ (Tuyển
tập truyện ngắn hiện đại của 5 nhà văn nữ) (NXB Hội Nhà văn)…
Do đối tượng nghiên cứu vẫn đang tiếp tục vận động và phát triển nên
chúng tôi giới hạn mốc thời gian sau cùng cho những tác phẩm trong phạm vi
khảo sát của luận án là những truyện ngắn được xuất bản đến năm 2017.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu
cơ bản sau:
- Phương pháp cấu trúc – kí hiệu học: nhằm nghiên cứu cấu trúc nội tại
của tác phẩm, từ đó giúp lý giải được những kí hiệu được tác giả mã hóa trong
quá trình giao tiếp
- Phương pháp loại hình: Nhằm bao quát đặc trưng thể loại truyện ngắn từ
các phương diện biểu cụ thể trong truyện ngắn nữ đương đại.
4
- Phương pháp so sánh: Góp phần làm nổi bật đặc trưng của lối viết nữ
trong tương quan so sánh với truyện ngắn của các cây bút nam cùng thời hay với
truyện ngắn của các tác giả nữ trước năm 1986.
- Tiếp cận theo hướng thi pháp học: để phân tích những yếu tố “hình thức
mang tính quan niệm” như không gian – thời gian nghệ thuật trong truyện ngắn
nữ đương đại.
Ngoài ra trong luận án, chúng tôi còn vận dụng sự hỗ trợ từ các thao tác
nghiên cứu văn học như: khảo sát văn bản, thống kê – phân loại, phân tích, tổng
hợp, phê bình văn học… để khám phá những đặc sắc của truyện ngắn nữ Việt
Nam từ 1986 đến nay.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Luận án là công trình chuyên biệt nghiên cứu một cách hệ thống các
phương diện cơ bản làm nên đặc trưng của lối viết nữ cũng như thành tựu và
đóng góp của truyện ngắn nữ từ 1986 đến nay trong tiến trình vận động của văn
học Việt Nam và văn học thế giới. Trong đó, đặc biệt là cách tiếp cận truyện
ngắn nữ dưới góc độ cấu trúc, kí hiệu học, xem sáng tác của các nhà văn nữ như
một hình thức giao tiếp của các nữ văn sĩ với con người, cuộc đời và với chính
mình, góp thêm một hướng đi trong việc luận giải những giá trị của hiện tượng
văn học này.
6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận án
- Ý nghĩa lý luận: Luận án làm sáng rõ một số vấn đề thuộc về lý luận thể
loại, về những đặc điểm khu biệt và tính kí hiệu của tác phẩm qua việc khảo sát
truyện ngắn nữ Việt Nam từ 1986 đến nay
- Ý nghĩa thực tiễn: Luận án sẽ là tài liệu tham khảo cho cán bộ, sinh viên
ngành Ngữ văn ở các trường đại học, cao đẳng, trung học phổ thông cũng như
các độc giả quan tâm, nghiên cứu về truyện ngắn đương đại Việt Nam đặc biệt là
truyện ngắn của các cây bút nữ.
5
7. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, luận án gồm 4 chương
cụ thể như sau:
- Chương 1: Tổng quan về tình hình nghiên cứu
- Chương 2: Truyện ngắn nữ Việt Nam từ 1986 đến nay trong bối cảnh đổi
mới và hội nhập
- Chương 3: Những mô hình giao tiếp trong truyện ngắn nữ Việt Nam từ
1986 đến nay
- Chương 4: Những dạng thái biểu hiện trong truyện ngắn nữ Việt Nam từ
1986 đến nay
6
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước
Từ năm 1986 đến nay, cùng với sự phát triển của nhiều thể loại, truyện
ngắn đã “ghi danh” mình như một trong những thể loại có bước tiến mạnh mẽ
trong nền văn học thời kỳ đổi mới. Nghiên cứu về thể loại truyện ngắn vì thế đã
thu hút được sự quan tâm của đông đảo giới nghiên cứu phê bình. Nhiều công
trình nghiên cứu chuyên sâu về truyện ngắn từ hệ thống lý thuyết thể loại đến
thực tiễn sáng tác, từ diện mạo chung đến những hiện tượng cụ thể đã xuất hiện.
Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu trực tiếp về truyện ngắn nữ còn khá hạn
chế. Phần lớn là những bài báo đăng trên các tạp chí, website hoặc là những bài
viết được lồng ghép trong những nghiên cứu về văn xuôi nữ nói chung. Một số
tác giả nữ đã được đề cập ở những công trình nghiên cứu chuyên sâu nhưng
thường dừng lại ở từng tác giả đơn lẻ hay nhóm các tác giả theo một hệ vấn đề
nhất định. Vì thế, qua việc tổng hợp các công trình và bài viết về văn xuôi nữ nói
chung và truyện ngắn nữ nói riêng, chúng tôi khái quát được 4 hướng nghiên cứu
chính về truyện ngắn nữ Việt Nam (có thể lồng ghép trong văn xuôi nữ) từ 1986
đến nay cụ thể như sau:
1.1.1. Tổng kết, đánh giá thành tựu của các cây bút nữ
Từ 1986 đến nay, truyện ngắn nữ đã phát triển hơn 30 năm. Đó là chặng
đường không dài so với lịch sử phát triển của văn học dân tộc. Thế nhưng, với
khoảng thời gian ấy cũng đủ để những nhà nghiên cứu nhìn lại vị trí, vai trò cũng
như sự đóng góp của các cây bút nữ trong diễn trình văn học Việt Nam đương
đại. Bên cạnh niềm tin, sự kỳ vọng về một nền văn học “mang gương mặt nữ”,
các bài viết theo xu hướng này đã soi rọi được nhiều khía cạnh đặc trưng trong
sáng tác của những người đàn bà viết văn.
7
Năm 1993, với nhiều bài viết về truyện ngắn, nhà phê bình lý luận văn
học Bùi Việt Thắng đã nhận thấy sự bứt phá của một “lực lượng “Ganepho”
giàu nội lực”. Trong bài viết Khi người ta trẻ (I) (Tản mạn về truyện ngắn của
những cây bút nữ trẻ), ông không chỉ khẳng định sự đóng góp của các cây bút nữ
trẻ trên văn đàn “Truyện ngắn hôm nay đang khởi sắc nhờ sự đóng góp không
nhỏ của các cây bút nữ trẻ. Dung nhan của thể loại nhỏ đang lấp lánh hơn
những giọng điệu trẻ trung của Nguyễn Thị Thu Huệ, Võ Thị Hảo, Nguyễn Thị
Ấm, Y Ban, Nguyễn Minh Dậu và Phan Thị Vàng Anh” [132, tr 189] mà còn lật
mở những đặc điểm của các nữ văn sĩ. Theo ông, làm nên nét đặc trưng của các
cây viết nữ trẻ chính là “nhu cầu đến như là say mê được tham dự, được hòa
nhập vào những nỗi niềm đau khổ và hy vọng của con người” [132,tr 190].
Chính vì thế nữ tính của những cây bút nữ trẻ “phát lộ rất rõ trong sự quyết liệt
đấu tranh giành giữ tình yêu và sự bình quyền trong tình cảm” [132, tr 191]. Bên
cạnh việc dụng công xây dựng những nhân vật nữ, truyện ngắn của những cây
bút nữ trẻ gây được ấn tượng ở người đọc nhờ cách trình bày cuộc sống trong
hình thức “ lạ hóa” đối tượng, ở sự phá cách rất tự do, khoáng đạt và uyển
chuyển linh hoạt. Do đó, tuy có chút lo lắng về truyện ngắn của các cây bút nữ
khi “vẫn thiếu một cái gì đó thật căn cốt, thật dư ba” nhưng ông vẫn khẳng định
“chính họ chứ không ai khác sẽ làm nên diện mạo văn học thế kỷ hai mốt…tôi
vẫn tin vào thế hệ thứ năm này như tin vào tiền đồ của văn học nước nhà sẽ tới
một thời kỳ phục hưng” [132, tr 196 - 197]. Có thể thấy, tuy chỉ là một bài viết
nhỏ nhưng nhà nghiên cứu Bùi Việt Thắng đã có những nhìn nhận khá xác đáng
về những đặc điểm cũng như triển vọng trong sáng tác của đội ngũ những cây
bút nữ trẻ lúc bấy giờ và cũng lực lượng sáng tác chính của văn học nữ đương đại.
Năm 1995, trong bài viết mở đầu Những tác giả nữ trong nền văn xuôi
cách mạng của cuốn sách Truyện ngắn các tác giả nữ (Tuyển chọn 1945 – 1995),
nhà phê bình Hà Minh Đức đã có cái nhìn bao quát về lực lượng sáng tác những
người viết nữ từ giai đoạn cách mạng đến sau năm 1975. Theo nhà nghiên cứu,
8
với các tác giả thuộc thế hệ nổi lên từ sau 1975 như Phạm Thị Hoài, Dạ Ngân,
Trần Thị Trường, Ngô Thị Kim Cúc, Nguyễn Thị Ấm, Phạm Thị Minh Thư…,
sáng tác của họ đã xuất hiện nhiều yếu tố mới từ nhân vật đến cấu trúc: “Các
nhân vật mở rộng nếp cảm nghĩ, bộc lộ rõ cá tính trong các mối quan hệ, trong
thị hiếu thẩm mĩ và ngôn ngữ xử sự. Cấu trúc câu chuyện cũng vẫn xoay theo
những kiểu dáng mới không theo nếp truyền thống” [10, tr 7]. Còn những cây
bút nữ mới xuất hiện gần đây như Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh,
Võ Thị Xuân Hà, Hồ Hải Âu, “cái tôi của mỗi người đều không dấu kín mà bộc
lộ chân tình, linh hoạt trên trang viết. Tươi trẻ, nhưng từng trải, biết hòa nhập.
Theo ông, chất nữ tính làm nên sự khác biệt trong sáng tác của các cây bút nữ
trong giai đoạn này chính là “sự mềm dịu”, “phần thì bộc lộ vẻ đẹp khách quan
của những tâm hồn nữ, phần thì làm dịu đi ở người đọc những mệt mỏi trăn trở
khó khăn của cuộc đời. Chính cái tâm lý ấy góp phần tạo nên chất thơ riêng của
các tác giả nữ” [10, tr 7]. Vì thế ông khẳng định “văn xuôi nữ phải có chất thơ”,
tuy nhiên điều làm cho người đọc ngạc nhiên và cũng có khi hứng thú là “sự
mạnh dạn của nhiều cây bút nữ trong việc bộc lộ phần rất riêng tư của tình yêu
kể cả những khao khát thầm kín có tính chất bản năng ở mỗi người” [10, tr 7 -
8]. Chính sự “vừa đông vui về lực lượng, vừa đa dạng về tiềm năng, phong cách”
[10, tr 8], khiến nhà nghiên cứu tin rằng, văn học nữ khi khởi phát còn dừng lắng
như đợi chờ sự tích tụ thì “trong khoảng hơn thập kỷ trở lại đây đã thành dòng
chảy xiết mạnh mẽ, hứa hẹn nhiều thành quả tốt đẹp” [10, tr 8].
Bước sang thế kỷ XXI, dường như là một mốc thời gian đủ xa để các nhà
nghiên cứu nhìn lại thành tựu của văn học nữ, đặc biệt là truyện ngắn nữ để từ đó
nhận diện những nét đặc trưng riêng của những người viết nữ qua nhiều bài viết
khác nhau. Bằng sự mẫn cảm của một người đàn bà, năm 2001, nhà nghiên cứu
Nguyễn Thị Bích Thu đã có nhiều kiến giải mang tính phát lộ bản chất của văn
xuôi nữ trong bài viết “Văn xuôi phái đẹp”. Theo bà, “Trong những năm gần
đây, cùng với đội ngũ viết văn của cả nước, các nhà văn nữ vẫn tỏ ra sung sức
9
và bền bỉ trong lao động sáng tạo. Bằng những trang viết của mình, các chị đã
góp phần nâng cao tính thẩm mỹ của thể loại, đặc biệt vẫn giữ được “bình
đẳng” với đồng nghiệp nam giới về hiệu quả và chất lượng nghệ thuật” [143, tr
112]. Bản lĩnh của người viết nữ được thể hiện thông qua việc làm chủ ngòi bút
trong tư duy nghệ thuật và cảm hứng sáng tạo: “Văn chương của phái đẹp hôm
nay đã không thi vị hóa những chuyện đời, không tỏ ra đài các hoặc đa cảm
trong những dòng lệ…mà sắc sảo và sâu sắc khi tiếp cận và khai thác đề tài thế
sự, đời tư với nỗi đau nhân tình thế thái bằng lối viết dịu dàng mà bén ngọt, diết
dóng mà đồng cảm sẻ chia với những thân phận, những con người sống quanh
mình” [143, tr 113,]. Đặc trưng của văn xuôi phái đẹp trên phương diện đề tài là
“những va chạm nhỏ, những xung động khẽ của cuộc sống” hay “cái lỉnh kỉnh,
dở dang” của cuộc đời. Với ưu thế riêng của giới tính, các nhà văn nữ đã thể
hiện sở trường của mình trong đề tài tình yêu muôn thuở, trong khai thác đối
tượng sáng tạo chủ yếu chính là cuộc đời và tâm hồn của người phụ nữ. Đồng
thời, bà cũng khẳng định đối tượng mà người đàn bà tìm kiếm chính là đàn ông –
những Adam của cuộc sống đời thường. Mỗi trang viết của họ là một sự vỡ lẽ về
các đấng mày râu mà quan trọng hơn đó là sự “bộc lộ lòng vị tha, nhân ái của
phụ nữ với con người và cuộc đời. Suy cho cùng đó cũng là một cách dung hòa
cân bằng các mối quan hệ ứng xử ở đời” [143, tr 115]. Trong sáng tác của mình,
các cây bút nữ đã thể hiện cả ý thức lẫn vô thức sáng tạo, dựa trên linh cảm đầy
biến ảo để khai thác đến nhiều vỉa tầng của hiện thực và chiều sâu nhân vật. Vì
thế, việc phát hiện các tình huống tâm lý, thế giới nội tâm nhân vật với bút pháp
tự sự trữ tình đã trở thành một nét đặc trưng trong sáng tác của các chị. Bên cạnh
đó, việc không ngừng đổi mới nghệ thuật ngôn từ, lối viết tự do, khoáng đạt hiện
đại mà gợi cảm và đầy nữ tính đã khiến tác phẩm của các chị ngày càng có nhiều
độc giả. Chính với những thành tựu đó, nhà nghiên cứu đã tin rằng “trong nền
văn xuôi đương đại phong phú và đa dạng hôm nay, sáng tác của các nhà văn nữ
10
đã có một tiếng nói riêng, hương sắc riêng…phụ nữ với tác phẩm của phụ nữ sẽ
là lời mời, tiếng gọi của văn chương và người đọc trong thế kỷ 21” [143, tr 117]
Năm 2006, trong bài viết Sức bật mới của những cây bút nữ, tác giả Lê
Viết Thọ thông qua việc đánh giá những cái tên rất quen như Võ Thị Hảo, Trần
Thùy Mai, Nguyễn Ngọc Tư đến sự xuất hiện của những cây bút nữ trẻ mới trên
văn đàn như Hồng Hạnh, Phan Việt đã khẳng định “Những năm đầu của thế kỷ
XXI này, văn đàn thêm một lần khởi sắc bởi những cây bút nữ. Nhờ họ, văn học
ngày càng mang thêm diện mạo mới, một đời sống nhiều giằng co, trắc ẩn và đa
đoan…Những cây bút nữ đã và đang âm thầm tỏa sáng, bày tỏ cách hiện diện
trong cuôc sống bằng văn chương, tạo nên những nhịp mạch mới cho đời sống
văn học [125]. Theo ông, điều quan trọng làm nên sức bật ấy chính là “trong sâu
thẳm trang văn cho dù tưởng như cay nghiệt, thì vẫn phập phồng một trái tim
nhân hậu, một cái nhìn sẻ chia, cảm thông trước cuộc đời, tạo nên một mạch
nguồn ấm áp trong đời sống văn chương” [125].
Năm 2007, nhà nghiên cứu Phạm Xuân Nguyên ở bài viết Vũ điệu văn
chương trẻ trong tập truyện ngắn của 12 cây bút nữ đã đã bộc lộ sự vui mừng khi
chứng kiến sự trưởng thành của những cây viết thế hệ 7x, 8x như Nie Thanh
Mai, Nguyễn Thúy Hằng, Ngọc Cầm Dương, Từ Nữ Triệu Vương…và với
những gì họ đem lại trong văn chương “Họ trẻ tuổi, họ sống trẻ theo nhịp sống
của thế hệ và thời đại, họ nghĩ và cảm trẻ. Và họ viết trẻ. Trẻ tự nó đã là một
phẩm chất. Ở lối nhìn đời. Và ở cách trình bày lối nhìn ấy thành văn…Không có
gì mới dưới mặt trời, nói về thất tình lục dục của con người. Chỉ có cách nhìn
cách nói về chúng là mới mà thôi. Dù cái mới đây nhiều khi chưa phải là cái mới
thực chất. Mới chỉ đang là khác, là lạ. Thì đấy cũng đã là một sự bắt đầu để có
mới” [10, tr 7]. Theo tác giả, truyện ngắn là thể gan lì và ương bướng khi chấp
nhận mọi người viết muốn thử sức nhưng không dễ cho ai làm chủ được nó khi
không có đủ nội lực và tay nghề, nhưng 12 cây bút nữ trẻ đã đáp lại lời mời và
sự thách thức đó. Mỗi cây bút, với những cách khám phá khác nhau đã mạnh dạn
11
trong việc “đột phá” vào mảng hiện thực lạ, những lối viết mới mẻ tạo nên sự đa
dạng, hấp dẫn của thế hệ của các nhà văn trẻ.
Tiếp nối những nhận định về văn xuôi nữ ở giai đoạn trước, năm 2013 tác
giả Trần Thục đã có bài viết Một góc nhìn về văn xuôi nữ, khá bao quát về nhiều
phương diện của văn xuôi nữ trong đó đặc biệt là truyện ngắn nữ. Theo tác giả, ở
thể loại truyện ngắn, các cây bút nữ đã mang đến cho làng văn những giọng điệu
mới. Văn chương của họ phần nào đã khẳng định được vị thế trên văn đàn, tên
tuổi của họ ngày càng trở nên quen thuộc với nhiều độc giả. Về đề tài, các tác giả
nữ viết nhiều về đề tài tình yêu, hạnh phúc với những khát vọng tình yêu luôn
luôn bỏng chát nhưng dường như chẳng bao giờ có thể thực hiện được, chẳng
bao giờ có thể trọn vẹn. “Vẫn còn bàng bạc những mất mát trong tình yêu và
hôn nhân, nhấn chìm người phụ nữ vào sự cô đơn, đau khổ” [145]. Tuy nhiên,
các cây bút nữ đã mạnh dạn cất lên tiếng nói cá nhân, nêu lên ước nguyện của
mình, dám đòi hỏi và kêu gọi người đời quan tâm đến số phận những người phụ
nữ. Không chỉ vậy, “văn xuôi nữ còn đi sâu vào những tầng bậc của cuộc sống
gia đình, ở đó có cả những mâu thuẫn, xung đột, bất hòa giữa hai thế hệ mà
tưởng như không thể giải tỏa nổi” [145]. Đặc biệt, theo nhận định của tác giả
Trần Thục, nhân vật nữ trong tác phẩm của các cây bút nữ xuất hiện với mật độ
dày đặc và trở thành hình tượng trung tâm, có thể lên đến 2/3 nhân vật của toàn
bộ tác phẩm. “Nhân vật nữ của họ rất tinh tế, nhạy cảm, có cá tính mạnh mẽ,
dám sống, dám yêu, dám đòi hỏi quyền được yêu, quyền được sống hạnh phúc
chính đáng” [145]. Đồng thời với giọng điệu mới mẻ, có cá tính và ngôn ngữ sắc
sảo, mạnh bạo mà vẫn không thiếu chất đằm thắm, dịu dàng, các nhà văn nữ đã
góp những tiếng nói riêng, những hương sắc riêng cho diện mạo văn xuôi đương
đại. Theo tác giả, văn xuôi nữ ở Việt Nam tuy xuất hiện muộn hơn so với các
nước khác nhưng “hứa hẹn những bước đi triển vọng góp phần làm phong phú
diện mạo văn học Việt Nam thế kỷ XXI” [145].
12
Năm 2015, nhà nghiên cứu Bùi Việt Thắng – người tự nhận mình có xu
hướng “khuynh nữ” lại tiếp tục có bài viết luận bàn về những cây bút nữ trong
hội thảo cuốn sách Phái đẹp và cuộc đời. Dường như, sau một khoảng thời gian
dài nhìn lại, từ bài viết Khi người ta trẻ (I) (Tản mạn về truyện ngắn của những
cây bút nữ trẻ) vào năm 1993 với cái nhìn còn chút lo lắng cho tương lai của văn
học nữ, thì ở bài viết “Văn chương mang gương mặt nữ” trong hội thảo này, tác
giả đã thể hiện niềm tin, sự khẳng định về một “đội quân tóc dài trong văn
chương” trên nhiều phương diện. Cùng với thơ ca, các cây bút văn xuôi nữ đã có
một vị thế và vai trò riêng trong nền văn chương Việt. Theo ông, thế mạnh của
người viết nữ là lay động người đọc bằng những xúc cảm chân thành, mộc mạc
nhưng bên cạnh đó còn là một chất trí tuệ thấm đượm trên những trang văn, là sự
“đốt cháy trái tim đến thành trí tuệ” trong văn nữ. Nhà nghiên cứu có phần hơi
chủ quan khi khẳng định “tương lai của văn chương nói chung cũng chính là
tương lai của văn chương nữ nói riêng” [134]. Nhưng ông hoàn toàn có lý khi
cho rằng ““văn chương mang gương mặt nữ” là nói đến khả năng thuần hóa
những nỗi đau của con người mà nghệ thuật ngôn từ có thể thực hiện được sứ
mạng của mình thông qua tác phẩm của nhà văn nữ” [134]. Bởi văn nữ và văn
chương nói chung đều giống nhau ở cảm hứng nhân văn về con người, vì con
người, đều hướng đến Chân – Thiện – Mỹ.
Năm 2016, tác giả Châm Khanh trong bài viết “Phụ nữ và văn chương”,
sau khi nhìn lại lực lượng sáng tác nữ qua nhiều thế hệ đã đưa ra những vấn đề
khá quan trọng cần có sự giải đáp trong việc nghiên cứu văn chương nữ như hiện
tượng nở rộ của các cây bút nữ, tại sao các cây bút nữ lại chuyên về văn xuôi
hơn thơ ? Hay cách viết của phụ nữ so với nam giới có gì khác? Tác giả bài viết
đã đưa ra những câu trả lời từ các nhà nghiên cứu như Hoàng Ngọc Hiến, Đặng
Anh Đào và theo ông những quan niệm đó đều có tính thành kiến hơn là phán
đoán khoa học. Nhưng đáng tiếc là ngay bản thân tác giả cũng không đưa được
13
kiến giải của riêng mình về sự khác biệt cụ thể giữa hai phái tính trong khía cạnh
sáng tác văn học. Vấn đề được đặt ra vẫn là một câu hỏi bỏ ngõ cần lời giải đáp.
Đáng chú ý trong hướng nghiên cứu này, có lẽ là bài viết Ba mươi năm
truyện ngắn nữ trong xu thế hội nhập của tác giả Lê Thị Hường vào năm 2017.
Bài viết được xem như một sự tổng kết khá toàn diện về thành tựu cũng như đặc
điểm của truyện ngắn nữ. Từ sự khẳng định về ưu thế vượt trội của truyện ngắn
trong một giai đoạn “Tiểu thuyết là những thành trì, nhưng đã đến thời viết
ngắn”, tác giả đã nhận thấy một sự thật là dường như “phụ nữ bắt mạch với thời
đại nhanh hơn nam giới”. Vì thế từ năm 1986 đến thập niên đầu thế kỷ XXI, sự
xuất hiện ồ ạt của giới nữ đem lại sinh khí mới trong văn học. Ba mươi năm, vắt
ngang hai thế kỷ, truyện ngắn nữ tập hợp được nhiều thế hệ nhà văn, hội tụ nhiều
phong cách sáng tạo. Bằng sự trăn trở, tìm kiếm, chính đội ngũ những người nữ
viết truyện ngắn nhiều thế hệ đã góp phần không nhỏ trong việc cách tân thể loại
hòa chung xu thế toàn cầu. Tác giả bài viết đã thể hiện sự sắc sảo của mình trong
việc nhận diện đặc điểm làm nên sự khác biệt của các cây bút nữ chính là trường
nhìn và lối viết nữ. Nhà nghiên cứu đi sâu vào hai đề tài lịch sử và chiến tranh
trong sáng tác của các nữ văn sĩ như một minh chứng cho việc “Với cái nhìn
hướng nội, truyện ngắn nữ quan tâm nhiều điều ẩn mật của tâm hồn, kể cả khi
khai thác những mảng hiện thực vốn được xem là dành cho nam giới” [86, tr
202]. Bên cạnh đó, “Đời sống phố thị và sự hiện tồn đầy âu lo của con người là
một hướng phổ biến của truyện ngắn nữ - đặc biệt giai đoạn đầu thế kỷ XXI”
[86, tr 204]. Truyện ngắn nữ đi sâu vào những mảng hiện thực nhức nhối, những
lỗ hổng văn minh đô thị mà ở đó con người vừa là kẻ dự phần, vừa xa lạ, lạc
lõng, cô đơn. Do đó, tuy chưa ghi dấu ấn vân tay đậm nét, “nhưng truyện ngắn
nữ đã dự phần vào những vấn đề đương đại, đặc biệt là phi lý phận người” [80, tr
204]. Cùng với đó, tác giả Lê Thị Hường dường như đã nhìn tận đáy sâu tâm hồn
người phụ nữ để thấy “hiện sinh tính dục, khỏa lấp nỗi cô đơn hiện tồn bằng
những mải mê thân xác là vấn đề phổ biến trong truyện ngắn nữ…Tuy vậy, điểm
14
riêng rất nữ tính là niềm kiêu hãnh giới, là cảm thức dục tính uyên nguyên, góp
phần đa dạng hóa cách nhìn con người bản năng” [86, tr 204 – 205]. Vì thế cổ
mẫu Đất, Nước mang tính âm xuất hiện đậm đặc với nhiều ý nghĩa trong thế giới
nghệ thuật của các nhà văn nữ. Một đặc điểm khác không thể không nhắc đến là
sự liên văn bản và dung hợp thể loại ở truyện ngắn nữ. Chính điều này đã khiến
những đặc trưng thẩm mỹ của truyện ngắn ít nhiều bị phá vỡ. Cảm quan và lối
viết hậu hiện đại với cấu trúc phân mảnh, tính chồng lấn giữa ngôn ngữ người
trần thuật và ngôn ngữ nhân vật… in dấu ấn trong truyện ngắn của nhiều nữ nhà
văn như một minh chứng cho sự trăn trở, tìm tòi đổi mới bút pháp nghệ thuật của
các chị. Có thể thấy, với một bài viết không quá 10 trang nhưng tác giả Lê Thị
Hường đã góp phần lý giải được rất nhiều vấn đề trong nghiên cứu truyện ngắn
nữ, giúp cho việc nhận diện những đặc trưng của truyện ngắn nữ nói riêng và
văn xuôi nữ nói chung được tường minh, sáng rõ.
Nhìn chung, các công trình và bài viết trong phạm vi chúng tôi bao quát
được đều có xu hướng khẳng định thành tựu cũng như đóng góp của các nhà văn
nữ trên văn đàn. Tuy nhiên, dù không nhiều nhưng cũng phải kể đến một số ý
kiến thể hiện quan điểm không tin tưởng hay có thái độ hoài nghi với sự phát
triển đối của văn học nữ. Nhà phê bình Nguyễn Thanh Sơn trong bài viết Các
nhà văn nữ và sự khủng hoảng trong văn học Việt Nam hiện đại đã thể hiện thái
độ không mấy thiện cảm với văn chương nữ giới. Ông nhận định “Những nhà
văn nữ Việt Nam theo tôi, có lẽ chẳng mang đến cái gì mới bởi còn lâu họ mới tự
đổi mới được…Phụ nữ Việt Nam cũng giống như phụ nữ trên toàn trái đất,
không thể sống thiếu các thần tượng của mình, họ luôn phải dựa dẫm vào hình
ảnh một người đàn ông lý tưởng nào đó” [112]. Và cuối cùng ông rút ra kết luận
“sự thiển cận của tư tưởng, nông cạn về tri thức, hời hợt trong tình cảm đã trở
thành căn bệnh kinh niên không chỉ của riêng các nhà văn nữ, nó chỉ là một
phần trong cuộc khủng hoảng sâu sắc của văn học Việt Nam hiện nay. Có điều
bằng thái độ tự tin một cách khó hiểu, những nhà văn ấy cứ tiếp tục cho ra đời
15
những tác phẩm không sức sống, những mẫu chuyện vụn vặt vô hồn. Họ đẩy sự
tầm thường lên đến độ bất thường” [112]. Cũng đồng quan điểm này, tuy không
nặng nề như tác giả Nguyễn Thanh Sơn nhưng nhà nghiên cứu Hoàng Đăng
Khoa cũng bộc lộ sự nghi ngại trước sự đổi mới của nhiều cây bút nữ trong thời
gian gần đây. Theo ông, đó không phải là sự đổi mới mà phải chăng là sự đánh
mất mình của nhiều cây bút trên trang viết. Những nhận định này có phần cực
đoan, phiến diện. Người viết đã áp đặc cái nhìn đậm màu sắc chủ quan của cá
nhân để khái quát một hiện tượng văn học. Những thành tựu của văn học nữ qua
hơn 30 năm và sự quan tâm đặc biệt của công chúng dành cho hiện tượng này đã
chứng tỏ giá trị của nó mang lại cho nền văn học nước nhà cũng như cho đời
sống tinh thần của người đọc Việt. Tuy nhiên, có thể thấy rằng những ý kiến trái
chiều như vậy là điều không thể tránh khỏi của một giai đoạn văn học thuộc về
cái “đương đại chưa hoàn thành” (M.Bakhtin). Nó chứng tỏ sự phức tạp của một
hiện tượng văn học cần có những nghiên cứu chuyên sâu hơn để chứng minh và
khẳng định.
1.1.2. Tiếp cận từ tư duy nghệ thuật và đặc trưng thể loại
Hướng nghiên cứu này tập trung chủ yếu ở một số công trình luận án đã
bảo vệ trong thời gian vừa qua tiêu biểu như: Những đặc điểm cơ bản của truyện
