SlideShare a Scribd company logo
1 of 112
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
PHÙNG THANH HÀ
NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
PHÙNG THANH HÀ
NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật dân sự và tố tụng dân sự
Mã số : 60 38 01 03
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Bùi Thị Huyền
HÀ NỘI - 2014
Lêi cam ®oan
T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn
cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ
trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh
x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña
luËn v¨n ch­a tõng ®­îc ai c«ng bè trong bÊt kú
c«ng tr×nh nµo kh¸c.
T¸c gi¶ luËn v¨n
Phïng Thanh Hµ
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHIỆM VỤ, QUYỀN
HẠN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG TỐ
TỤNG DÂN SỰ
8
1.1. Khái niệm đặc điểm nhiệm vụ quyền hạn của Viện kiểm sát
nhân dân trong tố tụng dân sự
8
1.1.1. Khái niệm nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân
trong tố tụng dân sự
8
1.1.2. Đặc điểm nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong tố
tụng dân sự
11
1.2. Cơ sở xác định nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong
tố tụng dân sự
14
1.2.1. Xuất phát từ vị trí, vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bộ
máy nhà nước
15
1.2.2. Xuất phát từ việc hài hòa nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm
sát nhân dân với quyền tự định đoạt của đương sự trong tố
tụng dân sự
16
1.2.3. Xuất phát từ thực tiễn hoạt động xét xử của Tòa án 18
1.3. Khái quát về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong tố
tụng dân sự Việt Nam qua các thời kỳ
18
1.3.1. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện công tố (tiền thân của Viện kiểm
sát nhân dân) trong tố tụng dân sự giai đoạn từ 1945 đến 1959
18
1.3.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong tố 20
tụng dân sự giai đoạn từ 1960 đến 1988
1.3.3. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong tố
tụng dân sự từ năm 1989 đến trước năm 2004
21
1.3.4. Giai đoạn từ năm 2004 đến nay 23
1.4. Quy định của pháp luật một số quốc gia về nhiệm vụ, quyền
hạn của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự
26
1.4.1. Quy định của pháp luật Liên bang Nga 26
1.4.2. Quy định của pháp luật Cộng hòa Pháp 31
1.4.3. Quy định của pháp luật Cộng hòa nhân dân Trung Hoa 33
Chương 2: PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ NHIỆM VỤ,
QUYỀN HẠN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
36
2.1. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trước khi thụ lý và
chuẩn bị giải quyết vụ việc dân sự
36
2.1.1. Kiểm sát việc thụ lý vụ việc dân sự 36
2.1.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong quá trình kiểm
sát việc lập hồ sơ vụ việc dân sự
39
2.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi tham gia phiên
tòa sơ thẩm; phiên họp giải quyết việc dân sự
41
2.2.1. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát tại phiên tòa sơ thẩm 42
2.2.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của kiểm sát viên tại phiên họp sơ thẩm 56
2.3. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong việc kháng nghị
bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật và tham gia tố
tụng ở cấp phúc thẩm
57
2.3.1. Kháng nghị bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật 57
2.3.2. Viện kiểm sát nhân dân nghiên cứu hồ sơ vụ án trong giai
đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm
60
2.3.3. Viện kiểm sát nhân dân tham gia phiên tòa, phiên họp phúc thẩm 61
2.4. Kháng nghị bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và 63
tham gia phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm
2.4.1. Kháng nghị bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật 63
2.4.2. Viện kiểm sát nhân dân tham gia phiên tòa giám đốc thẩm,
tái thẩm
67
2.5. Thực hiện quyền yêu cầu, kiến nghị 69
2.5.1. Thực hiện quyền yêu cầu 69
2.5.2. Thực hiện quyền kiến nghị 72
Chương 3: THỰC TIỄN THỰC HIỆN, MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN
NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN
DÂN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
76
3.1. Thực tiễn thực hiện các quy định pháp luật Việt Nam hiện
hành về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong
tố tụng dân sự
76
3.1.1. Kiểm sát thụ lý vụ việc dân sự 77
3.1.2. Hoạt động kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án 79
3.1.3. Kiểm sát công tác xét xử của Tòa án 83
3.1.4. Công tác kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm 84
3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự
88
3.2.1. Hoàn thiện pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm
sát trong tố tụng dân sự
88
3.2.2. Một số kiến nghị khác nhằm bảo đảm thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn của Viện kiểm sát
97
KẾT LUẬN 100
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 102
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLDS : Bộ luật Dân sự
BLTTDS : Bộ luật Tố tụng dân sự
TAND : Tòa án nhân dân
TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao
VKS : Viện kiểm sát
VKSND : Viện kiểm sát nhân dân
VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) có nhiệm vụ, quyền hạn quan trọng
trong tố tụng dân sự, xét cả trên phương diện lý luận và thực tiễn. Lịch sử
pháp luật về VKSND Việt Nam trong tố tụng dân sự kể từ khi thành lập nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa đến nay đã trải qua hơn 60 năm tồn tại, trưởng
thành và phát triển, đã thực hiện được nhiều nội dung cải cách tư pháp. Bước
sang thế kỳ thứ XXI, tiến trình cải cách tổ chức và hoạt động của VKSND
trong lĩnh vực dân sự đã được tiến hành ngày càng sâu rộng.
Ngày 24/5/2005, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 48-NQ/TW
về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm
2010, định hướng đến năm 2020 trong đó xác định rõ: "Xây dựng và hoàn
thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát theo hướng bảo
đảm thực hiện tốt nhiệm vụ, quyền hạn công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp.
Nghiên cứu hướng tới chuyển thành Viện Công tố". Tiếp đó, ngày 02/6/2005,
Bộ Chính trị có Nghị quyết số 49-NQ/TW cũng tiếp tục khẳng định:
Trước mắt, Viện kiểm sát nhân dân giữ nguyên nhiệm vụ,
quyền hạn như hiện nay là thực hành quyền công tố và kiểm sát
hoạt động tư pháp. Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức phù hợp
với hệ thống tổ chức của Tòa án. Nghiên cứu chuyển Viện kiểm sát
thành Viện Công tố, tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt
động điều tra [9].
Như vậy, hai nghị quyết nêu trên đã chỉ rõ nhiều nội dung cụ thể về
cải cách tư pháp đòi hỏi phải được thể chế hóa, tạo cơ sở pháp lý cho việc đổi
mới tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát (VKS) nói chung cũng như vị trí,
nhiệm vụ, quyền hạn của VKS nói riêng trong tố tụng dân sự.
Theo tinh thần quy định của các Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án
dân sự năm 1989, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994,
2
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động năm 1996 thì Kiểm sát
viên tham gia kiểm sát việc tuân theo pháp luật hầu hết các vụ việc dân sự
nhưng tại Điều 21 Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2004 hạn chế phạm
vi tham gia phiên toà của VKS đối với vụ án dân sự.
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 quy định VKS tham gia phiên tòa đối
với những vụ án dân sự do Tòa án thu thập chứng cứ mà đương sự có khiếu
nại, tham gia các phiên họp giải quyết các việc dân sự thuộc thẩm quyền của
Tòa án, các vụ việc dân sự mà VKS kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án
dựa trên quan điểm tôn trọng quyền tự định đoạt của các bên đương sự trong tố
tụng dân sự. Thực tiễn thi hành BLTTDS năm 2004 cho thấy quy định của
BLTTDS về sự tham gia của VKS trong tố tụng dân sự đã bộc lộ những hạn
chế, bất cập, chưa tạo điều kiện cho VKS thực hiện được đầy đủ nhiệm vụ,
quyền hạn, nhiệm vụ của mình theo quy định của Hiến pháp và Luật tổ chức
VKSND. Trong điều kiện thực tiễn của Việt Nam, khi mà trình độ dân trí còn
hạn chế, người dân còn gặp nhiều khó khăn trong việc tự chứng minh để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước Tòa án, khi có tranh chấp nhiều
người dân chưa có điều kiện mời Luật sư bảo vệ quyền lợi cho mình và đội ngũ
Luật sư hiện nay cũng chưa đáp ứng được yêu cầu tham gia tất cả các phiên
tòa. Do đó, Luật sửa đổi bổ sung BLTTDS năm 2011 đã sửa đổi quy định về
nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong tố tụng dân sự, qua đó thực hiện có hiệu
quả nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
Thực tiễn đó, đòi hỏi cần tiếp tục nghiên cứu về nhiệm vụ, quyền hạn
của VKS trong tố tụng dân sự nhằm góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của
VKSND trong tố tụng dân sự, vì vậy tác giả đã lựa chọn đề tài: "Nhiệm vụ,
quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự Việt Nam" để
làm luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong tố tụng dân sự là vấn đề không
chỉ được ngành Kiểm sát mà còn được cả xã hội quan tâm. Do yêu cầu và đòi
3
hỏi khách quan nêu trên, đã có nhiều bài viết trên các luận văn thạc sĩ, tạp chí
chuyên ngành, sách chuyên khảo, chuyên đề tổng kết rút kinh nghiệm của các
ngành Kiểm sát, Tòa án… liên quan đến nội dung, nhiệm vụ, quyền hạn của
VKSND trong tố tụng dân sự. Từ tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
nêu trên, có thể phân loại tài liệu thành hai nhóm sau:
- Nhóm thứ nhất, các bài viết liên quan đến vị trí, chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn của VKS trong tố tụng dân sự theo yêu cầu cải cách tư pháp
như: "Đổi mới vị trí, vai trò của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự theo yêu
cầu cải cách tư pháp" của tác giả Nguyễn Minh Hằng, sách chuyên khảo, Nhà
xuất bản Tư pháp, năm 2008; "Hoàn thiện chế định Viện kiểm sát nhân dân
trong Bộ luật Tố tụng dân sự", Đề tài khoa học cấp Bộ của tiến sĩ Trần Văn
Trung, năm 2003; Luận án tiến sĩ "Quá trình hình thành, phát triển và đổi
mới Viện kiểm sát nhân dân theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam", của
tác giả Trần Văn Nam, năm 2010; Luận văn thạc sĩ luật học "Cơ sở lý luận và
thực tiễn đổi mới tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân đáp ứng yêu cầu cải
cách tư pháp ở Việt Nam" của tác giả Hoàng Thế Anh, năm 2006; Luận văn
thạc sĩ luật học "Sự tham gia tố tụng của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng
dân sự Việt Nam" của tác giả Võ Thị Phượng, năm 2010; "Vị trí, vai trò của
Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành", "Nhận thức đúng thẩm
quyền và trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân trong Bộ luật Tố tụng dân
sự" của tác giả Khuất Văn Nga, đăng trên Tạp chí Kiểm sát, số 09 năm 2004...
- Nhóm thứ hai, nhóm các chuyên đề báo cáo tổng kết, rút kinh nghiệm
như: "Kết luận của TS. Khuất Văn Nga - Nguyên Phó Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao tại Hội nghị sơ kết 1 năm thực hiện Bộ luật Tố tụng dân sự về
thực hiện các quy định về quyền và trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân
trong tố tụng dân sự", Tạp chí Kiểm sát, số 18, tháng 9/2006; "Những kiến nghị
từ hoạt động thực tiễn qua 1 năm thực hiện các quy định của Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2004" của Tòa soạn Tạp chí Kiểm sát, Tạp chí Kiểm sát, số 18,
4
tháng 9/2006; "Việc áp dụng một số quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự" của
Toà soạn Tạp chí Kiểm sát, Tạp chí Kiểm sát, số 13, tháng 3/2006; "Vị trí, vai
trò Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự theo yêu cầu cải cách tư pháp" của
Nguyễn Ngọc Khánh, Tạp chí Kiểm sát, số 14-16, tháng 7, 8 năm 2008; "Báo
cáo tổng kết 5 năm thực hiện Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 kể từ ngày Bộ
luật Tố tụng dân sự có hiệu lực pháp luật đến ngày 31/5/2005" của VKSNDTC...
Qua nghiên cứu những công trình, bài viết nêu trên cho thấy: có nhiều
quan điểm, lý luận tác giả có thể kế thừa và phát triển được khi nghiên cứu và
hoàn thành đề tài. Tuy vậy, các công trình, bài viết trên chủ yếu đi sâu vào
nghiên cứu các lĩnh vực chung nhất về nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà
nước; các vấn đề về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong tố tụng
dân sự dưới góc độ của Luật nhà nước. Hoặc có công trình, bài viết tuy có
trực tiếp đề cập đến vấn đề này, nhưng do thời điểm nghiên cứu đã lâu nên
không cập nhật được những vấn đề đang đặt ra trong lý luận và thực tiễn hiện
nay, nhất là trong điều kiện BLTTDS năm 2004 vừa được Quốc hội sửa đổi,
bổ sung năm 2011 với nhiều quy định mới, nên vấn đề này cần tiếp tục được
nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm rõ các cơ sở lý luận và
thực tiễn thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong tố tụng dân sự; đánh
giá tính có căn cứ và khoa học về thực trạng pháp luật về nhiệm vụ quyền hạn
của VKS trong tố tụng dân sự, từ đó đề xuất giải pháp hoàn thiện và bảo đảm
thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong tố tụng dân sự.
3.2. Nhiệm vụ
Từ mục đích nêu trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Làm rõ cơ sở lý luận về nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong tố tụng
dân sự.
5
- Làm rõ nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong trong tố tụng dân sự
qua các thời kỳ, đặc biệt là theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện
hành từ đó xác định những hiệu quả, hạn chế và nguyên nhân.
- Đề xuất những phương hướng, giải pháp cơ bản nhằm bảo đảm thực
hiện tốt nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong tố tụng dân sự trong thời gian
tới, góp phần bảo đảm cho việc giải quyết các vụ án dân sự của Tòa án có căn
cứ, đúng pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức,
xã hội và công dân.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Những vấn đề lý luận và thực tiễn, các quy định của pháp luật và thực
tiễn thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong tố tụng dân sự theo yêu
cầu cải cách tư pháp.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong tố tụng dân sự; việc tổ chức thực
hiện các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong tố tụng dân sự trên
thực tế và những quy định của pháp luật có liên quan đến các vấn đề nêu trên.
Phạm vi nghiên cứu thực tiễn thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của VKS Việt Nam
trong tố tụng dân sự trong toàn ngành Kiểm sát, thời điểm lấy số liệu từ năm 2005
đến nay. Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, tác giả chỉ nghiên cứu về nhiệm
vụ, quyền hạn của VKS trong việc kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự tại
Tòa án (ở Việt Nam, hiện nay, có hai quan điểm khác nhau về tố tụng dân sự.
Quan điểm thứ nhất cho rằng, tố tụng dân sự, bao gồm toàn bộ trình tự, thủ tục
giải quyết vụ việc dân sự và thi hành án dân sự. Quan điểm khác cho rằng, tố
tụng dân sự chỉ bao gồm trình tự, thủ tục giải quyết vụ việc dân sự tại Tòa án).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài được thực hiện trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp luật; đường lối
6
quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; về đổi mới tổ chức
hoạt động của VKS trong điều kiện cải cách tư pháp theo Nghị quyết số
08/NQ-TW ngày 02/01/2002 và Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 2/6/2005 của
Bộ Chính trị và những thành tựu của khoa học pháp lý trên thế giới.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử của triết học Mác - Lênin; các khoa học chuyên
ngành khác đặc biệt là khoa học về Lý luận lịch sử nhà nước và pháp luật, chú
trọng đến phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, kết hợp lý luận
và thực tiễn.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Phân tích và làm rõ được cơ sở lý luận và thực tiễn trong pháp luật
về nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong tố tụng dân sự trước yêu cầu cải
cách tư pháp hiện nay ở Việt Nam.
- Đề xuất những phương hướng cơ bản nhằm hoàn thiện pháp luật và
các giải pháp bảo đảm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong tố
tụng dân sự, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Góp phần làm sáng tỏ về lý luận cũng như thực trạng pháp luật về
nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong tố tụng dân sự từ đó góp phần tiếp tục
đổi mới nhiệm vụ, quyền hạn và việc hoàn thiện mô hình hoạt động của
VKSND trong tố tụng dân sự.
- Nâng cao chất lượng công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ việc
dân sự. Đảm bảo cho việc giải quyết các vụ việc dân sự của Tòa án khách
quan, có căn cứ, đúng pháp luật.
- Đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu nghiên cứu, tham khảo cho các
nhà khoa học, những người làm công tác thực tiễn, đồng thời có thể được sử
dụng cho việc nghiên cứu, giảng dạy cho các cơ sở đào tạo khoa học pháp lý.
7
- Đề tài là nguồn tài liệu để phản ánh một số vấn đề từ thực tế giúp
cho liên ngành VKS - Tòa án nghiên cứu khi ban hành các thông tư, hướng
dẫn các vấn đề còn bất cập trong việc áp dụng, thực hiện BLTTDS trong thời
gian tới. Đồng thời, đề xuất với cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiếp tục
chỉnh lý, sửa đổi, bổ sung, tiếp tục hoàn thiện BLTTDS, nhằm đảm bảo cho
pháp luật tố tụng dân sự được thực hiện nghiêm chỉnh và thống nhất trong
toàn quốc.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương.
Chương 1: Những vấn đề lí luận về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện
kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự.
Chương 2: Pháp luật Việt Nam hiện hành về nhiệm vụ, quyền hạn của
Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự.
Chương 3: Thực tiễn thực hiện, một số kiến nghị nhằm hoàn thiện
pháp luật và bảo đảm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân
dân trong tố tụng dân sự.
8
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1. KHÁI NIỆM ĐẶC ĐIỂM NHIỆM VỤ QUYỀN HẠN CỦA VIỆN KIỂM
SÁT NHÂN DÂN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1.1. Khái niệm nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân
trong tố tụng dân sự
Hiến pháp năm 2013, BLTTDS đã khẳng định VKSND là cơ quan
chịu trách nhiệm kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự. Các
hoạt động tố tụng dân sự của những người tiến hành tố tụng dân sự và những
người tham gia tố tụng dân sự là đối tượng kiểm sát của VKSND. Kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự là giám sát, kiểm tra tính hợp
pháp và tính có căn cứ đối với hành vi của các chủ thể tiến hành và tham gia
tố tụng, đối với văn bản áp dụng pháp luật giải quyết vụ việc dân sự của chủ thể
tiến hành tố tụng và đó là hình thức thực hiện quyền lực nhà nước, một trong
những hoạt động thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND.
Mục đích của hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự
là nhằm bảo đảm cho các hành vi xử sự của các chủ thể tiến hành, tham gia tố
tụng và văn bản áp dụng pháp luật giải quyết vụ việc dân sự được thực hiện
theo quy định của pháp luật. Nội dung hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong tố tụng dân sự là việc VKSND sử dụng các biện pháp, quyền năng
pháp lý do BLTTDS quy định để kịp thời phát hiện và loại bỏ vi phạm, tiêu
cực của cơ quan, người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng,
nhằm bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, bảo
vệ lợi ích nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của đương
sự. Để có thể sử dụng được các biện pháp, quyền năng pháp lý quy định trong
BLTTDS, Nhà nước trao cho VKSND những nhiệm vụ, quyền hạn nhất định.
9
Trong khoa học pháp lý, "thẩm quyền", "nhiệm vụ" và "nghĩa vụ" là
các khái niệm khác nhau. Thẩm quyền là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ
hành động, quyết định của các cơ quan, tổ chức thuộc bộ máy nhà nước do
pháp luật quy định [39, tr. 459]. Khái niệm "thẩm quyền" bao hàm hai nội
dung chính là quyền hành động và quyền quyết định của cơ quan, tổ chức
trong bộ máy nhà nước. Quyền hành động là quyền được làm những công
việc nhất định, còn quyền quyết định là quyền hạn giải quyết công việc đó
trong phạm vi pháp luật cho phép (thẩm quyền hành động). Nghĩa vụ là việc
mà theo đó một chủ thể (cá nhân, cơ quan, tổ chức) phải thực hiện hoặc không
thực hiện khi tham gia vào một quan hệ pháp luật.
Thuật ngữ "nhiệm vụ", theo Đại Từ điển tiếng Việt được hiểu là "công
việc phải làm, gách vác" [46, tr. 1384] hay "công việc phải làm vì một mục
đích và trong một thời gian nhất định" [17]. Theo cách giải thích này thì
nhiệm vụ nói chung là công việc mang tính chất bắt buộc đối với chủ thể phải
thực hiện. Nhiệm vụ của một chủ thể xuất phát từ tư cách chủ thể trong quan
hệ xã hội mà chủ thể đó tham gia và được pháp luật quy định. Cùng một chủ
thể, nhưng mỗi quan hệ xã hội khác nhau thì quy định pháp luật xác định
nhiệm vụ khác nhau. Do đó, có thể hiểu nhiệm vụ của cơ quan VKSND là
những hoạt động cụ thể của VKSND trong một thời gian nhất định nhằm thực
hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành mình để cùng thực hiện nhiệm vụ của bộ
máy nhà nước trên cơ sở quy định của Hiến pháp và pháp luật.
Nhiệm vụ của VKSND trong tố tụng dân sự là những yêu cầu cụ thể
do Nhà nước đặt ra và được quy định trong Hiến pháp, Luật tổ chức VKSND,
BLTTDS và các văn bản pháp luật khác mà VKSND phải thực hiện bằng
những hình thức, biện pháp nhất định trong quá trình giải quyết vụ việc dân
sự, cụ thể là:
- Bảo đảm việc giải quyết các vụ án dân sự ở Tòa án các cấp nhanh
chóng, khách quan, toàn diện, đầy đủ và kịp thời.
10
- Bảo đảm mọi bản án, quyết định dân sự của Tòa án có căn cứ và
đúng pháp luật.
- Bảo đảm mọi bản án, quyết định dân sự của của Tòa án đã có hiệu
lực pháp luật được đưa ra thi hành đúng pháp luật, kịp thời.
Như vậy, nhiệm vụ của VKSND trong tố tụng dân sự là những công
việc cụ thể do pháp luật quy định đối với VKSND trong các giai đoạn khác
nhau của quá trình tố tụng các vụ việc dân sự (từ khi Tòa án thụ lý, chuẩn bị
xét xử đến phiên tòa giải quyết vụ việc dân sự) nhằm kiểm sát việc tuân theo
pháp luật của Tòa án và những người tham gia tố tụng.
Còn về khái niệm "quyền hạn" được hiểu là quyền theo cương vị,
chức vụ cho phép [46]. Dưới góc độ pháp lý, quyền hạn của một cơ quan, tổ
chức hoặc cá nhân được xác định theo phạm vi nội dung, lĩnh vực hoạt động,
cấp và chức vụ, vị trí công tác và trong phạm vi không gian, thời gian nhất
định theo quy định của pháp luật [39, tr. 651].
Quyền hạn thường gắn chủ thể với một cương vị, tư cách cụ thể.
Trong khoa học pháp lý, quyền hạn được gắn liền với cơ quan, tổ chức trong
bộ máy nhà nước hoặc của người có thẩm quyền của cơ quan, tổ chức đó.
Quyền hạn của cơ quan, tổ chức là quyền quyết định giải quyết công việc
trong phạm vi thẩm quyền của cơ quan, tổ chức. Quyền hạn của người có
thẩm quyền của cơ quan, tổ chức là quyền quyết định giải quyết công việc
trong phạm vi thẩm quyền của cơ quan, tổ chức đó. Đối với quyền của chủ thể
khi tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự xuất phát từ sự thỏa thuận hoặc do
pháp luật quy định.
Quyền hạn và nhiệm vụ là hai khái niệm khác nhau, song lại có mối
liên hệ chặt chẽ. Nhiệm vụ của VKS là việc phải thực hiện các chức năng tố
tụng mà BLTTDS quy định, nếu không thực hiện hoặc thực hiện không đúng
nhiệm vụ thì tùy theo tính chất và mức độ giải quyết vụ việc dân sự sẽ không
chính xác. Nhiệm vụ của VKS trong tố tụng dân sự được xác định bắt buộc
11
trong những trường hợp quy định tại Điều 21 BLTTDS. Để thực hiện tốt
nhiệm vụ của mình pháp luật cần trao cho VKS những quyền hạn đầy đủ.
Tuy nhiên, khái niệm quyền hạn và nhiệm vụ đặt trong một điều kiện
với một chủ thể xác định thì quyền hạn và nhiệm vụ là tương đối thống nhất.
Pháp luật quy định nhiệm vụ của VKS phải thực hiện những công việc gì,
đồng nghĩa là pháp luật trao cho VKS những quyền hạn để thực hiện nhiệm
vụ đó. Nhiệm vụ, quyền hạn của VKS nói chung được quy định trong Luật tổ
chức VKS. Còn trong tố tụng dân sự, nhiệm vụ, quyền hạn của VKS được
quy định cụ thể trong các văn bản pháp luật tố tụng dân sự.
Như vậy, quyền hạn của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự là quyền
quyết định thực hiện các hoạt động tố tụng (từ khi Tòa án thụ lý, chuẩn bị xét
xử đến phiên tòa giải quyết vụ việc dân sự) nhằm kiểm sát việc tuân theo pháp
luật của Tòa án và những người tham gia tố tụng.
1.1.2. Đặc điểm nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong tố
tụng dân sự
Thứ nhất, nhiệm vụ quyền hạn của VKS do pháp luật quy định, VKS
không thực hiện những hoạt động ngoài nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật
quy định. Đây chính là nội dung trong nguyên tắc pháp chế - nguyên tắc quan
trọng trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước, của tổ chức xã
hội, của những người có chức vụ, quyền hạn và của công dân. Đây là nguyên
tắc hiến định được hiểu là việc thường xuyên, nhất quán tuân thủ và chấp
hành các quy định của Hiến pháp, của các đạo luật và các văn bản quy phạm
pháp luật khác của tất cả các cơ quan nhà nước và các tổ chức xã hội, của
những người có chức vụ, quyền hạn, của công dân. Trong hoạt động của
VKS, nguyên tắc bảo đảm pháp chế hay đảm bảo thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn của VKS do pháp luật quy định, không thực hiện những hoạt động ngoài
nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy định được cụ thể hóa trong việc xác lập
tiến hành kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự. Nguyên tắc
12
này đòi hỏi mọi hoạt động của VKS phải được luật điều chỉnh chặt chẽ, cụ thể
và các quy định của pháp luật phải được tuân thủ một cách nghiêm chỉnh,
