SlideShare a Scribd company logo
1 of 57
Download to read offline
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ MẬN
PHÁP LUẬT
VỀ QUỸ TRỢ GIÚP PHÁP LÝ Ở VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Hà nội - 2013
2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ MẬN
PHÁP LUẬT
VỀ QUỸ TRỢ GIÚP PHÁP LÝ Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số : 60 38 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Đặng Minh Tuấn
HÀ NỘI - 2013
3
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN ĐỐI VỚI VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ QUỸ TRỢ GIÚP PHÁP LÝ Ở VIỆT NAM
8
1.1. Khái quát về trợ giúp pháp lý và Quỹ trợ giúp pháp lý Việt Nam 8
1.1.1. Khái niệm trợ giúp pháp lý 8
1.1.2. Khái niệm Quỹ trợ giúp pháp lý Việt Nam 19
1.2. Khái quát pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam 22
1.2.1. Khái niệm pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam 22
1.2.2. Đặc điểm pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam 24
1.3. Pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý của một số nước trên thế giới 25
1.3.1. Quỹ trợ giúp pháp lý Trung Quốc 25
1.3.2. Quỹ trợ giúp pháp lý Mỹ 27
1.3.3. Quỹ trợ giúp pháp lý Đài Loan 31
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ QUỸ TRỢ GIÚP PHÁP
LÝ VIỆT NAM
36
2.1. Thực trạng vị trí pháp lý của Quỹ trợ giúp pháp lý Việt Nam 36
2.2. Thực trạng pháp luật về tổ chức của Quỹ trợ giúp pháp lý
Việt Nam
40
2.2.1. Tổ chức bộ máy của Quỹ trợ giúp pháp lý Việt Nam 40
4
2.2.2. Mối quan hệ công tác, phối hợp của Quỹ trợ giúp pháp lý
Việt Nam
44
2.3. Thực trạng pháp luật về hoạt động của Quỹ trợ giúp pháp lý
Việt Nam
45
2.3.1. Hoạt động thu, chi của Quỹ trợ giúp pháp lý Việt Nam 45
2.3.2. Hoạt động quản lý tài chính của Quỹ Trợ giúp pháp lý Việt Nam 56
2.3.4. Hoạt động vận động tài trợ cho Quỹ Trợ giúp pháp lý Việt Nam 60
2.4. Một số nguyên nhân ảnh hưởng đến tổ chức và hoạt động của
Quỹ trợ giúp pháp lý Việt Nam
61
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ QUỸ TRỢ GIÚP PHÁP LÝ VIỆT NAM
64
3.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở
Việt Nam
64
3.1.1. Quan điểm xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam
64
3.1.2. Quan điểm về cải cách hành chính và cải cách tư pháp 66
3.1.3. Quan điểm về phát triển trợ giúp pháp lý bền vững 67
3.1.4. Quan điểm xã hội hóa hoạt động trợ giúp pháp lý 68
3.1.5. Quan điểm hội nhập tương thích với các nước trong khu vực
và trên thế giới
71
3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở
Việt Nam
72
3.2.1. Hoàn thiện pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý Việt Nam 72
3.2.2. Hoàn thiện về tổ chức, bộ máy của Quỹ trợ giúp pháp lý Việt Nam 77
3.2.3. Hoàn thiện về các hoạt động của Quỹ trợ giúp pháp lý Việt Nam 80
KẾT LUẬN 85
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 88
PHỤ LỤC 93
5
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
TGPL : Trợ giúp pháp lý
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
6
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hoạt động trợ giúp pháp lý (TGPL) ở Việt Nam ra đời từ năm 1997
được xác định là việc cung cấp các dịch vụ pháp lý không thu phí cho người
được TGPL (là những người có hoàn cảnh đặc biệt như: người nghèo, người
có công với cách mạng, người khuyết tật, người dân tộc thiểu số...) nhằm giúp
họ bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, nâng cao hiểu biết pháp luật, ý
thức tôn trọng và chấp hành pháp luật, đồng thời, góp phần phổ biến, giáo dục
pháp luật, bảo đảm công bằng xã hội, phòng ngừa, hạn chế tranh chấp và vi
phạm pháp luật. Hoạt động TGPL được xác định là trách nhiệm trước hết
thuộc về Nhà nước, khuyến khích, thu hút sự tham gia đóng góp của xã hội và
một trong những nguyên tắc cơ bản của hoạt động TGPL là không thu phí, lệ
phí hay bất cứ một khoản thù lao nào từ người được TGPL. Vì vậy, ngay từ
khi mới thành lập, ngoài ngân sách nhà nước cấp, hệ thống TGPL đã nhận
được sự quan tâm, tài trợ, viện trợ, đóng góp đáng kể của các tổ chức quốc tế.
Để quản lý và sử dụng hiệu quả nguồn kinh phí cho hoạt động TGPL cần phải
có một tổ chức chịu trách nhiệm trong việc tiếp nhận, phân phối, điều tiết
nguồn kinh phí hỗ trợ đó cho các hoạt động TGPL trong toàn quốc nhằm bảo
đảm đúng đối tượng, đúng mục đích và được sử dụng hiệu quả, thúc đẩy hoạt
động TGPL phát triển. Chẳng hạn, những địa phương khó khăn về kinh tế
(thu không đủ chi hoặc gặp thiên tai đột xuất), không thể bảo đảm đủ kinh phí
cấp cho hoạt động TGPL, ảnh hưởng đến hiệu quả của hoạt động này thì các
địa phương này có thể nhận được sự hỗ trợ về tài chính từ tổ chức này.
Thực tế cho thấy, TGPL chính là một loại hình dịch vụ pháp lý công
nhằm đáp ứng nhu cầu TGPL của những người yếu thế, hạn chế về điều kiện
tiếp cận, khả năng nhận thức và sử dụng pháp luật. Việc đáp ứng nhu cầu
TGPL của mọi đối tượng ở các địa phương phải bình đẳng, công bằng và
7
khách quan, tổ chức thực hiện TGPL không được phép từ chối trợ giúp cho
các đối tượng có nhu cầu nếu đủ điều kiện theo quy định của pháp luật, không
kể đó là tổ chức ở địa phương "giàu" hay "nghèo". Nhóm người được TGPL
thường tập trung nhiều ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt
khó khăn, miền núi. Tuy nhiên, ngân sách các vùng này lại hết sức hạn hẹp,
rất cần sự hỗ trợ từ ngân sách Trung ương, trong khi ngân sách nhà nước nói
chung (trong đó có ngân sách Trung ương) còn hạn chế, không thể đáp ứng
kịp thời và đầy đủ các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, vì vậy, ngân sách
dành cho hoạt động TGPL lại càng ít hơn. Để đáp ứng được những yêu cầu
này, tổ chức tài chính trong lĩnh vực TGPL nêu trên còn có vai trò quan trọng
trong việc bảo đảm việc phát triển đồng bộ của hệ thống TGPL trên toàn
quốc, cân bằng giữa các vùng, miền trong việc thực hiện chính sách về TGPL
của Đảng, Nhà nước, bảo đảm cho mọi người dân thuộc diện được TGPL có
thể tiếp cận và thụ hưởng bình đẳng loại hình dịch vụ công này.
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn trên, Quỹ TGPL Việt Nam đã được nghiên
cứu, thành lập theo Quyết định số 258/2002/QĐ-BTP ngày 10/7/2002 của Bộ
trưởng Bộ Tư pháp nhằm hỗ trợ tài chính cho hoạt động TGPL miễn phí cho một
số đối tượng theo quy định của pháp luật trong phạm vi cả nước. Thực hiện
Luật và Nghị định số 07/2007/NĐ-CP của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban
hành Quyết định số 84/2008/QĐ-TTg ngày 30/6/2008 của Thủ tướng Chính
phủ về việc thành lập Quỹ TGPL Việt Nam, ngày 08/12/2008, Bộ trưởng Bộ
Tư pháp ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của Quỹ TGPL Việt Nam.
Tuy nhiên, sau hơn 10 năm thành lập và đi vào hoạt động, Quỹ TGPL
Việt Nam đã bộc lộ những hạn chế, vướng mắc cần phải nghiên cứu một cách
toàn diện và đầy đủ về địa vị pháp lý, về tổ chức, bộ máy và pháp luật về
Quỹ... Trong bối cảnh Việt Nam tuyên bố thoát khỏi danh sách các nước
nghèo, các nguồn tài trợ, viện trợ của các quốc gia, tổ chức quốc tế cho hoạt
động TGPL Việt Nam đã bị cắt giảm đáng kể, gây ra sự "hẫng hụt" rõ nét về
kinh phí triển khai các hoạt động TGPL, rất cần thiết Quỹ TGPL Việt Nam
8
phải huy động được các nguồn hỗ trợ, đóng góp của các tổ chức, cá nhân
trong và ngoài nước cho hoạt động TGPL thì vai trò này thực hiện chưa hiệu
quả. Vì vậy, mục đích của Quỹ chưa đạt được, ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt
động TGPL. Một trong những nguyên nhân quan trọng của tình trạng trên là
do pháp luật về Quỹ TGPL Việt Nam chưa hoàn thiện, quy định chưa đầy đủ,
còn chồng chéo, mẫu thuẫn. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài "Pháp luật về Quỹ
trợ giúp pháp lý ở Việt Nam" là yêu cầu khách quan, cần thiết cả về phương
diện lý luận và thực tiễn nhằm xác định rõ, đúng mức vị trí, vai trò của Quỹ
và nâng cao hiệu quả, phát triển hoạt động Quỹ TGPL Việt Nam, góp phần
bảo đảm cho hoạt động TGPL phát triển bền vững theo định hướng của chiến
lược phát triển TGPL ở Việt Nam đến năm 2020 định hướng đến năm 2030.
2. Tình hình nghiên cứu
Trợ giúp pháp lý là nhiệm vụ quan trọng hệ thống chính trị trong đó
ngành Tư pháp giữ vai trò trung tâm. Việc ban hành chính sách TGPL và triển
khai chính sách này trên thực tế đã thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Đảng và
Nhà nước đối với người nghèo và đối tượng chính sách trên phương diện
pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, đánh dấu bước phát triển vượt
bậc của công cuộc xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam - xóa đói giảm nghèo về
cả vật chất và tinh thần, tạo điều kiện cho người chịu thiệt thòi trong xã hội
được bình đẳng tiếp cận với pháp luật, công bằng trước pháp luật.
Đến nay, đã có một số đề tài nghiên cứu tiến sĩ, thạc sĩ, đề tài cấp Bộ
và các bài báo, tạp chí, chuyên đề nghiên cứu làm sáng tỏ các vấn đề lý luận
và thực tiễn liên quan đến lĩnh vực TGPL, cụ thể như sau:
Luận án Tiến sĩ "Điều chỉnh pháp luật về trợ giúp pháp lý ở Việt Nam
trong điều kiện đổi mới", của Tạ Thị Minh Lý. Luận án đã tập trung nghiên
cứu cơ sở lý luận, pháp lý của điều chỉnh pháp luật và điều chỉnh pháp luật về
TGPL; thực trạng điều chỉnh pháp luật về TGPL và phương hướng hoàn thiện
việc điều chỉnh pháp luật về TGPL trong điều kiện đổi mới.
9
Luận văn Thạc sĩ: "Hoàn thiện pháp luật về người thực hiện trợ giúp
pháp lý ở Việt Nam", của Vũ Hồng Tuyến. Luận văn tập trung nghiên cứu cơ
sở lý luận, pháp lý và thực tiễn về người thực hiện TGPL, từ đó có các giải
pháp xây dựng và hoàn thiện pháp luật về người thực hiện TGPL.
Luận văn Thạc sĩ "Hoàn thiện các hình thức tiếp cận pháp luật của
người nghèo ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay", của Đỗ Xuân Lân. Luận
văn tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận, thực trạng các hình thức tiếp cận pháp
luật của người nghèo ở Việt Nam, các giải pháp nhằm bảo đảm cho người
nghèo ở Việt Nam luôn được tiếp cận pháp luật.
Luận văn Thạc sĩ "Bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý", của Phan
Thị Thu Hà. Luận văn tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về
quyền được TGPL và các giải pháp nhằm bảo đảm quyền được TGPL của
người dân.
Luận văn Thạc sĩ "Phát triển trợ giúp pháp lý ở cơ sở", của Đặng Thị
Loan. Luận văn tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận, thực tiễn về các mô hình
TGPL ở cơ sở và đưa ra các giải pháp để phát triển mô hình TGPL ở cơ sở.
Luận văn Thạc sĩ "Chất lượng hoạt động trợ giúp pháp lý ở Việt
Nam", của Phạm Quang Đại. Luận văn đã nghiên cứu lý luận và thực tiễn vấn
đề chất lượng hoạt động TGPL cũng như làm rõ thực trạng chất lượng TGPL
hiện nay và quan điểm, giải pháp nâng cao chất lượng TGPL
Các công trình trên đã nghiên cứu các mặt, khía cạnh khác nhau của
hoạt động TGPL. Tuy nhiên, vấn đề pháp luật về Quỹ TGPL ở Việt Nam đến
nay chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện và tổng thể về lý
luận và thực tiễn. Vì vậy, với đề tài "Pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở
Việt Nam", tác giả luận văn đi sâu phân tích làm sáng tỏ các vấn đề lý luận và
thực tiễn, thực trạng pháp luật điều chỉnh về Quỹ TGPL Việt Nam và tìm ra
giải pháp, định hướng hoàn thiện pháp luật về Quỹ TGPL Việt Nam trong
10
thời gian tới là hết sức cần thiết, tạo cơ sở pháp lý để kiện toàn, nâng cao vị
trí, vai trò và năng lực của Quỹ, đáp ứng sự phát triển của hệ thống TGPL.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Luận văn tập trung làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về
pháp luật về Quỹ TGPL ở Việt Nam, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp,
định hướng hoàn thiện pháp luật nhằm xác định rõ vị trí pháp lý, vai trò và
nâng cao hiệu quả hoạt động của Quỹ TGPL Việt Nam.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn có nhiệm vụ nghiên cứu các nội dung sau đây:
- Các khái niệm, đặc điểm của TGPL, Quỹ TGPL Việt Nam.
- Phân tích, đánh giá thực trạng các quy định pháp luật điều chỉnh về
Quỹ TGPL Việt Nam trong thời gian qua, phát hiện những hạn chế, khó khăn,
vướng mắc, bất cập và nguyên nhân để có giải pháp hoàn thiện.
- Trên cơ sở các yêu cầu khách quan, những quan điểm, đề xuất các
giải pháp cụ thể có tính khả thi trên thực tế nhằm hoàn thiện pháp luật về Quỹ
TGPL để nâng cao vị trí, vai trò của Quỹ TGPL Việt Nam trong thời gian tới.
5. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận, thực tiễn về
pháp luật điều chỉnh toàn diện về vị trí pháp lý tổ chức và hoạt động của Quỹ
TGPL Việt Nam trên cơ sở nghiên cứu chung về mô hình Quỹ, nghiên cứu
đặc thù về mô hình Quỹ TGPL ở Việt Nam theo quy định của pháp luật hiện
hành, xác định các quan điểm, yêu cầu phát triển Quỹ TGPL Việt Nam làm
căn cứ đề ra giải pháp hoàn thiện pháp luật về Quỹ để đáp ứng các yêu cầu về
mặt lý luận và thực tiễn của Quỹ.
Phạm vi nghiên cứu toàn bộ những vấn đề về Quỹ TGPL Việt Nam
thuộc Cục TGPL, Bộ Tư pháp.
11
6. Phương pháp nghiên cứu
- Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, những quan điểm của
Đảng, quan điểm khoa học về hoạt động tư pháp nói chung và hoạt động
TGPL nói riêng.
- Trong quá trình nghiên cứu, luận văn sử dụng phương pháp luận của
triết học Mác - Lê nin là phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đồng
thời sử dụng các phương pháp hệ thống, phân tích, tổng hợp, so sánh, thống
kê. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng phương pháp khai thác và sử dụng các tư
liệu thực tiễn để hoàn chỉnh luận văn.
7. Đóng góp của luận văn
Luận văn có ý nghĩa thiết thực cả về phương diện lý luận cũng như
phương diện thực tiễn. Luận văn nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống
về cơ sở lý luận, pháp lý về TGPL và tổ chức, hoạt động của Quỹ TGPL Việt
Nam nhằm xác định rõ vị trí, vai trò, ý nghĩa của Quỹ đối với hệ thống TGPL;
đánh giá được mức độ điều chỉnh của pháp luật về tổ chức và hoạt động của
Quỹ TGPL Việt Nam trong thời gian qua, phát hiện những khó khăn, hạn chế,
tồn tại làm ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của Quỹ mà gián tiếp là mức
độ đáp ứng về tài chính của Quỹ đối với toàn bộ hệ thống TGPL của Việt
Nam; từ đó cho thấy sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật làm "động lực" tạo
sự thay đổi, biến chuyển rõ nét về tổ chức của Quỹ cũng như chức năng,
nhiệm vụ và các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của Quỹ TGPL. Luận
văn có thể phục vụ cho việc nghiên cứu, tìm hiểu về cơ chế huy động các
nguồn lực cho hoạt động TGPL ở Việt Nam và là tài liệu tham khảo cho việc
xây dựng chính sách phát triển bền vững hoạt động TGPL trong thời gian tới.
Luận văn phải mang tính thực tiễn và có tính khả thi nhằm giải quyết được
những tồn tại cũng như kiến nghị những vấn đề cần khắc phục.
12
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về trợ giúp pháp lý và pháp luật về Quỹ trợ
giúp pháp lý Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật về Quỹ trợ
giúp pháp lý ở Việt Nam.
13
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN ĐỐI VỚI VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ QUỸ TRỢ GIÚP PHÁP LÝ Ở VIỆT NAM
1.1. KHÁI QUÁT VỀ TRỢ GIÚP PHÁP LÝ VÀ QUỸ TRỢ GIÚP PHÁP LÝ
VIỆT NAM
1.1.1. Khái niệm trợ giúp pháp lý
Thuật ngữ "Trợ giúp pháp lý" được sử dụng phổ biến trên thế giới từ
giữa thế kỷ XIX và xuất phát từ tiếng Anh là: Legal aid. Theo Từ điển Anh -
Việt "Legal aid" được dịch là "Trợ cấp pháp lý" [32]. Ngoài ra, trong một số
tài liệu khác dịch "Legal aid" là "hỗ trợ pháp luật", "hỗ trợ pháp lý" hoặc "hỗ
trợ tư pháp"..., như vậy, bản chất là một nhưng hiện đang có rất nhiều sách,
báo… có cách dịch khác nhau, sử dụng thuật ngữ khác nhau về vấn đề này. Ở
Việt Nam thuật ngữ"Trợ giúp pháp lý" đang được sử dụng chính thức trong
các văn bản pháp luật và sách báo, nó thể hiện rõ bản chất, nội dung và hình
thức hoạt động của loại dịch vụ pháp lý miễn phí ở Việt Nam.
Ở các nước trên thế giới, hoạt động TGPL cho người nghèo, người
yếu thế bắt đầu hình thành và phát triển cùng với sự ra đời và phát triển của
Nhà nước tư sản và được coi là chức năng xã hội của nhà nước, là một trong
những tiêu chí bảo vệ quyền con người của nhà nước pháp quyền. Mô hình tổ
chức và hoạt động TGPL trên thế giới đang rất phong phú và đa dạng, có
nhiều đặc thù do phụ thuộc vào điều kiện phát triển kinh tế, xã hội của mỗi
quốc gia. Nhiều quốc gia đã có Chiến lược phát triển TGPL như Canada, Mỹ,
Úc… nhưng chưa có một văn bản nào mang tầm quốc tế về TGPL nên chưa
có quan niệm chung, thống nhất về TGPL trên thế giới.
Do có nhiều mô hình TGPL, với những quan niệm khác nhau về đối
tượng, phạm vi, phương thức và chi phí TGPL trên thế giới, nên ở mỗi nước
14
đều có quan niệm riêng của mình và được nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác
nhau, nhưng nói chung các khái niệm của các nước đều thể hiện tính chính trị-
pháp lý, nghề nghiệp, nhân đạo và tính kinh tế của hoạt động TGPL. Chẳng
hạn, dưới góc độ kinh tế mang tính nhân đạo, ở một số nước (như Đức) quan
niệm TGPL là giúp đỡ một phần hoặc toàn bộ tài chính cho những người
không có khả năng thanh toán cho các chi phí về tư vấn pháp luật, đại diện
hoặc bào chữa trước tòa án. Dưới góc độ pháp lý, theo pháp luật của Anh và xứ
Wales thì TGPL là giúp đỡ pháp lý cho những người không có khả năng chi
trả cho việc tư vấn, hỗ trợ và đại diện pháp lý. Điều 2 Đạo luật về đại diện và
tư vấn pháp lý 1995 của Singapore và Đạo luật số 26 của Malaysia về bảo trợ
tư pháp năm 1971 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 1992) cũng giải thích TGPL
theo nội hàm này. Nhìn dưới góc độ mục đích của hoạt động TGPL, người Úc
cho rằng TGPL là sự giúp đỡ cho một người có được hoàn cảnh và điều kiện
tương tự như người khác trong việc tiếp cận với pháp luật, tức là tạo ra sự
công bằng khi tiếp cận với pháp luật [42]. Dưới góc độ chính trị, Mỹ, Trung
Quốc, Nga… cho TGPL là giải pháp yên lòng nhóm yếu thế, bần cùng, sử
dụng pháp luật làm công cụ để bảo vệ, nâng đỡ để tự tin, tự bảo vệ và vỗ về…
Nói chung, tính chính trị của TGPL thể hiện ở góc độ bảo đảm gỡ rối
và giải tỏa điểm nóng khiếu kiện; tính kinh tế thể hiện ở chỗ giúp đỡ cho đối
tượng không có khả năng thanh toán cho các chi phí khi tiếp cận với dịch vụ
pháp lý; tính pháp lý của TGPL thể hiện ở chỗ giúp đỡ đối tượng giải quyết
các vụ, việc có liên quan đến pháp luật (luật nội dung và luật hình thức...);
tính nhân đạo thể hiện ở góc độ đối tượng yếu thế trong xã hội được giúp đỡ
theo cơ chế không phải hoàn trả lệ phí.
Như vậy, khái niệm TGPL được quy định trong văn bản pháp luật của
các nước nêu trên về cơ bản đều tương đối đồng nhất khi cho rằng TGPL là
hoạt động giúp đỡ pháp luật cho người nghèo, người không có điều kiện về
kinh tế để chi trả cho các dịch vụ pháp lý.
15
Trên cơ sở nghiên cứu những kinh nghiệm xây dựng tổ chức và hoạt
động TGPL của các nước trên thế giới đã có từ hàng trăm năm nay và thực
tiễn hoạt động TGPL ở Việt Nam trong thời gian qua, chúng ta có thể đưa ra
quan niệm chung về TGPL một cách đầy đủ, thể hiện những đặc trưng cơ
bản của nó. Theo quan niệm chung hiện nay thì TGPL hiểu là sự giúp đỡ
pháp lý miễn phí của Nhà nước và xã hội cho người nghèo, người có công
với đất nước và các đối tượng khác theo quy định của pháp luật tiếp cận với
các dịch vụ pháp lý (tư vấn pháp luật, đại diện, bào chữa, hòa giải...), nhằm
bảo đảm cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật và thực hiện công
bằng xã hội.
Việc thành lập tổ chức TGPL ở Việt Nam năm 1997 là xuất phát từ
chính những nguyên tắc Hiến định chủ quyền thuộc về nhân dân, mọi công
dân đều bình đẳng trước pháp luật và bản chất của Nhà nước pháp quyền của
dân, do dân và vì dân. Thuật ngữ "trợ giúp pháp lý" được sử dụng trong các
sách, báo từ năm 1995, khi bắt đầu có nghiên cứu xây dựng Đề án hình thành
hệ thống TGPL ở Việt Nam và đã được sử dụng chính thức trong Quyết định
số 734/QĐ-TTg ngày 06/9/1997 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập
tổ chức TGPL cho người nghèo và đối tượng chính sách. Đến nay, hệ thống
văn bản pháp luật đề cập khá nhiều đến thuật ngữ "trợ giúp pháp lý".
Theo quy định tại Điều 3 Luật TGPL năm 2006 thì khái niệm TGPL
được định nghĩa như sau:
Trợ giúp pháp lý là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí
cho người được trợ giúp pháp lý giúp họ bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của mình, nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng và
chấp hành pháp luật; góp phần bảo vệ công lý, bảo đảm công bằng
xã hội, phòng ngừa, hạn chế tranh chấp và vi phạm pháp luật [40].
Có thể khẳng định rằng, khái niệm về TGPL ở Việt Nam theo quy định
của Luật TGPL năm 2006 đã bao quát đầy đủ nội hàm của TGPL.
16
Đặc điểm trợ giúp pháp lý
Đặc điểm của hoạt động TGPL bao gồm: chủ thể thực hiện, đối tượng
phục vụ, nguyên tắc hoạt động, hình thức thực hiện TGPL, phương thức TGPL,
lĩnh vực TGPL, cụ thể như sau:
- Chủ thể thực hiện: Theo nghĩa rộng, chủ thể thực hiện TGPL gồm
Nhà nước và xã hội; theo nghĩa hẹp thì chủ thể thực hiện TGPL là các tổ chức
của Nhà nước (được giao nhiệm vụ thực hiện TGPL mà cụ thể là người thực
hiện TGPL của Nhà nước) và các tổ chức xã hội hoặc cá nhân tự nguyện tham
gia TGPL. Hiện nay, ở Việt Nam, theo quy định pháp luật hiện hành chủ thể
thực hiện TGPL bao gồm: Trung tâm TGPL nhà nước thông qua người thực
hiện TGPL là trợ giúp viên pháp lý và cộng tác viên TGPL (cộng tác viên là
luật sư và cộng tác viên không phải là luật sư); các tổ chức đăng ký tham gia
TGPL (Văn phòng luật sư, Công ty luật, Trung tâm tư vấn pháp luật thuộc các
tổ chức chính trị - xã hội, chính trị xã hội - nghề nghiệp, xã hội - nghề nghiệp)
thông qua các luật sư, tư vấn viên pháp luật thuộc các tổ chức này. Các chủ
thể trên trực tiếp tham gia vào việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí thông
qua các vụ việc TGPL cụ thể.
Ngoài ra, còn có chủ thể khác tham gia vào một hoặc một số hoạt
động TGPL mà không phải trực tiếp cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí như:
Ủy ban nhân dân cấp huyện, xã, Phòng Tư pháp, cán bộ Tư pháp - Hộ tịch, cơ
quan báo, đài phát thanh, truyền hình tham gia TGPL lưu động; thành viên
Ban chủ nhiệm Câu lạc bộ TGPL; cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành
tố tụng phối hợp trong việc giải thích quyền được TGPL và cung cấp các
thông tin TGPL cho các đương sự…
- Đối tượng phục vụ của hoạt động TGPL là người được hưởng các
dịch vụ TGPL miễn phí. Xuất phát từ mục đích, ý nghĩa và tính chất của hoạt
động TGPL, không phải tất cả mọi người dân đều được hưởng dịch vụ TGPL
mà chỉ nhóm yếu thế mới được hưởng dịch vụ này. Người được TGPL theo
quy định tại Điều 10 của Luật TGPL bao gồm:
17
Người nghèo là người thuộc hộ nghèo được xác định theo chuẩn nghèo
do Thủ tướng Chính phủ ban hành trong từng giai đoạn. Hiện nay, hộ nghèo
đang áp dụng theo Quyết định số 09/2011/QĐ-TTg ngày 30/01/2011 của Thủ
tướng Chính phủ về việc ban hành chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2011-
2015 thì hộ nghèo là những hộ có mức thu nhập bình quân đầu người dưới
400.000 đ/người/tháng ở nông thôn và 500.000 đồng trở xuống ở thành thị.
Hộ nghèo được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận hộ nghèo
(sổ hộ nghèo) để họ được hưởng các chính sách ưu đãi của nhà nước [21].
Người có công với cách mạng theo Pháp lệnh ưu đãi người có công
với cách mạng năm 2005 và đã được sửa đổi, bổ sung năm 2012 bao gồm những
người sau:
+ Người hoạt động cách mạng trước ngày 01 tháng 01 năm 1945;
người hoạt động cách mạng từ ngày 01 tháng 01 năm 1945 đến ngày khởi
nghĩa tháng Tám năm 1945;
+ Liệt sĩ;
+ Bà mẹ Việt Nam anh hùng; Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân,
Anh hùng Lao động trong thời kỳ kháng chiến;
+ Thương binh, người hưởng chính sách như thương binh; Bệnh binh;
+ Người hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và
làm nghĩa vụ quốc tế; người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học;
+ Người hoạt động cách mạng, hoạt động kháng chiến bị địch bắt tù, đày;
+ Người có công giúp đỡ cách mạng bao gồm: Người được tặng Kỷ
niệm chương "Tổ quốc ghi công" hoặc Bằng "Có công với nước"; người trong
gia đình được tặng Kỷ niệm chương "Tổ quốc ghi công" hoặc Bằng "Có công
với nước" trước Cách mạng tháng Tám năm 1945; người được tặng Huân
chương kháng chiến hoặc Huy chương kháng chiến và người trong gia đình
được tặng Huân chương kháng chiến hoặc Huy chương kháng chiến [45].
18
Người già cô đơn không nơi nương tựa là những người từ 60 tuổi trở
lên, sống một mình và không có người chăm sóc, phụng dưỡng.
Người tàn tật không nơi nương tựa là người bị khiếm khuyết một hay
nhiều bộ phận cơ thể hoặc chức năng biểu hiện dưới những dạng tật khác
nhau, làm suy giảm khả năng hoạt động, khiến cho lao động, sinh hoạt, học
tập gặp nhiều khó khăn, người bị nhiễm chất độc hóa học, bị nhiễm HIV
hoặc các bệnh khác làm mất khả năng dân sự mà không có ai nuôi dưỡng,
chăm sóc.
Trẻ em không nơi nương tựa là người dưới mười sáu tuổi, không có
gia đình hoặc bị gia đình bỏ rơi, tự kiếm sống hoặc có hoàn cảnh không bình
thường về thể chất hoặc tinh thần, không đủ điều kiện để thực hiện các quyền
cơ bản và hòa nhập với gia đình, cộng đồng.
Người dân tộc thiểu số thường trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội
đặc biệt khó khăn theo quy định của Chính phủ trong từng giai đoạn.
Nạn nhân bị buôn bán là người bị xâm hại bởi hành vi mua, bán người
theo quy định tại Luật Phòng, chống mua bán người năm 2011.
Các đối tượng khác được TGPL theo các quy định tại Công ước quốc
tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam là thành viên.
- Nguyên tắc hoạt động TGPL: Đây là những quan điểm, tư tưởng chỉ
đạo xuyên suốt hoạt động TGPL, là kim chỉ nam cho hoạt động TGPL buộc
các chủ thể thực hiện TGPL phải tuân thủ trong quá trình TGPL. Các nguyên
tắc hoạt động TGPL bao gồm:
+ Không thu phí, lệ phí, thù lao từ người được TGPL: Theo nguyên
tắc này, tổ chức thực hiện TGPL, người thực hiện TGPL không được thu phí,
lệ phí và nhận thù lao từ người được TGPL dưới bất kỳ hình thức nào, vật chất
(tiền, tài sản, quà,…) hay tinh thần, tình cảm. Người được TGPL không phải
trả bất cứ một khoản lệ phí nào, kể cả phí in ấn tài liệu hay làm thủ tục TGPL.
19
+ Trung thực, tôn trọng sự thật khách quan: Khi thực hiện TGPL bằng
các hình thức khác nhau, người thực hiện TGPL phải trung thực, chí công, vô
tư, tôn trọng sự thật khách quan; không bị tác động bởi bất cứ sức ép nào và
không vì mục đích cá nhân ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của
người được TGPL.
+ Sử dụng các biện pháp phù hợp với quy định của pháp luật để bảo
vệ tốt nhất quyền, lợi ích hợp pháp của người được TGPL: Khi thực hiện
TGPL, người thực hiện TGPL phải tận tâm, tận lực, có tinh thần trách nhiệm,
coi việc TGPL cho người được TGPL như việc của mình. Người thực hiện
TGPL phải thực hiện tất cả quyền và nghĩa vụ của mình do pháp luật quy
định, bằng tất cả kỹ năng và kinh nghiệm thực tiễn, đầu tư công sức, trí tuệ,
không bỏ một công đoạn nào để tiến hành các hoạt động TGPL cho người
được TGPL. Chẳng hạn: Khi tham gia tố tụng, trợ giúp viên pháp lý phải thực
hiện đầy đủ các nghĩa vụ của người bào chữa theo quy định của pháp luật tố
tụng như gặp gỡ người làm chứng, xem xét hiện trường, thu thập chứng cứ để
có đầy đủ cơ sở, căn cứ bảo vệ tốt nhất cho người được TGPL. Tuy nhiên,
mặc dù lợi ích hợp pháp của người được TGPL là trên hết nhưng việc TGPL
của người thực hiện phải phù hợp với pháp luật và quy tắc nghề nghiệp,
không xúi giục người được TGPL làm trái quy định của pháp luật.
+ Tuân thủ pháp luật và quy tắc nghề nghiệp TGPL: Trong quá trình
thực hiện TGPL, tổ chức thực hiện TGPL, người thực hiện TGPL phải độc
lập và chỉ tuân theo pháp luật, quy tắc nghề nghiệp TGPL (là các chuẩn mực
về hành vi, ứng xử, cách thức tổ chức công việc, các yêu cầu nghiệp vụ và
trách nhiệm cụ thể của tổ chức thực hiện TGPL, người thực hiện TGPL khi
thực hiện TGPL). Người thực hiện TGPL phải thực hiện đúng trình tự, thủ tục
theo quy định của pháp luật, chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép.
Nội dung TGPL phải phù hợp với pháp luật và đạo đức xã hội.
+ Chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung TGPL: Việc thực hiện
TGPL do người thực hiện TGPL chịu trách nhiệm cá nhân (Phiếu tư vấn do
20
mình tự ký, khi tham gia tố tụng chịu trách nhiệm về tư cách tham gia của
mình). Do đó, nếu TGPL sai thì tùy theo mức độ vi phạm mà người thực hiện
TGPL bị xử lý theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp TGPL sai, gây
thiệt hại cho người được TGPL thì người thực hiện TGPL phải bồi thường
hoặc chịu trách nhiệm kỷ luật theo quy định của pháp luật.
- Các hình thức cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí bao gồm: Tư vấn
pháp luật (hướng dẫn, giải đáp, đưa ra ý kiến, cung cấp thông tin pháp luật,
giúp soạn thảo văn bản liên quan đến vụ việc TGPL); tham gia tố tụng (tham
gia tố tụng hình sự để bào chữa cho người được TGPL là người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo hoặc để bảo vệ quyền lợi của người được TGPL là người bị hại,
nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến
vụ án hình sự; tham gia tố tụng dân sự, tố tụng hành chính để bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp của người được TGPL trong vụ việc dân sự, vụ án hành
chính); đại diện ngoài tố tụng (được thực hiện cho người được TGPL khi họ
không thể tự bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của mình; việc đại diện
ngoài tố tụng được thực hiện trong phạm vi yêu cầu của người được TGPL);
các hình thức TGPL khác như: hòa giải, thực hiện những công việc liên quan
đến thủ tục hành chính, khiếu nại và các hoạt động khác theo quy định của
pháp luật. Đây cũng là những nội dung thuộc dịch vụ pháp lý nói chung của
luật sư. Ngoài ra, còn có hoạt động kiến nghị thi hành pháp luật của Trung
tâm TGPL nhà nước và Chi nhánh của Trung tâm nhằm bảo đảm thực hiện
quyền và lợi ích hợp pháp của người dân. Các tổ chức TGPL chỉ thực hiện các
vụ việc TGPL có liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp của người được TGPL.
- Lĩnh vực pháp luật được TGPL bao gồm: Pháp luật hình sự, tố tụng
hình sự và thi hành án hình sự; pháp luật dân sự, tố tụng dân sự và thi hành án
dân sự; pháp luật hôn nhân gia đình và pháp luật về trẻ em; pháp luật hành
chính, khiếu nại, tố cáo và tố tụng hành chính; pháp luật đất đai, nhà ở, môi
trường và bảo vệ người tiêu dùng; pháp luật lao động, việc làm, bảo hiểm;
pháp luật ưu đãi người có công với cách mạng và pháp luật về chính sách ưu
21
đãi xã hội khác và các lĩnh vực pháp luật khác liên quan đến chương trình
mục tiêu quốc gia xóa đói, giảm nghèo hoặc liên quan trực tiếp đến quyền và
nghĩa vụ cơ bản của công dân.
- Phương thức thực hiện hoạt động TGPL: tại trụ sở của các tổ chức
thực hiện TGPL, TGPL lưu động tại các xã, phường, thị trấn, Câu lạc bộ TGPL,
sinh hoạt chuyên đề pháp luật, TGPL qua các phương tiện thông tin…
Ý nghĩa, vai trò của TGPL
Có thể nhận diện rõ hơn đặc điểm của TGPL ở Việt Nam qua phân
tích về ý nghĩa, vai trò và đóng góp của hoạt động này:
Một là, chính sách TGPL đã và đang tạo sự chuyển biến tích cực trong
nhận thức của toàn xã hội về vị trí, vai trò và tầm quan trọng của pháp luật
trong bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những người nghèo và người có
hoàn cảnh đặc biệt khác, trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền, gắn
tăng trưởng kinh tế với bảo đảm công bằng xã hội, hạn chế những vấn đề tiêu
cực phát sinh từ nền kinh tế thị trường. Từ chỗ TGPL ban đầu còn được coi là
nhiệm vụ của riêng ngành Tư pháp, đến nay, công tác này được khẳng định
thuộc trách nhiệm của Nhà nước và là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị.
Trong đó, Nhà nước giữ vai trò nòng cốt trong việc thực hiện và tổ chức thực
hiện TGPL; khuyến khích, tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và
các tổ chức thành viên, tổ chức hành nghề luật sư và luật sư, cơ quan, tổ chức,
cá nhân khác tham gia, đóng góp, hỗ trợ hoạt động TGPL.
Hai là, TGPL góp phần quan trọng vào công cuộc cải cách hành
chính, cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân. Công tác này không chỉ nâng cao ý thức pháp
luật, trình độ dân trí pháp lý, tạo lập thói quen, nếp sống và làm việc theo
pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được TGPL, tạo lập và
củng cố niềm tin của nhân dân vào chủ trương, đường lối, chính sách, pháp
luật của Đảng và Nhà nước mà còn tăng cường nhận thức trách nhiệm pháp lý
22
của cán bộ, công chức đối với nhân dân. Do đó, TGPL đã trở thành một bộ
phận không thể thiếu trong đời sống pháp luật của xã hội. Hoạt động này đã
góp phần đưa pháp luật vào cuộc sống, trở thành cầu nối giữa Nhà nước với
nhân dân, góp phần khắc phục những vướng mắc, bất cập trong hoạt động
công vụ, giữ gìn trật tự an toàn xã hội và ổn định chính trị, giảm thiểu các
khiếu kiện sai trái, vượt cấp. Đồng thời, góp phần thực hiện chủ trương xóa
đói, giảm nghèo toàn diện của Đảng ta cũng như tham gia tích cực vào các
hoạt động thiết thực đền ơn, đáp nghĩa, giữ gìn đoàn kết cộng đồng, bảo đảm
công bằng xã hội, phòng ngừa, hạn chế tranh chấp và vi phạm pháp luật, thể
hiện tính ưu việt của pháp luật và chế độ ta. Từ đó, TGPL cũng hỗ trợ từng
bước nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế trong việc bảo vệ nhân
quyền, bảo đảm công lý trong phong trào giảm nghèo toàn cầu, phù hợp với
xu thế phát triển của thế giới.
Ba là, TGPL góp phần thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế - xã
hội, giữ gìn ổn định trật tự xã hội ở các địa phương, góp phần giải quyết dứt
điểm nhiều vụ việc khiếu kiện kéo dài hoặc liên quan đến quyền và lợi ích của
nhiều người dân, giảm số vụ khiếu kiện không cần thiết, làm ảnh hưởng đến
quyền lợi của người dân và uy tín của Nhà nước. Nhiều Trung tâm TGPL nhà
nước đã thực sự trở thành cầu nối tin cậy giữa chính quyền với người dân,
giữa pháp luật với cuộc sống, tạo diễn đàn đối thoại để giải quyết các bất cập
trong hoạt động công vụ, tăng niềm tin của người dân vào pháp luật. Nhận
thức của chính quyền các cấp về vị trí, vai trò, ý nghĩa của hoạt động TGPL
đã được nâng lên, chính quyền cơ sở ở hầu hết các nơi đã tích cực đề nghị
hoặc tạo điều kiện để Trung tâm TGPL nhà nước tổ chức các hoạt động
TGPL lưu động tại địa bàn, thành lập Câu lạc bộ TGPL ở cấp xã, tạo diễn đàn
quan trọng cho người dân, góp phần tăng cường dân chủ ở cấp cơ sở, tăng
tính công khai, minh bạch trong giải quyết các vụ việc của người dân.
Bốn là, thông qua các vụ việc TGPL cụ thể, quyền và lợi ích hợp pháp
của nhiều người nghèo và các đối tượng yếu thế đã được bảo vệ kịp thời,
23
người dân tin tưởng hơn vào công lý, công bằng cũng như chính sách, pháp
luật của Nhà nước. Nhiều người thuộc diện nghèo, yếu thế khi có vướng mắc
pháp luật đã biết chủ động tìm đến tổ chức thực hiện TGPL thay vì sử dụng
các biện pháp giải quyết bất hợp pháp (theo luật xã hội đen hoặc mua chuộc
quan chức). Nhiều vụ được hòa giải thành trước khi phải đưa ra Tòa án đã giữ
được tình đoàn kết cộng đồng, tình làng nghĩa xóm cho người dân, góp phần
xây dựng điều kiện quan trọng để phát triển một nền văn hóa pháp lý và nếp
sống văn minh tại cộng đồng. TGPL còn góp phần quan trọng trong các
chương trình xóa đói, giảm nghèo ở các địa phương, người dân được tư vấn
các thủ tục pháp lý để vay vốn hoặc hưởng các chính sách ưu đãi khác để phát
triển kinh tế gia đình, vươn lên thoát nghèo. Việc các tổ chức thực hiện TGPL
giải quyết kịp thời vướng mắc pháp luật của người được TGPL cũng giúp cho
họ tiết kiệm được đáng kể thời gian đi khiếu kiện để tập trung vào sản xuất,
thúc đẩy kinh tế phát triển, ổn định trật tự xã hội.
Năm là, TGPL góp phần vào quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Thông qua các vụ việc TGPL cụ thể, người thực hiện TGPL phát hiện ra các
quy định pháp luật còn mâu thuẫn, chồng chéo và đề nghị tổ chức thực hiện
TGPL kiến nghị đến các cơ quan có thẩm quyền để sửa đổi, bổ sung các quy
định pháp luật có liên quan. Hoạt động TGPL cũng góp phần quan trọng vào
tiến trình cải cách tư pháp thông qua sự tham gia tố tụng của Trợ giúp viên
pháp lý, luật sư là cộng tác viên TGPL - người thực hiện TGPL trong hoạt
động tố tụng, tăng đáng kể số lượng vụ án được đưa ra xét xử với sự có mặt
của người bào chữa, đại diện hoặc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, thực
hiện tranh tụng, góp phần nâng cao chất lượng xét xử.
Sáu là, TGPL ra đời đã khắc phục một bước tình trạng thiếu luật sư
trong các vụ việc tranh tụng tại các cơ quan tiến hành tố tụng ở vùng sâu,
vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi;
tạo chuyển biến tích cực trong nhận thức của các cơ quan tiến hành tố tụng,
người tiến hành tố tụng về vị trí, vai trò của người bào chữa, người bảo vệ
24
quyền lợi trong các vụ việc tố tụng; đồng thời hỗ trợ tích cực cho công tác
điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
tụng, bảo đảm giải quyết vụ án khách quan, công bằng, đúng pháp luật, góp
phần thực hiện cải cách tư pháp theo chủ trương của Đảng trong Chiến lược
cải cách tư pháp
1.1.2. Khái niệm Quỹ trợ giúp pháp lý Việt Nam
Theo Từ điển Tiếng Việt của tác giả Nguyễn Lân, thì khái niệm quỹ
được định nghĩa là "số tiền bạc để dành lại để làm việc gì" [34, tr. 1503]. Xét
về góc độ là chủ thể trong các quan hệ pháp luật, Quỹ là tổ chức, đơn vị "giữ"
và "chi tiêu" tiền. Nói đến Quỹ thường là nói đến vấn đề tài chính, Quỹ tài
chính. Quỹ tài chính có một số đặc điểm chính sau:
Một là, Quỹ là định chế tài chính do cơ quan nhà nước có thẩm quyền
thành lập hoặc do tổ chức phi chính phủ, cá nhân thành lập nhằm tập trung
nguồn lực để đáp ứng một số nhiệm vụ chi được xác định.
Hai là, các yếu tố cơ bản để hình thành một quỹ bao gồm: quyết định
thành lập của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền; các nguồn thu theo quy định và
được huy động nguồn thu để sử dụng cho một số nhiệm vụ chi theo quy định.
Ba là, Quỹ có thể được hình thành ở Trung ương và địa phương, là
nguồn lực tài chính quan trọng của đất nước, có quan hệ mật thiết với ngân
sách nhà nước và hỗ trợ ngân sách nhà nước sử dụng có hiệu quả các nguồn
lực của đất nước, góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế - xã hội.
Trong điều kiện hiện nay của Việt Nam, việc hình thành các quỹ là rất cần
thiết nhằm huy động các nguồn lực đóng góp, hỗ trợ từ các tổ chức, cá nhân
trong và ngoài nước, tạo lập cơ chế linh hoạt cùng với ngân sách nhà nước để
thực hiện kịp thời một số nhiệm vụ trọng yếu, bức thiết, bảo đảm an sinh xã
hội, hỗ trợ người nghèo, người yếu thế trong xã hội…, góp phần ổn định và
phát triển kinh tế - xã hội, giảm bớt sự bao cấp từ ngân sách nhà nước.
25
Bốn là, các Quỹ hiện nay được thành lập theo nhiều văn bản quy
phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý khác nhau, có Quỹ thành lập theo Luật,
Pháp lệnh, có Quỹ thành lập theo Nghị định hoặc Quyết định của Thủ tướng
Chính phủ… Trong đó, các quỹ tài chính ở Trung ương hầu hết được quy
định trong các văn bản Luật, Pháp lệnh, do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính
phủ quyết định thành lập, sử dụng cho các mục tiêu chung của quốc gia hoặc
của ngành, các quỹ tài chính ở địa phương do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết
định thành lập, quản lý và sử dụng cho các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội
ở địa phương.
Năm là, cơ chế tài chính của Quỹ sẽ do Bộ chuyên ngành về tài chính
hướng dẫn thực hiện. Các quỹ tài chính phải lập kế hoạch thu, chi tài chính
quỹ hàng năm, báo cáo cơ quan có thẩm quyền phê duyệt và thực hiện báo
cáo quyết toán tài chính hàng năm.
Quỹ tài chính có vai trò tác động tích cực đối với việc phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước thể hiện ở các mặt sau:
Thứ nhất, một số quỹ tài chính đã huy động bổ sung và tập trung
nguồn lực tài chính để thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước: huy động đóng góp của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, sự tài trợ của
một số tổ chức, cá nhân quốc tế, qua đó động viên thêm nguồn tài chính để thực
hiện một số mục tiêu của cộng đồng hoặc của ngành, lĩnh vực, thực hiện tốt các
chính sách an sinh xã hội. Trong điều kiện nguồn lực ngân sách nhà nước còn
hạn chế thì việc tập trung một số nguồn thu riêng hoặc huy động thêm nguồn
lực tài chính cho một số nhiệm vụ chi đã có tác động tích cực trong việc giải
quyết một số nhiệm vụ quan trọng, các vấn đề an sinh xã hội. Qua hoạt động
của quỹ tài chính cùng góp phần thúc đẩy xã hội hóa, giải quyết có hiệu quả
nhiều vấn đề kinh tế - xã hội nảy sinh, đặc biệt là các vấn đề xã hội bức xúc.
Thứ hai, sự quản lý, điều hành các quỹ tài chính với cơ chế linh hoạt
đã kịp thời ứng phó với những tình huống đột xuất, yêu cầu cấp bách như
26
những tác động bất lợi từ kinh tế, xã hội và thiên tai, dịch bệnh…, góp phần
phát triển, mở rộng, đa dạng các hoạt động tài chính của nhà nước. Thông qua
hoạt động của quỹ tài chính, thị trường tài chính, thị trường tiền tệ phát triển,
tạo dựng được nguồn vốn nhàn rỗi và tăng khả năng đối phó với các rủi ro.
Quỹ TGPL Việt Nam là một trong những loại hình Quỹ tài chính, là tổ
chức tài chính công; hoạt động không vì mục đích lợi nhuận được hình thành
từ các nguồn đóng góp tự nguyện, tài trợ của các cơ quan, tổ chức, cá nhân
trong và ngoài nước, ngân sách nhà nước và các nguồn hợp pháp khác để hỗ
trợ nâng cao chất lượng hoạt động nghiệp vụ TGPL; hỗ trợ trang thiết bị,
phương tiện làm việc cho tổ chức thực hiện TGPL ở các tỉnh thuộc diện ngân
sách trung ương phải hỗ trợ, có khó khăn đột xuất và một số trường hợp đặc
biệt khác.
Có thể khẳng định rằng, việc thành lập Quỹ TGPL Việt Nam đã khẳng
định chủ trương của ngành Tư pháp là hoàn toàn đúng đắn, chủ trương giúp
người nghèo thoát nghèo về pháp luật bằng nhiều hình thức khác nhau: tư
vấn, giúp đỡ pháp luật trực tiếp cho người nghèo, hỗ trợ nâng cao năng lực
cho người thực hiện TGPL, hỗ trợ tài chính đối với các tổ chức thực hiện
TGPL tại các địa phương còn khó khăn, cần ngân sách trung ương hỗ trợ giảm
bớt áp lực ngân sách cho các địa phương này khi thực hiện các tác nghiệp cụ
thể giúp cho người nghèo và các đối tượng chính sách tiếp cận pháp luật.
Quỹ TGPL Việt Nam có một vai trò to lớn và có ý nghĩa quan trọng
trong việc góp phần thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ của hoạt động TGPL,
hạn chế sự phụ thuộc về hỗ trợ tài chính của nước ngoài đối với hoạt động
TGPL ở Việt Nam. Hoạt động của Quỹ TGPL còn góp phần giải quyết tình
hình khó khăn về tài chính cho các tổ chức TGPL trong khi ngân sách của địa
phương còn hạn chế. Thông qua những nội dung hỗ trợ của Quỹ TGPL góp
phần vào việc giúp các đối tượng được TGPL tiếp cận gần hơn với pháp luật,
nâng cao ý thức chấp hành pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
27
người dân, đối tượng yếu thế nhất là những đối tượng ở vùng sâu, vùng xa
vùng đặc biệt khó khăn, vùng có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số, qua đó nâng
cao vị thế, vai trò của pháp luật trong quản lý xã hội, bảo vệ quyền công dân.
Tạo lập, củng cố và duy trì lòng tin của nhân dân vào đường lối chính sách
của Đảng và Nhà nước đề ra, góp phần khắc phục những vướng mắc, khiếu
nại, tố cáo, khiếu kiện vượt cấp không đúng trình tự, thẩm quyền giải quyết.
Đồng thời, góp phần tạo ra sự đoàn kết, gắn bó giữa chính quyền địa phương
với nhân dân, sự đoàn kết trong cộng đồng dân cư, đảm bảo việc thực hiện
dân chủ ở cơ sở và ổn định trật tự ở địa phương.
1.2. KHÁI QUÁT PHÁP LUẬT VỀ QUỸ TRỢ GIÚP PHÁP LÝ Ở VIỆT NAM
1.2.1. Khái niệm pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung do nhà
nước đặt ra hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí nhà nước của giai cấp thống trị trên
cơ sở ghi nhận các nhu cầu về lợi ích của toàn xã hội, được bảo đảm thực hiện
bằng nhà nước nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội với mục đích trật tự và ổn
định xã hội vì sự phát triển bền vững của xã hội [33, tr. 288]. Pháp luật ở Việt
Nam thể hiện dưới hình thức văn bản quy phạm pháp luật. Theo quy định tại
khoản 1 Điều 1 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 thì văn
bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước ban hành hoặc phối
hợp ban hành theo thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục được quy định
trong Luật, trong đó có quy tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt buộc chung, được
Nhà nước bảo đảm thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội.
"Pháp luật về Quỹ" được hiểu là những quy định do cơ quan có thẩm
quyền ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội có liên quan đến việc thu
hút, huy động, quản lý và phân phối, sử dụng các nguồn lực tài chính của một
lĩnh vực nào đó. "Pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý" là các quy định do các
cơ quan có thẩm quyền ban hành để điều chỉnh, quy định các quan hệ xã hội
phát sinh trong quá trình hình thành, phát triển Quỹ, về tổ chức và hoạt động
28
của Quỹ, việc huy động, thu hút, "nắm giữ", cấp phát, chi tiêu và kiểm tra,
giám sát việc sử dụng nguồn tài chính của Quỹ TGPL Việt Nam.
Pháp luật về Quỹ TGPL ở Việt Nam được xây dựng từ Luật TGPL
năm 2006, Nghị định số 07/2007/NĐ-CP hướng dẫn một số điều của Luật TGPL,
chiến lược phát triển hệ thống TGPL ở Việt Nam đến 2020, tầm nhìn đến năm
2030. Ngoài ra, các văn bản điều chỉnh về tổ chức và hoạt động của Quỹ bao
gồm: 01 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ (Quyết định số 84/2008/QĐ-TTg
ngày 30/6/2008 về việc thành lập Quỹ TGPL Việt Nam); 01 Thông tư của Bộ
Tài chính (Thông tư số 174/2012/TT-BTC ngày 22/10/2012 hướng dẫn quản
lý tài chính đối với Quỹ TGPL Việt Nam); 01 Quyết định của Bộ trưởng Bộ
Tư pháp (Quyết định số 08/2008/QĐ-BTP ban hành Quy chế tổ chức và hoạt
động của Quỹ TGPL Việt Nam). Ngoài ra, thực hiện Nghị quyết
30a/2008/NQ-CP ngày 28/12/2008 của Chính phủ về Chương trình hỗ trợ
giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo đã có 01 Quyết định
của Thủ tướng (Quyết đính số 52/2010/QĐ-TTg ngày 18/8/2010 về chính
sách hỗ trợ pháp lý nhằm nâng cao nhận thức, hiểu biết pháp luật cho người
nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số tại các huyện nghèo giai đoạn 2011-2020);
02 Quyết định của Bộ trưởng Bộ Tư pháp được ban hành có liên quan trực
tiếp đến hoạt động của Quỹ TGPL Việt Nam (Quyết định số 2497/QĐ-BTP
ngày 01/10/2010 ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện Quyết định số
52/2010/QĐ-TTg và Quyết định số 4103/QĐ-BTP về lập, quản lý và sử dụng
nguồn kinh phí thực hiện Quyết định số 52/2010/QĐ-TTg).
Nhìn chung, công tác xây dựng thể chế về Quỹ TGPL Việt Nam nằm
trong tổng thể công tác xây dựng pháp luật về TGPL nói chung, công tác xây
dựng gắn với công tác tổ chức thực hiện pháp luật, đưa pháp luật vào cuộc
sống. Các văn bản này đều gắn với việc bảo đảm quyền được TGPL của công
dân, bảo vệ các quyền con người, quyền công dân, đặc biệt là bảo vệ những
đối tượng thuộc diện nghèo, yếu thế trong xã hội. Vì vậy, khi đi vào cuộc
sống đã có tác động mạnh mẽ đến tầng lớp dân nghèo, đối tượng yếu thế, nhất
29
là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, vùng có nhiều đồng bào dân
tộc thiểu số nên đã nhận được sự ủng hộ tích cực, việc tổ chức thực hiện
nghiêm túc và có hiệu quả trên thực tế.
Luật TGPL và các văn bản hướng dẫn thi hành trong đó các văn bản
về Quỹ TGPL được song song soạn thảo nên sớm được ban hành đã tạo cơ sở
pháp lý thống nhất, đồng bộ và toàn diện để tiếp tục củng cố, kiện toàn tổ chức
bộ máy tổ chức thực hiện TGPL; xây dựng đội ngũ và nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực, chuẩn hóa các hoạt động TGPL trong đó có hoạt động của Quỹ
TGPL Việt Nam nhằm tạo cơ chế quản lý nhà nước về TGPL để hướng đến mục
tiêu cao nhất là bảo đảm quyền được TGPL của người nghèo, đối tượng chính
sách, đồng bào dân tộc thiểu số và các đối tượng yếu thế khác trong xã hội.
1.2.2. Đặc điểm pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam
Thứ nhất, pháp luật về Quỹ TGPL ở Việt Nam là một bộ phận của hệ
thống pháp luật nói chung. Pháp luật về Quỹ TGPL ở Việt Nam do cơ quan
có thẩm quyền ban hành dưới dạng các văn bản quy phạm pháp luật đặt trong
sự điều chỉnh của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, là những quy
tắc xử sự chung có tính chất bắt buộc đối với các chủ thể khi tham gia vào các
quan hệ xã hội có liên quan đến Quỹ TGPL, có phạm vi áp dụng rộng, áp
dụng nhiều lần. Trong trường hợp các chủ thể vi phạm các quy định này có
thể bị xử lý, bị áp dụng các chế tài theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, pháp luật về Quỹ TGPL ở Việt Nam được thể hiện dưới các
hình thức văn bản quy phạm pháp luật với hiệu lực pháp lý từ cao đến thấp
tương ứng với phạm vi và đối tượng điều chỉnh của văn bản, phạm vi điều
chỉnh rộng khắp trong cả nước, đối tượng điều chỉnh đa dạng từ các đơn vị
tiếp nhận hỗ trợ đến các cơ quan, tổ chức, cá nhân tài trợ cho Quỹ và các cơ
quan quản lý về mọi mặt hoạt động của Quỹ TGPL Việt Nam.
Thứ ba, pháp luật về Quỹ TGPL ở Việt Nam ra đời sớm cùng với
pháp luật về TGPL và có vai trò là chế định bắt buộc với mục tiêu tạo ra định
30
chế tài chính bảo đảm cho hoạt động TGPL phát triển có hiệu quả. Xác định
vấn đề này cho thấy việc hoàn thiện pháp luật về Quỹ TGPL ở Việt Nam quan
trọng và phải luôn song hành với việc hoàn thiện pháp luật về TGPL nói chung.
Thứ tư, pháp luật về Quỹ TGPL ở Việt Nam quy định toàn diện các
vấn đề có liên quan đến Quỹ như vị trí pháp lý, nguyên tắc hoạt động, tổ chức
bộ máy, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn, nguồn thu của Quỹ, nội dung chi
và phạm vi hỗ trợ của quỹ, chính sách khuyến khích, huy động sự tham gia
đóng góp của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước, quy trình hỗ trợ tài
chính của Quỹ, chế độ tài chính kế toán, trách nhiệm quản lý, điều hành Quỹ…
Thứ năm, pháp luật về Quỹ TGPL ở Việt Nam có đối tượng áp dụng
là các cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia vào các quan hệ xã hội có liên quan
đến Quỹ TGPL ở Việt Nam từ việc thu hút, vận động tài trợ, cấp phát, tiếp
nhận các nguồn hỗ trợ của Quỹ, sử dụng và quản lý các nguồn tài chính của
Quỹ đến việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, khen thưởng và xử lý vi phạm pháp
luật về Quỹ TGPL.
1.3. PHÁP LUẬT VỀ QUỸ TRỢ GIÚP PHÁP LÝ CỦA MỘT SỐ NƯỚC
TRÊN THẾ GIỚI
Không chỉ ở Việt Nam thành lập Quỹ TGPL mà ở các nước có hệ
thống TGPL phát triển lâu đời như Hà Lan, Úc, Anh… và các nước có nền
kinh tế phát triển như Mỹ đều thành lập Quỹ TGPL để hỗ trợ tài chính cho
công tác TGPL. Điều này được hiểu là không phải cứ ở các quốc gia giàu có
thì quyền lợi hợp pháp của nhóm yếu thế trong xã hội đều được bảo đảm và
không phải quốc gia nào cũng bảo đảm đủ nguồn lực cho hoạt động TGPL mà
vẫn phải dựa vào sự đóng góp của nhà hảo tâm, tổ chức.
1.3.1. Quỹ trợ giúp pháp lý Trung Quốc
Năm 1997, Quỹ TGPL Trung Quốc và Trung tâm TGPL của Bộ Tư
pháp đã được thiết lập và hai tổ chức này đã đóng một vai trò quan trọng
31
trong việc cung cấp TGPL. Đồng thời, các địa phương cũng tạo ra luật pháp
địa phương và các quy định liên quan đến TGPL và thiết lập các cơ quan TGPL,
đào tạo cán bộ TGPL đặc biệt và thực hiện hợp tác, đưa TGPL phát triển.
Quỹ TGPL có nhiệm vụ tìm kiếm tài trợ từ chính quyền địa phương
của 100 huyện giàu nhất của Trung Quốc để hỗ trợ pháp lý cho 592 quận được
xác định là "nghèo". Quỹ này hy vọng tài trợ 10.000 nhân dân tệ (USD 1.200)
một năm trong vòng ba năm tiếp theo cho từng quận nghèo, để tạo bước nhảy
trong dịch vụ TGPL. Nhiều quận hạt nghèo, không có đến một luật sư TGPL.
Tháng 9 năm 2003, Trung Quốc bắt đầu thực hiện quy định hỗ trợ các
quy phạm pháp luật, trong đó thành lập các khuôn khổ cơ bản của hệ thống
TGPL và làm rõ các trách nhiệm của chính phủ. Chính phủ trên cấp quận nên
áp dụng các biện pháp tích cực để thúc đẩy TGPL và hỗ trợ tài chính cho hoạt
động này để phát triển song song với việc phát triển kinh tế và xã hội. Các
quy định về TGPL là Nghị định chính thức đầu tiên của Trung Quốc về
TGPL. Việc ban hành các quy định đánh dấu sự thành lập chính thức của hệ
thống TGPL, mà điều này có ý nghĩa quan trọng trong lịch sử hệ thống TGPL
Trung Quốc. Nó có ảnh hưởng to lớn trong việc thực hiện chiến lược cơ bản
của việc cai trị đất nước theo quy định của pháp luật, tăng cường hệ thống
pháp luật XHCN và thúc đẩy sự phát triển của pháp luật.
Kinh phí TGPL chủ yếu do chính phủ phân bổ. TGPL là trách nhiệm
của chính phủ và do đó chính quyền các cấp dành ngân sách đặc biệt cho hoạt
động này. Tuy nhiên, do nguồn kinh phí hạn chế, nó không thể đáp ứng nhu
cầu thực tế mà chỉ dựa hoàn toàn vào chính phủ. Trong hoàn cảnh như vậy,
đóng góp đã không chỉ cần thiết mà còn rất quan trọng. Để chuẩn hóa các
hoạt động quyên góp, Bộ Tư pháp thành lập Quỹ TGPL Trung Quốc, đây là
một tổ chức phi chính phủ có tư cách pháp nhân độc lập. Nhiệm vụ của nó là
để nâng cao, quản lý và sử dụng nguồn tài chính hỗ trợ cho công tác TGPL và
tiếp nhận đóng góp từ trong và ngoài nước.
32
Tăng cường đầu tư TGPL là cần thiết bằng cách tăng vốn thông qua
nhiều kênh khác nhau và chính quyền địa phương phải gánh vác trách nhiệm
của mình. Ngoài ra, sự cần thiết phải tăng cường xây dựng đội ngũ người thực
hiện TGPL để khuyến khích các chuyên gia pháp luật cung cấp dịch vụ pháp
lý trong thời gian cố định và số tiền cố định của công việc. Nhân viên dịch vụ
pháp lý cũng được đào tạo tốt hơn trong các kỹ năng xử lý các vụ án hình sự
và dân sự cần TGPL. Nhà nước đã tổ chức các chương trình hành động TGPL để
giảm bớt tình trạng thiếu nhân viên trong khu vực phía tây nghèo của đất nước.
Bộ Tư pháp nhận thức đầy đủ các vai trò quan trọng của Quỹ TGPL
và tiếp tục để khuyến khích mạnh hơn các công đoàn thương mại, các tổ chức
phụ nữ, Liên đoàn người khuyết tật và tổ chức học tập để cho thấy các nguồn
lực và lợi ích khi cung cấp dịch vụ pháp lý cho một số nhóm đặc biệt [51].
1.3.2. Quỹ trợ giúp pháp lý Mỹ
Quỹ TGPL ở Mỹ được thành lập ở một số bang như Colorado, Chicago,
Los Angeles, Washington, Santa Barbara… Mục đích hoạt động chung của
các Quỹ này đều nhằm giúp đỡ nhóm yếu thế trong xã hội tiếp cận bình đẳng
về tư pháp, sơ lược về Quỹ của các bang như sau:
Quỹ TGPL bang Santa Barbara
Nhiệm vụ của Quỹ TGPL bang Santa Barbara là cung cấp các dịch vụ
pháp lý chất lượng cao nhằm bảo đảm rằng người có thu nhập thấp và người
cao niên có quyền tiếp cận hệ thống tư pháp dân sự khi gặp tình huống khó
khăn để bảo đảm an toàn, cư trú sinh sống, thu nhập xứng đáng và bảo vệ
khỏi bạo lực gia đình, lạm dụng người cao tuổi. Từ năm 1959, Quỹ TGPL
Santa Barbara đã cung cấp TGPL miễn phí trong các vấn đề quan trọng dân
sự. Nhiệm vụ của Quỹ là đảm bảo tiếp cận bình đẳng và có ý nghĩa đối với hệ
thống tư pháp dân sự quận Santa Barbara cư dân sinh sống bằng hoặc dưới
mức nghèo khổ, những người phải đối mặt với rào cản ngôn ngữ hoặc khuyết
tật, người cao niên và những người khác sống trên thu nhập cố định như an
33
sinh xã hội, các nạn nhân bị bạo lực và lạm dụng người cao tuổi. Dịch vụ của
Quỹ là việc cung cấp các thông tin pháp lý và tư vấn để hỗ trợ cho việc chuẩn
bị các văn bản quy phạm pháp luật và đại diện cho các thủ tục tố tụng tại tòa
án. Do hạn chế về nguồn lực nên Quỹ TGPL ở Santa Barbara chủ yếu hướng
vào trợ giúp người trong thời kỳ khủng hoảng. Quỹ có 03 văn phòng ở Santa
Barbara, Santa Maria và Lompoc.
Quỹ hỗ trợ các nạn nhân của bạo lực gia đình và lạm dụng người cao
tuổi trong việc có được các biện pháp để bảo vệ chúng khỏi những kẻ lạm
dụng của họ. Quỹ hỗ trợ tất cả mọi người không phân biệt thu nhập trong các
trường hợp này. Thường thường, Quỹ cũng giúp các nạn nhân bạo lực gia
đình trong việc có được quyền nuôi con và thăm viếng con cái.
Quỹ TGPL của Santa Barbara là một tổ chức phi lợi nhuận tư nhân;
hoạt động chủ yếu dựa vào tài trợ của cộng đồng. Quỹ huy động tài trợ không
chỉ tiền mà còn cả vật tư, thiết bị, xe hơi cũ hoặc quyên góp bằng cách mua
nước đóng chai của Quỹ.
Nhiệm vụ của Quỹ là đảm bảo rằng tất cả mọi người, bất kể thu nhập,
có thể tiếp cận giống nhau trong hệ thống tư pháp dân sự. Quỹ hoạt động để
thực hiện chức năng cung cấp các dịch vụ pháp lý miễn phí, chất lượng cao
trong các vấn đề quan trọng của công dân Santa Barbara. Năm 2010-2011,
Quỹ đã hỗ trợ giúp đỡ về pháp lý cho 880 cư dân Santa Barbara trong lĩnh
vực tố tụng, đại diện cho 4.175 người; giúp 572 nạn nhân của bạo lực gia đình
có được lệnh của tòa án để không bị rơi vào tình trạng nguy hiểm, giúp 1.026
người cao tuổi [48].
Quỹ TGPL bang Washington
Quỹ TGPL ở Washington là một tổ chức phi lợi nhuận được tạo ra dưới
sự chỉ đạo của Tòa án tối cao Washington để cung cấp tiền bạc và nguồn lực
sẵn có khác với các chương trình TGPL dân sự như an toàn gia đình, nhà ở, y
tế và việc làm để hỗ trợ người thu nhập thấp trên toàn tiểu bang Washington,
34
các vấn đề pháp lý mà người thu nhập thấp gặp phải, làm ảnh hưởng đến đời
sống của họ.
Việc hỗ trợ tài chính của Quỹ để đảm bảo bình đẳng quyền lợi có thể
đạt được cho người dân nghèo nhất của tiểu bang Washington. Quỹ TGPL
được thành lập vào năm 1991 bởi ba nhà lãnh đạo của bang Washington Dean
Spokane, Mark Hutcheson Seattle, và Paul Stritmatter. Ba nhà lãnh đạo đều
công nhận sự cần thiết có một nguồn kinh phí ổn định cho các chương trình
TGPL dân sự. Lúc đầu, Quỹ TGPL tăng hỗ trợ cho các chương trình đội ngũ luật
sư của tiểu bang Washington như chương trình Dịch vụ pháp lý Columbia và
dự án công bằng Tư pháp khu Tây Bắc.
Năm 2000, Ủy ban Tư pháp hoạch định chính sách cho các dịch vụ
pháp luật dân sự được thực hiện bởi Tòa án Tối cao nên đã thành lập một ủy
ban để giải quyết nhu cầu đối với các nguồn tài trợ ổn định cho các nhà cung
cấp dịch vụ TGPL dân sự trên toàn tiểu bang. Trong năm 2004, các bang đã
thông qua đề nghị của ủy ban để hình thành một chiến dịch gây quỹ và tin
tưởng rằng sẽ đem lại lợi ích cả nhân viên và tình nguyện viên chương trình
viện trợ dân sự hợp pháp trên toàn tiểu bang.
Mục tiêu ngắn hạn của Quỹ là tăng 10 triệu USD vào cuối năm 2012,
và sẽ phân bổ 500.000 USD hàng năm. Để đảm bảo cơ sở tài chính ổn định
cho các nhà cung cấp dịch vụ TGPL, Quỹ đã thiết lập một mục tiêu trung gian
là 200 triệu USD và mục tiêu cuối cùng là 500 triệu USD.
TGPL thực hiện giúp đỡ miễn phí cho cá nhân, gia đình, cộng đồng có
thu nhập thấp, cá nhân các dịch vụ: bảo vệ và thực thi quyền lợi hợp pháp; sử
dụng hệ thống tư pháp dân sự để chống lại các luật, quy định, chính sách
không công bằng; phát triển và thực hiện các luật, quy định, chính sách để cải
thiện chất lượng cuộc sống. Sứ mệnh của Quỹ TGPL Washington là tăng
đóng góp từ thiện để đảm bảo công lý là một thực tế không chỉ cho những
người đủ điều kiện mà còn cho tất cả mọi người trong tiểu bang.
35
Dưới sự chỉ đạo của Tòa án Tối cao Washington, nhóm công tác về
công bằng Tư pháp dân sự bình đẳng đã tiến hành một nghiên cứu toàn diện
về nhu cầu của pháp luật dân sự của người thu nhập thấp. Họ đã chứng minh
rằng những người có thu nhập thấp tại Washington và đặc biệt là phụ nữ và
trẻ em, phần lớn không có được TGPL cho các vấn đề pháp lý của họ mặc dù
những vấn đề thường liên quan đến những nhu cầu cơ bản của con người như
nhà ở và an toàn.
Quỹ TGPL Washington có quan hệ chặt chẽ với các chiến dịch và
hàng trăm tình nguyện viên trên toàn tiểu bang để đảm bảo sự thành công của
Quỹ. Các chiến dịch công bằng pháp lý nhận được sự hỗ trợ lớn từ các công
ty luật, luật sư và công chúng nói chung để giúp cung cấp TGPL cho hàng
ngàn người khác có nhu cầu.
Quỹ TGPL Chicago
Quỹ TGPL Chicago có nguồn gốc từ chiến tranh đói nghèo năm 1960
theo sáng kiến của Tổng thống Lyndon Johnson. Chính thức hoạt động vào
năm 1965, do Quốc hội liên bang cung cấp các dịch vụ pháp lý miễn phí cho
người nghèo và trong năm 1965 và 1966 các khoản trợ cấp liên bang ở
Chicago được thực hiện do một tổ chức hỗ trợ cung cấp cho các dịch vụ pháp
lý cho người nghèo và để hỗ trợ các luật sư tham gia chương trình "cải cách
luật pháp" - đại diện cho các nhóm người nghèo. Trong vòng một thập kỷ, các
khoản tài trợ đã được thực hiện và trao cho Quỹ TGPL của Chicago.
Quỹ đã cam kết mở rộng dịch vụ của mình để tiếp cận với các nhóm
dễ bị tổn thương ở Chicago và năm này qua năm khác, Quỹ tìm kiếm và bảo
đảm kinh phí cho các sáng kiến mới. Năm 2000, Quỹ mở rộng địa bàn hoạt
động của mình xuống các vùng ngoại ô, bằng cách tham gia vào các chương
trình. Trong suốt 40 năm qua, Quỹ đã để lại dấu ấn trên công lý cho người
nghèo ở Chicago. Quỹ đã tiếp xúc với cơ quan của liên bang và chính quyền
địa phương nơi có hành động ảnh hưởng tiêu cực đến người nghèo. Quỹ đã
36
thúc giục và khi cần thiết, khởi kiện các cơ quan này để cải cách chính sách và
các hoạt động của họ để tuân thủ tất cả các luật pháp liên bang và tiểu bang.
Quỹ hỗ trợ chi phí để bảo vệ quyền hợp pháp của những người dễ bị
tổn thương nhất trong xã hội như phụ nữ bị đánh đập, những người khuyết tật,
các cư dân nhà ở công cộng, người nộp đơn và người nhận lợi ích sinh kế,
người nhập cư, trẻ em, người già, người lao động được trả lương thấp, những
người có HIV-AIDS và cư dân nhà dưỡng lão. Trong hơn 40 năm, Quỹ TGPL
của Chicago đã cung cấp miễn phí TGPL dân sự đến hàng chục ngàn người
có thu nhập thấp và người cao tuổi ở Chicago và vùng ngoại ô.
Đối với những người có thu nhập thấp, người già, hoặc bị khuyết tật,
TGPL thường rất quan trọng đối với họ để bảo vệ nhà cửa, việc làm, lợi ích
của họ, hoặc để bảo vệ quyền lợi của họ do hiến pháp hay luật định [50].
1.3.3. Quỹ trợ giúp pháp lý Đài Loan
Tháng 7/2004, đánh dấu thời điểm quan trọng nhất trong lịch sử phát
triển hoạt động TGPL ở Đài Loan. Trước đây, không có một tổ chức độc lập
nào thực hiện TGPL cho những người yếu thế ở Đài Loan. Một số tổ chức
thuộc khu vực công và tư cũng thực hiện hoạt động này nhưng đa số là tư vấn
miệng. Việc đại diện, bào chữa ở Tòa án chỉ được thực hiện trong trường hợp
đặc biệt. Nhìn chung, chất lượng hoạt động TGPL chưa tốt và không phải lúc
nào cũng đáp ứng được nhu cầu của người dân. Tiếp theo sự dân chủ hóa và
việc xây dựng chế độ pháp quyền, nhu cầu về nguồn lực tư pháp ở Đài Loan
đã tăng lên. Năm 1998, Quỹ cải cách tư pháp, Đoàn luật sư Đài Bắc và Hiệp
hội nhân quyền Đài Loan cùng vận động thông qua dự luật TGPL. Với sự
giúp đỡ của Bộ Tư pháp, Quốc hội đã xem xét Luật TGPL và thông qua năm
2004. Tháng 7/2004, Bộ Tư pháp đã bảo trợ và thành lập Quỹ TGPL (LAF).
Sự đa dạng các dịch vụ TGPL liên quan đến các loại vướng mắc pháp
luật cụ thể hoặc những đối tượng có hoàn cảnh kinh tế khó khăn nói chung.
Một số dịch vụ giúp đỡ chỉ được đáp ứng khi tòa án đã xét xử mà không đảm
37
bảo quyền của đối tượng yếu thế trong quá trình tố tụng. Từ tháng 7/2004, Bộ
Tư pháp thành lập Quỹ TGPL, tiếp tục hỗ trợ và giám sát hoạt động của tổ
chức này. Bất cứ ai có vụ việc chưa được bảo vệ và đáp ứng được điều kiện
về tài chính thì đều có thể yêu cầu TGPL, bất kể đó là loại vướng mắc pháp
luật nào hay nhân thân của họ ra sao.
Các đoàn luật sư ở Đài Loan cũng tham gia thực hiện TGPL. TGPL
do đoàn luật sư Đài Bắc thực hiện bao gồm các hoạt động tư vấn tại chỗ định
kỳ. Những công dân đáp ứng được những điều kiện nhất định như gia đình có
thu nhập thấp hoặc bị hạn chế về thể chất và tinh thần thì dịch vụ TGPL miễn
phí tại tòa án sẽ được thực hiện khi cần thiết. Tùy thuộc vào tính chất công
việc của mình, một số tổ chức phúc lợi xã hội cũng thực hiện TGPL. Tuy
nhiên, do hạn chế về tài chính nên sự giúp đỡ của các tổ chức này chỉ dừng lại
ở việc tư vấn. Khi có những vụ việc quan trọng thì các tổ chức này lại tìm luật
sư giúp đỡ miễn phí.
Việc thực hiện TGPL được bắt đầu bằng việc kiểm tra điều kiện của
người xin TGPL. Nếu thu nhập của người nộp đơn dưới mức quy định và vướng
mắc pháp luật của họ chưa sáng tỏ thì người nộp đơn có thể yêu cầu TGPL.
Nhân thân và tính chất của yêu cầu trợ giúp không được xem xét. Khi tiếp
nhận vụ việc, Quỹ TGPL giao vụ việc cho luật sư TGPL và trả chi phí cho họ,
Tòa án sẽ miễn trách nhiệm trả chi phí xét xử.
Điều kiện để được Quỹ TGPL hỗ trợ: (i) Vụ việc chưa sáng tỏ;
(ii) Người nộp đơn thuộc hộ có thu nhập thấp theo quy định của Luật An sinh
xã hội hoặc có thu nhập và tài sản dưới một mức nhất định; (iii) Người nộp
đơn không phải kiểm tra điều kiện trong vụ việc hình sự bắt buộc có luật sư;
(iv) Người nước ngoài cư trú hợp pháp ở Đài Loan có thể đề nghị TGPL nếu
họ đáp ứng đủ các điều kiện trên.
Đài Loan là nước chú trọng đến công tác TGPL nói chung và Quỹ
TGPL nói riêng (LAF) khá phát triển. Theo Điều 1 của Luật TGPL, mục tiêu
38
của Quỹ TGPL là để bảo vệ quyền của người dân và cung cấp TGPL cần thiết
cho những người không được bảo vệ bởi pháp luật do họ thiếu khả năng tài
chính hoặc các lý do khác. Nó có thể được hiểu rằng người nhận TGPL của
Quỹ không giới hạn cho những người không có khả năng tài chính và tất cả
những người không thể được bảo vệ bởi pháp luật vì những lý do khác là
người nhận trợ giúp từ Quỹ. Theo luật TGPL, người nào phạm tội bắt buộc
phải có luật sư thì được miễn kiểm tra điều kiện TGPL. Do đó, một người
giàu nhưng phạm tội vẫn có thể yêu cầu được TGPL và việc này đã gây nên
sự tranh cãi. Tất cả các yêu cầu TGPL khác đều phải kiểm tra điều kiện và kết
quả là Quỹ TGPL không thể trợ giúp cho những vụ việc liên quan đến nhân
quyền và vụ việc là kết quả của việc hạn chế về cơ cấu tổ chức trong hệ thống
tư pháp. Quỹ TGPL đã thu thập nhiều ý kiến khác nhau liên quan đến các tiêu
chí về tài chính để được TGPL và bắt đầu xem xét những vấn đề này.
Do đó, Quỹ đã luôn luôn giữ kết nối chặt chẽ với các nhóm phúc lợi
xã hội khác nhau và quan tâm về nhu cầu nhân dân có hoàn cảnh khó khăn
của người được TGPL. Tuy nhiên, với nguồn lực hạn chế của Quỹ, Quỹ
không thể đáp ứng tất cả các nhu cầu của họ, trong khi những thay đổi của
điều kiện xã hội và kinh tế đã gây ra tác động lớn đến nhóm có hoàn cảnh khó
khăn. Vì vậy, Quỹ liên tục cập nhật các nhu cầu cấp thiết của người dân có
hoàn cảnh khó khăn để cung cấp viện trợ kịp thời. Trong tương lai, Quỹ sẽ
tiếp tục giữ mối quan tâm với những nhu cầu cụ thể của những người có hoàn
cảnh khó khăn trong "Chương trình TGPL cho các trẻ em" và "Chương trình
TGPL cho các nạn nhân của tội phạm buôn bán người".
Trong năm 2004, Luật TGPL có hiệu lực tại Đài Loan, một ngân sách
đã được chuẩn bị cho việc thành lập của Quỹ. Quỹ được tổ chức theo mô hình
Hội đồng. Hội đồng quản trị là cơ quan quyết định cao nhất của Quỹ. Giám
đốc được bổ nhiệm bởi Tổng thống có thời hạn 3 năm và không nhận được
thù lao. Ban Giám đốc bao gồm hai đại diện từ Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ và Bộ
39
Quốc phòng, bốn luật sư do đề nghị của Đoàn luật sư quốc gia và luật sư địa
phương là những người tích cực tham gia công tác TGPL, hai viện nghiên cứu
hoặc các chuyên gia có kiến thức chuyên môn trong pháp luật hoặc trong các
ngành liên quan, một đại diện của các nhóm có hoàn cảnh khó khăn và đại
diện của các nhóm thổ dân Đại diện chính thức bao gồm ít hơn một nửa số
thành viên Hội đồng [38].
Từ những phân tích, đánh giá về các quy định pháp luật về mô hình
Quỹ TGPL của một số nước trên thế giới cho thấy giá trị tham khảo rất hữu
ích đối với việc hoàn thiện pháp luật về Quỹ TGPL Việt Nam.
Pháp luật về Quỹ TGPL của các nước trên thế giới quy định đa dạng
các loại hình Quỹ TGPL: Quỹ TGPL ở phạm vi toàn quốc và Quỹ TGPL ở
phạm vi địa phương, Quỹ TGPL với tư cách là một tổ chức tài chính của Nhà
nước, tổ chức tài chính phi Chính phủ hoặc có thể được tổ chức theo mô hình
Hội đồng gồm đại diện của một số Bộ, ngành trực tiếp quản lý hoạt động
TGPL, các luật sư do Đoàn luật sư cử, các nhà nghiên cứu, chuyên gia pháp
luật, đại diện của nhóm người có hoàn cảnh khó khăn - đối tượng hỗ trợ của
hoạt động TGPL... Cách tổ chức của Quỹ TGPL như vậy giúp cho quá trình
vận động, thu hút dễ dàng, thuận lợi và có nhiều kênh cũng như khách quan
hơn trong quá trình cấp phát, hỗ trợ kinh phí cho hoạt động TGPL.
Quỹ TGPL của các nước có chung mục tiêu là hỗ trợ để thúc đẩy hoạt
động TGPL phát triển đối với những địa phương còn khó khăn, ngân sách nhà
nước hạn hẹp. Quỹ TGPL góp phần đắc lực trong việc giúp nhà nước huy
động các nguồn lực tài chính ngoài ngân sách để trang trải, đầu tư nhằm bảo
đảm cho hệ thống TGPL phát triển đồng đều ở các vùng, miền.
Pháp luật về Quỹ TGPL của các nước trên thế giới quy định đa dạng,
phong phú về nguồn được hỗ trợ, có thể là tiền hoặc tài sản, vật tư, thiết bị, xe
hơi cũ… hoặc quyên góp bằng cách mua sản phẩm hàng hóa do Quỹ sản xuất.
Như vậy, ngoài việc tiếp nhận các nguồn tài trợ, Quỹ TGPL còn có hoạt động
40
kinh doanh thương mại với mục đích là thu lợi nhuận để hỗ trợ cho hoạt động
TGPL. Quỹ TGPL theo mô hình này thể hiện sự năng động, linh hoạt, chủ
động mà không chỉ thụ động nhận viện trợ, tài trợ của các tổ chức và cá nhân.
Quỹ TGPL của các nước trên thế giới rất chú trọng đến việc hỗ trợ các
vụ việc đặc thù cụ thể, những vụ việc có đối tượng đặc biệt hoặc có ảnh
hưởng, tác động lớn tới xã hội, được sự quan tâm của dư luận xã hội. Với
phương thức hỗ trợ như vậy một mặt giúp cho việc hỗ trợ của Quỹ thiết thực,
đi trực tiếp vào các vụ việc có liên quan đến việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp cho đối tượng hỗ trợ, mặt khác tạo ra được danh tiếng, uy tín của Quỹ để
dễ dàng thu hút được các nhà hảo tâm, "mạnh thường quân" hỗ trợ cho Quỹ.
Quỹ TGPL có quan hệ chặt chẽ với các chiến dịch và có các tình
nguyện viên khắp nơi để đảm bảo sự thành công của Quỹ. Các chiến dịch
công bằng pháp lý nhận được sự hỗ trợ lớn từ các công ty luật, luật sư và
công chúng nói chung để giúp cung cấp TGPL cho hàng ngàn người khác có
nhu cầu.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Để làm rõ những vấn đề lý luận liên quan đến pháp luật về Quỹ TGPL
Việt Nam, tác giả đã tập trung làm rõ khái niệm và đặc điểm TGPL, quỹ, Quỹ
TGPL và pháp luật về Quỹ TGPL, tham khảo một số mô hình quỹ TGPL theo
pháp luật hiện hành của một số nước trên thế giới. Đây là những vấn đề nền
tảng, mấu chốt, giúp hiểu rõ, hiểu đúng để định hình, khẳng định bản chất của
các vấn đề nghiên cứu cũng như cung cấp cách nhìn nhận, đánh giá, khái quát
hóa được những nội dung lý luận có liên quan trực tiếp đến Quỹ TGPL và
pháp luật về quỹ TGPL. Vì vậy, những vấn đề lý luận ở Chương 1 là cơ sở để
phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về Quỹ TGPL Việt Nam và nhận diện
rõ những khó khăn, hạn chế và nguyên nhân. Đồng thời, là cơ sở để căn cứ
vào quan điểm và yêu cầu hiện nay để hoàn thiện pháp luật Quỹ TGPL Việt
Nam trong thời gian tới.
41
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT
VỀ QUỸ TRỢ GIÚP PHÁP LÝ VIỆT NAM
2.1. THỰC TRẠNG VỊ TRÍ PHÁP LÝ CỦA QUỸ TRỢ GIÚP PHÁP LÝ
VIỆT NAM
Hệ thống tổ chức TGPL ở Việt Nam được thành lập chính thức theo
Quyết định số 734/TTg ngày 06/9/1997 của Thủ tướng Chính phủ. Qua quá
trình hình thành đi vào hoạt động và đạt được những kết quả bước đầu đáng
khích lệ về cả về tổ chức, phạm vi hoạt động cũng như chất lượng dịch vụ
pháp lý cung cấp, đáp ứng được nhu cầu của người dân và khẳng định tính
đúng đắn của chính sách TGPL do Đảng và Nhà nước khởi xướng. Để bảo
đảm có định chế tài chính ngoài ngân sách nhằm hỗ trợ, thúc đẩy hoạt động
TGPL phát triển, trên cơ sở Quyết định số 734/QĐ-TTg ngày 06/9/1997 của
Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập tổ chức TGPL cho người nghèo và đối
tượng chính sách, Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành Quyết định số
257/2002/QĐ-BTP ngày 10/7/2002 về việc thành lập Quỹ TGPL Việt Nam và
Quyết định số 258/2002/QĐ-BTP ngày 10/7/2002 ban hành Quy chế về tổ
chức và hoạt động của Quỹ TGPL Việt Nam. Năm 2003, Quỹ TGPL Việt
Nam chính thức đi vào hoạt động.
Để tạo cơ sở pháp lý vững chắc hơn, khẳng định quyết tâm lớn của
Đảng và Nhà nước trong việc bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân, bảo đảm công bằng trong tiếp cận pháp luật, xây dựng một Nhà
nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, ngày
24/6/2006, Quốc hội đã thông qua Luật TGPL. Điều 8 của Luật TGPL đã
khẳng định vị trí, vai trò của Quỹ TGPL:
Quỹ trợ giúp pháp lý được lập để hỗ trợ nâng cao chất lượng
hoạt động nghiệp vụ trợ giúp pháp lý; hỗ trợ trang thiết bị, phương
42
tiện làm việc cho tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý ở địa phương
có khó khăn về kinh tế. Nguồn tài chính của Quỹ trợ giúp pháp lý
gồm đóng góp tự nguyện, tài trợ của cơ quan, tổ chức, các nhân, hỗ
trợ từ ngân sách nhà nước và các nguồn hợp pháp khác. Quỹ trợ
giúp pháp lý hoạt động không vì mục đích lợi nhuận, được miễn
thuế. Việc quản lý và sử dụng Quỹ trợ giúp pháp lý phải đúng mục
đích và theo quy định của pháp luật [40].
Ngày 12/01/2007, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 07/2007/NĐ-CP
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật TGPL tạo cơ sở
pháp lý đồng bộ, thống nhất bảo đảm triển khai có hiệu quả các quy định của
Luật. Điều 6 của Nghị định số 07/2007/NĐ-CP quy định cụ thể chức năng, vị
trí, vai trò của Quỹ TGPL:
Quỹ trợ giúp pháp lý được thành lập dựa trên sự đóng góp
tự nguyện, tài trợ của tổ chức, cá nhân; hỗ trợ từ ngân sách nhà
nước và các nguồn hợp pháp khác để hỗ trợ nâng cao chất lượng
hoạt động nghiệp vụ trợ giúp pháp lý; hỗ trợ trang thiết bị, phương
tiện làm việc cho tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý ở địa phương
có khó khăn về kinh tế, bao gồm các tỉnh thuộc diện ngân sách
trung ương phải hỗ trợ, các địa phương có khó khăn đột xuất và một
số trường hợp đặc biệt khác. Thủ tướng Chính phủ quyết định thành
lập Quỹ trợ giúp pháp lý. Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành Quy chế
tổ chức và hoạt động của Quỹ sau khi thống nhất ý kiến với Bộ
trưởng Bộ Tài chính; chịu trách nhiệm trước Chính phủ trong việc
quản lý hoạt động của Quỹ. Quỹ có tư cách pháp nhân, có con dấu
riêng, được mở tài khoản tại Kho bạc Nhà nước và Ngân hàng. Quỹ
có Giám đốc, Phó Giám đốc, kế toán và bộ phận giúp việc. Giám
đốc Quỹ là người đại diện theo pháp luật của Quỹ, do Bộ trưởng Bộ
Tư pháp bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức [17].
43
Thực hiện Luật và Nghị định số 07/2007/NĐ-CP của Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 84/2008/QĐ-TTg ngày 30/6/2008
của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập Quỹ TGPL Việt Nam, ngày
08/12/2008, Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành Quyết định số 08/2008/QĐ-BTP
ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của Quỹ TGPL Việt Nam, theo đó
Quỹ TGPL Việt Nam là đơn vị sự nghiệp trực thuộc Cục TGPL, là tổ chức tài
chính nhà nước, hoạt động không vì mục đích lợi nhuận, được miễn thuế theo
quy định của pháp luật hiện hành. Quỹ có chức năng xây dựng, khai thác, sử
dụng nguồn tài chính để thực hiện hỗ trợ, thúc đẩy sự phát triển ổn định và có
chất lượng của hoạt động TGPL trong phạm vi toàn quốc. Quỹ có tư cách
pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng, có trụ sở tại thành phố Hà Nội và
các Chi nhánh tại một số khu vực trong nước, có tổ chức bộ máy chuyên
trách. Tài khoản Quỹ được mở tại Kho bạc nhà nước để thực hiện thu, chi qua
Kho bạc nhà nước đối với các khoản kinh phí thuộc ngân sách nhà nước cấp
theo quy định của Luật Ngân sách; được mở tại Ngân hàng được phép hoạt
động tại Việt Nam để thực hiện các khoản thu, chi từ các nguồn ngoài Ngân
sách nhà nước [9].
Để xác định định hướng phát triển bền vững của Quỹ, chiến lược phát
triển TGPL ở Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 (Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 678/QĐ-TTg ngày 10/5/2011) đã nêu
rõ mục tiêu và giải pháp phát triển Quỹ: "Phát triển Quỹ trợ giúp pháp lý Việt
Nam, nghiên cứu và thể chế hóa về việc mở rộng Chi nhánh của Quỹ trợ giúp
pháp lý Việt Nam ở địa phương để thu hút ngày càng nhiều đóng góp của các
tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước cho hoạt động trợ giúp pháp lý " [22, tr. 9].
Để thực hiện Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP ngày 27/12/2008 của Chính
phủ về Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với huyện
nghèo, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 52/2010/QĐ-TTg
ngày 18/8/2010 về chính sách hỗ trợ pháp lý nhằm nâng cao nhận thức, hiểu
biết pháp luật cho người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số tại các huyện
Pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdf
Pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdf
Pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdf
Pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdf
Pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdf
Pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdf
Pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdf
Pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdf
Pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdf
Pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdf
Pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdf
Pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdf
Pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdf
Pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdf

More Related Content

Similar to Pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdf

pháp luật về trợ giúp pháp lý cho người nghèo và các đối tượng chính sách xã ...
pháp luật về trợ giúp pháp lý cho người nghèo và các đối tượng chính sách xã ...pháp luật về trợ giúp pháp lý cho người nghèo và các đối tượng chính sách xã ...
pháp luật về trợ giúp pháp lý cho người nghèo và các đối tượng chính sách xã ...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
phổ biến giáo dục pháp luật
phổ biến giáo dục pháp luật phổ biến giáo dục pháp luật
phổ biến giáo dục pháp luật phuongthanh6689
 
ĐÁNH GIÁ NHANH MÔI TRƯỜNG PHÁP LÝ VÀ CHÍNH SÁCH LIÊN QUAN ĐẾN TỪ THIỆN DOANH ...
ĐÁNH GIÁ NHANH MÔI TRƯỜNG PHÁP LÝ VÀ CHÍNH SÁCH LIÊN QUAN ĐẾN TỪ THIỆN DOANH ...ĐÁNH GIÁ NHANH MÔI TRƯỜNG PHÁP LÝ VÀ CHÍNH SÁCH LIÊN QUAN ĐẾN TỪ THIỆN DOANH ...
ĐÁNH GIÁ NHANH MÔI TRƯỜNG PHÁP LÝ VÀ CHÍNH SÁCH LIÊN QUAN ĐẾN TỪ THIỆN DOANH ...Thành Nguyễn
 

Similar to Pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdf (20)

Luận văn: Hỗ trợ pháp lý cho người nghèo tại huyện Thăng Bình
Luận văn: Hỗ trợ pháp lý cho người nghèo tại huyện Thăng BìnhLuận văn: Hỗ trợ pháp lý cho người nghèo tại huyện Thăng Bình
Luận văn: Hỗ trợ pháp lý cho người nghèo tại huyện Thăng Bình
 
Luận văn: Tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý tỉnh Cà Mau
Luận văn: Tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý tỉnh Cà MauLuận văn: Tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý tỉnh Cà Mau
Luận văn: Tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý tỉnh Cà Mau
 
Luận văn: Pháp luật về bảo trợ xã hội tỉnh Đắk Lắk, HAY
Luận văn: Pháp luật về bảo trợ xã hội tỉnh Đắk Lắk, HAYLuận văn: Pháp luật về bảo trợ xã hội tỉnh Đắk Lắk, HAY
Luận văn: Pháp luật về bảo trợ xã hội tỉnh Đắk Lắk, HAY
 
Luận văn: Ưu đãi xã hội theo pháp luật tại TP Đà Nẵng, HAY
Luận văn: Ưu đãi xã hội theo pháp luật tại TP Đà Nẵng, HAYLuận văn: Ưu đãi xã hội theo pháp luật tại TP Đà Nẵng, HAY
Luận văn: Ưu đãi xã hội theo pháp luật tại TP Đà Nẵng, HAY
 
Luận văn: Ưu đãi xã hội theo pháp luật Việt Nam tại Đà Nẵng, HOT
Luận văn: Ưu đãi xã hội theo pháp luật Việt Nam tại Đà Nẵng, HOTLuận văn: Ưu đãi xã hội theo pháp luật Việt Nam tại Đà Nẵng, HOT
Luận văn: Ưu đãi xã hội theo pháp luật Việt Nam tại Đà Nẵng, HOT
 
Tiểu Luận Học Phần Kỹ Năng Thực Hành Nghề Nghiệp.docx
Tiểu Luận Học Phần Kỹ Năng Thực Hành Nghề Nghiệp.docxTiểu Luận Học Phần Kỹ Năng Thực Hành Nghề Nghiệp.docx
Tiểu Luận Học Phần Kỹ Năng Thực Hành Nghề Nghiệp.docx
 
Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên tỉnh Quảng Bình, 9đ
Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên tỉnh Quảng Bình, 9đPhổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên tỉnh Quảng Bình, 9đ
Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên tỉnh Quảng Bình, 9đ
 
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho thanh niên tỉnh Quảng Bình, 9đ
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho thanh niên tỉnh Quảng Bình, 9đLuận văn: Giáo dục pháp luật cho thanh niên tỉnh Quảng Bình, 9đ
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho thanh niên tỉnh Quảng Bình, 9đ
 
Luận văn: Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên, HAY!
Luận văn: Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên, HAY!Luận văn: Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên, HAY!
Luận văn: Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên, HAY!
 
Đề tài: Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình
Đề tài: Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên từ thực tiễn tỉnh Quảng BìnhĐề tài: Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình
Đề tài: Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình
 
pháp luật về trợ giúp pháp lý cho người nghèo và các đối tượng chính sách xã ...
pháp luật về trợ giúp pháp lý cho người nghèo và các đối tượng chính sách xã ...pháp luật về trợ giúp pháp lý cho người nghèo và các đối tượng chính sách xã ...
pháp luật về trợ giúp pháp lý cho người nghèo và các đối tượng chính sách xã ...
 
Luận văn: Bảo đảm quyền tố cáo của công dân tại Tp Đà Nẵng, 9đ
Luận văn: Bảo đảm quyền tố cáo của công dân tại Tp Đà Nẵng, 9đLuận văn: Bảo đảm quyền tố cáo của công dân tại Tp Đà Nẵng, 9đ
Luận văn: Bảo đảm quyền tố cáo của công dân tại Tp Đà Nẵng, 9đ
 
Luận án: Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về tư pháp, HAY
Luận án: Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về tư pháp, HAYLuận án: Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về tư pháp, HAY
Luận án: Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về tư pháp, HAY
 
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOTPháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
 
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của Phòng Tư pháp tại Phú Thọ
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của Phòng Tư pháp tại Phú ThọLuận văn: Tổ chức và hoạt động của Phòng Tư pháp tại Phú Thọ
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của Phòng Tư pháp tại Phú Thọ
 
Luận văn: Pháp luật về trợ giúp pháp lý cho người nghèo, HOT
Luận văn: Pháp luật về trợ giúp pháp lý cho người nghèo, HOTLuận văn: Pháp luật về trợ giúp pháp lý cho người nghèo, HOT
Luận văn: Pháp luật về trợ giúp pháp lý cho người nghèo, HOT
 
Luận văn: Quản lý nhà nước về luật sư tại tỉnh Tiền Giang, HAY
Luận văn: Quản lý nhà nước về luật sư tại tỉnh Tiền Giang, HAYLuận văn: Quản lý nhà nước về luật sư tại tỉnh Tiền Giang, HAY
Luận văn: Quản lý nhà nước về luật sư tại tỉnh Tiền Giang, HAY
 
phổ biến giáo dục pháp luật
phổ biến giáo dục pháp luật phổ biến giáo dục pháp luật
phổ biến giáo dục pháp luật
 
ĐÁNH GIÁ NHANH MÔI TRƯỜNG PHÁP LÝ VÀ CHÍNH SÁCH LIÊN QUAN ĐẾN TỪ THIỆN DOANH ...
ĐÁNH GIÁ NHANH MÔI TRƯỜNG PHÁP LÝ VÀ CHÍNH SÁCH LIÊN QUAN ĐẾN TỪ THIỆN DOANH ...ĐÁNH GIÁ NHANH MÔI TRƯỜNG PHÁP LÝ VÀ CHÍNH SÁCH LIÊN QUAN ĐẾN TỪ THIỆN DOANH ...
ĐÁNH GIÁ NHANH MÔI TRƯỜNG PHÁP LÝ VÀ CHÍNH SÁCH LIÊN QUAN ĐẾN TỪ THIỆN DOANH ...
 
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CƠ QUAN MẶT TRẬN TỔ QUỐC.docx
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CƠ QUAN MẶT TRẬN TỔ QUỐC.docxBÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CƠ QUAN MẶT TRẬN TỔ QUỐC.docx
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CƠ QUAN MẶT TRẬN TỔ QUỐC.docx
 

More from NuioKila

BÁO CÁO Kết quả tham vấn cộng đồng về tính hợp pháp của gỗ và các sản phẩm gỗ...
BÁO CÁO Kết quả tham vấn cộng đồng về tính hợp pháp của gỗ và các sản phẩm gỗ...BÁO CÁO Kết quả tham vấn cộng đồng về tính hợp pháp của gỗ và các sản phẩm gỗ...
BÁO CÁO Kết quả tham vấn cộng đồng về tính hợp pháp của gỗ và các sản phẩm gỗ...NuioKila
 
A study on common mistakes committed by Vietnamese learners in pronouncing En...
A study on common mistakes committed by Vietnamese learners in pronouncing En...A study on common mistakes committed by Vietnamese learners in pronouncing En...
A study on common mistakes committed by Vietnamese learners in pronouncing En...NuioKila
 
[123doc] - thu-nghiem-cai-tien-chi-tieu-du-bao-khong-khi-lanh-cac-thang-cuoi-...
[123doc] - thu-nghiem-cai-tien-chi-tieu-du-bao-khong-khi-lanh-cac-thang-cuoi-...[123doc] - thu-nghiem-cai-tien-chi-tieu-du-bao-khong-khi-lanh-cac-thang-cuoi-...
[123doc] - thu-nghiem-cai-tien-chi-tieu-du-bao-khong-khi-lanh-cac-thang-cuoi-...NuioKila
 
THỬ NGHIỆM CẢI TIẾN CHỈ TIÊU DỰ BÁO KHÔNG KHÍ LẠNH CÁC THÁNG CUỐI MÙA ĐÔNG BẰ...
THỬ NGHIỆM CẢI TIẾN CHỈ TIÊU DỰ BÁO KHÔNG KHÍ LẠNH CÁC THÁNG CUỐI MÙA ĐÔNG BẰ...THỬ NGHIỆM CẢI TIẾN CHỈ TIÊU DỰ BÁO KHÔNG KHÍ LẠNH CÁC THÁNG CUỐI MÙA ĐÔNG BẰ...
THỬ NGHIỆM CẢI TIẾN CHỈ TIÊU DỰ BÁO KHÔNG KHÍ LẠNH CÁC THÁNG CUỐI MÙA ĐÔNG BẰ...NuioKila
 
Nhu cầu lập pháp của hành pháp.pdf
Nhu cầu lập pháp của hành pháp.pdfNhu cầu lập pháp của hành pháp.pdf
Nhu cầu lập pháp của hành pháp.pdfNuioKila
 
KẾ HOẠCH DẠY HỌC CỦA TỔ CHUYÊN MÔN MÔN HỌC SINH HỌC - CÔNG NGHỆ.pdf
KẾ HOẠCH DẠY HỌC CỦA TỔ CHUYÊN MÔN MÔN HỌC SINH HỌC - CÔNG NGHỆ.pdfKẾ HOẠCH DẠY HỌC CỦA TỔ CHUYÊN MÔN MÔN HỌC SINH HỌC - CÔNG NGHỆ.pdf
KẾ HOẠCH DẠY HỌC CỦA TỔ CHUYÊN MÔN MÔN HỌC SINH HỌC - CÔNG NGHỆ.pdfNuioKila
 
KIẾN TRÚC BIỂU HIỆN TẠI VIỆT NAM.pdf
KIẾN TRÚC BIỂU HIỆN TẠI VIỆT NAM.pdfKIẾN TRÚC BIỂU HIỆN TẠI VIỆT NAM.pdf
KIẾN TRÚC BIỂU HIỆN TẠI VIỆT NAM.pdfNuioKila
 
QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG Y TẾ TỈNH NINH THUẬN.pdf
QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG Y TẾ TỈNH NINH THUẬN.pdfQUY HOẠCH PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG Y TẾ TỈNH NINH THUẬN.pdf
QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG Y TẾ TỈNH NINH THUẬN.pdfNuioKila
 
NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG BỘ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ...
NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG BỘ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ...NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG BỘ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ...
NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG BỘ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ...NuioKila
 
TIỂU LUẬN Phân tích các loại nguồn của luật tư La Mã và so sánh với các nguồn...
TIỂU LUẬN Phân tích các loại nguồn của luật tư La Mã và so sánh với các nguồn...TIỂU LUẬN Phân tích các loại nguồn của luật tư La Mã và so sánh với các nguồn...
TIỂU LUẬN Phân tích các loại nguồn của luật tư La Mã và so sánh với các nguồn...NuioKila
 
Nuevo enfoque de aprendizajesemi-supervisado para la identificaciónde secuenci...
Nuevo enfoque de aprendizajesemi-supervisado para la identificaciónde secuenci...Nuevo enfoque de aprendizajesemi-supervisado para la identificaciónde secuenci...
Nuevo enfoque de aprendizajesemi-supervisado para la identificaciónde secuenci...NuioKila
 
Inefficiency in engineering change management in kimberly clark VietNam co., ...
Inefficiency in engineering change management in kimberly clark VietNam co., ...Inefficiency in engineering change management in kimberly clark VietNam co., ...
Inefficiency in engineering change management in kimberly clark VietNam co., ...NuioKila
 
An Investigation into culrural elements via linguistic means in New Headway t...
An Investigation into culrural elements via linguistic means in New Headway t...An Investigation into culrural elements via linguistic means in New Headway t...
An Investigation into culrural elements via linguistic means in New Headway t...NuioKila
 
An evaluation of the translation of the film Rio based on Newmarks model.pdf
An evaluation of the translation of the film Rio based on Newmarks model.pdfAn evaluation of the translation of the film Rio based on Newmarks model.pdf
An evaluation of the translation of the film Rio based on Newmarks model.pdfNuioKila
 
Teachers and students views on grammar presentation in the course book Englis...
Teachers and students views on grammar presentation in the course book Englis...Teachers and students views on grammar presentation in the course book Englis...
Teachers and students views on grammar presentation in the course book Englis...NuioKila
 
11th graders attitudes towards their teachers written feedback.pdf
11th graders attitudes towards their teachers written feedback.pdf11th graders attitudes towards their teachers written feedback.pdf
11th graders attitudes towards their teachers written feedback.pdfNuioKila
 
Phân tích tài chính Công ty Cổ phần VIWACO.pdf
Phân tích tài chính Công ty Cổ phần VIWACO.pdfPhân tích tài chính Công ty Cổ phần VIWACO.pdf
Phân tích tài chính Công ty Cổ phần VIWACO.pdfNuioKila
 
Ngói Champa ở di tích Triền Tranh (Duy Xuyên Quảng Nam).pdf
Ngói Champa ở di tích Triền Tranh (Duy Xuyên Quảng Nam).pdfNgói Champa ở di tích Triền Tranh (Duy Xuyên Quảng Nam).pdf
Ngói Champa ở di tích Triền Tranh (Duy Xuyên Quảng Nam).pdfNuioKila
 
ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VẬN HÀNH LƯỚI ĐIỆN PHÂN PHỐI TÂY NAM ...
ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VẬN HÀNH LƯỚI ĐIỆN PHÂN PHỐI TÂY NAM ...ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VẬN HÀNH LƯỚI ĐIỆN PHÂN PHỐI TÂY NAM ...
ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VẬN HÀNH LƯỚI ĐIỆN PHÂN PHỐI TÂY NAM ...NuioKila
 
NGHIÊN CỨU THIẾT KẾ BỘ ĐIỀU KHIỂN MỜ NƠRON CHO LÒ ĐIỆN TRỞ SỬ DỤNG THUẬT TOÁN...
NGHIÊN CỨU THIẾT KẾ BỘ ĐIỀU KHIỂN MỜ NƠRON CHO LÒ ĐIỆN TRỞ SỬ DỤNG THUẬT TOÁN...NGHIÊN CỨU THIẾT KẾ BỘ ĐIỀU KHIỂN MỜ NƠRON CHO LÒ ĐIỆN TRỞ SỬ DỤNG THUẬT TOÁN...
NGHIÊN CỨU THIẾT KẾ BỘ ĐIỀU KHIỂN MỜ NƠRON CHO LÒ ĐIỆN TRỞ SỬ DỤNG THUẬT TOÁN...NuioKila
 

More from NuioKila (20)

BÁO CÁO Kết quả tham vấn cộng đồng về tính hợp pháp của gỗ và các sản phẩm gỗ...
BÁO CÁO Kết quả tham vấn cộng đồng về tính hợp pháp của gỗ và các sản phẩm gỗ...BÁO CÁO Kết quả tham vấn cộng đồng về tính hợp pháp của gỗ và các sản phẩm gỗ...
BÁO CÁO Kết quả tham vấn cộng đồng về tính hợp pháp của gỗ và các sản phẩm gỗ...
 
A study on common mistakes committed by Vietnamese learners in pronouncing En...
A study on common mistakes committed by Vietnamese learners in pronouncing En...A study on common mistakes committed by Vietnamese learners in pronouncing En...
A study on common mistakes committed by Vietnamese learners in pronouncing En...
 
[123doc] - thu-nghiem-cai-tien-chi-tieu-du-bao-khong-khi-lanh-cac-thang-cuoi-...
[123doc] - thu-nghiem-cai-tien-chi-tieu-du-bao-khong-khi-lanh-cac-thang-cuoi-...[123doc] - thu-nghiem-cai-tien-chi-tieu-du-bao-khong-khi-lanh-cac-thang-cuoi-...
[123doc] - thu-nghiem-cai-tien-chi-tieu-du-bao-khong-khi-lanh-cac-thang-cuoi-...
 
THỬ NGHIỆM CẢI TIẾN CHỈ TIÊU DỰ BÁO KHÔNG KHÍ LẠNH CÁC THÁNG CUỐI MÙA ĐÔNG BẰ...
THỬ NGHIỆM CẢI TIẾN CHỈ TIÊU DỰ BÁO KHÔNG KHÍ LẠNH CÁC THÁNG CUỐI MÙA ĐÔNG BẰ...THỬ NGHIỆM CẢI TIẾN CHỈ TIÊU DỰ BÁO KHÔNG KHÍ LẠNH CÁC THÁNG CUỐI MÙA ĐÔNG BẰ...
THỬ NGHIỆM CẢI TIẾN CHỈ TIÊU DỰ BÁO KHÔNG KHÍ LẠNH CÁC THÁNG CUỐI MÙA ĐÔNG BẰ...
 
Nhu cầu lập pháp của hành pháp.pdf
Nhu cầu lập pháp của hành pháp.pdfNhu cầu lập pháp của hành pháp.pdf
Nhu cầu lập pháp của hành pháp.pdf
 
KẾ HOẠCH DẠY HỌC CỦA TỔ CHUYÊN MÔN MÔN HỌC SINH HỌC - CÔNG NGHỆ.pdf
KẾ HOẠCH DẠY HỌC CỦA TỔ CHUYÊN MÔN MÔN HỌC SINH HỌC - CÔNG NGHỆ.pdfKẾ HOẠCH DẠY HỌC CỦA TỔ CHUYÊN MÔN MÔN HỌC SINH HỌC - CÔNG NGHỆ.pdf
KẾ HOẠCH DẠY HỌC CỦA TỔ CHUYÊN MÔN MÔN HỌC SINH HỌC - CÔNG NGHỆ.pdf
 
KIẾN TRÚC BIỂU HIỆN TẠI VIỆT NAM.pdf
KIẾN TRÚC BIỂU HIỆN TẠI VIỆT NAM.pdfKIẾN TRÚC BIỂU HIỆN TẠI VIỆT NAM.pdf
KIẾN TRÚC BIỂU HIỆN TẠI VIỆT NAM.pdf
 
QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG Y TẾ TỈNH NINH THUẬN.pdf
QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG Y TẾ TỈNH NINH THUẬN.pdfQUY HOẠCH PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG Y TẾ TỈNH NINH THUẬN.pdf
QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG Y TẾ TỈNH NINH THUẬN.pdf
 
NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG BỘ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ...
NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG BỘ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ...NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG BỘ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ...
NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG BỘ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ...
 
TIỂU LUẬN Phân tích các loại nguồn của luật tư La Mã và so sánh với các nguồn...
TIỂU LUẬN Phân tích các loại nguồn của luật tư La Mã và so sánh với các nguồn...TIỂU LUẬN Phân tích các loại nguồn của luật tư La Mã và so sánh với các nguồn...
TIỂU LUẬN Phân tích các loại nguồn của luật tư La Mã và so sánh với các nguồn...
 
Nuevo enfoque de aprendizajesemi-supervisado para la identificaciónde secuenci...
Nuevo enfoque de aprendizajesemi-supervisado para la identificaciónde secuenci...Nuevo enfoque de aprendizajesemi-supervisado para la identificaciónde secuenci...
Nuevo enfoque de aprendizajesemi-supervisado para la identificaciónde secuenci...
 
Inefficiency in engineering change management in kimberly clark VietNam co., ...
Inefficiency in engineering change management in kimberly clark VietNam co., ...Inefficiency in engineering change management in kimberly clark VietNam co., ...
Inefficiency in engineering change management in kimberly clark VietNam co., ...
 
An Investigation into culrural elements via linguistic means in New Headway t...
An Investigation into culrural elements via linguistic means in New Headway t...An Investigation into culrural elements via linguistic means in New Headway t...
An Investigation into culrural elements via linguistic means in New Headway t...
 
An evaluation of the translation of the film Rio based on Newmarks model.pdf
An evaluation of the translation of the film Rio based on Newmarks model.pdfAn evaluation of the translation of the film Rio based on Newmarks model.pdf
An evaluation of the translation of the film Rio based on Newmarks model.pdf
 
Teachers and students views on grammar presentation in the course book Englis...
Teachers and students views on grammar presentation in the course book Englis...Teachers and students views on grammar presentation in the course book Englis...
Teachers and students views on grammar presentation in the course book Englis...
 
11th graders attitudes towards their teachers written feedback.pdf
11th graders attitudes towards their teachers written feedback.pdf11th graders attitudes towards their teachers written feedback.pdf
11th graders attitudes towards their teachers written feedback.pdf
 
Phân tích tài chính Công ty Cổ phần VIWACO.pdf
Phân tích tài chính Công ty Cổ phần VIWACO.pdfPhân tích tài chính Công ty Cổ phần VIWACO.pdf
Phân tích tài chính Công ty Cổ phần VIWACO.pdf
 
Ngói Champa ở di tích Triền Tranh (Duy Xuyên Quảng Nam).pdf
Ngói Champa ở di tích Triền Tranh (Duy Xuyên Quảng Nam).pdfNgói Champa ở di tích Triền Tranh (Duy Xuyên Quảng Nam).pdf
Ngói Champa ở di tích Triền Tranh (Duy Xuyên Quảng Nam).pdf
 
ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VẬN HÀNH LƯỚI ĐIỆN PHÂN PHỐI TÂY NAM ...
ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VẬN HÀNH LƯỚI ĐIỆN PHÂN PHỐI TÂY NAM ...ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VẬN HÀNH LƯỚI ĐIỆN PHÂN PHỐI TÂY NAM ...
ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VẬN HÀNH LƯỚI ĐIỆN PHÂN PHỐI TÂY NAM ...
 
NGHIÊN CỨU THIẾT KẾ BỘ ĐIỀU KHIỂN MỜ NƠRON CHO LÒ ĐIỆN TRỞ SỬ DỤNG THUẬT TOÁN...
NGHIÊN CỨU THIẾT KẾ BỘ ĐIỀU KHIỂN MỜ NƠRON CHO LÒ ĐIỆN TRỞ SỬ DỤNG THUẬT TOÁN...NGHIÊN CỨU THIẾT KẾ BỘ ĐIỀU KHIỂN MỜ NƠRON CHO LÒ ĐIỆN TRỞ SỬ DỤNG THUẬT TOÁN...
NGHIÊN CỨU THIẾT KẾ BỘ ĐIỀU KHIỂN MỜ NƠRON CHO LÒ ĐIỆN TRỞ SỬ DỤNG THUẬT TOÁN...
 

Recently uploaded

TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANG
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANGPHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANG
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANGhoinnhgtctat
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...Nguyen Thanh Tu Collection
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docxTHAO316680
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdfTrnHoa46
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfVyTng986513
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoámyvh40253
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfTrnHoa46
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxpowerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxAnAn97022
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 

Recently uploaded (20)

TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANG
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANGPHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANG
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANG
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxpowerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 

Pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdf

  • 1. 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ MẬN PHÁP LUẬT VỀ QUỸ TRỢ GIÚP PHÁP LÝ Ở VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà nội - 2013
  • 2. 2 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ MẬN PHÁP LUẬT VỀ QUỸ TRỢ GIÚP PHÁP LÝ Ở VIỆT NAM Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật Mã số : 60 38 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Đặng Minh Tuấn HÀ NỘI - 2013
  • 3. 3 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt MỞ ĐẦU 1 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN ĐỐI VỚI VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUỸ TRỢ GIÚP PHÁP LÝ Ở VIỆT NAM 8 1.1. Khái quát về trợ giúp pháp lý và Quỹ trợ giúp pháp lý Việt Nam 8 1.1.1. Khái niệm trợ giúp pháp lý 8 1.1.2. Khái niệm Quỹ trợ giúp pháp lý Việt Nam 19 1.2. Khái quát pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam 22 1.2.1. Khái niệm pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam 22 1.2.2. Đặc điểm pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam 24 1.3. Pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý của một số nước trên thế giới 25 1.3.1. Quỹ trợ giúp pháp lý Trung Quốc 25 1.3.2. Quỹ trợ giúp pháp lý Mỹ 27 1.3.3. Quỹ trợ giúp pháp lý Đài Loan 31 Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ QUỸ TRỢ GIÚP PHÁP LÝ VIỆT NAM 36 2.1. Thực trạng vị trí pháp lý của Quỹ trợ giúp pháp lý Việt Nam 36 2.2. Thực trạng pháp luật về tổ chức của Quỹ trợ giúp pháp lý Việt Nam 40 2.2.1. Tổ chức bộ máy của Quỹ trợ giúp pháp lý Việt Nam 40
  • 4. 4 2.2.2. Mối quan hệ công tác, phối hợp của Quỹ trợ giúp pháp lý Việt Nam 44 2.3. Thực trạng pháp luật về hoạt động của Quỹ trợ giúp pháp lý Việt Nam 45 2.3.1. Hoạt động thu, chi của Quỹ trợ giúp pháp lý Việt Nam 45 2.3.2. Hoạt động quản lý tài chính của Quỹ Trợ giúp pháp lý Việt Nam 56 2.3.4. Hoạt động vận động tài trợ cho Quỹ Trợ giúp pháp lý Việt Nam 60 2.4. Một số nguyên nhân ảnh hưởng đến tổ chức và hoạt động của Quỹ trợ giúp pháp lý Việt Nam 61 Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUỸ TRỢ GIÚP PHÁP LÝ VIỆT NAM 64 3.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam 64 3.1.1. Quan điểm xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam 64 3.1.2. Quan điểm về cải cách hành chính và cải cách tư pháp 66 3.1.3. Quan điểm về phát triển trợ giúp pháp lý bền vững 67 3.1.4. Quan điểm xã hội hóa hoạt động trợ giúp pháp lý 68 3.1.5. Quan điểm hội nhập tương thích với các nước trong khu vực và trên thế giới 71 3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam 72 3.2.1. Hoàn thiện pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý Việt Nam 72 3.2.2. Hoàn thiện về tổ chức, bộ máy của Quỹ trợ giúp pháp lý Việt Nam 77 3.2.3. Hoàn thiện về các hoạt động của Quỹ trợ giúp pháp lý Việt Nam 80 KẾT LUẬN 85 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 88 PHỤ LỤC 93
  • 5. 5 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TGPL : Trợ giúp pháp lý XHCN : Xã hội chủ nghĩa
  • 6. 6 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hoạt động trợ giúp pháp lý (TGPL) ở Việt Nam ra đời từ năm 1997 được xác định là việc cung cấp các dịch vụ pháp lý không thu phí cho người được TGPL (là những người có hoàn cảnh đặc biệt như: người nghèo, người có công với cách mạng, người khuyết tật, người dân tộc thiểu số...) nhằm giúp họ bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật, đồng thời, góp phần phổ biến, giáo dục pháp luật, bảo đảm công bằng xã hội, phòng ngừa, hạn chế tranh chấp và vi phạm pháp luật. Hoạt động TGPL được xác định là trách nhiệm trước hết thuộc về Nhà nước, khuyến khích, thu hút sự tham gia đóng góp của xã hội và một trong những nguyên tắc cơ bản của hoạt động TGPL là không thu phí, lệ phí hay bất cứ một khoản thù lao nào từ người được TGPL. Vì vậy, ngay từ khi mới thành lập, ngoài ngân sách nhà nước cấp, hệ thống TGPL đã nhận được sự quan tâm, tài trợ, viện trợ, đóng góp đáng kể của các tổ chức quốc tế. Để quản lý và sử dụng hiệu quả nguồn kinh phí cho hoạt động TGPL cần phải có một tổ chức chịu trách nhiệm trong việc tiếp nhận, phân phối, điều tiết nguồn kinh phí hỗ trợ đó cho các hoạt động TGPL trong toàn quốc nhằm bảo đảm đúng đối tượng, đúng mục đích và được sử dụng hiệu quả, thúc đẩy hoạt động TGPL phát triển. Chẳng hạn, những địa phương khó khăn về kinh tế (thu không đủ chi hoặc gặp thiên tai đột xuất), không thể bảo đảm đủ kinh phí cấp cho hoạt động TGPL, ảnh hưởng đến hiệu quả của hoạt động này thì các địa phương này có thể nhận được sự hỗ trợ về tài chính từ tổ chức này. Thực tế cho thấy, TGPL chính là một loại hình dịch vụ pháp lý công nhằm đáp ứng nhu cầu TGPL của những người yếu thế, hạn chế về điều kiện tiếp cận, khả năng nhận thức và sử dụng pháp luật. Việc đáp ứng nhu cầu TGPL của mọi đối tượng ở các địa phương phải bình đẳng, công bằng và
  • 7. 7 khách quan, tổ chức thực hiện TGPL không được phép từ chối trợ giúp cho các đối tượng có nhu cầu nếu đủ điều kiện theo quy định của pháp luật, không kể đó là tổ chức ở địa phương "giàu" hay "nghèo". Nhóm người được TGPL thường tập trung nhiều ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, miền núi. Tuy nhiên, ngân sách các vùng này lại hết sức hạn hẹp, rất cần sự hỗ trợ từ ngân sách Trung ương, trong khi ngân sách nhà nước nói chung (trong đó có ngân sách Trung ương) còn hạn chế, không thể đáp ứng kịp thời và đầy đủ các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, vì vậy, ngân sách dành cho hoạt động TGPL lại càng ít hơn. Để đáp ứng được những yêu cầu này, tổ chức tài chính trong lĩnh vực TGPL nêu trên còn có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm việc phát triển đồng bộ của hệ thống TGPL trên toàn quốc, cân bằng giữa các vùng, miền trong việc thực hiện chính sách về TGPL của Đảng, Nhà nước, bảo đảm cho mọi người dân thuộc diện được TGPL có thể tiếp cận và thụ hưởng bình đẳng loại hình dịch vụ công này. Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn trên, Quỹ TGPL Việt Nam đã được nghiên cứu, thành lập theo Quyết định số 258/2002/QĐ-BTP ngày 10/7/2002 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp nhằm hỗ trợ tài chính cho hoạt động TGPL miễn phí cho một số đối tượng theo quy định của pháp luật trong phạm vi cả nước. Thực hiện Luật và Nghị định số 07/2007/NĐ-CP của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 84/2008/QĐ-TTg ngày 30/6/2008 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập Quỹ TGPL Việt Nam, ngày 08/12/2008, Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của Quỹ TGPL Việt Nam. Tuy nhiên, sau hơn 10 năm thành lập và đi vào hoạt động, Quỹ TGPL Việt Nam đã bộc lộ những hạn chế, vướng mắc cần phải nghiên cứu một cách toàn diện và đầy đủ về địa vị pháp lý, về tổ chức, bộ máy và pháp luật về Quỹ... Trong bối cảnh Việt Nam tuyên bố thoát khỏi danh sách các nước nghèo, các nguồn tài trợ, viện trợ của các quốc gia, tổ chức quốc tế cho hoạt động TGPL Việt Nam đã bị cắt giảm đáng kể, gây ra sự "hẫng hụt" rõ nét về kinh phí triển khai các hoạt động TGPL, rất cần thiết Quỹ TGPL Việt Nam
  • 8. 8 phải huy động được các nguồn hỗ trợ, đóng góp của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước cho hoạt động TGPL thì vai trò này thực hiện chưa hiệu quả. Vì vậy, mục đích của Quỹ chưa đạt được, ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động TGPL. Một trong những nguyên nhân quan trọng của tình trạng trên là do pháp luật về Quỹ TGPL Việt Nam chưa hoàn thiện, quy định chưa đầy đủ, còn chồng chéo, mẫu thuẫn. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài "Pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam" là yêu cầu khách quan, cần thiết cả về phương diện lý luận và thực tiễn nhằm xác định rõ, đúng mức vị trí, vai trò của Quỹ và nâng cao hiệu quả, phát triển hoạt động Quỹ TGPL Việt Nam, góp phần bảo đảm cho hoạt động TGPL phát triển bền vững theo định hướng của chiến lược phát triển TGPL ở Việt Nam đến năm 2020 định hướng đến năm 2030. 2. Tình hình nghiên cứu Trợ giúp pháp lý là nhiệm vụ quan trọng hệ thống chính trị trong đó ngành Tư pháp giữ vai trò trung tâm. Việc ban hành chính sách TGPL và triển khai chính sách này trên thực tế đã thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước đối với người nghèo và đối tượng chính sách trên phương diện pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, đánh dấu bước phát triển vượt bậc của công cuộc xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam - xóa đói giảm nghèo về cả vật chất và tinh thần, tạo điều kiện cho người chịu thiệt thòi trong xã hội được bình đẳng tiếp cận với pháp luật, công bằng trước pháp luật. Đến nay, đã có một số đề tài nghiên cứu tiến sĩ, thạc sĩ, đề tài cấp Bộ và các bài báo, tạp chí, chuyên đề nghiên cứu làm sáng tỏ các vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến lĩnh vực TGPL, cụ thể như sau: Luận án Tiến sĩ "Điều chỉnh pháp luật về trợ giúp pháp lý ở Việt Nam trong điều kiện đổi mới", của Tạ Thị Minh Lý. Luận án đã tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận, pháp lý của điều chỉnh pháp luật và điều chỉnh pháp luật về TGPL; thực trạng điều chỉnh pháp luật về TGPL và phương hướng hoàn thiện việc điều chỉnh pháp luật về TGPL trong điều kiện đổi mới.
  • 9. 9 Luận văn Thạc sĩ: "Hoàn thiện pháp luật về người thực hiện trợ giúp pháp lý ở Việt Nam", của Vũ Hồng Tuyến. Luận văn tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận, pháp lý và thực tiễn về người thực hiện TGPL, từ đó có các giải pháp xây dựng và hoàn thiện pháp luật về người thực hiện TGPL. Luận văn Thạc sĩ "Hoàn thiện các hình thức tiếp cận pháp luật của người nghèo ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay", của Đỗ Xuân Lân. Luận văn tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận, thực trạng các hình thức tiếp cận pháp luật của người nghèo ở Việt Nam, các giải pháp nhằm bảo đảm cho người nghèo ở Việt Nam luôn được tiếp cận pháp luật. Luận văn Thạc sĩ "Bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý", của Phan Thị Thu Hà. Luận văn tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về quyền được TGPL và các giải pháp nhằm bảo đảm quyền được TGPL của người dân. Luận văn Thạc sĩ "Phát triển trợ giúp pháp lý ở cơ sở", của Đặng Thị Loan. Luận văn tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận, thực tiễn về các mô hình TGPL ở cơ sở và đưa ra các giải pháp để phát triển mô hình TGPL ở cơ sở. Luận văn Thạc sĩ "Chất lượng hoạt động trợ giúp pháp lý ở Việt Nam", của Phạm Quang Đại. Luận văn đã nghiên cứu lý luận và thực tiễn vấn đề chất lượng hoạt động TGPL cũng như làm rõ thực trạng chất lượng TGPL hiện nay và quan điểm, giải pháp nâng cao chất lượng TGPL Các công trình trên đã nghiên cứu các mặt, khía cạnh khác nhau của hoạt động TGPL. Tuy nhiên, vấn đề pháp luật về Quỹ TGPL ở Việt Nam đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện và tổng thể về lý luận và thực tiễn. Vì vậy, với đề tài "Pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam", tác giả luận văn đi sâu phân tích làm sáng tỏ các vấn đề lý luận và thực tiễn, thực trạng pháp luật điều chỉnh về Quỹ TGPL Việt Nam và tìm ra giải pháp, định hướng hoàn thiện pháp luật về Quỹ TGPL Việt Nam trong
  • 10. 10 thời gian tới là hết sức cần thiết, tạo cơ sở pháp lý để kiện toàn, nâng cao vị trí, vai trò và năng lực của Quỹ, đáp ứng sự phát triển của hệ thống TGPL. 3. Mục tiêu nghiên cứu Luận văn tập trung làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về pháp luật về Quỹ TGPL ở Việt Nam, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp, định hướng hoàn thiện pháp luật nhằm xác định rõ vị trí pháp lý, vai trò và nâng cao hiệu quả hoạt động của Quỹ TGPL Việt Nam. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn có nhiệm vụ nghiên cứu các nội dung sau đây: - Các khái niệm, đặc điểm của TGPL, Quỹ TGPL Việt Nam. - Phân tích, đánh giá thực trạng các quy định pháp luật điều chỉnh về Quỹ TGPL Việt Nam trong thời gian qua, phát hiện những hạn chế, khó khăn, vướng mắc, bất cập và nguyên nhân để có giải pháp hoàn thiện. - Trên cơ sở các yêu cầu khách quan, những quan điểm, đề xuất các giải pháp cụ thể có tính khả thi trên thực tế nhằm hoàn thiện pháp luật về Quỹ TGPL để nâng cao vị trí, vai trò của Quỹ TGPL Việt Nam trong thời gian tới. 5. Phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận, thực tiễn về pháp luật điều chỉnh toàn diện về vị trí pháp lý tổ chức và hoạt động của Quỹ TGPL Việt Nam trên cơ sở nghiên cứu chung về mô hình Quỹ, nghiên cứu đặc thù về mô hình Quỹ TGPL ở Việt Nam theo quy định của pháp luật hiện hành, xác định các quan điểm, yêu cầu phát triển Quỹ TGPL Việt Nam làm căn cứ đề ra giải pháp hoàn thiện pháp luật về Quỹ để đáp ứng các yêu cầu về mặt lý luận và thực tiễn của Quỹ. Phạm vi nghiên cứu toàn bộ những vấn đề về Quỹ TGPL Việt Nam thuộc Cục TGPL, Bộ Tư pháp.
  • 11. 11 6. Phương pháp nghiên cứu - Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, những quan điểm của Đảng, quan điểm khoa học về hoạt động tư pháp nói chung và hoạt động TGPL nói riêng. - Trong quá trình nghiên cứu, luận văn sử dụng phương pháp luận của triết học Mác - Lê nin là phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đồng thời sử dụng các phương pháp hệ thống, phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng phương pháp khai thác và sử dụng các tư liệu thực tiễn để hoàn chỉnh luận văn. 7. Đóng góp của luận văn Luận văn có ý nghĩa thiết thực cả về phương diện lý luận cũng như phương diện thực tiễn. Luận văn nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống về cơ sở lý luận, pháp lý về TGPL và tổ chức, hoạt động của Quỹ TGPL Việt Nam nhằm xác định rõ vị trí, vai trò, ý nghĩa của Quỹ đối với hệ thống TGPL; đánh giá được mức độ điều chỉnh của pháp luật về tổ chức và hoạt động của Quỹ TGPL Việt Nam trong thời gian qua, phát hiện những khó khăn, hạn chế, tồn tại làm ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của Quỹ mà gián tiếp là mức độ đáp ứng về tài chính của Quỹ đối với toàn bộ hệ thống TGPL của Việt Nam; từ đó cho thấy sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật làm "động lực" tạo sự thay đổi, biến chuyển rõ nét về tổ chức của Quỹ cũng như chức năng, nhiệm vụ và các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của Quỹ TGPL. Luận văn có thể phục vụ cho việc nghiên cứu, tìm hiểu về cơ chế huy động các nguồn lực cho hoạt động TGPL ở Việt Nam và là tài liệu tham khảo cho việc xây dựng chính sách phát triển bền vững hoạt động TGPL trong thời gian tới. Luận văn phải mang tính thực tiễn và có tính khả thi nhằm giải quyết được những tồn tại cũng như kiến nghị những vấn đề cần khắc phục.
  • 12. 12 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận về trợ giúp pháp lý và pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý Việt Nam. Chương 2: Thực trạng pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam. Chương 3: Quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.
  • 13. 13 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN ĐỐI VỚI VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUỸ TRỢ GIÚP PHÁP LÝ Ở VIỆT NAM 1.1. KHÁI QUÁT VỀ TRỢ GIÚP PHÁP LÝ VÀ QUỸ TRỢ GIÚP PHÁP LÝ VIỆT NAM 1.1.1. Khái niệm trợ giúp pháp lý Thuật ngữ "Trợ giúp pháp lý" được sử dụng phổ biến trên thế giới từ giữa thế kỷ XIX và xuất phát từ tiếng Anh là: Legal aid. Theo Từ điển Anh - Việt "Legal aid" được dịch là "Trợ cấp pháp lý" [32]. Ngoài ra, trong một số tài liệu khác dịch "Legal aid" là "hỗ trợ pháp luật", "hỗ trợ pháp lý" hoặc "hỗ trợ tư pháp"..., như vậy, bản chất là một nhưng hiện đang có rất nhiều sách, báo… có cách dịch khác nhau, sử dụng thuật ngữ khác nhau về vấn đề này. Ở Việt Nam thuật ngữ"Trợ giúp pháp lý" đang được sử dụng chính thức trong các văn bản pháp luật và sách báo, nó thể hiện rõ bản chất, nội dung và hình thức hoạt động của loại dịch vụ pháp lý miễn phí ở Việt Nam. Ở các nước trên thế giới, hoạt động TGPL cho người nghèo, người yếu thế bắt đầu hình thành và phát triển cùng với sự ra đời và phát triển của Nhà nước tư sản và được coi là chức năng xã hội của nhà nước, là một trong những tiêu chí bảo vệ quyền con người của nhà nước pháp quyền. Mô hình tổ chức và hoạt động TGPL trên thế giới đang rất phong phú và đa dạng, có nhiều đặc thù do phụ thuộc vào điều kiện phát triển kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia. Nhiều quốc gia đã có Chiến lược phát triển TGPL như Canada, Mỹ, Úc… nhưng chưa có một văn bản nào mang tầm quốc tế về TGPL nên chưa có quan niệm chung, thống nhất về TGPL trên thế giới. Do có nhiều mô hình TGPL, với những quan niệm khác nhau về đối tượng, phạm vi, phương thức và chi phí TGPL trên thế giới, nên ở mỗi nước
  • 14. 14 đều có quan niệm riêng của mình và được nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau, nhưng nói chung các khái niệm của các nước đều thể hiện tính chính trị- pháp lý, nghề nghiệp, nhân đạo và tính kinh tế của hoạt động TGPL. Chẳng hạn, dưới góc độ kinh tế mang tính nhân đạo, ở một số nước (như Đức) quan niệm TGPL là giúp đỡ một phần hoặc toàn bộ tài chính cho những người không có khả năng thanh toán cho các chi phí về tư vấn pháp luật, đại diện hoặc bào chữa trước tòa án. Dưới góc độ pháp lý, theo pháp luật của Anh và xứ Wales thì TGPL là giúp đỡ pháp lý cho những người không có khả năng chi trả cho việc tư vấn, hỗ trợ và đại diện pháp lý. Điều 2 Đạo luật về đại diện và tư vấn pháp lý 1995 của Singapore và Đạo luật số 26 của Malaysia về bảo trợ tư pháp năm 1971 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 1992) cũng giải thích TGPL theo nội hàm này. Nhìn dưới góc độ mục đích của hoạt động TGPL, người Úc cho rằng TGPL là sự giúp đỡ cho một người có được hoàn cảnh và điều kiện tương tự như người khác trong việc tiếp cận với pháp luật, tức là tạo ra sự công bằng khi tiếp cận với pháp luật [42]. Dưới góc độ chính trị, Mỹ, Trung Quốc, Nga… cho TGPL là giải pháp yên lòng nhóm yếu thế, bần cùng, sử dụng pháp luật làm công cụ để bảo vệ, nâng đỡ để tự tin, tự bảo vệ và vỗ về… Nói chung, tính chính trị của TGPL thể hiện ở góc độ bảo đảm gỡ rối và giải tỏa điểm nóng khiếu kiện; tính kinh tế thể hiện ở chỗ giúp đỡ cho đối tượng không có khả năng thanh toán cho các chi phí khi tiếp cận với dịch vụ pháp lý; tính pháp lý của TGPL thể hiện ở chỗ giúp đỡ đối tượng giải quyết các vụ, việc có liên quan đến pháp luật (luật nội dung và luật hình thức...); tính nhân đạo thể hiện ở góc độ đối tượng yếu thế trong xã hội được giúp đỡ theo cơ chế không phải hoàn trả lệ phí. Như vậy, khái niệm TGPL được quy định trong văn bản pháp luật của các nước nêu trên về cơ bản đều tương đối đồng nhất khi cho rằng TGPL là hoạt động giúp đỡ pháp luật cho người nghèo, người không có điều kiện về kinh tế để chi trả cho các dịch vụ pháp lý.
  • 15. 15 Trên cơ sở nghiên cứu những kinh nghiệm xây dựng tổ chức và hoạt động TGPL của các nước trên thế giới đã có từ hàng trăm năm nay và thực tiễn hoạt động TGPL ở Việt Nam trong thời gian qua, chúng ta có thể đưa ra quan niệm chung về TGPL một cách đầy đủ, thể hiện những đặc trưng cơ bản của nó. Theo quan niệm chung hiện nay thì TGPL hiểu là sự giúp đỡ pháp lý miễn phí của Nhà nước và xã hội cho người nghèo, người có công với đất nước và các đối tượng khác theo quy định của pháp luật tiếp cận với các dịch vụ pháp lý (tư vấn pháp luật, đại diện, bào chữa, hòa giải...), nhằm bảo đảm cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật và thực hiện công bằng xã hội. Việc thành lập tổ chức TGPL ở Việt Nam năm 1997 là xuất phát từ chính những nguyên tắc Hiến định chủ quyền thuộc về nhân dân, mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật và bản chất của Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân. Thuật ngữ "trợ giúp pháp lý" được sử dụng trong các sách, báo từ năm 1995, khi bắt đầu có nghiên cứu xây dựng Đề án hình thành hệ thống TGPL ở Việt Nam và đã được sử dụng chính thức trong Quyết định số 734/QĐ-TTg ngày 06/9/1997 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập tổ chức TGPL cho người nghèo và đối tượng chính sách. Đến nay, hệ thống văn bản pháp luật đề cập khá nhiều đến thuật ngữ "trợ giúp pháp lý". Theo quy định tại Điều 3 Luật TGPL năm 2006 thì khái niệm TGPL được định nghĩa như sau: Trợ giúp pháp lý là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được trợ giúp pháp lý giúp họ bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật; góp phần bảo vệ công lý, bảo đảm công bằng xã hội, phòng ngừa, hạn chế tranh chấp và vi phạm pháp luật [40]. Có thể khẳng định rằng, khái niệm về TGPL ở Việt Nam theo quy định của Luật TGPL năm 2006 đã bao quát đầy đủ nội hàm của TGPL.
  • 16. 16 Đặc điểm trợ giúp pháp lý Đặc điểm của hoạt động TGPL bao gồm: chủ thể thực hiện, đối tượng phục vụ, nguyên tắc hoạt động, hình thức thực hiện TGPL, phương thức TGPL, lĩnh vực TGPL, cụ thể như sau: - Chủ thể thực hiện: Theo nghĩa rộng, chủ thể thực hiện TGPL gồm Nhà nước và xã hội; theo nghĩa hẹp thì chủ thể thực hiện TGPL là các tổ chức của Nhà nước (được giao nhiệm vụ thực hiện TGPL mà cụ thể là người thực hiện TGPL của Nhà nước) và các tổ chức xã hội hoặc cá nhân tự nguyện tham gia TGPL. Hiện nay, ở Việt Nam, theo quy định pháp luật hiện hành chủ thể thực hiện TGPL bao gồm: Trung tâm TGPL nhà nước thông qua người thực hiện TGPL là trợ giúp viên pháp lý và cộng tác viên TGPL (cộng tác viên là luật sư và cộng tác viên không phải là luật sư); các tổ chức đăng ký tham gia TGPL (Văn phòng luật sư, Công ty luật, Trung tâm tư vấn pháp luật thuộc các tổ chức chính trị - xã hội, chính trị xã hội - nghề nghiệp, xã hội - nghề nghiệp) thông qua các luật sư, tư vấn viên pháp luật thuộc các tổ chức này. Các chủ thể trên trực tiếp tham gia vào việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí thông qua các vụ việc TGPL cụ thể. Ngoài ra, còn có chủ thể khác tham gia vào một hoặc một số hoạt động TGPL mà không phải trực tiếp cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí như: Ủy ban nhân dân cấp huyện, xã, Phòng Tư pháp, cán bộ Tư pháp - Hộ tịch, cơ quan báo, đài phát thanh, truyền hình tham gia TGPL lưu động; thành viên Ban chủ nhiệm Câu lạc bộ TGPL; cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phối hợp trong việc giải thích quyền được TGPL và cung cấp các thông tin TGPL cho các đương sự… - Đối tượng phục vụ của hoạt động TGPL là người được hưởng các dịch vụ TGPL miễn phí. Xuất phát từ mục đích, ý nghĩa và tính chất của hoạt động TGPL, không phải tất cả mọi người dân đều được hưởng dịch vụ TGPL mà chỉ nhóm yếu thế mới được hưởng dịch vụ này. Người được TGPL theo quy định tại Điều 10 của Luật TGPL bao gồm:
  • 17. 17 Người nghèo là người thuộc hộ nghèo được xác định theo chuẩn nghèo do Thủ tướng Chính phủ ban hành trong từng giai đoạn. Hiện nay, hộ nghèo đang áp dụng theo Quyết định số 09/2011/QĐ-TTg ngày 30/01/2011 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2011- 2015 thì hộ nghèo là những hộ có mức thu nhập bình quân đầu người dưới 400.000 đ/người/tháng ở nông thôn và 500.000 đồng trở xuống ở thành thị. Hộ nghèo được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận hộ nghèo (sổ hộ nghèo) để họ được hưởng các chính sách ưu đãi của nhà nước [21]. Người có công với cách mạng theo Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng năm 2005 và đã được sửa đổi, bổ sung năm 2012 bao gồm những người sau: + Người hoạt động cách mạng trước ngày 01 tháng 01 năm 1945; người hoạt động cách mạng từ ngày 01 tháng 01 năm 1945 đến ngày khởi nghĩa tháng Tám năm 1945; + Liệt sĩ; + Bà mẹ Việt Nam anh hùng; Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, Anh hùng Lao động trong thời kỳ kháng chiến; + Thương binh, người hưởng chính sách như thương binh; Bệnh binh; + Người hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế; người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học; + Người hoạt động cách mạng, hoạt động kháng chiến bị địch bắt tù, đày; + Người có công giúp đỡ cách mạng bao gồm: Người được tặng Kỷ niệm chương "Tổ quốc ghi công" hoặc Bằng "Có công với nước"; người trong gia đình được tặng Kỷ niệm chương "Tổ quốc ghi công" hoặc Bằng "Có công với nước" trước Cách mạng tháng Tám năm 1945; người được tặng Huân chương kháng chiến hoặc Huy chương kháng chiến và người trong gia đình được tặng Huân chương kháng chiến hoặc Huy chương kháng chiến [45].
  • 18. 18 Người già cô đơn không nơi nương tựa là những người từ 60 tuổi trở lên, sống một mình và không có người chăm sóc, phụng dưỡng. Người tàn tật không nơi nương tựa là người bị khiếm khuyết một hay nhiều bộ phận cơ thể hoặc chức năng biểu hiện dưới những dạng tật khác nhau, làm suy giảm khả năng hoạt động, khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp nhiều khó khăn, người bị nhiễm chất độc hóa học, bị nhiễm HIV hoặc các bệnh khác làm mất khả năng dân sự mà không có ai nuôi dưỡng, chăm sóc. Trẻ em không nơi nương tựa là người dưới mười sáu tuổi, không có gia đình hoặc bị gia đình bỏ rơi, tự kiếm sống hoặc có hoàn cảnh không bình thường về thể chất hoặc tinh thần, không đủ điều kiện để thực hiện các quyền cơ bản và hòa nhập với gia đình, cộng đồng. Người dân tộc thiểu số thường trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn theo quy định của Chính phủ trong từng giai đoạn. Nạn nhân bị buôn bán là người bị xâm hại bởi hành vi mua, bán người theo quy định tại Luật Phòng, chống mua bán người năm 2011. Các đối tượng khác được TGPL theo các quy định tại Công ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam là thành viên. - Nguyên tắc hoạt động TGPL: Đây là những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt hoạt động TGPL, là kim chỉ nam cho hoạt động TGPL buộc các chủ thể thực hiện TGPL phải tuân thủ trong quá trình TGPL. Các nguyên tắc hoạt động TGPL bao gồm: + Không thu phí, lệ phí, thù lao từ người được TGPL: Theo nguyên tắc này, tổ chức thực hiện TGPL, người thực hiện TGPL không được thu phí, lệ phí và nhận thù lao từ người được TGPL dưới bất kỳ hình thức nào, vật chất (tiền, tài sản, quà,…) hay tinh thần, tình cảm. Người được TGPL không phải trả bất cứ một khoản lệ phí nào, kể cả phí in ấn tài liệu hay làm thủ tục TGPL.
  • 19. 19 + Trung thực, tôn trọng sự thật khách quan: Khi thực hiện TGPL bằng các hình thức khác nhau, người thực hiện TGPL phải trung thực, chí công, vô tư, tôn trọng sự thật khách quan; không bị tác động bởi bất cứ sức ép nào và không vì mục đích cá nhân ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người được TGPL. + Sử dụng các biện pháp phù hợp với quy định của pháp luật để bảo vệ tốt nhất quyền, lợi ích hợp pháp của người được TGPL: Khi thực hiện TGPL, người thực hiện TGPL phải tận tâm, tận lực, có tinh thần trách nhiệm, coi việc TGPL cho người được TGPL như việc của mình. Người thực hiện TGPL phải thực hiện tất cả quyền và nghĩa vụ của mình do pháp luật quy định, bằng tất cả kỹ năng và kinh nghiệm thực tiễn, đầu tư công sức, trí tuệ, không bỏ một công đoạn nào để tiến hành các hoạt động TGPL cho người được TGPL. Chẳng hạn: Khi tham gia tố tụng, trợ giúp viên pháp lý phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của người bào chữa theo quy định của pháp luật tố tụng như gặp gỡ người làm chứng, xem xét hiện trường, thu thập chứng cứ để có đầy đủ cơ sở, căn cứ bảo vệ tốt nhất cho người được TGPL. Tuy nhiên, mặc dù lợi ích hợp pháp của người được TGPL là trên hết nhưng việc TGPL của người thực hiện phải phù hợp với pháp luật và quy tắc nghề nghiệp, không xúi giục người được TGPL làm trái quy định của pháp luật. + Tuân thủ pháp luật và quy tắc nghề nghiệp TGPL: Trong quá trình thực hiện TGPL, tổ chức thực hiện TGPL, người thực hiện TGPL phải độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, quy tắc nghề nghiệp TGPL (là các chuẩn mực về hành vi, ứng xử, cách thức tổ chức công việc, các yêu cầu nghiệp vụ và trách nhiệm cụ thể của tổ chức thực hiện TGPL, người thực hiện TGPL khi thực hiện TGPL). Người thực hiện TGPL phải thực hiện đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật, chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép. Nội dung TGPL phải phù hợp với pháp luật và đạo đức xã hội. + Chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung TGPL: Việc thực hiện TGPL do người thực hiện TGPL chịu trách nhiệm cá nhân (Phiếu tư vấn do
  • 20. 20 mình tự ký, khi tham gia tố tụng chịu trách nhiệm về tư cách tham gia của mình). Do đó, nếu TGPL sai thì tùy theo mức độ vi phạm mà người thực hiện TGPL bị xử lý theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp TGPL sai, gây thiệt hại cho người được TGPL thì người thực hiện TGPL phải bồi thường hoặc chịu trách nhiệm kỷ luật theo quy định của pháp luật. - Các hình thức cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí bao gồm: Tư vấn pháp luật (hướng dẫn, giải đáp, đưa ra ý kiến, cung cấp thông tin pháp luật, giúp soạn thảo văn bản liên quan đến vụ việc TGPL); tham gia tố tụng (tham gia tố tụng hình sự để bào chữa cho người được TGPL là người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc để bảo vệ quyền lợi của người được TGPL là người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự; tham gia tố tụng dân sự, tố tụng hành chính để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được TGPL trong vụ việc dân sự, vụ án hành chính); đại diện ngoài tố tụng (được thực hiện cho người được TGPL khi họ không thể tự bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của mình; việc đại diện ngoài tố tụng được thực hiện trong phạm vi yêu cầu của người được TGPL); các hình thức TGPL khác như: hòa giải, thực hiện những công việc liên quan đến thủ tục hành chính, khiếu nại và các hoạt động khác theo quy định của pháp luật. Đây cũng là những nội dung thuộc dịch vụ pháp lý nói chung của luật sư. Ngoài ra, còn có hoạt động kiến nghị thi hành pháp luật của Trung tâm TGPL nhà nước và Chi nhánh của Trung tâm nhằm bảo đảm thực hiện quyền và lợi ích hợp pháp của người dân. Các tổ chức TGPL chỉ thực hiện các vụ việc TGPL có liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp của người được TGPL. - Lĩnh vực pháp luật được TGPL bao gồm: Pháp luật hình sự, tố tụng hình sự và thi hành án hình sự; pháp luật dân sự, tố tụng dân sự và thi hành án dân sự; pháp luật hôn nhân gia đình và pháp luật về trẻ em; pháp luật hành chính, khiếu nại, tố cáo và tố tụng hành chính; pháp luật đất đai, nhà ở, môi trường và bảo vệ người tiêu dùng; pháp luật lao động, việc làm, bảo hiểm; pháp luật ưu đãi người có công với cách mạng và pháp luật về chính sách ưu
  • 21. 21 đãi xã hội khác và các lĩnh vực pháp luật khác liên quan đến chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói, giảm nghèo hoặc liên quan trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. - Phương thức thực hiện hoạt động TGPL: tại trụ sở của các tổ chức thực hiện TGPL, TGPL lưu động tại các xã, phường, thị trấn, Câu lạc bộ TGPL, sinh hoạt chuyên đề pháp luật, TGPL qua các phương tiện thông tin… Ý nghĩa, vai trò của TGPL Có thể nhận diện rõ hơn đặc điểm của TGPL ở Việt Nam qua phân tích về ý nghĩa, vai trò và đóng góp của hoạt động này: Một là, chính sách TGPL đã và đang tạo sự chuyển biến tích cực trong nhận thức của toàn xã hội về vị trí, vai trò và tầm quan trọng của pháp luật trong bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những người nghèo và người có hoàn cảnh đặc biệt khác, trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền, gắn tăng trưởng kinh tế với bảo đảm công bằng xã hội, hạn chế những vấn đề tiêu cực phát sinh từ nền kinh tế thị trường. Từ chỗ TGPL ban đầu còn được coi là nhiệm vụ của riêng ngành Tư pháp, đến nay, công tác này được khẳng định thuộc trách nhiệm của Nhà nước và là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị. Trong đó, Nhà nước giữ vai trò nòng cốt trong việc thực hiện và tổ chức thực hiện TGPL; khuyến khích, tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, tổ chức hành nghề luật sư và luật sư, cơ quan, tổ chức, cá nhân khác tham gia, đóng góp, hỗ trợ hoạt động TGPL. Hai là, TGPL góp phần quan trọng vào công cuộc cải cách hành chính, cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Công tác này không chỉ nâng cao ý thức pháp luật, trình độ dân trí pháp lý, tạo lập thói quen, nếp sống và làm việc theo pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được TGPL, tạo lập và củng cố niềm tin của nhân dân vào chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước mà còn tăng cường nhận thức trách nhiệm pháp lý
  • 22. 22 của cán bộ, công chức đối với nhân dân. Do đó, TGPL đã trở thành một bộ phận không thể thiếu trong đời sống pháp luật của xã hội. Hoạt động này đã góp phần đưa pháp luật vào cuộc sống, trở thành cầu nối giữa Nhà nước với nhân dân, góp phần khắc phục những vướng mắc, bất cập trong hoạt động công vụ, giữ gìn trật tự an toàn xã hội và ổn định chính trị, giảm thiểu các khiếu kiện sai trái, vượt cấp. Đồng thời, góp phần thực hiện chủ trương xóa đói, giảm nghèo toàn diện của Đảng ta cũng như tham gia tích cực vào các hoạt động thiết thực đền ơn, đáp nghĩa, giữ gìn đoàn kết cộng đồng, bảo đảm công bằng xã hội, phòng ngừa, hạn chế tranh chấp và vi phạm pháp luật, thể hiện tính ưu việt của pháp luật và chế độ ta. Từ đó, TGPL cũng hỗ trợ từng bước nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế trong việc bảo vệ nhân quyền, bảo đảm công lý trong phong trào giảm nghèo toàn cầu, phù hợp với xu thế phát triển của thế giới. Ba là, TGPL góp phần thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế - xã hội, giữ gìn ổn định trật tự xã hội ở các địa phương, góp phần giải quyết dứt điểm nhiều vụ việc khiếu kiện kéo dài hoặc liên quan đến quyền và lợi ích của nhiều người dân, giảm số vụ khiếu kiện không cần thiết, làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người dân và uy tín của Nhà nước. Nhiều Trung tâm TGPL nhà nước đã thực sự trở thành cầu nối tin cậy giữa chính quyền với người dân, giữa pháp luật với cuộc sống, tạo diễn đàn đối thoại để giải quyết các bất cập trong hoạt động công vụ, tăng niềm tin của người dân vào pháp luật. Nhận thức của chính quyền các cấp về vị trí, vai trò, ý nghĩa của hoạt động TGPL đã được nâng lên, chính quyền cơ sở ở hầu hết các nơi đã tích cực đề nghị hoặc tạo điều kiện để Trung tâm TGPL nhà nước tổ chức các hoạt động TGPL lưu động tại địa bàn, thành lập Câu lạc bộ TGPL ở cấp xã, tạo diễn đàn quan trọng cho người dân, góp phần tăng cường dân chủ ở cấp cơ sở, tăng tính công khai, minh bạch trong giải quyết các vụ việc của người dân. Bốn là, thông qua các vụ việc TGPL cụ thể, quyền và lợi ích hợp pháp của nhiều người nghèo và các đối tượng yếu thế đã được bảo vệ kịp thời,
  • 23. 23 người dân tin tưởng hơn vào công lý, công bằng cũng như chính sách, pháp luật của Nhà nước. Nhiều người thuộc diện nghèo, yếu thế khi có vướng mắc pháp luật đã biết chủ động tìm đến tổ chức thực hiện TGPL thay vì sử dụng các biện pháp giải quyết bất hợp pháp (theo luật xã hội đen hoặc mua chuộc quan chức). Nhiều vụ được hòa giải thành trước khi phải đưa ra Tòa án đã giữ được tình đoàn kết cộng đồng, tình làng nghĩa xóm cho người dân, góp phần xây dựng điều kiện quan trọng để phát triển một nền văn hóa pháp lý và nếp sống văn minh tại cộng đồng. TGPL còn góp phần quan trọng trong các chương trình xóa đói, giảm nghèo ở các địa phương, người dân được tư vấn các thủ tục pháp lý để vay vốn hoặc hưởng các chính sách ưu đãi khác để phát triển kinh tế gia đình, vươn lên thoát nghèo. Việc các tổ chức thực hiện TGPL giải quyết kịp thời vướng mắc pháp luật của người được TGPL cũng giúp cho họ tiết kiệm được đáng kể thời gian đi khiếu kiện để tập trung vào sản xuất, thúc đẩy kinh tế phát triển, ổn định trật tự xã hội. Năm là, TGPL góp phần vào quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật. Thông qua các vụ việc TGPL cụ thể, người thực hiện TGPL phát hiện ra các quy định pháp luật còn mâu thuẫn, chồng chéo và đề nghị tổ chức thực hiện TGPL kiến nghị đến các cơ quan có thẩm quyền để sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật có liên quan. Hoạt động TGPL cũng góp phần quan trọng vào tiến trình cải cách tư pháp thông qua sự tham gia tố tụng của Trợ giúp viên pháp lý, luật sư là cộng tác viên TGPL - người thực hiện TGPL trong hoạt động tố tụng, tăng đáng kể số lượng vụ án được đưa ra xét xử với sự có mặt của người bào chữa, đại diện hoặc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, thực hiện tranh tụng, góp phần nâng cao chất lượng xét xử. Sáu là, TGPL ra đời đã khắc phục một bước tình trạng thiếu luật sư trong các vụ việc tranh tụng tại các cơ quan tiến hành tố tụng ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; tạo chuyển biến tích cực trong nhận thức của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng về vị trí, vai trò của người bào chữa, người bảo vệ
  • 24. 24 quyền lợi trong các vụ việc tố tụng; đồng thời hỗ trợ tích cực cho công tác điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, bảo đảm giải quyết vụ án khách quan, công bằng, đúng pháp luật, góp phần thực hiện cải cách tư pháp theo chủ trương của Đảng trong Chiến lược cải cách tư pháp 1.1.2. Khái niệm Quỹ trợ giúp pháp lý Việt Nam Theo Từ điển Tiếng Việt của tác giả Nguyễn Lân, thì khái niệm quỹ được định nghĩa là "số tiền bạc để dành lại để làm việc gì" [34, tr. 1503]. Xét về góc độ là chủ thể trong các quan hệ pháp luật, Quỹ là tổ chức, đơn vị "giữ" và "chi tiêu" tiền. Nói đến Quỹ thường là nói đến vấn đề tài chính, Quỹ tài chính. Quỹ tài chính có một số đặc điểm chính sau: Một là, Quỹ là định chế tài chính do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thành lập hoặc do tổ chức phi chính phủ, cá nhân thành lập nhằm tập trung nguồn lực để đáp ứng một số nhiệm vụ chi được xác định. Hai là, các yếu tố cơ bản để hình thành một quỹ bao gồm: quyết định thành lập của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền; các nguồn thu theo quy định và được huy động nguồn thu để sử dụng cho một số nhiệm vụ chi theo quy định. Ba là, Quỹ có thể được hình thành ở Trung ương và địa phương, là nguồn lực tài chính quan trọng của đất nước, có quan hệ mật thiết với ngân sách nhà nước và hỗ trợ ngân sách nhà nước sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của đất nước, góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế - xã hội. Trong điều kiện hiện nay của Việt Nam, việc hình thành các quỹ là rất cần thiết nhằm huy động các nguồn lực đóng góp, hỗ trợ từ các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước, tạo lập cơ chế linh hoạt cùng với ngân sách nhà nước để thực hiện kịp thời một số nhiệm vụ trọng yếu, bức thiết, bảo đảm an sinh xã hội, hỗ trợ người nghèo, người yếu thế trong xã hội…, góp phần ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, giảm bớt sự bao cấp từ ngân sách nhà nước.
  • 25. 25 Bốn là, các Quỹ hiện nay được thành lập theo nhiều văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý khác nhau, có Quỹ thành lập theo Luật, Pháp lệnh, có Quỹ thành lập theo Nghị định hoặc Quyết định của Thủ tướng Chính phủ… Trong đó, các quỹ tài chính ở Trung ương hầu hết được quy định trong các văn bản Luật, Pháp lệnh, do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập, sử dụng cho các mục tiêu chung của quốc gia hoặc của ngành, các quỹ tài chính ở địa phương do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thành lập, quản lý và sử dụng cho các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương. Năm là, cơ chế tài chính của Quỹ sẽ do Bộ chuyên ngành về tài chính hướng dẫn thực hiện. Các quỹ tài chính phải lập kế hoạch thu, chi tài chính quỹ hàng năm, báo cáo cơ quan có thẩm quyền phê duyệt và thực hiện báo cáo quyết toán tài chính hàng năm. Quỹ tài chính có vai trò tác động tích cực đối với việc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước thể hiện ở các mặt sau: Thứ nhất, một số quỹ tài chính đã huy động bổ sung và tập trung nguồn lực tài chính để thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước: huy động đóng góp của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, sự tài trợ của một số tổ chức, cá nhân quốc tế, qua đó động viên thêm nguồn tài chính để thực hiện một số mục tiêu của cộng đồng hoặc của ngành, lĩnh vực, thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội. Trong điều kiện nguồn lực ngân sách nhà nước còn hạn chế thì việc tập trung một số nguồn thu riêng hoặc huy động thêm nguồn lực tài chính cho một số nhiệm vụ chi đã có tác động tích cực trong việc giải quyết một số nhiệm vụ quan trọng, các vấn đề an sinh xã hội. Qua hoạt động của quỹ tài chính cùng góp phần thúc đẩy xã hội hóa, giải quyết có hiệu quả nhiều vấn đề kinh tế - xã hội nảy sinh, đặc biệt là các vấn đề xã hội bức xúc. Thứ hai, sự quản lý, điều hành các quỹ tài chính với cơ chế linh hoạt đã kịp thời ứng phó với những tình huống đột xuất, yêu cầu cấp bách như
  • 26. 26 những tác động bất lợi từ kinh tế, xã hội và thiên tai, dịch bệnh…, góp phần phát triển, mở rộng, đa dạng các hoạt động tài chính của nhà nước. Thông qua hoạt động của quỹ tài chính, thị trường tài chính, thị trường tiền tệ phát triển, tạo dựng được nguồn vốn nhàn rỗi và tăng khả năng đối phó với các rủi ro. Quỹ TGPL Việt Nam là một trong những loại hình Quỹ tài chính, là tổ chức tài chính công; hoạt động không vì mục đích lợi nhuận được hình thành từ các nguồn đóng góp tự nguyện, tài trợ của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước, ngân sách nhà nước và các nguồn hợp pháp khác để hỗ trợ nâng cao chất lượng hoạt động nghiệp vụ TGPL; hỗ trợ trang thiết bị, phương tiện làm việc cho tổ chức thực hiện TGPL ở các tỉnh thuộc diện ngân sách trung ương phải hỗ trợ, có khó khăn đột xuất và một số trường hợp đặc biệt khác. Có thể khẳng định rằng, việc thành lập Quỹ TGPL Việt Nam đã khẳng định chủ trương của ngành Tư pháp là hoàn toàn đúng đắn, chủ trương giúp người nghèo thoát nghèo về pháp luật bằng nhiều hình thức khác nhau: tư vấn, giúp đỡ pháp luật trực tiếp cho người nghèo, hỗ trợ nâng cao năng lực cho người thực hiện TGPL, hỗ trợ tài chính đối với các tổ chức thực hiện TGPL tại các địa phương còn khó khăn, cần ngân sách trung ương hỗ trợ giảm bớt áp lực ngân sách cho các địa phương này khi thực hiện các tác nghiệp cụ thể giúp cho người nghèo và các đối tượng chính sách tiếp cận pháp luật. Quỹ TGPL Việt Nam có một vai trò to lớn và có ý nghĩa quan trọng trong việc góp phần thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ của hoạt động TGPL, hạn chế sự phụ thuộc về hỗ trợ tài chính của nước ngoài đối với hoạt động TGPL ở Việt Nam. Hoạt động của Quỹ TGPL còn góp phần giải quyết tình hình khó khăn về tài chính cho các tổ chức TGPL trong khi ngân sách của địa phương còn hạn chế. Thông qua những nội dung hỗ trợ của Quỹ TGPL góp phần vào việc giúp các đối tượng được TGPL tiếp cận gần hơn với pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
  • 27. 27 người dân, đối tượng yếu thế nhất là những đối tượng ở vùng sâu, vùng xa vùng đặc biệt khó khăn, vùng có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số, qua đó nâng cao vị thế, vai trò của pháp luật trong quản lý xã hội, bảo vệ quyền công dân. Tạo lập, củng cố và duy trì lòng tin của nhân dân vào đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước đề ra, góp phần khắc phục những vướng mắc, khiếu nại, tố cáo, khiếu kiện vượt cấp không đúng trình tự, thẩm quyền giải quyết. Đồng thời, góp phần tạo ra sự đoàn kết, gắn bó giữa chính quyền địa phương với nhân dân, sự đoàn kết trong cộng đồng dân cư, đảm bảo việc thực hiện dân chủ ở cơ sở và ổn định trật tự ở địa phương. 1.2. KHÁI QUÁT PHÁP LUẬT VỀ QUỸ TRỢ GIÚP PHÁP LÝ Ở VIỆT NAM 1.2.1. Khái niệm pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung do nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí nhà nước của giai cấp thống trị trên cơ sở ghi nhận các nhu cầu về lợi ích của toàn xã hội, được bảo đảm thực hiện bằng nhà nước nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội với mục đích trật tự và ổn định xã hội vì sự phát triển bền vững của xã hội [33, tr. 288]. Pháp luật ở Việt Nam thể hiện dưới hình thức văn bản quy phạm pháp luật. Theo quy định tại khoản 1 Điều 1 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 thì văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước ban hành hoặc phối hợp ban hành theo thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục được quy định trong Luật, trong đó có quy tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt buộc chung, được Nhà nước bảo đảm thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội. "Pháp luật về Quỹ" được hiểu là những quy định do cơ quan có thẩm quyền ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội có liên quan đến việc thu hút, huy động, quản lý và phân phối, sử dụng các nguồn lực tài chính của một lĩnh vực nào đó. "Pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý" là các quy định do các cơ quan có thẩm quyền ban hành để điều chỉnh, quy định các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình hình thành, phát triển Quỹ, về tổ chức và hoạt động
  • 28. 28 của Quỹ, việc huy động, thu hút, "nắm giữ", cấp phát, chi tiêu và kiểm tra, giám sát việc sử dụng nguồn tài chính của Quỹ TGPL Việt Nam. Pháp luật về Quỹ TGPL ở Việt Nam được xây dựng từ Luật TGPL năm 2006, Nghị định số 07/2007/NĐ-CP hướng dẫn một số điều của Luật TGPL, chiến lược phát triển hệ thống TGPL ở Việt Nam đến 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Ngoài ra, các văn bản điều chỉnh về tổ chức và hoạt động của Quỹ bao gồm: 01 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ (Quyết định số 84/2008/QĐ-TTg ngày 30/6/2008 về việc thành lập Quỹ TGPL Việt Nam); 01 Thông tư của Bộ Tài chính (Thông tư số 174/2012/TT-BTC ngày 22/10/2012 hướng dẫn quản lý tài chính đối với Quỹ TGPL Việt Nam); 01 Quyết định của Bộ trưởng Bộ Tư pháp (Quyết định số 08/2008/QĐ-BTP ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của Quỹ TGPL Việt Nam). Ngoài ra, thực hiện Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP ngày 28/12/2008 của Chính phủ về Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo đã có 01 Quyết định của Thủ tướng (Quyết đính số 52/2010/QĐ-TTg ngày 18/8/2010 về chính sách hỗ trợ pháp lý nhằm nâng cao nhận thức, hiểu biết pháp luật cho người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số tại các huyện nghèo giai đoạn 2011-2020); 02 Quyết định của Bộ trưởng Bộ Tư pháp được ban hành có liên quan trực tiếp đến hoạt động của Quỹ TGPL Việt Nam (Quyết định số 2497/QĐ-BTP ngày 01/10/2010 ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện Quyết định số 52/2010/QĐ-TTg và Quyết định số 4103/QĐ-BTP về lập, quản lý và sử dụng nguồn kinh phí thực hiện Quyết định số 52/2010/QĐ-TTg). Nhìn chung, công tác xây dựng thể chế về Quỹ TGPL Việt Nam nằm trong tổng thể công tác xây dựng pháp luật về TGPL nói chung, công tác xây dựng gắn với công tác tổ chức thực hiện pháp luật, đưa pháp luật vào cuộc sống. Các văn bản này đều gắn với việc bảo đảm quyền được TGPL của công dân, bảo vệ các quyền con người, quyền công dân, đặc biệt là bảo vệ những đối tượng thuộc diện nghèo, yếu thế trong xã hội. Vì vậy, khi đi vào cuộc sống đã có tác động mạnh mẽ đến tầng lớp dân nghèo, đối tượng yếu thế, nhất
  • 29. 29 là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, vùng có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số nên đã nhận được sự ủng hộ tích cực, việc tổ chức thực hiện nghiêm túc và có hiệu quả trên thực tế. Luật TGPL và các văn bản hướng dẫn thi hành trong đó các văn bản về Quỹ TGPL được song song soạn thảo nên sớm được ban hành đã tạo cơ sở pháp lý thống nhất, đồng bộ và toàn diện để tiếp tục củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy tổ chức thực hiện TGPL; xây dựng đội ngũ và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, chuẩn hóa các hoạt động TGPL trong đó có hoạt động của Quỹ TGPL Việt Nam nhằm tạo cơ chế quản lý nhà nước về TGPL để hướng đến mục tiêu cao nhất là bảo đảm quyền được TGPL của người nghèo, đối tượng chính sách, đồng bào dân tộc thiểu số và các đối tượng yếu thế khác trong xã hội. 1.2.2. Đặc điểm pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam Thứ nhất, pháp luật về Quỹ TGPL ở Việt Nam là một bộ phận của hệ thống pháp luật nói chung. Pháp luật về Quỹ TGPL ở Việt Nam do cơ quan có thẩm quyền ban hành dưới dạng các văn bản quy phạm pháp luật đặt trong sự điều chỉnh của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, là những quy tắc xử sự chung có tính chất bắt buộc đối với các chủ thể khi tham gia vào các quan hệ xã hội có liên quan đến Quỹ TGPL, có phạm vi áp dụng rộng, áp dụng nhiều lần. Trong trường hợp các chủ thể vi phạm các quy định này có thể bị xử lý, bị áp dụng các chế tài theo quy định của pháp luật. Thứ hai, pháp luật về Quỹ TGPL ở Việt Nam được thể hiện dưới các hình thức văn bản quy phạm pháp luật với hiệu lực pháp lý từ cao đến thấp tương ứng với phạm vi và đối tượng điều chỉnh của văn bản, phạm vi điều chỉnh rộng khắp trong cả nước, đối tượng điều chỉnh đa dạng từ các đơn vị tiếp nhận hỗ trợ đến các cơ quan, tổ chức, cá nhân tài trợ cho Quỹ và các cơ quan quản lý về mọi mặt hoạt động của Quỹ TGPL Việt Nam. Thứ ba, pháp luật về Quỹ TGPL ở Việt Nam ra đời sớm cùng với pháp luật về TGPL và có vai trò là chế định bắt buộc với mục tiêu tạo ra định
  • 30. 30 chế tài chính bảo đảm cho hoạt động TGPL phát triển có hiệu quả. Xác định vấn đề này cho thấy việc hoàn thiện pháp luật về Quỹ TGPL ở Việt Nam quan trọng và phải luôn song hành với việc hoàn thiện pháp luật về TGPL nói chung. Thứ tư, pháp luật về Quỹ TGPL ở Việt Nam quy định toàn diện các vấn đề có liên quan đến Quỹ như vị trí pháp lý, nguyên tắc hoạt động, tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn, nguồn thu của Quỹ, nội dung chi và phạm vi hỗ trợ của quỹ, chính sách khuyến khích, huy động sự tham gia đóng góp của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước, quy trình hỗ trợ tài chính của Quỹ, chế độ tài chính kế toán, trách nhiệm quản lý, điều hành Quỹ… Thứ năm, pháp luật về Quỹ TGPL ở Việt Nam có đối tượng áp dụng là các cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia vào các quan hệ xã hội có liên quan đến Quỹ TGPL ở Việt Nam từ việc thu hút, vận động tài trợ, cấp phát, tiếp nhận các nguồn hỗ trợ của Quỹ, sử dụng và quản lý các nguồn tài chính của Quỹ đến việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, khen thưởng và xử lý vi phạm pháp luật về Quỹ TGPL. 1.3. PHÁP LUẬT VỀ QUỸ TRỢ GIÚP PHÁP LÝ CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI Không chỉ ở Việt Nam thành lập Quỹ TGPL mà ở các nước có hệ thống TGPL phát triển lâu đời như Hà Lan, Úc, Anh… và các nước có nền kinh tế phát triển như Mỹ đều thành lập Quỹ TGPL để hỗ trợ tài chính cho công tác TGPL. Điều này được hiểu là không phải cứ ở các quốc gia giàu có thì quyền lợi hợp pháp của nhóm yếu thế trong xã hội đều được bảo đảm và không phải quốc gia nào cũng bảo đảm đủ nguồn lực cho hoạt động TGPL mà vẫn phải dựa vào sự đóng góp của nhà hảo tâm, tổ chức. 1.3.1. Quỹ trợ giúp pháp lý Trung Quốc Năm 1997, Quỹ TGPL Trung Quốc và Trung tâm TGPL của Bộ Tư pháp đã được thiết lập và hai tổ chức này đã đóng một vai trò quan trọng
  • 31. 31 trong việc cung cấp TGPL. Đồng thời, các địa phương cũng tạo ra luật pháp địa phương và các quy định liên quan đến TGPL và thiết lập các cơ quan TGPL, đào tạo cán bộ TGPL đặc biệt và thực hiện hợp tác, đưa TGPL phát triển. Quỹ TGPL có nhiệm vụ tìm kiếm tài trợ từ chính quyền địa phương của 100 huyện giàu nhất của Trung Quốc để hỗ trợ pháp lý cho 592 quận được xác định là "nghèo". Quỹ này hy vọng tài trợ 10.000 nhân dân tệ (USD 1.200) một năm trong vòng ba năm tiếp theo cho từng quận nghèo, để tạo bước nhảy trong dịch vụ TGPL. Nhiều quận hạt nghèo, không có đến một luật sư TGPL. Tháng 9 năm 2003, Trung Quốc bắt đầu thực hiện quy định hỗ trợ các quy phạm pháp luật, trong đó thành lập các khuôn khổ cơ bản của hệ thống TGPL và làm rõ các trách nhiệm của chính phủ. Chính phủ trên cấp quận nên áp dụng các biện pháp tích cực để thúc đẩy TGPL và hỗ trợ tài chính cho hoạt động này để phát triển song song với việc phát triển kinh tế và xã hội. Các quy định về TGPL là Nghị định chính thức đầu tiên của Trung Quốc về TGPL. Việc ban hành các quy định đánh dấu sự thành lập chính thức của hệ thống TGPL, mà điều này có ý nghĩa quan trọng trong lịch sử hệ thống TGPL Trung Quốc. Nó có ảnh hưởng to lớn trong việc thực hiện chiến lược cơ bản của việc cai trị đất nước theo quy định của pháp luật, tăng cường hệ thống pháp luật XHCN và thúc đẩy sự phát triển của pháp luật. Kinh phí TGPL chủ yếu do chính phủ phân bổ. TGPL là trách nhiệm của chính phủ và do đó chính quyền các cấp dành ngân sách đặc biệt cho hoạt động này. Tuy nhiên, do nguồn kinh phí hạn chế, nó không thể đáp ứng nhu cầu thực tế mà chỉ dựa hoàn toàn vào chính phủ. Trong hoàn cảnh như vậy, đóng góp đã không chỉ cần thiết mà còn rất quan trọng. Để chuẩn hóa các hoạt động quyên góp, Bộ Tư pháp thành lập Quỹ TGPL Trung Quốc, đây là một tổ chức phi chính phủ có tư cách pháp nhân độc lập. Nhiệm vụ của nó là để nâng cao, quản lý và sử dụng nguồn tài chính hỗ trợ cho công tác TGPL và tiếp nhận đóng góp từ trong và ngoài nước.
  • 32. 32 Tăng cường đầu tư TGPL là cần thiết bằng cách tăng vốn thông qua nhiều kênh khác nhau và chính quyền địa phương phải gánh vác trách nhiệm của mình. Ngoài ra, sự cần thiết phải tăng cường xây dựng đội ngũ người thực hiện TGPL để khuyến khích các chuyên gia pháp luật cung cấp dịch vụ pháp lý trong thời gian cố định và số tiền cố định của công việc. Nhân viên dịch vụ pháp lý cũng được đào tạo tốt hơn trong các kỹ năng xử lý các vụ án hình sự và dân sự cần TGPL. Nhà nước đã tổ chức các chương trình hành động TGPL để giảm bớt tình trạng thiếu nhân viên trong khu vực phía tây nghèo của đất nước. Bộ Tư pháp nhận thức đầy đủ các vai trò quan trọng của Quỹ TGPL và tiếp tục để khuyến khích mạnh hơn các công đoàn thương mại, các tổ chức phụ nữ, Liên đoàn người khuyết tật và tổ chức học tập để cho thấy các nguồn lực và lợi ích khi cung cấp dịch vụ pháp lý cho một số nhóm đặc biệt [51]. 1.3.2. Quỹ trợ giúp pháp lý Mỹ Quỹ TGPL ở Mỹ được thành lập ở một số bang như Colorado, Chicago, Los Angeles, Washington, Santa Barbara… Mục đích hoạt động chung của các Quỹ này đều nhằm giúp đỡ nhóm yếu thế trong xã hội tiếp cận bình đẳng về tư pháp, sơ lược về Quỹ của các bang như sau: Quỹ TGPL bang Santa Barbara Nhiệm vụ của Quỹ TGPL bang Santa Barbara là cung cấp các dịch vụ pháp lý chất lượng cao nhằm bảo đảm rằng người có thu nhập thấp và người cao niên có quyền tiếp cận hệ thống tư pháp dân sự khi gặp tình huống khó khăn để bảo đảm an toàn, cư trú sinh sống, thu nhập xứng đáng và bảo vệ khỏi bạo lực gia đình, lạm dụng người cao tuổi. Từ năm 1959, Quỹ TGPL Santa Barbara đã cung cấp TGPL miễn phí trong các vấn đề quan trọng dân sự. Nhiệm vụ của Quỹ là đảm bảo tiếp cận bình đẳng và có ý nghĩa đối với hệ thống tư pháp dân sự quận Santa Barbara cư dân sinh sống bằng hoặc dưới mức nghèo khổ, những người phải đối mặt với rào cản ngôn ngữ hoặc khuyết tật, người cao niên và những người khác sống trên thu nhập cố định như an
  • 33. 33 sinh xã hội, các nạn nhân bị bạo lực và lạm dụng người cao tuổi. Dịch vụ của Quỹ là việc cung cấp các thông tin pháp lý và tư vấn để hỗ trợ cho việc chuẩn bị các văn bản quy phạm pháp luật và đại diện cho các thủ tục tố tụng tại tòa án. Do hạn chế về nguồn lực nên Quỹ TGPL ở Santa Barbara chủ yếu hướng vào trợ giúp người trong thời kỳ khủng hoảng. Quỹ có 03 văn phòng ở Santa Barbara, Santa Maria và Lompoc. Quỹ hỗ trợ các nạn nhân của bạo lực gia đình và lạm dụng người cao tuổi trong việc có được các biện pháp để bảo vệ chúng khỏi những kẻ lạm dụng của họ. Quỹ hỗ trợ tất cả mọi người không phân biệt thu nhập trong các trường hợp này. Thường thường, Quỹ cũng giúp các nạn nhân bạo lực gia đình trong việc có được quyền nuôi con và thăm viếng con cái. Quỹ TGPL của Santa Barbara là một tổ chức phi lợi nhuận tư nhân; hoạt động chủ yếu dựa vào tài trợ của cộng đồng. Quỹ huy động tài trợ không chỉ tiền mà còn cả vật tư, thiết bị, xe hơi cũ hoặc quyên góp bằng cách mua nước đóng chai của Quỹ. Nhiệm vụ của Quỹ là đảm bảo rằng tất cả mọi người, bất kể thu nhập, có thể tiếp cận giống nhau trong hệ thống tư pháp dân sự. Quỹ hoạt động để thực hiện chức năng cung cấp các dịch vụ pháp lý miễn phí, chất lượng cao trong các vấn đề quan trọng của công dân Santa Barbara. Năm 2010-2011, Quỹ đã hỗ trợ giúp đỡ về pháp lý cho 880 cư dân Santa Barbara trong lĩnh vực tố tụng, đại diện cho 4.175 người; giúp 572 nạn nhân của bạo lực gia đình có được lệnh của tòa án để không bị rơi vào tình trạng nguy hiểm, giúp 1.026 người cao tuổi [48]. Quỹ TGPL bang Washington Quỹ TGPL ở Washington là một tổ chức phi lợi nhuận được tạo ra dưới sự chỉ đạo của Tòa án tối cao Washington để cung cấp tiền bạc và nguồn lực sẵn có khác với các chương trình TGPL dân sự như an toàn gia đình, nhà ở, y tế và việc làm để hỗ trợ người thu nhập thấp trên toàn tiểu bang Washington,
  • 34. 34 các vấn đề pháp lý mà người thu nhập thấp gặp phải, làm ảnh hưởng đến đời sống của họ. Việc hỗ trợ tài chính của Quỹ để đảm bảo bình đẳng quyền lợi có thể đạt được cho người dân nghèo nhất của tiểu bang Washington. Quỹ TGPL được thành lập vào năm 1991 bởi ba nhà lãnh đạo của bang Washington Dean Spokane, Mark Hutcheson Seattle, và Paul Stritmatter. Ba nhà lãnh đạo đều công nhận sự cần thiết có một nguồn kinh phí ổn định cho các chương trình TGPL dân sự. Lúc đầu, Quỹ TGPL tăng hỗ trợ cho các chương trình đội ngũ luật sư của tiểu bang Washington như chương trình Dịch vụ pháp lý Columbia và dự án công bằng Tư pháp khu Tây Bắc. Năm 2000, Ủy ban Tư pháp hoạch định chính sách cho các dịch vụ pháp luật dân sự được thực hiện bởi Tòa án Tối cao nên đã thành lập một ủy ban để giải quyết nhu cầu đối với các nguồn tài trợ ổn định cho các nhà cung cấp dịch vụ TGPL dân sự trên toàn tiểu bang. Trong năm 2004, các bang đã thông qua đề nghị của ủy ban để hình thành một chiến dịch gây quỹ và tin tưởng rằng sẽ đem lại lợi ích cả nhân viên và tình nguyện viên chương trình viện trợ dân sự hợp pháp trên toàn tiểu bang. Mục tiêu ngắn hạn của Quỹ là tăng 10 triệu USD vào cuối năm 2012, và sẽ phân bổ 500.000 USD hàng năm. Để đảm bảo cơ sở tài chính ổn định cho các nhà cung cấp dịch vụ TGPL, Quỹ đã thiết lập một mục tiêu trung gian là 200 triệu USD và mục tiêu cuối cùng là 500 triệu USD. TGPL thực hiện giúp đỡ miễn phí cho cá nhân, gia đình, cộng đồng có thu nhập thấp, cá nhân các dịch vụ: bảo vệ và thực thi quyền lợi hợp pháp; sử dụng hệ thống tư pháp dân sự để chống lại các luật, quy định, chính sách không công bằng; phát triển và thực hiện các luật, quy định, chính sách để cải thiện chất lượng cuộc sống. Sứ mệnh của Quỹ TGPL Washington là tăng đóng góp từ thiện để đảm bảo công lý là một thực tế không chỉ cho những người đủ điều kiện mà còn cho tất cả mọi người trong tiểu bang.
  • 35. 35 Dưới sự chỉ đạo của Tòa án Tối cao Washington, nhóm công tác về công bằng Tư pháp dân sự bình đẳng đã tiến hành một nghiên cứu toàn diện về nhu cầu của pháp luật dân sự của người thu nhập thấp. Họ đã chứng minh rằng những người có thu nhập thấp tại Washington và đặc biệt là phụ nữ và trẻ em, phần lớn không có được TGPL cho các vấn đề pháp lý của họ mặc dù những vấn đề thường liên quan đến những nhu cầu cơ bản của con người như nhà ở và an toàn. Quỹ TGPL Washington có quan hệ chặt chẽ với các chiến dịch và hàng trăm tình nguyện viên trên toàn tiểu bang để đảm bảo sự thành công của Quỹ. Các chiến dịch công bằng pháp lý nhận được sự hỗ trợ lớn từ các công ty luật, luật sư và công chúng nói chung để giúp cung cấp TGPL cho hàng ngàn người khác có nhu cầu. Quỹ TGPL Chicago Quỹ TGPL Chicago có nguồn gốc từ chiến tranh đói nghèo năm 1960 theo sáng kiến của Tổng thống Lyndon Johnson. Chính thức hoạt động vào năm 1965, do Quốc hội liên bang cung cấp các dịch vụ pháp lý miễn phí cho người nghèo và trong năm 1965 và 1966 các khoản trợ cấp liên bang ở Chicago được thực hiện do một tổ chức hỗ trợ cung cấp cho các dịch vụ pháp lý cho người nghèo và để hỗ trợ các luật sư tham gia chương trình "cải cách luật pháp" - đại diện cho các nhóm người nghèo. Trong vòng một thập kỷ, các khoản tài trợ đã được thực hiện và trao cho Quỹ TGPL của Chicago. Quỹ đã cam kết mở rộng dịch vụ của mình để tiếp cận với các nhóm dễ bị tổn thương ở Chicago và năm này qua năm khác, Quỹ tìm kiếm và bảo đảm kinh phí cho các sáng kiến mới. Năm 2000, Quỹ mở rộng địa bàn hoạt động của mình xuống các vùng ngoại ô, bằng cách tham gia vào các chương trình. Trong suốt 40 năm qua, Quỹ đã để lại dấu ấn trên công lý cho người nghèo ở Chicago. Quỹ đã tiếp xúc với cơ quan của liên bang và chính quyền địa phương nơi có hành động ảnh hưởng tiêu cực đến người nghèo. Quỹ đã
  • 36. 36 thúc giục và khi cần thiết, khởi kiện các cơ quan này để cải cách chính sách và các hoạt động của họ để tuân thủ tất cả các luật pháp liên bang và tiểu bang. Quỹ hỗ trợ chi phí để bảo vệ quyền hợp pháp của những người dễ bị tổn thương nhất trong xã hội như phụ nữ bị đánh đập, những người khuyết tật, các cư dân nhà ở công cộng, người nộp đơn và người nhận lợi ích sinh kế, người nhập cư, trẻ em, người già, người lao động được trả lương thấp, những người có HIV-AIDS và cư dân nhà dưỡng lão. Trong hơn 40 năm, Quỹ TGPL của Chicago đã cung cấp miễn phí TGPL dân sự đến hàng chục ngàn người có thu nhập thấp và người cao tuổi ở Chicago và vùng ngoại ô. Đối với những người có thu nhập thấp, người già, hoặc bị khuyết tật, TGPL thường rất quan trọng đối với họ để bảo vệ nhà cửa, việc làm, lợi ích của họ, hoặc để bảo vệ quyền lợi của họ do hiến pháp hay luật định [50]. 1.3.3. Quỹ trợ giúp pháp lý Đài Loan Tháng 7/2004, đánh dấu thời điểm quan trọng nhất trong lịch sử phát triển hoạt động TGPL ở Đài Loan. Trước đây, không có một tổ chức độc lập nào thực hiện TGPL cho những người yếu thế ở Đài Loan. Một số tổ chức thuộc khu vực công và tư cũng thực hiện hoạt động này nhưng đa số là tư vấn miệng. Việc đại diện, bào chữa ở Tòa án chỉ được thực hiện trong trường hợp đặc biệt. Nhìn chung, chất lượng hoạt động TGPL chưa tốt và không phải lúc nào cũng đáp ứng được nhu cầu của người dân. Tiếp theo sự dân chủ hóa và việc xây dựng chế độ pháp quyền, nhu cầu về nguồn lực tư pháp ở Đài Loan đã tăng lên. Năm 1998, Quỹ cải cách tư pháp, Đoàn luật sư Đài Bắc và Hiệp hội nhân quyền Đài Loan cùng vận động thông qua dự luật TGPL. Với sự giúp đỡ của Bộ Tư pháp, Quốc hội đã xem xét Luật TGPL và thông qua năm 2004. Tháng 7/2004, Bộ Tư pháp đã bảo trợ và thành lập Quỹ TGPL (LAF). Sự đa dạng các dịch vụ TGPL liên quan đến các loại vướng mắc pháp luật cụ thể hoặc những đối tượng có hoàn cảnh kinh tế khó khăn nói chung. Một số dịch vụ giúp đỡ chỉ được đáp ứng khi tòa án đã xét xử mà không đảm
  • 37. 37 bảo quyền của đối tượng yếu thế trong quá trình tố tụng. Từ tháng 7/2004, Bộ Tư pháp thành lập Quỹ TGPL, tiếp tục hỗ trợ và giám sát hoạt động của tổ chức này. Bất cứ ai có vụ việc chưa được bảo vệ và đáp ứng được điều kiện về tài chính thì đều có thể yêu cầu TGPL, bất kể đó là loại vướng mắc pháp luật nào hay nhân thân của họ ra sao. Các đoàn luật sư ở Đài Loan cũng tham gia thực hiện TGPL. TGPL do đoàn luật sư Đài Bắc thực hiện bao gồm các hoạt động tư vấn tại chỗ định kỳ. Những công dân đáp ứng được những điều kiện nhất định như gia đình có thu nhập thấp hoặc bị hạn chế về thể chất và tinh thần thì dịch vụ TGPL miễn phí tại tòa án sẽ được thực hiện khi cần thiết. Tùy thuộc vào tính chất công việc của mình, một số tổ chức phúc lợi xã hội cũng thực hiện TGPL. Tuy nhiên, do hạn chế về tài chính nên sự giúp đỡ của các tổ chức này chỉ dừng lại ở việc tư vấn. Khi có những vụ việc quan trọng thì các tổ chức này lại tìm luật sư giúp đỡ miễn phí. Việc thực hiện TGPL được bắt đầu bằng việc kiểm tra điều kiện của người xin TGPL. Nếu thu nhập của người nộp đơn dưới mức quy định và vướng mắc pháp luật của họ chưa sáng tỏ thì người nộp đơn có thể yêu cầu TGPL. Nhân thân và tính chất của yêu cầu trợ giúp không được xem xét. Khi tiếp nhận vụ việc, Quỹ TGPL giao vụ việc cho luật sư TGPL và trả chi phí cho họ, Tòa án sẽ miễn trách nhiệm trả chi phí xét xử. Điều kiện để được Quỹ TGPL hỗ trợ: (i) Vụ việc chưa sáng tỏ; (ii) Người nộp đơn thuộc hộ có thu nhập thấp theo quy định của Luật An sinh xã hội hoặc có thu nhập và tài sản dưới một mức nhất định; (iii) Người nộp đơn không phải kiểm tra điều kiện trong vụ việc hình sự bắt buộc có luật sư; (iv) Người nước ngoài cư trú hợp pháp ở Đài Loan có thể đề nghị TGPL nếu họ đáp ứng đủ các điều kiện trên. Đài Loan là nước chú trọng đến công tác TGPL nói chung và Quỹ TGPL nói riêng (LAF) khá phát triển. Theo Điều 1 của Luật TGPL, mục tiêu
  • 38. 38 của Quỹ TGPL là để bảo vệ quyền của người dân và cung cấp TGPL cần thiết cho những người không được bảo vệ bởi pháp luật do họ thiếu khả năng tài chính hoặc các lý do khác. Nó có thể được hiểu rằng người nhận TGPL của Quỹ không giới hạn cho những người không có khả năng tài chính và tất cả những người không thể được bảo vệ bởi pháp luật vì những lý do khác là người nhận trợ giúp từ Quỹ. Theo luật TGPL, người nào phạm tội bắt buộc phải có luật sư thì được miễn kiểm tra điều kiện TGPL. Do đó, một người giàu nhưng phạm tội vẫn có thể yêu cầu được TGPL và việc này đã gây nên sự tranh cãi. Tất cả các yêu cầu TGPL khác đều phải kiểm tra điều kiện và kết quả là Quỹ TGPL không thể trợ giúp cho những vụ việc liên quan đến nhân quyền và vụ việc là kết quả của việc hạn chế về cơ cấu tổ chức trong hệ thống tư pháp. Quỹ TGPL đã thu thập nhiều ý kiến khác nhau liên quan đến các tiêu chí về tài chính để được TGPL và bắt đầu xem xét những vấn đề này. Do đó, Quỹ đã luôn luôn giữ kết nối chặt chẽ với các nhóm phúc lợi xã hội khác nhau và quan tâm về nhu cầu nhân dân có hoàn cảnh khó khăn của người được TGPL. Tuy nhiên, với nguồn lực hạn chế của Quỹ, Quỹ không thể đáp ứng tất cả các nhu cầu của họ, trong khi những thay đổi của điều kiện xã hội và kinh tế đã gây ra tác động lớn đến nhóm có hoàn cảnh khó khăn. Vì vậy, Quỹ liên tục cập nhật các nhu cầu cấp thiết của người dân có hoàn cảnh khó khăn để cung cấp viện trợ kịp thời. Trong tương lai, Quỹ sẽ tiếp tục giữ mối quan tâm với những nhu cầu cụ thể của những người có hoàn cảnh khó khăn trong "Chương trình TGPL cho các trẻ em" và "Chương trình TGPL cho các nạn nhân của tội phạm buôn bán người". Trong năm 2004, Luật TGPL có hiệu lực tại Đài Loan, một ngân sách đã được chuẩn bị cho việc thành lập của Quỹ. Quỹ được tổ chức theo mô hình Hội đồng. Hội đồng quản trị là cơ quan quyết định cao nhất của Quỹ. Giám đốc được bổ nhiệm bởi Tổng thống có thời hạn 3 năm và không nhận được thù lao. Ban Giám đốc bao gồm hai đại diện từ Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ và Bộ
  • 39. 39 Quốc phòng, bốn luật sư do đề nghị của Đoàn luật sư quốc gia và luật sư địa phương là những người tích cực tham gia công tác TGPL, hai viện nghiên cứu hoặc các chuyên gia có kiến thức chuyên môn trong pháp luật hoặc trong các ngành liên quan, một đại diện của các nhóm có hoàn cảnh khó khăn và đại diện của các nhóm thổ dân Đại diện chính thức bao gồm ít hơn một nửa số thành viên Hội đồng [38]. Từ những phân tích, đánh giá về các quy định pháp luật về mô hình Quỹ TGPL của một số nước trên thế giới cho thấy giá trị tham khảo rất hữu ích đối với việc hoàn thiện pháp luật về Quỹ TGPL Việt Nam. Pháp luật về Quỹ TGPL của các nước trên thế giới quy định đa dạng các loại hình Quỹ TGPL: Quỹ TGPL ở phạm vi toàn quốc và Quỹ TGPL ở phạm vi địa phương, Quỹ TGPL với tư cách là một tổ chức tài chính của Nhà nước, tổ chức tài chính phi Chính phủ hoặc có thể được tổ chức theo mô hình Hội đồng gồm đại diện của một số Bộ, ngành trực tiếp quản lý hoạt động TGPL, các luật sư do Đoàn luật sư cử, các nhà nghiên cứu, chuyên gia pháp luật, đại diện của nhóm người có hoàn cảnh khó khăn - đối tượng hỗ trợ của hoạt động TGPL... Cách tổ chức của Quỹ TGPL như vậy giúp cho quá trình vận động, thu hút dễ dàng, thuận lợi và có nhiều kênh cũng như khách quan hơn trong quá trình cấp phát, hỗ trợ kinh phí cho hoạt động TGPL. Quỹ TGPL của các nước có chung mục tiêu là hỗ trợ để thúc đẩy hoạt động TGPL phát triển đối với những địa phương còn khó khăn, ngân sách nhà nước hạn hẹp. Quỹ TGPL góp phần đắc lực trong việc giúp nhà nước huy động các nguồn lực tài chính ngoài ngân sách để trang trải, đầu tư nhằm bảo đảm cho hệ thống TGPL phát triển đồng đều ở các vùng, miền. Pháp luật về Quỹ TGPL của các nước trên thế giới quy định đa dạng, phong phú về nguồn được hỗ trợ, có thể là tiền hoặc tài sản, vật tư, thiết bị, xe hơi cũ… hoặc quyên góp bằng cách mua sản phẩm hàng hóa do Quỹ sản xuất. Như vậy, ngoài việc tiếp nhận các nguồn tài trợ, Quỹ TGPL còn có hoạt động
  • 40. 40 kinh doanh thương mại với mục đích là thu lợi nhuận để hỗ trợ cho hoạt động TGPL. Quỹ TGPL theo mô hình này thể hiện sự năng động, linh hoạt, chủ động mà không chỉ thụ động nhận viện trợ, tài trợ của các tổ chức và cá nhân. Quỹ TGPL của các nước trên thế giới rất chú trọng đến việc hỗ trợ các vụ việc đặc thù cụ thể, những vụ việc có đối tượng đặc biệt hoặc có ảnh hưởng, tác động lớn tới xã hội, được sự quan tâm của dư luận xã hội. Với phương thức hỗ trợ như vậy một mặt giúp cho việc hỗ trợ của Quỹ thiết thực, đi trực tiếp vào các vụ việc có liên quan đến việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đối tượng hỗ trợ, mặt khác tạo ra được danh tiếng, uy tín của Quỹ để dễ dàng thu hút được các nhà hảo tâm, "mạnh thường quân" hỗ trợ cho Quỹ. Quỹ TGPL có quan hệ chặt chẽ với các chiến dịch và có các tình nguyện viên khắp nơi để đảm bảo sự thành công của Quỹ. Các chiến dịch công bằng pháp lý nhận được sự hỗ trợ lớn từ các công ty luật, luật sư và công chúng nói chung để giúp cung cấp TGPL cho hàng ngàn người khác có nhu cầu. KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 Để làm rõ những vấn đề lý luận liên quan đến pháp luật về Quỹ TGPL Việt Nam, tác giả đã tập trung làm rõ khái niệm và đặc điểm TGPL, quỹ, Quỹ TGPL và pháp luật về Quỹ TGPL, tham khảo một số mô hình quỹ TGPL theo pháp luật hiện hành của một số nước trên thế giới. Đây là những vấn đề nền tảng, mấu chốt, giúp hiểu rõ, hiểu đúng để định hình, khẳng định bản chất của các vấn đề nghiên cứu cũng như cung cấp cách nhìn nhận, đánh giá, khái quát hóa được những nội dung lý luận có liên quan trực tiếp đến Quỹ TGPL và pháp luật về quỹ TGPL. Vì vậy, những vấn đề lý luận ở Chương 1 là cơ sở để phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về Quỹ TGPL Việt Nam và nhận diện rõ những khó khăn, hạn chế và nguyên nhân. Đồng thời, là cơ sở để căn cứ vào quan điểm và yêu cầu hiện nay để hoàn thiện pháp luật Quỹ TGPL Việt Nam trong thời gian tới.
  • 41. 41 Chương 2 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ QUỸ TRỢ GIÚP PHÁP LÝ VIỆT NAM 2.1. THỰC TRẠNG VỊ TRÍ PHÁP LÝ CỦA QUỸ TRỢ GIÚP PHÁP LÝ VIỆT NAM Hệ thống tổ chức TGPL ở Việt Nam được thành lập chính thức theo Quyết định số 734/TTg ngày 06/9/1997 của Thủ tướng Chính phủ. Qua quá trình hình thành đi vào hoạt động và đạt được những kết quả bước đầu đáng khích lệ về cả về tổ chức, phạm vi hoạt động cũng như chất lượng dịch vụ pháp lý cung cấp, đáp ứng được nhu cầu của người dân và khẳng định tính đúng đắn của chính sách TGPL do Đảng và Nhà nước khởi xướng. Để bảo đảm có định chế tài chính ngoài ngân sách nhằm hỗ trợ, thúc đẩy hoạt động TGPL phát triển, trên cơ sở Quyết định số 734/QĐ-TTg ngày 06/9/1997 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập tổ chức TGPL cho người nghèo và đối tượng chính sách, Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành Quyết định số 257/2002/QĐ-BTP ngày 10/7/2002 về việc thành lập Quỹ TGPL Việt Nam và Quyết định số 258/2002/QĐ-BTP ngày 10/7/2002 ban hành Quy chế về tổ chức và hoạt động của Quỹ TGPL Việt Nam. Năm 2003, Quỹ TGPL Việt Nam chính thức đi vào hoạt động. Để tạo cơ sở pháp lý vững chắc hơn, khẳng định quyết tâm lớn của Đảng và Nhà nước trong việc bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, bảo đảm công bằng trong tiếp cận pháp luật, xây dựng một Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, ngày 24/6/2006, Quốc hội đã thông qua Luật TGPL. Điều 8 của Luật TGPL đã khẳng định vị trí, vai trò của Quỹ TGPL: Quỹ trợ giúp pháp lý được lập để hỗ trợ nâng cao chất lượng hoạt động nghiệp vụ trợ giúp pháp lý; hỗ trợ trang thiết bị, phương
  • 42. 42 tiện làm việc cho tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý ở địa phương có khó khăn về kinh tế. Nguồn tài chính của Quỹ trợ giúp pháp lý gồm đóng góp tự nguyện, tài trợ của cơ quan, tổ chức, các nhân, hỗ trợ từ ngân sách nhà nước và các nguồn hợp pháp khác. Quỹ trợ giúp pháp lý hoạt động không vì mục đích lợi nhuận, được miễn thuế. Việc quản lý và sử dụng Quỹ trợ giúp pháp lý phải đúng mục đích và theo quy định của pháp luật [40]. Ngày 12/01/2007, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 07/2007/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật TGPL tạo cơ sở pháp lý đồng bộ, thống nhất bảo đảm triển khai có hiệu quả các quy định của Luật. Điều 6 của Nghị định số 07/2007/NĐ-CP quy định cụ thể chức năng, vị trí, vai trò của Quỹ TGPL: Quỹ trợ giúp pháp lý được thành lập dựa trên sự đóng góp tự nguyện, tài trợ của tổ chức, cá nhân; hỗ trợ từ ngân sách nhà nước và các nguồn hợp pháp khác để hỗ trợ nâng cao chất lượng hoạt động nghiệp vụ trợ giúp pháp lý; hỗ trợ trang thiết bị, phương tiện làm việc cho tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý ở địa phương có khó khăn về kinh tế, bao gồm các tỉnh thuộc diện ngân sách trung ương phải hỗ trợ, các địa phương có khó khăn đột xuất và một số trường hợp đặc biệt khác. Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập Quỹ trợ giúp pháp lý. Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của Quỹ sau khi thống nhất ý kiến với Bộ trưởng Bộ Tài chính; chịu trách nhiệm trước Chính phủ trong việc quản lý hoạt động của Quỹ. Quỹ có tư cách pháp nhân, có con dấu riêng, được mở tài khoản tại Kho bạc Nhà nước và Ngân hàng. Quỹ có Giám đốc, Phó Giám đốc, kế toán và bộ phận giúp việc. Giám đốc Quỹ là người đại diện theo pháp luật của Quỹ, do Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức [17].
  • 43. 43 Thực hiện Luật và Nghị định số 07/2007/NĐ-CP của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 84/2008/QĐ-TTg ngày 30/6/2008 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập Quỹ TGPL Việt Nam, ngày 08/12/2008, Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành Quyết định số 08/2008/QĐ-BTP ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của Quỹ TGPL Việt Nam, theo đó Quỹ TGPL Việt Nam là đơn vị sự nghiệp trực thuộc Cục TGPL, là tổ chức tài chính nhà nước, hoạt động không vì mục đích lợi nhuận, được miễn thuế theo quy định của pháp luật hiện hành. Quỹ có chức năng xây dựng, khai thác, sử dụng nguồn tài chính để thực hiện hỗ trợ, thúc đẩy sự phát triển ổn định và có chất lượng của hoạt động TGPL trong phạm vi toàn quốc. Quỹ có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng, có trụ sở tại thành phố Hà Nội và các Chi nhánh tại một số khu vực trong nước, có tổ chức bộ máy chuyên trách. Tài khoản Quỹ được mở tại Kho bạc nhà nước để thực hiện thu, chi qua Kho bạc nhà nước đối với các khoản kinh phí thuộc ngân sách nhà nước cấp theo quy định của Luật Ngân sách; được mở tại Ngân hàng được phép hoạt động tại Việt Nam để thực hiện các khoản thu, chi từ các nguồn ngoài Ngân sách nhà nước [9]. Để xác định định hướng phát triển bền vững của Quỹ, chiến lược phát triển TGPL ở Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 (Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 678/QĐ-TTg ngày 10/5/2011) đã nêu rõ mục tiêu và giải pháp phát triển Quỹ: "Phát triển Quỹ trợ giúp pháp lý Việt Nam, nghiên cứu và thể chế hóa về việc mở rộng Chi nhánh của Quỹ trợ giúp pháp lý Việt Nam ở địa phương để thu hút ngày càng nhiều đóng góp của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước cho hoạt động trợ giúp pháp lý " [22, tr. 9]. Để thực hiện Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP ngày 27/12/2008 của Chính phủ về Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với huyện nghèo, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 52/2010/QĐ-TTg ngày 18/8/2010 về chính sách hỗ trợ pháp lý nhằm nâng cao nhận thức, hiểu biết pháp luật cho người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số tại các huyện