ngắn Việt Nam giai đoạn 1975 – 1995 của tác giả Lê Thị Hường (Luận án phó
tiến sỹ khoa học Ngữ Văn – Đại học Khoa học xã hội và nhân văn – Năm 1995),
Truyện ngắn Việt Nam từ 1986 đến nay (Nhìn từ góc độ thể loại) của tác giả Lê
Thị Hương Thủy (Luận án Tiến sĩ văn học – Học viện khoa học xã hội – Năm
2013), Truyện ngắn Việt Nam sau 1975 – nhìn từ góc độ thể loại của tác giả
Nguyễn Thị Năm Hoàng (Luận án tiến sĩ văn học – Đại học Khoa học xã hội và
nhân văn – Năm 2015). Điểm chung của ba luận án này là đều không lấy truyện
ngắn nữ làm đối tượng nghiên cứu trực tiếp nhưng thông qua bức tranh toàn
cảnh của truyện ngắn Việt Nam từ sau 1975,các công trình đã giúp những người
16
nghiên cứu truyện ngắn nữ nhận diện đặc trưng bút pháp, tư duy nghệ thuật hay
đặc điểm phong cách của một hay một số tác giả nữ.
Chỉ lấy đối tượng nghiên cứu là những truyện ngắn giai đoạn khoảng 20
năm từ sau 1975 nên luận án Những đặc điểm cơ bản của truyện ngắn Việt Nam
giai đoạn 1975 – 1995 của tác giả Lê Thị Hường chưa nhìn thấy sự phát triển trở
thành “hiện tượng” của các cây bút nữ trên văn đàn Việt. Nhưng trong cái nhìn
chung về truyện ngắn giai đoạn này, nhà nghiên cứu đã nhận diện đặc điểm
chung trong sáng tác của một số nhà văn nữ như Phạm Thị Hoài, Y Ban, Nguyễn
Thi Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh trên các phương diện như như cốt truyện, kết
cấu, nhân vật, thời gian, không gian nghệ thuật hay ngôn ngữ.
Góp phần trong việc dần làm lộ diện “hiện tượng” văn học nữ những năm
cuối thập kỷ 90, còn phải kể đến hai công trình luận án Truyện ngắn Việt Nam từ
1986 đến nay (Nhìn từ góc độ thể loại) của tác giả Lê Thị Hương Thủy và
Truyện ngắn Việt Nam sau 1975 – nhìn từ góc độ thể loại của tác giả Nguyễn
Thị Năm Hoàng. Cùng một đề tài tương đối giống nhau nhưng với cách tiếp cận
khác nhau, hai tác giả đã có những kiến giải khá bao quát về truyện ngắn nói
chung và truyện ngắn một số tác giả nữ nói riêng.
Trong luận án của mình, khi khám phá diễn trình truyện ngắn thời kỳ đổi
mới, tác giả Lê Thị Hương Thủy đã nhận diện sự thăng hoa của truyện ngắn nữ :
“Cũng cần nói đến hiện tượng truyện ngắn của các cây bút nữ vào những năm
cuối thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90. Đây được coi là thời kỳ thăng hoa của truyện
ngắn nữ với sự gia tăng của các cây bút nữ, nhất là truyện ngắn có lối viết và
giọng điệu khác nhau. Sự xuất hiện đông đảo của người viết nữ cùng với nỗ lực
và ý thức cách tân về lối viết đã đem đến cho người đọc những cảm quan mới
mẻ” [147, tr 27 – 28]. Tác giả luận án cũng nhận ra đặc điểm nổi bật về điểm
nhìn trần thuật trong sáng tác của các cây bút nữ là trần thuật từ ngôi thứ nhất
với điểm nhìn bên trong “hầu hết truyện ngắn của các cây bút nữ như Phan Thị
Vàng Anh, Lý Lan, Nguyễn Thị Thu Huệ, Y ban đều viết dưới hình thức người
17
kể chuyện xưng tôi” [147, tr 139]. Đồng thời, qua việc phân tích sự thay đổi ở
nhiều phương diện như quan niệm và tư duy thể loại, các dạng thức xây dựng
nhân vật và tổ chức kết cấu văn bản, hay ngôn ngữ và điểm nhìn trần thuật trong
truyện ngắn thời kỳ đổi mới, luận án đã cho rằng có thể thấy ở phương diện nào,
truyện ngắn nữ cũng có những đại diện góp mặt tiêu biểu như truyện ngắn của
Phạm Thị Hoài, Lê Minh Khuê, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh…
Tuy nhiên, ở công trình này, các truyện ngắn nữ chỉ được đề cập với một số nội
dung nhất định và với dung lượng khá ít như những minh chứng bổ sung cho các
luận điểm triển khai trong luận án bên cạnh các cây bút nam như Nguyễn Minh
Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Tạ Duy Anh…
Tương tự như vậy, trong luận án Truyện ngắn Việt Nam sau 1975 – nhìn
từ góc độ thể loại, tác giả Nguyễn Thị Năm Hoàng đã khám phá truyện ngắn trên
nhiều phương diện như các xu hướng vận động, tình huống, kết cấu, nhân vật và
ngôn ngữ truyện ngắn Việt Nam sau 1975. Diện khảo sát về các truyện ngắn nữ
ở luận án này tuy có rộng hơn khi đi sâu phân tích nhiều tác phẩm cụ thể của các
tác giả nữ như Lê Minh Khuê, Võ Thị Hảo, Nguyễn Thị Thu Huệ, Trần Thùy
Mai, Nguyễn Ngọc Tư nhưng cơ bản đó vẫn là cái nhìn lồng ghép trong cái nhìn
chung về truyện ngắn Việt Nam từ sau 1975 như các luận án trước đó, vì thế
chưa thể nhận diện truyện ngắn nữ như một hiện tượng với những đặc trưng
mang tính chất khu biệt trong nề văn học Việt Nam đương đại.
Đáng chú ý nhất trong hướng nghiên cứu này có lẽ là luận án Truyện ngắn
các nhà văn nữ đương đại – Tư duy nghệ thuật và đặc trưng thể loại của tác giả
Phạm Thị Thanh Phượng (Đại học khoa học xã hội và nhân văn – Năm 2015).
Lấy phạm vi nghiên cứu là truyện ngắn của các tác giả tiêu biểu như Lê Minh
Khuê, Y Ban, Nguyễn Thị Thu Thuệ, Phan Thị Vàng Anh, Võ Thị Hảo, Nguyễn
Ngọc Tư, Đỗ Bích Thúy…, đây được xem là một trong những công trình đầu
tiên nghiên cứu về truyện ngắn nữ một cách khái quát, góp phần khẳng định và
lý giải nhiều vấn đề quan trọng trong tư duy nghệ thuật và đặc trưng thể loại của
18
truyện ngắn nữ. Theo tác giả, truyện ngắn nữ thời kỳ đổi mới đã chứng kiến sự
tăng vọt một cách “đột biến” về lực lượng đội ngũ với những thành công vang
dội. Thậm chí, họ cũng là chủ nhân của một số hiện tượng “gây hấn” dư luận,
tạo ra hiệu ứng tiếp nhận trái chiều với những cái tên tiêu biểu như Phạm Thị
Hoài, Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Hoàng Diệu và Y Ban. Quan trọng hơn, tác giả luận
án đã đem đến cách kiến giải của riêng mình về tiếng nói nghệ thuật mang bản
sắc riêng đậm chất “nữ” thông qua những mảng đề tài tình yêu, hôn nhân và gia
đình, qua những bức chân dung tự họa rất ấn tượng về giới mình hay dạng thức
người kể chuyện ngôi thứ nhất…để từ đó có thể khẳng định “bắt mạch rất nhanh
vào sự vận động của văn xuôi đương đại, truyện ngắn nữ “vào hội” với một dung
nhan sớm chín nở bởi sự “mẫn cảm bản năng” của người cầm bút. Dường như
mọi sự biến đổi hình thức nghệ thuật của văn xuôi đương đại ta đều có thể quan
sát thấy ở hiện tượng này. Điều quan trọng, truyện ngắn nữ “nhập cuộc” với một
bản sắc riêng in đậm dấu ấn giới tính trong sáng tạo nghệ thuật.” [124, tr 49 –
50]. Tìm hiểu tư duy nghệ thuật của truyện ngắn nữ, tác giả Phạm Thị Thanh
Phượng đã khám phá trên các bình diện như: quan niệm sáng tác, hình tượng
cuộc sống, thế giới nhân vật, thế giới biểu tượng, không thời gian nghệ thuật. Ở
mỗi luận điểm, tác giả luận án đều thể hiện sự nhạy bén và sâu sắc trong việc
nhận diện cách nhìn, cách cảm của các nữ văn sĩ. Ở họ những dự cảm bất an với
nỗi cô đơn ám ảnh luôn song hành với niềm tin vào những giá trị nhân văn bền
vững trong cách cảm nhận về đời sống và con người. Tác giả cũng chỉ ra những
biểu tượng mang dấu ấn riêng của những người đàn bà viết văn như con người dị
biệt – khát vọng hướng thiện và khát vọng được cứu rỗi, sex – bản năng hay khát
vọng tình yêu, giấc mơ – thế giới tâm linh thẳm sâu của con người hay thiên
nhiên – dấu vết cổ mẫu và những ẩn dụ về cuộc đời con người… “Trên tất cả,
chúng ta nhận ra một “thiên tính nữ” in đậm trong tư duy nghệ thuật của phái nữ,
khi họ luôn khẳng định thiên chức, thiên tính của mình trong mọi phương diện,
mọi hoàn cảnh” [109, tr 101]. Ở phương diện đặc trưng thể loại, tác giả Phạm
19
Thị Thanh Phượng cũng nghiên cứu rất nhiều bình diện như người kể chuyện
ngôi thứ nhất, nghệ thuật xây dựng tình huống, nghệ thuật tổ chức cốt truyện,
những sáng tạo về mặt kết cấu và ngôn ngữ, giọng điệu. Trên mỗi bình diện, các
nhà văn nữ đều nỗ lực cách tân góp phần không nhỏ thúc đẩy sự vận động và
biến đổi của thể loại truyện ngắn trong đời sống văn học Việt Nam đương đại.
“Dường như đặc trưng thể loại truyện ngắn và tư duy nghệ thuật của các nhà văn
nữ có khá nhiều điểm tương đồng với nhau: cùng linh hoạt, mềm mại như nước,
cùng thiên về đề cao những khoảnh khắc, những “phiến đoạn hành động” có ý
nghĩa mở ra chiều sâu khôn cùng của thế giới tâm hồn, cuộc đời con người, cùng
luôn giữ vững một bản chất “căn cốt” để khẳng định chân giá trị của mình” [109,
tr 146].
Ngoài các công trình luận án trên, gần đây tác giả Lê Thị Hường với bài
viết Tư duy biểu tượng trong văn xuôi nữ cũng góp phần khẳng định một trong
những đặc điểm quan trọng trong tư duy nghệ thuật của các cây bút nữ - tư duy
biểu tượng. Theo bà “Với nữ giới, viết văn là một sự giãi bày. Viết như một nhu
cầu thể hiện khát vọng thầm kín. Đối với đa phần các nhà văn nữ, mỗi tác phẩm
là tiếng kêu của nỗi ám ảnh, là những ẩn dụ cuộc đời. Vì lẽ đó, trong thế giới
nghệ thuật của giới nữ, tư duy biểu tượng đậm nét…” [100]. Trong văn xuôi của
các tác giả nữ, nếu cổ mẫu được sử dụng như một mã thẩm mĩ biểu thị sự tái
sinh, sự cứu rỗi tâm hồn con người thì Mẫu – Đàn bà trở thành biểu tượng của
nữ tính vĩnh hằng và biểu tượng màu sắc là những diễn ngôn đa trị của các cây
bút nữ. Tất cả làm nên “chiếc chìa khóa nhiệm màu thông diễn được cõi riêng tư
vô cùng phức tạp” [100] của các nữ văn sĩ đồng thời góp phần hướng người đọc
đến những chân trời đa dạng hơn của sự tiếp nhận.
1.1.3. Nghiên cứu về những tác giả nữ cụ thể
Đây là hướng nghiên cứu thu hút được nhiều nhất sự quan tâm của các
nhà phê bình hay cả công chúng bạn đọc. Rất nhiều bình diện trong sáng tác của
các cây bút nữ được lật mở trong đó nhiều nhất là những bài viết giới thiệu về
20
các tác phẩm hay phong cách nhà văn . Vì thế, trong phạm vi này, chúng tôi chỉ
điểm qua những bài viết góp phần làm nổi bật đặc trưng, phong cách của một số
tác giả trong phạm vi nghiên cứu của luận án như Lê Minh Khuê, Võ Thị Hảo,
Võ Thị Xuân Hà, Trần Thùy Mai, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh,
Nguyễn Ngọc Tư…
Là một trong những nữ nhà văn “hiếm hoi” sáng tác và thành danh ở cả
hai giai đoạn trước và sau 1975, Lê Minh Khuê được xem một nhà văn có bút
lực dồi dào với danh xưng “bà trùm truyện ngắn”. Trong bài viết “Hiện tượng Lê
Minh Khuê”, tác giả Bùi Việt Thắng đã khái quát những nét đặc sắc trong truyện
ngắn Lê Minh Khuê ở nhiều phương diện. Theo tác giả, “có thể nói cảm hứng
thế sự là cảm hứng chủ đạo trong sáng tác truyện ngắn của Lê Minh Khuê. Cảm
hứng thế sự trong sáng tác của nhà văn thể hiện ở tinh thần dấn thân, nhập cuộc,
ở cái cách “áp sát đời sống”, biết lắng nghe, biết quan sát tất cả mọi diễn biến
phức tạp của nhân tình thế thái” [135]. Thế giới nhân vật trong truyện ngắn của
Lê Minh Khuê khá đa dạng trong đó nổi bật với kiểu nhân vật tha hóa vì đồng
tiền và quyền lực, lãnh cảm với đồng loại hay kiểu “nhân vật cô đơn mang nỗi
buồn vốn được coi như là biểu hiện của một trạng thái tinh thần xã hội”. Đặc sắc
nghệ thuật trong truyện ngắn của Lê Minh Khuê còn ở các chi tiết nghệ thuật đặc
sắc, đoạn kết độc đáo như một “cú đấm nghệ thuật” có thể chinh phục hoàn toàn
độc giả khi tiếp xúc với tác phẩm hay cả tính đối thoại trên mỗi trang văn.
Viết về Lê Minh Khuê còn có thể kể đến các bài viết như Nhà văn Lê
Minh Khuê: Thấu hiểu nỗi bất an của đời sống (Trần Hoàng Thiên Kim), Nhà
văn Lê Minh Khuê, chiến tranh ám ảnh qua từng trang viết (Phương Thúy)…
Cùng với đó, trong bài viết Tứ tử trình làng, nhà nghiên cứu Bùi Việt
Thắng đã nhận diện một vài đặc trưng nổi bật của bốn cây bút: Phan Thị Vàng
Anh, Nguyễn Thị Thu Huệ, Võ Thị Hảo và Lý Lan. Với Phan Thị Vàng Anh, đó
là cách “lạ hóa những điều quen thuộc, biết làm cho da diết những điều tưởng
như nhạt nhẽo”, truyện của chị không nổi trội về cốt truyện và nhân vật. “Sự tìm
21
tòi của người viết dường như là bằng bất cứ cách nào diễn đạt được hết ý tưởng
của mình…Đọc Phan Thị Vàng Anh ta bớt được một phần lối nhìn đời đơn giản,
một chiều, thêm một lần ta tới gần được cái thế giới bí ẩn của đời sống và con
người vốn không thôi làm ta ngạc nhiên”[11, tr 6]. Võ Thị Hảo lại như là người
kể chuyện “cổ tích hiện đại”. Truyện của chị “có cái dập dìu của những “chàng”,
những “nàng”, không khí truyện lúc tỏ lúc mờ, câu chuyện được kể lắm lúc
phiêu diêu…tất cả hòa trộn tạo nên cái đặc sắc riêng. Nổi bật nhất trong truyện
ngắn của Võ Thị Hảo là việc tạo dựng những tình huống truyện đặc sắc, với
những nhân vật “thường có nét dị dạng khác người nhưng tâm hồn họ thánh
thiện, giàu lòng vị tha và đức hy sinh – hy sinh để cứu người khác” [11, tr 7].
Còn Nguyễn Thị Thu Huệ, sự “chao chát và dịu dàng, thơ ngây và từng trải, đớn
đau và tin tưởng cứ trộn lẫn trong văn Nguyễn Thị Thu Huệ tạo nên tính đa cực
của ngòi bút nữ có duyên trong lĩnh vực truyện ngắn” [11, tr 8]. Nhân vật của chị
thường được xây dựng trong mâu thuẫn “vừa cố dính kết với gia đình như một
“hang ổ cuối cùng”, lại vừa bị nhiều ngoại lực giằng xé, lối kéo. Thành ra phân
thân, thành ra nhiều bi hài kịch. Con người dễ rơi vào tục lụy ái tình là vì vậy”.
[11, tr 8]. Đọc truyện ngắn của Lý Lan, người đọc lại cảm thấy thật nhẹ nhàng
bởi “lối viết truyện ngắn rất tự do, dường như không câu nệ khuôn phép nào…
Truyện ngắn Lý Lan vừa như cái gì liên tục mà đứt đoạn, mơ hồ mà rõ ràng – có
thể đó là lối viết dựa vào dòng ý thức, Lý Lan không quá chuyên chú miêu tả
chính xác các hiện tượng đời sống mà thường cố gắng “ướm” mình vào nhân vật
và hay “giả sử” để xử sự trong mọi trường hợp”[11, tr 9 – 10].
Nghiên cứu về Võ Thị Xuân Hà, nhà nghiên cứu Văn Giá đã thể hiện sự am
tường sâu sắc về sáng tác của nữ nhà văn này trong bài viết Đọc văn của Võ Thị
Xuân Hà được đăng trên tạp chí Sông Hương. Theo nhà nghiên cứu, Võ Thị Xuân
Hà là “nhà văn của những cõi sống chập chờn hư thực”, “văn của Võ Thị Xuân Hà
trong những biểu hiện ràng rịt và phức tạp khác nhau, tất cả đều hướng về những
trạng thái chập chờn giữa cõi thực và cõi ảo. Rất thực. Nhưng bảo thực hoàn
22
toàn không phải. Rất huyền hồ, hư ảo. Nhưng bảo neo đậu hoàn toàn trong cõi
ảo cũng không. Cây bút nữ này ngay từ đầu và cho tới tận bây giờ vẫn chơi vơi,
đi về, bay lượn trong khung trời hư thực” [81]. Đặc điểm này xuyên suốt trong
toàn bộ sáng tác tạo nên một mỹ học mang tên Võ Thị Xuân Hà. Nhân vật nữ -
nhân vật trung tâm trong sáng tác của Võ Thị Xuân Hà vì thế có đặc điểm chung
thường rất trần thế, đa đoan nhưng cũng rất mộ đạo và cao quý. Kiếp phận đa
đoan là mẫu số chung của nhân vật nữ trong sáng tác của Võ Thị Xuân Hà nhưng
điều thú vị là họ luôn có một thứ ánh sáng bao bọc. Đó là đời sống tâm linh với
một tấm lòng mộ đạo. Văn củả Võ Thị Xuân Hà là lối văn trữ tình, nhịp chậm.
Hầu hết các truyện của Võ Thị Xuân Hà đều không coi trọng cốt truyện. Nhà văn
đã tiến hành tối giản cốt truyện, chị chú trọng nhân vật hơn sự kiện. Đồng thời
nhà văn thích tìm chất thơ tinh tế của nội giới và ngoại giới. Văn Võ Thị Xuân
Hà có những ám ảnh từ những thứ tưởng rất vu vơ. “luôn được chảy trôi trong
một tiết điệu thong thả, tha thiết, sâu lắng. Nó không thích hợp với sự nhanh gấp,
chói gắt” [145]. Chính vì thế, trong đội hình các cây bút nữ, Võ Thị Xuân Hà đã
xác lập cho mình một nhan sắc, một phong thái văn chương. Có thể thấy, tuy chỉ
mới là những ấn tượng, nhưng nhà nghiên cứu Văn Giá đã thể hiện cái nhìn thấu
suốt, đồng điệu trong việc khám phá giá trị văn chương của nữ văn sĩ này.
Không cùng thế hệ nhưng Trần Thùy Mai và Nguyễn Ngọc Tư lại giống
nhau ở điểm cùng tạo nên những dấu ấn văn hóa vùng miền trong văn. Nếu Trần
Thùy Mai là người viết in đậm dấu ấn của vùng đất kinh kỳ xứ Huế thì Nguyễn
Ngọc Tư lại là nhà văn của con người Nam Bộ. Tác giả Lê Thị Hường trong bài
viết “Trần Thùy Mai – hành trình đi tìm hạnh phúc ảo” đã có những khám phá
khá toàn diện về văn chương của nhà văn xứ Huế này. Theo tác giả, tác phẩm nữ
thường có tính chất tự truyện nhưng nếu xem truyện ngắn Trần Thùy Mai là tự
truyện thì không phải, cảm giác ở Trần Thùy Mai là sự phân mảnh, hóa thân rất
rõ trên từng trang viết đầy nữ tính của nhà văn. Chính vì thế, không thu hút
người đọc bằng những cốt truyện lạ, càng không gây sự chú ý bằng những yếu tố
23
tình dục, Trần Thùy Mai viết như để giải bày “phần lớn Trần Thùy Mai để ngòi
bút trôi theo trực cảm, cảm giác. Nhỏ nhẹ, dịu dàng, với phương thức tiếp cận
cuộc sống nửa cổ tích, nửa thế sự, Trần Thùy Mai đã khẳng định một phong cách
riêng. Bằng khả năng cảm nhận và miêu tả tinh tế hiện thực cuộc sống thông qua
thế giới tâm hồn, Trần Thùy Mai đã góp phần làm nên sự phong phú và chiều
sâu của truyện ngắn đương đại” [101]. Chị dành trọn văn nghiệp của mình cho
đề tài tình yêu với tất cả cung bậc vốn có của nó. Quan trọng hơn, “dù viết về
vấn đề gì, những trang viết của Trần Thùy Mai vẫn không ra khỏi cái chất kết
dính kì diệu là cảm xúc nữ tính” [101]. Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Trần
Thùy Mai không đa dạng lắm nhưng khá sinh động. Nổi bật trong thế giới nhân
vật của chị là một cái tôi phụ nữ buồn, nhiều khát vọng. Chính vì thế truyện ngắn
Trần Thùy Mai ít có những mảng tối của xã hội, hay những nhân vật suy thoái
đạo đức trầm trọng. Đó là cái tạng của Trần Thùy Mai. “Đi tìm nét cách tân độc
đáo trong truyện ngắn Trần Thùy Mai sẽ phá vỡ chất lãng mạn, huyền ảo kết
dính trên từng trang văn mượt mà của chị. Những vấn đề xã hội nhức nhối lọc
qua sự mẫn cảm của trái tim phụ nữ trở nên nhân tình, nhân bản hơn. Mọi sự
cách tân chưa đến độ sẽ nhạt dần, càng ngày người đọc càng thấy Trần Thùy Mai
chín và sâu, thống nhất và biến hóa trong phong cách riêng của mình” [101]
Dường như, bằng chính sự thấu hiểu của một con người xứ Huế, nhà
nghiên cứu Lê Thị Hường đã bắt rất đúng những dấu ấn riêng của nhà văn Trần
Thùy Mai. Điều đó cũng bắt gặp sự đồng tình trong một số bài viết về nữ văn sĩ
này như Cảm thức văn hóa Huế trong truyện ngắn Trần Thùy Mai (Hoàng Thị
Huế), Nhà văn Trần Thùy Mai (Mai Văn Hoan), Truyện ngắn Trần Thùy Mai –
Những giấc mơ huyền thoại (Hồ Thế Hà), Trần Thùy Mai: nhà văn dịu dàng, đa
đoan (Lê Mỹ Ý), Nhà văn Trần Thùy Mai: những giấc mơ yêu bảng lảng sắc
kinh kì ( CĐ- báo Văn nghệ Trẻ)…
Còn với Nguyễn Ngọc Tư, các bài viết đều nhận ra cảm thức văn hóa
Nam Bộ thấm sâu trên từng trang viết của nữ nhà văn. Từ hiện thực, con người,
24
không gian hay ngôn ngữ, tất cả đều mang dáng dấp con người và vùng đất Nam
Bộ. Có lẽ vì thế họ gọi chị là “đặc sản Nam Bộ”, “sầu riêng Nam Bộ”. Tất cả
điều này, có thể bắt gặp trong các bài viết như Nguyễn Ngọc Tư – sầu riêng Nam
Bộ (Hoàng Kim), Không gian của Nguyễn Ngọc Tư (Nguyên Ngọc), Truyện
ngắn Nguyễn Ngọc Tư – từ góc nhìn văn hóa (Nguyễn Trọng Bình), Tìm hiểu
ngôn ngữ truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư (Thanh Bình), Nguyễn Ngọc Tư đặc
sản miền Nam (Trần Hữu Dũng) hay Thiên nhiên và con người Nam Bộ trong
truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư (Tiền Văn Triệu), Không gian sông nước trong truyện
ngắn Nguyễn Ngọc Tư (Thụy Khê)...Ngoài ra, còn có thể nhìn thấy nhiều đặc điểm
khác trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư như trong bài viết Nguyễn Ngọc Tư – chất
văn gây ảo giác (Trịnh Phương Thu), Nguyễn Ngọc Tư : Người cô đơn trong cõi văn
chương (Trần Hoàng Thiên Kim). Theo các tác giả, truyện Nguyễn Ngọc Tư thường
tìm đến những con người nhỏ nhoi, bé mọn, vương nỗi sâu nhân thế, những tác phẩm
không tìm ra lời kết… Vì thế, truyện Nguyễn Ngọc Tư không có tình huống gây
cấn mà “nhà văn khai thác những ngóc ngách thẳm sâu trong tâm hồn con người,
vẽ lên trang sách những cảm xúc mong manh, mơ hồ nhưng rất đỗi thân thuộc.
Giọng văn ấy đầy tính ma mị, liêu trai, một chất văn dễ gây ảo giác cho tâm hồn.
Nhưng vượt lên trên những cảm xúc ấy, truyện của Nguyễn Ngọc Tư giúp cho
những cảm xúc mãnh liệt về tình người và lòng nhân ái được thức dậy và tìm ra
bến đỗ” [109]. Gần đây truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư còn được đặt dưới góc
nhìn phê bình sinh thái như bài viết Thiên nhiên trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc
Tư dưới góc nhìn phê bình sinh thái, góp phần phát hiện những giá trị mới mẻ
trong văn chương nữ sĩ Nam Bộ.
Ngoài ra còn phải kể đến rất nhiều cái tên khác như Y Ban, Đỗ Bích
Thúy, Dương Thụy…cũng nhận được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu. Mỗi
người với những con đường khác nhau đã góp thêm một tiếng nói trong việc tìm
hiểu giá trị văn chương của các cây bút nữ.
25
1.1.4. Tiếp cận truyện ngắn nữ từ góc độ vận dụng lý thuyết
1.1.4.1. Lý thuyết phê bình nữ quyền
Nữ quyền là khái niệm mới được nhắc đến nhiều trong đời sống văn học
nước ta những năm gần đây nhưng nhanh chóng thu hút được sự quan tâm của
các nhà nghiên cứu lẫn giới sáng tác. Phê bình nữ quyền (Feminist critcism) trở
thành một trong những khuynh hướng chủ đạo góp phần quan trọng trong việc
khám phá những giá trị của văn học nữ nói chung và truyện ngắn nữ nói riêng.
Vì thế, số lượng các bài viết theo hướng này khá nhiều nên ở đây chúng tôi chỉ
tập trung vào những nghiên cứu về văn xuôi nữ nói chung cũng như truyện ngắn
nữ nói riêng từ 1986 đến nay.
Năm 2006, nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Điệp – một trong những người
mở đầu cho xu hướng nghiên cứu này đã có bài viết Ý thức phái tính và âm
hưởng nữ quyền trong văn học Việt Nam đương đại. Tác giả bài viết đã phân tích
dấu ấn nam quyền với những biểu hiện cụ thể của nó trên nhiều bình diện đã tồn
tại trong tâm thức con người của nhiều quốc gia dân tộc. Ở Việt Nam, vai trò
thống trị của đàn ông, ngoài sự ủng hộ tuyệt đối của thiết chế xã hội còn trở
thành một nét tâm lí phổ biến kéo dài từ thời này qua thời khác. Tư tưởng, thái
độ đó từ chỗ là một vấn đề lớn trong đời sống xã hội đã chuyển dịch vào lãnh địa
sáng tạo và thưởng thức văn học cũng như nhiều hoạt động tinh thần khác. Chính
vì thế, từ những hiện tượng đơn lẻ, đến năm 1986 “sự phát triển mạnh mẽ của
đất nước và những nỗ lực tạo nên sự bình đẳng về giới…đã tạo nên những tiền
đề cơ bản để giúp người đàn bà thoát khỏi sự áp chế của đàn ông, khiến cho họ
có khả năng tồn tại độc lập và có khả năng tự quyết số phận của mình…Nhưng
quan trọng hơn, ý thức về giới một cách tự giác đã ăn sâu vào tâm thức của đội
ngũ cầm bút và tạo nên âm hưởng nữ quyền trong văn học” [137, tr 292]. Tác giả
cũng đã đưa ra những nguyên nhân góp phần vào sự xuất hiện và mở rộng âm
hưởng nữ quyền trong văn học Việt Nam cũng như sự biểu hiện của nó trên bốn
phương diện cụ thể như sau: 1/ ngôn ngữ trong tác phẩm của các cây bút nữ - thứ
26
ngôn ngữ thể hiện chính xác những trải nghiệm cá nhân giới nữ, 2/ sự công khai
xét lại lịch sử và các điển phạm nghệ thuật bằng cái nhìn riêng của cá nhân và
giới nữ, 3/ sự công khai bày tỏ thái độ chống đối lại sự lệ thuộc vào thế giới đàn
ông, dám xông vào những đề tài cấm kị một cách tự do nhất là đề tài tình dục,4/
sự “bảo lưu một cách vô thức” hơi ấm nữ tính ở một số trường hợp. Có thể nói,
tuy không đi sâu vào tác phẩm hay tác giả cụ thể nhưng những luận điểm nhà
nghiên cứu đưa ra đã có vai trò khai mở, định hướng cho những nghiên cứu nữ
quyền về sau. Và đúng như tác giả nhận định, vấn đề phái tính và văn học nữ
tính vẫn còn nhiều khoảng trống để giới học thuật tiếp tục “bồi đắp”. Để có thể