thống nhất. Trong trường hợp có sự vi phạm pháp luật, VKS có trách nhiệm
phải áp dụng biện pháp để khắc phục vi phạm đó.
Để đảm bảo việc kiểm sát các vụ việc dân sự khách quan, công bằng,
đúng pháp luật thì trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình VKS, Viện
trưởng VKS và các kiểm sát viên phải độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Đây
là vấn đề có ý nghĩa rất lớn đối với việc giải quyết vụ việc dân sự nên việc chỉ
thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy định. Theo Hiến pháp
và pháp luật hiện hành, VKSND là cơ quan có chức năng thực hành quyền
công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Với chức năng, nhiệm vụ của
mình, VKSND thực hiện quyền lực nhà nước, trực tiếp tham gia giám sát các
hoạt động tư pháp góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ
xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân; bảo đảm trật tự xã hội.
Khi thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt
động giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án nhân dân (TAND), VKSND có
nhiệm vụ, quyền hạn kiểm sát thông báo, quyết định và các văn bản có liên
quan đến việc giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án; kiểm sát việc chuyển giao
các loại văn bản có liên quan đến việc giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án;
kiểm sát việc chuyển giao các loại văn bản trên của Tòa án có đúng quy định
của BLTTDS hay không...
Thứ hai, nhiệm vụ, quyền hạn bảo đảm cho VKS thực hiện tốt chức
năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án và những người tiến hành
tố tụng trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, góp phần bảo đảm tính
đúng đắn, khách quan của bản án, quyết định của Tòa án. VKSND là chủ thể
của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự, có những quyền và nghĩa vụ tố tụng
nhất định (quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị) với vị trí pháp lý hoàn toàn
khác với vị trí của các chủ thể tham gia tố tụng để thực hiện chức năng kiểm
13
sát việc tuân theo pháp luật trong toàn bộ quá trình tố tụng dân sự. Là cơ
quan tiến hành tố tụng, song khác với TAND - chủ thể chính trong quan hệ
pháp luật tố tụng dân sự, sự tham gia của VKSND không mang tính chất bắt
buộc thường xuyên liên tục. Về mặt pháp lý, VKSND tham gia kiểm sát việc
thụ lý, trả lại đơn khởi kiện, áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, kiểm sát
bản án...
Khi tham gia phiên tòa, phiên họp kiểm sát viên đại diện cho VKSND
thực hiện chức năng, nhiệm vụ của VKSND được pháp luật tố tụng dân sự
quy định. Đó là kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án, người tham gia
tố tụng. Vấn đề này được thể hiện rõ nét nhất tại phiên tòa mà chủ thể tiến
hành là kiểm sát viên. Trong tố tụng dân sự, VKS là chủ thể đặc biệt. Khi
thực hiện chức năng giám sát hoạt động giải quyết vụ việc dân sự tại phiên
tòa, phiên họp trong phạm vi quyền hạn của mình, kiểm sát viên phải tiến
hành theo trình tự, thủ tục mà pháp luật quy định. Bên cạnh đó, VKSND còn
kiểm sát hoạt động tố tụng của các đương sự và cơ quan tiến hành tố tụng.
Hoạt động kiểm sát của VKSND góp phần bảo đảm cho việc giải quyết vụ
việc dân sự của Tòa án được đúng đắn, khách quan.
Bộ luật Tố tụng dân sự và các văn bản quy phạm pháp luật đã khẳng định
rõ về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND. Theo đó, VKSND
vẫn là cơ quan tiến hành tố tụng dân sự, đại diện VKSND là người tiến hành
tố tụng. Được coi là cơ quan tiến hành tố tụng, song các quyền và nghĩa vụ của
VKSND chủ yếu để thực hiên chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
quá trình giải quyết các vụ việc dân sự tại Tòa án, nhằm đảm bảo tính hợp
pháp và có căn cứ trong hoạt động xét xử của Tòa án. Mặc dù, đều là cơ quan
tiến hành tố tụng nhưng khác với Tòa án, VKS không ra bản án, quyết định
giải quyết nội dung vụ việc dân sự. Mục đích tham gia tố tụng chủ yếu của
VKSND là nhằm thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của
các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng.
14
Như vậy, sự tham gia tố tụng của VKSND trong tố tụng dân sự là việc
VKSND tham gia với tư cách là cơ quan tiến hành tố tụng, có chức năng kiểm
sát việc tuân theo pháp luật nhằm đảm bảo cho pháp luật được thi hành
nghiêm chỉnh, thống nhất trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự tại Tòa án.
Thứ ba, nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND được thực hiện thông qua
hoạt động của kiểm sát viên và Viện trưởng VKS. Đứng đầu VKS là Viện
trưởng VKS. Trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự, Viện trưởng VKS
có nhiều nhiệm vụ, quyền hạn như: tổ chức và chỉ đạo thực hiện công tác
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng dân sự; quyết định
phân công kiểm sát viên thực hiện kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
hoạt động tố tụng, tham gia phiên tòa xét xử vụ án dân sự, phiên họp giải
quyết việc dân sự theo quy định của Bộ luật này; kiểm tra hoạt động kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong tố tụng của kiểm sát viên; quyết định thay đổi
kiểm sát viên; kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm, bản
án, quyết định của Tòa án theo quy định của Bộ luật này; giải quyết khiếu nại, tố
cáo theo quy định. Kiểm sát viên là một trong những người tiến hành tố tụng
tham gia bảo đảm tuân thủ pháp luật trong quá trình giải quyết việc dân sự theo
quy định của BLTTDS. Trong tố tụng dân sự, kiểm sát viên khi được phân
công thực hiện kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng dân
sự có nhiệm vụ, quyền hạn như: kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc
giải quyết các vụ án dân sự, giải quyết việc dân sự của Tòa án. Đảm bảo việc
giải quyết vụ việc dân sự tân thủ đầy đủ các quy định pháp luật về thủ tục,
cũng như nội dung; kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những người tham
gia tố tụng như: nguyên đơn, bị đơn, người làm chứng, người phiên dịch...
1.2. CƠ SỞ XÁC ĐỊNH NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA VIỆN KIỂM SÁT
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
Trong tố tụng dân sự, để xác định được nhiệm vụ, quyền hạn của
VKS cần dựa vào những yếu tố như: vị trí, vai trò của VKS; tính chất của
15
vụ việc dân sự; việc thực quyền tự định đoạt của đương sự và việc thực
hiện quyền, nghĩa vụ của đương sự; thực tiễn hoạt động xét xử của Tòa án.
1.2.1. Xuất phát từ vị trí, vai trò của Viện kiểm sát nhân dân
trong bộ máy nhà nước
Trên thế giới, ở các nước khác nhau, theo hệ thống pháp luật khác
nhau thì vị trí, vai trò của VKS trong bộ máy nhà nước cũng khác nhau.
Trong mô hình của các nước theo hệ thống luật Anh - Mỹ (hệ thống common
law), hệ thống cơ quan công tố được tổ chức rất gọn nhẹ, chủ yếu tham gia
vào các lĩnh vực hình sự. Các công tố viên có thể được tuyển chọn theo từng
vụ việc cụ thể. Mặc dù hiện nay tình hình đã có nhiều thay đổi nhưng ở các
nước này vẫn tồn tại một quan niệm: "Càng ít có sự can thiệp của Nhà nước,
càng ít có sự can thiệp của pháp luật thì xã hội càng vận hành có hiệu quả".
Theo pháp luật của những nước này (ví dụ Đan Mạch, Thụy Điển...) thì Viện
công tố không có vai trò gì trong vụ án dân sự. Trong quá trình tố tụng, các
công tố viên không tham gia trong quá trình lập hồ sơ, xét xử, không có
quyền kháng nghị [32, tr. 35]...
Đối với các nước theo hệ thống luật lục địa (civil law) như Pháp, Việt
Nam... thì Nhà nước hình thành một hệ thống cơ quan công tố mạnh, có vai
trò lớn trong lĩnh vực kiểm sát việc tuân theo pháp luật và thẩm quyền kháng
nghị trong các thủ tục tố tụng. Từ đó, mà nhiệm vụ, quyền hạn của Viện công
tố (hay VKS) cũng lớn hơn. Tại Pháp, trong lĩnh vực tố tụng dân sự, Viện
công tố có hai vai trò chính: thực hiện quyền khởi kiện như một bên đương
sự; thực hiện quyền yêu cầu áp dụng pháp luật, với tư cách như một cơ quan
tiến hành tố tụng. Ngoài ra, Viện công tố còn có một hình thức can thiệp thứ
ba với vai trò là người đại diện cho các cơ quan nhà nước [15, tr. 149].
Tại Việt Nam, qua các thời kỳ khác nhau, mà VKS cũng có những vai
trò khác nhau. Trước năm 2004, vai trò của VKSND trong lĩnh vực dân sự
được mở rộng. Theo đó mà Kiểm sát viên phải tham gia tất cả các giai đoạn tố
16
tụng giúp quá trình kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự được sâu rộng. Đến
năm 2004, vai trò tham gia tố tụng của VKSND bị hạn chế đồng thời bỏ đi
quyền khởi tố vụ án dân sự của VKSND. Trước yêu cầu của thực tiễn, từ các
tranh chấp dân sự ngày càng gia tăng và phức tạp trong khi việc xét xử của
Tòa án còn nhiều sai sót cần có cơ chế giám sát, kiểm tra, từ năm 2012 đến
nay, vai trò của VKS trong tố tụng dân sự ở nước ta lại có những thay đổi
theo hướng tăng cường. Từ đó, nhiệm vụ và quyền hạn của VKS cũng được
bổ sung nhất định theo hướng VKS tham gia phiên tòa sơ thẩm trong một số
trường hợp theo quy định của pháp luật, đối với các phiên họp sơ thẩm giải
quyết việc dân sự, phiên tòa, phiên họp phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm
thì VKS phải tham gia toàn bộ.
Như vậy, nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong tố tụng dân sự phụ
thuộc vào vị trí, vai trò của VKS hay Viện Công tố trong tổ chức bộ máy nhà
nước. Ở Việt Nam nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong tố tụng dân sự phụ
thuộc vào vị trí, vai trò của VKS trong tổ chức bộ máy nhà nước ở các giai
đoạn lịch sử khác nhau. Do đó, khi xây dựng các quy định về nhiệm vụ,
quyền hạn của VKS trong tố tụng dân sự hiện nay cần căn cứ vào chức năng
của VKS trong Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức VKSND.
1.2.2. Xuất phát từ việc hài hòa nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm
sát nhân dân với quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự
Khác với pháp luật tố tụng hình sự giải quyết quan hệ giữa một bên
là Nhà nước, đại diện cho lợi ích công và một bên là người phạm tội do đó,
trong đó, VKS với vai trò đại diện Nhà nước ra cáo trạng buộc tội đối với bị
cáo. Pháp luật tố tụng dân sự giải quyết những tranh chấp các lợi ích tư giữa
các đương sự. Mục đích trực tiếp của pháp luật tố tụng dân sự là bảo vệ lợi
ích tư của các đương sự nên một trong những nguyên tắc cơ bản của pháp
luật tố tụng dân sự là trao quyền tự quyết cho đương sự - chủ thể của các lợi
ích. Các chủ thể tiến hành tố tụng chỉ thực hiện các nhiệm vụ làm sáng tỏ vụ
17
việc để giải quyết trên cơ sở pháp luật chứ không thay mặt cho đương sự
quyết định những lợi ích của chính họ. Do đó, trong tố tụng dân sự quyền tự
định đoạt của đương sự luôn được tôn trọng và bảo đảm thực hiện. Việc
tham gia tố tụng của VKS nhằm bảo đảm việc giải quyết vụ việc dân sự của
Tòa án được chính xác, khách quan, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự nhưng không được hạn chế quyền tự định đoạt của
đương sự. Mọi cá nhân có quyền tự mình lựa chọn những phương thức giải
quyết tranh chấp dân sự miễn sao không trái pháp luật và đạo đức xã hội.
Những biện pháp giải quyết tranh chấp thay thế như hòa giải, thương lượng,
trọng tài đều được khuyến khích. Trong trường hợp không thỏa mãn với
những giải pháp đó, các chủ thể có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết theo
trình tự tố tụng dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Trong
suốt quá trình tố tụng kể từ khi khởi kiện đến trước khi kết thúc phiên tòa,
các đương sự có quyền thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu của mình. Tuy nhiên,
để đảm bảo quyền tranh tụng, việc thực hiện nguyên tắc này cũng có những
ngoại lệ nhất định. Đó là trường hợp đương sự không được thay đổi, bổ sung
yêu cầu nếu việc thay đổi, bổ sung yêu cầu đó diễn ra tại phiên tòa mà vượt
quá phạm vi khởi kiện ban đầu.
Trong tố tụng dân sự, do quan hệ pháp luật dân sự đa dạng về nội
dung, hình thức và chủ thể tham gia. Khi tham gia các quan hệ dân sự, các
chủ thể thực hiện quyền và nghĩa vụ theo đúng những nội dung đã cam kết và
quy định của pháp luật. Tuy nhiên, khi một trong các bên không tuân thủ các
quy định pháp luật hoặc không tuân thủ thỏa thuận đã cam kết, xâm phạm đến
lợi ích của bên kia thì bên bị vi phạm có quyền tự bảo vệ hoặc yêu cầu cơ
quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ. Do đó, khi xây dựng quy định về nhiệm
vụ, quyền hạn của VKS trong tố tụng dân sự như quyền khởi tố, kháng nghị,
kiến nghị... phải xem xét đến quyền tự định đoạt của đương sự.
18
1.2.3. Xuất phát từ thực tiễn hoạt động xét xử của Tòa án
Số lượng các vụ việc dân sự mà ngành Tòa án thụ lý giải quyết ngày
càng tăng (trong 3 năm 2011- 2013, số vụ việc dân sự mà toàn ngành thụ lý
tăng từ 88.758 vụ việc lên 111.873 vụ việc [31]), tỷ lệ các bản án, quyết định
bị hủy, sửa vẫn còn nhiều (năm 2013 đối với các vụ việc dân sự: Tòa án cấp
phúc thẩm sửa 2.164 vụ án do cấp sơ thẩm sai; 864 vụ án do có tình tiết mới;
hủy 1.424 vụ án do cấp sơ thẩm sai, 226 vụ án do có tình tiết mới; ở giai đoạn
giám đốc thẩm đã hủy 805 bản án, quyết định của Tòa án cấp dưới [31]. Điều
đó cho thấy sai lầm trong việc giải quyết các vụ án dân sự vẫn còn tồn tại.
Bên cạnh đó, không loại trừ khả năng còn có những bản án, quyết định của
Tòa án có sai sót nhưng không bị phát hiện ra. Do đó, đòi hỏi phải có cơ chế
kiểm tra, giám sát bản án, quyết định của Tòa án một cách có hiệu quả. Trong
khi đó hiệu quả giám sát từ phía các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội còn hạn
chế, trình độ hiểu biết pháp luật của người dân chưa cao (đặc biệt là một bộ
phận người dân như người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất,
tâm thần... luôn bị thua thiệt khi tham gia tố tụng) nên sự tham gia vào quá
trình tố tụng dân sự của VKS vẫn cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Hơn nữa,
về nguyên tắc nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự là thuộc về các
đương sự nhưng trong điều kiện thực tiễn Việt Nam, khi mà trình độ dân trí
còn hạn chế, người dân còn gặp nhiều khó khăn để tự chứng minh bảo vệ
quyền lợi của mình trước Tòa án thì họ phải yêu cầu Tòa án thu thập chứng
cứ. Do đó, để đảm bảo tính khách quan trong hoạt động xét xử, đại diện VKS
cần tham gia phiên tòa để kiểm sát chặt chẽ hoạt động xét xử của Tòa án.
1.3. KHÁI QUÁT VỀ NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA VIỆN KIỂM SÁT
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM QUA CÁC THỜI KỲ
1.3.1. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện công tố (tiền thân của Viện
kiểm sát nhân dân) trong tố tụng dân sự giai đoạn từ 1945 đến 1959
Ngay từ sau Cách mạng tháng Tám, để xây dựng và củng cố chính
quyền cách mạng non trẻ, Nhà nước ta đã ban hành hàng loạt văn bản pháp
19
luật quy định về tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước. Pháp luật
Nhà nước ta trong giai đoạn này quy định về vị trí, chức năng và nhiệm vụ
của công tố viên trong tố tụng dân sự như sau: trong cuộc cải cách tư pháp ở
nước ta lần đầu: Sắc lệnh số 13 ngày 24/1/1946 về tổ chức Tòa và các ngạch
thẩm phán theo quy định thẩm phán được chia thành hai ngạch: sơ cấp và nhị
cấp (trong đó, Thẩm phán ở ngạch đệ nhị cấp được chia thành hai loại: thẩm
phán xét xử và thẩm phán buộc tội). Công tố viện lúc đó được ra đời ở Tòa
thượng thẩm và chịu sự lãnh đạo của Bộ trưởng Bộ Tư pháp, đứng đầu Công
tố viện và chưởng lý. Cơ quan công tố không được thành lập ở tòa đệ nhị mà
chỉ có cán bộ làm công tác biện lý. Trong giai đoạn này, Thẩm phán buộc tội
đã hợp thành một bộ phận độc lập và chịu sự lãnh đạo của Chưởng lý. Khi
tham gia phiên tòa, "Biện lý ngồi ghế Công tố viên". Sắc lệnh số 7/SL ngày
15/01/1946 còn quy định: "Đứng buộc tội, tùy quyết nghị của Bộ trưởng Bộ
Tư pháp sẽ là nhân viên của Công tố viện do Chưởng lý Tòa thượng thẩm chỉ
định". Theo quy định của Sắc lệnh số 51/SL ngày 17/4/1946 thì Công tố viện
tham gia tố tụng dân sự dưới hình thức, đó là tham gia tố tụng đối với những
vụ án dân sự với tư cách là người thi hành quyền công tố (Điều 22 Sắc lệnh)
và khởi tố vụ án dân sự (đứng là Chánh tố - Điều 41 Sắc lệnh). Như vậy, công
tố viện bước đầu được hình thành và nằm trong hệ thống của cơ quan Tòa án
với chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật và thực hành quyền công tố
Nhà nước.
Công cuộc cải cách tư pháp lần thứ hai: bắt đầu vào năm 1950, công
tố viện được đặt dưới sự điều khiển của Ủy ban kháng chiến hành chính.
Trong giai đoạn này, Công tố viện nằm trong cơ cấu của cơ quan hành pháp,
các đường lối phạm vi hoạt động, sự tham gia tố tụng của Công tố viện được
mở rộng sang các vụ việc dân sự.
Công cuộc cải cách tư pháp lần thứ ba: diễn ra vào năm 1958, đây là
giai đoạn giao thời, quyết định cho việc chuyển Công tố viện thành VKSND,
20
một hình thức hoàn thiện hơn, đáp ứng như cầu mới của cách mạng trong
những năm tiếp theo. Trong tố tụng dân sự, theo Công văn số 1137/HCTP
ngày 5/6/1958 của Bộ Tư pháp về việc đơn giản một số thủ tục ở phiên tòa
quy định rõ hơn về quyền khởi tố và tham gia tố tụng của Công tố viện có
hướng dẫn như sau: "… về việc dân sự, Công tố viện có nhiệm vụ khởi tố và
tham gia tố tụng đối với những vụ án dân sự quan trọng có liên quan đến lợi
ích Nhà nước của nhân dân. Còn đối với những vụ án dân sự thường thì Công
tố viện không cần phải tham dự phiên tòa".
Như vậy, trong giai đoạn này, nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong
tố tụng dân sự đã được quy định tương đối đầy đủ, khẳng định được vị trí và
vai trò của VKSND trong tố tụng dân sự; là cơ sở cho sự kế thừa và phát triển
cho việc hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về
nhiệm vụ, quyền hạn của VKS sau này.
1.3.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong tố
tụng dân sự giai đoạn từ 1960 đến 1988
Hiến pháp 1959 ra đời, Công tố viện chính thức được chuyển thành
VKSND, được tổ chức theo nguyên tắc tập trung thống nhất từ trung ương
đến địa phương và không phụ thuộc vào cơ quan quyền lực và cơ quan hành
chính địa phương. Ngoài chức năng công tố, VKSND còn được giao chức
năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật từ các Bộ trở xuống; trong đó có cả hệ
thống các TAND. Quyền hạn và nhiệm vụ của VKSND trong tố tụng dân sự
được quy định cụ thể tại các Điều 17, 18 và 19 Luật tổ chức VKSND năm
1960. Theo quy định tại các điều trên thì VKSNDTC và các VKSND địa
phương có quyền:
- Khởi tố hoặc tham gia tố tụng trong những vụ án dân sự quan trọng
liên quan đến lợi ích của Nhà nước và của nhân dân;
- Kháng nghị những bản án hoặc quyết định sơ thẩm của TAND cùng
cấp và cấp dưới một cấp;
21
- Kiểm sát việc chấp hành các bản án và các quyết định của TAND.
Khi VKSNDTC thấy các bản án hoặc các quyết định đã có hiệu lực
pháp luật của TAND các cấp là sai lầm thì có quyền kháng nghị. Khi VKSND
địa phương thấy các bản án hoặc các quyết định đã có hiệu lực pháp luật của
TAND cấp mình hoặc cấp dưới là sai lầm thì báo cáo lên VKSNDTC để
kháng nghị. Tiếp đến, ngày 13/7/1981, Quốc hội đã thông qua Luật tổ chức
VKSND, trong đó tại Điều 3 và Điều 13 có quy định cụ thể các hình thức
tham gia kiểm sát xét xử của Tòa án như tham gia tố tụng tại phiên tòa; kháng
nghị các bản án quyết định của Tòa án và khởi tố hoặc yêu cầu cơ quan nhà
nước, tổ chức xã hội và đơn vị vũ trang nhân dân cùng cấp khởi tố những vụ
án dân sự quan trọng có liên quan đến lợi ích của Nhà nước, của tập thể và
quyền lợi chính đáng của nhân dân.
Nhìn chung, cho đến năm 1989 trở về trước nhiệm vụ và quyền hạn
của VKSND trong tố tụng dân sự không được quy định trong các văn bản
pháp luật nào khác ngoài Luật tổ chức VKSND. Trong giai đoạn này của
VKSND đã có sự thay đổi quan trọng nhằm đáp ứng với yêu cầu mới và thực
tiễn cách mạng Việt Nam.
1.3.3. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong tố
tụng dân sự từ năm 1989 đến trước năm 2004
Hiến pháp 1992 (sửa đổi 2001) và hai đạo Luật tổ chức VKSND
(1989, 1992) ra đời tiếp tục kế thừa và quy định mới cho chức năng của
VKSND đáp ứng nhu cầu thay đổi của xã hội đặc biệt là quá trình cải cách tư
pháp trong giai đoạn toàn Đảng toàn dân bước vào xây dựng nền kink tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa. Đây là thời kỳ đổi mới, trên cơ sở Hiến pháp và Luật tổ chức
VKSND, là sự ra đời của Pháp lệnh trình tự giải quyết các vụ án dân sự
(1989), pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kink tế (1994), pháp lệnh thủ
tục giải quyết tranh chấp lao động (1996)… Theo quy định của các văn bản
22
pháp luật này, sự tham gia tố tụng của VKSND trong tố tụng dân sự được mở
rộng. Cụ thể quy định tại Điều 17 Luật tổ chức VKSND năm 1992:
Khi thực hiện công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án
dân sự và những việc khác do pháp luật quy định, Viện kiểm sát
nhân dân có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1. Kiểm sát việc lập hồ sơ vụ án, yêu cầu Tòa án nhân dân
hoặc tự mình điều tra, xác minh những vấn đề cần làm sáng tỏ
nhằm giải quyết đúng đắn vụ án;
2. Khởi tố những vụ án dân sự theo quy định của pháp
luật, tham gia phiên tòa xét xử những vụ án mà Viện kiểm sát
nhân dân đã khởi tố hoặc kháng nghị đối với những vụ án khác,
Viện kiểm sát nhân dân có thể tham gia bất cứ giai đoạn nào nếu
thấy cần thiết;
3. Yêu cầu Tòa án cùng cấp áp dụng các biện pháp khẩn cấp
tạm thời theo quy định của pháp luật;
4. Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái
thẩm, các bản án, quyết định của Tòa án nhân dân theo quy định
của pháp luật tố tụng dân sự".
Như vậy, theo quy định của Luật tổ chức VKSND năm 1992 đã xác
định rõ hơn các hình thức tham gia tố tụng dân sự của VKSND, đó là: khởi tố
vụ kiện dân sự vì lợi ích chung; tham gia tố tụng đối với các vụ án dân sự;
kháng nghị những bản án, quyết định của Tòa án theo thủ tục phúc thẩm,
giám đốc thẩm, tái thẩm. Sau đó, Điều 1 Luật tổ chức VKSND năm 2002
ngày 02/4/2002 quy đinh: "Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố và
kiểm sát các hoạt động tư pháp theo quy định của Hiến pháp và pháp luật" [26].
Quy định này nhằm tăng cường và tập trung chức năng kiểm sát hoạt động tư
pháp của VKSND, trong đó có hoạt động xét xử các vụ án dân sự, kinh tế và
lao động.
23
Khác với quy định trong Luật tổ chức VKSND năm 1992, khoản 3
Điều 21 Luật tổ chức VKSND năm 2002 xác định VKSND có trách nhiệm
kiểm sát việc giải quyết đối với tất cả các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình,
kink tế, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật ở tất cả các
giai đoạn tố tụng, tham gia tất cả các phiên tòa xét xử các vụ án này ở Tòa án
các cấp và phát biểu quan điểm cảu VKSND về việc giải quyết vụ án. Quy
định như vậy nhằm tăng cường kiểm sát các hoạt động tư pháp trong lĩnh vực
dân sự, kink tế, lao động và thể chế hóa quan điểm, chủ trương của Đảng về
cải cách tư pháp.
1.3.4. Giai đoạn từ năm 2004 đến nay
Công cuộc cải cách tư pháp song song với tiến trình phát triển xã hội,
những quy định về tố tụng dân sự mới phù hợp với sự tiến bộ xã hội thay đổi
những quy định tố tụng dân sự trước, BLTTDS có hiệu lực thi hành từ ngày
01/01/2005. Trong đó, sự tham gia tố tụng của VKSND được quy định cụ thể
tại Điều 21 BLTTDS:
1. Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong tố tụng dân sự, thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng
nghị theo quy định của pháp luật nhằm bảo đảm việc giải quyết vụ
việc dân sự kịp thời, đúng pháp luật;
2. Viện kiểm sát nhân dân tham gia phiên tòa đối với những
vụ án do Tòa án thu thập chứng cứ mà đương sự có khiếu nại, các
việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, các vụ việc
dân sự mà VKS kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án [27].
Bộ luật Tố tụng dân sự ra đời (tại Điều 21) đã giới hạn sự tham gia tố
tụng của VKSND, đồng thời bỏ đi quyền khởi tố vụ án dân sự của VKSND.
Về quyền khởi tố vụ án dân sự của VKSND: trước khi có Luật tổ chức
VKSND năm 1960 và trước khi VKSND được thành lập thì pháp luật đã giao
quyền này cho Công tố ủy viên và cho Viện công tố đảm nhân, điều này phù
24
hợp nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước, quyền lực nhà nước là thống nhất
có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện
ba quyền: quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp và phù hợp với yêu cầu cải
cách tư pháp đặt ra. Vì chỉ có VKSND theo chức năng và nhiệm vụ được
pháp luật quy định là kiểm sát các hoạt đông tư pháp, với đội ngũ cán bộ
chuyên môn có kinh nghiệm phải đảm nhiệm trách nhiệm này là phù hợp mà
không có tổ chức nào thay thế được. Mặt khác, VKSND khởi tố vụ án sẽ có
điều kiện xác minh, thu thập chứng cứ để cung cấp cho Tòa án giải quyết vụ
án kịp thời và thuận lợi, bảo vệ được lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích của
công dân.
Về việc tham gia phiên tòa của VKSND: Pháp lệnh thủ tục giải quyết
các vụ án dân sự năm 1989 quy định VKSND có quyền tham gia bất cứ giai
đoạn nào nếu xét thấy cần thiết, còn Luật tổ chức VKSND năm 2002 quy định
VKSND tham gia tất cả các phiên tòa, quy định này phù hợp với Hiến pháp
và thực tiễn của nước ta, phù hợp với yêu cầu cải cách tư pháp. Tuy nhiên, khi
xem xét để quy định quyền hạn tham gia phiên tòa của VKSND đã có nhiều ý
kiến tranh luận cho rằng VKSND tham gia tất cả phiên tòa ảnh hưởng đến
nguyên tắc Tòa án xét xử độc lập chỉ tuân theo pháp luật, từ đó đã cho ra đời
quy định như tại Điều 21 BLTTDS.
Bên cạnh đó, hoạt động kiểm sát của VKSND còn được quy định tại
Điều 38 BLTTDS quy định: "…quyết định nhập hoặc tách vụ án dân sự phải
được gửi ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp" [27]; Điều 85 BLTTDS quy định:
"…trong trường hợp cần thiết, Viện kiểm sát có quyền yêu cầu đương sự, cá
nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp hồ sơ, tài liệu, vật chứng để bảo đảm cho
việc thực hiện thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm
và tái thẩm" [27]; Điều 124 quy định: "…Viện kiểm sát có quyền kiến nghị
Chánh án Tòa án đang giải quyết vụ án về quyết định áp dụng, thay đổi, hủy
bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời…" [27]. Với các quy định trên, pháp luật tố
25
tụng dân sự Việt Nam cho phép VKSND thực hiện chức năng kiểm sát dân sự
trong phạm vi luật định.
Tuy nhiên, thực tiễn thi hành BLTTDS năm 2004 trong thời gian qua
cho thấy quy định của BLTTDS về tham gia tố tụng dân sự của VKSND
trong tố tụng dân sự đã bộc lộ những hạn chế, bất cập, chưa tạo điều kiện cho
VKSND thực hiện đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của mình theo quy định của
Hiến pháp và Luật tổ chức VKSND. Do đó, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của BLTTDS 2004 được Quốc hội khóa XII thông qua, có hiệu lực từ ngày
01/01/2012 đã có những sửa đổi quan trọng về sự tham gia của VKSND trong
tố tụng dân sự nhằm đáp ứng yêu cầu của thực tiễn. Cụ thể, tại Điều 21 Luật
sửa đổi bổ sung theo hướng mở rộng phạm vi các trường hợp VKSND tham
gia phiên tòa sơ thẩm, VKSND không chỉ tham gia các phiên tòa sơ thẩm đối
với những vụ án mà đương sự có khiếu nại về biện pháp thu thập chứng cứ
của Tòa án mà VKS còn tham gia "…các phiên tòa sơ thẩm đối với những vụ
án do Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ hoạc đối tượng tranh chấp là tài sản
công, lợi ích công cộng, quyền sử dụng đất, nhà ở hoặc có một bên đương sự
là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất, tâm thần" [28].
Ngoài ra, Điều 85 BLTTDS năm 2004 cũng được sửa đổi bổ sung theo hướng
quy định: "…Viện kiểm sát có quyền yêu cầu đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ
chức cung cấp hồ sơ, tài liệu, vật chứng để đảm bảo cho việc thực hiện thẩm
quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm" [28];
Điều 170 quy định: "…trong thời hạn bảy ngày làm việc, kể từ ngày nhận được
quyết định trả lời đơn khiếu nại, kiến nghị về việc trả lại đơn khởi kiện của
Chánh án Tòa án, người khởi kiện có quyề khiếu nại, Viện kiểm sát có quyền
kiến nghị với Chánh án Tòa án cấp trên trực tiếp xem xét, giải quyết" [28].
Có thể thấy, so với Viện công tố các nước, nhiệm vụ và quyền hạn của
VKSND khi tham gia tố tụng dân sự ở Việt Nam được quy định rộng hơn
nhiều. Cụ thể là ngoài quyền tham gia tố tụng như Viện công tố các nước,
26
VKSND còn được trao thêm các thẩm quyền đặc thù của một cơ quan thực
hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của TAND và những người
tham gia tố tụng, quyền kháng nghị tất cả các bản án, quyết định dân sự của
Tòa án theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.
1.4. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT MỘT SỐ QUỐC GIA VỀ NHIỆM VỤ,
QUYỀN hẠN CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.4.1. Quy định của pháp luật Liên bang Nga
Viện kiểm sát Liên bang Nga là một cơ quan có vị trí độc lập riêng
biệt với các cơ quan hành pháp và tư pháp [15, tr. 154].
Viện kiểm sát Liên bang Nga được xây dựng theo nguyên tắc "tập
trung thống nhất" trên cơ sở các kiểm sát viên cấp dưới phải phục tùng các
kiểm sát viên cấp trên và tất cả đều phục tùng Tổng kiểm sát trưởng Liên
bang Nga và nguyên tắc "hoàn toàn độc lập với các cơ quan, công dân, tổ
chức", theo đó các cơ quan thuộc VKS được "thực hiện các thẩm quyền của
mình một cách độc lập với các cơ quan quyền lực của liên bang, của các chủ
thể liên bang, của các chính quyền đia phương và các tổ chức xã hội" (Điều 1,
Điều 4 Luật tổ chức VKSND Liên bang Nga).
Tổng kiểm sát trưởng Liên bang Nga do Hội đồng Liên bang (tương
đương Thượng nghị viện) bổ nhiệm (với nhiệm kỳ 5 năm) và bãi nhiệm theo
đề nghị của Tổng thống Liên bang Nga. Các Phó Tổng kiểm sát trưởng Liên
bang Nga do Hội đồng Liên bang bổ nhiêm, bãi nhiệm theo đề nghị của Tổng
kiểm sát trưởng Liên bang Nga [25, tr. 155].
Về hệ thống và cơ cấu tổ chức, VKS Liên bang Nga được tổ chức gắn
liền với các đơn vị lãnh thổ hành chính, bao gồm: Tổng VKS Liên bang Nga,
VKS của các chủ thể thuộc Liên bang Nga; VKS quân sự và các VKS chuyên
môn tương đương với chúng; các Viện nghiên cứu khoa học, các trường đào
tạo có tư cách pháp nhân; cũng như VKS các thành phố, quận, huyện, một số
27
các VKS ở các địa phương, các VKS quân sự và một số VKS chuyên trách
cùng cấp khác.
Trong tố tụng dân sự, VKS Liên bang Nga có vị trí, vai trò tương đối
đặc trưng. Tính đặc trưng này thể hiện ở chỗ: VKS không thực hiện chức
năng kiểm sát hoạt động xét xử vụ việc dân sự của Tòa án, VKS tham gia tố
tụng để bảo đảm vị thế tối thượng của luật, củng cố và tăng cường tính thống
nhất của pháp chế, đồng thời VKS hướng tới Tòa án như một phương tiện để
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của những đối tượng mà sự vi phạm quyền, lợi
ích hợp pháp ấy có ảnh hưởng nghiêm trọng về phương diện xã hội. Không
phai ngẫu nhiên mà tại khoản 3 Điều 1 và tại khoản 4 Điều 27 Luật tổ chức
VKS Liên bang Nga có quy định: "Theo quy định của pháp luật tố tụng Liên
bang Nga, các kiểm sát viên tham gia các phiên tòa xét xử của Tòa án, có
quyền kháng án, các quyết định và các phán quyết khác của Tòa án có vi
phạm pháp luật" [40];
Trong trường hợp việc vi phạm quyền tự do và các quyền
khác của con người và của một công dân nói chung được bảo vệ
theo trình tự tố tụng dân sự, khi người bị hại vì lý do sức khỏe hay
vì tuổi tác đã cao hay do một số nguyên nhân khác không tự bảo vệ
quyền lợi trước phiên tòa hoặc khi vi phạm quyền tự do và các
quyền khác của nhiều công dân hoặc khi mà trong một số tình
huống đặc biệt khác nếu việc vi phạm có ảnh hưởng nghiêm trọng
về phương diện xã hội, thì kiểm sát viên khởi kiện vụ án dân sự đến
Tòa án và trong các phiên tòa ấy, kiểm sát viên sẽ bảo vệ lợi ích cho
người bị hại [40].
Cụ thể hóa quy định tại khoản 3 Điều 1, khoản 4 Điều 27 Luật tổ chức
VKSND Liên bang Nga, tại Điều 45 BLTTDS Liên bang Nga đã quy định:
1. Kiểm sát viên có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án bảo vệ
quyền tự do và lợi ích hợp pháp của công dân, của tập hợp người
28
không xác định, lợi ích của Liên bang Nga, các tổ chức tự quản địa
phương. Kiểm sát viên chỉ khởi kiện yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền,
tự do và lợi ích hợp pháp của công dân trong trường hợp công dân
đó không thể tự mình khởi kiện vì lý do sức khỏe, tuổi tác, không
có năng lực hành vi hoặc vì những lý do chính đáng khác.
2. Khi khởi kiện Kiểm sát viên có quyền và nghĩa vụ tố tụng
như nguyên đơn, trừ quyền hòa giải và nghĩa vụ trả lệ phí. Trong
trường hợp kiểm sát viên rút đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án bảo vệ
quyền và lợi ích của người khác thì việc giải quyết vụ án vẫn tiếp
tục nếu nguyên đơn hoặc người đại diện của nguyên đơn không rút
đơn khởi kiện, Tòa đình chỉ vụ án nếu điều đó là không trái pháp
luật hoặc không vi phạm đến quyền và lợi ích của những người khác.
3. Với mục đích thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao,
kiểm sát viên tham gia tố tụng và phát biểu kết luận đối với những
vụ án liên quan đến việc buộc đi ở nơi khác, yêu cầu khôi phục việc
làm, yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại do bị xâm phạm tính mạng
hoặc sức khỏe, hoặc trong những trường hợp khác do Bộ luật này
và luật liên bang quy định. Sự vắng mặt của kiểm sát viên đã được
thông báo về thời gian và địa điểm xét xử không là lý do cản trở
việc tiếp tục giải quyết vụ án [41].
Theo quy định của Điều 45 BLTTDS Liên bang Nga, có hai hình thức
tham gia của kiểm sát viên trong tố tụng dân sự:
Thứ nhất, kiểm sát viên tham gia tố tụng dân sự với tư cách là người
"châm ngòi", người khởi động các thủ tục xét xử sơ thẩm, chống án, phúc
thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm bằng việc đệ đơn khởi kiện, đơn kháng kiện
(đơn đề nghị chống án, đơn đề nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm) đối
với bản án, quyết định không có căn cứ của Tòa án.
Thứ hai, kiểm sát viên tham gia vào tiến trình tố tụng (do người khác
khởi kiện) và phát biểu kết luận đối với những vụ án liên quan đến việc buộc
29
đi ở nơi khác, yêu cầu khôi phục việc làm, yêu cầu bồi thường thiệt hại do bị
xâm phạm tính mạng hoặc sức khỏe. Ngoài ra, kiểm sát viên còn tham gia và
phát biểu kết luận về vụ án trong những trường hợp khác do Bộ luật này và
luật liên bang quy định. Ví dụ. theo quy định của BLTTDS Liên bang Nga,
kiểm sát viên còn có quyền tham gia phiên tòa và phát biểu kết luận đối với
những vụ án như: giải quyết đơn yêu cầu bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật
(Điều 252); giải quyết đơn yêu cầu bảo vệ quyền bầu cử và quyền tham gia
trưng cầu dân ý của công dân Liên bang Nga (Điều 260)…
Tuy nhiên, cần lưu ý là, dù tham gia tố tụng dân sự dưới hình thức nào
thì việc tham gia của kiểm sát viên không phải là để bảo vệ lợi ích của riêng
VKS không phải là để bảo vệ lợi ích của riêng VKS mà nhân danh Liên bang
Nga và vì lợi ích của luật để bảo vệ lợi ích Nhà nước, lợi ích công cộng cũng
như lợi ích của một số người khác và của tập hợp người không xác định, vì lợi
ích của những người này cũng có tính chất công và mang ý nghĩa xã hội.
Cùng với sự tham gia của kiểm sát viên trong tố tụng hình sự, sự tham gia của
kiểm sát viên trong tố tụng dân sự là sự tiếp tục khẳng định những mục đích
hoạt động của VKS Liên bang Nga là "bảo đảm tính tối cao của luật pháp,
củng cố và tăng cường tính thống nhất của pháp chế, bảo vệ quyền tự do và
các quyền khác của con người và của công dân, cũng như các lợi ích của xã
hội và Nhà nước được luật pháp bảo vệ" (khoản 2 Điều 1 Luật tổ chức
VKSND Liên bang Nga).
Vị trí của kiểm sát viên khi tham gia tố tụng dân sự:
- Vị trí của kiểm sát viên khi tham gia tố tụng dân sự với tư cách là
người "châm ngòi", người khởi động các thủ tục xét xử sơ thẩm: "Khi khởi
kiện kiểm sát viên có quyền và nghĩa vụ tố tụng như nguyên đơn, trừ quyền
hòa giải và nghĩa vụ trả lệ phí. Trong trường hợp kiểm sát viên rút đơn khởi
kiện yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích của người khác thì việc giải
quyết vụ án vẫn tiếp tục nếu nguyên đơn hoặc người đại diện của nguyên đơn
30
không rút đơn khởi kiện. Trong trường hợp nguyên đơn rút đơn khởi kiện,
Tòa án đình chỉ vụ án nếu điều đó là không trái pháp luật hoặc không vi phạm
đến quyền và lợi ích hợp pháp của những người khác".
- Vị trí của VKS viên khi tham gia vào tiến trình tố tụng (do người
khác khởi kiện) và phát biểu kết luận đối với vụ án: khi tham gia vào tiến
trình tố tụng (do người khác khởi kiện) và phát biểu kết luận đối với vụ án,
kiểm sát viên là người nhân danh Liên bang Nga và vì lợi ích của luật để bảo
vệ lợi ích Nhà nước, lợi ích công cộng, lợi ích xã hội.
- Về vị trí, vai trò VKS Liên bang Nga trong giai đoạn phúc thẩm, giám
đốc thẩm, tái thẩm theo quy định mới của BLTTDS Liên bang Nga, VKS Liên
bang Nga không thực hiện thẩm quyền kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm,
tái thẩm như trước đây nữa. Thay vào đó, Tổng kiểm sát trưởng Liên bang Nga,
Phó tổng kiểm sát trưởng Liên bang Nga, kiểm sát trưởng các cấp và cấp phó
của họ chỉ có quyền đưa ra văn bản đề nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm
đối với những trưởng hợp có kiểm sát viên tham gia tố tụng tại phiên tòa dưới
hai hình thức nêu trên. Đứng về mặt tố tụng, quyền đề nghị phúc thẩm, giám đốc
thẩm, tái thẩm của VKS có "vị trí" pháp lý tương đương với quyền kháng cáo
phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm của các bên đương sự. Và vì thể, cũng giống
như đơn kháng cáo giám đốc thẩm, tái thẩm của đương sự, đơn đề nghị giám đốc
thẩm, tái thẩm của VKS không đương nhiên dẫn tới việc mở phiên tòa giám đốc
thẩm, tái thẩm mà phải trải qua một thủ tục tố tụng "riêng và đặc biệt" do Tòa án
cấp giám đốc thẩm tiến hành nhằm kiểm tra, xem xét việc kháng cáo giám đốc
thẩm, tái thẩm hay việc đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm đó có cơ sở hay không
rồi mới quyết định việc mở phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm.
Về căn cứ đề nghị giám đốc thẩm đối với bản án, quyết định đã có hiệu
lực pháp luật của Tòa án, theo quy định tại Điều 387 BLTTDS Liên bang Nga,
VKS có thể đề nghị giám đốc thẩm trong trường hợp có những vi phạm nghiêm
trọng trong việc áp dụng pháp luật nội dung hoặc pháp luật tố tụng.
31
1.4.2. Quy định của pháp luật Cộng hòa Pháp
Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện Công tố Pháp trong tố tụng dân sự chủ
yếu được quy định trong Bộ luật tổ chức Tòa án Pháp năm 1958, Bộ luật Dân
sự (BLDS) Pháp và BLTTDS Pháp (BLDS Pháp được ban hành lần đầu năm
1804, BLTTDS Pháp được ban hành lần đầu năm 1806, cả hai bộ luật này
đang có hiệu lực thi hành và được sửa đổi, bổ sung nhiều lần cho đến ngày
hôm nay). Theo quy định của các văn bản luật thì Viện công tố Pháp có thể
tham gia vào việc giải quyết các vụ việc dân sự (theo nghĩa rộng) với tư cách
là đại diện cho lợi ích chung, bảo đảm sự tuân thủ pháp luật và bảo vệ trật tự
công [15]. BLTTDS Pháp quy định: "Viện công tố có thể tham gia tố tụng
như một bên đương sự chính hoặc tiến hành tố tụng để bảo đảm việc tuân thủ
pháp luật. Viện công tố đại diện cho người khác trong những trường hợp pháp
luật quy định" [16, Điều 421]. "Viện công tố chủ động tham gia tố tụng trong
những trường hợp do pháp luật quy định" [16, Điều 422]; và "Ngoài những
trường hợp đó, Viện Công tố có quyền can thiệp để bảo vệ trật tự công khi có
những hành vi xâm phạm trật tự công" [16, Điều 423].
Trong tố tụng dân sự, theo quy định của BLDS Pháp và BLTTDS Pháp,
Viện Công tố có thể tham gia vào quá trình giải quyết vụ việc với hai tư cách:
thứ nhất, với vai trò đại diện cho lợi ích chung, bảo vệ trật tự công, Viện công
tố Pháp tham gia tố tụng với tư cách là bên chính tố (tức với tư cách như một
bên đương sự chính, mà theo cách gọi theo tố tụng dân sự Việt Nam là tư cách
người tham gia tố tụng); thứ hai, với vai trò bảo đảm sự tuân thủ pháp luật, vì lợi
ích của luật, Viện công tố Pháp tham gia tố tụng với tư cách là bên phụ tố (mà
theo cách gọi của ta là cơ quan tiến hành tố tụng hoặc người tiến hành tố tụng).
Với tư cách là bên chính tố (như một bên đương sự), Viện công tố có
thể tự mình khởi kiện (khởi tố) vụ án dân sự hoặc tham gia tố tụng với tư cách
bị đơn đại diện cho Nhà nước khi bị kiện. Trong trường hợp này, Viện công
tố là một bên đương sự thông thường trong vụ án dân sự và có đầy đủ quyền,
32
nghĩa vụ như các bên khác (kể các quyền kháng cáo tái thẩm, kháng cáo theo
thủ tục phá án- giám đốc thẩm). Theo quy định của BLDS Pháp, các trường
hợp Viện công tố tự mình khởi kiện (khởi tố) vụ án dân sự là tương đối đa
dạng. Ngoài ra, với tư cách là bên chính tố (như một bên đương sự), Viện
công tố cũng có thể tham gia vào các việc dân sự. Trong trường hợp này,
Viện công tố là bên đưa yêu cầu giải quyết việc dân sự ra trước Tòa án.
Với tư cách là bên phụ tố (là cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến
hành tố tụng) nhằm bảo đảm sự tuân thủ pháp luật, Viện công tố có quyền
kháng nghị theo thủ tục phá án (giám đốc thẩm) và tham gia tố tụng để cho ý
kiến về việc áp dụng pháp luật trong một vụ việc dân sự đang được giải quyết
tại Tòa án, sau khi được Tòa thông báo về vụ việc dân sự đó.
Về các trường hợp Tòa án thông báo vụ việc dân sự cho Viện công tố,
BLTTDS Pháp quy định ba trường hợp:
- Thông báo theo quy định của pháp luật; pháp luật quy định cụ thể
những loại vụ việc bắt buộc phải thông báo cho Viện công tố để Viện công tố
cho ý kiến; nếu Tòa án xét xử mà không thông báo thì bản án sẽ bị vô hiệu.
Những vụ việc pháp luật quy định bắt buộc phải thông báo là những vụ việc
liên quan đến: quan hệ cha, mẹ và con; ủy quyền thực hiện quyền của cha mẹ
đối với con; tổ chức giám hộ đối với người chưa thành niên…
- Thông báo theo quyết định của Tòa án: đây là trường hợp Tòa án chủ
động thông báo vụ việc cho Viện công tố; Viện công tố có quyền yêu cầu Tòa
án thông báo về những vụ việc mà Viện Công tố xét thấy cần thiết phải tham
gia ý kiến (Điều 426 Bộ luật). Đối với các trường hợp được thông báo, Viện
công tố phải đưa ra ý kiến kết luận của mình về mặt pháp luật cũng như về mặt
thực tế (về các tình tiết vụ việc). Tuy nhiên, Viện công tố không nhất thiết phải
tham dự phiên tòa mà có thể gửi bản phát biểu kết luận viết cho Tòa án. Trong
trường hợp tham dự phiên tòa, với tư cách là bên phụ tố (là cơ quan tiến hành
tố tụng, là người tiến hành tố tụng), Viện Công tố phát biểu cuối cùng.
33
Về thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục phá án (giám đốc thẩm) của
Viện công tố trong tố tụng dân sự, tại Điều 618-1 BLTTDS Pháp quy định:
Viện trưởng Viện công tố bên cạnh Tòa Phá án có quyền kháng nghị phá án
(giám đốc thẩm) trước Tòa Phá án vì lợi ích của luật và yêu cầu Viện Công tố
bên cạnh Tòa án đã ra bản tống đạt kháng nghị của Viện công tố bằng thư bảo
đảm có yêu cầu xác nhận. Thời hạn kháng nghị phá án (giám đốc thẩm) theo
quy định tại Điều 612 BLTTDS Pháp là hai tháng, trừ trường hợp pháp luật
có quy định khác. Đối với những bản án xét xử vắng mặt thì thời hạn kháng
nghị phá án (giám đốc thẩm) tính từ ngày hết hạn kháng nghị án vắng mặt.
Về căn cứ kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phá án (giám đốc thẩm).
BLTTDS Pháp không đưa ra một giới hạn chặt chẽ mà chỉ quy định một cách
chung chung là:"Tòa Phá án có thể giám đốc bản án chung thẩm bị kháng cáo,
kháng nghị vì đã xét xử không đúng pháp luật". Do đó, quyền tùy nghi của
Tòa Phá án trong việc chấp nhận hoặc bác kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục
phá án (giám đốc thẩm) là rất lớn: Tòa Phá án có thể bác kháng cáo, kháng
nghị vì đơn không có đầy đủ căn cứ pháp luật, có thể bác kháng cáo, kháng
nghị vì căn cứ trong đơn đưa ra không thỏa đáng hoặc thậm chí cũng có thể
chấp nhận kháng cáo, kháng nghị căn cứ vào một lý lẽ pháp lý thuần túy do
Tòa Phá án tự nêu ra (Điều 620 Bộ luật).
1.4.3. Quy định của pháp luật Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
Trong tố tụng dân sự, VKS Trung Quốc có những nhiệm vụ, quyền
hạn như sau [15]:
Thứ nhất, nhân danh lợi ích Nhà nước, lợi ích công cộng để khởi kiện
vụ án dân sự. Theo quy định tại Điều 77, 78 Luật tố tụng hình sự Trung Quốc
và theo hướng dẫn của Bản giải thích của TANDTC Trung Quốc "Về một số
vấn đề chấp hành Luật tố tụng hình sự nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa",
nếu tài sản quốc gia, tài sản tập thể bị thiệt hại do hành vi vi phạm tội gây
nên, mà cơ quan, tổ chức bị thiệt hại không tự đề xuất khởi kiện dân sự,
34
VKSND có thể quyết định việc khởi kiện dân sự kèm theo cùng với việc đưa
ra cáo trạng buộc tội. Việc khởi kiện dân sự sẽ được xét xử đồng thời với vụ
án hình sự. Trong trường hợp cần thiết, thì để tránh việc kéo dài quá mức thời
gian xét xử vụ án hình sự, việc khởi kiện dân sự kèm theo có thể do cùng một
Hội đồng xét xử tiếp tục giải quyết sau khi xét xử xong phần hình sự. Nếu
thành viên nào đó của Hội đồng xét xử không thẻ tiếp tục tham gia xét xử, thì
có thể thay thế. Khi Tòa án giải quyết vụ án dân sự kèm theo, ngoài việc áp
dụng Luật hình sự, Luật tố tụng hành chính còn cần phải áp dụng các quy
định liên quan của Luật dân sự, Luật tố tụng dân sự; còn kiểm sát viên tham
gia vào quá trình giải quyết vụ án có quyền, nghĩa vụ tương tự như nguyên
đơn, trừ quyền hòa giải và nghĩa vụ nộp các lệ phí tố tụng.
Thứ hai, thực hiện chức năng giám sát pháp luật trong tố tụng dân sự
thông qua hoạt động kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.
Liên quan đến thẩm quyền kháng nghị này của VKS, có một số đặc
điểm cần lưu ý sau đây:
Một là, khác với thủ tục giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự Việt
Nam, thủ tục giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự Trung Quốc được hiểu theo
nghĩa rộng hơn, bao gồm cả thủ tục tái thẩm.
Hai là, bên cạnh việc quy định về thẩm quyền kháng nghị giám đốc
thẩm của Tòa án, VKS, Luật tố tụng dân sự Trung Quốc còn ghi nhận quyền
kháng cáo giám đốc thẩm của đương sự.
Ba là, giống như nguyên tắc thực hiện thẩm quyền kháng nghị giám
đốc thẩm trong BLTTDS Trung Quốc, cả Tòa án và VKS đều có quyền kháng
nghị giám đốc thẩm và việc kháng nghị giám đốc thẩm cũng được thực hiện
theo nguyên tắc: kháng nghị được tiến hành tại Tòa án cấp dưới hoặc cấp tương
đương; và TANDTC cũng như VKSNDTC đều có quyền kháng nghị giám
đốc thẩm tại TAND các cấp. Tuy nhiên, khác với quy định của BLTTDS Việt
Nam, trong BLTTDS Trung Quốc cũng như trong Bản giải thích của TANDTC,
35
đối với cơ quan VKS, không có quy định cụ thể về chức danh của những
người có thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm. Điều này có thể hiểu trong
tố tụng dân sự Trung Quốc, không chỉ Viện trưởng, Phó Viện trưởng mà có
thể cả Kiểm sát viên cũng có thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Trong Chương 1, tác giả đã tập trung phân tích, luận giải một số vấn
đề lý luận về nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong tố tụng dân sự như khái
niệm, đặc điểm, cơ sở xác định nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong tố
tụng dân sự. Việc nghiên cứu những vấn đề lý luận nêu trên giúp luận giải
được vai trò của VKSND trong tố tụng dân sự, từ đó rút ra được nhiệm vụ,
quyền hạn của cơ quan này trong từng giai đoạn tố tụng. Trong chương này,
tác giả cũng đã phân tích làm rõ được nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong tố
tụng dân sự qua các thời kỳ và tham khảo kinh nghiệm một số nước trên thế
giới. Có thể thấy rằng, qua các giai đoạn lịch sử khác nhau, pháp luật quy
định vai trò của VKS trong tố tụng dân sự khác nhau từ đó mà nhiệm vụ,
quyền hạn của VKS được mở rộng hay thu hẹp theo quan niệm lập pháp của
từng thời kỳ song đều được quy định tương đối rõ ràng, cụ thể. Với những nội
dung được trình bày ở Chương 1 sẽ là cơ sở, tiền đề cho việc phân tích, đánh
giá luật thực định, thực tiễn về các quy định nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong
tố tụng dân sự và đề xuất các kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định này.
36
Chương 2
PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
2.1. NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRƯỚC KHI THỤ
LÝ VÀ cHUẨN BỊ GIẢI QUYẾT VỤ VIỆC DÂN SỰ
2.1.1. Kiểm sát việc thụ lý vụ việc dân sự
Hoạt động đầu tiên của VKS trong giai đoạn này là hoạt động kiểm sát
việc thụ lý vụ việc dân sự của TAND. Kiểm sát thụ lý vụ việc dân sự là kiểm
sát đối với hoạt động tố tụng dân sự đầu tiên của Tòa án. Nhiệm vụ của
VKSND trong hoạt động này là kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt
động thụ lý vụ việc dân sự của Tòa án, bảo đảm việc thụ lý được thực hiện
theo các quy định của pháp luật.
Hoạt động kiểm sát việc thụ lý của VKS có ý nghĩa rất quan trọng.
Nếu làm tốt công tác kiểm sát ngay từ khi thụ lý vụ việc dân sự sẽ có nhiều
tác dụng như: góp phần đảm bảo cho quá trình thụ lý giải quyết vụ việc của
Tòa án được chính xác ngay từ đầu; tạo quan hệ tích cực chặt chẽ giữa VKS
và Tòa án trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự; tạo sự chủ động và là tiền
đề cho kiểm sát viên nhanh chóng nắm bắt nội dung, vấn đề cơ bản của vụ
việc dân sự; đồng thời chủ động phòng ngừa, góp phần hạn chế đến mức thấp
nhất các sai lầm có thể xảy ra ngay từ thời điểm bắt đầu các hoạt động tố tụng
dân sự. Vì vậy, việc phát hiện kịp thời việc thụ lý vụ việc sai còn tránh được
tình trạng phải tiến hành các thủ tục tố tụng kéo dài, không cần thiết; tiết kiệm
được thời gian, tiền của, góp phần quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi hợp
pháp của các bên đương sự.
Tại khoản 1 Điều 21 Luật tổ chức VKSND năm 2002 có quy định khi
kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, hành chính,
kinh tế, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật, VKSND có
37
nhiệm vụ: "kiểm sát việc thụ lý, lập hồ sơ vụ án; yêu cầu Tòa án nhân dân
hoặc tự mình xác minh những vấn đề cần làm sáng tỏ nhằm giải quyết đúng
đắn vụ án" [26]. Theo đó, BLTTDS đã quy định cụ thể về phạm vi và hình
thức kiểm sát việc thụ lý. Căn cứ theo quy định về chức năng, nhiệm vụ của
VKSND, Viện trưởng VKSND và kiểm sát viên tại Điều 21, 44 và 45 của
BLTTDS năm 2004, có thể khẳng định VKS có nhiệm vụ kiểm sát việc thụ
lý. Khi kiểm sát việc thụ lý, kiểm sát viên cần phải nắm số lượng, nội dung vụ
việc thụ lý hàng tuần; khi cần thiết có thể yêu cầu Tòa án cung cấp tài liệu, so
sánh liên quan đến việc thụ lý để kiểm tra, đối chiếu với sổ thu tạm ứng án
phí. Từ đó, phát hiện vi phạm để kiến nghị với tòa án hoặc kháng nghị sau khi
kết thúc việc giải quyết vụ việc.
Để VKS có thể thực hiện hoạt động kiểm sát thụ lý, Điều 174 BLTTDS
2004 quy định: "Trong thời hạn 3 ngày kể từ ngày thụ lý vụ án, tòa án phải
thông báo bằng văn bản cho bị đơn, cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan đến việc giải quyết vụ án, cho Viện kiểm sát cùng cấp về
việc Tòa án đã thụ lý vụ án" [27]. Theo quy định này, mọi trường hợp thụ lý
vụ việc dân sự đều phải thông báo cho VKSND cùng cấp. Khi nhận được
thông báo thụ lý vụ việc dân sự của Tòa án, VKS vào sổ theo dõi, kiểm tra
văn bản thông báo thụ lý vụ việc dân sự của Tòa án về hình thức và nội dung
có đúng quy định không? VKS sẽ nắm số lượng vụ việc được Tòa án thụ lý,
sau đó tùy thuộc vào nội dung thông báo thụ lý mà VKS có thể xem xét việc
thụ lý ở các khía cạnh thẩm quyền, thời hạn để xác định việc thụ lý có vi
phạm pháp luật hay không. Hoạt động kiểm sát việc thụ lý sẽ có thuận lợi hơn
trước đây. Điều này thể hiện ở chỗ VKS không phải chủ động sang Tòa án để
nắm số liệu mà chỉ tiếp nhận thông báo thụ lý để theo dõi quá trình giải quyết
vụ việc, theo đó thực hiện việc kiến nghị hoặc kháng nghị khi có vi phạm.
Trong giai đoạn này, công tác kiểm sát thụ lý vụ việc dân sự gồm hai
nội dung chính sau đây:
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY

More Related Content

What's hot

Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAYĐề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAYViết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 

What's hot (20)

Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOTLuận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
 
Luận án: Bảo đảm quyền của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án
Luận án: Bảo đảm quyền của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ ánLuận án: Bảo đảm quyền của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án
Luận án: Bảo đảm quyền của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án
 
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAY
Luận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAYLuận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAY
Luận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAY
 
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAYĐề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
 
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOTLuận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
 
Luận văn: Vấn đề đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án Luật Tố tụng, HOT
Luận văn: Vấn đề đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án Luật Tố tụng, HOTLuận văn: Vấn đề đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án Luật Tố tụng, HOT
Luận văn: Vấn đề đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án Luật Tố tụng, HOT
 
Luận văn: Địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng hình sự, HOT
 
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam Định
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam ĐịnhLuận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam Định
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam Định
 
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOTLuận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
 
200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Ngành Luật Tại Tòa Án, 9 Điểm
200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Ngành Luật Tại Tòa Án, 9 Điểm200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Ngành Luật Tại Tòa Án, 9 Điểm
200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Ngành Luật Tại Tòa Án, 9 Điểm
 
Luận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng Nai
Luận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng NaiLuận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng Nai
Luận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng Nai
 
Đề tài: So sánh mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và thẩm vấn
Đề tài: So sánh mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và thẩm vấnĐề tài: So sánh mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và thẩm vấn
Đề tài: So sánh mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và thẩm vấn
 
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAYLuận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAY
 
Đề tài: Đương sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, HOT
Đề tài: Đương sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, HOTĐề tài: Đương sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, HOT
Đề tài: Đương sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong xét xử các vụ án hình sự
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong xét xử các vụ án hình sựLuận văn: Vai trò của Thẩm phán trong xét xử các vụ án hình sự
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong xét xử các vụ án hình sự
 
Đề tài: Vai trò của Thẩm phán Toà án trong hoạt động xét xử, HAY
Đề tài: Vai trò của Thẩm phán Toà án trong hoạt động xét xử, HAYĐề tài: Vai trò của Thẩm phán Toà án trong hoạt động xét xử, HAY
Đề tài: Vai trò của Thẩm phán Toà án trong hoạt động xét xử, HAY
 
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnhLuận văn: Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh
 
Luận văn: Chế độ thi hành án phạt tù ở Việt Nam hiện nay, HAY
Luận văn: Chế độ thi hành án phạt tù ở Việt Nam hiện nay, HAYLuận văn: Chế độ thi hành án phạt tù ở Việt Nam hiện nay, HAY
Luận văn: Chế độ thi hành án phạt tù ở Việt Nam hiện nay, HAY
 
Luận văn: Chế độ bầu cử ở nước ta - vấn đề lý luận và thực tiễn
Luận văn: Chế độ bầu cử ở nước ta - vấn đề lý luận và thực tiễnLuận văn: Chế độ bầu cử ở nước ta - vấn đề lý luận và thực tiễn
Luận văn: Chế độ bầu cử ở nước ta - vấn đề lý luận và thực tiễn
 

Similar to Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY

NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM>...
NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM>...NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM>...
NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM>...OnTimeVitThu
 
nâng cao vị trí, vai trò của Tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nư...
 nâng cao vị trí, vai trò của Tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nư... nâng cao vị trí, vai trò của Tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nư...
nâng cao vị trí, vai trò của Tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nư...hieu anh
 

Similar to Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY (20)

NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM>...
NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM>...NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM>...
NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM>...
 
Viện kiểm sát tham gia tố tụng dân sự theo quy định của luật, HAY
Viện kiểm sát tham gia tố tụng dân sự theo quy định của luật, HAYViện kiểm sát tham gia tố tụng dân sự theo quy định của luật, HAY
Viện kiểm sát tham gia tố tụng dân sự theo quy định của luật, HAY
 
Luận văn: Tái thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam, HOT, HAY
Luận văn: Tái thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam, HOT, HAYLuận văn: Tái thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam, HOT, HAY
Luận văn: Tái thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam, HOT, HAY
 
Luận văn: Tái thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam, 9 ĐIỂM
Luận văn: Tái thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam, 9 ĐIỂMLuận văn: Tái thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam, 9 ĐIỂM
Luận văn: Tái thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam, 9 ĐIỂM
 
Luận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAYLuận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
 
Đề tài: Thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự theo pháp luật, HAY
Đề tài: Thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự theo pháp luật, HAYĐề tài: Thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự theo pháp luật, HAY
Đề tài: Thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự theo pháp luật, HAY
 
Luận văn: Giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam, HOTLuận văn: Giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụngLuận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụng
 
Nhiệm vụ của Viển kiểm sát trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Nhiệm vụ của Viển kiểm sát trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sựNhiệm vụ của Viển kiểm sát trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Nhiệm vụ của Viển kiểm sát trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
 
Luận văn: Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hình sự theo luật
Luận văn: Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hình sự theo luật Luận văn: Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hình sự theo luật
Luận văn: Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hình sự theo luật
 
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOTQuyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
 
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Kiểm soát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm soát, HOT
Luận văn: Kiểm soát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm soát, HOTLuận văn: Kiểm soát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm soát, HOT
Luận văn: Kiểm soát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm soát, HOT
 
Đề tài: Pháp luật về quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán
Đề tài: Pháp luật về quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phánĐề tài: Pháp luật về quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán
Đề tài: Pháp luật về quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán
 
nâng cao vị trí, vai trò của Tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nư...
 nâng cao vị trí, vai trò của Tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nư... nâng cao vị trí, vai trò của Tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nư...
nâng cao vị trí, vai trò của Tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nư...
 
Luận văn: Thời hạn tố tụng dân sự theo pháp luật, HOT
Luận văn: Thời hạn tố tụng dân sự theo pháp luật, HOTLuận văn: Thời hạn tố tụng dân sự theo pháp luật, HOT
Luận văn: Thời hạn tố tụng dân sự theo pháp luật, HOT
 
Luận văn: Địa vị pháp lý của Thẩm tra viên thi hành án dân sự
Luận văn: Địa vị pháp lý của Thẩm tra viên thi hành án dân sựLuận văn: Địa vị pháp lý của Thẩm tra viên thi hành án dân sự
Luận văn: Địa vị pháp lý của Thẩm tra viên thi hành án dân sự
 
Luận văn: Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Tố tụng hình sự và vấn đề áp dụng tố tụng tranh tụng
Luận văn: Tố tụng hình sự và vấn đề áp dụng tố tụng tranh tụngLuận văn: Tố tụng hình sự và vấn đề áp dụng tố tụng tranh tụng
Luận văn: Tố tụng hình sự và vấn đề áp dụng tố tụng tranh tụng
 
Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam và áp dụng tố tụng tranh tụng
Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam và áp dụng tố tụng tranh tụngMô hình tố tụng hình sự Việt Nam và áp dụng tố tụng tranh tụng
Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam và áp dụng tố tụng tranh tụng
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...Nguyen Thanh Tu Collection
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNguyễn Đăng Quang
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdftohoanggiabao81
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxnhungdt08102004
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxendkay31
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa2353020138
 

Recently uploaded (19)

SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
 

Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT PHÙNG THANH HÀ NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2014
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT PHÙNG THANH HÀ NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật dân sự và tố tụng dân sự Mã số : 60 38 01 03 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Bùi Thị Huyền HÀ NỘI - 2014
  • 3. Lêi cam ®oan T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña luËn v¨n ch­a tõng ®­îc ai c«ng bè trong bÊt kú c«ng tr×nh nµo kh¸c. T¸c gi¶ luËn v¨n Phïng Thanh Hµ
  • 4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ 8 1.1. Khái niệm đặc điểm nhiệm vụ quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự 8 1.1.1. Khái niệm nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự 8 1.1.2. Đặc điểm nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự 11 1.2. Cơ sở xác định nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự 14 1.2.1. Xuất phát từ vị trí, vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà nước 15 1.2.2. Xuất phát từ việc hài hòa nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân với quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự 16 1.2.3. Xuất phát từ thực tiễn hoạt động xét xử của Tòa án 18 1.3. Khái quát về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự Việt Nam qua các thời kỳ 18 1.3.1. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện công tố (tiền thân của Viện kiểm sát nhân dân) trong tố tụng dân sự giai đoạn từ 1945 đến 1959 18 1.3.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong tố 20
  • 5. tụng dân sự giai đoạn từ 1960 đến 1988 1.3.3. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự từ năm 1989 đến trước năm 2004 21 1.3.4. Giai đoạn từ năm 2004 đến nay 23 1.4. Quy định của pháp luật một số quốc gia về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự 26 1.4.1. Quy định của pháp luật Liên bang Nga 26 1.4.2. Quy định của pháp luật Cộng hòa Pháp 31 1.4.3. Quy định của pháp luật Cộng hòa nhân dân Trung Hoa 33 Chương 2: PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ 36 2.1. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trước khi thụ lý và chuẩn bị giải quyết vụ việc dân sự 36 2.1.1. Kiểm sát việc thụ lý vụ việc dân sự 36 2.1.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong quá trình kiểm sát việc lập hồ sơ vụ việc dân sự 39 2.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi tham gia phiên tòa sơ thẩm; phiên họp giải quyết việc dân sự 41 2.2.1. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát tại phiên tòa sơ thẩm 42 2.2.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của kiểm sát viên tại phiên họp sơ thẩm 56 2.3. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong việc kháng nghị bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật và tham gia tố tụng ở cấp phúc thẩm 57 2.3.1. Kháng nghị bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật 57 2.3.2. Viện kiểm sát nhân dân nghiên cứu hồ sơ vụ án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm 60 2.3.3. Viện kiểm sát nhân dân tham gia phiên tòa, phiên họp phúc thẩm 61 2.4. Kháng nghị bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và 63
  • 6. tham gia phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm 2.4.1. Kháng nghị bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật 63 2.4.2. Viện kiểm sát nhân dân tham gia phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm 67 2.5. Thực hiện quyền yêu cầu, kiến nghị 69 2.5.1. Thực hiện quyền yêu cầu 69 2.5.2. Thực hiện quyền kiến nghị 72 Chương 3: THỰC TIỄN THỰC HIỆN, MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ 76 3.1. Thực tiễn thực hiện các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự 76 3.1.1. Kiểm sát thụ lý vụ việc dân sự 77 3.1.2. Hoạt động kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án 79 3.1.3. Kiểm sát công tác xét xử của Tòa án 83 3.1.4. Công tác kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm 84 3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự 88 3.2.1. Hoàn thiện pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự 88 3.2.2. Một số kiến nghị khác nhằm bảo đảm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát 97 KẾT LUẬN 100 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 102
  • 7. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLDS : Bộ luật Dân sự BLTTDS : Bộ luật Tố tụng dân sự TAND : Tòa án nhân dân TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao VKS : Viện kiểm sát VKSND : Viện kiểm sát nhân dân VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao
  • 8. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) có nhiệm vụ, quyền hạn quan trọng trong tố tụng dân sự, xét cả trên phương diện lý luận và thực tiễn. Lịch sử pháp luật về VKSND Việt Nam trong tố tụng dân sự kể từ khi thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đến nay đã trải qua hơn 60 năm tồn tại, trưởng thành và phát triển, đã thực hiện được nhiều nội dung cải cách tư pháp. Bước sang thế kỳ thứ XXI, tiến trình cải cách tổ chức và hoạt động của VKSND trong lĩnh vực dân sự đã được tiến hành ngày càng sâu rộng. Ngày 24/5/2005, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 48-NQ/TW về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 trong đó xác định rõ: "Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát theo hướng bảo đảm thực hiện tốt nhiệm vụ, quyền hạn công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Nghiên cứu hướng tới chuyển thành Viện Công tố". Tiếp đó, ngày 02/6/2005, Bộ Chính trị có Nghị quyết số 49-NQ/TW cũng tiếp tục khẳng định: Trước mắt, Viện kiểm sát nhân dân giữ nguyên nhiệm vụ, quyền hạn như hiện nay là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức của Tòa án. Nghiên cứu chuyển Viện kiểm sát thành Viện Công tố, tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra [9]. Như vậy, hai nghị quyết nêu trên đã chỉ rõ nhiều nội dung cụ thể về cải cách tư pháp đòi hỏi phải được thể chế hóa, tạo cơ sở pháp lý cho việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát (VKS) nói chung cũng như vị trí, nhiệm vụ, quyền hạn của VKS nói riêng trong tố tụng dân sự. Theo tinh thần quy định của các Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994,
  • 9. 2 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động năm 1996 thì Kiểm sát viên tham gia kiểm sát việc tuân theo pháp luật hầu hết các vụ việc dân sự nhưng tại Điều 21 Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2004 hạn chế phạm vi tham gia phiên toà của VKS đối với vụ án dân sự. Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 quy định VKS tham gia phiên tòa đối với những vụ án dân sự do Tòa án thu thập chứng cứ mà đương sự có khiếu nại, tham gia các phiên họp giải quyết các việc dân sự thuộc thẩm quyền của Tòa án, các vụ việc dân sự mà VKS kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án dựa trên quan điểm tôn trọng quyền tự định đoạt của các bên đương sự trong tố tụng dân sự. Thực tiễn thi hành BLTTDS năm 2004 cho thấy quy định của BLTTDS về sự tham gia của VKS trong tố tụng dân sự đã bộc lộ những hạn chế, bất cập, chưa tạo điều kiện cho VKS thực hiện được đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn, nhiệm vụ của mình theo quy định của Hiến pháp và Luật tổ chức VKSND. Trong điều kiện thực tiễn của Việt Nam, khi mà trình độ dân trí còn hạn chế, người dân còn gặp nhiều khó khăn trong việc tự chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước Tòa án, khi có tranh chấp nhiều người dân chưa có điều kiện mời Luật sư bảo vệ quyền lợi cho mình và đội ngũ Luật sư hiện nay cũng chưa đáp ứng được yêu cầu tham gia tất cả các phiên tòa. Do đó, Luật sửa đổi bổ sung BLTTDS năm 2011 đã sửa đổi quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong tố tụng dân sự, qua đó thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Thực tiễn đó, đòi hỏi cần tiếp tục nghiên cứu về nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong tố tụng dân sự nhằm góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của VKSND trong tố tụng dân sự, vì vậy tác giả đã lựa chọn đề tài: "Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự Việt Nam" để làm luận văn thạc sĩ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong tố tụng dân sự là vấn đề không chỉ được ngành Kiểm sát mà còn được cả xã hội quan tâm. Do yêu cầu và đòi
  • 10. 3 hỏi khách quan nêu trên, đã có nhiều bài viết trên các luận văn thạc sĩ, tạp chí chuyên ngành, sách chuyên khảo, chuyên đề tổng kết rút kinh nghiệm của các ngành Kiểm sát, Tòa án… liên quan đến nội dung, nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong tố tụng dân sự. Từ tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài nêu trên, có thể phân loại tài liệu thành hai nhóm sau: - Nhóm thứ nhất, các bài viết liên quan đến vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong tố tụng dân sự theo yêu cầu cải cách tư pháp như: "Đổi mới vị trí, vai trò của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự theo yêu cầu cải cách tư pháp" của tác giả Nguyễn Minh Hằng, sách chuyên khảo, Nhà xuất bản Tư pháp, năm 2008; "Hoàn thiện chế định Viện kiểm sát nhân dân trong Bộ luật Tố tụng dân sự", Đề tài khoa học cấp Bộ của tiến sĩ Trần Văn Trung, năm 2003; Luận án tiến sĩ "Quá trình hình thành, phát triển và đổi mới Viện kiểm sát nhân dân theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam", của tác giả Trần Văn Nam, năm 2010; Luận văn thạc sĩ luật học "Cơ sở lý luận và thực tiễn đổi mới tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam" của tác giả Hoàng Thế Anh, năm 2006; Luận văn thạc sĩ luật học "Sự tham gia tố tụng của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự Việt Nam" của tác giả Võ Thị Phượng, năm 2010; "Vị trí, vai trò của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành", "Nhận thức đúng thẩm quyền và trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân trong Bộ luật Tố tụng dân sự" của tác giả Khuất Văn Nga, đăng trên Tạp chí Kiểm sát, số 09 năm 2004... - Nhóm thứ hai, nhóm các chuyên đề báo cáo tổng kết, rút kinh nghiệm như: "Kết luận của TS. Khuất Văn Nga - Nguyên Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao tại Hội nghị sơ kết 1 năm thực hiện Bộ luật Tố tụng dân sự về thực hiện các quy định về quyền và trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự", Tạp chí Kiểm sát, số 18, tháng 9/2006; "Những kiến nghị từ hoạt động thực tiễn qua 1 năm thực hiện các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004" của Tòa soạn Tạp chí Kiểm sát, Tạp chí Kiểm sát, số 18,
  • 11. 4 tháng 9/2006; "Việc áp dụng một số quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự" của Toà soạn Tạp chí Kiểm sát, Tạp chí Kiểm sát, số 13, tháng 3/2006; "Vị trí, vai trò Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự theo yêu cầu cải cách tư pháp" của Nguyễn Ngọc Khánh, Tạp chí Kiểm sát, số 14-16, tháng 7, 8 năm 2008; "Báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 kể từ ngày Bộ luật Tố tụng dân sự có hiệu lực pháp luật đến ngày 31/5/2005" của VKSNDTC... Qua nghiên cứu những công trình, bài viết nêu trên cho thấy: có nhiều quan điểm, lý luận tác giả có thể kế thừa và phát triển được khi nghiên cứu và hoàn thành đề tài. Tuy vậy, các công trình, bài viết trên chủ yếu đi sâu vào nghiên cứu các lĩnh vực chung nhất về nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước; các vấn đề về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong tố tụng dân sự dưới góc độ của Luật nhà nước. Hoặc có công trình, bài viết tuy có trực tiếp đề cập đến vấn đề này, nhưng do thời điểm nghiên cứu đã lâu nên không cập nhật được những vấn đề đang đặt ra trong lý luận và thực tiễn hiện nay, nhất là trong điều kiện BLTTDS năm 2004 vừa được Quốc hội sửa đổi, bổ sung năm 2011 với nhiều quy định mới, nên vấn đề này cần tiếp tục được nghiên cứu. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 3.1. Mục đích Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm rõ các cơ sở lý luận và thực tiễn thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong tố tụng dân sự; đánh giá tính có căn cứ và khoa học về thực trạng pháp luật về nhiệm vụ quyền hạn của VKS trong tố tụng dân sự, từ đó đề xuất giải pháp hoàn thiện và bảo đảm thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong tố tụng dân sự. 3.2. Nhiệm vụ Từ mục đích nêu trên, luận văn có nhiệm vụ: - Làm rõ cơ sở lý luận về nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong tố tụng dân sự.
  • 12. 5 - Làm rõ nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong trong tố tụng dân sự qua các thời kỳ, đặc biệt là theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành từ đó xác định những hiệu quả, hạn chế và nguyên nhân. - Đề xuất những phương hướng, giải pháp cơ bản nhằm bảo đảm thực hiện tốt nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong tố tụng dân sự trong thời gian tới, góp phần bảo đảm cho việc giải quyết các vụ án dân sự của Tòa án có căn cứ, đúng pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức, xã hội và công dân. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn 4.1. Đối tượng nghiên cứu Những vấn đề lý luận và thực tiễn, các quy định của pháp luật và thực tiễn thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong tố tụng dân sự theo yêu cầu cải cách tư pháp. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong tố tụng dân sự; việc tổ chức thực hiện các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong tố tụng dân sự trên thực tế và những quy định của pháp luật có liên quan đến các vấn đề nêu trên. Phạm vi nghiên cứu thực tiễn thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của VKS Việt Nam trong tố tụng dân sự trong toàn ngành Kiểm sát, thời điểm lấy số liệu từ năm 2005 đến nay. Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, tác giả chỉ nghiên cứu về nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong việc kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự tại Tòa án (ở Việt Nam, hiện nay, có hai quan điểm khác nhau về tố tụng dân sự. Quan điểm thứ nhất cho rằng, tố tụng dân sự, bao gồm toàn bộ trình tự, thủ tục giải quyết vụ việc dân sự và thi hành án dân sự. Quan điểm khác cho rằng, tố tụng dân sự chỉ bao gồm trình tự, thủ tục giải quyết vụ việc dân sự tại Tòa án). 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Đề tài được thực hiện trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp luật; đường lối
  • 13. 6 quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; về đổi mới tổ chức hoạt động của VKS trong điều kiện cải cách tư pháp theo Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 và Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị và những thành tựu của khoa học pháp lý trên thế giới. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Dựa trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của triết học Mác - Lênin; các khoa học chuyên ngành khác đặc biệt là khoa học về Lý luận lịch sử nhà nước và pháp luật, chú trọng đến phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, kết hợp lý luận và thực tiễn. 6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn - Phân tích và làm rõ được cơ sở lý luận và thực tiễn trong pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong tố tụng dân sự trước yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay ở Việt Nam. - Đề xuất những phương hướng cơ bản nhằm hoàn thiện pháp luật và các giải pháp bảo đảm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong tố tụng dân sự, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp. 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Góp phần làm sáng tỏ về lý luận cũng như thực trạng pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong tố tụng dân sự từ đó góp phần tiếp tục đổi mới nhiệm vụ, quyền hạn và việc hoàn thiện mô hình hoạt động của VKSND trong tố tụng dân sự. - Nâng cao chất lượng công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự. Đảm bảo cho việc giải quyết các vụ việc dân sự của Tòa án khách quan, có căn cứ, đúng pháp luật. - Đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu nghiên cứu, tham khảo cho các nhà khoa học, những người làm công tác thực tiễn, đồng thời có thể được sử dụng cho việc nghiên cứu, giảng dạy cho các cơ sở đào tạo khoa học pháp lý.
  • 14. 7 - Đề tài là nguồn tài liệu để phản ánh một số vấn đề từ thực tế giúp cho liên ngành VKS - Tòa án nghiên cứu khi ban hành các thông tư, hướng dẫn các vấn đề còn bất cập trong việc áp dụng, thực hiện BLTTDS trong thời gian tới. Đồng thời, đề xuất với cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiếp tục chỉnh lý, sửa đổi, bổ sung, tiếp tục hoàn thiện BLTTDS, nhằm đảm bảo cho pháp luật tố tụng dân sự được thực hiện nghiêm chỉnh và thống nhất trong toàn quốc. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương. Chương 1: Những vấn đề lí luận về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự. Chương 2: Pháp luật Việt Nam hiện hành về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự. Chương 3: Thực tiễn thực hiện, một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự.
  • 15. 8 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ 1.1. KHÁI NIỆM ĐẶC ĐIỂM NHIỆM VỤ QUYỀN HẠN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ 1.1.1. Khái niệm nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự Hiến pháp năm 2013, BLTTDS đã khẳng định VKSND là cơ quan chịu trách nhiệm kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự. Các hoạt động tố tụng dân sự của những người tiến hành tố tụng dân sự và những người tham gia tố tụng dân sự là đối tượng kiểm sát của VKSND. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự là giám sát, kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ đối với hành vi của các chủ thể tiến hành và tham gia tố tụng, đối với văn bản áp dụng pháp luật giải quyết vụ việc dân sự của chủ thể tiến hành tố tụng và đó là hình thức thực hiện quyền lực nhà nước, một trong những hoạt động thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND. Mục đích của hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự là nhằm bảo đảm cho các hành vi xử sự của các chủ thể tiến hành, tham gia tố tụng và văn bản áp dụng pháp luật giải quyết vụ việc dân sự được thực hiện theo quy định của pháp luật. Nội dung hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự là việc VKSND sử dụng các biện pháp, quyền năng pháp lý do BLTTDS quy định để kịp thời phát hiện và loại bỏ vi phạm, tiêu cực của cơ quan, người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng, nhằm bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, bảo vệ lợi ích nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Để có thể sử dụng được các biện pháp, quyền năng pháp lý quy định trong BLTTDS, Nhà nước trao cho VKSND những nhiệm vụ, quyền hạn nhất định.
  • 16. 9 Trong khoa học pháp lý, "thẩm quyền", "nhiệm vụ" và "nghĩa vụ" là các khái niệm khác nhau. Thẩm quyền là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ hành động, quyết định của các cơ quan, tổ chức thuộc bộ máy nhà nước do pháp luật quy định [39, tr. 459]. Khái niệm "thẩm quyền" bao hàm hai nội dung chính là quyền hành động và quyền quyết định của cơ quan, tổ chức trong bộ máy nhà nước. Quyền hành động là quyền được làm những công việc nhất định, còn quyền quyết định là quyền hạn giải quyết công việc đó trong phạm vi pháp luật cho phép (thẩm quyền hành động). Nghĩa vụ là việc mà theo đó một chủ thể (cá nhân, cơ quan, tổ chức) phải thực hiện hoặc không thực hiện khi tham gia vào một quan hệ pháp luật. Thuật ngữ "nhiệm vụ", theo Đại Từ điển tiếng Việt được hiểu là "công việc phải làm, gách vác" [46, tr. 1384] hay "công việc phải làm vì một mục đích và trong một thời gian nhất định" [17]. Theo cách giải thích này thì nhiệm vụ nói chung là công việc mang tính chất bắt buộc đối với chủ thể phải thực hiện. Nhiệm vụ của một chủ thể xuất phát từ tư cách chủ thể trong quan hệ xã hội mà chủ thể đó tham gia và được pháp luật quy định. Cùng một chủ thể, nhưng mỗi quan hệ xã hội khác nhau thì quy định pháp luật xác định nhiệm vụ khác nhau. Do đó, có thể hiểu nhiệm vụ của cơ quan VKSND là những hoạt động cụ thể của VKSND trong một thời gian nhất định nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành mình để cùng thực hiện nhiệm vụ của bộ máy nhà nước trên cơ sở quy định của Hiến pháp và pháp luật. Nhiệm vụ của VKSND trong tố tụng dân sự là những yêu cầu cụ thể do Nhà nước đặt ra và được quy định trong Hiến pháp, Luật tổ chức VKSND, BLTTDS và các văn bản pháp luật khác mà VKSND phải thực hiện bằng những hình thức, biện pháp nhất định trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, cụ thể là: - Bảo đảm việc giải quyết các vụ án dân sự ở Tòa án các cấp nhanh chóng, khách quan, toàn diện, đầy đủ và kịp thời.
  • 17. 10 - Bảo đảm mọi bản án, quyết định dân sự của Tòa án có căn cứ và đúng pháp luật. - Bảo đảm mọi bản án, quyết định dân sự của của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật được đưa ra thi hành đúng pháp luật, kịp thời. Như vậy, nhiệm vụ của VKSND trong tố tụng dân sự là những công việc cụ thể do pháp luật quy định đối với VKSND trong các giai đoạn khác nhau của quá trình tố tụng các vụ việc dân sự (từ khi Tòa án thụ lý, chuẩn bị xét xử đến phiên tòa giải quyết vụ việc dân sự) nhằm kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án và những người tham gia tố tụng. Còn về khái niệm "quyền hạn" được hiểu là quyền theo cương vị, chức vụ cho phép [46]. Dưới góc độ pháp lý, quyền hạn của một cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân được xác định theo phạm vi nội dung, lĩnh vực hoạt động, cấp và chức vụ, vị trí công tác và trong phạm vi không gian, thời gian nhất định theo quy định của pháp luật [39, tr. 651]. Quyền hạn thường gắn chủ thể với một cương vị, tư cách cụ thể. Trong khoa học pháp lý, quyền hạn được gắn liền với cơ quan, tổ chức trong bộ máy nhà nước hoặc của người có thẩm quyền của cơ quan, tổ chức đó. Quyền hạn của cơ quan, tổ chức là quyền quyết định giải quyết công việc trong phạm vi thẩm quyền của cơ quan, tổ chức. Quyền hạn của người có thẩm quyền của cơ quan, tổ chức là quyền quyết định giải quyết công việc trong phạm vi thẩm quyền của cơ quan, tổ chức đó. Đối với quyền của chủ thể khi tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự xuất phát từ sự thỏa thuận hoặc do pháp luật quy định. Quyền hạn và nhiệm vụ là hai khái niệm khác nhau, song lại có mối liên hệ chặt chẽ. Nhiệm vụ của VKS là việc phải thực hiện các chức năng tố tụng mà BLTTDS quy định, nếu không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nhiệm vụ thì tùy theo tính chất và mức độ giải quyết vụ việc dân sự sẽ không chính xác. Nhiệm vụ của VKS trong tố tụng dân sự được xác định bắt buộc
  • 18. 11 trong những trường hợp quy định tại Điều 21 BLTTDS. Để thực hiện tốt nhiệm vụ của mình pháp luật cần trao cho VKS những quyền hạn đầy đủ. Tuy nhiên, khái niệm quyền hạn và nhiệm vụ đặt trong một điều kiện với một chủ thể xác định thì quyền hạn và nhiệm vụ là tương đối thống nhất. Pháp luật quy định nhiệm vụ của VKS phải thực hiện những công việc gì, đồng nghĩa là pháp luật trao cho VKS những quyền hạn để thực hiện nhiệm vụ đó. Nhiệm vụ, quyền hạn của VKS nói chung được quy định trong Luật tổ chức VKS. Còn trong tố tụng dân sự, nhiệm vụ, quyền hạn của VKS được quy định cụ thể trong các văn bản pháp luật tố tụng dân sự. Như vậy, quyền hạn của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự là quyền quyết định thực hiện các hoạt động tố tụng (từ khi Tòa án thụ lý, chuẩn bị xét xử đến phiên tòa giải quyết vụ việc dân sự) nhằm kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án và những người tham gia tố tụng. 1.1.2. Đặc điểm nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự Thứ nhất, nhiệm vụ quyền hạn của VKS do pháp luật quy định, VKS không thực hiện những hoạt động ngoài nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy định. Đây chính là nội dung trong nguyên tắc pháp chế - nguyên tắc quan trọng trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước, của tổ chức xã hội, của những người có chức vụ, quyền hạn và của công dân. Đây là nguyên tắc hiến định được hiểu là việc thường xuyên, nhất quán tuân thủ và chấp hành các quy định của Hiến pháp, của các đạo luật và các văn bản quy phạm pháp luật khác của tất cả các cơ quan nhà nước và các tổ chức xã hội, của những người có chức vụ, quyền hạn, của công dân. Trong hoạt động của VKS, nguyên tắc bảo đảm pháp chế hay đảm bảo thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của VKS do pháp luật quy định, không thực hiện những hoạt động ngoài nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy định được cụ thể hóa trong việc xác lập tiến hành kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự. Nguyên tắc