hình thành một nền văn học nữ tính thực sự, mang tinh thần nhân văn sâu sắc,
cần có những có những nghiên cứu chuyên sâu, tránh cực đoan, phiến diện ở cả
giới sáng tác lẫn nghiên cứu phê bình văn học.
Năm 2011, tác giả Nguyễn Thị Bình cũng góp thêm một tiếng nói cho xu
hướng nghiên cứu này bằng bài viết Ý thức phái tính trong văn xuôi nữ đương
đại. Theo bà, ý thức nữ quyền đã chi phối ngòi bút của các cây bút nữ qua 3
phương diện cụ thể biểu thị trong sáng tác là những tuyên ngôn về “viết” với nhu
cầu khẳng định “cái tôi nữ tính”, những nhân vật in đậm ý thức phái tính qua
việc kiến tạo mẫu hình người phụ nữ mới và sự biểu hiện ngôn ngữ của ý thức
phái tính. Tuy tự nhận bài viết của mình chỉ là “logic của một niềm tin cá nhân,
suy luận cá nhân, không tránh khỏi chủ quan, võ đoán” [137, tr 311] nhưng quan
điểm của tác giả đã bổ sung thêm một cách nhìn trong việc khám phá những biểu
hiện của âm hưởng nữ quyền trong văn học nữ đặc biệt là văn xuôi nữ. Bằng
những tác phẩm minh chứng cụ thể, tác giả bài viết đã soi chiếu ý thức nữ quyền
trong văn xuôi đương đại Việt một cách cận cảnh, rõ ràng hơn đối với người tiếp
nhận. Tuy nhiên có thể thấy ở đây, tác giả bài viết chưa làm rõ sự phân biệt giữa
những khái niệm như phái tính/giới tính, ý thức phái tính/ý thức nữ quyền để làm
tăng tính thuyết phục của bài viết.
27
Ngoài ra, cũng trong khoảng thời gian này có thể chú ý đến một số bài
viết của tác giả Hồ Khánh Vân về hướng nghiên cứu này như: Ý thức nữ quyền
và sự phát triển bước đầu của văn học nữ Nam Bộ trong tiến trình hiện đại hóa
văn học dân tộc đầu thế kỷ XX; Ý thức về địa vị “giới thứ hai” trong một số sáng
tác văn xuôi của các tác giả nữ Việt Nam và Trung Quốc từ năm 1980 đến nay;
Từ quan niệm về lối viết nữ (I’escriture féminine) đến việc xác lập một phương
pháp nghiên cứu trong phê bình nữ quyền. Tác giả đã nhận thấy sự manh nha ra
đời của phê bình văn học nữ quyền từ Phan Khôi đến Manh Manh nữ sĩ để từ đó
ghi nhận sự đóng góp của văn học nữ Nam Bộ trong việc tạo lập một tiếng nói
có âm sắc của người phụ nữ trên văn đàn. Trong bài viết Ý thức về địa vị “giới
thứ hai” trong một số sáng tác văn xuôi của các tác giả nữ Việt Nam và Trung
Quốc từ năm 1980 đến nay, nhà nghiên cứu Hồ Khánh Vân đã chỉ ra những điểm
tương đồng trong sáng tác của các tác giả Việt Nam và Trung Quốc trong tiếng
nói ý thức về địa vị “giới thứ hai”. Chính từ sự ý thức sâu sắc về giới đã khiến
cho nữ giới trở thành đối tượng phản ánh trung tâm, đóng vai trò chủ đạo trong
sáng tác của các tác giả nữ hai nước. Từ việc “đặt trong mối tương quan với xã
hội trên diện rộng, người phụ nữ thường hiện lên trong tư thế của những thân
phận bé nhỏ, chịu nhiều thiệt thòi, bất công, đau khổ mất mát” [153] đến sự
kháng cự lại thân phận “giới thứ hai” thông qua việc tái hiện những hình tượng
nhân vật phảng kháng, mạnh mẽ hơn nữa là nhân vật nổi loạn như một minh
chứng cho sự phát triển ý thức về giới của các cây bút nữ trong sáng tác. Đó là
một bước tiến trong việc tạo nên tiếng nói riêng mang tính bản thể của các nữ
văn sĩ, là dạng thức chủ đạo của ý thức về giới, ý thức nữ quyền. Bởi khi các nhà
văn nữ đương đại xác định vị trí của người phụ nữ trong các mối tương quan với
xã hội, nhìn trực diện vào hiện thực của nữ giới chính là cách họ vượt qua giới
hạn của bản thân để khẳng định chính mình.
Từ sự ý thức sâu sắc về giới, tác giả Hồ Khánh Vân cũng đã đề ra một số
phương diện đặc thù của lối viết nữ trong bài viết Từ quan niệm về lối viết nữ
28
(I’escriture féminine) đến việc xác lập một phương pháp nghiên cứu trong phê
bình nữ quyền. Theo tác giả, tự thuật, lối viết tính dục và lối viết thân thể, hình
tượng người mẹ và suy nghĩ lùi về người mẹ, bi kịch vỡ mộng và hình tượng
người đàn ông bất toàn…là những phương diện đặc thù của lối viết nữ. Có thể
nói, với chính những điều này, người phụ nữ viết văn đang làm nên một cuộc
giải quy phạm, giải ký hiệu trong văn chương viết về nhân vật nữ. “Qua đó, các
nhà văn thể hiện rõ khả năng tự ý thức và ý thức. Đặc biệt là ý thức về sự khác
biệt giữa bản thể tính nữ trong đời sống hiện thực và bản thể tính nữ trong thế
giới nghệ thuật, xét từ phương diện chủ thể sáng tác, nhằm khẳng định vai trò và
trách nhiệm cầm bút của chính mình và giới mình.” [154].
Đi sâu trực tiếp vào truyện ngắn nữ, năm 2017, tác giả Đoàn Ánh Dương
đã có bài viết Trải nghiệm về giới sau đổi mới: nhìn từ truyện ngắn các nữ nhà
văn. Để phác dựng sự đột khởi của văn học nữ, ý thức về nữ tính và nữ quyền,
được hiện diện chủ yếu qua truyện ngắn được viết bởi các nữ nhà văn, tác giả bài
viết hướng đến 3 vấn đề cụ thể: 1/tìm hiểu hình ảnh người phụ nữ Việt Nam mới
do chính người nữ kiến tạo; 2/cơ chế và ngôn ngữ mà người nữ ghi đè lên bức
khảm về họ vốn được dệt bởi ý thức nam quyền và nữ quyền trong bối cảnh của
chủ nghĩa dân tộc giai đoạn trước; 3/ qua đó, xem xét tiến trình văn học Việt
nam từ Đổi mới từ góc nhìn giới. Do đó, bài viết đã đi từ việc khám phá bối cảnh
(của) chuyển đổi (các)kinh nghiệm để thấy “văn học nữ từ bộ phận những truyện
ngắn đặc sắc của các nữ nhà văn giai đoạn này, phần tinh túy làm nên bản lai
diện mục của văn học nữ giai đoạn này” [85, tr 217]. Trong không khí đổi mới
chung của văn học nữ “truyện ngắn nữ đã có sự bứt phá, làm nên một tư trào,
vừa xác lập hình ảnh mới về phụ nữ vừa đột kích vào những cách tân nghệ thuật,
làm nên một dấu ấn đáng kể trên tiến trình văn học Việt Nam hiện đại” [85, tr
217]. Theo tác giả, thành tựu lớn nhất làm nên bản sắc văn học nữ giai đoạn này
chính là sự tưởng tượng và kiến tạo hình ảnh nữ trong truyện ngắn nữ. Bởi lần
đầu tiên trong lịch sử văn học, chính sự trải nghiệm mới trong các không gian,
29
các quan niệm về giới và nữ quyền do chính mình kiến tạo, các nữ nhà văn “đã
phác vẽ nên khuôn diện của mình, thủ đắc những phương cách giới, những ngôn
ngữ thân thể họ mà nhà văn nam không bao giờ khuynh loát và chiếm tạo được”
[85, tr 231]. Bài viết tuy chỉ đi sâu về một phương diện của ý thức nữ quyền
trong truyện ngắn nữ nhưng là một trong những biểu hiện rõ nét nhất, đậm chất
nhất của những người viết nữ khi kiến tạo dấu ấn của mình trên văn đàn.
Năm 2016, tác giả Trần Huyền Sâm có công trình khá công phu về vấn đề
nữ quyền luận với nhan đề: Nữ quyền luận ở Pháp và tiểu thuyết nữ Việt Nam
đương đại. Đóng góp chính của công trình là ở việc nhận diện tinh thần nữ
quyền của tiểu thuyết nữ Việt Nam đương đại. Nhưng bên cạnh đó tác giả còn
cung cấp cho người nghiên cứu về nữ quyền luận cái nhìn khái quát và hệ thống
về lý thuyết phê bình nữ quyền trên thế giới, đặc biệt là ở Pháp. Đặc biệt, tác giả
đã chỉ ra những hạn chế của văn học nữ Việt Nam cụ thể như sau: 1/ Về đề tài,
các sáng tác nữ bó hẹp trong những vấn đề tình yêu, hôn nhân, gia đình…Những
chuyển động của xã hội Việt Nam trong xu hướng toàn cầu hóa chưa thực sự đi
vào tác phẩm nữ giới một cách sống động; 2/ Người trần thuật chủ yếu là vai nữ
và mang bóng dáng tác giả nên thế giới nhân vật khá nghèo nàn; 3/ Về kỹ thuật
xử lý yếu tố tính dục, một số nhà văn tỏ ra non tay nên tính dục chưa trở thành
phạm trù mỹ học của văn bản. Các nhận định của tác giả đã đánh giá rất đúng
những hạn chế của văn học nữ nước ta nói chung và truyện ngắn nữ nói riêng
trên tinh thần nữ quyền.
Ngoài ra còn có thể kể đến một số bài viết theo hướng nghiên cứu này
như Văn xuôi các nhà văn nữ sau 1975 nhìn từ diễn ngôn giới (Thái Phan Vàng
Anh), Tản mạn về dục tính và nữ quyền (Nguyễn Vy Khanh); Phụ nữ chúng tôi
phải viết (Trịnh Thanh Thủy), Quan niệm về thân thể người nữ trong văn học
Việt Nam – một cái nhìn phác thảo (Mai Thị Hồng Tuyết – Hoàng Thị Duyên),
Dấu hiệu nữ quyền trong văn học nữ đương đại (Bùi Thị Thủy)…Đặc biệt có thể
chú ý đến hai công trình luận án làm về xu hướng này là Vấn đề phái tính và âm
30
hưởng nữ quyền trong văn xuôi Việt Nam đương đại (Qua sáng tác của một số
nhà văn nữ tiêu biểu) của tác giả Nguyễn Thị Thanh Xuân (Luận án tiến sĩ văn
học – Học viện Khoa học xã hội – Năm 2013) và luận án Tinh thần nữ quyền
trong văn xuôi Việt Nam sau 1986 của tác giả Mai Thị Thu (Luận án tiến sĩ Ngữ
văn – Trường Đại học sư phạm Hà Nội – Năm 2015). Đây được xem là hai công
trình nghiên cứu khá chuyên sâu về ý thức nữ quyền trong văn xuôi nữ nói
chung và truyện ngắn nữ nói riêng.
Tác giả Nguyễn Thị Thanh Xuân trong luận án Vấn đề phái tính và âm
hưởng nữ quyền trong văn xuôi Việt Nam đương đại (Qua sáng tác của một số
nhà văn nữ tiêu biểu) đã hệ thống và lý giải một cách cơ bản những vấn đề lý
luận về phái tính và nữ quyền trong văn hóa và trong diễn ngôn văn học từ
truyền thống đến hiện đại. Qua việc khảo sát sáng tác của một số nhà văn nữ tiêu
biểu mà chủ yếu là qua truyện ngắn, tác giả luận án đã nhận thấy ý thức phái tính
và âm hưởng nữ quyền trong văn xuôi nữ đương đại được thể hiện rõ nét thông
qua việc xác lập một lối viết nữ. Đó là hành trình đi tìm lại bản ngã thông qua
hình tượng nhân vật nữ trong tác phẩm. Đặc biệt, tác giả nhấn mạnh tình dục như
một phương thức thể hiện bản ngã của những cây bút nữ. Họ cũng công khai xét
lại thế giới đàn ông bằng con mắt đàn bà. Dưới góc độ nghệ thuật, tác giả luận án
đã khám phá những đặc trưng của lối viết nữ thông qua không thời gian nghệ
thuật – bức tranh thế giới qua con mắt người phụ nữ; ngôn ngữ, giọng điệu –
bước đột phá về diễn ngôn phái tính và khuynh hướng tự truyện như một nét đặc
thù của lối viết nữ. Điểm mạnh của luận án chính là cái nhìn khá bao quát về ý
thức phái tính và âm hưởng nữ quyền trong sự phát triển của văn học từ truyền
thống đến hiện đại. Tuy nhiên ở vấn đề trung tâm là sự biểu hiện ý thức phái tính
và âm hưởng nữ quyền trong văn xuôi nữ Việt Nam từ 1975, tác giả chưa đi sâu
phân tích những biểu hiện cụ thể hoặc đã bỏ qua một số phương diện như cách
tiếp cận mới về hình tượng người phụ nữ trong văn xuôi Việt Nam sau 1986 –
dưới góc độ nữ quyền…
31
Tiếp thu những nghiên cứu trong luận án của tác giả Nguyễn Thị Thanh
Xuân, tác giả Mai Thị Thu trong luận án của mình đã bổ sung và làm nổi bật tinh
thần nữ quyền trong văn xuôi Việt Nam sau 1986 khá rõ nét. Ngoài việc đi tìm
những tiền đề xã hội – thẩm mỹ tạo nên sự xuất hiện tinh thần nữ quyền ở Việt
Nam, tác giả đã nhận diện tinh thần nữ quyền trong việc khám phá và thể hiện
hình tượng người phụ nữ hay trật tự nam quyền dưới góc nhìn nữ quyền trong
sáng tác của các cây bút nữ. Bên cạnh đó, tác giả còn đi sâu phân tích tinh thần
nữ quyền trong ý thức nghệ thuật của nhà văn. Trong việc khám phá và thể hiện
hình tượng người phụ nữ, tác giả Mai Thị Thu đã nhìn thấy những cách tiếp cận
mới về hình tượng nhân vật nữ, tạo nên cái nhìn toàn diện về tinh thần nữ quyền
qua hình tượng nhân vật trung tâm. Ở hình thức nghệ thuật, tác giả luận án
nghiên cứu sự thể hiện của tinh thần nữ quyền qua việc vận dụng hiệu quả những
ưu thế của thể loại, nghệ thuật thể hiện nhân vật và nghệ thuật trần thuật. Đây
được xem là một hướng đi không trùng lặp và góp phần bổ sung việc khám phá
ý thức nữ quyền trong văn xuôi nữ ở những giai đoạn trước.
Thông qua các bài viết và công trình luận án, có thể thấy khái niệm nữ
quyền tuy chỉ mới xuất hiện ở nước ta hơn 10 năm nhưng sự ảnh hưởng của nó
trong đời sống văn học là không hề nhỏ. Lý thuyết phê nữ quyền đã thực sự trở
thành một trong những “công cụ” đắc lực trong việc khám phá những giá trị của
văn học Việt Nam đương đại đặc biệt là văn xuôi nữ. Qua các bài viết, có thể
nhận thấy một số vấn đề chung trong truyện ngắn nữ và văn xuôi nữ Việt Nam
đương đại đã được các nhà nghiên cứu theo xu hướng nữ quyền luận khơi mở
như sau :
- Sau đổi mới, sự xuất hiện của các cây bút nữ và sự đóng góp của họ trên
văn đàn là điều không thể phủ nhận. Điều đáng trân trọng là họ đã cất lên tiếng
nói, đưa những tuyên ngôn về chính giới mình trong sáng tác, khẳng định về một
dòng văn học nữ đang làm nên một “tư trào” của nền văn học Việt.
32
- Trong sáng tác của các cây bút nữ, họ luôn có nhu cầu kiến tạo hình ảnh
của giới mình. Chính vì vậy, nhân vật nữ là hình tượng nhân vật trung tâm trong
sáng tác của các nữ văn sĩ. Với lối viêt “tự ăn mình”, nhân vật trong văn xuôi nữ
chính là sự hóa thân của chủ thể nữ giới. Hình tượng nhân vật nữ vừa tiếp nối,
vừa đổi mới hướng tiếp cận của truyền thống góp phần đem lại một cách nhìn
sâu sắc và toàn diện về giới nữ trên tinh thần nữ quyền.
- Các nhà văn nữ đã công khai xét lại thế giới đàn ông như một cái nhìn
công tâm về sự bình đẳng giới vốn không được coi trọng trong suốt một thời
gian dài trước đổi mới. Họ có xu hướng đả phá, hạ bệ trật tự nam quyền nhưng
hơn hết vẫn là sự hy vọng, chờ đợi một sự thay đổi và khao khát hòa hợp bản thể nữ.
- Tình dục là nhu cầu, là tự do cá nhân trong đời sống của nữ giới. Vì thế,
khẳng định nhân vị trong đời sống tình dục trở thành biểu hiện rõ nhất của ý thức
nữ quyền trong truyện ngắn của các cây bút nữ.
- Việc có hay không cái gọi là lối viết nữ vẫn còn nhiều tranh luận, tuy
nhiên có thể chỉ ra đặc trưng trong sáng tác nữ qua một số phương diện như
điểm nhìn trần thuật, ngôn ngữ, không thời gian nghệ thuật...
Như vậy, dù vô thức hay tự giác nhưng sáng tác của các cây bút nữ là biểu
hiện rõ nét nhất về ý thức nữ quyền hay tinh thần nữ quyền trong văn học.
Nghiên cứu văn học nữ, không thể không nhìn thấy sự tác động của nữ quyền
luận trong sáng tác của các cây bút nữ bởi đó là chiếc chìa khóa mở ra những
chân trời tiếp nhận của văn chương giới nữ.
1.1.4.2. Lý thuyết phê bình phân tâm học
Đi vào “đáy vực sâu thẳm” của tâm hồn con người, học thuyết phân tâm
học xuất hiện như một công cụ hữu hiệu mở ra hướng tiếp cận mới trong thế giới
nghệ thuật của nhà văn. Ở Việt Nam, nhiều công trình nghiên cứu theo hướng
phê bình phân tâm học ra đời góp phần không nhỏ trong việc nhìn nhận, đánh
giác các hiện tượng đặc sắc trong văn học. Tuy nhiên, hướng nghiên cứu vấn đề
phân tâm học trong truyện ngắn các nhà văn nữ nhìn chung chưa có những công
33
trình chuyên sâu và vẫn còn khá mờ nhạt. Ngoài công trình Học thuyết S.Freud
và sự thể hiện của nó trong văn học Việt Nam của tác giả Trần Thanh Hà, có thể
điểm qua một số bài nghiên cứu theo xu hướng này như Nhân vật bản năng tính
dục trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ (Nguyễn Ánh Vân), Truyện ngắn
Cánh đồng bất tận từ góc nhìn phân tâm học (Hoàng Đăng Khoa), Phức cảm
tình yêu trong một số truyện ngắn của các nhà văn nữ đương đại (Nguyễn Trọng
Hiếu), Yếu tố phân tâm học trong truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ (Nguyễn
Thị Quỳnh Hương) hay các bài viết của tác giả Hồ Thế Hà – người có rất nhiều
công trình và bài viết theo hướng phê bình phân tâm học như Hướng tiếp cận
phân tâm học trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975 và Tình yêu trong truyện
ngắn hiện đại Việt Nam từ các phức cảm. Các bài viết đã góp phần lý giải nhiều
đặc trưng trong truyện ngắn của các cây bút nữ từ góc nhìn phân tâm học như
yếu tố vô thức, bản năng, những ẩn ức tính dục nhằm lý giải thế giới nội tâm
phức tạp của nhân vật cũng như những khát vọng sâu kín của người sáng tác.
Tuy nhiên, những bài viết trên thường chỉ có xu hướng đề cập đến những chi tiết
nhỏ lẻ mang yếu tố phân tâm học trong một số tác phẩm, hoặc tác giả cụ thể.
Truyện ngắn đương đại dưới góc nhìn phân tâm học vì thế chưa được phân tích
một cách sâu sắc, triệt để.
Đáng chú ý theo xu hướng nghiên cứu này có lẽ là công trình luận án
Truyện ngắn của các nhà văn nữ Việt Nam đương đại từ góc nhìn phân tâm học
của tác giả Nguyễn Trọng Hiếu (Luận án tiến sĩ văn học – Học viện Khoa học
Xã hội – Năm 2017). Ngoài việc điểm lại những công trình, bài viết theo xu
hướng phân tâm ở nước ngoài và Việt Nam, tác giả luận án đã đi sâu trình bày
quan niệm của phân tâm học về đối tượng phản ánh, về tác giả và quá trình sáng
tạo của Sigmud Freud và Carl Gustav Jung cũng như sự thể hiện của phân tâm
học trong văn học Việt Nam. Từ thế giới nhân vật, tác giả luận án đã nhìn thấy
những kiểu nhân vật cơ bản trong truyện ngắn của các nhà văn nữ Việt Nam
đương đại dưới góc nhìn phân tâm học cụ thể là nhân vật với đời sống vô thức và
34
các phức cảm, nhân vật với đời sống tình yêu và tính dục, nhân vật với tâm lý đa
phân qua mô tip và các biểu tượng. Tác giả cũng phân tích ngôn ngữ, giọng điệu,
không gian, thời gian kết cấu nghệ thuật như những minh chứng về phương thức
biểu hiện trong truyện ngắn của các tác giả nữ dưới góc nhìn phân tâm học. Có
thể thấy, sẽ còn rất nhiều vấn đề để soi sáng dưới học thuyết này nhưng luận án
đã góp thêm một tiếng nói để lý giải và đánh giá hiện tượng văn học nữ. Trong
muôn nẻo đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn, “phê bình phân tâm học trong
truyện ngắn các nhà văn nữ là một nét phong cách và thi pháp vừa gần gũi, vừa
bất ngờ, vừa mới lạ”. Đi sâu khám phá “tiểu vũ trụ” bí ẩn của con người góp
phần đem lại những “con người thật sự và sự thật về con người” - được xem là
những đóng góp lớn của các nhà văn nữ đương đại.
1.2. Tình hình nghiên cứu ở ngoài nước
Trong phạm vi tài liệu bao quát được (chủ yếu là những công trình đã
được dịch sang tiếng Việt), chúng tôi nhận thấy các tài liệu nước ngoài nghiên
cứu về truyện ngắn đặc biệt là truyện ngắn nữ Việt Nam đương đại dường như
còn rất ít. Bởi các tài liệu được giới thiệu ở nước ta hiện nay tập trung chủ yếu là
những nghiên cứu về lý thuyết chung của truyện ngắn qua việc tìm hiểu mô hình,
đặc trưng về thể loại truyện ngắn của một số quốc gia như Anh, Mỹ, Pháp, Nhật
Bản, Nga…hay quan niệm về truyện ngắn của một số nhà văn nổi tiếng như A.
Tseekhôp, A. Frăngxơ, Hemingway, Pautopxki… và gần đây là những tác giả
Nhật Bản, Trung Quốc nổi tiếng như Haruki Murakami, Mạc Ngôn, Cao Hành
Kiện…
Ngoài ra, ở phương diện này có thể kể đến một số bài viết của các học giả
nước ngoài về một số tác giả hay tác phẩm tiêu biểu, tạo được tiếng vang của
văn học Việt Nam đương đại. Tiêu biểu như Nguyễn Huy Thiệp với các bài viết:
Lịch sử Việt Nam qua truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, Thơ trong văn Nguyễn
Huy Thiệp (T.N.Filimonova), Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp (Evelipe Pieller).
Các tác giả nữ được lựa chọn nghiên cứu cũng không nhiều. Tiêu biểu có Phạm
35
Thị Hoài, Nguyễn Ngọc Tư, Phan Thị Vàng Anh, Dạ Ngân qua sự khám phá của
một số tác giả hải ngoại như Nguyễn Hưng Quốc, Thụy Khuê, Đoàn Cầm Thi…
Trong bài viết Phạm Thị Hoài trên sinh lộ mới của văn học, tác giả Thụy Khuê
đã đánh giá cao những cách tân về hình thức nghệ thuật của cây bút nữ này đặc
biệt là về ngôn ngữ qua tập “Từ Man Nương đến AK và những tiểu luận”. Còn
trong “Không gian sông nước trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư”, Thụy Khuê
đã làm nổi bật cái chất Nam Bộ đáng quý ấy trong văn của nữ tác giả này. Điều
thú vị là nhà văn lại soi chiếu con người, không gian ấy thông qua giọng kể đậm
chất Nam Bộ “Là hậu duệ của một truyền thống văn nói xướng lên từ miệt sông
nước, Nguyễn Ngọc Tư đã kể và kể rất hay về những mẫu đời của người dân
miệt vườn, về cuộc sống bám với chiếc ghe, con nước của những con người hiền
lành cam phận, những tình cảm chân thật, nối liền đất nước với con người”
[109]. Ngoài Thụy Khuê, liên quan đến các tài liệu nước ngoài nghiên cứu về
văn học nữ nói chung và truyện ngắn nữ Việt Nam nói riêng có lẽ còn phải nhắc
đến tác giả Đoàn Cầm Thi. Là người sống và làm việc chủ yếu ở Pháp, tác giả
này luôn có cách tiếp cận hiện đại trong các luận giải những vấn đề của văn
chương Việt. Trong cuốn sách “Đọc tôi bên bến lạ” ở chương 8 “Phụ nữ / Văn
học/ Toàn cầu hóa”, Đoàn Cầm Thi đã đặt ra vấn đề được xem là rất nóng của
thời điểm hiện tại: Phụ nữ và Văn học Việt trước xu thế toàn cầu hóa. Với sự
phát triển như vũ bão của ngành công nghệ thông tin đặc biệt là Internet đã ảnh
hưởng hầu hết lên thế giới quan và thẩm mỹ quan của thế hệ trẻ Việt Nam trên
nhiều phương diện, trong đó có văn học. Những câu hỏi: Liệu văn chương Việt,
sau nhiều năm cô lập với thế giới bên ngoài có tìm được nguồn cảm hứng mới
trên con đường gặp gỡ các nền văn hóa khác? Văn hóa mạng đã ảnh hưởng như
thế nào đến thi pháp của nhà văn Việt?...Theo tác giả, dường như chỉ có thể trả
lời các câu hỏi đó thông qua những sáng tác của nền văn học nữ “Và các giải
đáp độc đáo nhất, xác đáng nhất, dường như đã ẩn hiện trong văn học nữ, hay
nói một cách chính xác hơn, trong sáng tác của một số nhà văn nữ” [138, tr 107
TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY.pdf
TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY.pdf
TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY.pdf
TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY.pdf
TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY.pdf
TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY.pdf
TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY.pdf
TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY.pdf
TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY.pdf
TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY.pdf
TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY.pdf
TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY.pdf
TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY.pdf
TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY.pdf
TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY.pdf
TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY.pdf
TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY.pdf
TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY.pdf
TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY.pdf
TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY.pdf
TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY.pdf
TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY.pdf
TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY.pdf
TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY.pdf
TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY.pdf
TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY.pdf
TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY.pdf
TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY.pdf
TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY.pdf
TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY.pdf
TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY.pdf
TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY.pdf
TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY.pdf
TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY.pdf
TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY.pdf
TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY.pdf
TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY.pdf
TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY.pdf
TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY.pdf
TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY.pdf
TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY.pdf
TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY.pdf

More Related Content

What's hot

Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết hồ anh tháitruonghocso.com
Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết hồ anh tháitruonghocso.comNghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết hồ anh tháitruonghocso.com
Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết hồ anh tháitruonghocso.comThế Giới Tinh Hoa
 
Luận văn thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn hồ anh thái
Luận văn thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn hồ anh tháiLuận văn thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn hồ anh thái
Luận văn thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn hồ anh tháinataliej4
 
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết ThiệnSự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết ThiệnMan_Ebook
 
KHÁT VỌNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ VI THÙY LINH 2827260
KHÁT VỌNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ VI THÙY LINH 2827260KHÁT VỌNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ VI THÙY LINH 2827260
KHÁT VỌNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ VI THÙY LINH 2827260nataliej4
 
Cái bi và nghệ thuật bi kịch của shakespear qua các vở bi kịch rômeo juliet...
Cái bi và nghệ thuật bi kịch của shakespear qua các vở bi kịch rômeo   juliet...Cái bi và nghệ thuật bi kịch của shakespear qua các vở bi kịch rômeo   juliet...
Cái bi và nghệ thuật bi kịch của shakespear qua các vở bi kịch rômeo juliet...NOT
 
Chuyên đề VĂN HỌC HIỆN THỰC 30-45.docx
Chuyên đề VĂN HỌC HIỆN THỰC 30-45.docxChuyên đề VĂN HỌC HIỆN THỰC 30-45.docx
Chuyên đề VĂN HỌC HIỆN THỰC 30-45.docxhiutrn809713
 
Nhìn lại ông già và biển cả dưới góc độ nghi lễ trong giải phẫu phê bình của ...
Nhìn lại ông già và biển cả dưới góc độ nghi lễ trong giải phẫu phê bình của ...Nhìn lại ông già và biển cả dưới góc độ nghi lễ trong giải phẫu phê bình của ...
Nhìn lại ông già và biển cả dưới góc độ nghi lễ trong giải phẫu phê bình của ...TÀI LIỆU NGÀNH MAY
 

What's hot (20)

Luận văn: Phong cách truyện ngắn của nhà văn Phạm Duy Nghĩa
Luận văn: Phong cách truyện ngắn của nhà văn Phạm Duy NghĩaLuận văn: Phong cách truyện ngắn của nhà văn Phạm Duy Nghĩa
Luận văn: Phong cách truyện ngắn của nhà văn Phạm Duy Nghĩa
 
Cảm thức hiện sinh trong truyện ngắn Việt Nam (1986 - 2010), HOT
Cảm thức hiện sinh trong truyện ngắn Việt Nam (1986 - 2010), HOTCảm thức hiện sinh trong truyện ngắn Việt Nam (1986 - 2010), HOT
Cảm thức hiện sinh trong truyện ngắn Việt Nam (1986 - 2010), HOT
 
Luận văn: Diễn ngôn chấn thương trong tiểu thuyết nữ Việt Nam, HAY
Luận văn: Diễn ngôn chấn thương trong tiểu thuyết nữ Việt Nam, HAYLuận văn: Diễn ngôn chấn thương trong tiểu thuyết nữ Việt Nam, HAY
Luận văn: Diễn ngôn chấn thương trong tiểu thuyết nữ Việt Nam, HAY
 
Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết hồ anh tháitruonghocso.com
Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết hồ anh tháitruonghocso.comNghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết hồ anh tháitruonghocso.com
Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết hồ anh tháitruonghocso.com
 
321+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Văn Học – Điểm Cao Nhất Hiện Nay!
321+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Văn Học – Điểm Cao Nhất Hiện Nay!321+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Văn Học – Điểm Cao Nhất Hiện Nay!
321+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Văn Học – Điểm Cao Nhất Hiện Nay!
 
Luận văn: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp
Luận văn: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Huy ThiệpLuận văn: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp
Luận văn: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp
 
Luận văn thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn hồ anh thái
Luận văn thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn hồ anh tháiLuận văn thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn hồ anh thái
Luận văn thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn hồ anh thái
 
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết ThiệnSự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
 
Luận văn: Đặc điểm nghệ thuật truyện của Kawabata Yasunari, 9đ
Luận văn: Đặc điểm nghệ thuật truyện của Kawabata Yasunari, 9đLuận văn: Đặc điểm nghệ thuật truyện của Kawabata Yasunari, 9đ
Luận văn: Đặc điểm nghệ thuật truyện của Kawabata Yasunari, 9đ
 
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đLuận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
Luận văn: Số đỏ và kỹ nghệ lấy tây của Vũ Trọng Phụng, HAY, 9đ
 
Luận văn: Yếu tố kì ảo trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, HAY
Luận văn: Yếu tố kì ảo trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, HAYLuận văn: Yếu tố kì ảo trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, HAY
Luận văn: Yếu tố kì ảo trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, HAY
 
KHÁT VỌNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ VI THÙY LINH 2827260
KHÁT VỌNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ VI THÙY LINH 2827260KHÁT VỌNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ VI THÙY LINH 2827260
KHÁT VỌNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ VI THÙY LINH 2827260
 
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh ChâuLuận văn: Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu
 
Cái bi và nghệ thuật bi kịch của shakespear qua các vở bi kịch rômeo juliet...
Cái bi và nghệ thuật bi kịch của shakespear qua các vở bi kịch rômeo   juliet...Cái bi và nghệ thuật bi kịch của shakespear qua các vở bi kịch rômeo   juliet...
Cái bi và nghệ thuật bi kịch của shakespear qua các vở bi kịch rômeo juliet...
 
Luận án: Tiểu thuyết có tính chất tự truyện trong văn học Việt Nam
Luận án: Tiểu thuyết có tính chất tự truyện trong văn học Việt NamLuận án: Tiểu thuyết có tính chất tự truyện trong văn học Việt Nam
Luận án: Tiểu thuyết có tính chất tự truyện trong văn học Việt Nam
 
Luận văn: Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Lan Khai, HOT
Luận văn: Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Lan Khai, HOTLuận văn: Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Lan Khai, HOT
Luận văn: Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Lan Khai, HOT
 
Chuyên đề VĂN HỌC HIỆN THỰC 30-45.docx
Chuyên đề VĂN HỌC HIỆN THỰC 30-45.docxChuyên đề VĂN HỌC HIỆN THỰC 30-45.docx
Chuyên đề VĂN HỌC HIỆN THỰC 30-45.docx
 
Luận văn: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự, HOT
Luận văn: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự, HOTLuận văn: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự, HOT
Luận văn: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự, HOT
 
Luận văn: Phương thức biểu hiện nhân vật anh hùng trong thủy hử
Luận văn: Phương thức biểu hiện nhân vật anh hùng trong thủy hửLuận văn: Phương thức biểu hiện nhân vật anh hùng trong thủy hử
Luận văn: Phương thức biểu hiện nhân vật anh hùng trong thủy hử
 
Nhìn lại ông già và biển cả dưới góc độ nghi lễ trong giải phẫu phê bình của ...
Nhìn lại ông già và biển cả dưới góc độ nghi lễ trong giải phẫu phê bình của ...Nhìn lại ông già và biển cả dưới góc độ nghi lễ trong giải phẫu phê bình của ...
Nhìn lại ông già và biển cả dưới góc độ nghi lễ trong giải phẫu phê bình của ...
 

Similar to TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY.pdf

Luận án: Đặc điểm của loại truyện thơ Nôm tự thuật, HAY - Gửi miễn phí qua za...
Luận án: Đặc điểm của loại truyện thơ Nôm tự thuật, HAY - Gửi miễn phí qua za...Luận án: Đặc điểm của loại truyện thơ Nôm tự thuật, HAY - Gửi miễn phí qua za...
Luận án: Đặc điểm của loại truyện thơ Nôm tự thuật, HAY - Gửi miễn phí qua za...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Trước tác của Phan Mạnh danh trong bối cảnh hiện đại hóa văn học Việt Nam
Trước tác của Phan Mạnh danh trong bối cảnh hiện đại hóa văn học Việt NamTrước tác của Phan Mạnh danh trong bối cảnh hiện đại hóa văn học Việt Nam
Trước tác của Phan Mạnh danh trong bối cảnh hiện đại hóa văn học Việt NamDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Khoá Luận Tốt Nghiệp Tiểu Thuyết Các Nhà Văn Nữ Việt Nam Giai Đoạn Từ 1986 Đế...
Khoá Luận Tốt Nghiệp Tiểu Thuyết Các Nhà Văn Nữ Việt Nam Giai Đoạn Từ 1986 Đế...Khoá Luận Tốt Nghiệp Tiểu Thuyết Các Nhà Văn Nữ Việt Nam Giai Đoạn Từ 1986 Đế...
Khoá Luận Tốt Nghiệp Tiểu Thuyết Các Nhà Văn Nữ Việt Nam Giai Đoạn Từ 1986 Đế...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
VĂN XUÔI NGỌC GIAO TRONG TIẾN TRÌNH VĂN HỌC HIỆN ĐẠI VIỆT NAM_10325712052019
VĂN XUÔI NGỌC GIAO TRONG TIẾN TRÌNH VĂN HỌC HIỆN ĐẠI VIỆT NAM_10325712052019VĂN XUÔI NGỌC GIAO TRONG TIẾN TRÌNH VĂN HỌC HIỆN ĐẠI VIỆT NAM_10325712052019
VĂN XUÔI NGỌC GIAO TRONG TIẾN TRÌNH VĂN HỌC HIỆN ĐẠI VIỆT NAM_10325712052019hanhha12
 
Truyện trinh thám Việt Nam từ góc nhìn thi pháp thể loại 6793117.pdf
Truyện trinh thám Việt Nam từ góc nhìn thi pháp thể loại 6793117.pdfTruyện trinh thám Việt Nam từ góc nhìn thi pháp thể loại 6793117.pdf
Truyện trinh thám Việt Nam từ góc nhìn thi pháp thể loại 6793117.pdfNuioKila
 
Tailieu.vncty.com the loai-tuy_but_trong_van_hoc_viet_nam_tu_1930_den_1975
Tailieu.vncty.com   the loai-tuy_but_trong_van_hoc_viet_nam_tu_1930_den_1975Tailieu.vncty.com   the loai-tuy_but_trong_van_hoc_viet_nam_tu_1930_den_1975
Tailieu.vncty.com the loai-tuy_but_trong_van_hoc_viet_nam_tu_1930_den_1975Trần Đức Anh
 
Luận án: Nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam từ đầu thế kỷ XXI, HAY - Gửi miễ...
Luận án: Nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam từ đầu thế kỷ XXI, HAY - Gửi miễ...Luận án: Nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam từ đầu thế kỷ XXI, HAY - Gửi miễ...
Luận án: Nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam từ đầu thế kỷ XXI, HAY - Gửi miễ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Diễn ngôn lịch sử trong tiểu thuyết sương mù tháng giêng của uông triều (2017...
Diễn ngôn lịch sử trong tiểu thuyết sương mù tháng giêng của uông triều (2017...Diễn ngôn lịch sử trong tiểu thuyết sương mù tháng giêng của uông triều (2017...
Diễn ngôn lịch sử trong tiểu thuyết sương mù tháng giêng của uông triều (2017...Man_Ebook
 

Similar to TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY.pdf (20)

Luận án: Đặc điểm của loại truyện thơ Nôm tự thuật, HAY - Gửi miễn phí qua za...
Luận án: Đặc điểm của loại truyện thơ Nôm tự thuật, HAY - Gửi miễn phí qua za...Luận án: Đặc điểm của loại truyện thơ Nôm tự thuật, HAY - Gửi miễn phí qua za...
Luận án: Đặc điểm của loại truyện thơ Nôm tự thuật, HAY - Gửi miễn phí qua za...
 
Trước tác của Phan Mạnh danh trong bối cảnh hiện đại hóa văn học Việt Nam
Trước tác của Phan Mạnh danh trong bối cảnh hiện đại hóa văn học Việt NamTrước tác của Phan Mạnh danh trong bối cảnh hiện đại hóa văn học Việt Nam
Trước tác của Phan Mạnh danh trong bối cảnh hiện đại hóa văn học Việt Nam
 
Khoá Luận Tốt Nghiệp Tiểu Thuyết Các Nhà Văn Nữ Việt Nam Giai Đoạn Từ 1986 Đế...
Khoá Luận Tốt Nghiệp Tiểu Thuyết Các Nhà Văn Nữ Việt Nam Giai Đoạn Từ 1986 Đế...Khoá Luận Tốt Nghiệp Tiểu Thuyết Các Nhà Văn Nữ Việt Nam Giai Đoạn Từ 1986 Đế...
Khoá Luận Tốt Nghiệp Tiểu Thuyết Các Nhà Văn Nữ Việt Nam Giai Đoạn Từ 1986 Đế...
 
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đLuận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
 
Luận án: Văn xuôi Ngọc Giao trong tiến trình văn học hiện đại
Luận án: Văn xuôi Ngọc Giao trong tiến trình văn học hiện đạiLuận án: Văn xuôi Ngọc Giao trong tiến trình văn học hiện đại
Luận án: Văn xuôi Ngọc Giao trong tiến trình văn học hiện đại
 
Luận văn: Văn xuôi Ngọc Giao trong tiến trình văn học hiện đại, HOT
Luận văn: Văn xuôi Ngọc Giao trong tiến trình văn học hiện đại, HOTLuận văn: Văn xuôi Ngọc Giao trong tiến trình văn học hiện đại, HOT
Luận văn: Văn xuôi Ngọc Giao trong tiến trình văn học hiện đại, HOT
 
VĂN XUÔI NGỌC GIAO TRONG TIẾN TRÌNH VĂN HỌC HIỆN ĐẠI VIỆT NAM_10325712052019
VĂN XUÔI NGỌC GIAO TRONG TIẾN TRÌNH VĂN HỌC HIỆN ĐẠI VIỆT NAM_10325712052019VĂN XUÔI NGỌC GIAO TRONG TIẾN TRÌNH VĂN HỌC HIỆN ĐẠI VIỆT NAM_10325712052019
VĂN XUÔI NGỌC GIAO TRONG TIẾN TRÌNH VĂN HỌC HIỆN ĐẠI VIỆT NAM_10325712052019
 
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.docYếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
 
Khóa luận: Nhân vật nữ trong truyền thuyết dân gian người Việt, HAY
Khóa luận: Nhân vật nữ trong truyền thuyết dân gian người Việt, HAYKhóa luận: Nhân vật nữ trong truyền thuyết dân gian người Việt, HAY
Khóa luận: Nhân vật nữ trong truyền thuyết dân gian người Việt, HAY
 
Đặc điểm thể chân dung và văn học của Hồ Anh Thái
Đặc điểm thể chân dung và văn học của Hồ Anh TháiĐặc điểm thể chân dung và văn học của Hồ Anh Thái
Đặc điểm thể chân dung và văn học của Hồ Anh Thái
 
Truyện trinh thám Việt Nam từ góc nhìn thi pháp thể loại 6793117.pdf
Truyện trinh thám Việt Nam từ góc nhìn thi pháp thể loại 6793117.pdfTruyện trinh thám Việt Nam từ góc nhìn thi pháp thể loại 6793117.pdf
Truyện trinh thám Việt Nam từ góc nhìn thi pháp thể loại 6793117.pdf
 
Th s33.002 nhân vật nữ trong sáng tác của võ thị hảo
Th s33.002 nhân vật nữ trong sáng tác của võ thị hảoTh s33.002 nhân vật nữ trong sáng tác của võ thị hảo
Th s33.002 nhân vật nữ trong sáng tác của võ thị hảo
 
Tailieu.vncty.com the loai-tuy_but_trong_van_hoc_viet_nam_tu_1930_den_1975
Tailieu.vncty.com   the loai-tuy_but_trong_van_hoc_viet_nam_tu_1930_den_1975Tailieu.vncty.com   the loai-tuy_but_trong_van_hoc_viet_nam_tu_1930_den_1975
Tailieu.vncty.com the loai-tuy_but_trong_van_hoc_viet_nam_tu_1930_den_1975
 
Luận văn: Diễn ngôn về giới nữ của các nhà văn nữ đương đại, HOT
Luận văn: Diễn ngôn về giới nữ của các nhà văn nữ đương đại, HOTLuận văn: Diễn ngôn về giới nữ của các nhà văn nữ đương đại, HOT
Luận văn: Diễn ngôn về giới nữ của các nhà văn nữ đương đại, HOT
 
Luận án: Nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam từ đầu thế kỷ XXI, HAY - Gửi miễ...
Luận án: Nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam từ đầu thế kỷ XXI, HAY - Gửi miễ...Luận án: Nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam từ đầu thế kỷ XXI, HAY - Gửi miễ...
Luận án: Nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam từ đầu thế kỷ XXI, HAY - Gửi miễ...
 
Đặc Điểm Tiểu Thuyết Lịch Sử Nguyễn Triệu Luật.doc
Đặc Điểm Tiểu Thuyết Lịch Sử Nguyễn Triệu Luật.docĐặc Điểm Tiểu Thuyết Lịch Sử Nguyễn Triệu Luật.doc
Đặc Điểm Tiểu Thuyết Lịch Sử Nguyễn Triệu Luật.doc
 
Diễn ngôn lịch sử trong tiểu thuyết sương mù tháng giêng của uông triều (2017...
Diễn ngôn lịch sử trong tiểu thuyết sương mù tháng giêng của uông triều (2017...Diễn ngôn lịch sử trong tiểu thuyết sương mù tháng giêng của uông triều (2017...
Diễn ngôn lịch sử trong tiểu thuyết sương mù tháng giêng của uông triều (2017...
 
Ý Thức Nữ Quyền Trong Văn Xuôi Võ Thị Xuân Hà.doc
Ý Thức Nữ Quyền Trong Văn Xuôi Võ Thị Xuân Hà.docÝ Thức Nữ Quyền Trong Văn Xuôi Võ Thị Xuân Hà.doc
Ý Thức Nữ Quyền Trong Văn Xuôi Võ Thị Xuân Hà.doc
 
Luận án: Khuynh hướng thơ tượng trưng Việt Nam hiện đại, HAY
Luận án: Khuynh hướng thơ tượng trưng Việt Nam hiện đại, HAYLuận án: Khuynh hướng thơ tượng trưng Việt Nam hiện đại, HAY
Luận án: Khuynh hướng thơ tượng trưng Việt Nam hiện đại, HAY
 
Luận án: Khuynh hướng thơ tượng trưng Việt Nam hiện đại, HAY
Luận án: Khuynh hướng thơ tượng trưng Việt Nam hiện đại, HAYLuận án: Khuynh hướng thơ tượng trưng Việt Nam hiện đại, HAY
Luận án: Khuynh hướng thơ tượng trưng Việt Nam hiện đại, HAY
 

More from NuioKila

Pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdf
Pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdfPháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdf
Pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdfNuioKila
 
BÁO CÁO Kết quả tham vấn cộng đồng về tính hợp pháp của gỗ và các sản phẩm gỗ...
BÁO CÁO Kết quả tham vấn cộng đồng về tính hợp pháp của gỗ và các sản phẩm gỗ...BÁO CÁO Kết quả tham vấn cộng đồng về tính hợp pháp của gỗ và các sản phẩm gỗ...
BÁO CÁO Kết quả tham vấn cộng đồng về tính hợp pháp của gỗ và các sản phẩm gỗ...NuioKila
 
A study on common mistakes committed by Vietnamese learners in pronouncing En...
A study on common mistakes committed by Vietnamese learners in pronouncing En...A study on common mistakes committed by Vietnamese learners in pronouncing En...
A study on common mistakes committed by Vietnamese learners in pronouncing En...NuioKila
 
[123doc] - thu-nghiem-cai-tien-chi-tieu-du-bao-khong-khi-lanh-cac-thang-cuoi-...
[123doc] - thu-nghiem-cai-tien-chi-tieu-du-bao-khong-khi-lanh-cac-thang-cuoi-...[123doc] - thu-nghiem-cai-tien-chi-tieu-du-bao-khong-khi-lanh-cac-thang-cuoi-...
[123doc] - thu-nghiem-cai-tien-chi-tieu-du-bao-khong-khi-lanh-cac-thang-cuoi-...NuioKila
 
THỬ NGHIỆM CẢI TIẾN CHỈ TIÊU DỰ BÁO KHÔNG KHÍ LẠNH CÁC THÁNG CUỐI MÙA ĐÔNG BẰ...
THỬ NGHIỆM CẢI TIẾN CHỈ TIÊU DỰ BÁO KHÔNG KHÍ LẠNH CÁC THÁNG CUỐI MÙA ĐÔNG BẰ...THỬ NGHIỆM CẢI TIẾN CHỈ TIÊU DỰ BÁO KHÔNG KHÍ LẠNH CÁC THÁNG CUỐI MÙA ĐÔNG BẰ...
THỬ NGHIỆM CẢI TIẾN CHỈ TIÊU DỰ BÁO KHÔNG KHÍ LẠNH CÁC THÁNG CUỐI MÙA ĐÔNG BẰ...NuioKila
 
Nhu cầu lập pháp của hành pháp.pdf
Nhu cầu lập pháp của hành pháp.pdfNhu cầu lập pháp của hành pháp.pdf
Nhu cầu lập pháp của hành pháp.pdfNuioKila
 
KẾ HOẠCH DẠY HỌC CỦA TỔ CHUYÊN MÔN MÔN HỌC SINH HỌC - CÔNG NGHỆ.pdf
KẾ HOẠCH DẠY HỌC CỦA TỔ CHUYÊN MÔN MÔN HỌC SINH HỌC - CÔNG NGHỆ.pdfKẾ HOẠCH DẠY HỌC CỦA TỔ CHUYÊN MÔN MÔN HỌC SINH HỌC - CÔNG NGHỆ.pdf
KẾ HOẠCH DẠY HỌC CỦA TỔ CHUYÊN MÔN MÔN HỌC SINH HỌC - CÔNG NGHỆ.pdfNuioKila
 
KIẾN TRÚC BIỂU HIỆN TẠI VIỆT NAM.pdf
KIẾN TRÚC BIỂU HIỆN TẠI VIỆT NAM.pdfKIẾN TRÚC BIỂU HIỆN TẠI VIỆT NAM.pdf
KIẾN TRÚC BIỂU HIỆN TẠI VIỆT NAM.pdfNuioKila
 
QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG Y TẾ TỈNH NINH THUẬN.pdf
QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG Y TẾ TỈNH NINH THUẬN.pdfQUY HOẠCH PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG Y TẾ TỈNH NINH THUẬN.pdf
QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG Y TẾ TỈNH NINH THUẬN.pdfNuioKila
 
NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG BỘ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ...
NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG BỘ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ...NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG BỘ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ...
NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG BỘ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ...NuioKila
 
TIỂU LUẬN Phân tích các loại nguồn của luật tư La Mã và so sánh với các nguồn...
TIỂU LUẬN Phân tích các loại nguồn của luật tư La Mã và so sánh với các nguồn...TIỂU LUẬN Phân tích các loại nguồn của luật tư La Mã và so sánh với các nguồn...
TIỂU LUẬN Phân tích các loại nguồn của luật tư La Mã và so sánh với các nguồn...NuioKila
 
Nuevo enfoque de aprendizajesemi-supervisado para la identificaciónde secuenci...
Nuevo enfoque de aprendizajesemi-supervisado para la identificaciónde secuenci...Nuevo enfoque de aprendizajesemi-supervisado para la identificaciónde secuenci...
Nuevo enfoque de aprendizajesemi-supervisado para la identificaciónde secuenci...NuioKila
 
Inefficiency in engineering change management in kimberly clark VietNam co., ...
Inefficiency in engineering change management in kimberly clark VietNam co., ...Inefficiency in engineering change management in kimberly clark VietNam co., ...
Inefficiency in engineering change management in kimberly clark VietNam co., ...NuioKila
 
An Investigation into culrural elements via linguistic means in New Headway t...
An Investigation into culrural elements via linguistic means in New Headway t...An Investigation into culrural elements via linguistic means in New Headway t...
An Investigation into culrural elements via linguistic means in New Headway t...NuioKila
 
An evaluation of the translation of the film Rio based on Newmarks model.pdf
An evaluation of the translation of the film Rio based on Newmarks model.pdfAn evaluation of the translation of the film Rio based on Newmarks model.pdf
An evaluation of the translation of the film Rio based on Newmarks model.pdfNuioKila
 
Teachers and students views on grammar presentation in the course book Englis...
Teachers and students views on grammar presentation in the course book Englis...Teachers and students views on grammar presentation in the course book Englis...
Teachers and students views on grammar presentation in the course book Englis...NuioKila
 
11th graders attitudes towards their teachers written feedback.pdf
11th graders attitudes towards their teachers written feedback.pdf11th graders attitudes towards their teachers written feedback.pdf
11th graders attitudes towards their teachers written feedback.pdfNuioKila
 
Phân tích tài chính Công ty Cổ phần VIWACO.pdf
Phân tích tài chính Công ty Cổ phần VIWACO.pdfPhân tích tài chính Công ty Cổ phần VIWACO.pdf
Phân tích tài chính Công ty Cổ phần VIWACO.pdfNuioKila
 
Ngói Champa ở di tích Triền Tranh (Duy Xuyên Quảng Nam).pdf
Ngói Champa ở di tích Triền Tranh (Duy Xuyên Quảng Nam).pdfNgói Champa ở di tích Triền Tranh (Duy Xuyên Quảng Nam).pdf
Ngói Champa ở di tích Triền Tranh (Duy Xuyên Quảng Nam).pdfNuioKila
 
ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VẬN HÀNH LƯỚI ĐIỆN PHÂN PHỐI TÂY NAM ...
ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VẬN HÀNH LƯỚI ĐIỆN PHÂN PHỐI TÂY NAM ...ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VẬN HÀNH LƯỚI ĐIỆN PHÂN PHỐI TÂY NAM ...
ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VẬN HÀNH LƯỚI ĐIỆN PHÂN PHỐI TÂY NAM ...NuioKila
 

More from NuioKila (20)

Pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdf
Pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdfPháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdf
Pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdf
 
BÁO CÁO Kết quả tham vấn cộng đồng về tính hợp pháp của gỗ và các sản phẩm gỗ...
BÁO CÁO Kết quả tham vấn cộng đồng về tính hợp pháp của gỗ và các sản phẩm gỗ...BÁO CÁO Kết quả tham vấn cộng đồng về tính hợp pháp của gỗ và các sản phẩm gỗ...
BÁO CÁO Kết quả tham vấn cộng đồng về tính hợp pháp của gỗ và các sản phẩm gỗ...
 
A study on common mistakes committed by Vietnamese learners in pronouncing En...
A study on common mistakes committed by Vietnamese learners in pronouncing En...A study on common mistakes committed by Vietnamese learners in pronouncing En...
A study on common mistakes committed by Vietnamese learners in pronouncing En...
 
[123doc] - thu-nghiem-cai-tien-chi-tieu-du-bao-khong-khi-lanh-cac-thang-cuoi-...
[123doc] - thu-nghiem-cai-tien-chi-tieu-du-bao-khong-khi-lanh-cac-thang-cuoi-...[123doc] - thu-nghiem-cai-tien-chi-tieu-du-bao-khong-khi-lanh-cac-thang-cuoi-...
[123doc] - thu-nghiem-cai-tien-chi-tieu-du-bao-khong-khi-lanh-cac-thang-cuoi-...
 
THỬ NGHIỆM CẢI TIẾN CHỈ TIÊU DỰ BÁO KHÔNG KHÍ LẠNH CÁC THÁNG CUỐI MÙA ĐÔNG BẰ...
THỬ NGHIỆM CẢI TIẾN CHỈ TIÊU DỰ BÁO KHÔNG KHÍ LẠNH CÁC THÁNG CUỐI MÙA ĐÔNG BẰ...THỬ NGHIỆM CẢI TIẾN CHỈ TIÊU DỰ BÁO KHÔNG KHÍ LẠNH CÁC THÁNG CUỐI MÙA ĐÔNG BẰ...
THỬ NGHIỆM CẢI TIẾN CHỈ TIÊU DỰ BÁO KHÔNG KHÍ LẠNH CÁC THÁNG CUỐI MÙA ĐÔNG BẰ...
 
Nhu cầu lập pháp của hành pháp.pdf
Nhu cầu lập pháp của hành pháp.pdfNhu cầu lập pháp của hành pháp.pdf
Nhu cầu lập pháp của hành pháp.pdf
 
KẾ HOẠCH DẠY HỌC CỦA TỔ CHUYÊN MÔN MÔN HỌC SINH HỌC - CÔNG NGHỆ.pdf
KẾ HOẠCH DẠY HỌC CỦA TỔ CHUYÊN MÔN MÔN HỌC SINH HỌC - CÔNG NGHỆ.pdfKẾ HOẠCH DẠY HỌC CỦA TỔ CHUYÊN MÔN MÔN HỌC SINH HỌC - CÔNG NGHỆ.pdf
KẾ HOẠCH DẠY HỌC CỦA TỔ CHUYÊN MÔN MÔN HỌC SINH HỌC - CÔNG NGHỆ.pdf
 
KIẾN TRÚC BIỂU HIỆN TẠI VIỆT NAM.pdf
KIẾN TRÚC BIỂU HIỆN TẠI VIỆT NAM.pdfKIẾN TRÚC BIỂU HIỆN TẠI VIỆT NAM.pdf
KIẾN TRÚC BIỂU HIỆN TẠI VIỆT NAM.pdf
 
QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG Y TẾ TỈNH NINH THUẬN.pdf
QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG Y TẾ TỈNH NINH THUẬN.pdfQUY HOẠCH PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG Y TẾ TỈNH NINH THUẬN.pdf
QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG Y TẾ TỈNH NINH THUẬN.pdf
 
NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG BỘ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ...
NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG BỘ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ...NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG BỘ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ...
NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG BỘ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ...
 
TIỂU LUẬN Phân tích các loại nguồn của luật tư La Mã và so sánh với các nguồn...
TIỂU LUẬN Phân tích các loại nguồn của luật tư La Mã và so sánh với các nguồn...TIỂU LUẬN Phân tích các loại nguồn của luật tư La Mã và so sánh với các nguồn...
TIỂU LUẬN Phân tích các loại nguồn của luật tư La Mã và so sánh với các nguồn...
 
Nuevo enfoque de aprendizajesemi-supervisado para la identificaciónde secuenci...
Nuevo enfoque de aprendizajesemi-supervisado para la identificaciónde secuenci...Nuevo enfoque de aprendizajesemi-supervisado para la identificaciónde secuenci...
Nuevo enfoque de aprendizajesemi-supervisado para la identificaciónde secuenci...
 
Inefficiency in engineering change management in kimberly clark VietNam co., ...
Inefficiency in engineering change management in kimberly clark VietNam co., ...Inefficiency in engineering change management in kimberly clark VietNam co., ...
Inefficiency in engineering change management in kimberly clark VietNam co., ...
 
An Investigation into culrural elements via linguistic means in New Headway t...
An Investigation into culrural elements via linguistic means in New Headway t...An Investigation into culrural elements via linguistic means in New Headway t...
An Investigation into culrural elements via linguistic means in New Headway t...
 
An evaluation of the translation of the film Rio based on Newmarks model.pdf
An evaluation of the translation of the film Rio based on Newmarks model.pdfAn evaluation of the translation of the film Rio based on Newmarks model.pdf
An evaluation of the translation of the film Rio based on Newmarks model.pdf
 
Teachers and students views on grammar presentation in the course book Englis...
Teachers and students views on grammar presentation in the course book Englis...Teachers and students views on grammar presentation in the course book Englis...
Teachers and students views on grammar presentation in the course book Englis...
 
11th graders attitudes towards their teachers written feedback.pdf
11th graders attitudes towards their teachers written feedback.pdf11th graders attitudes towards their teachers written feedback.pdf
11th graders attitudes towards their teachers written feedback.pdf
 
Phân tích tài chính Công ty Cổ phần VIWACO.pdf
Phân tích tài chính Công ty Cổ phần VIWACO.pdfPhân tích tài chính Công ty Cổ phần VIWACO.pdf
Phân tích tài chính Công ty Cổ phần VIWACO.pdf
 
Ngói Champa ở di tích Triền Tranh (Duy Xuyên Quảng Nam).pdf
Ngói Champa ở di tích Triền Tranh (Duy Xuyên Quảng Nam).pdfNgói Champa ở di tích Triền Tranh (Duy Xuyên Quảng Nam).pdf
Ngói Champa ở di tích Triền Tranh (Duy Xuyên Quảng Nam).pdf
 
ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VẬN HÀNH LƯỚI ĐIỆN PHÂN PHỐI TÂY NAM ...
ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VẬN HÀNH LƯỚI ĐIỆN PHÂN PHỐI TÂY NAM ...ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VẬN HÀNH LƯỚI ĐIỆN PHÂN PHỐI TÂY NAM ...
ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VẬN HÀNH LƯỚI ĐIỆN PHÂN PHỐI TÂY NAM ...
 

Recently uploaded

GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdfTrnHoa46
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoámyvh40253
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfVyTng986513
 
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANG
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANGPHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANG
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANGhoinnhgtctat
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfTrnHoa46
 
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxpowerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxAnAn97022
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docxTHAO316680
 

Recently uploaded (20)

GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
 
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANG
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANGPHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANG
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANG
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
 
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxpowerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
 

TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY.pdf

  • 1. NỘI DUNG 1. Lý do lựa chọn đề tài 1.1. Được coi là một trong những thể loại “nhạy bén” của nền văn học hiện đại, thành tựu và những quy luật vận động của truyện ngắn có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc nghiên cứu văn học của một dân tộc. Ở nước ta, văn học từ sau 1986 nói chung và truyện ngắn nói riêng có vị thế vô cùng quan trọng trong nền văn chương Việt. Bởi đó là cột mốc đánh dấu sự đổi mới, phát triển toàn diện của nền văn học nước nhà. 1.2. Sau 1986, văn học Việt Nam chứng kiến “sự bức phá ngoạn mục” của các cây bút nữ. Từ những hiện tượng đơn lẻ chỉ xuất hiện chủ yếu ở thể loại thơ trong giai đoạn văn học trước 75, ở giai đoạn này các nữ văn sĩ đã chứng tỏ bút lực dồi dào cũng như khả năng bao quát ở tất cả các thể loại văn xuôi, đặc biệt là truyện ngắn. Chính sự đồng hành ấy đã làm nên bộ phận truyện ngắn nữ, một trong những “điểm sáng” của nền văn học đương đại. 1.3. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về truyện ngắn nữ nhưng chủ yếu chỉ dừng lại ở từng tác giả, tác phẩm cụ thể hoặc đi sâu vào một phương diện nào đó trong sáng tác của cây bút nữ. Vì vậy, việc nghiên cứu truyện ngắn nữ một cách hệ thống, bao quát được nhiều bình diện của vấn đề vẫn còn là một hướng đi giàu gợi mở. Trên cơ sở tiếp thu những thành tựu đã đạt được trong việc nghiên cứu truyện ngắn nữ, chúng tôi muốn có một cái nhìn hệ thống và khái quát về sự vận động cũng như những thành tựu, đặc điểm của truyện ngắn nữ từ sau 1986 đến nay. Đề tài nghiên cứu góp phần trong việc phác thảo diện mạo của truyện ngắn Việt Nam nói riêng và văn học Việt Nam nói chung trong tiến trình vận động của văn học dân tộc. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN THỊ QUỲNH LÊ TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY Ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 9 22 01 21 LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1.PGS.TS. Lưu Khánh Thơ 2.PGS.TS. Nguyễn Thị Bích Thu HÀ NỘI - 2019 HÀ NỘI-năm
  • 2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong luận án là trung thực và chưa từng công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tác giả luận án TRẦN THỊ QUỲNH LÊ
  • 3. MỤC LỤC MỞ ĐẦU................................................................................................................1 1. Tính cấp thiết của đề tài .....................................................................................1 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án..................................................2 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu......................................................................2 4. Phương pháp nghiên cứu....................................................................................3 5. Đóng góp mới về khoa học của luận án.............................................................4 6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận án...............................................4 7. Cấu trúc của luận án...........................................................................................5 CHƯƠNG 1:TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU.............................6 1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước....................................................................6 1.2. Tình hình nghiên cứu ở ngoài nước ..............................................................34 1.3. Nhận xét tình hình nghiên cứu và hướng nghiên cứu của đề tài...................37 Chương 2: TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY TRONG BỔI CẢNH ĐỔI MỚI VÀ HỘI NHẬP...............................................................42 2.1.Những tác động “ngoại sinh”.........................................................................42 2.2.Những vận động “nội tại” ..............................................................................55 2.3.Truyện ngắn nữ - “phần tinh túy làm nên bản lai diện mục” của nền văn học Việt Nam đương đại.............................................................................................68 Chương 3: NHỮNG MÔ HÌNH GIAO TIẾP TRONG TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY........................................................................74 3.1. Mô hình giao tiếp với thiên nhiên.................................................................75 3.2. Mô hình giao tiếp với cuộc sống và con người.............................................87 3.3. Mô hình giao tiếp với chính mình.................................................................98 Chương 4: NHỮNG DẠNG THÁI BIỂU HIỆN TRONG TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY......................................................................108 4.1. Không gian và thời gian nghệ thuật ............................................................108 4.2. Diễn ngôn mang đặc trưng giới trong truyện ngắn nữ Việt Nam từ 1986 đến nay...............................................................................................................126 KẾT LUẬN........................................................................................................148 DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ...............................151 TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................................152
  • 4. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài 1.1. Truyện ngắn là thể loại có lịch sử lâu đời trong văn học thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Được coi là một trong những thể loại năng động, “nhạy bén” của nền văn học hiện đại, thành tựu và những quy luật vận động của truyện ngắn có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc nghiên cứu văn học của một dân tộc. Ở Việt Nam, cùng với tiểu thuyết, truyện ngắn đã khẳng định vai trò và vị thế của một trong những thể loại luôn tiên phong trong việc nắm bắt những chuyển động của cuộc sống và thời đại để tự làm mới mình. 1.2. Năm 1986 được xem là một dấu mốc quan trọng của lịch sử văn học dân tộc. Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước thổi một luồng gió mới vào đời sống văn học Việt, làm “bứt rễ” cả những điều tưởng đã trở thành bất biến của nền văn học cũ. Chính trong không khí đó, sự xuất hiện đông đảo của các cây bút nữ đã trở thành “hiện tượng” của nền văn chương đương đại. Không phải đến giai đoạn này, các nữ văn sĩ mới xuất hiện trên văn đàn nhưng có lẽ chưa bao giờ lực lượng các nhà văn nữ lại đông đảo và mạnh mẽ đến thế. Sự góp mặt của họ không chỉ ấn tượng về con số mà quan trọng hơn còn là sự bứt phá của những cá tính và bản lĩnh nghệ thuật dường như chưa được khai phóng đúng mức ở các giai đoạn trước. 1.3. Bằng sự nhập cuộc sôi nổi và tinh thần phản tư sâu sắc những giá trị về cuộc sống và thân phận con người, đặc biệt là những người đàn bà, các cây bút nữ đã thực sự đem lại sắc diện mới, rất riêng về tâm hồn người phụ nữ trong văn. Dấu ấn tài năng của họ được thể hiện trong nhiều thể loại nhưng đậm nét nhất có lẽ là trong truyện ngắn. Đó dường như là một sự lựa chọn mang tính tự giác đầy chủ ý của các nữ văn sĩ . Vì thế, việc lý giải cho sự gắn kết như duyên nợ ấy sẽ nhằm “phát lộ” những đặc trưng riêng của người viết nữ trong việc chuyển tải những thông điệp cuộc sống và con người trên những trang văn, để
  • 5. 2 làm nên cái người ta vẫn gọi là “văn học mang gương mặt nữ”. Những thành tựu của truyện ngắn nữ Việt Nam từ 1986 đến nay là hệ quả từ sự tác động của hoàn cảnh lịch sử, từ đặc trưng thể loại hay chính những đặc trưng về giới vẫn còn là câu hỏi mở, đầy thú vị cho những người nghiên cứu Vì những lý do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài: Truyện ngắn nữ Việt Nam từ 1986 đến nay 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1. Mục đích: Trên cơ sở tìm hiểu và nghiên cứu truyện ngắn của một số tác giả nữ tiêu biểu từ 1986 đến nay, luận án muốn chỉ ra được những nét đặc trưng làm nên bản sắc của lối viết nữ. Đồng thời, qua đó khẳng định vị trí và tài năng của các cây bút nữ trong dòng chảy văn học Việt Nam đương đại. Lựa chọn giai đoạn từ 1986 đến nay, luận án cũng hướng đến việc khẳng định truyện ngắn nữ không chỉ là một bộ phận mà còn là bộ phân tiêu biểu làm nên sự phong phú, đặc sắc của văn học Việt Nam đương đại. 2.2. Nhiệm vụ: Xuất phát từ nhận thức trên, để thực hiện đề tài này, trước tiên chúng tôi hệ thống những quan điểm và hướng nghiên cứu về văn xuôi nữ nói chung và truyện ngắn nữ nói riêng để làm định hướng nghiên cứu của đề tài. Ở chương 2, chúng tôi đặt truyện ngắn nữ trong bối cảnh đổi mới và hội nhập của văn chương Việt Nam đương đại để nhìn thấy được sự hình thành và phát triển mạnh mẽ của truyện ngắn nữ không chỉ là sự vận động tất yếu của đời sống văn học mà còn là quá trình cộng hưởng từ nhiều yếu tố của lịch sử, xã hội, văn hóa và tư tưởng. Sau đó, luận án sẽ tiếp tục làm sáng rõ đặc trưng của truyện ngắn nữ thông qua sự khác biệt trong việc xây dựng mô hình giao tiếp của các cây bút nữ ở chương 3 và cuối cùng đến chương 4 chúng tôi nghiên cứu một số dạng thái biểu hiện của lối viết nữ để đem lại một cái nhìn tương đối toàn diện về truyện ngắn nữ Việt Nam đương đại. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu
  • 6. 3 Chúng tôi xác định đối tượng nghiên cứu của luận án là truyện ngắn nữ Việt Nam từ 1986 đến nay trên các phương diện cụ thể như mô hình giao tiếp, không gian, thời gian nghệ thuật và diễn ngôn mang đặc trưng của giới nữ. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Luận án tập trung khảo sát các tập truyện ngắn của những cây bút nữ tiêu biểu như: Lê Minh Khuê, Phạm Thị Hoài, Trần Thùy Mai, Dạ Ngân, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh, Y Ban, Nguyễn Ngọc Tư, Võ Thị Hảo, Võ Thị Xuân Hà, Đỗ Bích Thúy. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng khảo sát truyện ngắn của một số cây bút hải ngoại tiêu biểu như: Nguyễn Thị Hoàng Bắc, Nhung Uyển, Trân Sa trong tuyển tập Khung trời bỏ lại (NXB Phụ Nữ - 1996) Ngoài ra, để làm phong phú và tăng sức thuyết phục của luận án chúng tôi còn khảo sát thêm một số tập truyện ngắn nữ như: Những truyện ngắn nữ đặc sắc từ 1986 đến nay (NXB Phụ Nữ), Truyện ngắn nữ 2000 – 2006 (NXB Phụ nữ); Truyện ngắn nữ đầu thế kỷ 21 (NXB Văn học), Truyện ngắn nữ 2000 – 2009 (NXB Phụ nữ), Truyện ngắn 9 cây bút nữ (NXB Văn học), Vũ điệu thân gầy, truyện ngắn 12 cây bút nữ (NXB Trẻ), Độc thoại trên tháp nhà nhờ (Tuyển tập truyện ngắn hiện đại của 5 nhà văn nữ) (NXB Hội Nhà văn)… Do đối tượng nghiên cứu vẫn đang tiếp tục vận động và phát triển nên chúng tôi giới hạn mốc thời gian sau cùng cho những tác phẩm trong phạm vi khảo sát của luận án là những truyện ngắn được xuất bản đến năm 2017. 4. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu cơ bản sau: - Phương pháp cấu trúc – kí hiệu học: nhằm nghiên cứu cấu trúc nội tại của tác phẩm, từ đó giúp lý giải được những kí hiệu được tác giả mã hóa trong quá trình giao tiếp - Phương pháp loại hình: Nhằm bao quát đặc trưng thể loại truyện ngắn từ các phương diện biểu cụ thể trong truyện ngắn nữ đương đại.
  • 7. 4 - Phương pháp so sánh: Góp phần làm nổi bật đặc trưng của lối viết nữ trong tương quan so sánh với truyện ngắn của các cây bút nam cùng thời hay với truyện ngắn của các tác giả nữ trước năm 1986. - Tiếp cận theo hướng thi pháp học: để phân tích những yếu tố “hình thức mang tính quan niệm” như không gian – thời gian nghệ thuật trong truyện ngắn nữ đương đại. Ngoài ra trong luận án, chúng tôi còn vận dụng sự hỗ trợ từ các thao tác nghiên cứu văn học như: khảo sát văn bản, thống kê – phân loại, phân tích, tổng hợp, phê bình văn học… để khám phá những đặc sắc của truyện ngắn nữ Việt Nam từ 1986 đến nay. 5. Đóng góp mới về khoa học của luận án Luận án là công trình chuyên biệt nghiên cứu một cách hệ thống các phương diện cơ bản làm nên đặc trưng của lối viết nữ cũng như thành tựu và đóng góp của truyện ngắn nữ từ 1986 đến nay trong tiến trình vận động của văn học Việt Nam và văn học thế giới. Trong đó, đặc biệt là cách tiếp cận truyện ngắn nữ dưới góc độ cấu trúc, kí hiệu học, xem sáng tác của các nhà văn nữ như một hình thức giao tiếp của các nữ văn sĩ với con người, cuộc đời và với chính mình, góp thêm một hướng đi trong việc luận giải những giá trị của hiện tượng văn học này. 6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận án - Ý nghĩa lý luận: Luận án làm sáng rõ một số vấn đề thuộc về lý luận thể loại, về những đặc điểm khu biệt và tính kí hiệu của tác phẩm qua việc khảo sát truyện ngắn nữ Việt Nam từ 1986 đến nay - Ý nghĩa thực tiễn: Luận án sẽ là tài liệu tham khảo cho cán bộ, sinh viên ngành Ngữ văn ở các trường đại học, cao đẳng, trung học phổ thông cũng như các độc giả quan tâm, nghiên cứu về truyện ngắn đương đại Việt Nam đặc biệt là truyện ngắn của các cây bút nữ.
  • 8. 5 7. Cấu trúc của luận án Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, luận án gồm 4 chương cụ thể như sau: - Chương 1: Tổng quan về tình hình nghiên cứu - Chương 2: Truyện ngắn nữ Việt Nam từ 1986 đến nay trong bối cảnh đổi mới và hội nhập - Chương 3: Những mô hình giao tiếp trong truyện ngắn nữ Việt Nam từ 1986 đến nay - Chương 4: Những dạng thái biểu hiện trong truyện ngắn nữ Việt Nam từ 1986 đến nay
  • 9. 6 CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước Từ năm 1986 đến nay, cùng với sự phát triển của nhiều thể loại, truyện ngắn đã “ghi danh” mình như một trong những thể loại có bước tiến mạnh mẽ trong nền văn học thời kỳ đổi mới. Nghiên cứu về thể loại truyện ngắn vì thế đã thu hút được sự quan tâm của đông đảo giới nghiên cứu phê bình. Nhiều công trình nghiên cứu chuyên sâu về truyện ngắn từ hệ thống lý thuyết thể loại đến thực tiễn sáng tác, từ diện mạo chung đến những hiện tượng cụ thể đã xuất hiện. Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu trực tiếp về truyện ngắn nữ còn khá hạn chế. Phần lớn là những bài báo đăng trên các tạp chí, website hoặc là những bài viết được lồng ghép trong những nghiên cứu về văn xuôi nữ nói chung. Một số tác giả nữ đã được đề cập ở những công trình nghiên cứu chuyên sâu nhưng thường dừng lại ở từng tác giả đơn lẻ hay nhóm các tác giả theo một hệ vấn đề nhất định. Vì thế, qua việc tổng hợp các công trình và bài viết về văn xuôi nữ nói chung và truyện ngắn nữ nói riêng, chúng tôi khái quát được 4 hướng nghiên cứu chính về truyện ngắn nữ Việt Nam (có thể lồng ghép trong văn xuôi nữ) từ 1986 đến nay cụ thể như sau: 1.1.1. Tổng kết, đánh giá thành tựu của các cây bút nữ Từ 1986 đến nay, truyện ngắn nữ đã phát triển hơn 30 năm. Đó là chặng đường không dài so với lịch sử phát triển của văn học dân tộc. Thế nhưng, với khoảng thời gian ấy cũng đủ để những nhà nghiên cứu nhìn lại vị trí, vai trò cũng như sự đóng góp của các cây bút nữ trong diễn trình văn học Việt Nam đương đại. Bên cạnh niềm tin, sự kỳ vọng về một nền văn học “mang gương mặt nữ”, các bài viết theo xu hướng này đã soi rọi được nhiều khía cạnh đặc trưng trong sáng tác của những người đàn bà viết văn.
  • 10. 7 Năm 1993, với nhiều bài viết về truyện ngắn, nhà phê bình lý luận văn học Bùi Việt Thắng đã nhận thấy sự bứt phá của một “lực lượng “Ganepho” giàu nội lực”. Trong bài viết Khi người ta trẻ (I) (Tản mạn về truyện ngắn của những cây bút nữ trẻ), ông không chỉ khẳng định sự đóng góp của các cây bút nữ trẻ trên văn đàn “Truyện ngắn hôm nay đang khởi sắc nhờ sự đóng góp không nhỏ của các cây bút nữ trẻ. Dung nhan của thể loại nhỏ đang lấp lánh hơn những giọng điệu trẻ trung của Nguyễn Thị Thu Huệ, Võ Thị Hảo, Nguyễn Thị Ấm, Y Ban, Nguyễn Minh Dậu và Phan Thị Vàng Anh” [132, tr 189] mà còn lật mở những đặc điểm của các nữ văn sĩ. Theo ông, làm nên nét đặc trưng của các cây viết nữ trẻ chính là “nhu cầu đến như là say mê được tham dự, được hòa nhập vào những nỗi niềm đau khổ và hy vọng của con người” [132,tr 190]. Chính vì thế nữ tính của những cây bút nữ trẻ “phát lộ rất rõ trong sự quyết liệt đấu tranh giành giữ tình yêu và sự bình quyền trong tình cảm” [132, tr 191]. Bên cạnh việc dụng công xây dựng những nhân vật nữ, truyện ngắn của những cây bút nữ trẻ gây được ấn tượng ở người đọc nhờ cách trình bày cuộc sống trong hình thức “ lạ hóa” đối tượng, ở sự phá cách rất tự do, khoáng đạt và uyển chuyển linh hoạt. Do đó, tuy có chút lo lắng về truyện ngắn của các cây bút nữ khi “vẫn thiếu một cái gì đó thật căn cốt, thật dư ba” nhưng ông vẫn khẳng định “chính họ chứ không ai khác sẽ làm nên diện mạo văn học thế kỷ hai mốt…tôi vẫn tin vào thế hệ thứ năm này như tin vào tiền đồ của văn học nước nhà sẽ tới một thời kỳ phục hưng” [132, tr 196 - 197]. Có thể thấy, tuy chỉ là một bài viết nhỏ nhưng nhà nghiên cứu Bùi Việt Thắng đã có những nhìn nhận khá xác đáng về những đặc điểm cũng như triển vọng trong sáng tác của đội ngũ những cây bút nữ trẻ lúc bấy giờ và cũng lực lượng sáng tác chính của văn học nữ đương đại. Năm 1995, trong bài viết mở đầu Những tác giả nữ trong nền văn xuôi cách mạng của cuốn sách Truyện ngắn các tác giả nữ (Tuyển chọn 1945 – 1995), nhà phê bình Hà Minh Đức đã có cái nhìn bao quát về lực lượng sáng tác những người viết nữ từ giai đoạn cách mạng đến sau năm 1975. Theo nhà nghiên cứu,
  • 11. 8 với các tác giả thuộc thế hệ nổi lên từ sau 1975 như Phạm Thị Hoài, Dạ Ngân, Trần Thị Trường, Ngô Thị Kim Cúc, Nguyễn Thị Ấm, Phạm Thị Minh Thư…, sáng tác của họ đã xuất hiện nhiều yếu tố mới từ nhân vật đến cấu trúc: “Các nhân vật mở rộng nếp cảm nghĩ, bộc lộ rõ cá tính trong các mối quan hệ, trong thị hiếu thẩm mĩ và ngôn ngữ xử sự. Cấu trúc câu chuyện cũng vẫn xoay theo những kiểu dáng mới không theo nếp truyền thống” [10, tr 7]. Còn những cây bút nữ mới xuất hiện gần đây như Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh, Võ Thị Xuân Hà, Hồ Hải Âu, “cái tôi của mỗi người đều không dấu kín mà bộc lộ chân tình, linh hoạt trên trang viết. Tươi trẻ, nhưng từng trải, biết hòa nhập. Theo ông, chất nữ tính làm nên sự khác biệt trong sáng tác của các cây bút nữ trong giai đoạn này chính là “sự mềm dịu”, “phần thì bộc lộ vẻ đẹp khách quan của những tâm hồn nữ, phần thì làm dịu đi ở người đọc những mệt mỏi trăn trở khó khăn của cuộc đời. Chính cái tâm lý ấy góp phần tạo nên chất thơ riêng của các tác giả nữ” [10, tr 7]. Vì thế ông khẳng định “văn xuôi nữ phải có chất thơ”, tuy nhiên điều làm cho người đọc ngạc nhiên và cũng có khi hứng thú là “sự mạnh dạn của nhiều cây bút nữ trong việc bộc lộ phần rất riêng tư của tình yêu kể cả những khao khát thầm kín có tính chất bản năng ở mỗi người” [10, tr 7 - 8]. Chính sự “vừa đông vui về lực lượng, vừa đa dạng về tiềm năng, phong cách” [10, tr 8], khiến nhà nghiên cứu tin rằng, văn học nữ khi khởi phát còn dừng lắng như đợi chờ sự tích tụ thì “trong khoảng hơn thập kỷ trở lại đây đã thành dòng chảy xiết mạnh mẽ, hứa hẹn nhiều thành quả tốt đẹp” [10, tr 8]. Bước sang thế kỷ XXI, dường như là một mốc thời gian đủ xa để các nhà nghiên cứu nhìn lại thành tựu của văn học nữ, đặc biệt là truyện ngắn nữ để từ đó nhận diện những nét đặc trưng riêng của những người viết nữ qua nhiều bài viết khác nhau. Bằng sự mẫn cảm của một người đàn bà, năm 2001, nhà nghiên cứu Nguyễn Thị Bích Thu đã có nhiều kiến giải mang tính phát lộ bản chất của văn xuôi nữ trong bài viết “Văn xuôi phái đẹp”. Theo bà, “Trong những năm gần đây, cùng với đội ngũ viết văn của cả nước, các nhà văn nữ vẫn tỏ ra sung sức
  • 12. 9 và bền bỉ trong lao động sáng tạo. Bằng những trang viết của mình, các chị đã góp phần nâng cao tính thẩm mỹ của thể loại, đặc biệt vẫn giữ được “bình đẳng” với đồng nghiệp nam giới về hiệu quả và chất lượng nghệ thuật” [143, tr 112]. Bản lĩnh của người viết nữ được thể hiện thông qua việc làm chủ ngòi bút trong tư duy nghệ thuật và cảm hứng sáng tạo: “Văn chương của phái đẹp hôm nay đã không thi vị hóa những chuyện đời, không tỏ ra đài các hoặc đa cảm trong những dòng lệ…mà sắc sảo và sâu sắc khi tiếp cận và khai thác đề tài thế sự, đời tư với nỗi đau nhân tình thế thái bằng lối viết dịu dàng mà bén ngọt, diết dóng mà đồng cảm sẻ chia với những thân phận, những con người sống quanh mình” [143, tr 113,]. Đặc trưng của văn xuôi phái đẹp trên phương diện đề tài là “những va chạm nhỏ, những xung động khẽ của cuộc sống” hay “cái lỉnh kỉnh, dở dang” của cuộc đời. Với ưu thế riêng của giới tính, các nhà văn nữ đã thể hiện sở trường của mình trong đề tài tình yêu muôn thuở, trong khai thác đối tượng sáng tạo chủ yếu chính là cuộc đời và tâm hồn của người phụ nữ. Đồng thời, bà cũng khẳng định đối tượng mà người đàn bà tìm kiếm chính là đàn ông – những Adam của cuộc sống đời thường. Mỗi trang viết của họ là một sự vỡ lẽ về các đấng mày râu mà quan trọng hơn đó là sự “bộc lộ lòng vị tha, nhân ái của phụ nữ với con người và cuộc đời. Suy cho cùng đó cũng là một cách dung hòa cân bằng các mối quan hệ ứng xử ở đời” [143, tr 115]. Trong sáng tác của mình, các cây bút nữ đã thể hiện cả ý thức lẫn vô thức sáng tạo, dựa trên linh cảm đầy biến ảo để khai thác đến nhiều vỉa tầng của hiện thực và chiều sâu nhân vật. Vì thế, việc phát hiện các tình huống tâm lý, thế giới nội tâm nhân vật với bút pháp tự sự trữ tình đã trở thành một nét đặc trưng trong sáng tác của các chị. Bên cạnh đó, việc không ngừng đổi mới nghệ thuật ngôn từ, lối viết tự do, khoáng đạt hiện đại mà gợi cảm và đầy nữ tính đã khiến tác phẩm của các chị ngày càng có nhiều độc giả. Chính với những thành tựu đó, nhà nghiên cứu đã tin rằng “trong nền văn xuôi đương đại phong phú và đa dạng hôm nay, sáng tác của các nhà văn nữ
  • 13. 10 đã có một tiếng nói riêng, hương sắc riêng…phụ nữ với tác phẩm của phụ nữ sẽ là lời mời, tiếng gọi của văn chương và người đọc trong thế kỷ 21” [143, tr 117] Năm 2006, trong bài viết Sức bật mới của những cây bút nữ, tác giả Lê Viết Thọ thông qua việc đánh giá những cái tên rất quen như Võ Thị Hảo, Trần Thùy Mai, Nguyễn Ngọc Tư đến sự xuất hiện của những cây bút nữ trẻ mới trên văn đàn như Hồng Hạnh, Phan Việt đã khẳng định “Những năm đầu của thế kỷ XXI này, văn đàn thêm một lần khởi sắc bởi những cây bút nữ. Nhờ họ, văn học ngày càng mang thêm diện mạo mới, một đời sống nhiều giằng co, trắc ẩn và đa đoan…Những cây bút nữ đã và đang âm thầm tỏa sáng, bày tỏ cách hiện diện trong cuôc sống bằng văn chương, tạo nên những nhịp mạch mới cho đời sống văn học [125]. Theo ông, điều quan trọng làm nên sức bật ấy chính là “trong sâu thẳm trang văn cho dù tưởng như cay nghiệt, thì vẫn phập phồng một trái tim nhân hậu, một cái nhìn sẻ chia, cảm thông trước cuộc đời, tạo nên một mạch nguồn ấm áp trong đời sống văn chương” [125]. Năm 2007, nhà nghiên cứu Phạm Xuân Nguyên ở bài viết Vũ điệu văn chương trẻ trong tập truyện ngắn của 12 cây bút nữ đã đã bộc lộ sự vui mừng khi chứng kiến sự trưởng thành của những cây viết thế hệ 7x, 8x như Nie Thanh Mai, Nguyễn Thúy Hằng, Ngọc Cầm Dương, Từ Nữ Triệu Vương…và với những gì họ đem lại trong văn chương “Họ trẻ tuổi, họ sống trẻ theo nhịp sống của thế hệ và thời đại, họ nghĩ và cảm trẻ. Và họ viết trẻ. Trẻ tự nó đã là một phẩm chất. Ở lối nhìn đời. Và ở cách trình bày lối nhìn ấy thành văn…Không có gì mới dưới mặt trời, nói về thất tình lục dục của con người. Chỉ có cách nhìn cách nói về chúng là mới mà thôi. Dù cái mới đây nhiều khi chưa phải là cái mới thực chất. Mới chỉ đang là khác, là lạ. Thì đấy cũng đã là một sự bắt đầu để có mới” [10, tr 7]. Theo tác giả, truyện ngắn là thể gan lì và ương bướng khi chấp nhận mọi người viết muốn thử sức nhưng không dễ cho ai làm chủ được nó khi không có đủ nội lực và tay nghề, nhưng 12 cây bút nữ trẻ đã đáp lại lời mời và sự thách thức đó. Mỗi cây bút, với những cách khám phá khác nhau đã mạnh dạn
  • 14. 11 trong việc “đột phá” vào mảng hiện thực lạ, những lối viết mới mẻ tạo nên sự đa dạng, hấp dẫn của thế hệ của các nhà văn trẻ. Tiếp nối những nhận định về văn xuôi nữ ở giai đoạn trước, năm 2013 tác giả Trần Thục đã có bài viết Một góc nhìn về văn xuôi nữ, khá bao quát về nhiều phương diện của văn xuôi nữ trong đó đặc biệt là truyện ngắn nữ. Theo tác giả, ở thể loại truyện ngắn, các cây bút nữ đã mang đến cho làng văn những giọng điệu mới. Văn chương của họ phần nào đã khẳng định được vị thế trên văn đàn, tên tuổi của họ ngày càng trở nên quen thuộc với nhiều độc giả. Về đề tài, các tác giả nữ viết nhiều về đề tài tình yêu, hạnh phúc với những khát vọng tình yêu luôn luôn bỏng chát nhưng dường như chẳng bao giờ có thể thực hiện được, chẳng bao giờ có thể trọn vẹn. “Vẫn còn bàng bạc những mất mát trong tình yêu và hôn nhân, nhấn chìm người phụ nữ vào sự cô đơn, đau khổ” [145]. Tuy nhiên, các cây bút nữ đã mạnh dạn cất lên tiếng nói cá nhân, nêu lên ước nguyện của mình, dám đòi hỏi và kêu gọi người đời quan tâm đến số phận những người phụ nữ. Không chỉ vậy, “văn xuôi nữ còn đi sâu vào những tầng bậc của cuộc sống gia đình, ở đó có cả những mâu thuẫn, xung đột, bất hòa giữa hai thế hệ mà tưởng như không thể giải tỏa nổi” [145]. Đặc biệt, theo nhận định của tác giả Trần Thục, nhân vật nữ trong tác phẩm của các cây bút nữ xuất hiện với mật độ dày đặc và trở thành hình tượng trung tâm, có thể lên đến 2/3 nhân vật của toàn bộ tác phẩm. “Nhân vật nữ của họ rất tinh tế, nhạy cảm, có cá tính mạnh mẽ, dám sống, dám yêu, dám đòi hỏi quyền được yêu, quyền được sống hạnh phúc chính đáng” [145]. Đồng thời với giọng điệu mới mẻ, có cá tính và ngôn ngữ sắc sảo, mạnh bạo mà vẫn không thiếu chất đằm thắm, dịu dàng, các nhà văn nữ đã góp những tiếng nói riêng, những hương sắc riêng cho diện mạo văn xuôi đương đại. Theo tác giả, văn xuôi nữ ở Việt Nam tuy xuất hiện muộn hơn so với các nước khác nhưng “hứa hẹn những bước đi triển vọng góp phần làm phong phú diện mạo văn học Việt Nam thế kỷ XXI” [145].
  • 15. 12 Năm 2015, nhà nghiên cứu Bùi Việt Thắng – người tự nhận mình có xu hướng “khuynh nữ” lại tiếp tục có bài viết luận bàn về những cây bút nữ trong hội thảo cuốn sách Phái đẹp và cuộc đời. Dường như, sau một khoảng thời gian dài nhìn lại, từ bài viết Khi người ta trẻ (I) (Tản mạn về truyện ngắn của những cây bút nữ trẻ) vào năm 1993 với cái nhìn còn chút lo lắng cho tương lai của văn học nữ, thì ở bài viết “Văn chương mang gương mặt nữ” trong hội thảo này, tác giả đã thể hiện niềm tin, sự khẳng định về một “đội quân tóc dài trong văn chương” trên nhiều phương diện. Cùng với thơ ca, các cây bút văn xuôi nữ đã có một vị thế và vai trò riêng trong nền văn chương Việt. Theo ông, thế mạnh của người viết nữ là lay động người đọc bằng những xúc cảm chân thành, mộc mạc nhưng bên cạnh đó còn là một chất trí tuệ thấm đượm trên những trang văn, là sự “đốt cháy trái tim đến thành trí tuệ” trong văn nữ. Nhà nghiên cứu có phần hơi chủ quan khi khẳng định “tương lai của văn chương nói chung cũng chính là tương lai của văn chương nữ nói riêng” [134]. Nhưng ông hoàn toàn có lý khi cho rằng ““văn chương mang gương mặt nữ” là nói đến khả năng thuần hóa những nỗi đau của con người mà nghệ thuật ngôn từ có thể thực hiện được sứ mạng của mình thông qua tác phẩm của nhà văn nữ” [134]. Bởi văn nữ và văn chương nói chung đều giống nhau ở cảm hứng nhân văn về con người, vì con người, đều hướng đến Chân – Thiện – Mỹ. Năm 2016, tác giả Châm Khanh trong bài viết “Phụ nữ và văn chương”, sau khi nhìn lại lực lượng sáng tác nữ qua nhiều thế hệ đã đưa ra những vấn đề khá quan trọng cần có sự giải đáp trong việc nghiên cứu văn chương nữ như hiện tượng nở rộ của các cây bút nữ, tại sao các cây bút nữ lại chuyên về văn xuôi hơn thơ ? Hay cách viết của phụ nữ so với nam giới có gì khác? Tác giả bài viết đã đưa ra những câu trả lời từ các nhà nghiên cứu như Hoàng Ngọc Hiến, Đặng Anh Đào và theo ông những quan niệm đó đều có tính thành kiến hơn là phán đoán khoa học. Nhưng đáng tiếc là ngay bản thân tác giả cũng không đưa được
  • 16. 13 kiến giải của riêng mình về sự khác biệt cụ thể giữa hai phái tính trong khía cạnh sáng tác văn học. Vấn đề được đặt ra vẫn là một câu hỏi bỏ ngõ cần lời giải đáp. Đáng chú ý trong hướng nghiên cứu này, có lẽ là bài viết Ba mươi năm truyện ngắn nữ trong xu thế hội nhập của tác giả Lê Thị Hường vào năm 2017. Bài viết được xem như một sự tổng kết khá toàn diện về thành tựu cũng như đặc điểm của truyện ngắn nữ. Từ sự khẳng định về ưu thế vượt trội của truyện ngắn trong một giai đoạn “Tiểu thuyết là những thành trì, nhưng đã đến thời viết ngắn”, tác giả đã nhận thấy một sự thật là dường như “phụ nữ bắt mạch với thời đại nhanh hơn nam giới”. Vì thế từ năm 1986 đến thập niên đầu thế kỷ XXI, sự xuất hiện ồ ạt của giới nữ đem lại sinh khí mới trong văn học. Ba mươi năm, vắt ngang hai thế kỷ, truyện ngắn nữ tập hợp được nhiều thế hệ nhà văn, hội tụ nhiều phong cách sáng tạo. Bằng sự trăn trở, tìm kiếm, chính đội ngũ những người nữ viết truyện ngắn nhiều thế hệ đã góp phần không nhỏ trong việc cách tân thể loại hòa chung xu thế toàn cầu. Tác giả bài viết đã thể hiện sự sắc sảo của mình trong việc nhận diện đặc điểm làm nên sự khác biệt của các cây bút nữ chính là trường nhìn và lối viết nữ. Nhà nghiên cứu đi sâu vào hai đề tài lịch sử và chiến tranh trong sáng tác của các nữ văn sĩ như một minh chứng cho việc “Với cái nhìn hướng nội, truyện ngắn nữ quan tâm nhiều điều ẩn mật của tâm hồn, kể cả khi khai thác những mảng hiện thực vốn được xem là dành cho nam giới” [86, tr 202]. Bên cạnh đó, “Đời sống phố thị và sự hiện tồn đầy âu lo của con người là một hướng phổ biến của truyện ngắn nữ - đặc biệt giai đoạn đầu thế kỷ XXI” [86, tr 204]. Truyện ngắn nữ đi sâu vào những mảng hiện thực nhức nhối, những lỗ hổng văn minh đô thị mà ở đó con người vừa là kẻ dự phần, vừa xa lạ, lạc lõng, cô đơn. Do đó, tuy chưa ghi dấu ấn vân tay đậm nét, “nhưng truyện ngắn nữ đã dự phần vào những vấn đề đương đại, đặc biệt là phi lý phận người” [80, tr 204]. Cùng với đó, tác giả Lê Thị Hường dường như đã nhìn tận đáy sâu tâm hồn người phụ nữ để thấy “hiện sinh tính dục, khỏa lấp nỗi cô đơn hiện tồn bằng những mải mê thân xác là vấn đề phổ biến trong truyện ngắn nữ…Tuy vậy, điểm
  • 17. 14 riêng rất nữ tính là niềm kiêu hãnh giới, là cảm thức dục tính uyên nguyên, góp phần đa dạng hóa cách nhìn con người bản năng” [86, tr 204 – 205]. Vì thế cổ mẫu Đất, Nước mang tính âm xuất hiện đậm đặc với nhiều ý nghĩa trong thế giới nghệ thuật của các nhà văn nữ. Một đặc điểm khác không thể không nhắc đến là sự liên văn bản và dung hợp thể loại ở truyện ngắn nữ. Chính điều này đã khiến những đặc trưng thẩm mỹ của truyện ngắn ít nhiều bị phá vỡ. Cảm quan và lối viết hậu hiện đại với cấu trúc phân mảnh, tính chồng lấn giữa ngôn ngữ người trần thuật và ngôn ngữ nhân vật… in dấu ấn trong truyện ngắn của nhiều nữ nhà văn như một minh chứng cho sự trăn trở, tìm tòi đổi mới bút pháp nghệ thuật của các chị. Có thể thấy, với một bài viết không quá 10 trang nhưng tác giả Lê Thị Hường đã góp phần lý giải được rất nhiều vấn đề trong nghiên cứu truyện ngắn nữ, giúp cho việc nhận diện những đặc trưng của truyện ngắn nữ nói riêng và văn xuôi nữ nói chung được tường minh, sáng rõ. Nhìn chung, các công trình và bài viết trong phạm vi chúng tôi bao quát được đều có xu hướng khẳng định thành tựu cũng như đóng góp của các nhà văn nữ trên văn đàn. Tuy nhiên, dù không nhiều nhưng cũng phải kể đến một số ý kiến thể hiện quan điểm không tin tưởng hay có thái độ hoài nghi với sự phát triển đối của văn học nữ. Nhà phê bình Nguyễn Thanh Sơn trong bài viết Các nhà văn nữ và sự khủng hoảng trong văn học Việt Nam hiện đại đã thể hiện thái độ không mấy thiện cảm với văn chương nữ giới. Ông nhận định “Những nhà văn nữ Việt Nam theo tôi, có lẽ chẳng mang đến cái gì mới bởi còn lâu họ mới tự đổi mới được…Phụ nữ Việt Nam cũng giống như phụ nữ trên toàn trái đất, không thể sống thiếu các thần tượng của mình, họ luôn phải dựa dẫm vào hình ảnh một người đàn ông lý tưởng nào đó” [112]. Và cuối cùng ông rút ra kết luận “sự thiển cận của tư tưởng, nông cạn về tri thức, hời hợt trong tình cảm đã trở thành căn bệnh kinh niên không chỉ của riêng các nhà văn nữ, nó chỉ là một phần trong cuộc khủng hoảng sâu sắc của văn học Việt Nam hiện nay. Có điều bằng thái độ tự tin một cách khó hiểu, những nhà văn ấy cứ tiếp tục cho ra đời
  • 18. 15 những tác phẩm không sức sống, những mẫu chuyện vụn vặt vô hồn. Họ đẩy sự tầm thường lên đến độ bất thường” [112]. Cũng đồng quan điểm này, tuy không nặng nề như tác giả Nguyễn Thanh Sơn nhưng nhà nghiên cứu Hoàng Đăng Khoa cũng bộc lộ sự nghi ngại trước sự đổi mới của nhiều cây bút nữ trong thời gian gần đây. Theo ông, đó không phải là sự đổi mới mà phải chăng là sự đánh mất mình của nhiều cây bút trên trang viết. Những nhận định này có phần cực đoan, phiến diện. Người viết đã áp đặc cái nhìn đậm màu sắc chủ quan của cá nhân để khái quát một hiện tượng văn học. Những thành tựu của văn học nữ qua hơn 30 năm và sự quan tâm đặc biệt của công chúng dành cho hiện tượng này đã chứng tỏ giá trị của nó mang lại cho nền văn học nước nhà cũng như cho đời sống tinh thần của người đọc Việt. Tuy nhiên, có thể thấy rằng những ý kiến trái chiều như vậy là điều không thể tránh khỏi của một giai đoạn văn học thuộc về cái “đương đại chưa hoàn thành” (M.Bakhtin). Nó chứng tỏ sự phức tạp của một hiện tượng văn học cần có những nghiên cứu chuyên sâu hơn để chứng minh và khẳng định. 1.1.2. Tiếp cận từ tư duy nghệ thuật và đặc trưng thể loại Hướng nghiên cứu này tập trung chủ yếu ở một số công trình luận án đã bảo vệ trong thời gian vừa qua tiêu biểu như: Những đặc điểm cơ bản của truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975 – 1995 của tác giả Lê Thị Hường (Luận án phó tiến sỹ khoa học Ngữ Văn – Đại học Khoa học xã hội và nhân văn – Năm 1995), Truyện ngắn Việt Nam từ 1986 đến nay (Nhìn từ góc độ thể loại) của tác giả Lê Thị Hương Thủy (Luận án Tiến sĩ văn học – Học viện khoa học xã hội – Năm 2013), Truyện ngắn Việt Nam sau 1975 – nhìn từ góc độ thể loại của tác giả Nguyễn Thị Năm Hoàng (Luận án tiến sĩ văn học – Đại học Khoa học xã hội và nhân văn – Năm 2015). Điểm chung của ba luận án này là đều không lấy truyện ngắn nữ làm đối tượng nghiên cứu trực tiếp nhưng thông qua bức tranh toàn cảnh của truyện ngắn Việt Nam từ sau 1975,các công trình đã giúp những người
  • 19. 16 nghiên cứu truyện ngắn nữ nhận diện đặc trưng bút pháp, tư duy nghệ thuật hay đặc điểm phong cách của một hay một số tác giả nữ. Chỉ lấy đối tượng nghiên cứu là những truyện ngắn giai đoạn khoảng 20 năm từ sau 1975 nên luận án Những đặc điểm cơ bản của truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975 – 1995 của tác giả Lê Thị Hường chưa nhìn thấy sự phát triển trở thành “hiện tượng” của các cây bút nữ trên văn đàn Việt. Nhưng trong cái nhìn chung về truyện ngắn giai đoạn này, nhà nghiên cứu đã nhận diện đặc điểm chung trong sáng tác của một số nhà văn nữ như Phạm Thị Hoài, Y Ban, Nguyễn Thi Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh trên các phương diện như như cốt truyện, kết cấu, nhân vật, thời gian, không gian nghệ thuật hay ngôn ngữ. Góp phần trong việc dần làm lộ diện “hiện tượng” văn học nữ những năm cuối thập kỷ 90, còn phải kể đến hai công trình luận án Truyện ngắn Việt Nam từ 1986 đến nay (Nhìn từ góc độ thể loại) của tác giả Lê Thị Hương Thủy và Truyện ngắn Việt Nam sau 1975 – nhìn từ góc độ thể loại của tác giả Nguyễn Thị Năm Hoàng. Cùng một đề tài tương đối giống nhau nhưng với cách tiếp cận khác nhau, hai tác giả đã có những kiến giải khá bao quát về truyện ngắn nói chung và truyện ngắn một số tác giả nữ nói riêng. Trong luận án của mình, khi khám phá diễn trình truyện ngắn thời kỳ đổi mới, tác giả Lê Thị Hương Thủy đã nhận diện sự thăng hoa của truyện ngắn nữ : “Cũng cần nói đến hiện tượng truyện ngắn của các cây bút nữ vào những năm cuối thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90. Đây được coi là thời kỳ thăng hoa của truyện ngắn nữ với sự gia tăng của các cây bút nữ, nhất là truyện ngắn có lối viết và giọng điệu khác nhau. Sự xuất hiện đông đảo của người viết nữ cùng với nỗ lực và ý thức cách tân về lối viết đã đem đến cho người đọc những cảm quan mới mẻ” [147, tr 27 – 28]. Tác giả luận án cũng nhận ra đặc điểm nổi bật về điểm nhìn trần thuật trong sáng tác của các cây bút nữ là trần thuật từ ngôi thứ nhất với điểm nhìn bên trong “hầu hết truyện ngắn của các cây bút nữ như Phan Thị Vàng Anh, Lý Lan, Nguyễn Thị Thu Huệ, Y ban đều viết dưới hình thức người
  • 20. 17 kể chuyện xưng tôi” [147, tr 139]. Đồng thời, qua việc phân tích sự thay đổi ở nhiều phương diện như quan niệm và tư duy thể loại, các dạng thức xây dựng nhân vật và tổ chức kết cấu văn bản, hay ngôn ngữ và điểm nhìn trần thuật trong truyện ngắn thời kỳ đổi mới, luận án đã cho rằng có thể thấy ở phương diện nào, truyện ngắn nữ cũng có những đại diện góp mặt tiêu biểu như truyện ngắn của Phạm Thị Hoài, Lê Minh Khuê, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh… Tuy nhiên, ở công trình này, các truyện ngắn nữ chỉ được đề cập với một số nội dung nhất định và với dung lượng khá ít như những minh chứng bổ sung cho các luận điểm triển khai trong luận án bên cạnh các cây bút nam như Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Tạ Duy Anh… Tương tự như vậy, trong luận án Truyện ngắn Việt Nam sau 1975 – nhìn từ góc độ thể loại, tác giả Nguyễn Thị Năm Hoàng đã khám phá truyện ngắn trên nhiều phương diện như các xu hướng vận động, tình huống, kết cấu, nhân vật và ngôn ngữ truyện ngắn Việt Nam sau 1975. Diện khảo sát về các truyện ngắn nữ ở luận án này tuy có rộng hơn khi đi sâu phân tích nhiều tác phẩm cụ thể của các tác giả nữ như Lê Minh Khuê, Võ Thị Hảo, Nguyễn Thị Thu Huệ, Trần Thùy Mai, Nguyễn Ngọc Tư nhưng cơ bản đó vẫn là cái nhìn lồng ghép trong cái nhìn chung về truyện ngắn Việt Nam từ sau 1975 như các luận án trước đó, vì thế chưa thể nhận diện truyện ngắn nữ như một hiện tượng với những đặc trưng mang tính chất khu biệt trong nề văn học Việt Nam đương đại. Đáng chú ý nhất trong hướng nghiên cứu này có lẽ là luận án Truyện ngắn các nhà văn nữ đương đại – Tư duy nghệ thuật và đặc trưng thể loại của tác giả Phạm Thị Thanh Phượng (Đại học khoa học xã hội và nhân văn – Năm 2015). Lấy phạm vi nghiên cứu là truyện ngắn của các tác giả tiêu biểu như Lê Minh Khuê, Y Ban, Nguyễn Thị Thu Thuệ, Phan Thị Vàng Anh, Võ Thị Hảo, Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thúy…, đây được xem là một trong những công trình đầu tiên nghiên cứu về truyện ngắn nữ một cách khái quát, góp phần khẳng định và lý giải nhiều vấn đề quan trọng trong tư duy nghệ thuật và đặc trưng thể loại của
  • 21. 18 truyện ngắn nữ. Theo tác giả, truyện ngắn nữ thời kỳ đổi mới đã chứng kiến sự tăng vọt một cách “đột biến” về lực lượng đội ngũ với những thành công vang dội. Thậm chí, họ cũng là chủ nhân của một số hiện tượng “gây hấn” dư luận, tạo ra hiệu ứng tiếp nhận trái chiều với những cái tên tiêu biểu như Phạm Thị Hoài, Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Hoàng Diệu và Y Ban. Quan trọng hơn, tác giả luận án đã đem đến cách kiến giải của riêng mình về tiếng nói nghệ thuật mang bản sắc riêng đậm chất “nữ” thông qua những mảng đề tài tình yêu, hôn nhân và gia đình, qua những bức chân dung tự họa rất ấn tượng về giới mình hay dạng thức người kể chuyện ngôi thứ nhất…để từ đó có thể khẳng định “bắt mạch rất nhanh vào sự vận động của văn xuôi đương đại, truyện ngắn nữ “vào hội” với một dung nhan sớm chín nở bởi sự “mẫn cảm bản năng” của người cầm bút. Dường như mọi sự biến đổi hình thức nghệ thuật của văn xuôi đương đại ta đều có thể quan sát thấy ở hiện tượng này. Điều quan trọng, truyện ngắn nữ “nhập cuộc” với một bản sắc riêng in đậm dấu ấn giới tính trong sáng tạo nghệ thuật.” [124, tr 49 – 50]. Tìm hiểu tư duy nghệ thuật của truyện ngắn nữ, tác giả Phạm Thị Thanh Phượng đã khám phá trên các bình diện như: quan niệm sáng tác, hình tượng cuộc sống, thế giới nhân vật, thế giới biểu tượng, không thời gian nghệ thuật. Ở mỗi luận điểm, tác giả luận án đều thể hiện sự nhạy bén và sâu sắc trong việc nhận diện cách nhìn, cách cảm của các nữ văn sĩ. Ở họ những dự cảm bất an với nỗi cô đơn ám ảnh luôn song hành với niềm tin vào những giá trị nhân văn bền vững trong cách cảm nhận về đời sống và con người. Tác giả cũng chỉ ra những biểu tượng mang dấu ấn riêng của những người đàn bà viết văn như con người dị biệt – khát vọng hướng thiện và khát vọng được cứu rỗi, sex – bản năng hay khát vọng tình yêu, giấc mơ – thế giới tâm linh thẳm sâu của con người hay thiên nhiên – dấu vết cổ mẫu và những ẩn dụ về cuộc đời con người… “Trên tất cả, chúng ta nhận ra một “thiên tính nữ” in đậm trong tư duy nghệ thuật của phái nữ, khi họ luôn khẳng định thiên chức, thiên tính của mình trong mọi phương diện, mọi hoàn cảnh” [109, tr 101]. Ở phương diện đặc trưng thể loại, tác giả Phạm
  • 22. 19 Thị Thanh Phượng cũng nghiên cứu rất nhiều bình diện như người kể chuyện ngôi thứ nhất, nghệ thuật xây dựng tình huống, nghệ thuật tổ chức cốt truyện, những sáng tạo về mặt kết cấu và ngôn ngữ, giọng điệu. Trên mỗi bình diện, các nhà văn nữ đều nỗ lực cách tân góp phần không nhỏ thúc đẩy sự vận động và biến đổi của thể loại truyện ngắn trong đời sống văn học Việt Nam đương đại. “Dường như đặc trưng thể loại truyện ngắn và tư duy nghệ thuật của các nhà văn nữ có khá nhiều điểm tương đồng với nhau: cùng linh hoạt, mềm mại như nước, cùng thiên về đề cao những khoảnh khắc, những “phiến đoạn hành động” có ý nghĩa mở ra chiều sâu khôn cùng của thế giới tâm hồn, cuộc đời con người, cùng luôn giữ vững một bản chất “căn cốt” để khẳng định chân giá trị của mình” [109, tr 146]. Ngoài các công trình luận án trên, gần đây tác giả Lê Thị Hường với bài viết Tư duy biểu tượng trong văn xuôi nữ cũng góp phần khẳng định một trong những đặc điểm quan trọng trong tư duy nghệ thuật của các cây bút nữ - tư duy biểu tượng. Theo bà “Với nữ giới, viết văn là một sự giãi bày. Viết như một nhu cầu thể hiện khát vọng thầm kín. Đối với đa phần các nhà văn nữ, mỗi tác phẩm là tiếng kêu của nỗi ám ảnh, là những ẩn dụ cuộc đời. Vì lẽ đó, trong thế giới nghệ thuật của giới nữ, tư duy biểu tượng đậm nét…” [100]. Trong văn xuôi của các tác giả nữ, nếu cổ mẫu được sử dụng như một mã thẩm mĩ biểu thị sự tái sinh, sự cứu rỗi tâm hồn con người thì Mẫu – Đàn bà trở thành biểu tượng của nữ tính vĩnh hằng và biểu tượng màu sắc là những diễn ngôn đa trị của các cây bút nữ. Tất cả làm nên “chiếc chìa khóa nhiệm màu thông diễn được cõi riêng tư vô cùng phức tạp” [100] của các nữ văn sĩ đồng thời góp phần hướng người đọc đến những chân trời đa dạng hơn của sự tiếp nhận. 1.1.3. Nghiên cứu về những tác giả nữ cụ thể Đây là hướng nghiên cứu thu hút được nhiều nhất sự quan tâm của các nhà phê bình hay cả công chúng bạn đọc. Rất nhiều bình diện trong sáng tác của các cây bút nữ được lật mở trong đó nhiều nhất là những bài viết giới thiệu về
  • 23. 20 các tác phẩm hay phong cách nhà văn . Vì thế, trong phạm vi này, chúng tôi chỉ điểm qua những bài viết góp phần làm nổi bật đặc trưng, phong cách của một số tác giả trong phạm vi nghiên cứu của luận án như Lê Minh Khuê, Võ Thị Hảo, Võ Thị Xuân Hà, Trần Thùy Mai, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Ngọc Tư… Là một trong những nữ nhà văn “hiếm hoi” sáng tác và thành danh ở cả hai giai đoạn trước và sau 1975, Lê Minh Khuê được xem một nhà văn có bút lực dồi dào với danh xưng “bà trùm truyện ngắn”. Trong bài viết “Hiện tượng Lê Minh Khuê”, tác giả Bùi Việt Thắng đã khái quát những nét đặc sắc trong truyện ngắn Lê Minh Khuê ở nhiều phương diện. Theo tác giả, “có thể nói cảm hứng thế sự là cảm hứng chủ đạo trong sáng tác truyện ngắn của Lê Minh Khuê. Cảm hứng thế sự trong sáng tác của nhà văn thể hiện ở tinh thần dấn thân, nhập cuộc, ở cái cách “áp sát đời sống”, biết lắng nghe, biết quan sát tất cả mọi diễn biến phức tạp của nhân tình thế thái” [135]. Thế giới nhân vật trong truyện ngắn của Lê Minh Khuê khá đa dạng trong đó nổi bật với kiểu nhân vật tha hóa vì đồng tiền và quyền lực, lãnh cảm với đồng loại hay kiểu “nhân vật cô đơn mang nỗi buồn vốn được coi như là biểu hiện của một trạng thái tinh thần xã hội”. Đặc sắc nghệ thuật trong truyện ngắn của Lê Minh Khuê còn ở các chi tiết nghệ thuật đặc sắc, đoạn kết độc đáo như một “cú đấm nghệ thuật” có thể chinh phục hoàn toàn độc giả khi tiếp xúc với tác phẩm hay cả tính đối thoại trên mỗi trang văn. Viết về Lê Minh Khuê còn có thể kể đến các bài viết như Nhà văn Lê Minh Khuê: Thấu hiểu nỗi bất an của đời sống (Trần Hoàng Thiên Kim), Nhà văn Lê Minh Khuê, chiến tranh ám ảnh qua từng trang viết (Phương Thúy)… Cùng với đó, trong bài viết Tứ tử trình làng, nhà nghiên cứu Bùi Việt Thắng đã nhận diện một vài đặc trưng nổi bật của bốn cây bút: Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Thị Thu Huệ, Võ Thị Hảo và Lý Lan. Với Phan Thị Vàng Anh, đó là cách “lạ hóa những điều quen thuộc, biết làm cho da diết những điều tưởng như nhạt nhẽo”, truyện của chị không nổi trội về cốt truyện và nhân vật. “Sự tìm
  • 24. 21 tòi của người viết dường như là bằng bất cứ cách nào diễn đạt được hết ý tưởng của mình…Đọc Phan Thị Vàng Anh ta bớt được một phần lối nhìn đời đơn giản, một chiều, thêm một lần ta tới gần được cái thế giới bí ẩn của đời sống và con người vốn không thôi làm ta ngạc nhiên”[11, tr 6]. Võ Thị Hảo lại như là người kể chuyện “cổ tích hiện đại”. Truyện của chị “có cái dập dìu của những “chàng”, những “nàng”, không khí truyện lúc tỏ lúc mờ, câu chuyện được kể lắm lúc phiêu diêu…tất cả hòa trộn tạo nên cái đặc sắc riêng. Nổi bật nhất trong truyện ngắn của Võ Thị Hảo là việc tạo dựng những tình huống truyện đặc sắc, với những nhân vật “thường có nét dị dạng khác người nhưng tâm hồn họ thánh thiện, giàu lòng vị tha và đức hy sinh – hy sinh để cứu người khác” [11, tr 7]. Còn Nguyễn Thị Thu Huệ, sự “chao chát và dịu dàng, thơ ngây và từng trải, đớn đau và tin tưởng cứ trộn lẫn trong văn Nguyễn Thị Thu Huệ tạo nên tính đa cực của ngòi bút nữ có duyên trong lĩnh vực truyện ngắn” [11, tr 8]. Nhân vật của chị thường được xây dựng trong mâu thuẫn “vừa cố dính kết với gia đình như một “hang ổ cuối cùng”, lại vừa bị nhiều ngoại lực giằng xé, lối kéo. Thành ra phân thân, thành ra nhiều bi hài kịch. Con người dễ rơi vào tục lụy ái tình là vì vậy”. [11, tr 8]. Đọc truyện ngắn của Lý Lan, người đọc lại cảm thấy thật nhẹ nhàng bởi “lối viết truyện ngắn rất tự do, dường như không câu nệ khuôn phép nào… Truyện ngắn Lý Lan vừa như cái gì liên tục mà đứt đoạn, mơ hồ mà rõ ràng – có thể đó là lối viết dựa vào dòng ý thức, Lý Lan không quá chuyên chú miêu tả chính xác các hiện tượng đời sống mà thường cố gắng “ướm” mình vào nhân vật và hay “giả sử” để xử sự trong mọi trường hợp”[11, tr 9 – 10]. Nghiên cứu về Võ Thị Xuân Hà, nhà nghiên cứu Văn Giá đã thể hiện sự am tường sâu sắc về sáng tác của nữ nhà văn này trong bài viết Đọc văn của Võ Thị Xuân Hà được đăng trên tạp chí Sông Hương. Theo nhà nghiên cứu, Võ Thị Xuân Hà là “nhà văn của những cõi sống chập chờn hư thực”, “văn của Võ Thị Xuân Hà trong những biểu hiện ràng rịt và phức tạp khác nhau, tất cả đều hướng về những trạng thái chập chờn giữa cõi thực và cõi ảo. Rất thực. Nhưng bảo thực hoàn
  • 25. 22 toàn không phải. Rất huyền hồ, hư ảo. Nhưng bảo neo đậu hoàn toàn trong cõi ảo cũng không. Cây bút nữ này ngay từ đầu và cho tới tận bây giờ vẫn chơi vơi, đi về, bay lượn trong khung trời hư thực” [81]. Đặc điểm này xuyên suốt trong toàn bộ sáng tác tạo nên một mỹ học mang tên Võ Thị Xuân Hà. Nhân vật nữ - nhân vật trung tâm trong sáng tác của Võ Thị Xuân Hà vì thế có đặc điểm chung thường rất trần thế, đa đoan nhưng cũng rất mộ đạo và cao quý. Kiếp phận đa đoan là mẫu số chung của nhân vật nữ trong sáng tác của Võ Thị Xuân Hà nhưng điều thú vị là họ luôn có một thứ ánh sáng bao bọc. Đó là đời sống tâm linh với một tấm lòng mộ đạo. Văn củả Võ Thị Xuân Hà là lối văn trữ tình, nhịp chậm. Hầu hết các truyện của Võ Thị Xuân Hà đều không coi trọng cốt truyện. Nhà văn đã tiến hành tối giản cốt truyện, chị chú trọng nhân vật hơn sự kiện. Đồng thời nhà văn thích tìm chất thơ tinh tế của nội giới và ngoại giới. Văn Võ Thị Xuân Hà có những ám ảnh từ những thứ tưởng rất vu vơ. “luôn được chảy trôi trong một tiết điệu thong thả, tha thiết, sâu lắng. Nó không thích hợp với sự nhanh gấp, chói gắt” [145]. Chính vì thế, trong đội hình các cây bút nữ, Võ Thị Xuân Hà đã xác lập cho mình một nhan sắc, một phong thái văn chương. Có thể thấy, tuy chỉ mới là những ấn tượng, nhưng nhà nghiên cứu Văn Giá đã thể hiện cái nhìn thấu suốt, đồng điệu trong việc khám phá giá trị văn chương của nữ văn sĩ này. Không cùng thế hệ nhưng Trần Thùy Mai và Nguyễn Ngọc Tư lại giống nhau ở điểm cùng tạo nên những dấu ấn văn hóa vùng miền trong văn. Nếu Trần Thùy Mai là người viết in đậm dấu ấn của vùng đất kinh kỳ xứ Huế thì Nguyễn Ngọc Tư lại là nhà văn của con người Nam Bộ. Tác giả Lê Thị Hường trong bài viết “Trần Thùy Mai – hành trình đi tìm hạnh phúc ảo” đã có những khám phá khá toàn diện về văn chương của nhà văn xứ Huế này. Theo tác giả, tác phẩm nữ thường có tính chất tự truyện nhưng nếu xem truyện ngắn Trần Thùy Mai là tự truyện thì không phải, cảm giác ở Trần Thùy Mai là sự phân mảnh, hóa thân rất rõ trên từng trang viết đầy nữ tính của nhà văn. Chính vì thế, không thu hút người đọc bằng những cốt truyện lạ, càng không gây sự chú ý bằng những yếu tố
  • 26. 23 tình dục, Trần Thùy Mai viết như để giải bày “phần lớn Trần Thùy Mai để ngòi bút trôi theo trực cảm, cảm giác. Nhỏ nhẹ, dịu dàng, với phương thức tiếp cận cuộc sống nửa cổ tích, nửa thế sự, Trần Thùy Mai đã khẳng định một phong cách riêng. Bằng khả năng cảm nhận và miêu tả tinh tế hiện thực cuộc sống thông qua thế giới tâm hồn, Trần Thùy Mai đã góp phần làm nên sự phong phú và chiều sâu của truyện ngắn đương đại” [101]. Chị dành trọn văn nghiệp của mình cho đề tài tình yêu với tất cả cung bậc vốn có của nó. Quan trọng hơn, “dù viết về vấn đề gì, những trang viết của Trần Thùy Mai vẫn không ra khỏi cái chất kết dính kì diệu là cảm xúc nữ tính” [101]. Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Trần Thùy Mai không đa dạng lắm nhưng khá sinh động. Nổi bật trong thế giới nhân vật của chị là một cái tôi phụ nữ buồn, nhiều khát vọng. Chính vì thế truyện ngắn Trần Thùy Mai ít có những mảng tối của xã hội, hay những nhân vật suy thoái đạo đức trầm trọng. Đó là cái tạng của Trần Thùy Mai. “Đi tìm nét cách tân độc đáo trong truyện ngắn Trần Thùy Mai sẽ phá vỡ chất lãng mạn, huyền ảo kết dính trên từng trang văn mượt mà của chị. Những vấn đề xã hội nhức nhối lọc qua sự mẫn cảm của trái tim phụ nữ trở nên nhân tình, nhân bản hơn. Mọi sự cách tân chưa đến độ sẽ nhạt dần, càng ngày người đọc càng thấy Trần Thùy Mai chín và sâu, thống nhất và biến hóa trong phong cách riêng của mình” [101] Dường như, bằng chính sự thấu hiểu của một con người xứ Huế, nhà nghiên cứu Lê Thị Hường đã bắt rất đúng những dấu ấn riêng của nhà văn Trần Thùy Mai. Điều đó cũng bắt gặp sự đồng tình trong một số bài viết về nữ văn sĩ này như Cảm thức văn hóa Huế trong truyện ngắn Trần Thùy Mai (Hoàng Thị Huế), Nhà văn Trần Thùy Mai (Mai Văn Hoan), Truyện ngắn Trần Thùy Mai – Những giấc mơ huyền thoại (Hồ Thế Hà), Trần Thùy Mai: nhà văn dịu dàng, đa đoan (Lê Mỹ Ý), Nhà văn Trần Thùy Mai: những giấc mơ yêu bảng lảng sắc kinh kì ( CĐ- báo Văn nghệ Trẻ)… Còn với Nguyễn Ngọc Tư, các bài viết đều nhận ra cảm thức văn hóa Nam Bộ thấm sâu trên từng trang viết của nữ nhà văn. Từ hiện thực, con người,
  • 27. 24 không gian hay ngôn ngữ, tất cả đều mang dáng dấp con người và vùng đất Nam Bộ. Có lẽ vì thế họ gọi chị là “đặc sản Nam Bộ”, “sầu riêng Nam Bộ”. Tất cả điều này, có thể bắt gặp trong các bài viết như Nguyễn Ngọc Tư – sầu riêng Nam Bộ (Hoàng Kim), Không gian của Nguyễn Ngọc Tư (Nguyên Ngọc), Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư – từ góc nhìn văn hóa (Nguyễn Trọng Bình), Tìm hiểu ngôn ngữ truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư (Thanh Bình), Nguyễn Ngọc Tư đặc sản miền Nam (Trần Hữu Dũng) hay Thiên nhiên và con người Nam Bộ trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư (Tiền Văn Triệu), Không gian sông nước trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư (Thụy Khê)...Ngoài ra, còn có thể nhìn thấy nhiều đặc điểm khác trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư như trong bài viết Nguyễn Ngọc Tư – chất văn gây ảo giác (Trịnh Phương Thu), Nguyễn Ngọc Tư : Người cô đơn trong cõi văn chương (Trần Hoàng Thiên Kim). Theo các tác giả, truyện Nguyễn Ngọc Tư thường tìm đến những con người nhỏ nhoi, bé mọn, vương nỗi sâu nhân thế, những tác phẩm không tìm ra lời kết… Vì thế, truyện Nguyễn Ngọc Tư không có tình huống gây cấn mà “nhà văn khai thác những ngóc ngách thẳm sâu trong tâm hồn con người, vẽ lên trang sách những cảm xúc mong manh, mơ hồ nhưng rất đỗi thân thuộc. Giọng văn ấy đầy tính ma mị, liêu trai, một chất văn dễ gây ảo giác cho tâm hồn. Nhưng vượt lên trên những cảm xúc ấy, truyện của Nguyễn Ngọc Tư giúp cho những cảm xúc mãnh liệt về tình người và lòng nhân ái được thức dậy và tìm ra bến đỗ” [109]. Gần đây truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư còn được đặt dưới góc nhìn phê bình sinh thái như bài viết Thiên nhiên trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư dưới góc nhìn phê bình sinh thái, góp phần phát hiện những giá trị mới mẻ trong văn chương nữ sĩ Nam Bộ. Ngoài ra còn phải kể đến rất nhiều cái tên khác như Y Ban, Đỗ Bích Thúy, Dương Thụy…cũng nhận được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu. Mỗi người với những con đường khác nhau đã góp thêm một tiếng nói trong việc tìm hiểu giá trị văn chương của các cây bút nữ.
  • 28. 25 1.1.4. Tiếp cận truyện ngắn nữ từ góc độ vận dụng lý thuyết 1.1.4.1. Lý thuyết phê bình nữ quyền Nữ quyền là khái niệm mới được nhắc đến nhiều trong đời sống văn học nước ta những năm gần đây nhưng nhanh chóng thu hút được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu lẫn giới sáng tác. Phê bình nữ quyền (Feminist critcism) trở thành một trong những khuynh hướng chủ đạo góp phần quan trọng trong việc khám phá những giá trị của văn học nữ nói chung và truyện ngắn nữ nói riêng. Vì thế, số lượng các bài viết theo hướng này khá nhiều nên ở đây chúng tôi chỉ tập trung vào những nghiên cứu về văn xuôi nữ nói chung cũng như truyện ngắn nữ nói riêng từ 1986 đến nay. Năm 2006, nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Điệp – một trong những người mở đầu cho xu hướng nghiên cứu này đã có bài viết Ý thức phái tính và âm hưởng nữ quyền trong văn học Việt Nam đương đại. Tác giả bài viết đã phân tích dấu ấn nam quyền với những biểu hiện cụ thể của nó trên nhiều bình diện đã tồn tại trong tâm thức con người của nhiều quốc gia dân tộc. Ở Việt Nam, vai trò thống trị của đàn ông, ngoài sự ủng hộ tuyệt đối của thiết chế xã hội còn trở thành một nét tâm lí phổ biến kéo dài từ thời này qua thời khác. Tư tưởng, thái độ đó từ chỗ là một vấn đề lớn trong đời sống xã hội đã chuyển dịch vào lãnh địa sáng tạo và thưởng thức văn học cũng như nhiều hoạt động tinh thần khác. Chính vì thế, từ những hiện tượng đơn lẻ, đến năm 1986 “sự phát triển mạnh mẽ của đất nước và những nỗ lực tạo nên sự bình đẳng về giới…đã tạo nên những tiền đề cơ bản để giúp người đàn bà thoát khỏi sự áp chế của đàn ông, khiến cho họ có khả năng tồn tại độc lập và có khả năng tự quyết số phận của mình…Nhưng quan trọng hơn, ý thức về giới một cách tự giác đã ăn sâu vào tâm thức của đội ngũ cầm bút và tạo nên âm hưởng nữ quyền trong văn học” [137, tr 292]. Tác giả cũng đã đưa ra những nguyên nhân góp phần vào sự xuất hiện và mở rộng âm hưởng nữ quyền trong văn học Việt Nam cũng như sự biểu hiện của nó trên bốn phương diện cụ thể như sau: 1/ ngôn ngữ trong tác phẩm của các cây bút nữ - thứ
  • 29. 26 ngôn ngữ thể hiện chính xác những trải nghiệm cá nhân giới nữ, 2/ sự công khai xét lại lịch sử và các điển phạm nghệ thuật bằng cái nhìn riêng của cá nhân và giới nữ, 3/ sự công khai bày tỏ thái độ chống đối lại sự lệ thuộc vào thế giới đàn ông, dám xông vào những đề tài cấm kị một cách tự do nhất là đề tài tình dục,4/ sự “bảo lưu một cách vô thức” hơi ấm nữ tính ở một số trường hợp. Có thể nói, tuy không đi sâu vào tác phẩm hay tác giả cụ thể nhưng những luận điểm nhà nghiên cứu đưa ra đã có vai trò khai mở, định hướng cho những nghiên cứu nữ quyền về sau. Và đúng như tác giả nhận định, vấn đề phái tính và văn học nữ tính vẫn còn nhiều khoảng trống để giới học thuật tiếp tục “bồi đắp”. Để có thể hình thành một nền văn học nữ tính thực sự, mang tinh thần nhân văn sâu sắc, cần có những có những nghiên cứu chuyên sâu, tránh cực đoan, phiến diện ở cả giới sáng tác lẫn nghiên cứu phê bình văn học. Năm 2011, tác giả Nguyễn Thị Bình cũng góp thêm một tiếng nói cho xu hướng nghiên cứu này bằng bài viết Ý thức phái tính trong văn xuôi nữ đương đại. Theo bà, ý thức nữ quyền đã chi phối ngòi bút của các cây bút nữ qua 3 phương diện cụ thể biểu thị trong sáng tác là những tuyên ngôn về “viết” với nhu cầu khẳng định “cái tôi nữ tính”, những nhân vật in đậm ý thức phái tính qua việc kiến tạo mẫu hình người phụ nữ mới và sự biểu hiện ngôn ngữ của ý thức phái tính. Tuy tự nhận bài viết của mình chỉ là “logic của một niềm tin cá nhân, suy luận cá nhân, không tránh khỏi chủ quan, võ đoán” [137, tr 311] nhưng quan điểm của tác giả đã bổ sung thêm một cách nhìn trong việc khám phá những biểu hiện của âm hưởng nữ quyền trong văn học nữ đặc biệt là văn xuôi nữ. Bằng những tác phẩm minh chứng cụ thể, tác giả bài viết đã soi chiếu ý thức nữ quyền trong văn xuôi đương đại Việt một cách cận cảnh, rõ ràng hơn đối với người tiếp nhận. Tuy nhiên có thể thấy ở đây, tác giả bài viết chưa làm rõ sự phân biệt giữa những khái niệm như phái tính/giới tính, ý thức phái tính/ý thức nữ quyền để làm tăng tính thuyết phục của bài viết.
  • 30. 27 Ngoài ra, cũng trong khoảng thời gian này có thể chú ý đến một số bài viết của tác giả Hồ Khánh Vân về hướng nghiên cứu này như: Ý thức nữ quyền và sự phát triển bước đầu của văn học nữ Nam Bộ trong tiến trình hiện đại hóa văn học dân tộc đầu thế kỷ XX; Ý thức về địa vị “giới thứ hai” trong một số sáng tác văn xuôi của các tác giả nữ Việt Nam và Trung Quốc từ năm 1980 đến nay; Từ quan niệm về lối viết nữ (I’escriture féminine) đến việc xác lập một phương pháp nghiên cứu trong phê bình nữ quyền. Tác giả đã nhận thấy sự manh nha ra đời của phê bình văn học nữ quyền từ Phan Khôi đến Manh Manh nữ sĩ để từ đó ghi nhận sự đóng góp của văn học nữ Nam Bộ trong việc tạo lập một tiếng nói có âm sắc của người phụ nữ trên văn đàn. Trong bài viết Ý thức về địa vị “giới thứ hai” trong một số sáng tác văn xuôi của các tác giả nữ Việt Nam và Trung Quốc từ năm 1980 đến nay, nhà nghiên cứu Hồ Khánh Vân đã chỉ ra những điểm tương đồng trong sáng tác của các tác giả Việt Nam và Trung Quốc trong tiếng nói ý thức về địa vị “giới thứ hai”. Chính từ sự ý thức sâu sắc về giới đã khiến cho nữ giới trở thành đối tượng phản ánh trung tâm, đóng vai trò chủ đạo trong sáng tác của các tác giả nữ hai nước. Từ việc “đặt trong mối tương quan với xã hội trên diện rộng, người phụ nữ thường hiện lên trong tư thế của những thân phận bé nhỏ, chịu nhiều thiệt thòi, bất công, đau khổ mất mát” [153] đến sự kháng cự lại thân phận “giới thứ hai” thông qua việc tái hiện những hình tượng nhân vật phảng kháng, mạnh mẽ hơn nữa là nhân vật nổi loạn như một minh chứng cho sự phát triển ý thức về giới của các cây bút nữ trong sáng tác. Đó là một bước tiến trong việc tạo nên tiếng nói riêng mang tính bản thể của các nữ văn sĩ, là dạng thức chủ đạo của ý thức về giới, ý thức nữ quyền. Bởi khi các nhà văn nữ đương đại xác định vị trí của người phụ nữ trong các mối tương quan với xã hội, nhìn trực diện vào hiện thực của nữ giới chính là cách họ vượt qua giới hạn của bản thân để khẳng định chính mình. Từ sự ý thức sâu sắc về giới, tác giả Hồ Khánh Vân cũng đã đề ra một số phương diện đặc thù của lối viết nữ trong bài viết Từ quan niệm về lối viết nữ
  • 31. 28 (I’escriture féminine) đến việc xác lập một phương pháp nghiên cứu trong phê bình nữ quyền. Theo tác giả, tự thuật, lối viết tính dục và lối viết thân thể, hình tượng người mẹ và suy nghĩ lùi về người mẹ, bi kịch vỡ mộng và hình tượng người đàn ông bất toàn…là những phương diện đặc thù của lối viết nữ. Có thể nói, với chính những điều này, người phụ nữ viết văn đang làm nên một cuộc giải quy phạm, giải ký hiệu trong văn chương viết về nhân vật nữ. “Qua đó, các nhà văn thể hiện rõ khả năng tự ý thức và ý thức. Đặc biệt là ý thức về sự khác biệt giữa bản thể tính nữ trong đời sống hiện thực và bản thể tính nữ trong thế giới nghệ thuật, xét từ phương diện chủ thể sáng tác, nhằm khẳng định vai trò và trách nhiệm cầm bút của chính mình và giới mình.” [154]. Đi sâu trực tiếp vào truyện ngắn nữ, năm 2017, tác giả Đoàn Ánh Dương đã có bài viết Trải nghiệm về giới sau đổi mới: nhìn từ truyện ngắn các nữ nhà văn. Để phác dựng sự đột khởi của văn học nữ, ý thức về nữ tính và nữ quyền, được hiện diện chủ yếu qua truyện ngắn được viết bởi các nữ nhà văn, tác giả bài viết hướng đến 3 vấn đề cụ thể: 1/tìm hiểu hình ảnh người phụ nữ Việt Nam mới do chính người nữ kiến tạo; 2/cơ chế và ngôn ngữ mà người nữ ghi đè lên bức khảm về họ vốn được dệt bởi ý thức nam quyền và nữ quyền trong bối cảnh của chủ nghĩa dân tộc giai đoạn trước; 3/ qua đó, xem xét tiến trình văn học Việt nam từ Đổi mới từ góc nhìn giới. Do đó, bài viết đã đi từ việc khám phá bối cảnh (của) chuyển đổi (các)kinh nghiệm để thấy “văn học nữ từ bộ phận những truyện ngắn đặc sắc của các nữ nhà văn giai đoạn này, phần tinh túy làm nên bản lai diện mục của văn học nữ giai đoạn này” [85, tr 217]. Trong không khí đổi mới chung của văn học nữ “truyện ngắn nữ đã có sự bứt phá, làm nên một tư trào, vừa xác lập hình ảnh mới về phụ nữ vừa đột kích vào những cách tân nghệ thuật, làm nên một dấu ấn đáng kể trên tiến trình văn học Việt Nam hiện đại” [85, tr 217]. Theo tác giả, thành tựu lớn nhất làm nên bản sắc văn học nữ giai đoạn này chính là sự tưởng tượng và kiến tạo hình ảnh nữ trong truyện ngắn nữ. Bởi lần đầu tiên trong lịch sử văn học, chính sự trải nghiệm mới trong các không gian,
  • 32. 29 các quan niệm về giới và nữ quyền do chính mình kiến tạo, các nữ nhà văn “đã phác vẽ nên khuôn diện của mình, thủ đắc những phương cách giới, những ngôn ngữ thân thể họ mà nhà văn nam không bao giờ khuynh loát và chiếm tạo được” [85, tr 231]. Bài viết tuy chỉ đi sâu về một phương diện của ý thức nữ quyền trong truyện ngắn nữ nhưng là một trong những biểu hiện rõ nét nhất, đậm chất nhất của những người viết nữ khi kiến tạo dấu ấn của mình trên văn đàn. Năm 2016, tác giả Trần Huyền Sâm có công trình khá công phu về vấn đề nữ quyền luận với nhan đề: Nữ quyền luận ở Pháp và tiểu thuyết nữ Việt Nam đương đại. Đóng góp chính của công trình là ở việc nhận diện tinh thần nữ quyền của tiểu thuyết nữ Việt Nam đương đại. Nhưng bên cạnh đó tác giả còn cung cấp cho người nghiên cứu về nữ quyền luận cái nhìn khái quát và hệ thống về lý thuyết phê bình nữ quyền trên thế giới, đặc biệt là ở Pháp. Đặc biệt, tác giả đã chỉ ra những hạn chế của văn học nữ Việt Nam cụ thể như sau: 1/ Về đề tài, các sáng tác nữ bó hẹp trong những vấn đề tình yêu, hôn nhân, gia đình…Những chuyển động của xã hội Việt Nam trong xu hướng toàn cầu hóa chưa thực sự đi vào tác phẩm nữ giới một cách sống động; 2/ Người trần thuật chủ yếu là vai nữ và mang bóng dáng tác giả nên thế giới nhân vật khá nghèo nàn; 3/ Về kỹ thuật xử lý yếu tố tính dục, một số nhà văn tỏ ra non tay nên tính dục chưa trở thành phạm trù mỹ học của văn bản. Các nhận định của tác giả đã đánh giá rất đúng những hạn chế của văn học nữ nước ta nói chung và truyện ngắn nữ nói riêng trên tinh thần nữ quyền. Ngoài ra còn có thể kể đến một số bài viết theo hướng nghiên cứu này như Văn xuôi các nhà văn nữ sau 1975 nhìn từ diễn ngôn giới (Thái Phan Vàng Anh), Tản mạn về dục tính và nữ quyền (Nguyễn Vy Khanh); Phụ nữ chúng tôi phải viết (Trịnh Thanh Thủy), Quan niệm về thân thể người nữ trong văn học Việt Nam – một cái nhìn phác thảo (Mai Thị Hồng Tuyết – Hoàng Thị Duyên), Dấu hiệu nữ quyền trong văn học nữ đương đại (Bùi Thị Thủy)…Đặc biệt có thể chú ý đến hai công trình luận án làm về xu hướng này là Vấn đề phái tính và âm
  • 33. 30 hưởng nữ quyền trong văn xuôi Việt Nam đương đại (Qua sáng tác của một số nhà văn nữ tiêu biểu) của tác giả Nguyễn Thị Thanh Xuân (Luận án tiến sĩ văn học – Học viện Khoa học xã hội – Năm 2013) và luận án Tinh thần nữ quyền trong văn xuôi Việt Nam sau 1986 của tác giả Mai Thị Thu (Luận án tiến sĩ Ngữ văn – Trường Đại học sư phạm Hà Nội – Năm 2015). Đây được xem là hai công trình nghiên cứu khá chuyên sâu về ý thức nữ quyền trong văn xuôi nữ nói chung và truyện ngắn nữ nói riêng. Tác giả Nguyễn Thị Thanh Xuân trong luận án Vấn đề phái tính và âm hưởng nữ quyền trong văn xuôi Việt Nam đương đại (Qua sáng tác của một số nhà văn nữ tiêu biểu) đã hệ thống và lý giải một cách cơ bản những vấn đề lý luận về phái tính và nữ quyền trong văn hóa và trong diễn ngôn văn học từ truyền thống đến hiện đại. Qua việc khảo sát sáng tác của một số nhà văn nữ tiêu biểu mà chủ yếu là qua truyện ngắn, tác giả luận án đã nhận thấy ý thức phái tính và âm hưởng nữ quyền trong văn xuôi nữ đương đại được thể hiện rõ nét thông qua việc xác lập một lối viết nữ. Đó là hành trình đi tìm lại bản ngã thông qua hình tượng nhân vật nữ trong tác phẩm. Đặc biệt, tác giả nhấn mạnh tình dục như một phương thức thể hiện bản ngã của những cây bút nữ. Họ cũng công khai xét lại thế giới đàn ông bằng con mắt đàn bà. Dưới góc độ nghệ thuật, tác giả luận án đã khám phá những đặc trưng của lối viết nữ thông qua không thời gian nghệ thuật – bức tranh thế giới qua con mắt người phụ nữ; ngôn ngữ, giọng điệu – bước đột phá về diễn ngôn phái tính và khuynh hướng tự truyện như một nét đặc thù của lối viết nữ. Điểm mạnh của luận án chính là cái nhìn khá bao quát về ý thức phái tính và âm hưởng nữ quyền trong sự phát triển của văn học từ truyền thống đến hiện đại. Tuy nhiên ở vấn đề trung tâm là sự biểu hiện ý thức phái tính và âm hưởng nữ quyền trong văn xuôi nữ Việt Nam từ 1975, tác giả chưa đi sâu phân tích những biểu hiện cụ thể hoặc đã bỏ qua một số phương diện như cách tiếp cận mới về hình tượng người phụ nữ trong văn xuôi Việt Nam sau 1986 – dưới góc độ nữ quyền…
  • 34. 31 Tiếp thu những nghiên cứu trong luận án của tác giả Nguyễn Thị Thanh Xuân, tác giả Mai Thị Thu trong luận án của mình đã bổ sung và làm nổi bật tinh thần nữ quyền trong văn xuôi Việt Nam sau 1986 khá rõ nét. Ngoài việc đi tìm những tiền đề xã hội – thẩm mỹ tạo nên sự xuất hiện tinh thần nữ quyền ở Việt Nam, tác giả đã nhận diện tinh thần nữ quyền trong việc khám phá và thể hiện hình tượng người phụ nữ hay trật tự nam quyền dưới góc nhìn nữ quyền trong sáng tác của các cây bút nữ. Bên cạnh đó, tác giả còn đi sâu phân tích tinh thần nữ quyền trong ý thức nghệ thuật của nhà văn. Trong việc khám phá và thể hiện hình tượng người phụ nữ, tác giả Mai Thị Thu đã nhìn thấy những cách tiếp cận mới về hình tượng nhân vật nữ, tạo nên cái nhìn toàn diện về tinh thần nữ quyền qua hình tượng nhân vật trung tâm. Ở hình thức nghệ thuật, tác giả luận án nghiên cứu sự thể hiện của tinh thần nữ quyền qua việc vận dụng hiệu quả những ưu thế của thể loại, nghệ thuật thể hiện nhân vật và nghệ thuật trần thuật. Đây được xem là một hướng đi không trùng lặp và góp phần bổ sung việc khám phá ý thức nữ quyền trong văn xuôi nữ ở những giai đoạn trước. Thông qua các bài viết và công trình luận án, có thể thấy khái niệm nữ quyền tuy chỉ mới xuất hiện ở nước ta hơn 10 năm nhưng sự ảnh hưởng của nó trong đời sống văn học là không hề nhỏ. Lý thuyết phê nữ quyền đã thực sự trở thành một trong những “công cụ” đắc lực trong việc khám phá những giá trị của văn học Việt Nam đương đại đặc biệt là văn xuôi nữ. Qua các bài viết, có thể nhận thấy một số vấn đề chung trong truyện ngắn nữ và văn xuôi nữ Việt Nam đương đại đã được các nhà nghiên cứu theo xu hướng nữ quyền luận khơi mở như sau : - Sau đổi mới, sự xuất hiện của các cây bút nữ và sự đóng góp của họ trên văn đàn là điều không thể phủ nhận. Điều đáng trân trọng là họ đã cất lên tiếng nói, đưa những tuyên ngôn về chính giới mình trong sáng tác, khẳng định về một dòng văn học nữ đang làm nên một “tư trào” của nền văn học Việt.
  • 35. 32 - Trong sáng tác của các cây bút nữ, họ luôn có nhu cầu kiến tạo hình ảnh của giới mình. Chính vì vậy, nhân vật nữ là hình tượng nhân vật trung tâm trong sáng tác của các nữ văn sĩ. Với lối viêt “tự ăn mình”, nhân vật trong văn xuôi nữ chính là sự hóa thân của chủ thể nữ giới. Hình tượng nhân vật nữ vừa tiếp nối, vừa đổi mới hướng tiếp cận của truyền thống góp phần đem lại một cách nhìn sâu sắc và toàn diện về giới nữ trên tinh thần nữ quyền. - Các nhà văn nữ đã công khai xét lại thế giới đàn ông như một cái nhìn công tâm về sự bình đẳng giới vốn không được coi trọng trong suốt một thời gian dài trước đổi mới. Họ có xu hướng đả phá, hạ bệ trật tự nam quyền nhưng hơn hết vẫn là sự hy vọng, chờ đợi một sự thay đổi và khao khát hòa hợp bản thể nữ. - Tình dục là nhu cầu, là tự do cá nhân trong đời sống của nữ giới. Vì thế, khẳng định nhân vị trong đời sống tình dục trở thành biểu hiện rõ nhất của ý thức nữ quyền trong truyện ngắn của các cây bút nữ. - Việc có hay không cái gọi là lối viết nữ vẫn còn nhiều tranh luận, tuy nhiên có thể chỉ ra đặc trưng trong sáng tác nữ qua một số phương diện như điểm nhìn trần thuật, ngôn ngữ, không thời gian nghệ thuật... Như vậy, dù vô thức hay tự giác nhưng sáng tác của các cây bút nữ là biểu hiện rõ nét nhất về ý thức nữ quyền hay tinh thần nữ quyền trong văn học. Nghiên cứu văn học nữ, không thể không nhìn thấy sự tác động của nữ quyền luận trong sáng tác của các cây bút nữ bởi đó là chiếc chìa khóa mở ra những chân trời tiếp nhận của văn chương giới nữ. 1.1.4.2. Lý thuyết phê bình phân tâm học Đi vào “đáy vực sâu thẳm” của tâm hồn con người, học thuyết phân tâm học xuất hiện như một công cụ hữu hiệu mở ra hướng tiếp cận mới trong thế giới nghệ thuật của nhà văn. Ở Việt Nam, nhiều công trình nghiên cứu theo hướng phê bình phân tâm học ra đời góp phần không nhỏ trong việc nhìn nhận, đánh giác các hiện tượng đặc sắc trong văn học. Tuy nhiên, hướng nghiên cứu vấn đề phân tâm học trong truyện ngắn các nhà văn nữ nhìn chung chưa có những công
  • 36. 33 trình chuyên sâu và vẫn còn khá mờ nhạt. Ngoài công trình Học thuyết S.Freud và sự thể hiện của nó trong văn học Việt Nam của tác giả Trần Thanh Hà, có thể điểm qua một số bài nghiên cứu theo xu hướng này như Nhân vật bản năng tính dục trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ (Nguyễn Ánh Vân), Truyện ngắn Cánh đồng bất tận từ góc nhìn phân tâm học (Hoàng Đăng Khoa), Phức cảm tình yêu trong một số truyện ngắn của các nhà văn nữ đương đại (Nguyễn Trọng Hiếu), Yếu tố phân tâm học trong truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ (Nguyễn Thị Quỳnh Hương) hay các bài viết của tác giả Hồ Thế Hà – người có rất nhiều công trình và bài viết theo hướng phê bình phân tâm học như Hướng tiếp cận phân tâm học trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975 và Tình yêu trong truyện ngắn hiện đại Việt Nam từ các phức cảm. Các bài viết đã góp phần lý giải nhiều đặc trưng trong truyện ngắn của các cây bút nữ từ góc nhìn phân tâm học như yếu tố vô thức, bản năng, những ẩn ức tính dục nhằm lý giải thế giới nội tâm phức tạp của nhân vật cũng như những khát vọng sâu kín của người sáng tác. Tuy nhiên, những bài viết trên thường chỉ có xu hướng đề cập đến những chi tiết nhỏ lẻ mang yếu tố phân tâm học trong một số tác phẩm, hoặc tác giả cụ thể. Truyện ngắn đương đại dưới góc nhìn phân tâm học vì thế chưa được phân tích một cách sâu sắc, triệt để. Đáng chú ý theo xu hướng nghiên cứu này có lẽ là công trình luận án Truyện ngắn của các nhà văn nữ Việt Nam đương đại từ góc nhìn phân tâm học của tác giả Nguyễn Trọng Hiếu (Luận án tiến sĩ văn học – Học viện Khoa học Xã hội – Năm 2017). Ngoài việc điểm lại những công trình, bài viết theo xu hướng phân tâm ở nước ngoài và Việt Nam, tác giả luận án đã đi sâu trình bày quan niệm của phân tâm học về đối tượng phản ánh, về tác giả và quá trình sáng tạo của Sigmud Freud và Carl Gustav Jung cũng như sự thể hiện của phân tâm học trong văn học Việt Nam. Từ thế giới nhân vật, tác giả luận án đã nhìn thấy những kiểu nhân vật cơ bản trong truyện ngắn của các nhà văn nữ Việt Nam đương đại dưới góc nhìn phân tâm học cụ thể là nhân vật với đời sống vô thức và
  • 37. 34 các phức cảm, nhân vật với đời sống tình yêu và tính dục, nhân vật với tâm lý đa phân qua mô tip và các biểu tượng. Tác giả cũng phân tích ngôn ngữ, giọng điệu, không gian, thời gian kết cấu nghệ thuật như những minh chứng về phương thức biểu hiện trong truyện ngắn của các tác giả nữ dưới góc nhìn phân tâm học. Có thể thấy, sẽ còn rất nhiều vấn đề để soi sáng dưới học thuyết này nhưng luận án đã góp thêm một tiếng nói để lý giải và đánh giá hiện tượng văn học nữ. Trong muôn nẻo đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn, “phê bình phân tâm học trong truyện ngắn các nhà văn nữ là một nét phong cách và thi pháp vừa gần gũi, vừa bất ngờ, vừa mới lạ”. Đi sâu khám phá “tiểu vũ trụ” bí ẩn của con người góp phần đem lại những “con người thật sự và sự thật về con người” - được xem là những đóng góp lớn của các nhà văn nữ đương đại. 1.2. Tình hình nghiên cứu ở ngoài nước Trong phạm vi tài liệu bao quát được (chủ yếu là những công trình đã được dịch sang tiếng Việt), chúng tôi nhận thấy các tài liệu nước ngoài nghiên cứu về truyện ngắn đặc biệt là truyện ngắn nữ Việt Nam đương đại dường như còn rất ít. Bởi các tài liệu được giới thiệu ở nước ta hiện nay tập trung chủ yếu là những nghiên cứu về lý thuyết chung của truyện ngắn qua việc tìm hiểu mô hình, đặc trưng về thể loại truyện ngắn của một số quốc gia như Anh, Mỹ, Pháp, Nhật Bản, Nga…hay quan niệm về truyện ngắn của một số nhà văn nổi tiếng như A. Tseekhôp, A. Frăngxơ, Hemingway, Pautopxki… và gần đây là những tác giả Nhật Bản, Trung Quốc nổi tiếng như Haruki Murakami, Mạc Ngôn, Cao Hành Kiện… Ngoài ra, ở phương diện này có thể kể đến một số bài viết của các học giả nước ngoài về một số tác giả hay tác phẩm tiêu biểu, tạo được tiếng vang của văn học Việt Nam đương đại. Tiêu biểu như Nguyễn Huy Thiệp với các bài viết: Lịch sử Việt Nam qua truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, Thơ trong văn Nguyễn Huy Thiệp (T.N.Filimonova), Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp (Evelipe Pieller). Các tác giả nữ được lựa chọn nghiên cứu cũng không nhiều. Tiêu biểu có Phạm
  • 38. 35 Thị Hoài, Nguyễn Ngọc Tư, Phan Thị Vàng Anh, Dạ Ngân qua sự khám phá của một số tác giả hải ngoại như Nguyễn Hưng Quốc, Thụy Khuê, Đoàn Cầm Thi… Trong bài viết Phạm Thị Hoài trên sinh lộ mới của văn học, tác giả Thụy Khuê đã đánh giá cao những cách tân về hình thức nghệ thuật của cây bút nữ này đặc biệt là về ngôn ngữ qua tập “Từ Man Nương đến AK và những tiểu luận”. Còn trong “Không gian sông nước trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư”, Thụy Khuê đã làm nổi bật cái chất Nam Bộ đáng quý ấy trong văn của nữ tác giả này. Điều thú vị là nhà văn lại soi chiếu con người, không gian ấy thông qua giọng kể đậm chất Nam Bộ “Là hậu duệ của một truyền thống văn nói xướng lên từ miệt sông nước, Nguyễn Ngọc Tư đã kể và kể rất hay về những mẫu đời của người dân miệt vườn, về cuộc sống bám với chiếc ghe, con nước của những con người hiền lành cam phận, những tình cảm chân thật, nối liền đất nước với con người” [109]. Ngoài Thụy Khuê, liên quan đến các tài liệu nước ngoài nghiên cứu về văn học nữ nói chung và truyện ngắn nữ Việt Nam nói riêng có lẽ còn phải nhắc đến tác giả Đoàn Cầm Thi. Là người sống và làm việc chủ yếu ở Pháp, tác giả này luôn có cách tiếp cận hiện đại trong các luận giải những vấn đề của văn chương Việt. Trong cuốn sách “Đọc tôi bên bến lạ” ở chương 8 “Phụ nữ / Văn học/ Toàn cầu hóa”, Đoàn Cầm Thi đã đặt ra vấn đề được xem là rất nóng của thời điểm hiện tại: Phụ nữ và Văn học Việt trước xu thế toàn cầu hóa. Với sự phát triển như vũ bão của ngành công nghệ thông tin đặc biệt là Internet đã ảnh hưởng hầu hết lên thế giới quan và thẩm mỹ quan của thế hệ trẻ Việt Nam trên nhiều phương diện, trong đó có văn học. Những câu hỏi: Liệu văn chương Việt, sau nhiều năm cô lập với thế giới bên ngoài có tìm được nguồn cảm hứng mới trên con đường gặp gỡ các nền văn hóa khác? Văn hóa mạng đã ảnh hưởng như thế nào đến thi pháp của nhà văn Việt?...Theo tác giả, dường như chỉ có thể trả lời các câu hỏi đó thông qua những sáng tác của nền văn học nữ “Và các giải đáp độc đáo nhất, xác đáng nhất, dường như đã ẩn hiện trong văn học nữ, hay nói một cách chính xác hơn, trong sáng tác của một số nhà văn nữ” [138, tr 107