  • 19. 12 này đòi hỏi mọi hoạt động của VKS phải được luật điều chỉnh chặt chẽ, cụ thể và các quy định của pháp luật phải được tuân thủ một cách nghiêm chỉnh, thống nhất. Trong trường hợp có sự vi phạm pháp luật, VKS có trách nhiệm phải áp dụng biện pháp để khắc phục vi phạm đó. Để đảm bảo việc kiểm sát các vụ việc dân sự khách quan, công bằng, đúng pháp luật thì trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình VKS, Viện trưởng VKS và các kiểm sát viên phải độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Đây là vấn đề có ý nghĩa rất lớn đối với việc giải quyết vụ việc dân sự nên việc chỉ thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy định. Theo Hiến pháp và pháp luật hiện hành, VKSND là cơ quan có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Với chức năng, nhiệm vụ của mình, VKSND thực hiện quyền lực nhà nước, trực tiếp tham gia giám sát các hoạt động tư pháp góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân; bảo đảm trật tự xã hội. Khi thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án nhân dân (TAND), VKSND có nhiệm vụ, quyền hạn kiểm sát thông báo, quyết định và các văn bản có liên quan đến việc giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án; kiểm sát việc chuyển giao các loại văn bản có liên quan đến việc giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án; kiểm sát việc chuyển giao các loại văn bản trên của Tòa án có đúng quy định của BLTTDS hay không... Thứ hai, nhiệm vụ, quyền hạn bảo đảm cho VKS thực hiện tốt chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án và những người tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, góp phần bảo đảm tính đúng đắn, khách quan của bản án, quyết định của Tòa án. VKSND là chủ thể của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự, có những quyền và nghĩa vụ tố tụng nhất định (quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị) với vị trí pháp lý hoàn toàn khác với vị trí của các chủ thể tham gia tố tụng để thực hiện chức năng kiểm
  • 20. 13 sát việc tuân theo pháp luật trong toàn bộ quá trình tố tụng dân sự. Là cơ quan tiến hành tố tụng, song khác với TAND - chủ thể chính trong quan hệ pháp luật tố tụng dân sự, sự tham gia của VKSND không mang tính chất bắt buộc thường xuyên liên tục. Về mặt pháp lý, VKSND tham gia kiểm sát việc thụ lý, trả lại đơn khởi kiện, áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, kiểm sát bản án... Khi tham gia phiên tòa, phiên họp kiểm sát viên đại diện cho VKSND thực hiện chức năng, nhiệm vụ của VKSND được pháp luật tố tụng dân sự quy định. Đó là kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án, người tham gia tố tụng. Vấn đề này được thể hiện rõ nét nhất tại phiên tòa mà chủ thể tiến hành là kiểm sát viên. Trong tố tụng dân sự, VKS là chủ thể đặc biệt. Khi thực hiện chức năng giám sát hoạt động giải quyết vụ việc dân sự tại phiên tòa, phiên họp trong phạm vi quyền hạn của mình, kiểm sát viên phải tiến hành theo trình tự, thủ tục mà pháp luật quy định. Bên cạnh đó, VKSND còn kiểm sát hoạt động tố tụng của các đương sự và cơ quan tiến hành tố tụng. Hoạt động kiểm sát của VKSND góp phần bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án được đúng đắn, khách quan. Bộ luật Tố tụng dân sự và các văn bản quy phạm pháp luật đã khẳng định rõ về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND. Theo đó, VKSND vẫn là cơ quan tiến hành tố tụng dân sự, đại diện VKSND là người tiến hành tố tụng. Được coi là cơ quan tiến hành tố tụng, song các quyền và nghĩa vụ của VKSND chủ yếu để thực hiên chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự tại Tòa án, nhằm đảm bảo tính hợp pháp và có căn cứ trong hoạt động xét xử của Tòa án. Mặc dù, đều là cơ quan tiến hành tố tụng nhưng khác với Tòa án, VKS không ra bản án, quyết định giải quyết nội dung vụ việc dân sự. Mục đích tham gia tố tụng chủ yếu của VKSND là nhằm thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng.
  • 21. 14 Như vậy, sự tham gia tố tụng của VKSND trong tố tụng dân sự là việc VKSND tham gia với tư cách là cơ quan tiến hành tố tụng, có chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật nhằm đảm bảo cho pháp luật được thi hành nghiêm chỉnh, thống nhất trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự tại Tòa án. Thứ ba, nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND được thực hiện thông qua hoạt động của kiểm sát viên và Viện trưởng VKS. Đứng đầu VKS là Viện trưởng VKS. Trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự, Viện trưởng VKS có nhiều nhiệm vụ, quyền hạn như: tổ chức và chỉ đạo thực hiện công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng dân sự; quyết định phân công kiểm sát viên thực hiện kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng, tham gia phiên tòa xét xử vụ án dân sự, phiên họp giải quyết việc dân sự theo quy định của Bộ luật này; kiểm tra hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng của kiểm sát viên; quyết định thay đổi kiểm sát viên; kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm, bản án, quyết định của Tòa án theo quy định của Bộ luật này; giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định. Kiểm sát viên là một trong những người tiến hành tố tụng tham gia bảo đảm tuân thủ pháp luật trong quá trình giải quyết việc dân sự theo quy định của BLTTDS. Trong tố tụng dân sự, kiểm sát viên khi được phân công thực hiện kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng dân sự có nhiệm vụ, quyền hạn như: kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, giải quyết việc dân sự của Tòa án. Đảm bảo việc giải quyết vụ việc dân sự tân thủ đầy đủ các quy định pháp luật về thủ tục, cũng như nội dung; kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những người tham gia tố tụng như: nguyên đơn, bị đơn, người làm chứng, người phiên dịch... 1.2. CƠ SỞ XÁC ĐỊNH NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ Trong tố tụng dân sự, để xác định được nhiệm vụ, quyền hạn của VKS cần dựa vào những yếu tố như: vị trí, vai trò của VKS; tính chất của
  • 22. 15 vụ việc dân sự; việc thực quyền tự định đoạt của đương sự và việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của đương sự; thực tiễn hoạt động xét xử của Tòa án. 1.2.1. Xuất phát từ vị trí, vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà nước Trên thế giới, ở các nước khác nhau, theo hệ thống pháp luật khác nhau thì vị trí, vai trò của VKS trong bộ máy nhà nước cũng khác nhau. Trong mô hình của các nước theo hệ thống luật Anh - Mỹ (hệ thống common law), hệ thống cơ quan công tố được tổ chức rất gọn nhẹ, chủ yếu tham gia vào các lĩnh vực hình sự. Các công tố viên có thể được tuyển chọn theo từng vụ việc cụ thể. Mặc dù hiện nay tình hình đã có nhiều thay đổi nhưng ở các nước này vẫn tồn tại một quan niệm: "Càng ít có sự can thiệp của Nhà nước, càng ít có sự can thiệp của pháp luật thì xã hội càng vận hành có hiệu quả". Theo pháp luật của những nước này (ví dụ Đan Mạch, Thụy Điển...) thì Viện công tố không có vai trò gì trong vụ án dân sự. Trong quá trình tố tụng, các công tố viên không tham gia trong quá trình lập hồ sơ, xét xử, không có quyền kháng nghị [32, tr. 35]... Đối với các nước theo hệ thống luật lục địa (civil law) như Pháp, Việt Nam... thì Nhà nước hình thành một hệ thống cơ quan công tố mạnh, có vai trò lớn trong lĩnh vực kiểm sát việc tuân theo pháp luật và thẩm quyền kháng nghị trong các thủ tục tố tụng. Từ đó, mà nhiệm vụ, quyền hạn của Viện công tố (hay VKS) cũng lớn hơn. Tại Pháp, trong lĩnh vực tố tụng dân sự, Viện công tố có hai vai trò chính: thực hiện quyền khởi kiện như một bên đương sự; thực hiện quyền yêu cầu áp dụng pháp luật, với tư cách như một cơ quan tiến hành tố tụng. Ngoài ra, Viện công tố còn có một hình thức can thiệp thứ ba với vai trò là người đại diện cho các cơ quan nhà nước [15, tr. 149]. Tại Việt Nam, qua các thời kỳ khác nhau, mà VKS cũng có những vai trò khác nhau. Trước năm 2004, vai trò của VKSND trong lĩnh vực dân sự được mở rộng. Theo đó mà Kiểm sát viên phải tham gia tất cả các giai đoạn tố
  • 23. 16 tụng giúp quá trình kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự được sâu rộng. Đến năm 2004, vai trò tham gia tố tụng của VKSND bị hạn chế đồng thời bỏ đi quyền khởi tố vụ án dân sự của VKSND. Trước yêu cầu của thực tiễn, từ các tranh chấp dân sự ngày càng gia tăng và phức tạp trong khi việc xét xử của Tòa án còn nhiều sai sót cần có cơ chế giám sát, kiểm tra, từ năm 2012 đến nay, vai trò của VKS trong tố tụng dân sự ở nước ta lại có những thay đổi theo hướng tăng cường. Từ đó, nhiệm vụ và quyền hạn của VKS cũng được bổ sung nhất định theo hướng VKS tham gia phiên tòa sơ thẩm trong một số trường hợp theo quy định của pháp luật, đối với các phiên họp sơ thẩm giải quyết việc dân sự, phiên tòa, phiên họp phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm thì VKS phải tham gia toàn bộ. Như vậy, nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong tố tụng dân sự phụ thuộc vào vị trí, vai trò của VKS hay Viện Công tố trong tổ chức bộ máy nhà nước. Ở Việt Nam nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong tố tụng dân sự phụ thuộc vào vị trí, vai trò của VKS trong tổ chức bộ máy nhà nước ở các giai đoạn lịch sử khác nhau. Do đó, khi xây dựng các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong tố tụng dân sự hiện nay cần căn cứ vào chức năng của VKS trong Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức VKSND. 1.2.2. Xuất phát từ việc hài hòa nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân với quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự Khác với pháp luật tố tụng hình sự giải quyết quan hệ giữa một bên là Nhà nước, đại diện cho lợi ích công và một bên là người phạm tội do đó, trong đó, VKS với vai trò đại diện Nhà nước ra cáo trạng buộc tội đối với bị cáo. Pháp luật tố tụng dân sự giải quyết những tranh chấp các lợi ích tư giữa các đương sự. Mục đích trực tiếp của pháp luật tố tụng dân sự là bảo vệ lợi ích tư của các đương sự nên một trong những nguyên tắc cơ bản của pháp luật tố tụng dân sự là trao quyền tự quyết cho đương sự - chủ thể của các lợi ích. Các chủ thể tiến hành tố tụng chỉ thực hiện các nhiệm vụ làm sáng tỏ vụ
  • 24. 17 việc để giải quyết trên cơ sở pháp luật chứ không thay mặt cho đương sự quyết định những lợi ích của chính họ. Do đó, trong tố tụng dân sự quyền tự định đoạt của đương sự luôn được tôn trọng và bảo đảm thực hiện. Việc tham gia tố tụng của VKS nhằm bảo đảm việc giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án được chính xác, khách quan, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự nhưng không được hạn chế quyền tự định đoạt của đương sự. Mọi cá nhân có quyền tự mình lựa chọn những phương thức giải quyết tranh chấp dân sự miễn sao không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Những biện pháp giải quyết tranh chấp thay thế như hòa giải, thương lượng, trọng tài đều được khuyến khích. Trong trường hợp không thỏa mãn với những giải pháp đó, các chủ thể có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết theo trình tự tố tụng dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Trong suốt quá trình tố tụng kể từ khi khởi kiện đến trước khi kết thúc phiên tòa, các đương sự có quyền thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu của mình. Tuy nhiên, để đảm bảo quyền tranh tụng, việc thực hiện nguyên tắc này cũng có những ngoại lệ nhất định. Đó là trường hợp đương sự không được thay đổi, bổ sung yêu cầu nếu việc thay đổi, bổ sung yêu cầu đó diễn ra tại phiên tòa mà vượt quá phạm vi khởi kiện ban đầu. Trong tố tụng dân sự, do quan hệ pháp luật dân sự đa dạng về nội dung, hình thức và chủ thể tham gia. Khi tham gia các quan hệ dân sự, các chủ thể thực hiện quyền và nghĩa vụ theo đúng những nội dung đã cam kết và quy định của pháp luật. Tuy nhiên, khi một trong các bên không tuân thủ các quy định pháp luật hoặc không tuân thủ thỏa thuận đã cam kết, xâm phạm đến lợi ích của bên kia thì bên bị vi phạm có quyền tự bảo vệ hoặc yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ. Do đó, khi xây dựng quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong tố tụng dân sự như quyền khởi tố, kháng nghị, kiến nghị... phải xem xét đến quyền tự định đoạt của đương sự.
  • 25. 18 1.2.3. Xuất phát từ thực tiễn hoạt động xét xử của Tòa án Số lượng các vụ việc dân sự mà ngành Tòa án thụ lý giải quyết ngày càng tăng (trong 3 năm 2011- 2013, số vụ việc dân sự mà toàn ngành thụ lý tăng từ 88.758 vụ việc lên 111.873 vụ việc [31]), tỷ lệ các bản án, quyết định bị hủy, sửa vẫn còn nhiều (năm 2013 đối với các vụ việc dân sự: Tòa án cấp phúc thẩm sửa 2.164 vụ án do cấp sơ thẩm sai; 864 vụ án do có tình tiết mới; hủy 1.424 vụ án do cấp sơ thẩm sai, 226 vụ án do có tình tiết mới; ở giai đoạn giám đốc thẩm đã hủy 805 bản án, quyết định của Tòa án cấp dưới [31]. Điều đó cho thấy sai lầm trong việc giải quyết các vụ án dân sự vẫn còn tồn tại. Bên cạnh đó, không loại trừ khả năng còn có những bản án, quyết định của Tòa án có sai sót nhưng không bị phát hiện ra. Do đó, đòi hỏi phải có cơ chế kiểm tra, giám sát bản án, quyết định của Tòa án một cách có hiệu quả. Trong khi đó hiệu quả giám sát từ phía các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội còn hạn chế, trình độ hiểu biết pháp luật của người dân chưa cao (đặc biệt là một bộ phận người dân như người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất, tâm thần... luôn bị thua thiệt khi tham gia tố tụng) nên sự tham gia vào quá trình tố tụng dân sự của VKS vẫn cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Hơn nữa, về nguyên tắc nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự là thuộc về các đương sự nhưng trong điều kiện thực tiễn Việt Nam, khi mà trình độ dân trí còn hạn chế, người dân còn gặp nhiều khó khăn để tự chứng minh bảo vệ quyền lợi của mình trước Tòa án thì họ phải yêu cầu Tòa án thu thập chứng cứ. Do đó, để đảm bảo tính khách quan trong hoạt động xét xử, đại diện VKS cần tham gia phiên tòa để kiểm sát chặt chẽ hoạt động xét xử của Tòa án. 1.3. KHÁI QUÁT VỀ NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM QUA CÁC THỜI KỲ 1.3.1. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện công tố (tiền thân của Viện kiểm sát nhân dân) trong tố tụng dân sự giai đoạn từ 1945 đến 1959 Ngay từ sau Cách mạng tháng Tám, để xây dựng và củng cố chính quyền cách mạng non trẻ, Nhà nước ta đã ban hành hàng loạt văn bản pháp
  • 26. 19 luật quy định về tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước. Pháp luật Nhà nước ta trong giai đoạn này quy định về vị trí, chức năng và nhiệm vụ của công tố viên trong tố tụng dân sự như sau: trong cuộc cải cách tư pháp ở nước ta lần đầu: Sắc lệnh số 13 ngày 24/1/1946 về tổ chức Tòa và các ngạch thẩm phán theo quy định thẩm phán được chia thành hai ngạch: sơ cấp và nhị cấp (trong đó, Thẩm phán ở ngạch đệ nhị cấp được chia thành hai loại: thẩm phán xét xử và thẩm phán buộc tội). Công tố viện lúc đó được ra đời ở Tòa thượng thẩm và chịu sự lãnh đạo của Bộ trưởng Bộ Tư pháp, đứng đầu Công tố viện và chưởng lý. Cơ quan công tố không được thành lập ở tòa đệ nhị mà chỉ có cán bộ làm công tác biện lý. Trong giai đoạn này, Thẩm phán buộc tội đã hợp thành một bộ phận độc lập và chịu sự lãnh đạo của Chưởng lý. Khi tham gia phiên tòa, "Biện lý ngồi ghế Công tố viên". Sắc lệnh số 7/SL ngày 15/01/1946 còn quy định: "Đứng buộc tội, tùy quyết nghị của Bộ trưởng Bộ Tư pháp sẽ là nhân viên của Công tố viện do Chưởng lý Tòa thượng thẩm chỉ định". Theo quy định của Sắc lệnh số 51/SL ngày 17/4/1946 thì Công tố viện tham gia tố tụng dân sự dưới hình thức, đó là tham gia tố tụng đối với những vụ án dân sự với tư cách là người thi hành quyền công tố (Điều 22 Sắc lệnh) và khởi tố vụ án dân sự (đứng là Chánh tố - Điều 41 Sắc lệnh). Như vậy, công tố viện bước đầu được hình thành và nằm trong hệ thống của cơ quan Tòa án với chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật và thực hành quyền công tố Nhà nước. Công cuộc cải cách tư pháp lần thứ hai: bắt đầu vào năm 1950, công tố viện được đặt dưới sự điều khiển của Ủy ban kháng chiến hành chính. Trong giai đoạn này, Công tố viện nằm trong cơ cấu của cơ quan hành pháp, các đường lối phạm vi hoạt động, sự tham gia tố tụng của Công tố viện được mở rộng sang các vụ việc dân sự. Công cuộc cải cách tư pháp lần thứ ba: diễn ra vào năm 1958, đây là giai đoạn giao thời, quyết định cho việc chuyển Công tố viện thành VKSND,
  • 27. 20 một hình thức hoàn thiện hơn, đáp ứng như cầu mới của cách mạng trong những năm tiếp theo. Trong tố tụng dân sự, theo Công văn số 1137/HCTP ngày 5/6/1958 của Bộ Tư pháp về việc đơn giản một số thủ tục ở phiên tòa quy định rõ hơn về quyền khởi tố và tham gia tố tụng của Công tố viện có hướng dẫn như sau: "… về việc dân sự, Công tố viện có nhiệm vụ khởi tố và tham gia tố tụng đối với những vụ án dân sự quan trọng có liên quan đến lợi ích Nhà nước của nhân dân. Còn đối với những vụ án dân sự thường thì Công tố viện không cần phải tham dự phiên tòa". Như vậy, trong giai đoạn này, nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong tố tụng dân sự đã được quy định tương đối đầy đủ, khẳng định được vị trí và vai trò của VKSND trong tố tụng dân sự; là cơ sở cho sự kế thừa và phát triển cho việc hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về nhiệm vụ, quyền hạn của VKS sau này. 1.3.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự giai đoạn từ 1960 đến 1988 Hiến pháp 1959 ra đời, Công tố viện chính thức được chuyển thành VKSND, được tổ chức theo nguyên tắc tập trung thống nhất từ trung ương đến địa phương và không phụ thuộc vào cơ quan quyền lực và cơ quan hành chính địa phương. Ngoài chức năng công tố, VKSND còn được giao chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật từ các Bộ trở xuống; trong đó có cả hệ thống các TAND. Quyền hạn và nhiệm vụ của VKSND trong tố tụng dân sự được quy định cụ thể tại các Điều 17, 18 và 19 Luật tổ chức VKSND năm 1960. Theo quy định tại các điều trên thì VKSNDTC và các VKSND địa phương có quyền: - Khởi tố hoặc tham gia tố tụng trong những vụ án dân sự quan trọng liên quan đến lợi ích của Nhà nước và của nhân dân; - Kháng nghị những bản án hoặc quyết định sơ thẩm của TAND cùng cấp và cấp dưới một cấp;
  • 28. 21 - Kiểm sát việc chấp hành các bản án và các quyết định của TAND. Khi VKSNDTC thấy các bản án hoặc các quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TAND các cấp là sai lầm thì có quyền kháng nghị. Khi VKSND địa phương thấy các bản án hoặc các quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TAND cấp mình hoặc cấp dưới là sai lầm thì báo cáo lên VKSNDTC để kháng nghị. Tiếp đến, ngày 13/7/1981, Quốc hội đã thông qua Luật tổ chức VKSND, trong đó tại Điều 3 và Điều 13 có quy định cụ thể các hình thức tham gia kiểm sát xét xử của Tòa án như tham gia tố tụng tại phiên tòa; kháng nghị các bản án quyết định của Tòa án và khởi tố hoặc yêu cầu cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và đơn vị vũ trang nhân dân cùng cấp khởi tố những vụ án dân sự quan trọng có liên quan đến lợi ích của Nhà nước, của tập thể và quyền lợi chính đáng của nhân dân. Nhìn chung, cho đến năm 1989 trở về trước nhiệm vụ và quyền hạn của VKSND trong tố tụng dân sự không được quy định trong các văn bản pháp luật nào khác ngoài Luật tổ chức VKSND. Trong giai đoạn này của VKSND đã có sự thay đổi quan trọng nhằm đáp ứng với yêu cầu mới và thực tiễn cách mạng Việt Nam. 1.3.3. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự từ năm 1989 đến trước năm 2004 Hiến pháp 1992 (sửa đổi 2001) và hai đạo Luật tổ chức VKSND (1989, 1992) ra đời tiếp tục kế thừa và quy định mới cho chức năng của VKSND đáp ứng nhu cầu thay đổi của xã hội đặc biệt là quá trình cải cách tư pháp trong giai đoạn toàn Đảng toàn dân bước vào xây dựng nền kink tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đây là thời kỳ đổi mới, trên cơ sở Hiến pháp và Luật tổ chức VKSND, là sự ra đời của Pháp lệnh trình tự giải quyết các vụ án dân sự (1989), pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kink tế (1994), pháp lệnh thủ tục giải quyết tranh chấp lao động (1996)… Theo quy định của các văn bản
  • 29. 22 pháp luật này, sự tham gia tố tụng của VKSND trong tố tụng dân sự được mở rộng. Cụ thể quy định tại Điều 17 Luật tổ chức VKSND năm 1992: Khi thực hiện công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự và những việc khác do pháp luật quy định, Viện kiểm sát nhân dân có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: 1. Kiểm sát việc lập hồ sơ vụ án, yêu cầu Tòa án nhân dân hoặc tự mình điều tra, xác minh những vấn đề cần làm sáng tỏ nhằm giải quyết đúng đắn vụ án; 2. Khởi tố những vụ án dân sự theo quy định của pháp luật, tham gia phiên tòa xét xử những vụ án mà Viện kiểm sát nhân dân đã khởi tố hoặc kháng nghị đối với những vụ án khác, Viện kiểm sát nhân dân có thể tham gia bất cứ giai đoạn nào nếu thấy cần thiết; 3. Yêu cầu Tòa án cùng cấp áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định của pháp luật; 4. Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm, các bản án, quyết định của Tòa án nhân dân theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự". Như vậy, theo quy định của Luật tổ chức VKSND năm 1992 đã xác định rõ hơn các hình thức tham gia tố tụng dân sự của VKSND, đó là: khởi tố vụ kiện dân sự vì lợi ích chung; tham gia tố tụng đối với các vụ án dân sự; kháng nghị những bản án, quyết định của Tòa án theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Sau đó, Điều 1 Luật tổ chức VKSND năm 2002 ngày 02/4/2002 quy đinh: "Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp theo quy định của Hiến pháp và pháp luật" [26]. Quy định này nhằm tăng cường và tập trung chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND, trong đó có hoạt động xét xử các vụ án dân sự, kinh tế và lao động.
  • 30. 23 Khác với quy định trong Luật tổ chức VKSND năm 1992, khoản 3 Điều 21 Luật tổ chức VKSND năm 2002 xác định VKSND có trách nhiệm kiểm sát việc giải quyết đối với tất cả các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, kink tế, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật ở tất cả các giai đoạn tố tụng, tham gia tất cả các phiên tòa xét xử các vụ án này ở Tòa án các cấp và phát biểu quan điểm cảu VKSND về việc giải quyết vụ án. Quy định như vậy nhằm tăng cường kiểm sát các hoạt động tư pháp trong lĩnh vực dân sự, kink tế, lao động và thể chế hóa quan điểm, chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp. 1.3.4. Giai đoạn từ năm 2004 đến nay Công cuộc cải cách tư pháp song song với tiến trình phát triển xã hội, những quy định về tố tụng dân sự mới phù hợp với sự tiến bộ xã hội thay đổi những quy định tố tụng dân sự trước, BLTTDS có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2005. Trong đó, sự tham gia tố tụng của VKSND được quy định cụ thể tại Điều 21 BLTTDS: 1. Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật nhằm bảo đảm việc giải quyết vụ việc dân sự kịp thời, đúng pháp luật; 2. Viện kiểm sát nhân dân tham gia phiên tòa đối với những vụ án do Tòa án thu thập chứng cứ mà đương sự có khiếu nại, các việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, các vụ việc dân sự mà VKS kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án [27]. Bộ luật Tố tụng dân sự ra đời (tại Điều 21) đã giới hạn sự tham gia tố tụng của VKSND, đồng thời bỏ đi quyền khởi tố vụ án dân sự của VKSND. Về quyền khởi tố vụ án dân sự của VKSND: trước khi có Luật tổ chức VKSND năm 1960 và trước khi VKSND được thành lập thì pháp luật đã giao quyền này cho Công tố ủy viên và cho Viện công tố đảm nhân, điều này phù
  • 31. 24 hợp nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước, quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền: quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp và phù hợp với yêu cầu cải cách tư pháp đặt ra. Vì chỉ có VKSND theo chức năng và nhiệm vụ được pháp luật quy định là kiểm sát các hoạt đông tư pháp, với đội ngũ cán bộ chuyên môn có kinh nghiệm phải đảm nhiệm trách nhiệm này là phù hợp mà không có tổ chức nào thay thế được. Mặt khác, VKSND khởi tố vụ án sẽ có điều kiện xác minh, thu thập chứng cứ để cung cấp cho Tòa án giải quyết vụ án kịp thời và thuận lợi, bảo vệ được lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích của công dân. Về việc tham gia phiên tòa của VKSND: Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989 quy định VKSND có quyền tham gia bất cứ giai đoạn nào nếu xét thấy cần thiết, còn Luật tổ chức VKSND năm 2002 quy định VKSND tham gia tất cả các phiên tòa, quy định này phù hợp với Hiến pháp và thực tiễn của nước ta, phù hợp với yêu cầu cải cách tư pháp. Tuy nhiên, khi xem xét để quy định quyền hạn tham gia phiên tòa của VKSND đã có nhiều ý kiến tranh luận cho rằng VKSND tham gia tất cả phiên tòa ảnh hưởng đến nguyên tắc Tòa án xét xử độc lập chỉ tuân theo pháp luật, từ đó đã cho ra đời quy định như tại Điều 21 BLTTDS. Bên cạnh đó, hoạt động kiểm sát của VKSND còn được quy định tại Điều 38 BLTTDS quy định: "…quyết định nhập hoặc tách vụ án dân sự phải được gửi ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp" [27]; Điều 85 BLTTDS quy định: "…trong trường hợp cần thiết, Viện kiểm sát có quyền yêu cầu đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp hồ sơ, tài liệu, vật chứng để bảo đảm cho việc thực hiện thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm" [27]; Điều 124 quy định: "…Viện kiểm sát có quyền kiến nghị Chánh án Tòa án đang giải quyết vụ án về quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời…" [27]. Với các quy định trên, pháp luật tố
  • 32. 25 tụng dân sự Việt Nam cho phép VKSND thực hiện chức năng kiểm sát dân sự trong phạm vi luật định. Tuy nhiên, thực tiễn thi hành BLTTDS năm 2004 trong thời gian qua cho thấy quy định của BLTTDS về tham gia tố tụng dân sự của VKSND trong tố tụng dân sự đã bộc lộ những hạn chế, bất cập, chưa tạo điều kiện cho VKSND thực hiện đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của mình theo quy định của Hiến pháp và Luật tổ chức VKSND. Do đó, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS 2004 được Quốc hội khóa XII thông qua, có hiệu lực từ ngày 01/01/2012 đã có những sửa đổi quan trọng về sự tham gia của VKSND trong tố tụng dân sự nhằm đáp ứng yêu cầu của thực tiễn. Cụ thể, tại Điều 21 Luật sửa đổi bổ sung theo hướng mở rộng phạm vi các trường hợp VKSND tham gia phiên tòa sơ thẩm, VKSND không chỉ tham gia các phiên tòa sơ thẩm đối với những vụ án mà đương sự có khiếu nại về biện pháp thu thập chứng cứ của Tòa án mà VKS còn tham gia "…các phiên tòa sơ thẩm đối với những vụ án do Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ hoạc đối tượng tranh chấp là tài sản công, lợi ích công cộng, quyền sử dụng đất, nhà ở hoặc có một bên đương sự là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất, tâm thần" [28]. Ngoài ra, Điều 85 BLTTDS năm 2004 cũng được sửa đổi bổ sung theo hướng quy định: "…Viện kiểm sát có quyền yêu cầu đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp hồ sơ, tài liệu, vật chứng để đảm bảo cho việc thực hiện thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm" [28]; Điều 170 quy định: "…trong thời hạn bảy ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định trả lời đơn khiếu nại, kiến nghị về việc trả lại đơn khởi kiện của Chánh án Tòa án, người khởi kiện có quyề khiếu nại, Viện kiểm sát có quyền kiến nghị với Chánh án Tòa án cấp trên trực tiếp xem xét, giải quyết" [28]. Có thể thấy, so với Viện công tố các nước, nhiệm vụ và quyền hạn của VKSND khi tham gia tố tụng dân sự ở Việt Nam được quy định rộng hơn nhiều. Cụ thể là ngoài quyền tham gia tố tụng như Viện công tố các nước,
  • 33. 26 VKSND còn được trao thêm các thẩm quyền đặc thù của một cơ quan thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của TAND và những người tham gia tố tụng, quyền kháng nghị tất cả các bản án, quyết định dân sự của Tòa án theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. 1.4. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT MỘT SỐ QUỐC GIA VỀ NHIỆM VỤ, QUYỀN hẠN CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ 1.4.1. Quy định của pháp luật Liên bang Nga Viện kiểm sát Liên bang Nga là một cơ quan có vị trí độc lập riêng biệt với các cơ quan hành pháp và tư pháp [15, tr. 154]. Viện kiểm sát Liên bang Nga được xây dựng theo nguyên tắc "tập trung thống nhất" trên cơ sở các kiểm sát viên cấp dưới phải phục tùng các kiểm sát viên cấp trên và tất cả đều phục tùng Tổng kiểm sát trưởng Liên bang Nga và nguyên tắc "hoàn toàn độc lập với các cơ quan, công dân, tổ chức", theo đó các cơ quan thuộc VKS được "thực hiện các thẩm quyền của mình một cách độc lập với các cơ quan quyền lực của liên bang, của các chủ thể liên bang, của các chính quyền đia phương và các tổ chức xã hội" (Điều 1, Điều 4 Luật tổ chức VKSND Liên bang Nga). Tổng kiểm sát trưởng Liên bang Nga do Hội đồng Liên bang (tương đương Thượng nghị viện) bổ nhiệm (với nhiệm kỳ 5 năm) và bãi nhiệm theo đề nghị của Tổng thống Liên bang Nga. Các Phó Tổng kiểm sát trưởng Liên bang Nga do Hội đồng Liên bang bổ nhiêm, bãi nhiệm theo đề nghị của Tổng kiểm sát trưởng Liên bang Nga [25, tr. 155]. Về hệ thống và cơ cấu tổ chức, VKS Liên bang Nga được tổ chức gắn liền với các đơn vị lãnh thổ hành chính, bao gồm: Tổng VKS Liên bang Nga, VKS của các chủ thể thuộc Liên bang Nga; VKS quân sự và các VKS chuyên môn tương đương với chúng; các Viện nghiên cứu khoa học, các trường đào tạo có tư cách pháp nhân; cũng như VKS các thành phố, quận, huyện, một số
  • 34. 27 các VKS ở các địa phương, các VKS quân sự và một số VKS chuyên trách cùng cấp khác. Trong tố tụng dân sự, VKS Liên bang Nga có vị trí, vai trò tương đối đặc trưng. Tính đặc trưng này thể hiện ở chỗ: VKS không thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động xét xử vụ việc dân sự của Tòa án, VKS tham gia tố tụng để bảo đảm vị thế tối thượng của luật, củng cố và tăng cường tính thống nhất của pháp chế, đồng thời VKS hướng tới Tòa án như một phương tiện để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của những đối tượng mà sự vi phạm quyền, lợi ích hợp pháp ấy có ảnh hưởng nghiêm trọng về phương diện xã hội. Không phai ngẫu nhiên mà tại khoản 3 Điều 1 và tại khoản 4 Điều 27 Luật tổ chức VKS Liên bang Nga có quy định: "Theo quy định của pháp luật tố tụng Liên bang Nga, các kiểm sát viên tham gia các phiên tòa xét xử của Tòa án, có quyền kháng án, các quyết định và các phán quyết khác của Tòa án có vi phạm pháp luật" [40]; Trong trường hợp việc vi phạm quyền tự do và các quyền khác của con người và của một công dân nói chung được bảo vệ theo trình tự tố tụng dân sự, khi người bị hại vì lý do sức khỏe hay vì tuổi tác đã cao hay do một số nguyên nhân khác không tự bảo vệ quyền lợi trước phiên tòa hoặc khi vi phạm quyền tự do và các quyền khác của nhiều công dân hoặc khi mà trong một số tình huống đặc biệt khác nếu việc vi phạm có ảnh hưởng nghiêm trọng về phương diện xã hội, thì kiểm sát viên khởi kiện vụ án dân sự đến Tòa án và trong các phiên tòa ấy, kiểm sát viên sẽ bảo vệ lợi ích cho người bị hại [40]. Cụ thể hóa quy định tại khoản 3 Điều 1, khoản 4 Điều 27 Luật tổ chức VKSND Liên bang Nga, tại Điều 45 BLTTDS Liên bang Nga đã quy định: 1. Kiểm sát viên có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền tự do và lợi ích hợp pháp của công dân, của tập hợp người
  • 35. 28 không xác định, lợi ích của Liên bang Nga, các tổ chức tự quản địa phương. Kiểm sát viên chỉ khởi kiện yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, tự do và lợi ích hợp pháp của công dân trong trường hợp công dân đó không thể tự mình khởi kiện vì lý do sức khỏe, tuổi tác, không có năng lực hành vi hoặc vì những lý do chính đáng khác. 2. Khi khởi kiện Kiểm sát viên có quyền và nghĩa vụ tố tụng như nguyên đơn, trừ quyền hòa giải và nghĩa vụ trả lệ phí. Trong trường hợp kiểm sát viên rút đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích của người khác thì việc giải quyết vụ án vẫn tiếp tục nếu nguyên đơn hoặc người đại diện của nguyên đơn không rút đơn khởi kiện, Tòa đình chỉ vụ án nếu điều đó là không trái pháp luật hoặc không vi phạm đến quyền và lợi ích của những người khác. 3. Với mục đích thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao, kiểm sát viên tham gia tố tụng và phát biểu kết luận đối với những vụ án liên quan đến việc buộc đi ở nơi khác, yêu cầu khôi phục việc làm, yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại do bị xâm phạm tính mạng hoặc sức khỏe, hoặc trong những trường hợp khác do Bộ luật này và luật liên bang quy định. Sự vắng mặt của kiểm sát viên đã được thông báo về thời gian và địa điểm xét xử không là lý do cản trở việc tiếp tục giải quyết vụ án [41]. Theo quy định của Điều 45 BLTTDS Liên bang Nga, có hai hình thức tham gia của kiểm sát viên trong tố tụng dân sự: Thứ nhất, kiểm sát viên tham gia tố tụng dân sự với tư cách là người "châm ngòi", người khởi động các thủ tục xét xử sơ thẩm, chống án, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm bằng việc đệ đơn khởi kiện, đơn kháng kiện (đơn đề nghị chống án, đơn đề nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm) đối với bản án, quyết định không có căn cứ của Tòa án. Thứ hai, kiểm sát viên tham gia vào tiến trình tố tụng (do người khác khởi kiện) và phát biểu kết luận đối với những vụ án liên quan đến việc buộc
  • 36. 29 đi ở nơi khác, yêu cầu khôi phục việc làm, yêu cầu bồi thường thiệt hại do bị xâm phạm tính mạng hoặc sức khỏe. Ngoài ra, kiểm sát viên còn tham gia và phát biểu kết luận về vụ án trong những trường hợp khác do Bộ luật này và luật liên bang quy định. Ví dụ. theo quy định của BLTTDS Liên bang Nga, kiểm sát viên còn có quyền tham gia phiên tòa và phát biểu kết luận đối với những vụ án như: giải quyết đơn yêu cầu bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật (Điều 252); giải quyết đơn yêu cầu bảo vệ quyền bầu cử và quyền tham gia trưng cầu dân ý của công dân Liên bang Nga (Điều 260)… Tuy nhiên, cần lưu ý là, dù tham gia tố tụng dân sự dưới hình thức nào thì việc tham gia của kiểm sát viên không phải là để bảo vệ lợi ích của riêng VKS không phải là để bảo vệ lợi ích của riêng VKS mà nhân danh Liên bang Nga và vì lợi ích của luật để bảo vệ lợi ích Nhà nước, lợi ích công cộng cũng như lợi ích của một số người khác và của tập hợp người không xác định, vì lợi ích của những người này cũng có tính chất công và mang ý nghĩa xã hội. Cùng với sự tham gia của kiểm sát viên trong tố tụng hình sự, sự tham gia của kiểm sát viên trong tố tụng dân sự là sự tiếp tục khẳng định những mục đích hoạt động của VKS Liên bang Nga là "bảo đảm tính tối cao của luật pháp, củng cố và tăng cường tính thống nhất của pháp chế, bảo vệ quyền tự do và các quyền khác của con người và của công dân, cũng như các lợi ích của xã hội và Nhà nước được luật pháp bảo vệ" (khoản 2 Điều 1 Luật tổ chức VKSND Liên bang Nga). Vị trí của kiểm sát viên khi tham gia tố tụng dân sự: - Vị trí của kiểm sát viên khi tham gia tố tụng dân sự với tư cách là người "châm ngòi", người khởi động các thủ tục xét xử sơ thẩm: "Khi khởi kiện kiểm sát viên có quyền và nghĩa vụ tố tụng như nguyên đơn, trừ quyền hòa giải và nghĩa vụ trả lệ phí. Trong trường hợp kiểm sát viên rút đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích của người khác thì việc giải quyết vụ án vẫn tiếp tục nếu nguyên đơn hoặc người đại diện của nguyên đơn
  • 37. 30 không rút đơn khởi kiện. Trong trường hợp nguyên đơn rút đơn khởi kiện, Tòa án đình chỉ vụ án nếu điều đó là không trái pháp luật hoặc không vi phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của những người khác". - Vị trí của VKS viên khi tham gia vào tiến trình tố tụng (do người khác khởi kiện) và phát biểu kết luận đối với vụ án: khi tham gia vào tiến trình tố tụng (do người khác khởi kiện) và phát biểu kết luận đối với vụ án, kiểm sát viên là người nhân danh Liên bang Nga và vì lợi ích của luật để bảo vệ lợi ích Nhà nước, lợi ích công cộng, lợi ích xã hội. - Về vị trí, vai trò VKS Liên bang Nga trong giai đoạn phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm theo quy định mới của BLTTDS Liên bang Nga, VKS Liên bang Nga không thực hiện thẩm quyền kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm như trước đây nữa. Thay vào đó, Tổng kiểm sát trưởng Liên bang Nga, Phó tổng kiểm sát trưởng Liên bang Nga, kiểm sát trưởng các cấp và cấp phó của họ chỉ có quyền đưa ra văn bản đề nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm đối với những trưởng hợp có kiểm sát viên tham gia tố tụng tại phiên tòa dưới hai hình thức nêu trên. Đứng về mặt tố tụng, quyền đề nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm của VKS có "vị trí" pháp lý tương đương với quyền kháng cáo phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm của các bên đương sự. Và vì thể, cũng giống như đơn kháng cáo giám đốc thẩm, tái thẩm của đương sự, đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm của VKS không đương nhiên dẫn tới việc mở phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm mà phải trải qua một thủ tục tố tụng "riêng và đặc biệt" do Tòa án cấp giám đốc thẩm tiến hành nhằm kiểm tra, xem xét việc kháng cáo giám đốc thẩm, tái thẩm hay việc đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm đó có cơ sở hay không rồi mới quyết định việc mở phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm. Về căn cứ đề nghị giám đốc thẩm đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án, theo quy định tại Điều 387 BLTTDS Liên bang Nga, VKS có thể đề nghị giám đốc thẩm trong trường hợp có những vi phạm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật nội dung hoặc pháp luật tố tụng.
  • 38. 31 1.4.2. Quy định của pháp luật Cộng hòa Pháp Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện Công tố Pháp trong tố tụng dân sự chủ yếu được quy định trong Bộ luật tổ chức Tòa án Pháp năm 1958, Bộ luật Dân sự (BLDS) Pháp và BLTTDS Pháp (BLDS Pháp được ban hành lần đầu năm 1804, BLTTDS Pháp được ban hành lần đầu năm 1806, cả hai bộ luật này đang có hiệu lực thi hành và được sửa đổi, bổ sung nhiều lần cho đến ngày hôm nay). Theo quy định của các văn bản luật thì Viện công tố Pháp có thể tham gia vào việc giải quyết các vụ việc dân sự (theo nghĩa rộng) với tư cách là đại diện cho lợi ích chung, bảo đảm sự tuân thủ pháp luật và bảo vệ trật tự công [15]. BLTTDS Pháp quy định: "Viện công tố có thể tham gia tố tụng như một bên đương sự chính hoặc tiến hành tố tụng để bảo đảm việc tuân thủ pháp luật. Viện công tố đại diện cho người khác trong những trường hợp pháp luật quy định" [16, Điều 421]. "Viện công tố chủ động tham gia tố tụng trong những trường hợp do pháp luật quy định" [16, Điều 422]; và "Ngoài những trường hợp đó, Viện Công tố có quyền can thiệp để bảo vệ trật tự công khi có những hành vi xâm phạm trật tự công" [16, Điều 423]. Trong tố tụng dân sự, theo quy định của BLDS Pháp và BLTTDS Pháp, Viện Công tố có thể tham gia vào quá trình giải quyết vụ việc với hai tư cách: thứ nhất, với vai trò đại diện cho lợi ích chung, bảo vệ trật tự công, Viện công tố Pháp tham gia tố tụng với tư cách là bên chính tố (tức với tư cách như một bên đương sự chính, mà theo cách gọi theo tố tụng dân sự Việt Nam là tư cách người tham gia tố tụng); thứ hai, với vai trò bảo đảm sự tuân thủ pháp luật, vì lợi ích của luật, Viện công tố Pháp tham gia tố tụng với tư cách là bên phụ tố (mà theo cách gọi của ta là cơ quan tiến hành tố tụng hoặc người tiến hành tố tụng). Với tư cách là bên chính tố (như một bên đương sự), Viện công tố có thể tự mình khởi kiện (khởi tố) vụ án dân sự hoặc tham gia tố tụng với tư cách bị đơn đại diện cho Nhà nước khi bị kiện. Trong trường hợp này, Viện công tố là một bên đương sự thông thường trong vụ án dân sự và có đầy đủ quyền,
  • 39. 32 nghĩa vụ như các bên khác (kể các quyền kháng cáo tái thẩm, kháng cáo theo thủ tục phá án- giám đốc thẩm). Theo quy định của BLDS Pháp, các trường hợp Viện công tố tự mình khởi kiện (khởi tố) vụ án dân sự là tương đối đa dạng. Ngoài ra, với tư cách là bên chính tố (như một bên đương sự), Viện công tố cũng có thể tham gia vào các việc dân sự. Trong trường hợp này, Viện công tố là bên đưa yêu cầu giải quyết việc dân sự ra trước Tòa án. Với tư cách là bên phụ tố (là cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng) nhằm bảo đảm sự tuân thủ pháp luật, Viện công tố có quyền kháng nghị theo thủ tục phá án (giám đốc thẩm) và tham gia tố tụng để cho ý kiến về việc áp dụng pháp luật trong một vụ việc dân sự đang được giải quyết tại Tòa án, sau khi được Tòa thông báo về vụ việc dân sự đó. Về các trường hợp Tòa án thông báo vụ việc dân sự cho Viện công tố, BLTTDS Pháp quy định ba trường hợp: - Thông báo theo quy định của pháp luật; pháp luật quy định cụ thể những loại vụ việc bắt buộc phải thông báo cho Viện công tố để Viện công tố cho ý kiến; nếu Tòa án xét xử mà không thông báo thì bản án sẽ bị vô hiệu. Những vụ việc pháp luật quy định bắt buộc phải thông báo là những vụ việc liên quan đến: quan hệ cha, mẹ và con; ủy quyền thực hiện quyền của cha mẹ đối với con; tổ chức giám hộ đối với người chưa thành niên… - Thông báo theo quyết định của Tòa án: đây là trường hợp Tòa án chủ động thông báo vụ việc cho Viện công tố; Viện công tố có quyền yêu cầu Tòa án thông báo về những vụ việc mà Viện Công tố xét thấy cần thiết phải tham gia ý kiến (Điều 426 Bộ luật). Đối với các trường hợp được thông báo, Viện công tố phải đưa ra ý kiến kết luận của mình về mặt pháp luật cũng như về mặt thực tế (về các tình tiết vụ việc). Tuy nhiên, Viện công tố không nhất thiết phải tham dự phiên tòa mà có thể gửi bản phát biểu kết luận viết cho Tòa án. Trong trường hợp tham dự phiên tòa, với tư cách là bên phụ tố (là cơ quan tiến hành tố tụng, là người tiến hành tố tụng), Viện Công tố phát biểu cuối cùng.
  • 40. 33 Về thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục phá án (giám đốc thẩm) của Viện công tố trong tố tụng dân sự, tại Điều 618-1 BLTTDS Pháp quy định: Viện trưởng Viện công tố bên cạnh Tòa Phá án có quyền kháng nghị phá án (giám đốc thẩm) trước Tòa Phá án vì lợi ích của luật và yêu cầu Viện Công tố bên cạnh Tòa án đã ra bản tống đạt kháng nghị của Viện công tố bằng thư bảo đảm có yêu cầu xác nhận. Thời hạn kháng nghị phá án (giám đốc thẩm) theo quy định tại Điều 612 BLTTDS Pháp là hai tháng, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Đối với những bản án xét xử vắng mặt thì thời hạn kháng nghị phá án (giám đốc thẩm) tính từ ngày hết hạn kháng nghị án vắng mặt. Về căn cứ kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phá án (giám đốc thẩm). BLTTDS Pháp không đưa ra một giới hạn chặt chẽ mà chỉ quy định một cách chung chung là:"Tòa Phá án có thể giám đốc bản án chung thẩm bị kháng cáo, kháng nghị vì đã xét xử không đúng pháp luật". Do đó, quyền tùy nghi của Tòa Phá án trong việc chấp nhận hoặc bác kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phá án (giám đốc thẩm) là rất lớn: Tòa Phá án có thể bác kháng cáo, kháng nghị vì đơn không có đầy đủ căn cứ pháp luật, có thể bác kháng cáo, kháng nghị vì căn cứ trong đơn đưa ra không thỏa đáng hoặc thậm chí cũng có thể chấp nhận kháng cáo, kháng nghị căn cứ vào một lý lẽ pháp lý thuần túy do Tòa Phá án tự nêu ra (Điều 620 Bộ luật). 1.4.3. Quy định của pháp luật Cộng hòa nhân dân Trung Hoa Trong tố tụng dân sự, VKS Trung Quốc có những nhiệm vụ, quyền hạn như sau [15]: Thứ nhất, nhân danh lợi ích Nhà nước, lợi ích công cộng để khởi kiện vụ án dân sự. Theo quy định tại Điều 77, 78 Luật tố tụng hình sự Trung Quốc và theo hướng dẫn của Bản giải thích của TANDTC Trung Quốc "Về một số vấn đề chấp hành Luật tố tụng hình sự nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa", nếu tài sản quốc gia, tài sản tập thể bị thiệt hại do hành vi vi phạm tội gây nên, mà cơ quan, tổ chức bị thiệt hại không tự đề xuất khởi kiện dân sự,
  • 41. 34 VKSND có thể quyết định việc khởi kiện dân sự kèm theo cùng với việc đưa ra cáo trạng buộc tội. Việc khởi kiện dân sự sẽ được xét xử đồng thời với vụ án hình sự. Trong trường hợp cần thiết, thì để tránh việc kéo dài quá mức thời gian xét xử vụ án hình sự, việc khởi kiện dân sự kèm theo có thể do cùng một Hội đồng xét xử tiếp tục giải quyết sau khi xét xử xong phần hình sự. Nếu thành viên nào đó của Hội đồng xét xử không thẻ tiếp tục tham gia xét xử, thì có thể thay thế. Khi Tòa án giải quyết vụ án dân sự kèm theo, ngoài việc áp dụng Luật hình sự, Luật tố tụng hành chính còn cần phải áp dụng các quy định liên quan của Luật dân sự, Luật tố tụng dân sự; còn kiểm sát viên tham gia vào quá trình giải quyết vụ án có quyền, nghĩa vụ tương tự như nguyên đơn, trừ quyền hòa giải và nghĩa vụ nộp các lệ phí tố tụng. Thứ hai, thực hiện chức năng giám sát pháp luật trong tố tụng dân sự thông qua hoạt động kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Liên quan đến thẩm quyền kháng nghị này của VKS, có một số đặc điểm cần lưu ý sau đây: Một là, khác với thủ tục giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam, thủ tục giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự Trung Quốc được hiểu theo nghĩa rộng hơn, bao gồm cả thủ tục tái thẩm. Hai là, bên cạnh việc quy định về thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm của Tòa án, VKS, Luật tố tụng dân sự Trung Quốc còn ghi nhận quyền kháng cáo giám đốc thẩm của đương sự. Ba là, giống như nguyên tắc thực hiện thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm trong BLTTDS Trung Quốc, cả Tòa án và VKS đều có quyền kháng nghị giám đốc thẩm và việc kháng nghị giám đốc thẩm cũng được thực hiện theo nguyên tắc: kháng nghị được tiến hành tại Tòa án cấp dưới hoặc cấp tương đương; và TANDTC cũng như VKSNDTC đều có quyền kháng nghị giám đốc thẩm tại TAND các cấp. Tuy nhiên, khác với quy định của BLTTDS Việt Nam, trong BLTTDS Trung Quốc cũng như trong Bản giải thích của TANDTC,
  • 42. 35 đối với cơ quan VKS, không có quy định cụ thể về chức danh của những người có thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm. Điều này có thể hiểu trong tố tụng dân sự Trung Quốc, không chỉ Viện trưởng, Phó Viện trưởng mà có thể cả Kiểm sát viên cũng có thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm. KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 Trong Chương 1, tác giả đã tập trung phân tích, luận giải một số vấn đề lý luận về nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong tố tụng dân sự như khái niệm, đặc điểm, cơ sở xác định nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong tố tụng dân sự. Việc nghiên cứu những vấn đề lý luận nêu trên giúp luận giải được vai trò của VKSND trong tố tụng dân sự, từ đó rút ra được nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan này trong từng giai đoạn tố tụng. Trong chương này, tác giả cũng đã phân tích làm rõ được nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong tố tụng dân sự qua các thời kỳ và tham khảo kinh nghiệm một số nước trên thế giới. Có thể thấy rằng, qua các giai đoạn lịch sử khác nhau, pháp luật quy định vai trò của VKS trong tố tụng dân sự khác nhau từ đó mà nhiệm vụ, quyền hạn của VKS được mở rộng hay thu hẹp theo quan niệm lập pháp của từng thời kỳ song đều được quy định tương đối rõ ràng, cụ thể. Với những nội dung được trình bày ở Chương 1 sẽ là cơ sở, tiền đề cho việc phân tích, đánh giá luật thực định, thực tiễn về các quy định nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong tố tụng dân sự và đề xuất các kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định này.
  • 43. 36 Chương 2 PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ 2.1. NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRƯỚC KHI THỤ LÝ VÀ cHUẨN BỊ GIẢI QUYẾT VỤ VIỆC DÂN SỰ 2.1.1. Kiểm sát việc thụ lý vụ việc dân sự Hoạt động đầu tiên của VKS trong giai đoạn này là hoạt động kiểm sát việc thụ lý vụ việc dân sự của TAND. Kiểm sát thụ lý vụ việc dân sự là kiểm sát đối với hoạt động tố tụng dân sự đầu tiên của Tòa án. Nhiệm vụ của VKSND trong hoạt động này là kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động thụ lý vụ việc dân sự của Tòa án, bảo đảm việc thụ lý được thực hiện theo các quy định của pháp luật. Hoạt động kiểm sát việc thụ lý của VKS có ý nghĩa rất quan trọng. Nếu làm tốt công tác kiểm sát ngay từ khi thụ lý vụ việc dân sự sẽ có nhiều tác dụng như: góp phần đảm bảo cho quá trình thụ lý giải quyết vụ việc của Tòa án được chính xác ngay từ đầu; tạo quan hệ tích cực chặt chẽ giữa VKS và Tòa án trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự; tạo sự chủ động và là tiền đề cho kiểm sát viên nhanh chóng nắm bắt nội dung, vấn đề cơ bản của vụ việc dân sự; đồng thời chủ động phòng ngừa, góp phần hạn chế đến mức thấp nhất các sai lầm có thể xảy ra ngay từ thời điểm bắt đầu các hoạt động tố tụng dân sự. Vì vậy, việc phát hiện kịp thời việc thụ lý vụ việc sai còn tránh được tình trạng phải tiến hành các thủ tục tố tụng kéo dài, không cần thiết; tiết kiệm được thời gian, tiền của, góp phần quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên đương sự. Tại khoản 1 Điều 21 Luật tổ chức VKSND năm 2002 có quy định khi kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, hành chính, kinh tế, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật, VKSND có
  • 44. 37 nhiệm vụ: "kiểm sát việc thụ lý, lập hồ sơ vụ án; yêu cầu Tòa án nhân dân hoặc tự mình xác minh những vấn đề cần làm sáng tỏ nhằm giải quyết đúng đắn vụ án" [26]. Theo đó, BLTTDS đã quy định cụ thể về phạm vi và hình thức kiểm sát việc thụ lý. Căn cứ theo quy định về chức năng, nhiệm vụ của VKSND, Viện trưởng VKSND và kiểm sát viên tại Điều 21, 44 và 45 của BLTTDS năm 2004, có thể khẳng định VKS có nhiệm vụ kiểm sát việc thụ lý. Khi kiểm sát việc thụ lý, kiểm sát viên cần phải nắm số lượng, nội dung vụ việc thụ lý hàng tuần; khi cần thiết có thể yêu cầu Tòa án cung cấp tài liệu, so sánh liên quan đến việc thụ lý để kiểm tra, đối chiếu với sổ thu tạm ứng án phí. Từ đó, phát hiện vi phạm để kiến nghị với tòa án hoặc kháng nghị sau khi kết thúc việc giải quyết vụ việc. Để VKS có thể thực hiện hoạt động kiểm sát thụ lý, Điều 174 BLTTDS 2004 quy định: "Trong thời hạn 3 ngày kể từ ngày thụ lý vụ án, tòa án phải thông báo bằng văn bản cho bị đơn, cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc giải quyết vụ án, cho Viện kiểm sát cùng cấp về việc Tòa án đã thụ lý vụ án" [27]. Theo quy định này, mọi trường hợp thụ lý vụ việc dân sự đều phải thông báo cho VKSND cùng cấp. Khi nhận được thông báo thụ lý vụ việc dân sự của Tòa án, VKS vào sổ theo dõi, kiểm tra văn bản thông báo thụ lý vụ việc dân sự của Tòa án về hình thức và nội dung có đúng quy định không? VKS sẽ nắm số lượng vụ việc được Tòa án thụ lý, sau đó tùy thuộc vào nội dung thông báo thụ lý mà VKS có thể xem xét việc thụ lý ở các khía cạnh thẩm quyền, thời hạn để xác định việc thụ lý có vi phạm pháp luật hay không. Hoạt động kiểm sát việc thụ lý sẽ có thuận lợi hơn trước đây. Điều này thể hiện ở chỗ VKS không phải chủ động sang Tòa án để nắm số liệu mà chỉ tiếp nhận thông báo thụ lý để theo dõi quá trình giải quyết vụ việc, theo đó thực hiện việc kiến nghị hoặc kháng nghị khi có vi phạm. Trong giai đoạn này, công tác kiểm sát thụ lý vụ việc dân sự gồm hai nội dung chính sau đây: