SlideShare a Scribd company logo
1 of 109
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THANH TÙNG
MèI QUAN HÖ GI÷A HO¹T §éNG C¤NG Tè
Vµ HO¹T §éNG XÐT Xö THEO Y£U CÇU
CñA C¶I C¸CH T¦ PH¸P
Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật
Mã số: 60 38 01 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. ĐẶNG MINH TUẤN
HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Nguyễn Thanh Tùng
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA
HOẠT ĐỘNG CÔNG TỐ VÀ XÉT XỬ THEO YÊU CẦU
CẢI CÁCH TƢ PHÁP....................................................................... 7
1.1. Khái niệm hoạt động công tố và xét xử............................................ 7
1.1.1. Khái niệm hoạt động công tố ............................................................... 7
1.1.2. Khái niệm hoạt động xét xử...............................................................17
1.2. Căn cứ xác lập mối quan hệ giữa hoạt động công tố và hoạt
động xét xử........................................................................................20
1.2.1. Các nguyên tắc tổ chức của hệ thống tư pháp....................................20
1.2.2. Các nguyên tắc tố tụng hình sự..........................................................25
1.3. Những yêu cầu của việc cải cách tƣ pháp đối với việc hoàn
thiện mối quan hệ giữa hoạt động công tố và xét xử ....................30
1.3.1. Về đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án.....................................32
1.3.2. Về đổi mới tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát .........................34
1.3.3. Về đổi mới tổ chức và hoạt động của Cơ quan điều tra.....................34
1.3.4. Nâng cao trách nhiệm của các Cơ quan tư pháp trong việc giải
quyết các trường hợp oan sai do người có thẩm quyền tố tụng
gây ra ..................................................................................................35
1.3.5. Xây dựng đội ngũ cán bộ, các chức danh tư pháp trong sạch –
vững mạnh..........................................................................................35
1.3.6. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, đổi mới chế độ, chính sách đảm
bảo điều kiện cho cơ quan, cán bộ tư pháp hoạt động hiệu quả............36
1.3.7. Đổi mới và củng cố mối quan hệ giữa hệ thống tư pháp với
Nhân dân............................................................................................36
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ MỐI QUAN HỆ
GIỮA HOẠT ĐỘNG CÔNG TỐ VÀ XÉT XỬ ............................38
2.1. Khái quát chung về hoạt động tố tụng hình sự .............................38
2.2. Mối quan hệ giữa hoạt động công tố và xét xử theo pháp luật
hiện hành...........................................................................................45
2.2.1. Mối quan hệ phối hợp giữa hoạt động công tố và xét xử ..................46
2.2.2. Mối quan hệ chế ước giữa hoạt động công tố và xét xử....................48
2.3. Những bất cập của pháp luận hiện hành về mối quan hệ giữa
hoạt động công tố và xét xử.............................................................50
2.3.1. Vấn đề truy tố và rút truy tố...............................................................53
2.3.2. Vấn đề trả hồ sơ để điều tra bổ sung..................................................58
2.3.3. Vấn đề giới hạn xét xử .......................................................................62
2.3.4. Vấn đề khởi tố vụ án hình sự .............................................................72
2.3.5. Vấn đề Toà án xác định sự thật của vụ án..........................................74
Chƣơng 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN MỐI
QUAN HỆ GIỮA HOẠT ĐỘNG CÔNG TỐ VÀ XÉT XỬ.........76
3.1. Quan điểm hoàn thiện mối quan hệ giữa hoạt động công tố
và xét xử ............................................................................................76
3.1.1. Xây dựng Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân ............76
3.1.2. Cải cách tư pháp phải được đặt trong quá trình đổi mới hệ thống
chính trị và hoàn thiện bộ máy Nhà nước..........................................80
3.1.3. Cải cách tư pháp phải kết hợp chặt chẽ với cải cách nền hành
chính Nhà nước ..................................................................................80
3.2. Giải pháp hoàn thiện mối quan hệ giữa hoạt động công tố
và xét xử............................................................................................88
3.2.1. Sửa đổi Luật tổ chức Tòa án nhân dân...............................................88
3.2.2. Sửa đổi Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân ...................................93
3.2.3. Sửa đổi Bộ luật tố tụng hình sự..........................................................96
KẾT LUẬN....................................................................................................99
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................101
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của Nhân
dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Những năm qua, Đảng và Nhà nước ta không
ngừng đổi mới, phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh. Để thực hiện mục tiêu đó, một trong những nhiệm vụ
quan trọng hiện nay của Nhà nước là phải đẩy mạnh công cuộc cải cách tư pháp,
chú trọng đến việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, nhằm đảm bảo
cho các cơ quan nhà nước nói chung và các cơ quan tư pháp nói riêng hoạt
động hiệu quả.
Các quan điển này được tiếp tục khẳng định và phát triển trong các Văn
kiện Đại hội Đảng và các Nghị quyết Trung ương của Đảng ta trong những
năm gần đây.
Về hoàn thiện hệ thống pháp luật và cải cách tư pháp, trong văn kiện
Đại hội đại biển toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã chỉ rõ:
…Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống các văn bản
pháp luật làm cơ sở cho tổ chức và hoạt động của hệ thống các cơ
quan tư pháp trước yêu cầu đổi mới… bảo đảm cho mọi vi phạm
đều bị xử lý, mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, bảo đảm
quyền làm chủ của công dân… 6.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã đề ra các biện pháp
tiến hành cải cách tư pháp ở nước ta là: “…Tiếp tục cải cách, kiện toàn, nâng
cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp theo nguyên tắc nâng cao
tinh thần trách nhiệm, làm tốt các công tác điều tra, truy tố, xét xử…” 9.
Các yêu cầu của cải cách tư pháp đã được Bộ Chính trị Ban chấp hành
2
Trung ương Đảng chỉ rõ trong Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 về
một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới và Nghị quyết
số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020,
trong đó xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và hoàn thiện tổ chức,
bộ máy các cơ quan tư pháp, xác định Toà án có vị trí trung tâm và xét xử là
hoạt động trọng tâm; Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt
động tư pháp…
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X và XI, Đảng Cộng sản Việt Nam
tiếp tục nghi nhận các nội dung: Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa; Hoàn thiện hệ thống pháp luật; Xây dựng hệ thống cơ quan tư pháp
trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh; Đẩy mạnh việc thực hiện
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, lấy cải cách hoạt động xét xử làm
trọng tâm, thực hiện cơ chế công tố gắn với hoạt động điều tra…
Theo tinh thần trên, các cơ quan tư pháp nói chung; Viện kiểm sát nhân
dân và Toà án nhân dân nói riêng đã có nhiều cố gắng trong việc góp phần
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan, tạo cơ sở pháp lý cho
việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mỗi cơ quan.
Tuy nhiên, thực tế áp dụng pháp luật cho thấy việc nhận thức và thể hiện
mối quan hệ giữa các Cơ quan tư pháp nói chung, Cơ quan thực hiện hoạt động
công tố và Cơ quan thực hiện hoạt động xét xử nói riêng vẫn chưa đúng: Hoặc là
quá coi trọng quan hệ phối hợp mà quên đi trách nhiệm chế ước; Quá nặng về
chế ước dẫn đến đối đầu, cản chở, gây khó khăn cho nhau trong việc thực hiện
nhiệm vụ. Bên cạnh đó là sự chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và
trách nhiệm, chưa có sự phân biệt rành mạch giữa các Cơ quan tư pháp nói
chung, Cơ quan thực hiện chức năng công tố và Cơ quan thực hiện chức năng
xét xử nói riêng.
3
Với những lý do trên, việc nghiên cứu đề tài “Mối quan hệ giữa hoạt
động công tố và hoạt động xét xử theo yêu cầu của cải cách tư pháp” có ý
nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn sâu sắc.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm gần đây đã có nhiều công trình khoa học, nhiều nhà
nghiên cứu lý luận và thực tiễn ở mức độ khác nhau đề cập đến các vấn đề tổ
chức và hoạt động của cơ quan tư pháp nói chung, hoạt động của Cơ quan
thực hiện chức năng công tố và xét xử nói riêng… Qua tìm hiểu các tài liệu
hiện hành cho thấy các công trình khoa học tập trung nghiên cứu theo những
khía cạnh sau:
- Nhóm nghiên cứu chung gồm: Lê Hữu Thể: Hoàn thiện mô hình tố
tụng hình sự Việt Nam theo yêu cầu cải cách tư pháp (Tạp chí chuyên ngành),
Hà Nội, 2011; Nguyễn Thái Phúc: Viện kiểm sát hay viện công tố (Tạp chí
chuyên ngành), Hà Nội, 2007; Ngô Văn Đọn (Chủ biên): Nâng cao chất
lượng kiểm sát hoạt động tư pháp và thực hành quyền công tố với vấn đề
thông khâu và chuyên khâu trong các công tác kiểm sát hình sự, (Đề tài khoa
học cấp bộ), Hà Nội, 2004; Lê Cảm: Bàn về tổ chức quyền tư pháp-nội dung
cơ bản của chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, (Tạp chí chuyên
ngành), Hà Nội, 2005; Phạm Hồng Hải: Đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ
thống các cơ quan thực hiện chức năng thực hành quyền công tố đáp ứng yêu
cầu cải cách tư pháp (Tạp chí chuyên ngành), Hà Nội, 2006; Đỗ Văn Đương:
Cơ quan thực hành quyền công tố trong cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay
(Tạp chí chuyên ngành), Hà Nội, 2006; Trần Văn Độ: Phân định thẩm quyền
trong tố tụng hình sự (Tạp chí chuyên ngành), Hà Nội, 2008.
- Nhóm nghiên cứu về hoạt động công tố và hoạt động xét xử:
Lê Hữu Thể (Chủ biên): Thực hành quyền công tố và kiểm sát các
hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra (Sách tham khảo), Nxb Tư
4
pháp, Hà Nội, 2005; Lê Thị Tuyết Hoa: Quyền công tố ở Việt Nam, (Luận
án tiến sỹ luật học), Hà Nội, 2002; Nguyễn Trương Tín: Mối quan hệ giữa
tranh tụng trong tố tụng hình sự với chức năng xét xử của Toà án (Tạp trí
chuyên ngành), Hà Nội, 2008; Nguyễn Minh Đức: Quyền công tố và tổ
chức thực hiện quyền công tố trong nhà nước pháp quyền (Tạp chí chuyên
ngành), Hà Nội, 2012.
Những công trình khoa học, những bài viết trên đây đã tập trung nghiên
cứu về tổ chức và hoạt động của các Cơ quan tư pháp nói chung, Viện kiểm
sát nhân dân, Toà án nhân dân nói riêng; Đồng thời đã có một số công trình,
bài viết nghiên cứu về hoạt động công tố và hoạt động xét xử trên một số lĩnh
vực cụ thể. Các công trình khoa học, các bài viết trên đây là những tài liệu
tham khảo có giá trị để nghiên cứu và hoàn thiện đề tài luận văn.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
- Mục đích:
Trên cơ sở các quan điểm của Đảng và yêu cầu của cải cách tư pháp;
Luận văn phân tích những quy định của pháp luật hiện hành về tổ chức và hoạt
động; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan thực hiện chức năng
công tố và xét xử; mối quan hệ giữa hoạt động công tố và hoạt động xét xử; chỉ
ra những tồn tại và vướng mắc, sự chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ giữa
các cơ quan này trong mối quan hệ trên để từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm
hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan nhằm xác định rõ chức năng, nhiệm vụ,
thẩm quyền và hoàn thiện tổ chức, bộ máy Cơ quan thực hiện chức năng công
tố và xét xử theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay.
- Nhiệm vụ của luận văn:
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ sau:
+ Phân tích cơ sở lý luận chung về chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền,
tổ chức, bộ máy các Cơ quan thực hiện hoạt động công tố và xét xử; mối quan
hệ giữa hoạt động công tố và xét xử theo yêu cầu cải cách tư pháp.
5
+ Nghiên cứu, đánh giá thực trạng pháp luật hiện hành về mối quan hệ
giữa hoạt động công tố và xét xử theo yêu cầu cải cách tư pháp. Trên cơ sở đó
chỉ ra những tồn tại và vướng mắc, sự chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ
giữa các cơ quan này.
+ Đề xuất những phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật liên
quan đến việc xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và hoàn thiện tổ
chức, bộ máy các cơ quan tư pháp, xác định Toà án có vị trí trung tâm và xét
xử là hoạt động trọng tâm, Viện kiểm sát thực hành quyền công tố, đáp ứng
yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam.
4. Đối tƣợng và phƣơng pháp nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Trong khuôn khổ chuyên ngành lý luận về lịch sử nhà nước và pháp
luật, luận văn tập trung nghiên cứu, phân tích một số vấn đề lý luận và thực
trạng pháp luật về chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và hoàn thiện tổ chức, bộ
máy các Cơ quan thực hiện chức năng công tố và xét xử đáp ứng yêu cầu cải
cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay.
- Cơ sở lý luận của luận văn:
Cơ sở lý luận của luận văn là học thuyết Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nước và pháp luật liên
quan đến tổ chức và hoạt động của các Cơ quan tư pháp nói chung, hoạt động
công tố và xét xử nói riêng.
- Phương pháp nghiên cứu:
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng, luận văn sử dụng các
phương pháp nghiên cứu: Phân tích - tổng hợp, lịch sử - cụ thể; Kết hợp với
các phương pháp nghiên cứu khác như: So sánh, thống kê, điều tra xã hội học.
5. Điểm mới và những đóng góp của đề tài
Luận văn là tài liệu chuyên khảo nghiên cứu, đề xuất giải pháp hoàn
6
thiện pháp luật về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức và hoạt động của
Cơ quan thực hiện chức năng công tố và xét xử, cũng như mối quan hệ giữa
các cơ quan này theo yêu cầu của cải cách tư pháp. Luận văn có thể sử dụng
làm tài liệu tham khảo cho những người làm công tác lý luận và thực tiễn,
đồng thời có thể được sử dụng cho việc nghiên cứu và giảng dạy. Vì vậy, có
một số đặc điểm sau:
- Làm rõ một số khái niệm, nội dung, phạm vi, các yêu cầu của cải cách
tư pháp đối với tổ chức và hoạt động; chức năng và nhiệm vụ của các Cơ
quan thực hiện chức năng công tố và xét xử.
- Chỉ ra những tồn tại, bất cập của pháp luật và áp dụng pháp luật hiện
hành về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức và hoạt động…. của các Cơ
quan thực hiện hoạt động công tố và xét xử.
- Đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện tổ chức và hoạt động; chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của các Cơ quan thực hiện hoạt động công tố và xét xử
đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về mối quan hệ giữa hoạt động công
tố và xét xử theo yêu cầu cải cách tư pháp
Chương 2: Thực trạng pháp luật về mối quan hệ giữa hoạt động công
tố và xét xử ở Việt Nam
Chương 3: Quan điểm và giải pháp hoàn thiện mối quan hệ giữa hoạt
động công tố và xét xử.
7
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN
VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA HOẠT ĐỘNG
CÔNG TỐ VÀ XÉT XỬ THEO YÊU CẦU CẢI CÁCH TƢ PHÁP
1.1. Khái niệm hoạt động công tố và xét xử
1.1.1. Khái niệm hoạt động công tố
* Quyền công tố
Trên thế giới, “quyền công tố” đã xuất hiện từ thời kỳ xa xưa của xã
hội loài người. Quyền công tố là một khái niệm pháp lý gắn liền với bản chất
của Nhà nước, là một bộ phận cấu thành và không thể tách rời khỏi công
quyền. Quyền công tố có trong tất cả các kiểu Nhà nước; nó ra đời, tồn tại và
mất đi cùng với Nhà nước và pháp luật. Khi mới có Nhà nước, quyền công tố
chỉ giới hạn trong phạm vi rất hẹp để bảo vệ các lợi ích của giai cấp thống trị.
Cùng với sự phát triển của xã hội, nhận thức về lợi ích công và lợi ích tư, về
trách nhiệm của Nhà nước đối với xã hội và cá nhân ngày càng có những thay
đổi: Lợi ích cá nhân liên quan lợi ích công, tác động qua lại với nhau; chính vì
vậy, cần có sự can thiệp của Nhà nước vào đời sống của cá nhân. Từ đó, vai
trò công tố càng được đề cao trong xã hội.
Tại Việt Nam, khoa học Luật tố tụng hình sự nói riêng cũng như khoa
học pháp lý nói chung, chế định “quyền công tố” chưa được nghiên cứu một
cách toàn diện; chính vì vậy chưa có khái niệm chính thống về quyền công tố.
Mặc dù vậy, quyền công tố là một quyền năng quan trọng đã được Viện công
tố thực hiện ở nước ta từ năm 1945; từ năm 1960 đến nay do Viện kiểm sát
nhân dân thực hiện. Tuy nhiên hiểu thế nào là “công tố”, “quyền công tố”,
bản chất và nội dung của nó là gì, thì hiện nay vẫn chưa có nhận thức, quan
điểm thống nhất chung.
8
Có quan điểm cho rằng, công tố là “hoạt động tố tụng đối với các vụ
mà trong đó động chạm trực tiếp hay gián tiếp đến các lợi ích của Nhà nước
khi mà người đại diện của nó bị thiệt hại do sự vi phạm pháp luật”.
Theo từ điển tiếng Việt, công tố có nghĩa là “điều tra, truy tố và buộc
tội kẻ phạm tội trước Tòa án” 51, tr. 204.
Từ điển Luật học lại ghi: Công tố là “quyền của Nhà nước truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội” 50, tr. 188.
Thuật ngữ quyền công tố lần đầu tiên được nghi nhận tại Hiến pháp
năm 1980; sau đó tại Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp năm 2013, Bộ luật tố
tụng hình sự năm 1998, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Luật Tổ chức Viện
kiểm sát nhân dân năm 1981, 1992 và 2002.
Từ điển Luật học định nghĩa về quyền công tố như sau: “Quyền công tố
là quyền buộc tội nhân danh Nhà nước đối với người phạm tội” 50, tr. 188.
Hiện nay chưa có văn bản pháp luật nào của Nhà nước giải thích chính
thức nội dung quyền công tố. Có nhiều quan điểm khác nhau về nội dung,
lĩnh vực cũng như phạm vi chủ thể thực hiện quyền công tố. Nhưng về nội
dung và phạm vi thực hành quyền công tố (những yếu tố cấu thành quyền
công tố) là những yếu tố không thể thay đổi ở bất kỳ quốc gia nào.
Nghiên cứu các tài liệu hiện hành có thể thấy một số quan điểm về
quyền công tố như sau:
- Quan điểm thứ nhất đồng nhất khái niệm quyền công tố với hoạt động
kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát nhân dân (trước Hiến
pháp năm 1992). Quan điểm này xuất phát từ chức năng của Viện kiểm sát
nhân dân để xem xét quyền công tố; theo đó, tất cả các hoạt động kiểm sát
việc tuân theo pháp luật đều là thực hành quyền công tố. Có nghĩa là ngay cả
khi Viện kiểm sát kiến nghị, yêu cầu các cơ quan Nhà nước khắc phục, sửa
chữa những sai phạm của mình trên các lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội
9
thì đó cũng là hoạt động thực hành quyền công tố. Quan điểm này cho rằng
công tố không phải là một chức năng độc lập của Viện kiểm sát, mà chỉ là
một quyền năng, một hình thức hoạt động chức năng kiểm sát việc tuân theo
pháp luật. Đây là quan điểm khá phổ biến, đặc biệt là trong ngành Kiểm sát
nhân dân từ năm 1960 cho đến khi Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm
2002 được ban hành. Cơ sở lập luận của quan điểm này chủ yếu dựa vào nội
dung các điều luật được quy định trong Hiến pháp năm 1980 và 1992; Luật tổ
chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1981 và 1992. Mặt khác, quan điểm này
cũng chịu ảnh hưởng của các nhà tố tụng hình sự Liên Xô trước đây.
Khái niệm quyền công tố theo quan điểm trên là chưa chính xác, vì đã
đánh đồng quyền công tố với quyền kiểm sát việc tuân theo pháp luật, đồng
thời cũng không phù hợp với các quy định của Hiến pháp và các Luật.
- Quan điểm thứ hai cho rằng quyền công tố là quyền của Nhà nước
giao cho Viện kiểm sát truy tố kẻ phạm tội ra Tòa án, thực hiện sự buộc tội tại
phiên tòa (thực hành quyền công tố). Quan điểm này cho rằng việc thực hiện
quyền công tố chỉ diễn ra trong giai đoạn xét xử sơ thẩm hình sự.
Quan điểm này quá thu hẹp khái niệm, nội dung, cũng như phạm vi của
quyền công tố. Về lý luận cũng như thực tế, hoạt động thực hành quyền công
tố của Viện kiểm sát tại Tòa án chỉ là một bộ phận trong nhiều hoạt động thực
hiện chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát.
- Quan điểm thứ ba cho rằng quyền công tố là quyền đại diện Nhà nước
để đưa các vụ việc vi phạm trật tự pháp luật ra cơ quan xét xử để bảo vệ lợi
ích của Nhà nước, bảo vệ trật tự pháp luật. Quan điểm này cho rằng quyền
công tố xuất hiện từ khi có Nhà nước và pháp luật, được thể hiện đầu tiên
trong tố tụng hình sự; cùng với sự phát triển của xã hội và của ngành luật,
quyền công tố được mở rộng sang các lĩnh vực dân sự, kinh tế và lao động.
Theo quan điểm này thì nội dung quyền công tố là tổng hợp các biện pháp tư
10
pháp đặc trưng theo luật định mà Viện kiểm sát có trách nhiệm thực hiện
trong hoạt động tố tụng tư pháp; quyền công tố là một nội dung của hoạt động
chức năng của Viện kiểm sát nhân dân trong lĩnh vực tố tụng hình sự, tố tụng
dân sự và các lĩnh vực khác, nhằm bảo đảm mọi hành vi vi phạm pháp luật,
hành vi phạm tội đều bị phát hiện, điều tra, xử lý theo pháp luật, không để lọt
tội phạm, không làm oan người vô tội, tăng cường pháp chế thống nhất.
Đây là quan điểm được đưa vào chương trình giảng dạy chính thức của
Trường cao đẳng kiểm sát Hà Nội và thường xuyên được nhắc tới trong
những văn bản hướng dẫn nghiệp vụ, các chuyên đề tổng kết trước đây của
ngành Kiểm sát. Quan điểm này quá mở rộng quyền công tố, dẫn đến xóa
nhòa ranh giới và tính đặc thù giữa tố tụng hình sự và các lĩnh vực tố tụng
khác; đồng nhất quyền công tố với các quyền năng khác của Viện kiểm sát
trong quá trình giải quyết các vụ án dân sự, kinh doanh thương mại, lao động
và hành chính.
- Quan điểm thứ tư cho rằng quyền công tố là quyền của Nhà nước giao
cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự và
áp dụng các chế tài hình sự đối với người phạm tội. Đó là hoạt động tố tụng
của Điều tra viên, Kiểm sát viên và những người khác được pháp luật quy
định có trách nhiệm xác định kẻ phạm tội cũng như các căn cứ để kết tội và
áp dụng các hình phạt đối với người phạm tội.
Quan điểm này đã đồng nhất khái niệm quyền công tố với nguyên tắc
tố tụng hình sự đã được thừa nhận ở nhiều quốc gia trên thế giới. Theo đó,
mọi tội phạm xẩy ra đều xâm phạm đến các lợi ích chung của toàn xã hội, kẻ
phạm tội phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự và bị trừng trị bằng các chế tài
hình sự. Việc truy cứu trách nhiệm hình sự và áp dụng hình phạt đối với
người phạm tội được thực hiện bởi các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, đó
là Cơ quan điều tra, Cơ quan Công tố, Cơ quan xét xử và thi hành án. Như
11
vậy, Tòa án, Cơ quan Thi hành án cũng là chủ thể thực hiện quyền công tố.
Quan điểm này đã xóa nhòa danh giới giữa các chức năng buộc tội và chức
năng xét xử trong tố tụng hình sự.
- Quan điểm thứ năm cho rằng quyền công tố bao gồm quyền khởi tố,
điều tra, truy tố và buộc tội bị cáo trước Tòa án. Đại diện cho quan điểm này
là các Luật gia theo truyền thống pháp luật của Pháp. Theo họ, quyền công tố
luôn gắn liền với hoạt động buộc tội nhân danh Nhà nước (nhân danh công
quyền). Do vậy, quyền công tố chỉ được thực hiện trong một lĩnh vực duy
nhất, đó là lĩnh vực tố tụng hình sự. Chủ thể tham gia vào hoạt động thực
hành quyền công tố chỉ bao gồm: Cơ quan điều tra (Điều tra viên) và Cơ quan
công tố (Công tố viên). Riêng quyền truy tố kẻ phạm tội ra Tòa án và thực
hành quyền buộc tội nhân danh Nhà nước tại phiên tòa chỉ thuộc về Cơ quan
công tố. Quyền công tố được sử dụng để bảo vệ không chỉ các lợi ích công
(lợi ích chung của toàn xã hội), mà cả lợi ích của cá nhân khi bị hành vi phạm
tội xâm hại.
- Quan điểm thứ sáu cho rằng công tố là sự cáo buộc của Nhà nước
đối với cá nhân, tổ chức đã vi phạm pháp luật, bao gồm vi phạm Luật hành
chính, Luật dân sự, Luật kinh doanh thương mại và Luật hình sự; quyền
công tố là quyền của Nhà nước thực hiện sự cáo buộc đó. Theo quan điểm
này, quyền công tố chỉ thuộc về Nhà nước; Nhà nước không thể không thực
hiện quyền công tố khi chính Nhà nước là người ban hành pháp luật, có
nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, và đồng thời là chủ thể tham gia vào nhiều quan
hệ pháp luật khác nhau.
Với tính cách là một quyền năng Nhà nước, quyền công tố được thực
hiện trong tất cả các quá trình giải quyết các vi phạm pháp luật: Tố tụng hình
sự, tố tụng dân sự, tố tụng kinh tế, tố tụng lao động, tố tụng hành chính. Sự
tồn tại quyền công tố trong các hoạt động tố tụng nêu trên là do nhu cầu
12
khách quan, nên Nhà nước không thể không thực hiện quyền lực của mình
trong việc giải quyết các vi phạm pháp luật và thực hiện công tố như một điều
kiện đảm bảo tính hiệu quả của việc giải quyết các vi phạm pháp luật của cơ
quan tài phán. Như vậy, quyền công tố trong các hoạt động tố tụng được biểu
hiện cụ thể ở các quyền của Viện kiểm sát như quyền khởi tố vụ án (dân sự,
hình sự, hành chính, lao động), quyền tham gia tố tụng ở bất cứ giai đoạn nào
khi xét thấy cần thiết, quyền yêu cầu Tòa án hoặc tự mình điều tra, xác minh
những vần đề cần làm sáng tỏ trong vụ án… Quyền công tố trong các hoạt
động tố tụng khác nhau thì không giống nhau về nội dung và hình thức thực
hiện. Trong tố tụng hình sự, thực hiện quyền công tố có nghĩa Nhà nước thực
hiện sự buộc tội đối với một con người phạm tội cụ thể, còn trong các hoạt
động tố tụng khác, thực hành quyền công tố được hiểu là việc Nhà nước trực
tiếp hay gián tiếp quy lỗi cho một người, một tổ chức nào đó vi phạm pháp
luật tương ứng.
- Quan điểm thứ bảy cho rằng, quyền công tố là quyền của Nhà nước
đưa các việc làm vi phạm pháp luật liên quan đến lợi ích chung ra Tòa án để
xét xử, vì Nhà nước nhân danh xã hội duy trì trật tự chung bằng pháp luật. Sự
can thiệp của Nhà nước vào các việc phạm pháp nói trên là do nhu cầu duy trì
mọi xung đột xã hội gắn với trật tự công cộng mà trách nhiệm của Nhà nước
phải đứng ra điều hòa; đó là bản chất của quyền lực công. Quyền công tố là
quyền Nhà nước nhân danh xã hội truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với
những người có hành vi phạm tội hoặc hành vi vi phạm pháp luật, nhằm mục
đích duy trì trật tự cộng đồng, trật tự pháp luật, củng cố và phát triển các quan
hệ xã hội. Như vậy, quyền công tố không chỉ trong lĩnh vực hình sự, mà còn
cả trong lĩnh vực dân sự, hành chính, kinh tế và lao động.
Quan điểm thứ sáu và thứ bảy coi mọi việc đưa ra Tòa án để giải quyết
đều là do vi phạm pháp luật (liên quan đến trật tự xã hội chung). Trong thực
13
tiễn, hoạt động của Tòa án và Viện kiểm sát không phải lúc nào cũng nhằm
truy cứu trách nhiệm hình sự đối với một người nào đó, mà có trường hợp chỉ
nhằm bảo vệ lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Ví
dụ: Viện kiểm sát khởi tố vụ án dân sự, hành chính, lao động với lợi ích
chung hoặc liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên,
người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần… hoạt động trên của Viện
kiểm sát hoàn toàn không phải là hoạt động thực hành quyền công tố, mà chỉ
là hoạt động thực hiện các quyền luật định của Viện kiểm sát.
- Quan điểm thứ tám cho rằng, công tố quyền là quyền được hành xử
nhân danh xã hội, vì lợi ích chung cho xã hội, với mục đích là Tòa án tuyên
một hình phạt đối với người phạm tội. Đại diện cho quan điểm này là các
Luật gia miền Nam nước ta trước năm 1975. Theo quan điểm này thì hành vi
đưa các phạm nhân gia Tòa án để xét xử là sự truy tố. Cái quyền truy tố đó là
công tố quyền, vì là quyền của cộng đồng xã hội trừng trị kẻ phạm pháp qua
các đại diện của xã hội và các Thẩm phán được giao phó nhiệm vụ xử thực
hành công tố quyền là những Thẩm phán công tố.
Những người theo quan điểm này phân biệt rõ khái niệm công tố quyền
và dân tố quyền. Một tội phạm hình sự xẩy ra, phát sinh tố quyền, tố quyền
này nhân danh xã hội yêu cầu Tòa án tuyên phán một biện pháp chế tài hình
sự đối với một vi phạm trật tự xã hội do tội phạm gây ra; đây gọi là công tố
quyền. Nhưng tội phạm có thể làm phát sinh bên cạnh công tố quyền một tố
quyền của tư nhân bị tội phạm gây thiệt hại, đó là quyền yêu cầu Tòa án buộc
kẻ phạm tội bồi thường thiệt hại cho mình; đó là dân tố quyền theo các Luật
gia miền Nam. Về bản chất, quyền công tố thuộc về xã hội; do đó phạm vi
quyền công tố chỉ giới hạn trong tố tụng hình sự và trước Tòa án.
Những quan điểm nêu trên về quyền công tố đều có sự hợp lý ở những
khía cạnh khác nhau, tuy nhiên mỗi quan điểm đều có những nội dung hạn
chế, bất cập, cụ thể:
14
+ Hoặc là đánh đồng quyền công tố với các chức năng kiểm sát việc
tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát, dẫn đến mở rộng phạm vi quyền công
tố vượt khỏi lĩnh vực tố tụng hình sự sang lĩnh vực tư pháp khác như dân sự,
hành chính, kinh tế, lao động.
+ Hoặc là coi quyền công tố chỉ là một quyền năng, một hình thức thực
hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, dẫn
đến sự xem nhẹ bản chất của quyền công tố như là hoạt động độc lập của
Viện kiểm sát nhân danh quyền lực công.
+ Hoặc là quá thu hẹp phạm vi quyền công tố, coi quyền công tố là
quyền của Viện kiểm sát truy tố kẻ phạm tội ra Tòa án và thực hiện việc buộc
tội tại phiên tòa hình sự sơ thẩm.
Mặt khác, các quan điểm đó đều có hạn chế là không phân định rõ
ràng khái niệm, bản chất, nội dung, phạm vi quyền công tố, hoạt động thực
hành quyền công tố và hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Nhiều
quan điểm cho rằng hai chức năng của Viện kiểm sát (công tố và kiểm sát
việc tuân theo pháp luật) vừa có tính độc lập tương đối, vừa liên hệ chặt
chẽ, tác động qua lại bổ sung cho nhau, giữa chúng có những nội dung xâm
nhập, đan xen lẫn nhau không thể tách rời; tạo nên sự thống nhất trong
chức năng của Viện kiểm sát.
Bên cạnh đó, để đưa ra được quan niệm đúng về quyền công tố, cần
phải xem xét nó trong mối liên với tính đặc thù của một lĩnh vực pháp luật cụ
thể. Quyền công tố chỉ có thể được xem xét trong mối liên hệ với lĩnh vực
pháp luật mà từ cội nguồn lịch sử của nó đã gắn liền, không thể tách rời với
việc nhân danh Nhà nước (nhân danh công quyền) chống lại hình thức vi
phạm pháp luật nghiêm trọng (tội phạm), đó là lĩnh vực tố tụng hình sự. Tội
phạm là vi phạm pháp luật nguy hiểm nhất; kẻ phạm tội xâm phạm trước hết
đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích xã hội (an ninh, trật tự xã hội), sau đó mới
15
đến lợi ích của người bị hại. Nhà nước nhân danh xã hội dành cho mình
quyền trừng trị kẻ phạm tội.
Trong tố tụng dân sự thì đối tượng của nó là tranh chấp dân sự liên quan
đến lợi ích của từng cá nhân. Một trong những đặc thù của tố tụng dân sự là
nguyên tắc tự định đoạt của các đương sự. Ý trí, lợi ích, sự tự thỏa thuận của
các đương sự quyết định sự xuất hiện, vận động và chấm dứt hoạt động tố tụng.
Trong tố tụng dân sự, nghĩa vụ chứng minh trước hết thuộc về các đương sự;
trong khi cốt lõi của tố tụng hình sự là hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng
nhằm phát hiện, khám phá tội phạm, xác định và xử lý kẻ phạm tội.
Một trong những nguyên tắc đặc thù của hoạt động tố tụng hình sự là
nguyên tắc công tố, nguyên tắc mà mọi hoạt động tố tụng được tiến hành
trước hết và chủ yếu vì lợi ích Nhà nước, lợi ích chung của toàn xã hội. Điểm
mấu chốt nhất của nguyên tắc này là hoạt động của các cơ quan tiến hành tố
tụng nhằm phát hiện, khám phá tội phạm, xác định và xử lý người phạm tội.
Một số công dân cũng tham gia vào hoạt động tố tụng, nhưng họ chỉ được lôi
cuốn vào hoạt động tố tụng khi hoạt động này đã xuất hiện trên cơ sở các
quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng.
Mặt khác hoạt động tố tụng hình sự luôn tồn tại ba chức năng tố tụng
cơ bản: Buộc tội, bào chữa (gỡ tội) và xét xử. Buộc tội, thực chất là hoạt động
truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Người buộc tội, đại diện
của cơ quan thực hiện chức năng buộc tội có trách nhiệm và có quyền đưa ra
lời cáo buộc đối với những cá nhân cụ thể và có nhiệm vụ phải đưa ra những
bằng chứng cho sự cáo buộc đó. Vì thế, quyền lực nhà nước trong lĩnh vực
hình sự gắn liền với buộc tội nhân danh Nhà nước, hay nói cách khác là nhân
danh công quyền và chỉ phát sinh khi có hành vi phạm tội xẩy ra. Sự buộc tội
nhân danh công quyền này được gọi là quyền công tố.
Từ phân tích trên có thể rút ra kết luận: Quyền công tố là quyền nhân
16
danh Nhà nước truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, trên
cơ sở đảm bảo việc thu thập đầy đủ chứng cứ để xác định tội phạm và
người phạm tội.
* Cơ quan thực hiện quyền công tố
Ở nước ta, căn cứ vào các quy định pháp luật từ năm 1960 đến nay, thì
Viện kiểm sát chính là cơ quan được giao chức năng thực hành quyền công
tố. Thực tiễn tổ chức và hoạt động mấy chục năm qua của Viện kiểm sát nhân
dân các cấp cho thấy, 100% các vụ án hình sự đều do Viện kiểm sát truy tố và
thực hiện sự buộc tội trước phiên toà sơ thẩm, đưa ra kết luận của mình tại
phiên toà theo các trình tự phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm. Cùng với
những hoạt động đó, Viện kiểm sát các cấp còn có trách nhiệm xem xét, bảo
đảm cho việc áp dụng, thay thế hoặc huỷ bỏ các biện pháp ngăn chặn được
hợp lý và hợp pháp, có quyền khởi tố, yêu cầu khởi tố, xem xét việc khởi tố
của Cơ quan điều tra và Toà án.
Theo quy định của pháp luật, tuy Cơ quan điều tra và Toà án các cấp
cũng thực hiện việc khởi tố vụ án hình sự, thậm chí số vụ án do Cơ quan điều
tra thực hiện việc khởi tố chiếm tới khoảng 96 - 97% số vụ án được khởi tố,
nhưng nếu quyết định khởi tố vụ án hình sự của Cơ quan điều tra, của cơ quan
khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra không có căn
cứ, thì chỉ có Viện kiểm sát mới có quyền quyết định huỷ bỏ quyết định khởi
tố đó; Hoặc chỉ có Viện kiểm sát mới có quyền kháng nghị quyết định khởi tố
vụ án hình sự không có căn cứ của Hội đồng xét xử. Cơ quan điều tra có
quyền khởi tố, bắt, tạm giam người phạm tội, tiến hành điều tra thu thập
chứng cứ… nhưng phải có sự phê chuẩn của Viện kiểm sát cùng cấp. Toà án
chỉ đưa vụ án ra xét xử trên cơ sở cáo trạng, quyết định truy tố của Viện kiểm
sát, và chỉ có Viện kiểm sát mới có quyền buộc tội bị cáo tại phiên toà. Bản
án kết tội của Toà án chính là sự chấp nhận lời buộc tội của Viện kiểm sát đối
với người phạm tội.
17
Như vậy, ở Việt Nam những hoạt động trên đây của Viện kiểm sát hoàn
toàn mang tính độc lập, không lệ thuộc vào bất cứ cơ quan nào. Duy nhất chỉ
có Viện kiểm sát được giao việc truy cứu trách nhiệm hình sự, buộc tội đối
với bị can, bị cáo và bảo vệ quan điểm truy tố của mình.
Từ những phân tích trên đây có thể đưa ra khái niệm: Hoạt động công
tố là chức năng của Viện kiểm sát được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và
trong suốt quá trình tố tụng nhằm đảm bảo không bỏ lọt tội phạm và người
phạm tội, không làm oan người vô tội, xử lý kịp thời những trường hợp sai
phạm của những người tố tụng khi thi hành nhiệm vụ.
1.1.2. Khái niệm hoạt động xét xử
Sự ra đời của Toa án gắn liền với hoạt động xét xử và xét xử trở thành
đặc điểm quan trọng nhất của Toà án. Ngay từ khi Nhà nước xuất hiện đã có
xét xử và có Toà án. Theo GS.TS Nguyễn Đăng Dung thì “tư pháp tức là
pháp đình, là Toà án, là y theo pháp luật mà xét định các việc trong phạm vi
pháp luật, do vậy “hệ thống cơ quan tư pháp có chức năng xét xử các hành vi
vi phạm các quy định của pháp luật Nhà nước” 5, tr. 23.
Lúc mới ra đời hoạt động xét xử chỉ được áp dụng cho các “thần dân”
có hành vi chống lại Nhà nước, các vi phạm giữa các cá nhân được giải quyết
chủ yếu bằng con đường “tự xử”. Càng về sau các quyền tự do dân sự, chính
trị của công dân dần được pháp luật thừa nhận, sự vi phạm các quyền đó được
thừa nhận như là xâm phạm tới lợi ích, trật tự chung và do đó chúng là đối
tượng của hoạt động xét xử của Toà án.
Với chức năng xét xử thì Toà án đại diện cho quyền lực tư pháp - một
trong ba nhánh quyền lực ở Nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc phân
quyền, không những có quyền xét xử những tranh chấp, vi phạm thông
thường mà còn có thẩm quyền phán xử những vi phạm Hiến pháp. Trong Nhà
nước pháp quyền, Toà án có vai trò quan trọng, là nơi biểu hiện tập trung của
18
quyền lực tư pháp, đồng thời là nơi thể hiện nền công lý, sự đối xử bình đẳng,
công bằng trong tất cả các mối quan hệ và cũng là nơi thể hiện chất lượng
hoạt động và uy tín của hệ thống tư pháp.
Ở nước ta, xây dựng Nhà nước pháp quyền của Nhân dân, do Nhân
dân, vì Nhân dân; tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về Nhân dân đã được
khẳng định trong Hiến pháp năm 2013. Nguyên tắc phân công, phối hợp,
kiểm soát thực hiện quyền lực Nhà nước tiếp tục được thể hiện rõ ràng, rành
mạch hơn. Lần đầu tiên Hiến pháp nước ta khẳng định Quốc hội thực hiện
quyền lập pháp, Chính phủ thực hiện quyền hành pháp và Tòa án nhân dân
thực hiện quyền tư pháp.
Bằng việc quy định “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp” 35, Điều 102, khoản 1,
Hiến pháp xác định rõ ràng, cụ thể vị trí, vai trò của Tòa án nhân dân trong bộ
máy Nhà nước. Tòa án nhân dân là cơ quan duy nhất thực hiện quyền tư pháp,
thực hiện chức năng xét xử; Tòa án nhân dân là cơ quan duy nhất có quyền ra
phán quyết về các vi phạm pháp luật, các tranh chấp theo quy định pháp luật và
các vấn đề pháp lý liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Xử lý các vi phạm pháp luật bằng chế tài Nhà nước, giải quyết các tranh chấp
bằng quyền lực Nhà nước đều thuộc thẩm quyền của Tòa án.
Hiến pháp khẳng định vị trí trung tâm của Tòa án trong hệ thống tư
pháp, vị trí trọng tâm của hoạt động xét xử trong các hoạt động tư pháp.
Hiến pháp quy định rõ ràng, cụ thể nhiệm vụ của Tòa án nhân dân. Đó là
bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, quyền và lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân. Nhiệm vụ này được xác định xuất phát từ vị trí, vai
trò và chức năng của Tòa án nhân dân đã được xác định. Là cơ quan có chức
năng ra phán quyết về các vi phạm pháp luật, các tranh chấp pháp lý, Tòa án
nhân dân có vai trò rất quan trọng bảo vệ quyền con người, quyền công dân,
19
bảo vệ lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Khi
quyền, lợi ích của mình bị xâm phạm hoặc bị tranh chấp, người dân tìm đến
Tòa án như là tìm đến công lý. Vì vậy, có thể nói, theo Hiến pháp Tòa án là
biểu tượng của công lý và có nhiệm vụ bảo vệ công lý.
Như vậy, “Hiến pháp đã khẳng định hoạt động xét xử là chức năng chỉ
thuộc về Toà án, không một cơ quan Nhà nước, một tổ chức nào khác có thể
thay thế Toà án thực hiện chức năng xét xử” 16. Khi thực hiện chức năng
xét xử, Toà án nhân danh Nhà nước xem xét nội dung vụ án hình sự và các
loại tranh chấp khác để cuối cùng ra phán xét ai đúng, ai sai. Chính vì nhân
danh Nhà nước thực hiện chức năng xét xử nên phán quyết của Toà án cho dù
nó được thể hiện bằng quyết định hay bằng bản án vẫn có giá trị bắt buộc đối
với tất cả các cơ quan Nhà nước, các tổ chức và mọi công dân.
Theo tinh thần này thì gắn cho Toà án những chức năng khác như:
Trách nhiệm phát hiện tội phạm và khởi tố vụ án hình sự, trách nhiệm thu
thập chứng cứ để chứng minh tội phạm … không thuộc về xét xử là không
phù hợp với bản chất, vị trí, chức năng của Toà án trong Nhà nước hiện đại và
đồng thời cũng là sự vi phạm Hiến pháp.
Từ phân tích trên có thể đưa ra khái niệm: Hoạt động xét xử là hoạt
động tố tụng của Toà án có thẩm quyền nhân danh Nhà nước áp dụng pháp
luật vào trường hợp cụ thể như trong vụ án hình sự: Xem xét và phán quyết
người bị buộc tội có tội hay không có tội, nếu có tội thì trách nhiệm hình sự
như thế nào, cũng như vấn đề khác có liên quan, được thực hiện trong mối
quan hệ với với chức năng tố tụng khác nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân, tổ chức và Nhà nước.
Về nội dung, chức năng xét xử là tất cả các hoạt động của Toà án để
khẳng định hay bác bỏ yêu cầu buộc tội của bên buộc tội và các vấn đề khác
có liên quan. Chức năng xét xử bao gồm hai nội dung chính là sự kiện và
20
pháp lý. Nội dung sự kiện là trên cơ sở các tài liệu, chứng cứ, Toà án phải
khẳng định sự tồn tại hay không tồn tại những sự kiện đã xẩy ra trên thực tế.
Nội dung pháp lý là sau khi đã khẳng định sự tồn tại hay không tồn tại của các
sự kiện thực tế, Toà án phải căn cứ vào các quy phạm pháp luật cụ thể để đưa
ra những đánh giá pháp lý về các sự kiện thực tế đó, tức là các sự kiện thực tế
đó có dấu hiệu phù hợp và chịu sự điều chỉnh bởi các nội dung của quy phạm
pháp luật nào.
* Cơ quan thực hiện hoạt động xét xử
Theo quy định tại Điều 1 và Điều 2 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm
2002: “Tòa án xét xử những vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao
động, kinh tế, hành chính và giải quyết những việc khác theo quy định của
pháp luật” 38; cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân theo địa giới hành chính:
Ở Trung ương có Tòa án nhân dân tối cao; ở địa phương có các Tòa án nhân
dân cấp tỉnh và cấp huyện. Ngoài ra, còn có các Tòa án quân sự được tổ chức
trong quân đội để xét xử những vụ án hình sự theo quy định của pháp luật tố
tụng hình sự. Trong trường hợp đặc biệt, Quốc hội có thể thành lập các Tòa
án đặc biệt.
1.2. Căn cứ xác lập mối quan hệ giữa hoạt động công tố và hoạt
động xét xử
1.2.1. Các nguyên tắc tổ chức của hệ thống tư pháp
* Một là, Tòa án là trung tâm của hệ thống tư pháp
Theo quy định của pháp luật thì hệ thống Toà án nhân dân từ năm 1960
đến nay được tổ chức theo đơn vị hành chính gồm: Toà án nhân dân cấp
huyện, Toà án nhân dân cấp tỉnh và Toà án nhân dân tối cao. Bên cạnh hệ
thống Toà án nhân dân thì ở nước ta còn có hệ thống Toà án quân sự được tổ
chức theo ba cấp: Toà án quân sự khu vực, Toà án quân sự cấp quân khu và
Toà án quân sự Trung ương. Theo quy định của Luật Tổ chức Toà án nhân
21
dân thì Toà án quân sự Trung ương là một đơn vị của Toà án nhân dân tối
cao, do Toà án nhân dân tối cao quản lý về chuyên môn, nghiệp vụ và có sự
phối hợp chặt chẽ với Bộ Quốc phòng. Tương ứng với tổ chức của Toà án
nhân dân là tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân.
Với cơ cấu tổ chức hệ thống Toà án và Viện kiểm sát như trên, hơn 40
năm qua các cơ quan này đã góp phần đắc lực vào việc bảo vệ độc lập, chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của tổ quốc Việt nam xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ lợi ích Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ
chức, duy trì trật tự an toàn xã hội, trật tự quản lý kinh tế, bảo đảm cho mọi
người được sống trong một môi trường xã hội và sinh thái an toàn, lành mạnh
và mang tính văn minh cao; Đảm bảo sự bình đẳng và an toàn pháp lý trong
quan hệ dân sự, góp phần tạo điều kiện đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần
của nhân dân, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Đồng thời, góp phần tích
cực loại bỏ những yếu tố gây cản trở cho tiến trình đổi mới và sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh; Giáo dục mọi người nghiêm chỉnh chấp hành
pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.
Trong quá trình đổi mới cơ chế quản lý Nhà nước, sắp xếp lại bộ máy
qua các thời kỳ, hệ thống Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân từng
bước được thay đổi cho phù hợp với tình hình kinh tế, xã hội.
Tuy nhiên, việc tổ chức hệ thống Toà án nhân dân và Viện kiểm sát
nhân dân theo đơn vị hành chính không còn phù hợp; Chức năng, nhiệm vụ,
cơ chế hoạt động của Toà án và Viện kiểm sát còn nhiều bất hợp lý. Chất
lượng hoạt động công tố và hoạt động xét xử chưa đáp ứng được yêu cầu và
đòi hỏi của xã hội; còn nhiều trường hợp bỏ lọt người phạm tội, làm oan
người vô tội…
Nhằm nâng cao năng lực và hoạt động của các cơ quan tư pháp nói
22
chung đặc biệt đối với Toà án và Viện kiểm sát trước yêu cầu của tình hình
mới, Đảng và Nhà nước đã có chủ chương cải cách tư pháp. Điều này được
khẳng định trong nhiều văn kiện của Đảng: Nghị quyết trung ương 8 khoá
VII, Nghị quyết trung ương 3 và 7 khoá VIII, Nghị quyết Đại hội Đảng lần
thứ IX; Nghị quyết số 08/NQ-TW của Bộ Chính trị ngày 02/01/2002 về “Một
số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” 10; Đặc biệt,
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020” 11 có đề ra nhiệm vụ xây dựng, hoàn thiện
tổ chức và hoạt động của hệ thống Toà án theo hướng:
Tổ chức hệ thống Toà án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc
vào đơn vị hành chính gồm: Toà án sơ thẩm khu vực được tổ chức ở một
hoặc một số đơn vị hành chính cấp huyện; Toà án phúc thẩm có nhiệm vụ
chủ yếu là xét xử phúc thẩm và xét xử sơ thẩm một số vụ án; Toà thượng
thẩm được tổ chức theo khu vực có nhiệm vụ xét xử phúc thẩm; Toà án nhân
dân tối cao có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng
thống nhất pháp luật, phát triển án lệ và xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm.
Việc thành lập Toà chuyên trách phải căn cứ vào thực tế xét xử của từng cấp
Toà án, từng khu vực. Đổi mới Toà án nhân dân tối cao theo hướng tinh gọn
với đội ngũ thẩm phán là những chuyên gia đầu ngành về pháp luật, có kinh
nghiệm trong ngành.
Hiện nay, trừ Toà án quân sự thì hệ thống Toà án nhân ở nước ta được
tổ chức theo đơn vị hành chính gồm: Mỗi đơn vị hành chính cấp huyện và
tỉnh có một Toà án nhân dân; Toà án nhân dân cấp tỉnh là Toà án cấp trên trực
tiếp của Toà án nhân dân cấp huyện; Toà án nhân dân tối cao là Toà án trực
tiếp của Toà án nhân dân cấp tỉnh.
Việc nghiên cứu để tổ chức Toà án theo thẩm quyền xét xử, không phụ
thuộc vào đơn vị hành chính mà Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của
23
Bộ Chính trị đưa ra là một bước đột phá về chất, nhằm xác định rõ chức năng,
nhiệm vụ, thẩm quyền của Toà án; Thể hiện đúng quan điểm “quyền lực Nhà
nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan
Nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” 35.
* Hai là, đảm bảo Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức phù hợp với hệ
thống tổ chức của Toà án
Về tương quan giữa đổi mới tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân với
tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân theo yêu cầu cải cách tư pháp.
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 chỉ rõ: “Viện kiểm sát nhân dân được
tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức của Toà án. Nghiên cứu việc chuyển Viện
kiểm sát thành Viện công tố, tăng cường hoạt động công tố trong hoạt động điều
tra” 11. Tuy nhiên, khác với Toà án, Nghị quyết số 49 nêu cụ thể mô hình và tên
gọi của Toà án các cấp, còn đối với Viện kiểm sát, Nghị quyết số 49 chỉ nêu
“được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức của Toà án” 11. Như vậy việc tổ
chức Viện kiểm sát như thế nào cho phù hợp với hệ thống Toà án là một vấn đề
rất quan trọng.
Cần nhận thức rằng, tính phù hợp giữa Viện kiểm sát với hệ thống tổ
chức của Toà án không có nghĩa là Toà án có mấy cấp thì Viện kiểm sát
cũng có bấy nhiêu cấp, mà vấn đề quan trọng là tổ chức Viện kiểm sát như
thế nào có đáp ứng được yêu cầu của việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ.
Với quan điểm như vậy, nhằm bảo đảm cho Viện kiểm sát hoàn thành chức
năng, nhiệm vụ trước mắt cũng như lâu dài, thì về tổ chức của Viện kiểm
sát cần tiếp tục được nghiên cứu một cách sâu sắc và toàn diện trước khi
xem xét, quyết định.
Hoạt động công tố gắn liền với hoạt động xét xử của Toà án, do vậy, tổ
chức của Viện kiểm sát trước mắt và Viện công tố về lâu dài phù hợp với mô
hình tổ chức Toà án trong tiến trình cải cách tư pháp.
24
Khi Toà án chuyển sang mô hình hai cấp xét xử và theo thẩm quyền
như Nghị quyết 49 đã khẳng định thì Viện kiểm sát cần được tổ chức tương
ứng với các cấp Toà án, thực hiện hai nhiệm vụ là thực hành quyền công tố và
kiểm sát hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Như vậy, về lâu dài
Viện kiểm sát chuyển thành Viện công tố. Bản chất của công tố là đại diện
cho quyền lực công để truy tố tội phạm, đưa người có hành vi phạm tội ra
trước Toà án để xét xử, do đó, công tố phải là một chức năng không tách rời
của hành pháp – cơ quan chịu trách nhiệm tổ chức thực thi pháp luật như ý
kiến của GS. TS. Nguyễn Đăng Dung đã cho rằng “chức năng buộc tội thuộc
về hành pháp” 5.
Xuất phát từ trách nhiệm trung tâm và cuối cùng của Viện công tố
trong chức năng truy tố, buộc tội nên về nguyên lý, hoạt động của Viện công
tố phải gắn với hoạt động điều tra. Tại phiên toà, công tố viên thực hiện chức
năng buộc tội, tham gia tranh tụng và chịu trách nhiệm hoàn toàn về những
chứng cứ buộc tội thu thập được trong quá trình điều tra. Cơ chế này đảm bảo
tính hiệu quả, thống nhất và liên tục của quy trình tố tụng tư pháp, nâng cao
chất lượng truy tố và tranh tụng của Công tố viên tại phiên toà. Cũng như đối
với Thẩm phán, Kiểm sát viên phải tiếp tục được chuẩn hoá theo tiêu chuẩn
chức danh mới phù hợp với sự điều chỉnh chức năng và thẩm quyền hoạt
động của Viện kiểm sát.
* Ba là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Cơ quan tư pháp
Đảng ta là Đảng cầm quyền, đại diện cho lợi ích nhân dân và toàn dân tộc.
Nghị quyết số 08-NQ/TW đã chỉ rõ: “Đảng lãnh đạo các Cơ quan tư pháp chặt
chẽ về chính trị, tổ chức và cán bộ, bảo đảm hoạt động tư pháp thực hiện đúng
quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước, khắc phục tình trạng cấp uỷ Đảng
buông lỏng lãnh đạo hoặc can thiệp không đúng và hoạt động tư pháp” 10.
25
Sự lãnh đạo toàn diện và chặt chẽ của Đảng đối với các Cơ quan tư
pháp là yêu cầu khách quan và cần thiết để đảm bảo cho các Cơ quan tư pháp
thể hiện bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân,
do Nhân dân và vì Nhân dân, bảo đảm cho hoạt động của các Cơ quan tư
pháp thực hiện đúng quan điểm của Đảng và pháp luật của Nhà nước, hạn chế
các sai sót có thể xẩy ra làm ảnh hưởng đến uy tín của Đảng và Nhà nước.
1.2.2. Các nguyên tắc tố tụng hình sự
Trong tố tụng hình sự Việt Nam, nguyên tắc của tố tụng hình sự là
những tư tưởng và quan điểm chủ đạo được thể chế hoá bằng pháp luật, có ý
nghĩa quyết định đến việc xác định và thực hiện các hoạt động tố tụng hình sự
và các quan hệ tố tụng hình sự đối với các hình thức và phương thức thực
hiện những hoạt động và quan hệ đó. “Nguyên tắc của tố tụng hình sự gắn
liền với nhiệm vụ, mục đích của tố tụng hình sự và do vậy, tuân thủ các
nguyên tắc của tố tụng hình sự là bảo đảm quan trọng hàng đầu cho việc thực
hiện hiệu quả mục đích và nhiệm vụ của tố tụng hình sự” 47.
Nguyên tắc của tố tụng hình sự là cái có trước mô hình cấu trúc của tố
tụng hình sự và có trước cả quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Nguyên
tắc không phải là pháp luật thực định mà là những đòi hỏi pháp lý có tính khái
quát cao mang màu sắc lý tưởng, là những yêu cầu, đòi hỏi, là cái cần có.
Trong khi đó, pháp luật tố tụng hình sự là cái tồn tại. Cái tồn tại phải được cải
biến cho phù hợp với yêu cầu của cái cần có, nhưng trong hiện thực luôn có
một khoảng cách giữa hai phạm trù đó.
Có thể lấy ví dụ về nguyên tắc tranh tụng trong cải cách tư pháp hình
sự hiện nay ở Việt Nam theo tinh thần của chiến lược cải cách tư pháp. Thực
hiện tranh tụng trong tố tụng hình sự là yêu cầu được đặt ra trong chiến lược,
nhưng yếu tố tranh tụng có được bao nhiêu trong cả hệ thống tố tụng hình sự,
được phản ánh như thế nào trong các chế định và quy phạm pháp luật của tố
26
tụng hình sự lại là một vấn đề khác. Tuy nhiên, tư tưởng về việc thực hiện
tranh tụng luôn là cơ sở, là thước đo cho việc đánh giá tính hoàn thiện của các
chế định pháp luật và thực tiễn tư pháp hình sự ở Việt Nam hiện nay.
Có thể phân chia các nguyên tắc kể trên theo các nhóm sau: Nhóm các
nguyên tắc có nội dung liên quan yêu cầu về bảo đảm tính pháp chế xã hội
chủ nghĩa trong tố tụng hình sự; Nhóm các nguyên tắc bảo đảm các quyền và
lợi ích hợp pháp của công dân nói chung, quyền của bị can, bị cáo nói riêng
trong quá trình tiến hành tố tụng hình sự; Nhóm các nguyên tắc về tính chất
của hoạt động tố tụng hình sự; Nhóm các nguyên tắc về sự tham gia của Nhân
dân và sự phối hợp, hỗ trợ của các cơ quan Nhà nước khác đối với hoạt động
tố tụng hình sự.
Có thể thấy, các nguyên tắc của tố tụng hình sự Việt Nam chứa đựng
những tư tưởng chỉ đạo cụ thể, chặt chẽ, rõ ràng, tạo điều kiện cho sự vận
dụng chúng trong các hoạt đông tố tụng hình sự. Cơ cấu về số lượng các
nguyên tắc của tố tụng hình sự đã cho thấy sự quan tâm thích đáng của Nhà
nước ta đối với yêu cầu tôn trọng và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của
con người, của công dân trong qúa trình tố tụng (13/10 nguyên tắc). Các
nguyên tắc của tố tụng hình sự hiện hành Việt Nam phản ánh rõ nét tính pha
chộn của tố tụng hình sự, trong đó tính chất chủ đạo của nó là tố tụng thẩm
vấn với sự tiếp thu một số rất ít các đặc điểm của mô hình tố tụng tranh tụng.
Có thể thấy rằng, đây là lĩnh vực của những sự tìm tòi, thể nghiệm vừa
nghiêm túc, thận trọng, vừa cầu thị trong quá trình thực hiện Chiến lược cải
cách tư pháp ở Việt Nam trong giai đoạn đổi mới vừa qua.
- Nguyên tắc đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa:
Đây là nguyên tắc rất quan trọng trong quan hệ giữa Viện kiểm sát và
Tòa án, đó cũng là một trong những nguyên tắc rất quan trọng của pháp luật tố
tụng hình sự được quy định tại Điều 8 Hiến pháp năm 2013: “Nhà nước được
27
tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến
pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ” 35. Và Điều 3
Bộ luật tố tụng hình sự tiếp tục quy định: "Mọi hoạt động tố tụng hình sự của
cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng
phải được tiến hành theo quy định của Bộ luật này" 37.
Theo đó, mọi hoạt động của những người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến
hành tố tụng phải tuân theo các quy định của luật pháp không được vì lợi ích cục
bộ của hai cơ quan mà có những hành vi vi phạm pháp luật , ảnh hưởng đến
quyền lợi ích của Nhà nước, Xã hội và của Công dân. Việc khởi tố, điều tra, truy
tố, xét xử đòi hỏi Viện kiểm sát, Cơ quan Điều tra và Tòa án phải thực hiện đúng
chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan và phải được tiến hành trên cơ sở có căn
cứ, đúng pháp luật. Viện kiểm sát và Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án hình
sự phải luôn tuân thủ những nguyên tắc nhất định, không thể tùy tiện, cũng
không thể đơn giản hóa những qui định bắt buộc, vì sự tùy tiện có thể sẽ dẫn đến
việc xử lý oan sai, vi phạm các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, làm mất
lòng tin của Nhân dân vào hiệu lực và sự công minh của pháp luật.
- Nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân:
Do đặc điểm của hoạt động tố tụng hình sự của Viện kiểm sát và Tòa án
thường xuyên đụng chạm đến các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân,
trong khi chế độ xã hội chủ nghĩa chúng ta luôn coi trọng con người và mọi
hoạt động đều phục vụ lợi ích của con người. Chính vì vậy, Hiến pháp năm
2013 đã quy định tại Chương II những quyền con người, quyền cơ bản của
công dân đó là: Quyền bình đẳng trước pháp luật, quyền bất khả xâm phạm về
thân thể, quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, an toàn và bí mật thư tín, điện
thoại, điện tín...
Bộ luật tố tụng hình sự nước ta đã quy định việc tôn trọng, bảo vệ các
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân tại các Điều 4, 5, 6, 7, 8, 9, 11, 31 là
28
một trong những nhiệm vụ quan trọng đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng
khi thực hiện chức năng nhiệm vụ phải tuân thủ, điều đó chính là bản chất tốt
đẹp của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa luôn đề cao và tôn trọng các quyền và
lợi ích con người.
Nguyên tắc này đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
tụng trong quá trình tiến hành các hoạt động tố tụng phải đảm bảo và tôn trọng
các quyền lợi ích cơ bản của công dân, nhất là quyền bất khả xâm phạm về thân
thể, quyền tự do đi lại, quyền bất khả xâm phạm về nơi ở, quyền được đảm bảo
bí mật và an toàn thư tín , điện thoại, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm... Vì vậy,
Viện kiểm sát và Tòa án khi tiến hành các hoạt động tố tụng nhằm xác định sự
thật của vụ án, nhưng có nghĩa vụ tôn trọng và đảm bảo các quyền lợi của công
dân, nhất là khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn liên quan đến quyền, lợi ích
của công dân như: "bắt, tạm giữ, tạm giam, khám xét, kiểm tra thư tín điện tín,
kê biên tài sản..." 37.
Hoạt động bắt người, khám xét nơi ở, địa điểm, khám xét người, thư tín,
điện tín, bưu kiện, bưu phẩm… phải có căn cứ và được tiến hành theo đúng
quy định của pháp luật. Không ai có thể bị bắt khi không có quyết định hoặc
phê chuẩn của Viện kiểm sát. Khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn, hoặc các
hoạt động điều tra như: Hỏi cung bị can, đối chất, thực nghiệm điều tra …
người tiến hành tố tụng không được sử dụng nhục hình, bức cung, mớm cung
xúc phạm danh dự, nhân phẩm của những người tham gia tố tụng, đồng thời
các cơ quan tiến hành tố tụng phải kịp thời phát hiện những thiếu sót, sai lầm
trong hoạt động điều tra, truy tố và xét xử để khắc phục, kể cả việc phải bồi
thường thiệt hại do các hoạt động tố tụng không đúng pháp luật gây ra.
- Nguyên tắc xác định sự thật của vụ án:
Việc xác định sự thật vụ án là trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố
tụng được thực hiện theo chức năng nhiệm vụ và quyền hạn của mình trong đó
29
Cơ quan Điều tra chịu trách nhiệm chính trong việc phát hiện, điều tra khám
phá tội phạm, thu thập chứng cứ để làm rõ tội phạm, đồng thời phải chịu trách
nhiệm về kết quả điều tra của mình . Viện kiểm sát thực hành quyền công tố ,
kiểm sát việc tuân theo pháp luật tố tụng hình sự đối với Cơ quan Điều tra khi
tiến hành hoạt động điều tra và quyết định việc truy tố, Tòa án chịu trách nhiệm
trong quá trính xét xử.
Việc xác định sự thật của vụ án được coi là điều rất quan trọng, đảm bảo
cho việc xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; không để lọt tội phạm,
không làm oan người vô tội. Đó cũng là cơ sở đảm bảo cho các cơ quan tiến
hành tố tụng hình sự thực hiện nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt
động tố tụng hình sự . Điều 10 Bộ luật tố tụng hình sự , khoản 2 Điều 5 Pháp
lệnh tổ chức điều tra hình sự quy định rõ trách nhiệm của Viện kiểm sát , Cơ
quan Điều tra và Tòa án trong việc xác định sựthật của vụ án.
Nội dung của nguyên tắc này đòi hỏi Viện kiểm sát , Tòa án và những
người tiến hành tố tụng phải thực hiện nghiêm túc các quy định của luật tố
tụng, coi việc khởi tố, điều tra, truy tố và xác định sự thật của vụ án vừa là
nhiệm vụ, và cũng là mục tiêu cần phải đạt được khi có tội phạm xảy ra. Để
thực hiện được điều này, cả ba cơ quan này phải phối hợp chặt chẽ với nhau,
tạo điều kiện thuận lợi cho nhau trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Khi
giải quyết vụ án hình sự phải dựa vào những chứng cứ đã được thu thập để xem
xét đánh giá một cách khách quan, toàn diện về hành vi, tính chất mức độ nguy
hiểm, hậu quả. Tránh việc thu thập chứng cứ, đánh giá chứng cứ một chiều,
phiến diện, chủ quan… Có như vậy mới đảm bảo việc giải quyết vụ án đúng
đắn, hạn chế được những sai sót đáng tiếc có thể xảy ra.
- Nguyên tắc cấp dưới chịu sự chỉ đạo của cấp trên trong tố tụng hình sự:
Cấp dưới chịu sự chỉ đạo của cấp trên là nguyên tắc chung trong hệ
thống tổ chức bộ máy Nhà nước ta. Nguyên tắc này giúp cho cơ quan cấp trên
30
có thể giám sát, chỉ đạo hoạt động của cơ quan cấp dưới tạo sự thống nhất đồng
bộ trong việc thực hiện các yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra.
Ngoài ra nguyên tắc này được thể hiện trong các quy định của pháp
luật tố tụng hình sự như quy định tại Điều 8 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân
dân năm 2002: "Viện kiểm sát nhân dân do Viện trưởng lãnh đạo. Viện
trưởng Viện kiểm sát cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân cấp trên..." 39 và Điều 17 Luâ ̣t tổ chứ c Toà án nhân dân c ũng
quy đi ̣nh “Toà án nhân dân tối cao quản lý các Toà án nhân dân địa
phương về tổ chức có sự phối hợp chặt chẽ với Hội đồng nhân dân địa
phương. Toà án nhân dân tối cao quản lý các Toà án quân sự về tổ chức có
sự phối hợp chặt chẽ với Bộ Quốc phòng” 38.
Trong mỗi ngành nguyên tắc này được thực hiện thông qua chế độ báo
cáo, thỉnh thị về nghiệp vụ, cấp trên giám sát, kiểm tra hoạt động nghiệp vụ của
cấp dưới; phát hiện những sai sót, tồn tại của cấp dưới, tổ chức rút kinh
nghiệm, hướng dẫn, chỉ đạo hoạt động đối với cấp dưới.
Đặc biệt nguyên tắc cấp dưới chịu sự lãnh đạo của cấp trên còn thể hiện
ở tính hiệu lực của các quyết định của cơ quan cấp trên cao hơn quyết định của
cấp dưới. Ví dụ: Trong quá trình kiểm sát điều tra, Viện kiểm sát cấp trên có
quyền hủy các quyết định trái pháp luật của Viện kiểm sát cấp dưới . Nguyên
tắc này chỉ được áp dụng theo ngành dọc để đảm bảo việc thực hiện nhiệm vụ
được tốt hơn trong các hoạt động giải quyết vụ án hình sự.
1.3. Những yêu cầu của việc cải cách tƣ pháp đối với việc hoàn
thiện mối quan hệ giữa hoạt động công tố và xét xử
Nhận thức lý luận của Đảng về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân tại Việt Nam bắt nguồn từ quan điểm
của Chủ nghĩa Mác – Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp
luật xã hội chủ nghĩa. Đó là quá trình phát triển lâu dài, bền bỉ và gắn chặt với
31
lịch sử cách mạng và thời kỳ, thể hiện tập trung nhất sự phát triển các quan
điểm và đường lối của Đảng ta về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, là
giai đoạn Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII đến nay. Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (năm 1996) nhấn mạnh: “Tăng cường
pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Quan lý
xã hội bằng pháp luật, đồng thời, coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức xã hội
chủ nghĩa” 6. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 khóa VIII của Đảng (tháng
6 – 1997) về tiếp tục xây dựng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
trong sạch, vững mạnh, có một nhận định quan trọng về Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ đổi mới: Đảng đã “từng bước phát triển hệ
thống quan điểm, nguyên tắc cơ bản về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân” 7. Đại hội IX của Đảng (năm 2001) đặt
vấn đề tiếp tục “xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh
đạo của Đảng” 9. Tiếp đó, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa IX của
Đảng (tháng 1 – 2004) khẳng định: “Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo
của Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phát huy dân chủ,
tăng cường kỷ cương, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc” 8… Đó là một hệ
thống phương hướng của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa. Đây là một vấn đề rất mới ở Việt Nam, nên Nghị quyết của Đảng cũng
chỉ phác thảo ra những hướng chung nhất về xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Vấn đề đặt ra hiện nay là phải xây dựng một hệ
thống lý luận về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam vừa có giá trị phổ biến của nhà nước
pháp quyền nói chung, vừa phải thể hiện được những đặc trưng, bản chất, bản
sắc của dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam.
Tiếp nối những thành công của Đại hội Đảng lần thứ X và XI, Đảng và
Nhà nước ta đã đề ra nhiều chính sách phát triển, xây dựng Nhà nước pháp
32
quyền xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong
đó, cải cách tư pháp và các hoạt động tư pháp được xem là một trong những
hoạt động quan trọng được quan tâm hàng đầu hiện nay.
Nghị quyết số 08 của Bộ Chính trị khóa IX ngày 02/01/2002 về một số
nhiệm vụ trong tâm công tác tư pháp trong thời gian tới và Nghị quyết số 49-
NQ/TW ngày 02/6/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Có thể
khái quát một số chủ trương, có tính xuyên suốt của Đảng trong việc chỉ đạo
đổi mới hệ thống tư pháp như sau:
- Khẳng định chức năng của cả hệ thống tư pháp: Hoạt động tư pháp
phải nhằm ngăn ngừa có hiệu quả và xử lý kịp thời, nghiêm minh các loại
tội phạm hình sự, đặc biệt các tội phạm an ninh quốc gia, tội tham nhũng
và các loại tội phạm có tổ chức, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các
tổ chức và công dân.
- Yêu cầu chung đối với hệ thống tư pháp – Các cơ quan tư pháp phải là
mẫu mực của việc tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, phải thể hiện công lý, tính
độc lập, tính dân chủ, công khai trong hoạt động; là lực lượng nòng cốt, là chỗ
dựa vững chắc của Nhân dân trong đấu tranh phòng chống tội phạm, các hành
vi vi phạm pháp luật và giải quyết tranh chấp trong đời sống hàng ngày.
1.3.1. Về đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án
* Về tổ chức:
- Thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử; phân định lại thẩm quyền xét
xử của Tòa án nhân dân các cấp: Từng bước mở rộng thẩm quyền xét xử của
Tòa án nhân dân cấp huyện theo hướng chủ yếu xét xử sơ thẩm; Tòa án nhân
dân cấp tỉnh chủ yếu xét xử phúc thẩm; Tòa án nhân dân tối cao thực hiện
chức năng giám đốc thẩm và hướng dẫn đường lối xét xử; xóa bỏ thẩm
quyền và thủ tục xét xử trung thẩm của Tòa án nhân dân tối cao và Tòa án
quân sự trung ương.
33
- Thành lập các Tòa chuyên môn phù hợp với yêu cầu của sự phát triển
kinh tế - xã hội; mở rộng thẩm quyền xét xử của Tòa án trong việc giải quyết
các khiếu kiện hành chính đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính, hội nhập
kinh tế quốc tế.
* Về hoạt động:
- Khi xét xử, Thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, thực hiện
dân chủ, khách quan; việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết
quả tranh tụng tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng
cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, người bào chữa, bị cáo, nhân chứng… để ra
những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời
hạn pháp luật quy định.
- Nghiên cứu quy định và áp dụng thủ tục rút gọn để xét xử kịp thời
một số vụ án đơn giản, chứng cứ rõ ràng, phạm tội quả tang, hậu quả pháp lý
ít nghiêm trọng.
- Đổi mới thủ tục giám đốc thẩm để bảo đảm việc xét xử vừa đúng đắn
vừa nhanh chóng.
* Về quản lý Tòa án:
- Tổng kết kinh nghiệm quản lý Tòa án; nhiệm vụ quản lý Tòa án địa
phương phải góp phần bảo đảm tính độc lập và hiệu quả của Tòa án; gắn việc
theo dõi, hướng dẫn nghiệp vụ chuyên môn với việc nhận xét, đánh giá, bố trí,
sử dụng cán bộ.
- Nghiên cứu việc kéo dài nhiệm kỳ Thẩm phán hoặc bổ nhiệm Thẩm
phán suốt đời; Việc bổ nhiệm Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao do quốc
hội phê chuẩn, việc bổ nhiệm các thẩm phán Tòa án địa phương phải thuộc
quyền của Chủ tịch nước.
34
1.3.2. Về đổi mới tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát
* Về chức năng:
Đã có sự chuyển biến quan trọng trong việc nhận thức lại về chức năng
của Viện kiểm sát: Từ yêu cầu Viện kiểm sát nhân dân cần làm tốt ba chức
năng là kiểm sát chung, công tố và kiểm sát tư pháp (Hội nghị Trung ương 8
khóa VII) đến yêu cầu nâng cao chất lượng hoạt động của Viện kiểm sát theo
cả ba chức năng quy định trong Hiến pháp, nhưng tập chung làm tốt chức
năng công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp (Hội nghị Trung ương 3 khóa
VIII), sau đó khẳng định Viện kiểm sát nhân dân chỉ thực hiện tốt hai chức
năng – công tố và kiểm sát tư pháp (Đại hội IX, X và XI; Nghị quyết số 08
của Bộ Chính trị).
* Về tổ chức và hoạt động:
- Hoạt động công tố được xác định thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án
và trong suốt quá trình tố tụng nhằm bảo đảm không bỏ lọt tội phạm và người
phạm tội, không làm oan người vô tội. Nâng cao chất lượng công tố của Kiểm
sát viên tại phiên tòa thông qua việc đảm bảo tranh tụng dân chủ với Luật sư,
người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác.
- Hoạt động kiểm sát hoạt động tư pháp tập trung vào việc kiểm sát
việc bắt, giam, giữ, tạm giam, tạm giữ theo hướng kiên quyết không phê
chuẩn lệnh bắt, tạm giam, tạm giữ trong những trường hợp chưa cần áp dụng
các biện pháp này, phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp oan sai trong
việc bắt, tạm giam, tạm giữ thuộc phạm vi phê chuẩn của mình.
- Giảm bớt chồng chéo về chức năng trong hoạt động kiểm sát.
1.3.3. Về đổi mới tổ chức và hoạt động của Cơ quan điều tra
- Sắp xếp lại cơ quan điều tra theo hướng gọn đầu mối: Bộ Công an
thống nhất chỉ huy các cơ quan điều tra thuộc Bộ; nghiên cứu sát nhập các cơ
quan điều tra thuộc công an địa phương; tổ chức và hoạt động của các cơ
35
quan điều tra trong quân đội đổi mới cho phù hợp với tổ chức và hoạt động
của các cơ quan điều tra Nhà nước; chỉ tổ chức cơ quan điều tra ở Viện kiểm
sát nhân dân tối cao để điều tra một số loại tội phạm xâm phạm hoạt động tư
pháp là cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp.
- Kết hợp chặt chẽ giữa trinh sát, điều tra ban đầu với hoạt động của cơ
quan điều tra nhằm đảm bảo sự thống nhất trong phòng ngừa, đấu tranh chống
tội phạm, bảo đảm quyền dân chủ và an toàn của công dân (Hội nghị TW 3
khóa VIII).
- Chuyên môn hóa hoạt động điều tra; quy định rõ quyền hạn, trách
nhiệm của từng chức danh trong Cơ quan Điều tra.
1.3.4. Nâng cao trách nhiệm của các Cơ quan tư pháp trong việc giải
quyết các trường hợp oan sai do người có thẩm quyền tố tụng gây ra
Từ yêu cầu minh oan công khai, truy cứu trách nhiệm cá nhân người có
thẩm quyền (Hội nghị Trung ương 8 khóa VII); khắc phục những biểu hiện
giữa khuynh trong đấu tranh chống tội phạm, đồng thời chống tình trạng bắt và
giam giữ oan sai, xét xử không công minh, vi phạm quyền dân chủ của công
dân (Hội nghị Trung ương 3 khóa VIII) đến yêu cầu khẩn trương ban hành và
tổ chức thực hiện nghiêm túc các văn bản pháp luật về bồi thường thiệt hại đối
với những trường hợp bị oan sai trong hoạt động tố tụng, nghiên cứu xây dựng
Quỹ bồi thường thiệt hại về tư pháp (Nghị quyết số 08 của Bộ Chính trị).
1.3.5. Xây dựng đội ngũ cán bộ, các chức danh tư pháp trong sạch –
vững mạnh
- Xây dựng đội ngũ Thẩm phán, Thư ký, Kiểm sát viên, Điều tra
viên…về cơ bản đủ số lượng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, có phẩm chất chính
trị và đạo đức chí công vô tư, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững vàng,
trong sạch, vững mạnh; tiêu chuẩn hóa các chức danh tư pháp theo hướng
nâng cao tiêu chuẩn về chính trị, đạo đức, có trình độ đại học luật và được đào
36
tạo về kỹ năng nghề nghiệp theo chức danh; tiến tới thực hiện thi sát hạch
trước khi bổ nhiệm; lập quy hoạch tuyển chọn, đào tạo, sử dụng cán bộ tư
pháp theo từng loại chức danh với tiêu chuẩn cụ thể; quy định thời hạn bổ
nhiệm các chức danh tư pháp, cải tiến bổ nhiệm theo hướng gọn, kịp thời,
đảm bảo dân chủ, công khai; thực hiện luân chuyển cán bộ tư pháp giữa các
cấp và có chế độ, chính sách phù hợp để thực hiện việc luân chuyển đó.
- Hoàn thiện cơ chế lựa chọn, bầu cử, bồi dưỡng, quản lý và nâng cao
chất lượng của Hội thẩm nhân dân, để cao trách nhiệm và vai trò của Hội
thẩm nhân dân trong xét xử.
- Tăng cường thanh tra, kiểm tra, đánh giá, xử lý kịp thời, nghiêm minh
những cán bộ yếu kém, vi phạm kỷ luật.
- Thống nhất đầu mối đào tạo nghề nghiệp cho các chức danh tư pháp,
riêng Điều tra viên do Bộ Công an đào tạo.
1.3.6. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, đổi mới chế độ, chính sách
đảm bảo điều kiện cho cơ quan, cán bộ tư pháp hoạt động hiệu quả
- Đảm bảo đủ các điều kiện tối thiểu về trụ sở, phương tiện làm việc để
từng bước hiện đại hóa các cơ quan tư pháp phù hợp với chủ trương tăng
thẩm quyền xét xử cho các Tòa án cấp huyện.
- Chính sách, chế độ lương, phụ cấp trách nhiệm, đãi ngộ phù hợp với
đặc thù và vị trí tôn vinh của nghề nghiệp các chức danh tư pháp.
1.3.7. Đổi mới và củng cố mối quan hệ giữa hệ thống tư pháp với
Nhân dân
- Huy động sự tham gia rộng rãi và tích cực của nhân dân vào công tác
tư pháp, phòng chống vi phạm pháp luật ngay ở địa bàn dân cư; nâng cao hiệu
quả của các hình thức giải quyết tranh chấp ngoài Tòa án như hòa giải, trọng
tài góp phần xử lý đúng, nhanh chóng các mâu thuẫn, khiếu kiện trong Nhân
dân, giảm nhẹ công việc cho Tòa án và các cơ quan Nhà nước khác.
37
- Tăng cường và nâng cao hiệu quả giám sát của các cơ quan đại biểu
Nhân dân, các tổ chức xã hội và Nhân dân đối với cơ quan hoạt động tư
pháp. Đẩy mạnh công cuộc giải thích pháp luật, phổ biến, giáo dục pháp luật
về tư pháp, nhất là thông qua các hoạt động tư pháp cụ thể như các phiên tòa
xét xử lưu động của Tòa án để nâng cao ý thức pháp luật của Nhân dân, tăng
cường sự hiểu biết và niềm tin của Nhân dân vào cơ quan tư pháp và nền
công lý nước nhà.
38
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ
MỐI QUAN HỆ GIỮA HOẠT ĐỘNG CÔNG TỐ VÀ XÉT XỬ
2.1. Khái quát chung về hoạt động tố tụng hình sự
Mô hình tố tụng hình sự nước ta trong quá trình phát triển chịu ảnh
hưởng lớn từ mô hình tố tụng Pháp và Xô Viết (hai mô hình tố tụng hình sự
vốn bắt nguồn từ truyền thống luật Châu Ân lục địa) và đã tiếp thu đậm nét
những yếu tố của mô hình tố tụng thẩm vấn. Hệ thống pháp luật, hệ thống tư
pháp của Pháp đã hiện diện ở nước ta trong gần 100 năm, bên cạnh hệ thống
pháp luật và hệ thống tư pháp phong kiến bản xứ - đã ảnh hưởng sâu sắc đến
truyền thống, tư duy pháp lý ở nước ta. Các Bộ luật tố tụng hình sự được ban
hành và áp dụng trong thời kỳ Pháp thuộc là sự sao chép cơ bản Bộ luật tố
tụng hình sự của Pháp thời đó. Sau năm 1945, từ Hiến pháp năm 1959 đến
Hiến pháp 1980, tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ quan tư pháp và hệ
thống pháp luật nước ta chịu sự ảnh hưởng mạnh mẽ của mô hình Xô Viết.
Trong lĩnh vực tố tụng hình sự, sự ảnh hưởng này được thể hiện đậm nét
trong Bộ luật tố tụng hình sự đầu tiên của nước ta ban hành năm 1988 và vẫn
tiếp tục ảnh hưởng trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. “Đến nay, tuy
trong quá trình phát triển, chúng ta đã tiếp thu một số hạt nhân của mô hình
tố tụng hình sự tranh tụng, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội
của thể của Việt Nam, nhưng mô hình tố tụng ở nước ta về cơ bản vẫn là mô
hình tố tụng hình sự thẩm vấn” 40.
Đặc trưng của mô hình tố tụng hình sự nước ta thể hiện quan những
điểm cơ bản sau:
- Tố tụng hình sự Việt Nam không coi vụ án hình sự là tranh chấp,
xung đột pháp lý giữa các bên:
39
Vụ án xẩy ra bị xem là đã xâm phạm tới trật tự công cộng, lợi ích
chung của xã hội và Nhà nước phải có trách nhiệm giải quyết. Việc giải quyết
vụ án hình sự phụ thuộc hoàn toàn vào ý trí của Nhà nước.
Do không coi vụ án hình sự là tranh chấp pháp lý giữa các bên nên tố
tụng hình sự nước ta không giải quyết vấn đề theo cách của mô hình tố tụng
hình sự tranh tụng là trang bị cho các bên sự “cân bằng về vũ khí” trong quá
trình giải quyết vụ án, mà giải quyết theo hướng trao chọn vẹn trách nhiệm và
thẩm quyền trong việc đi tìm sự thật của vụ án cho các cơ quan tiến hành tố
tụng, người tiến hành tố tụng. Trong tố tụng hình sự Việt Nam, không hình
thành một cách rõ nét về các bên, mà thay vào đó là vai trò tích cực, chủ động
của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo có
vai trò thụ động trong quá trình giải quyết vụ án, phụ thuộc rất lớn vào các cơ
quan tiến hành tố tụng và gần như là đối tượng xem xét của các cơ quan tiến
hành tố tụng. Người bị hại không có quyền lựa chọn cách thức giải quyết vụ
việc. Khởi tố hay không khởi tố vụ án không phụ thuộc vào ý muốn của người
bị hại, mà hoàn toàn phụ thuộc vào quyết định của các cơ quan tiến hành tố
tụng (trừ một số ít vụ việc theo quy định của pháp luật).
- Tố tụng hình sự Việt Nam đặt mục tiêu tìm đến chân lý khách quan
của sự việc:
Mục tiêu xuyên suốt của tố tụng hình sự nước ta là tìm ra sự thật, tìm
đến chân lý khách quan của sự việc. Mục tiêu này chi phối mọi trình tự, thủ
tục, cũng như thẩm quyền của các chủ thể trong tố tụng hình sự.
Cách thức để đạt được mục tiêu này là pháp luật trao chọn vẹn trách
nhiệm tìm kiếm chứng cứ, xác định sự thật của vụ án cho các cơ quan tiến
hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Cũng xuất phát từ mục tiêu này,
trong tố tụng hình sự Việt Nam không tồn tại chế định “tuỳ nghi truy tố” hay
“mặc cả thú tội” như trong tố tụng hình sự tranh tụng. Việc phát hiện và xử lý
tội phạm mang tính bắt buộc.
Luận văn: Mối quan hệ giữa hoạt động công tố và xét xử, HAY
Luận văn: Mối quan hệ giữa hoạt động công tố và xét xử, HAY
Luận văn: Mối quan hệ giữa hoạt động công tố và xét xử, HAY
Luận văn: Mối quan hệ giữa hoạt động công tố và xét xử, HAY
Luận văn: Mối quan hệ giữa hoạt động công tố và xét xử, HAY
Luận văn: Mối quan hệ giữa hoạt động công tố và xét xử, HAY
Luận văn: Mối quan hệ giữa hoạt động công tố và xét xử, HAY
Luận văn: Mối quan hệ giữa hoạt động công tố và xét xử, HAY
Luận văn: Mối quan hệ giữa hoạt động công tố và xét xử, HAY
Luận văn: Mối quan hệ giữa hoạt động công tố và xét xử, HAY
Luận văn: Mối quan hệ giữa hoạt động công tố và xét xử, HAY
Luận văn: Mối quan hệ giữa hoạt động công tố và xét xử, HAY
Luận văn: Mối quan hệ giữa hoạt động công tố và xét xử, HAY
Luận văn: Mối quan hệ giữa hoạt động công tố và xét xử, HAY
Luận văn: Mối quan hệ giữa hoạt động công tố và xét xử, HAY
Luận văn: Mối quan hệ giữa hoạt động công tố và xét xử, HAY
Luận văn: Mối quan hệ giữa hoạt động công tố và xét xử, HAY
Luận văn: Mối quan hệ giữa hoạt động công tố và xét xử, HAY
Luận văn: Mối quan hệ giữa hoạt động công tố và xét xử, HAY
Luận văn: Mối quan hệ giữa hoạt động công tố và xét xử, HAY
Luận văn: Mối quan hệ giữa hoạt động công tố và xét xử, HAY
Luận văn: Mối quan hệ giữa hoạt động công tố và xét xử, HAY
Luận văn: Mối quan hệ giữa hoạt động công tố và xét xử, HAY
Luận văn: Mối quan hệ giữa hoạt động công tố và xét xử, HAY
Luận văn: Mối quan hệ giữa hoạt động công tố và xét xử, HAY
Luận văn: Mối quan hệ giữa hoạt động công tố và xét xử, HAY
Luận văn: Mối quan hệ giữa hoạt động công tố và xét xử, HAY
Luận văn: Mối quan hệ giữa hoạt động công tố và xét xử, HAY
Luận văn: Mối quan hệ giữa hoạt động công tố và xét xử, HAY
Luận văn: Mối quan hệ giữa hoạt động công tố và xét xử, HAY
Luận văn: Mối quan hệ giữa hoạt động công tố và xét xử, HAY
Luận văn: Mối quan hệ giữa hoạt động công tố và xét xử, HAY
Luận văn: Mối quan hệ giữa hoạt động công tố và xét xử, HAY
Luận văn: Mối quan hệ giữa hoạt động công tố và xét xử, HAY
Luận văn: Mối quan hệ giữa hoạt động công tố và xét xử, HAY
Luận văn: Mối quan hệ giữa hoạt động công tố và xét xử, HAY
Luận văn: Mối quan hệ giữa hoạt động công tố và xét xử, HAY
Luận văn: Mối quan hệ giữa hoạt động công tố và xét xử, HAY
Luận văn: Mối quan hệ giữa hoạt động công tố và xét xử, HAY
Luận văn: Mối quan hệ giữa hoạt động công tố và xét xử, HAY
Luận văn: Mối quan hệ giữa hoạt động công tố và xét xử, HAY
Luận văn: Mối quan hệ giữa hoạt động công tố và xét xử, HAY
Luận văn: Mối quan hệ giữa hoạt động công tố và xét xử, HAY
Luận văn: Mối quan hệ giữa hoạt động công tố và xét xử, HAY
Luận văn: Mối quan hệ giữa hoạt động công tố và xét xử, HAY
Luận văn: Mối quan hệ giữa hoạt động công tố và xét xử, HAY
Luận văn: Mối quan hệ giữa hoạt động công tố và xét xử, HAY
Luận văn: Mối quan hệ giữa hoạt động công tố và xét xử, HAY
Luận văn: Mối quan hệ giữa hoạt động công tố và xét xử, HAY
Luận văn: Mối quan hệ giữa hoạt động công tố và xét xử, HAY
Luận văn: Mối quan hệ giữa hoạt động công tố và xét xử, HAY
Luận văn: Mối quan hệ giữa hoạt động công tố và xét xử, HAY
Luận văn: Mối quan hệ giữa hoạt động công tố và xét xử, HAY
Luận văn: Mối quan hệ giữa hoạt động công tố và xét xử, HAY
Luận văn: Mối quan hệ giữa hoạt động công tố và xét xử, HAY
Luận văn: Mối quan hệ giữa hoạt động công tố và xét xử, HAY
Luận văn: Mối quan hệ giữa hoạt động công tố và xét xử, HAY
Luận văn: Mối quan hệ giữa hoạt động công tố và xét xử, HAY
Luận văn: Mối quan hệ giữa hoạt động công tố và xét xử, HAY
Luận văn: Mối quan hệ giữa hoạt động công tố và xét xử, HAY
Luận văn: Mối quan hệ giữa hoạt động công tố và xét xử, HAY
Luận văn: Mối quan hệ giữa hoạt động công tố và xét xử, HAY
Luận văn: Mối quan hệ giữa hoạt động công tố và xét xử, HAY
Luận văn: Mối quan hệ giữa hoạt động công tố và xét xử, HAY
Luận văn: Mối quan hệ giữa hoạt động công tố và xét xử, HAY

More Related Content

What's hot

Phối hợp giữa cơ quan thi hành án dân sự với các cơ quan khác, 9đ - Gửi miễn...
Phối hợp giữa cơ quan thi hành án dân sự với các cơ quan khác, 9đ  - Gửi miễn...Phối hợp giữa cơ quan thi hành án dân sự với các cơ quan khác, 9đ  - Gửi miễn...
Phối hợp giữa cơ quan thi hành án dân sự với các cơ quan khác, 9đ - Gửi miễn...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

What's hot (20)

Luận văn: Chức năng buộc tội trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Luận văn: Chức năng buộc tội trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sựLuận văn: Chức năng buộc tội trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Luận văn: Chức năng buộc tội trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
 
Luận văn: Quản lý về hoạt động thi hành án dân sự hiện nay, HAY
Luận văn: Quản lý về hoạt động thi hành án dân sự hiện nay, HAYLuận văn: Quản lý về hoạt động thi hành án dân sự hiện nay, HAY
Luận văn: Quản lý về hoạt động thi hành án dân sự hiện nay, HAY
 
Luận văn: Chủ thể buộc tội trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Chủ thể buộc tội trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Chủ thể buộc tội trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Chủ thể buộc tội trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
 
Đề tài: Vai trò của Thẩm phán Toà án trong hoạt động xét xử, HAY
Đề tài: Vai trò của Thẩm phán Toà án trong hoạt động xét xử, HAYĐề tài: Vai trò của Thẩm phán Toà án trong hoạt động xét xử, HAY
Đề tài: Vai trò của Thẩm phán Toà án trong hoạt động xét xử, HAY
 
Luận văn: Địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng hình sự, HOT
 
Luận văn: Thụ lý vụ án dân sự theo trình tự sơ thẩm, HAY
Luận văn: Thụ lý vụ án dân sự theo trình tự sơ thẩm, HAYLuận văn: Thụ lý vụ án dân sự theo trình tự sơ thẩm, HAY
Luận văn: Thụ lý vụ án dân sự theo trình tự sơ thẩm, HAY
 
Đề tài: Nguyên tắc tranh tụng trong bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
Đề tài: Nguyên tắc tranh tụng trong bộ luật tố tụng hình sự năm 2015Đề tài: Nguyên tắc tranh tụng trong bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
Đề tài: Nguyên tắc tranh tụng trong bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
 
Luận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Quận 12
Luận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Quận 12Luận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Quận 12
Luận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Quận 12
 
Luận văn: Giải quyết khiếu nại về thi hành án dân sự tại Nghệ An
Luận văn: Giải quyết khiếu nại về thi hành án dân sự tại Nghệ AnLuận văn: Giải quyết khiếu nại về thi hành án dân sự tại Nghệ An
Luận văn: Giải quyết khiếu nại về thi hành án dân sự tại Nghệ An
 
Luận văn: Xác minh điều kiện thi hành án theo pháp luật, HOT
Luận văn: Xác minh điều kiện thi hành án theo pháp luật, HOTLuận văn: Xác minh điều kiện thi hành án theo pháp luật, HOT
Luận văn: Xác minh điều kiện thi hành án theo pháp luật, HOT
 
Luận văn: Địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong tố tụng hành chính
Luận văn: Địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong tố tụng hành chínhLuận văn: Địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong tố tụng hành chính
Luận văn: Địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong tố tụng hành chính
 
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sựLuận văn: Tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự
 
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sựLuận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự
 
Luận văn: Phong tỏa tài khoản trong thi hành án dân sự, HAY
Luận văn: Phong tỏa tài khoản trong thi hành án dân sự, HAYLuận văn: Phong tỏa tài khoản trong thi hành án dân sự, HAY
Luận văn: Phong tỏa tài khoản trong thi hành án dân sự, HAY
 
Luận văn: Tranh tụng của luật sư tại phiên tòa hình sự tại Hà Nội
Luận văn: Tranh tụng của luật sư tại phiên tòa hình sự tại Hà NộiLuận văn: Tranh tụng của luật sư tại phiên tòa hình sự tại Hà Nội
Luận văn: Tranh tụng của luật sư tại phiên tòa hình sự tại Hà Nội
 
Luận văn: Thi hành án dân sự tại thị xã Phổ Yên, Thái Nguyên
Luận văn: Thi hành án dân sự tại thị xã Phổ Yên, Thái NguyênLuận văn: Thi hành án dân sự tại thị xã Phổ Yên, Thái Nguyên
Luận văn: Thi hành án dân sự tại thị xã Phổ Yên, Thái Nguyên
 
Phối hợp giữa cơ quan thi hành án dân sự với các cơ quan khác, 9đ - Gửi miễn...
Phối hợp giữa cơ quan thi hành án dân sự với các cơ quan khác, 9đ  - Gửi miễn...Phối hợp giữa cơ quan thi hành án dân sự với các cơ quan khác, 9đ  - Gửi miễn...
Phối hợp giữa cơ quan thi hành án dân sự với các cơ quan khác, 9đ - Gửi miễn...
 
Luận văn: Xây dựng và áp dụng án lệ giải quyết tranh chấp dân sự
Luận văn: Xây dựng và áp dụng án lệ giải quyết tranh chấp dân sựLuận văn: Xây dựng và áp dụng án lệ giải quyết tranh chấp dân sự
Luận văn: Xây dựng và áp dụng án lệ giải quyết tranh chấp dân sự
 
Luận văn: Quản lý nhà nước về luật sư tại tỉnh Tiền Giang, HAY
Luận văn: Quản lý nhà nước về luật sư tại tỉnh Tiền Giang, HAYLuận văn: Quản lý nhà nước về luật sư tại tỉnh Tiền Giang, HAY
Luận văn: Quản lý nhà nước về luật sư tại tỉnh Tiền Giang, HAY
 
Luận văn: Tố tụng hình sự và vấn đề áp dụng tố tụng tranh tụng
Luận văn: Tố tụng hình sự và vấn đề áp dụng tố tụng tranh tụngLuận văn: Tố tụng hình sự và vấn đề áp dụng tố tụng tranh tụng
Luận văn: Tố tụng hình sự và vấn đề áp dụng tố tụng tranh tụng
 

Similar to Luận văn: Mối quan hệ giữa hoạt động công tố và xét xử, HAY

BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.14...
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.14...BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.14...
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.14...OnTimeVitThu
 
BÁO CÁO TỐT NGHIỆP TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
BÁO CÁO TỐT NGHIỆP TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰBÁO CÁO TỐT NGHIỆP TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
BÁO CÁO TỐT NGHIỆP TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰOnTimeVitThu
 
TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: ...
 TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH  >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: ... TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH  >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: ...
TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: ...OnTimeVitThu
 
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...
 BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI  CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777... BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI  CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...OnTimeVitThu
 
Xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên Huế
Xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên HuếXét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên Huế
Xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên Huếluanvantrust
 
Xét xử phúc thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
Xét xử phúc thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng NaiXét xử phúc thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
Xét xử phúc thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng NaiDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 

Similar to Luận văn: Mối quan hệ giữa hoạt động công tố và xét xử, HAY (20)

Luận văn: Mối quan hệ giữa điều tra và công tố, HOT
Luận văn: Mối quan hệ giữa điều tra và công tố, HOTLuận văn: Mối quan hệ giữa điều tra và công tố, HOT
Luận văn: Mối quan hệ giữa điều tra và công tố, HOT
 
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAYLuận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
 
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.14...
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.14...BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.14...
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.14...
 
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOTLuận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
 
BÁO CÁO TỐT NGHIỆP TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
BÁO CÁO TỐT NGHIỆP TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰBÁO CÁO TỐT NGHIỆP TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
BÁO CÁO TỐT NGHIỆP TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
 
Luận văn: Xét hỏi của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm
Luận văn: Xét hỏi của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩmLuận văn: Xét hỏi của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm
Luận văn: Xét hỏi của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm
 
Luận văn: Xét hỏi của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm
Luận văn: Xét hỏi của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩmLuận văn: Xét hỏi của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm
Luận văn: Xét hỏi của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm
 
TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: ...
 TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH  >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: ... TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH  >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: ...
TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: ...
 
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...
 BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI  CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777... BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI  CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...
 
Luận án: Chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án, HAY
Luận án: Chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án, HAYLuận án: Chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án, HAY
Luận án: Chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án, HAY
 
Luận văn: Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hình sự theo luật
Luận văn: Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hình sự theo luật Luận văn: Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hình sự theo luật
Luận văn: Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hình sự theo luật
 
Xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên Huế
Xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên HuếXét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên Huế
Xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên Huế
 
Xét xử phúc thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
Xét xử phúc thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng NaiXét xử phúc thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
Xét xử phúc thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
 
Đề tài: Chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát
Đề tài: Chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sátĐề tài: Chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát
Đề tài: Chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát
 
Giải Quyết Vụ Án Hành Chính Tại Tòa Án Tỉnh Đồng Nai
Giải Quyết Vụ Án Hành Chính Tại Tòa Án Tỉnh Đồng NaiGiải Quyết Vụ Án Hành Chính Tại Tòa Án Tỉnh Đồng Nai
Giải Quyết Vụ Án Hành Chính Tại Tòa Án Tỉnh Đồng Nai
 
Đề tài: Tính hợp pháp và tính hợp lý của quyết định hành chính, HAY
Đề tài: Tính hợp pháp và tính hợp lý của quyết định hành chính, HAYĐề tài: Tính hợp pháp và tính hợp lý của quyết định hành chính, HAY
Đề tài: Tính hợp pháp và tính hợp lý của quyết định hành chính, HAY
 
Luận văn: Địa vị pháp lý của Thẩm tra viên thi hành án dân sự
Luận văn: Địa vị pháp lý của Thẩm tra viên thi hành án dân sựLuận văn: Địa vị pháp lý của Thẩm tra viên thi hành án dân sự
Luận văn: Địa vị pháp lý của Thẩm tra viên thi hành án dân sự
 
Đề tài: Pháp luật về vi phạm hành chính trong hành nghề luật sư
Đề tài: Pháp luật về vi phạm hành chính trong hành nghề luật sưĐề tài: Pháp luật về vi phạm hành chính trong hành nghề luật sư
Đề tài: Pháp luật về vi phạm hành chính trong hành nghề luật sư
 
Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân
Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dânTổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân
Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân
 
Luận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng Nai
Luận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng NaiLuận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng Nai
Luận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng Nai
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdfTrnHoa46
 
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảoKiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảohoanhv296
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docxTHAO316680
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢImyvh40253
 
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-KhnhHuyn546843
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanmyvh40253
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfNguyen Thanh Tu Collection
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...hoangtuansinh1
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (20)

ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảoKiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 

Luận văn: Mối quan hệ giữa hoạt động công tố và xét xử, HAY

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THANH TÙNG MèI QUAN HÖ GI÷A HO¹T §éNG C¤NG Tè Vµ HO¹T §éNG XÐT Xö THEO Y£U CÇU CñA C¶I C¸CH T¦ PH¸P Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật Mã số: 60 38 01 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. ĐẶNG MINH TUẤN HÀ NỘI - 2014
  • 2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Nguyễn Thanh Tùng
  • 3. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA HOẠT ĐỘNG CÔNG TỐ VÀ XÉT XỬ THEO YÊU CẦU CẢI CÁCH TƢ PHÁP....................................................................... 7 1.1. Khái niệm hoạt động công tố và xét xử............................................ 7 1.1.1. Khái niệm hoạt động công tố ............................................................... 7 1.1.2. Khái niệm hoạt động xét xử...............................................................17 1.2. Căn cứ xác lập mối quan hệ giữa hoạt động công tố và hoạt động xét xử........................................................................................20 1.2.1. Các nguyên tắc tổ chức của hệ thống tư pháp....................................20 1.2.2. Các nguyên tắc tố tụng hình sự..........................................................25 1.3. Những yêu cầu của việc cải cách tƣ pháp đối với việc hoàn thiện mối quan hệ giữa hoạt động công tố và xét xử ....................30 1.3.1. Về đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án.....................................32 1.3.2. Về đổi mới tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát .........................34 1.3.3. Về đổi mới tổ chức và hoạt động của Cơ quan điều tra.....................34 1.3.4. Nâng cao trách nhiệm của các Cơ quan tư pháp trong việc giải quyết các trường hợp oan sai do người có thẩm quyền tố tụng gây ra ..................................................................................................35 1.3.5. Xây dựng đội ngũ cán bộ, các chức danh tư pháp trong sạch – vững mạnh..........................................................................................35
  • 4. 1.3.6. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, đổi mới chế độ, chính sách đảm bảo điều kiện cho cơ quan, cán bộ tư pháp hoạt động hiệu quả............36 1.3.7. Đổi mới và củng cố mối quan hệ giữa hệ thống tư pháp với Nhân dân............................................................................................36 Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA HOẠT ĐỘNG CÔNG TỐ VÀ XÉT XỬ ............................38 2.1. Khái quát chung về hoạt động tố tụng hình sự .............................38 2.2. Mối quan hệ giữa hoạt động công tố và xét xử theo pháp luật hiện hành...........................................................................................45 2.2.1. Mối quan hệ phối hợp giữa hoạt động công tố và xét xử ..................46 2.2.2. Mối quan hệ chế ước giữa hoạt động công tố và xét xử....................48 2.3. Những bất cập của pháp luận hiện hành về mối quan hệ giữa hoạt động công tố và xét xử.............................................................50 2.3.1. Vấn đề truy tố và rút truy tố...............................................................53 2.3.2. Vấn đề trả hồ sơ để điều tra bổ sung..................................................58 2.3.3. Vấn đề giới hạn xét xử .......................................................................62 2.3.4. Vấn đề khởi tố vụ án hình sự .............................................................72 2.3.5. Vấn đề Toà án xác định sự thật của vụ án..........................................74 Chƣơng 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN MỐI QUAN HỆ GIỮA HOẠT ĐỘNG CÔNG TỐ VÀ XÉT XỬ.........76 3.1. Quan điểm hoàn thiện mối quan hệ giữa hoạt động công tố và xét xử ............................................................................................76 3.1.1. Xây dựng Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân ............76 3.1.2. Cải cách tư pháp phải được đặt trong quá trình đổi mới hệ thống chính trị và hoàn thiện bộ máy Nhà nước..........................................80 3.1.3. Cải cách tư pháp phải kết hợp chặt chẽ với cải cách nền hành chính Nhà nước ..................................................................................80
  • 5. 3.2. Giải pháp hoàn thiện mối quan hệ giữa hoạt động công tố và xét xử............................................................................................88 3.2.1. Sửa đổi Luật tổ chức Tòa án nhân dân...............................................88 3.2.2. Sửa đổi Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân ...................................93 3.2.3. Sửa đổi Bộ luật tố tụng hình sự..........................................................96 KẾT LUẬN....................................................................................................99 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................101
  • 6. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Những năm qua, Đảng và Nhà nước ta không ngừng đổi mới, phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Để thực hiện mục tiêu đó, một trong những nhiệm vụ quan trọng hiện nay của Nhà nước là phải đẩy mạnh công cuộc cải cách tư pháp, chú trọng đến việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, nhằm đảm bảo cho các cơ quan nhà nước nói chung và các cơ quan tư pháp nói riêng hoạt động hiệu quả. Các quan điển này được tiếp tục khẳng định và phát triển trong các Văn kiện Đại hội Đảng và các Nghị quyết Trung ương của Đảng ta trong những năm gần đây. Về hoàn thiện hệ thống pháp luật và cải cách tư pháp, trong văn kiện Đại hội đại biển toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã chỉ rõ: …Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật làm cơ sở cho tổ chức và hoạt động của hệ thống các cơ quan tư pháp trước yêu cầu đổi mới… bảo đảm cho mọi vi phạm đều bị xử lý, mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, bảo đảm quyền làm chủ của công dân… 6. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã đề ra các biện pháp tiến hành cải cách tư pháp ở nước ta là: “…Tiếp tục cải cách, kiện toàn, nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp theo nguyên tắc nâng cao tinh thần trách nhiệm, làm tốt các công tác điều tra, truy tố, xét xử…” 9. Các yêu cầu của cải cách tư pháp đã được Bộ Chính trị Ban chấp hành
  • 7. 2 Trung ương Đảng chỉ rõ trong Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, trong đó xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và hoàn thiện tổ chức, bộ máy các cơ quan tư pháp, xác định Toà án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm; Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp… Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X và XI, Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục nghi nhận các nội dung: Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; Hoàn thiện hệ thống pháp luật; Xây dựng hệ thống cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh; Đẩy mạnh việc thực hiện chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, lấy cải cách hoạt động xét xử làm trọng tâm, thực hiện cơ chế công tố gắn với hoạt động điều tra… Theo tinh thần trên, các cơ quan tư pháp nói chung; Viện kiểm sát nhân dân và Toà án nhân dân nói riêng đã có nhiều cố gắng trong việc góp phần xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan, tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mỗi cơ quan. Tuy nhiên, thực tế áp dụng pháp luật cho thấy việc nhận thức và thể hiện mối quan hệ giữa các Cơ quan tư pháp nói chung, Cơ quan thực hiện hoạt động công tố và Cơ quan thực hiện hoạt động xét xử nói riêng vẫn chưa đúng: Hoặc là quá coi trọng quan hệ phối hợp mà quên đi trách nhiệm chế ước; Quá nặng về chế ước dẫn đến đối đầu, cản chở, gây khó khăn cho nhau trong việc thực hiện nhiệm vụ. Bên cạnh đó là sự chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm, chưa có sự phân biệt rành mạch giữa các Cơ quan tư pháp nói chung, Cơ quan thực hiện chức năng công tố và Cơ quan thực hiện chức năng xét xử nói riêng.
  • 8. 3 Với những lý do trên, việc nghiên cứu đề tài “Mối quan hệ giữa hoạt động công tố và hoạt động xét xử theo yêu cầu của cải cách tư pháp” có ý nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn sâu sắc. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong những năm gần đây đã có nhiều công trình khoa học, nhiều nhà nghiên cứu lý luận và thực tiễn ở mức độ khác nhau đề cập đến các vấn đề tổ chức và hoạt động của cơ quan tư pháp nói chung, hoạt động của Cơ quan thực hiện chức năng công tố và xét xử nói riêng… Qua tìm hiểu các tài liệu hiện hành cho thấy các công trình khoa học tập trung nghiên cứu theo những khía cạnh sau: - Nhóm nghiên cứu chung gồm: Lê Hữu Thể: Hoàn thiện mô hình tố tụng hình sự Việt Nam theo yêu cầu cải cách tư pháp (Tạp chí chuyên ngành), Hà Nội, 2011; Nguyễn Thái Phúc: Viện kiểm sát hay viện công tố (Tạp chí chuyên ngành), Hà Nội, 2007; Ngô Văn Đọn (Chủ biên): Nâng cao chất lượng kiểm sát hoạt động tư pháp và thực hành quyền công tố với vấn đề thông khâu và chuyên khâu trong các công tác kiểm sát hình sự, (Đề tài khoa học cấp bộ), Hà Nội, 2004; Lê Cảm: Bàn về tổ chức quyền tư pháp-nội dung cơ bản của chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, (Tạp chí chuyên ngành), Hà Nội, 2005; Phạm Hồng Hải: Đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống các cơ quan thực hiện chức năng thực hành quyền công tố đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp (Tạp chí chuyên ngành), Hà Nội, 2006; Đỗ Văn Đương: Cơ quan thực hành quyền công tố trong cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay (Tạp chí chuyên ngành), Hà Nội, 2006; Trần Văn Độ: Phân định thẩm quyền trong tố tụng hình sự (Tạp chí chuyên ngành), Hà Nội, 2008. - Nhóm nghiên cứu về hoạt động công tố và hoạt động xét xử: Lê Hữu Thể (Chủ biên): Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra (Sách tham khảo), Nxb Tư
  • 9. 4 pháp, Hà Nội, 2005; Lê Thị Tuyết Hoa: Quyền công tố ở Việt Nam, (Luận án tiến sỹ luật học), Hà Nội, 2002; Nguyễn Trương Tín: Mối quan hệ giữa tranh tụng trong tố tụng hình sự với chức năng xét xử của Toà án (Tạp trí chuyên ngành), Hà Nội, 2008; Nguyễn Minh Đức: Quyền công tố và tổ chức thực hiện quyền công tố trong nhà nước pháp quyền (Tạp chí chuyên ngành), Hà Nội, 2012. Những công trình khoa học, những bài viết trên đây đã tập trung nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của các Cơ quan tư pháp nói chung, Viện kiểm sát nhân dân, Toà án nhân dân nói riêng; Đồng thời đã có một số công trình, bài viết nghiên cứu về hoạt động công tố và hoạt động xét xử trên một số lĩnh vực cụ thể. Các công trình khoa học, các bài viết trên đây là những tài liệu tham khảo có giá trị để nghiên cứu và hoàn thiện đề tài luận văn. 3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài - Mục đích: Trên cơ sở các quan điểm của Đảng và yêu cầu của cải cách tư pháp; Luận văn phân tích những quy định của pháp luật hiện hành về tổ chức và hoạt động; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan thực hiện chức năng công tố và xét xử; mối quan hệ giữa hoạt động công tố và hoạt động xét xử; chỉ ra những tồn tại và vướng mắc, sự chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan này trong mối quan hệ trên để từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan nhằm xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và hoàn thiện tổ chức, bộ máy Cơ quan thực hiện chức năng công tố và xét xử theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay. - Nhiệm vụ của luận văn: Để thực hiện mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ sau: + Phân tích cơ sở lý luận chung về chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, tổ chức, bộ máy các Cơ quan thực hiện hoạt động công tố và xét xử; mối quan hệ giữa hoạt động công tố và xét xử theo yêu cầu cải cách tư pháp.
  • 10. 5 + Nghiên cứu, đánh giá thực trạng pháp luật hiện hành về mối quan hệ giữa hoạt động công tố và xét xử theo yêu cầu cải cách tư pháp. Trên cơ sở đó chỉ ra những tồn tại và vướng mắc, sự chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan này. + Đề xuất những phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật liên quan đến việc xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và hoàn thiện tổ chức, bộ máy các cơ quan tư pháp, xác định Toà án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm, Viện kiểm sát thực hành quyền công tố, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam. 4. Đối tƣợng và phƣơng pháp nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Trong khuôn khổ chuyên ngành lý luận về lịch sử nhà nước và pháp luật, luận văn tập trung nghiên cứu, phân tích một số vấn đề lý luận và thực trạng pháp luật về chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và hoàn thiện tổ chức, bộ máy các Cơ quan thực hiện chức năng công tố và xét xử đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay. - Cơ sở lý luận của luận văn: Cơ sở lý luận của luận văn là học thuyết Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nước và pháp luật liên quan đến tổ chức và hoạt động của các Cơ quan tư pháp nói chung, hoạt động công tố và xét xử nói riêng. - Phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu: Phân tích - tổng hợp, lịch sử - cụ thể; Kết hợp với các phương pháp nghiên cứu khác như: So sánh, thống kê, điều tra xã hội học. 5. Điểm mới và những đóng góp của đề tài Luận văn là tài liệu chuyên khảo nghiên cứu, đề xuất giải pháp hoàn
  • 11. 6 thiện pháp luật về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức và hoạt động của Cơ quan thực hiện chức năng công tố và xét xử, cũng như mối quan hệ giữa các cơ quan này theo yêu cầu của cải cách tư pháp. Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho những người làm công tác lý luận và thực tiễn, đồng thời có thể được sử dụng cho việc nghiên cứu và giảng dạy. Vì vậy, có một số đặc điểm sau: - Làm rõ một số khái niệm, nội dung, phạm vi, các yêu cầu của cải cách tư pháp đối với tổ chức và hoạt động; chức năng và nhiệm vụ của các Cơ quan thực hiện chức năng công tố và xét xử. - Chỉ ra những tồn tại, bất cập của pháp luật và áp dụng pháp luật hiện hành về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức và hoạt động…. của các Cơ quan thực hiện hoạt động công tố và xét xử. - Đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện tổ chức và hoạt động; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các Cơ quan thực hiện hoạt động công tố và xét xử đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề cơ bản về mối quan hệ giữa hoạt động công tố và xét xử theo yêu cầu cải cách tư pháp Chương 2: Thực trạng pháp luật về mối quan hệ giữa hoạt động công tố và xét xử ở Việt Nam Chương 3: Quan điểm và giải pháp hoàn thiện mối quan hệ giữa hoạt động công tố và xét xử.
  • 12. 7 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA HOẠT ĐỘNG CÔNG TỐ VÀ XÉT XỬ THEO YÊU CẦU CẢI CÁCH TƢ PHÁP 1.1. Khái niệm hoạt động công tố và xét xử 1.1.1. Khái niệm hoạt động công tố * Quyền công tố Trên thế giới, “quyền công tố” đã xuất hiện từ thời kỳ xa xưa của xã hội loài người. Quyền công tố là một khái niệm pháp lý gắn liền với bản chất của Nhà nước, là một bộ phận cấu thành và không thể tách rời khỏi công quyền. Quyền công tố có trong tất cả các kiểu Nhà nước; nó ra đời, tồn tại và mất đi cùng với Nhà nước và pháp luật. Khi mới có Nhà nước, quyền công tố chỉ giới hạn trong phạm vi rất hẹp để bảo vệ các lợi ích của giai cấp thống trị. Cùng với sự phát triển của xã hội, nhận thức về lợi ích công và lợi ích tư, về trách nhiệm của Nhà nước đối với xã hội và cá nhân ngày càng có những thay đổi: Lợi ích cá nhân liên quan lợi ích công, tác động qua lại với nhau; chính vì vậy, cần có sự can thiệp của Nhà nước vào đời sống của cá nhân. Từ đó, vai trò công tố càng được đề cao trong xã hội. Tại Việt Nam, khoa học Luật tố tụng hình sự nói riêng cũng như khoa học pháp lý nói chung, chế định “quyền công tố” chưa được nghiên cứu một cách toàn diện; chính vì vậy chưa có khái niệm chính thống về quyền công tố. Mặc dù vậy, quyền công tố là một quyền năng quan trọng đã được Viện công tố thực hiện ở nước ta từ năm 1945; từ năm 1960 đến nay do Viện kiểm sát nhân dân thực hiện. Tuy nhiên hiểu thế nào là “công tố”, “quyền công tố”, bản chất và nội dung của nó là gì, thì hiện nay vẫn chưa có nhận thức, quan điểm thống nhất chung.
  • 13. 8 Có quan điểm cho rằng, công tố là “hoạt động tố tụng đối với các vụ mà trong đó động chạm trực tiếp hay gián tiếp đến các lợi ích của Nhà nước khi mà người đại diện của nó bị thiệt hại do sự vi phạm pháp luật”. Theo từ điển tiếng Việt, công tố có nghĩa là “điều tra, truy tố và buộc tội kẻ phạm tội trước Tòa án” 51, tr. 204. Từ điển Luật học lại ghi: Công tố là “quyền của Nhà nước truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội” 50, tr. 188. Thuật ngữ quyền công tố lần đầu tiên được nghi nhận tại Hiến pháp năm 1980; sau đó tại Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp năm 2013, Bộ luật tố tụng hình sự năm 1998, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1981, 1992 và 2002. Từ điển Luật học định nghĩa về quyền công tố như sau: “Quyền công tố là quyền buộc tội nhân danh Nhà nước đối với người phạm tội” 50, tr. 188. Hiện nay chưa có văn bản pháp luật nào của Nhà nước giải thích chính thức nội dung quyền công tố. Có nhiều quan điểm khác nhau về nội dung, lĩnh vực cũng như phạm vi chủ thể thực hiện quyền công tố. Nhưng về nội dung và phạm vi thực hành quyền công tố (những yếu tố cấu thành quyền công tố) là những yếu tố không thể thay đổi ở bất kỳ quốc gia nào. Nghiên cứu các tài liệu hiện hành có thể thấy một số quan điểm về quyền công tố như sau: - Quan điểm thứ nhất đồng nhất khái niệm quyền công tố với hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát nhân dân (trước Hiến pháp năm 1992). Quan điểm này xuất phát từ chức năng của Viện kiểm sát nhân dân để xem xét quyền công tố; theo đó, tất cả các hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật đều là thực hành quyền công tố. Có nghĩa là ngay cả khi Viện kiểm sát kiến nghị, yêu cầu các cơ quan Nhà nước khắc phục, sửa chữa những sai phạm của mình trên các lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội
  • 14. 9 thì đó cũng là hoạt động thực hành quyền công tố. Quan điểm này cho rằng công tố không phải là một chức năng độc lập của Viện kiểm sát, mà chỉ là một quyền năng, một hình thức hoạt động chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Đây là quan điểm khá phổ biến, đặc biệt là trong ngành Kiểm sát nhân dân từ năm 1960 cho đến khi Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 được ban hành. Cơ sở lập luận của quan điểm này chủ yếu dựa vào nội dung các điều luật được quy định trong Hiến pháp năm 1980 và 1992; Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1981 và 1992. Mặt khác, quan điểm này cũng chịu ảnh hưởng của các nhà tố tụng hình sự Liên Xô trước đây. Khái niệm quyền công tố theo quan điểm trên là chưa chính xác, vì đã đánh đồng quyền công tố với quyền kiểm sát việc tuân theo pháp luật, đồng thời cũng không phù hợp với các quy định của Hiến pháp và các Luật. - Quan điểm thứ hai cho rằng quyền công tố là quyền của Nhà nước giao cho Viện kiểm sát truy tố kẻ phạm tội ra Tòa án, thực hiện sự buộc tội tại phiên tòa (thực hành quyền công tố). Quan điểm này cho rằng việc thực hiện quyền công tố chỉ diễn ra trong giai đoạn xét xử sơ thẩm hình sự. Quan điểm này quá thu hẹp khái niệm, nội dung, cũng như phạm vi của quyền công tố. Về lý luận cũng như thực tế, hoạt động thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát tại Tòa án chỉ là một bộ phận trong nhiều hoạt động thực hiện chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát. - Quan điểm thứ ba cho rằng quyền công tố là quyền đại diện Nhà nước để đưa các vụ việc vi phạm trật tự pháp luật ra cơ quan xét xử để bảo vệ lợi ích của Nhà nước, bảo vệ trật tự pháp luật. Quan điểm này cho rằng quyền công tố xuất hiện từ khi có Nhà nước và pháp luật, được thể hiện đầu tiên trong tố tụng hình sự; cùng với sự phát triển của xã hội và của ngành luật, quyền công tố được mở rộng sang các lĩnh vực dân sự, kinh tế và lao động. Theo quan điểm này thì nội dung quyền công tố là tổng hợp các biện pháp tư
  • 15. 10 pháp đặc trưng theo luật định mà Viện kiểm sát có trách nhiệm thực hiện trong hoạt động tố tụng tư pháp; quyền công tố là một nội dung của hoạt động chức năng của Viện kiểm sát nhân dân trong lĩnh vực tố tụng hình sự, tố tụng dân sự và các lĩnh vực khác, nhằm bảo đảm mọi hành vi vi phạm pháp luật, hành vi phạm tội đều bị phát hiện, điều tra, xử lý theo pháp luật, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, tăng cường pháp chế thống nhất. Đây là quan điểm được đưa vào chương trình giảng dạy chính thức của Trường cao đẳng kiểm sát Hà Nội và thường xuyên được nhắc tới trong những văn bản hướng dẫn nghiệp vụ, các chuyên đề tổng kết trước đây của ngành Kiểm sát. Quan điểm này quá mở rộng quyền công tố, dẫn đến xóa nhòa ranh giới và tính đặc thù giữa tố tụng hình sự và các lĩnh vực tố tụng khác; đồng nhất quyền công tố với các quyền năng khác của Viện kiểm sát trong quá trình giải quyết các vụ án dân sự, kinh doanh thương mại, lao động và hành chính. - Quan điểm thứ tư cho rằng quyền công tố là quyền của Nhà nước giao cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự và áp dụng các chế tài hình sự đối với người phạm tội. Đó là hoạt động tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên và những người khác được pháp luật quy định có trách nhiệm xác định kẻ phạm tội cũng như các căn cứ để kết tội và áp dụng các hình phạt đối với người phạm tội. Quan điểm này đã đồng nhất khái niệm quyền công tố với nguyên tắc tố tụng hình sự đã được thừa nhận ở nhiều quốc gia trên thế giới. Theo đó, mọi tội phạm xẩy ra đều xâm phạm đến các lợi ích chung của toàn xã hội, kẻ phạm tội phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự và bị trừng trị bằng các chế tài hình sự. Việc truy cứu trách nhiệm hình sự và áp dụng hình phạt đối với người phạm tội được thực hiện bởi các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, đó là Cơ quan điều tra, Cơ quan Công tố, Cơ quan xét xử và thi hành án. Như
  • 16. 11 vậy, Tòa án, Cơ quan Thi hành án cũng là chủ thể thực hiện quyền công tố. Quan điểm này đã xóa nhòa danh giới giữa các chức năng buộc tội và chức năng xét xử trong tố tụng hình sự. - Quan điểm thứ năm cho rằng quyền công tố bao gồm quyền khởi tố, điều tra, truy tố và buộc tội bị cáo trước Tòa án. Đại diện cho quan điểm này là các Luật gia theo truyền thống pháp luật của Pháp. Theo họ, quyền công tố luôn gắn liền với hoạt động buộc tội nhân danh Nhà nước (nhân danh công quyền). Do vậy, quyền công tố chỉ được thực hiện trong một lĩnh vực duy nhất, đó là lĩnh vực tố tụng hình sự. Chủ thể tham gia vào hoạt động thực hành quyền công tố chỉ bao gồm: Cơ quan điều tra (Điều tra viên) và Cơ quan công tố (Công tố viên). Riêng quyền truy tố kẻ phạm tội ra Tòa án và thực hành quyền buộc tội nhân danh Nhà nước tại phiên tòa chỉ thuộc về Cơ quan công tố. Quyền công tố được sử dụng để bảo vệ không chỉ các lợi ích công (lợi ích chung của toàn xã hội), mà cả lợi ích của cá nhân khi bị hành vi phạm tội xâm hại. - Quan điểm thứ sáu cho rằng công tố là sự cáo buộc của Nhà nước đối với cá nhân, tổ chức đã vi phạm pháp luật, bao gồm vi phạm Luật hành chính, Luật dân sự, Luật kinh doanh thương mại và Luật hình sự; quyền công tố là quyền của Nhà nước thực hiện sự cáo buộc đó. Theo quan điểm này, quyền công tố chỉ thuộc về Nhà nước; Nhà nước không thể không thực hiện quyền công tố khi chính Nhà nước là người ban hành pháp luật, có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, và đồng thời là chủ thể tham gia vào nhiều quan hệ pháp luật khác nhau. Với tính cách là một quyền năng Nhà nước, quyền công tố được thực hiện trong tất cả các quá trình giải quyết các vi phạm pháp luật: Tố tụng hình sự, tố tụng dân sự, tố tụng kinh tế, tố tụng lao động, tố tụng hành chính. Sự tồn tại quyền công tố trong các hoạt động tố tụng nêu trên là do nhu cầu
  • 17. 12 khách quan, nên Nhà nước không thể không thực hiện quyền lực của mình trong việc giải quyết các vi phạm pháp luật và thực hiện công tố như một điều kiện đảm bảo tính hiệu quả của việc giải quyết các vi phạm pháp luật của cơ quan tài phán. Như vậy, quyền công tố trong các hoạt động tố tụng được biểu hiện cụ thể ở các quyền của Viện kiểm sát như quyền khởi tố vụ án (dân sự, hình sự, hành chính, lao động), quyền tham gia tố tụng ở bất cứ giai đoạn nào khi xét thấy cần thiết, quyền yêu cầu Tòa án hoặc tự mình điều tra, xác minh những vần đề cần làm sáng tỏ trong vụ án… Quyền công tố trong các hoạt động tố tụng khác nhau thì không giống nhau về nội dung và hình thức thực hiện. Trong tố tụng hình sự, thực hiện quyền công tố có nghĩa Nhà nước thực hiện sự buộc tội đối với một con người phạm tội cụ thể, còn trong các hoạt động tố tụng khác, thực hành quyền công tố được hiểu là việc Nhà nước trực tiếp hay gián tiếp quy lỗi cho một người, một tổ chức nào đó vi phạm pháp luật tương ứng. - Quan điểm thứ bảy cho rằng, quyền công tố là quyền của Nhà nước đưa các việc làm vi phạm pháp luật liên quan đến lợi ích chung ra Tòa án để xét xử, vì Nhà nước nhân danh xã hội duy trì trật tự chung bằng pháp luật. Sự can thiệp của Nhà nước vào các việc phạm pháp nói trên là do nhu cầu duy trì mọi xung đột xã hội gắn với trật tự công cộng mà trách nhiệm của Nhà nước phải đứng ra điều hòa; đó là bản chất của quyền lực công. Quyền công tố là quyền Nhà nước nhân danh xã hội truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với những người có hành vi phạm tội hoặc hành vi vi phạm pháp luật, nhằm mục đích duy trì trật tự cộng đồng, trật tự pháp luật, củng cố và phát triển các quan hệ xã hội. Như vậy, quyền công tố không chỉ trong lĩnh vực hình sự, mà còn cả trong lĩnh vực dân sự, hành chính, kinh tế và lao động. Quan điểm thứ sáu và thứ bảy coi mọi việc đưa ra Tòa án để giải quyết đều là do vi phạm pháp luật (liên quan đến trật tự xã hội chung). Trong thực
  • 18. 13 tiễn, hoạt động của Tòa án và Viện kiểm sát không phải lúc nào cũng nhằm truy cứu trách nhiệm hình sự đối với một người nào đó, mà có trường hợp chỉ nhằm bảo vệ lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Ví dụ: Viện kiểm sát khởi tố vụ án dân sự, hành chính, lao động với lợi ích chung hoặc liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần… hoạt động trên của Viện kiểm sát hoàn toàn không phải là hoạt động thực hành quyền công tố, mà chỉ là hoạt động thực hiện các quyền luật định của Viện kiểm sát. - Quan điểm thứ tám cho rằng, công tố quyền là quyền được hành xử nhân danh xã hội, vì lợi ích chung cho xã hội, với mục đích là Tòa án tuyên một hình phạt đối với người phạm tội. Đại diện cho quan điểm này là các Luật gia miền Nam nước ta trước năm 1975. Theo quan điểm này thì hành vi đưa các phạm nhân gia Tòa án để xét xử là sự truy tố. Cái quyền truy tố đó là công tố quyền, vì là quyền của cộng đồng xã hội trừng trị kẻ phạm pháp qua các đại diện của xã hội và các Thẩm phán được giao phó nhiệm vụ xử thực hành công tố quyền là những Thẩm phán công tố. Những người theo quan điểm này phân biệt rõ khái niệm công tố quyền và dân tố quyền. Một tội phạm hình sự xẩy ra, phát sinh tố quyền, tố quyền này nhân danh xã hội yêu cầu Tòa án tuyên phán một biện pháp chế tài hình sự đối với một vi phạm trật tự xã hội do tội phạm gây ra; đây gọi là công tố quyền. Nhưng tội phạm có thể làm phát sinh bên cạnh công tố quyền một tố quyền của tư nhân bị tội phạm gây thiệt hại, đó là quyền yêu cầu Tòa án buộc kẻ phạm tội bồi thường thiệt hại cho mình; đó là dân tố quyền theo các Luật gia miền Nam. Về bản chất, quyền công tố thuộc về xã hội; do đó phạm vi quyền công tố chỉ giới hạn trong tố tụng hình sự và trước Tòa án. Những quan điểm nêu trên về quyền công tố đều có sự hợp lý ở những khía cạnh khác nhau, tuy nhiên mỗi quan điểm đều có những nội dung hạn chế, bất cập, cụ thể:
  • 19. 14 + Hoặc là đánh đồng quyền công tố với các chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát, dẫn đến mở rộng phạm vi quyền công tố vượt khỏi lĩnh vực tố tụng hình sự sang lĩnh vực tư pháp khác như dân sự, hành chính, kinh tế, lao động. + Hoặc là coi quyền công tố chỉ là một quyền năng, một hình thức thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, dẫn đến sự xem nhẹ bản chất của quyền công tố như là hoạt động độc lập của Viện kiểm sát nhân danh quyền lực công. + Hoặc là quá thu hẹp phạm vi quyền công tố, coi quyền công tố là quyền của Viện kiểm sát truy tố kẻ phạm tội ra Tòa án và thực hiện việc buộc tội tại phiên tòa hình sự sơ thẩm. Mặt khác, các quan điểm đó đều có hạn chế là không phân định rõ ràng khái niệm, bản chất, nội dung, phạm vi quyền công tố, hoạt động thực hành quyền công tố và hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Nhiều quan điểm cho rằng hai chức năng của Viện kiểm sát (công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật) vừa có tính độc lập tương đối, vừa liên hệ chặt chẽ, tác động qua lại bổ sung cho nhau, giữa chúng có những nội dung xâm nhập, đan xen lẫn nhau không thể tách rời; tạo nên sự thống nhất trong chức năng của Viện kiểm sát. Bên cạnh đó, để đưa ra được quan niệm đúng về quyền công tố, cần phải xem xét nó trong mối liên với tính đặc thù của một lĩnh vực pháp luật cụ thể. Quyền công tố chỉ có thể được xem xét trong mối liên hệ với lĩnh vực pháp luật mà từ cội nguồn lịch sử của nó đã gắn liền, không thể tách rời với việc nhân danh Nhà nước (nhân danh công quyền) chống lại hình thức vi phạm pháp luật nghiêm trọng (tội phạm), đó là lĩnh vực tố tụng hình sự. Tội phạm là vi phạm pháp luật nguy hiểm nhất; kẻ phạm tội xâm phạm trước hết đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích xã hội (an ninh, trật tự xã hội), sau đó mới
  • 20. 15 đến lợi ích của người bị hại. Nhà nước nhân danh xã hội dành cho mình quyền trừng trị kẻ phạm tội. Trong tố tụng dân sự thì đối tượng của nó là tranh chấp dân sự liên quan đến lợi ích của từng cá nhân. Một trong những đặc thù của tố tụng dân sự là nguyên tắc tự định đoạt của các đương sự. Ý trí, lợi ích, sự tự thỏa thuận của các đương sự quyết định sự xuất hiện, vận động và chấm dứt hoạt động tố tụng. Trong tố tụng dân sự, nghĩa vụ chứng minh trước hết thuộc về các đương sự; trong khi cốt lõi của tố tụng hình sự là hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng nhằm phát hiện, khám phá tội phạm, xác định và xử lý kẻ phạm tội. Một trong những nguyên tắc đặc thù của hoạt động tố tụng hình sự là nguyên tắc công tố, nguyên tắc mà mọi hoạt động tố tụng được tiến hành trước hết và chủ yếu vì lợi ích Nhà nước, lợi ích chung của toàn xã hội. Điểm mấu chốt nhất của nguyên tắc này là hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng nhằm phát hiện, khám phá tội phạm, xác định và xử lý người phạm tội. Một số công dân cũng tham gia vào hoạt động tố tụng, nhưng họ chỉ được lôi cuốn vào hoạt động tố tụng khi hoạt động này đã xuất hiện trên cơ sở các quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng. Mặt khác hoạt động tố tụng hình sự luôn tồn tại ba chức năng tố tụng cơ bản: Buộc tội, bào chữa (gỡ tội) và xét xử. Buộc tội, thực chất là hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Người buộc tội, đại diện của cơ quan thực hiện chức năng buộc tội có trách nhiệm và có quyền đưa ra lời cáo buộc đối với những cá nhân cụ thể và có nhiệm vụ phải đưa ra những bằng chứng cho sự cáo buộc đó. Vì thế, quyền lực nhà nước trong lĩnh vực hình sự gắn liền với buộc tội nhân danh Nhà nước, hay nói cách khác là nhân danh công quyền và chỉ phát sinh khi có hành vi phạm tội xẩy ra. Sự buộc tội nhân danh công quyền này được gọi là quyền công tố. Từ phân tích trên có thể rút ra kết luận: Quyền công tố là quyền nhân
  • 21. 16 danh Nhà nước truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, trên cơ sở đảm bảo việc thu thập đầy đủ chứng cứ để xác định tội phạm và người phạm tội. * Cơ quan thực hiện quyền công tố Ở nước ta, căn cứ vào các quy định pháp luật từ năm 1960 đến nay, thì Viện kiểm sát chính là cơ quan được giao chức năng thực hành quyền công tố. Thực tiễn tổ chức và hoạt động mấy chục năm qua của Viện kiểm sát nhân dân các cấp cho thấy, 100% các vụ án hình sự đều do Viện kiểm sát truy tố và thực hiện sự buộc tội trước phiên toà sơ thẩm, đưa ra kết luận của mình tại phiên toà theo các trình tự phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm. Cùng với những hoạt động đó, Viện kiểm sát các cấp còn có trách nhiệm xem xét, bảo đảm cho việc áp dụng, thay thế hoặc huỷ bỏ các biện pháp ngăn chặn được hợp lý và hợp pháp, có quyền khởi tố, yêu cầu khởi tố, xem xét việc khởi tố của Cơ quan điều tra và Toà án. Theo quy định của pháp luật, tuy Cơ quan điều tra và Toà án các cấp cũng thực hiện việc khởi tố vụ án hình sự, thậm chí số vụ án do Cơ quan điều tra thực hiện việc khởi tố chiếm tới khoảng 96 - 97% số vụ án được khởi tố, nhưng nếu quyết định khởi tố vụ án hình sự của Cơ quan điều tra, của cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra không có căn cứ, thì chỉ có Viện kiểm sát mới có quyền quyết định huỷ bỏ quyết định khởi tố đó; Hoặc chỉ có Viện kiểm sát mới có quyền kháng nghị quyết định khởi tố vụ án hình sự không có căn cứ của Hội đồng xét xử. Cơ quan điều tra có quyền khởi tố, bắt, tạm giam người phạm tội, tiến hành điều tra thu thập chứng cứ… nhưng phải có sự phê chuẩn của Viện kiểm sát cùng cấp. Toà án chỉ đưa vụ án ra xét xử trên cơ sở cáo trạng, quyết định truy tố của Viện kiểm sát, và chỉ có Viện kiểm sát mới có quyền buộc tội bị cáo tại phiên toà. Bản án kết tội của Toà án chính là sự chấp nhận lời buộc tội của Viện kiểm sát đối với người phạm tội.
  • 22. 17 Như vậy, ở Việt Nam những hoạt động trên đây của Viện kiểm sát hoàn toàn mang tính độc lập, không lệ thuộc vào bất cứ cơ quan nào. Duy nhất chỉ có Viện kiểm sát được giao việc truy cứu trách nhiệm hình sự, buộc tội đối với bị can, bị cáo và bảo vệ quan điểm truy tố của mình. Từ những phân tích trên đây có thể đưa ra khái niệm: Hoạt động công tố là chức năng của Viện kiểm sát được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình tố tụng nhằm đảm bảo không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội, xử lý kịp thời những trường hợp sai phạm của những người tố tụng khi thi hành nhiệm vụ. 1.1.2. Khái niệm hoạt động xét xử Sự ra đời của Toa án gắn liền với hoạt động xét xử và xét xử trở thành đặc điểm quan trọng nhất của Toà án. Ngay từ khi Nhà nước xuất hiện đã có xét xử và có Toà án. Theo GS.TS Nguyễn Đăng Dung thì “tư pháp tức là pháp đình, là Toà án, là y theo pháp luật mà xét định các việc trong phạm vi pháp luật, do vậy “hệ thống cơ quan tư pháp có chức năng xét xử các hành vi vi phạm các quy định của pháp luật Nhà nước” 5, tr. 23. Lúc mới ra đời hoạt động xét xử chỉ được áp dụng cho các “thần dân” có hành vi chống lại Nhà nước, các vi phạm giữa các cá nhân được giải quyết chủ yếu bằng con đường “tự xử”. Càng về sau các quyền tự do dân sự, chính trị của công dân dần được pháp luật thừa nhận, sự vi phạm các quyền đó được thừa nhận như là xâm phạm tới lợi ích, trật tự chung và do đó chúng là đối tượng của hoạt động xét xử của Toà án. Với chức năng xét xử thì Toà án đại diện cho quyền lực tư pháp - một trong ba nhánh quyền lực ở Nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc phân quyền, không những có quyền xét xử những tranh chấp, vi phạm thông thường mà còn có thẩm quyền phán xử những vi phạm Hiến pháp. Trong Nhà nước pháp quyền, Toà án có vai trò quan trọng, là nơi biểu hiện tập trung của
  • 23. 18 quyền lực tư pháp, đồng thời là nơi thể hiện nền công lý, sự đối xử bình đẳng, công bằng trong tất cả các mối quan hệ và cũng là nơi thể hiện chất lượng hoạt động và uy tín của hệ thống tư pháp. Ở nước ta, xây dựng Nhà nước pháp quyền của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về Nhân dân đã được khẳng định trong Hiến pháp năm 2013. Nguyên tắc phân công, phối hợp, kiểm soát thực hiện quyền lực Nhà nước tiếp tục được thể hiện rõ ràng, rành mạch hơn. Lần đầu tiên Hiến pháp nước ta khẳng định Quốc hội thực hiện quyền lập pháp, Chính phủ thực hiện quyền hành pháp và Tòa án nhân dân thực hiện quyền tư pháp. Bằng việc quy định “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp” 35, Điều 102, khoản 1, Hiến pháp xác định rõ ràng, cụ thể vị trí, vai trò của Tòa án nhân dân trong bộ máy Nhà nước. Tòa án nhân dân là cơ quan duy nhất thực hiện quyền tư pháp, thực hiện chức năng xét xử; Tòa án nhân dân là cơ quan duy nhất có quyền ra phán quyết về các vi phạm pháp luật, các tranh chấp theo quy định pháp luật và các vấn đề pháp lý liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Xử lý các vi phạm pháp luật bằng chế tài Nhà nước, giải quyết các tranh chấp bằng quyền lực Nhà nước đều thuộc thẩm quyền của Tòa án. Hiến pháp khẳng định vị trí trung tâm của Tòa án trong hệ thống tư pháp, vị trí trọng tâm của hoạt động xét xử trong các hoạt động tư pháp. Hiến pháp quy định rõ ràng, cụ thể nhiệm vụ của Tòa án nhân dân. Đó là bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Nhiệm vụ này được xác định xuất phát từ vị trí, vai trò và chức năng của Tòa án nhân dân đã được xác định. Là cơ quan có chức năng ra phán quyết về các vi phạm pháp luật, các tranh chấp pháp lý, Tòa án nhân dân có vai trò rất quan trọng bảo vệ quyền con người, quyền công dân,
  • 24. 19 bảo vệ lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Khi quyền, lợi ích của mình bị xâm phạm hoặc bị tranh chấp, người dân tìm đến Tòa án như là tìm đến công lý. Vì vậy, có thể nói, theo Hiến pháp Tòa án là biểu tượng của công lý và có nhiệm vụ bảo vệ công lý. Như vậy, “Hiến pháp đã khẳng định hoạt động xét xử là chức năng chỉ thuộc về Toà án, không một cơ quan Nhà nước, một tổ chức nào khác có thể thay thế Toà án thực hiện chức năng xét xử” 16. Khi thực hiện chức năng xét xử, Toà án nhân danh Nhà nước xem xét nội dung vụ án hình sự và các loại tranh chấp khác để cuối cùng ra phán xét ai đúng, ai sai. Chính vì nhân danh Nhà nước thực hiện chức năng xét xử nên phán quyết của Toà án cho dù nó được thể hiện bằng quyết định hay bằng bản án vẫn có giá trị bắt buộc đối với tất cả các cơ quan Nhà nước, các tổ chức và mọi công dân. Theo tinh thần này thì gắn cho Toà án những chức năng khác như: Trách nhiệm phát hiện tội phạm và khởi tố vụ án hình sự, trách nhiệm thu thập chứng cứ để chứng minh tội phạm … không thuộc về xét xử là không phù hợp với bản chất, vị trí, chức năng của Toà án trong Nhà nước hiện đại và đồng thời cũng là sự vi phạm Hiến pháp. Từ phân tích trên có thể đưa ra khái niệm: Hoạt động xét xử là hoạt động tố tụng của Toà án có thẩm quyền nhân danh Nhà nước áp dụng pháp luật vào trường hợp cụ thể như trong vụ án hình sự: Xem xét và phán quyết người bị buộc tội có tội hay không có tội, nếu có tội thì trách nhiệm hình sự như thế nào, cũng như vấn đề khác có liên quan, được thực hiện trong mối quan hệ với với chức năng tố tụng khác nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức và Nhà nước. Về nội dung, chức năng xét xử là tất cả các hoạt động của Toà án để khẳng định hay bác bỏ yêu cầu buộc tội của bên buộc tội và các vấn đề khác có liên quan. Chức năng xét xử bao gồm hai nội dung chính là sự kiện và
  • 25. 20 pháp lý. Nội dung sự kiện là trên cơ sở các tài liệu, chứng cứ, Toà án phải khẳng định sự tồn tại hay không tồn tại những sự kiện đã xẩy ra trên thực tế. Nội dung pháp lý là sau khi đã khẳng định sự tồn tại hay không tồn tại của các sự kiện thực tế, Toà án phải căn cứ vào các quy phạm pháp luật cụ thể để đưa ra những đánh giá pháp lý về các sự kiện thực tế đó, tức là các sự kiện thực tế đó có dấu hiệu phù hợp và chịu sự điều chỉnh bởi các nội dung của quy phạm pháp luật nào. * Cơ quan thực hiện hoạt động xét xử Theo quy định tại Điều 1 và Điều 2 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002: “Tòa án xét xử những vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính và giải quyết những việc khác theo quy định của pháp luật” 38; cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân theo địa giới hành chính: Ở Trung ương có Tòa án nhân dân tối cao; ở địa phương có các Tòa án nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện. Ngoài ra, còn có các Tòa án quân sự được tổ chức trong quân đội để xét xử những vụ án hình sự theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Trong trường hợp đặc biệt, Quốc hội có thể thành lập các Tòa án đặc biệt. 1.2. Căn cứ xác lập mối quan hệ giữa hoạt động công tố và hoạt động xét xử 1.2.1. Các nguyên tắc tổ chức của hệ thống tư pháp * Một là, Tòa án là trung tâm của hệ thống tư pháp Theo quy định của pháp luật thì hệ thống Toà án nhân dân từ năm 1960 đến nay được tổ chức theo đơn vị hành chính gồm: Toà án nhân dân cấp huyện, Toà án nhân dân cấp tỉnh và Toà án nhân dân tối cao. Bên cạnh hệ thống Toà án nhân dân thì ở nước ta còn có hệ thống Toà án quân sự được tổ chức theo ba cấp: Toà án quân sự khu vực, Toà án quân sự cấp quân khu và Toà án quân sự Trung ương. Theo quy định của Luật Tổ chức Toà án nhân
  • 26. 21 dân thì Toà án quân sự Trung ương là một đơn vị của Toà án nhân dân tối cao, do Toà án nhân dân tối cao quản lý về chuyên môn, nghiệp vụ và có sự phối hợp chặt chẽ với Bộ Quốc phòng. Tương ứng với tổ chức của Toà án nhân dân là tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân. Với cơ cấu tổ chức hệ thống Toà án và Viện kiểm sát như trên, hơn 40 năm qua các cơ quan này đã góp phần đắc lực vào việc bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của tổ quốc Việt nam xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, duy trì trật tự an toàn xã hội, trật tự quản lý kinh tế, bảo đảm cho mọi người được sống trong một môi trường xã hội và sinh thái an toàn, lành mạnh và mang tính văn minh cao; Đảm bảo sự bình đẳng và an toàn pháp lý trong quan hệ dân sự, góp phần tạo điều kiện đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Đồng thời, góp phần tích cực loại bỏ những yếu tố gây cản trở cho tiến trình đổi mới và sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; Giáo dục mọi người nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Trong quá trình đổi mới cơ chế quản lý Nhà nước, sắp xếp lại bộ máy qua các thời kỳ, hệ thống Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân từng bước được thay đổi cho phù hợp với tình hình kinh tế, xã hội. Tuy nhiên, việc tổ chức hệ thống Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân theo đơn vị hành chính không còn phù hợp; Chức năng, nhiệm vụ, cơ chế hoạt động của Toà án và Viện kiểm sát còn nhiều bất hợp lý. Chất lượng hoạt động công tố và hoạt động xét xử chưa đáp ứng được yêu cầu và đòi hỏi của xã hội; còn nhiều trường hợp bỏ lọt người phạm tội, làm oan người vô tội… Nhằm nâng cao năng lực và hoạt động của các cơ quan tư pháp nói
  • 27. 22 chung đặc biệt đối với Toà án và Viện kiểm sát trước yêu cầu của tình hình mới, Đảng và Nhà nước đã có chủ chương cải cách tư pháp. Điều này được khẳng định trong nhiều văn kiện của Đảng: Nghị quyết trung ương 8 khoá VII, Nghị quyết trung ương 3 và 7 khoá VIII, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX; Nghị quyết số 08/NQ-TW của Bộ Chính trị ngày 02/01/2002 về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” 10; Đặc biệt, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” 11 có đề ra nhiệm vụ xây dựng, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của hệ thống Toà án theo hướng: Tổ chức hệ thống Toà án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính gồm: Toà án sơ thẩm khu vực được tổ chức ở một hoặc một số đơn vị hành chính cấp huyện; Toà án phúc thẩm có nhiệm vụ chủ yếu là xét xử phúc thẩm và xét xử sơ thẩm một số vụ án; Toà thượng thẩm được tổ chức theo khu vực có nhiệm vụ xét xử phúc thẩm; Toà án nhân dân tối cao có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, phát triển án lệ và xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm. Việc thành lập Toà chuyên trách phải căn cứ vào thực tế xét xử của từng cấp Toà án, từng khu vực. Đổi mới Toà án nhân dân tối cao theo hướng tinh gọn với đội ngũ thẩm phán là những chuyên gia đầu ngành về pháp luật, có kinh nghiệm trong ngành. Hiện nay, trừ Toà án quân sự thì hệ thống Toà án nhân ở nước ta được tổ chức theo đơn vị hành chính gồm: Mỗi đơn vị hành chính cấp huyện và tỉnh có một Toà án nhân dân; Toà án nhân dân cấp tỉnh là Toà án cấp trên trực tiếp của Toà án nhân dân cấp huyện; Toà án nhân dân tối cao là Toà án trực tiếp của Toà án nhân dân cấp tỉnh. Việc nghiên cứu để tổ chức Toà án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính mà Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của
  • 28. 23 Bộ Chính trị đưa ra là một bước đột phá về chất, nhằm xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của Toà án; Thể hiện đúng quan điểm “quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” 35. * Hai là, đảm bảo Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức của Toà án Về tương quan giữa đổi mới tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân với tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân theo yêu cầu cải cách tư pháp. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 chỉ rõ: “Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức của Toà án. Nghiên cứu việc chuyển Viện kiểm sát thành Viện công tố, tăng cường hoạt động công tố trong hoạt động điều tra” 11. Tuy nhiên, khác với Toà án, Nghị quyết số 49 nêu cụ thể mô hình và tên gọi của Toà án các cấp, còn đối với Viện kiểm sát, Nghị quyết số 49 chỉ nêu “được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức của Toà án” 11. Như vậy việc tổ chức Viện kiểm sát như thế nào cho phù hợp với hệ thống Toà án là một vấn đề rất quan trọng. Cần nhận thức rằng, tính phù hợp giữa Viện kiểm sát với hệ thống tổ chức của Toà án không có nghĩa là Toà án có mấy cấp thì Viện kiểm sát cũng có bấy nhiêu cấp, mà vấn đề quan trọng là tổ chức Viện kiểm sát như thế nào có đáp ứng được yêu cầu của việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ. Với quan điểm như vậy, nhằm bảo đảm cho Viện kiểm sát hoàn thành chức năng, nhiệm vụ trước mắt cũng như lâu dài, thì về tổ chức của Viện kiểm sát cần tiếp tục được nghiên cứu một cách sâu sắc và toàn diện trước khi xem xét, quyết định. Hoạt động công tố gắn liền với hoạt động xét xử của Toà án, do vậy, tổ chức của Viện kiểm sát trước mắt và Viện công tố về lâu dài phù hợp với mô hình tổ chức Toà án trong tiến trình cải cách tư pháp.
  • 29. 24 Khi Toà án chuyển sang mô hình hai cấp xét xử và theo thẩm quyền như Nghị quyết 49 đã khẳng định thì Viện kiểm sát cần được tổ chức tương ứng với các cấp Toà án, thực hiện hai nhiệm vụ là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Như vậy, về lâu dài Viện kiểm sát chuyển thành Viện công tố. Bản chất của công tố là đại diện cho quyền lực công để truy tố tội phạm, đưa người có hành vi phạm tội ra trước Toà án để xét xử, do đó, công tố phải là một chức năng không tách rời của hành pháp – cơ quan chịu trách nhiệm tổ chức thực thi pháp luật như ý kiến của GS. TS. Nguyễn Đăng Dung đã cho rằng “chức năng buộc tội thuộc về hành pháp” 5. Xuất phát từ trách nhiệm trung tâm và cuối cùng của Viện công tố trong chức năng truy tố, buộc tội nên về nguyên lý, hoạt động của Viện công tố phải gắn với hoạt động điều tra. Tại phiên toà, công tố viên thực hiện chức năng buộc tội, tham gia tranh tụng và chịu trách nhiệm hoàn toàn về những chứng cứ buộc tội thu thập được trong quá trình điều tra. Cơ chế này đảm bảo tính hiệu quả, thống nhất và liên tục của quy trình tố tụng tư pháp, nâng cao chất lượng truy tố và tranh tụng của Công tố viên tại phiên toà. Cũng như đối với Thẩm phán, Kiểm sát viên phải tiếp tục được chuẩn hoá theo tiêu chuẩn chức danh mới phù hợp với sự điều chỉnh chức năng và thẩm quyền hoạt động của Viện kiểm sát. * Ba là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Cơ quan tư pháp Đảng ta là Đảng cầm quyền, đại diện cho lợi ích nhân dân và toàn dân tộc. Nghị quyết số 08-NQ/TW đã chỉ rõ: “Đảng lãnh đạo các Cơ quan tư pháp chặt chẽ về chính trị, tổ chức và cán bộ, bảo đảm hoạt động tư pháp thực hiện đúng quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước, khắc phục tình trạng cấp uỷ Đảng buông lỏng lãnh đạo hoặc can thiệp không đúng và hoạt động tư pháp” 10.
  • 30. 25 Sự lãnh đạo toàn diện và chặt chẽ của Đảng đối với các Cơ quan tư pháp là yêu cầu khách quan và cần thiết để đảm bảo cho các Cơ quan tư pháp thể hiện bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, bảo đảm cho hoạt động của các Cơ quan tư pháp thực hiện đúng quan điểm của Đảng và pháp luật của Nhà nước, hạn chế các sai sót có thể xẩy ra làm ảnh hưởng đến uy tín của Đảng và Nhà nước. 1.2.2. Các nguyên tắc tố tụng hình sự Trong tố tụng hình sự Việt Nam, nguyên tắc của tố tụng hình sự là những tư tưởng và quan điểm chủ đạo được thể chế hoá bằng pháp luật, có ý nghĩa quyết định đến việc xác định và thực hiện các hoạt động tố tụng hình sự và các quan hệ tố tụng hình sự đối với các hình thức và phương thức thực hiện những hoạt động và quan hệ đó. “Nguyên tắc của tố tụng hình sự gắn liền với nhiệm vụ, mục đích của tố tụng hình sự và do vậy, tuân thủ các nguyên tắc của tố tụng hình sự là bảo đảm quan trọng hàng đầu cho việc thực hiện hiệu quả mục đích và nhiệm vụ của tố tụng hình sự” 47. Nguyên tắc của tố tụng hình sự là cái có trước mô hình cấu trúc của tố tụng hình sự và có trước cả quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Nguyên tắc không phải là pháp luật thực định mà là những đòi hỏi pháp lý có tính khái quát cao mang màu sắc lý tưởng, là những yêu cầu, đòi hỏi, là cái cần có. Trong khi đó, pháp luật tố tụng hình sự là cái tồn tại. Cái tồn tại phải được cải biến cho phù hợp với yêu cầu của cái cần có, nhưng trong hiện thực luôn có một khoảng cách giữa hai phạm trù đó. Có thể lấy ví dụ về nguyên tắc tranh tụng trong cải cách tư pháp hình sự hiện nay ở Việt Nam theo tinh thần của chiến lược cải cách tư pháp. Thực hiện tranh tụng trong tố tụng hình sự là yêu cầu được đặt ra trong chiến lược, nhưng yếu tố tranh tụng có được bao nhiêu trong cả hệ thống tố tụng hình sự, được phản ánh như thế nào trong các chế định và quy phạm pháp luật của tố
  • 31. 26 tụng hình sự lại là một vấn đề khác. Tuy nhiên, tư tưởng về việc thực hiện tranh tụng luôn là cơ sở, là thước đo cho việc đánh giá tính hoàn thiện của các chế định pháp luật và thực tiễn tư pháp hình sự ở Việt Nam hiện nay. Có thể phân chia các nguyên tắc kể trên theo các nhóm sau: Nhóm các nguyên tắc có nội dung liên quan yêu cầu về bảo đảm tính pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự; Nhóm các nguyên tắc bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân nói chung, quyền của bị can, bị cáo nói riêng trong quá trình tiến hành tố tụng hình sự; Nhóm các nguyên tắc về tính chất của hoạt động tố tụng hình sự; Nhóm các nguyên tắc về sự tham gia của Nhân dân và sự phối hợp, hỗ trợ của các cơ quan Nhà nước khác đối với hoạt động tố tụng hình sự. Có thể thấy, các nguyên tắc của tố tụng hình sự Việt Nam chứa đựng những tư tưởng chỉ đạo cụ thể, chặt chẽ, rõ ràng, tạo điều kiện cho sự vận dụng chúng trong các hoạt đông tố tụng hình sự. Cơ cấu về số lượng các nguyên tắc của tố tụng hình sự đã cho thấy sự quan tâm thích đáng của Nhà nước ta đối với yêu cầu tôn trọng và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của con người, của công dân trong qúa trình tố tụng (13/10 nguyên tắc). Các nguyên tắc của tố tụng hình sự hiện hành Việt Nam phản ánh rõ nét tính pha chộn của tố tụng hình sự, trong đó tính chất chủ đạo của nó là tố tụng thẩm vấn với sự tiếp thu một số rất ít các đặc điểm của mô hình tố tụng tranh tụng. Có thể thấy rằng, đây là lĩnh vực của những sự tìm tòi, thể nghiệm vừa nghiêm túc, thận trọng, vừa cầu thị trong quá trình thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai đoạn đổi mới vừa qua. - Nguyên tắc đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa: Đây là nguyên tắc rất quan trọng trong quan hệ giữa Viện kiểm sát và Tòa án, đó cũng là một trong những nguyên tắc rất quan trọng của pháp luật tố tụng hình sự được quy định tại Điều 8 Hiến pháp năm 2013: “Nhà nước được
  • 32. 27 tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ” 35. Và Điều 3 Bộ luật tố tụng hình sự tiếp tục quy định: "Mọi hoạt động tố tụng hình sự của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng phải được tiến hành theo quy định của Bộ luật này" 37. Theo đó, mọi hoạt động của những người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng phải tuân theo các quy định của luật pháp không được vì lợi ích cục bộ của hai cơ quan mà có những hành vi vi phạm pháp luật , ảnh hưởng đến quyền lợi ích của Nhà nước, Xã hội và của Công dân. Việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đòi hỏi Viện kiểm sát, Cơ quan Điều tra và Tòa án phải thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan và phải được tiến hành trên cơ sở có căn cứ, đúng pháp luật. Viện kiểm sát và Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án hình sự phải luôn tuân thủ những nguyên tắc nhất định, không thể tùy tiện, cũng không thể đơn giản hóa những qui định bắt buộc, vì sự tùy tiện có thể sẽ dẫn đến việc xử lý oan sai, vi phạm các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, làm mất lòng tin của Nhân dân vào hiệu lực và sự công minh của pháp luật. - Nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân: Do đặc điểm của hoạt động tố tụng hình sự của Viện kiểm sát và Tòa án thường xuyên đụng chạm đến các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, trong khi chế độ xã hội chủ nghĩa chúng ta luôn coi trọng con người và mọi hoạt động đều phục vụ lợi ích của con người. Chính vì vậy, Hiến pháp năm 2013 đã quy định tại Chương II những quyền con người, quyền cơ bản của công dân đó là: Quyền bình đẳng trước pháp luật, quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín... Bộ luật tố tụng hình sự nước ta đã quy định việc tôn trọng, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân tại các Điều 4, 5, 6, 7, 8, 9, 11, 31 là
  • 33. 28 một trong những nhiệm vụ quan trọng đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng khi thực hiện chức năng nhiệm vụ phải tuân thủ, điều đó chính là bản chất tốt đẹp của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa luôn đề cao và tôn trọng các quyền và lợi ích con người. Nguyên tắc này đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình tiến hành các hoạt động tố tụng phải đảm bảo và tôn trọng các quyền lợi ích cơ bản của công dân, nhất là quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền tự do đi lại, quyền bất khả xâm phạm về nơi ở, quyền được đảm bảo bí mật và an toàn thư tín , điện thoại, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm... Vì vậy, Viện kiểm sát và Tòa án khi tiến hành các hoạt động tố tụng nhằm xác định sự thật của vụ án, nhưng có nghĩa vụ tôn trọng và đảm bảo các quyền lợi của công dân, nhất là khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn liên quan đến quyền, lợi ích của công dân như: "bắt, tạm giữ, tạm giam, khám xét, kiểm tra thư tín điện tín, kê biên tài sản..." 37. Hoạt động bắt người, khám xét nơi ở, địa điểm, khám xét người, thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm… phải có căn cứ và được tiến hành theo đúng quy định của pháp luật. Không ai có thể bị bắt khi không có quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát. Khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn, hoặc các hoạt động điều tra như: Hỏi cung bị can, đối chất, thực nghiệm điều tra … người tiến hành tố tụng không được sử dụng nhục hình, bức cung, mớm cung xúc phạm danh dự, nhân phẩm của những người tham gia tố tụng, đồng thời các cơ quan tiến hành tố tụng phải kịp thời phát hiện những thiếu sót, sai lầm trong hoạt động điều tra, truy tố và xét xử để khắc phục, kể cả việc phải bồi thường thiệt hại do các hoạt động tố tụng không đúng pháp luật gây ra. - Nguyên tắc xác định sự thật của vụ án: Việc xác định sự thật vụ án là trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng được thực hiện theo chức năng nhiệm vụ và quyền hạn của mình trong đó
  • 34. 29 Cơ quan Điều tra chịu trách nhiệm chính trong việc phát hiện, điều tra khám phá tội phạm, thu thập chứng cứ để làm rõ tội phạm, đồng thời phải chịu trách nhiệm về kết quả điều tra của mình . Viện kiểm sát thực hành quyền công tố , kiểm sát việc tuân theo pháp luật tố tụng hình sự đối với Cơ quan Điều tra khi tiến hành hoạt động điều tra và quyết định việc truy tố, Tòa án chịu trách nhiệm trong quá trính xét xử. Việc xác định sự thật của vụ án được coi là điều rất quan trọng, đảm bảo cho việc xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Đó cũng là cơ sở đảm bảo cho các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự thực hiện nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động tố tụng hình sự . Điều 10 Bộ luật tố tụng hình sự , khoản 2 Điều 5 Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự quy định rõ trách nhiệm của Viện kiểm sát , Cơ quan Điều tra và Tòa án trong việc xác định sựthật của vụ án. Nội dung của nguyên tắc này đòi hỏi Viện kiểm sát , Tòa án và những người tiến hành tố tụng phải thực hiện nghiêm túc các quy định của luật tố tụng, coi việc khởi tố, điều tra, truy tố và xác định sự thật của vụ án vừa là nhiệm vụ, và cũng là mục tiêu cần phải đạt được khi có tội phạm xảy ra. Để thực hiện được điều này, cả ba cơ quan này phải phối hợp chặt chẽ với nhau, tạo điều kiện thuận lợi cho nhau trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Khi giải quyết vụ án hình sự phải dựa vào những chứng cứ đã được thu thập để xem xét đánh giá một cách khách quan, toàn diện về hành vi, tính chất mức độ nguy hiểm, hậu quả. Tránh việc thu thập chứng cứ, đánh giá chứng cứ một chiều, phiến diện, chủ quan… Có như vậy mới đảm bảo việc giải quyết vụ án đúng đắn, hạn chế được những sai sót đáng tiếc có thể xảy ra. - Nguyên tắc cấp dưới chịu sự chỉ đạo của cấp trên trong tố tụng hình sự: Cấp dưới chịu sự chỉ đạo của cấp trên là nguyên tắc chung trong hệ thống tổ chức bộ máy Nhà nước ta. Nguyên tắc này giúp cho cơ quan cấp trên
  • 35. 30 có thể giám sát, chỉ đạo hoạt động của cơ quan cấp dưới tạo sự thống nhất đồng bộ trong việc thực hiện các yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra. Ngoài ra nguyên tắc này được thể hiện trong các quy định của pháp luật tố tụng hình sự như quy định tại Điều 8 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002: "Viện kiểm sát nhân dân do Viện trưởng lãnh đạo. Viện trưởng Viện kiểm sát cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp trên..." 39 và Điều 17 Luâ ̣t tổ chứ c Toà án nhân dân c ũng quy đi ̣nh “Toà án nhân dân tối cao quản lý các Toà án nhân dân địa phương về tổ chức có sự phối hợp chặt chẽ với Hội đồng nhân dân địa phương. Toà án nhân dân tối cao quản lý các Toà án quân sự về tổ chức có sự phối hợp chặt chẽ với Bộ Quốc phòng” 38. Trong mỗi ngành nguyên tắc này được thực hiện thông qua chế độ báo cáo, thỉnh thị về nghiệp vụ, cấp trên giám sát, kiểm tra hoạt động nghiệp vụ của cấp dưới; phát hiện những sai sót, tồn tại của cấp dưới, tổ chức rút kinh nghiệm, hướng dẫn, chỉ đạo hoạt động đối với cấp dưới. Đặc biệt nguyên tắc cấp dưới chịu sự lãnh đạo của cấp trên còn thể hiện ở tính hiệu lực của các quyết định của cơ quan cấp trên cao hơn quyết định của cấp dưới. Ví dụ: Trong quá trình kiểm sát điều tra, Viện kiểm sát cấp trên có quyền hủy các quyết định trái pháp luật của Viện kiểm sát cấp dưới . Nguyên tắc này chỉ được áp dụng theo ngành dọc để đảm bảo việc thực hiện nhiệm vụ được tốt hơn trong các hoạt động giải quyết vụ án hình sự. 1.3. Những yêu cầu của việc cải cách tƣ pháp đối với việc hoàn thiện mối quan hệ giữa hoạt động công tố và xét xử Nhận thức lý luận của Đảng về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân tại Việt Nam bắt nguồn từ quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật xã hội chủ nghĩa. Đó là quá trình phát triển lâu dài, bền bỉ và gắn chặt với
  • 36. 31 lịch sử cách mạng và thời kỳ, thể hiện tập trung nhất sự phát triển các quan điểm và đường lối của Đảng ta về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, là giai đoạn Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII đến nay. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (năm 1996) nhấn mạnh: “Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Quan lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời, coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức xã hội chủ nghĩa” 6. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 khóa VIII của Đảng (tháng 6 – 1997) về tiếp tục xây dựng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh, có một nhận định quan trọng về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ đổi mới: Đảng đã “từng bước phát triển hệ thống quan điểm, nguyên tắc cơ bản về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân” 7. Đại hội IX của Đảng (năm 2001) đặt vấn đề tiếp tục “xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng” 9. Tiếp đó, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa IX của Đảng (tháng 1 – 2004) khẳng định: “Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phát huy dân chủ, tăng cường kỷ cương, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc” 8… Đó là một hệ thống phương hướng của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đây là một vấn đề rất mới ở Việt Nam, nên Nghị quyết của Đảng cũng chỉ phác thảo ra những hướng chung nhất về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Vấn đề đặt ra hiện nay là phải xây dựng một hệ thống lý luận về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam vừa có giá trị phổ biến của nhà nước pháp quyền nói chung, vừa phải thể hiện được những đặc trưng, bản chất, bản sắc của dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam. Tiếp nối những thành công của Đại hội Đảng lần thứ X và XI, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra nhiều chính sách phát triển, xây dựng Nhà nước pháp
  • 37. 32 quyền xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong đó, cải cách tư pháp và các hoạt động tư pháp được xem là một trong những hoạt động quan trọng được quan tâm hàng đầu hiện nay. Nghị quyết số 08 của Bộ Chính trị khóa IX ngày 02/01/2002 về một số nhiệm vụ trong tâm công tác tư pháp trong thời gian tới và Nghị quyết số 49- NQ/TW ngày 02/6/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Có thể khái quát một số chủ trương, có tính xuyên suốt của Đảng trong việc chỉ đạo đổi mới hệ thống tư pháp như sau: - Khẳng định chức năng của cả hệ thống tư pháp: Hoạt động tư pháp phải nhằm ngăn ngừa có hiệu quả và xử lý kịp thời, nghiêm minh các loại tội phạm hình sự, đặc biệt các tội phạm an ninh quốc gia, tội tham nhũng và các loại tội phạm có tổ chức, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức và công dân. - Yêu cầu chung đối với hệ thống tư pháp – Các cơ quan tư pháp phải là mẫu mực của việc tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, phải thể hiện công lý, tính độc lập, tính dân chủ, công khai trong hoạt động; là lực lượng nòng cốt, là chỗ dựa vững chắc của Nhân dân trong đấu tranh phòng chống tội phạm, các hành vi vi phạm pháp luật và giải quyết tranh chấp trong đời sống hàng ngày. 1.3.1. Về đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án * Về tổ chức: - Thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử; phân định lại thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân các cấp: Từng bước mở rộng thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp huyện theo hướng chủ yếu xét xử sơ thẩm; Tòa án nhân dân cấp tỉnh chủ yếu xét xử phúc thẩm; Tòa án nhân dân tối cao thực hiện chức năng giám đốc thẩm và hướng dẫn đường lối xét xử; xóa bỏ thẩm quyền và thủ tục xét xử trung thẩm của Tòa án nhân dân tối cao và Tòa án quân sự trung ương.
  • 38. 33 - Thành lập các Tòa chuyên môn phù hợp với yêu cầu của sự phát triển kinh tế - xã hội; mở rộng thẩm quyền xét xử của Tòa án trong việc giải quyết các khiếu kiện hành chính đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính, hội nhập kinh tế quốc tế. * Về hoạt động: - Khi xét xử, Thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, thực hiện dân chủ, khách quan; việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, người bào chữa, bị cáo, nhân chứng… để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn pháp luật quy định. - Nghiên cứu quy định và áp dụng thủ tục rút gọn để xét xử kịp thời một số vụ án đơn giản, chứng cứ rõ ràng, phạm tội quả tang, hậu quả pháp lý ít nghiêm trọng. - Đổi mới thủ tục giám đốc thẩm để bảo đảm việc xét xử vừa đúng đắn vừa nhanh chóng. * Về quản lý Tòa án: - Tổng kết kinh nghiệm quản lý Tòa án; nhiệm vụ quản lý Tòa án địa phương phải góp phần bảo đảm tính độc lập và hiệu quả của Tòa án; gắn việc theo dõi, hướng dẫn nghiệp vụ chuyên môn với việc nhận xét, đánh giá, bố trí, sử dụng cán bộ. - Nghiên cứu việc kéo dài nhiệm kỳ Thẩm phán hoặc bổ nhiệm Thẩm phán suốt đời; Việc bổ nhiệm Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao do quốc hội phê chuẩn, việc bổ nhiệm các thẩm phán Tòa án địa phương phải thuộc quyền của Chủ tịch nước.
  • 39. 34 1.3.2. Về đổi mới tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát * Về chức năng: Đã có sự chuyển biến quan trọng trong việc nhận thức lại về chức năng của Viện kiểm sát: Từ yêu cầu Viện kiểm sát nhân dân cần làm tốt ba chức năng là kiểm sát chung, công tố và kiểm sát tư pháp (Hội nghị Trung ương 8 khóa VII) đến yêu cầu nâng cao chất lượng hoạt động của Viện kiểm sát theo cả ba chức năng quy định trong Hiến pháp, nhưng tập chung làm tốt chức năng công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp (Hội nghị Trung ương 3 khóa VIII), sau đó khẳng định Viện kiểm sát nhân dân chỉ thực hiện tốt hai chức năng – công tố và kiểm sát tư pháp (Đại hội IX, X và XI; Nghị quyết số 08 của Bộ Chính trị). * Về tổ chức và hoạt động: - Hoạt động công tố được xác định thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình tố tụng nhằm bảo đảm không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội. Nâng cao chất lượng công tố của Kiểm sát viên tại phiên tòa thông qua việc đảm bảo tranh tụng dân chủ với Luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác. - Hoạt động kiểm sát hoạt động tư pháp tập trung vào việc kiểm sát việc bắt, giam, giữ, tạm giam, tạm giữ theo hướng kiên quyết không phê chuẩn lệnh bắt, tạm giam, tạm giữ trong những trường hợp chưa cần áp dụng các biện pháp này, phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp oan sai trong việc bắt, tạm giam, tạm giữ thuộc phạm vi phê chuẩn của mình. - Giảm bớt chồng chéo về chức năng trong hoạt động kiểm sát. 1.3.3. Về đổi mới tổ chức và hoạt động của Cơ quan điều tra - Sắp xếp lại cơ quan điều tra theo hướng gọn đầu mối: Bộ Công an thống nhất chỉ huy các cơ quan điều tra thuộc Bộ; nghiên cứu sát nhập các cơ quan điều tra thuộc công an địa phương; tổ chức và hoạt động của các cơ
  • 40. 35 quan điều tra trong quân đội đổi mới cho phù hợp với tổ chức và hoạt động của các cơ quan điều tra Nhà nước; chỉ tổ chức cơ quan điều tra ở Viện kiểm sát nhân dân tối cao để điều tra một số loại tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp là cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp. - Kết hợp chặt chẽ giữa trinh sát, điều tra ban đầu với hoạt động của cơ quan điều tra nhằm đảm bảo sự thống nhất trong phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm, bảo đảm quyền dân chủ và an toàn của công dân (Hội nghị TW 3 khóa VIII). - Chuyên môn hóa hoạt động điều tra; quy định rõ quyền hạn, trách nhiệm của từng chức danh trong Cơ quan Điều tra. 1.3.4. Nâng cao trách nhiệm của các Cơ quan tư pháp trong việc giải quyết các trường hợp oan sai do người có thẩm quyền tố tụng gây ra Từ yêu cầu minh oan công khai, truy cứu trách nhiệm cá nhân người có thẩm quyền (Hội nghị Trung ương 8 khóa VII); khắc phục những biểu hiện giữa khuynh trong đấu tranh chống tội phạm, đồng thời chống tình trạng bắt và giam giữ oan sai, xét xử không công minh, vi phạm quyền dân chủ của công dân (Hội nghị Trung ương 3 khóa VIII) đến yêu cầu khẩn trương ban hành và tổ chức thực hiện nghiêm túc các văn bản pháp luật về bồi thường thiệt hại đối với những trường hợp bị oan sai trong hoạt động tố tụng, nghiên cứu xây dựng Quỹ bồi thường thiệt hại về tư pháp (Nghị quyết số 08 của Bộ Chính trị). 1.3.5. Xây dựng đội ngũ cán bộ, các chức danh tư pháp trong sạch – vững mạnh - Xây dựng đội ngũ Thẩm phán, Thư ký, Kiểm sát viên, Điều tra viên…về cơ bản đủ số lượng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, có phẩm chất chính trị và đạo đức chí công vô tư, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, trong sạch, vững mạnh; tiêu chuẩn hóa các chức danh tư pháp theo hướng nâng cao tiêu chuẩn về chính trị, đạo đức, có trình độ đại học luật và được đào
  • 41. 36 tạo về kỹ năng nghề nghiệp theo chức danh; tiến tới thực hiện thi sát hạch trước khi bổ nhiệm; lập quy hoạch tuyển chọn, đào tạo, sử dụng cán bộ tư pháp theo từng loại chức danh với tiêu chuẩn cụ thể; quy định thời hạn bổ nhiệm các chức danh tư pháp, cải tiến bổ nhiệm theo hướng gọn, kịp thời, đảm bảo dân chủ, công khai; thực hiện luân chuyển cán bộ tư pháp giữa các cấp và có chế độ, chính sách phù hợp để thực hiện việc luân chuyển đó. - Hoàn thiện cơ chế lựa chọn, bầu cử, bồi dưỡng, quản lý và nâng cao chất lượng của Hội thẩm nhân dân, để cao trách nhiệm và vai trò của Hội thẩm nhân dân trong xét xử. - Tăng cường thanh tra, kiểm tra, đánh giá, xử lý kịp thời, nghiêm minh những cán bộ yếu kém, vi phạm kỷ luật. - Thống nhất đầu mối đào tạo nghề nghiệp cho các chức danh tư pháp, riêng Điều tra viên do Bộ Công an đào tạo. 1.3.6. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, đổi mới chế độ, chính sách đảm bảo điều kiện cho cơ quan, cán bộ tư pháp hoạt động hiệu quả - Đảm bảo đủ các điều kiện tối thiểu về trụ sở, phương tiện làm việc để từng bước hiện đại hóa các cơ quan tư pháp phù hợp với chủ trương tăng thẩm quyền xét xử cho các Tòa án cấp huyện. - Chính sách, chế độ lương, phụ cấp trách nhiệm, đãi ngộ phù hợp với đặc thù và vị trí tôn vinh của nghề nghiệp các chức danh tư pháp. 1.3.7. Đổi mới và củng cố mối quan hệ giữa hệ thống tư pháp với Nhân dân - Huy động sự tham gia rộng rãi và tích cực của nhân dân vào công tác tư pháp, phòng chống vi phạm pháp luật ngay ở địa bàn dân cư; nâng cao hiệu quả của các hình thức giải quyết tranh chấp ngoài Tòa án như hòa giải, trọng tài góp phần xử lý đúng, nhanh chóng các mâu thuẫn, khiếu kiện trong Nhân dân, giảm nhẹ công việc cho Tòa án và các cơ quan Nhà nước khác.
  • 42. 37 - Tăng cường và nâng cao hiệu quả giám sát của các cơ quan đại biểu Nhân dân, các tổ chức xã hội và Nhân dân đối với cơ quan hoạt động tư pháp. Đẩy mạnh công cuộc giải thích pháp luật, phổ biến, giáo dục pháp luật về tư pháp, nhất là thông qua các hoạt động tư pháp cụ thể như các phiên tòa xét xử lưu động của Tòa án để nâng cao ý thức pháp luật của Nhân dân, tăng cường sự hiểu biết và niềm tin của Nhân dân vào cơ quan tư pháp và nền công lý nước nhà.
  • 43. 38 Chương 2 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA HOẠT ĐỘNG CÔNG TỐ VÀ XÉT XỬ 2.1. Khái quát chung về hoạt động tố tụng hình sự Mô hình tố tụng hình sự nước ta trong quá trình phát triển chịu ảnh hưởng lớn từ mô hình tố tụng Pháp và Xô Viết (hai mô hình tố tụng hình sự vốn bắt nguồn từ truyền thống luật Châu Ân lục địa) và đã tiếp thu đậm nét những yếu tố của mô hình tố tụng thẩm vấn. Hệ thống pháp luật, hệ thống tư pháp của Pháp đã hiện diện ở nước ta trong gần 100 năm, bên cạnh hệ thống pháp luật và hệ thống tư pháp phong kiến bản xứ - đã ảnh hưởng sâu sắc đến truyền thống, tư duy pháp lý ở nước ta. Các Bộ luật tố tụng hình sự được ban hành và áp dụng trong thời kỳ Pháp thuộc là sự sao chép cơ bản Bộ luật tố tụng hình sự của Pháp thời đó. Sau năm 1945, từ Hiến pháp năm 1959 đến Hiến pháp 1980, tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ quan tư pháp và hệ thống pháp luật nước ta chịu sự ảnh hưởng mạnh mẽ của mô hình Xô Viết. Trong lĩnh vực tố tụng hình sự, sự ảnh hưởng này được thể hiện đậm nét trong Bộ luật tố tụng hình sự đầu tiên của nước ta ban hành năm 1988 và vẫn tiếp tục ảnh hưởng trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. “Đến nay, tuy trong quá trình phát triển, chúng ta đã tiếp thu một số hạt nhân của mô hình tố tụng hình sự tranh tụng, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của thể của Việt Nam, nhưng mô hình tố tụng ở nước ta về cơ bản vẫn là mô hình tố tụng hình sự thẩm vấn” 40. Đặc trưng của mô hình tố tụng hình sự nước ta thể hiện quan những điểm cơ bản sau: - Tố tụng hình sự Việt Nam không coi vụ án hình sự là tranh chấp, xung đột pháp lý giữa các bên:
  • 44. 39 Vụ án xẩy ra bị xem là đã xâm phạm tới trật tự công cộng, lợi ích chung của xã hội và Nhà nước phải có trách nhiệm giải quyết. Việc giải quyết vụ án hình sự phụ thuộc hoàn toàn vào ý trí của Nhà nước. Do không coi vụ án hình sự là tranh chấp pháp lý giữa các bên nên tố tụng hình sự nước ta không giải quyết vấn đề theo cách của mô hình tố tụng hình sự tranh tụng là trang bị cho các bên sự “cân bằng về vũ khí” trong quá trình giải quyết vụ án, mà giải quyết theo hướng trao chọn vẹn trách nhiệm và thẩm quyền trong việc đi tìm sự thật của vụ án cho các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Trong tố tụng hình sự Việt Nam, không hình thành một cách rõ nét về các bên, mà thay vào đó là vai trò tích cực, chủ động của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo có vai trò thụ động trong quá trình giải quyết vụ án, phụ thuộc rất lớn vào các cơ quan tiến hành tố tụng và gần như là đối tượng xem xét của các cơ quan tiến hành tố tụng. Người bị hại không có quyền lựa chọn cách thức giải quyết vụ việc. Khởi tố hay không khởi tố vụ án không phụ thuộc vào ý muốn của người bị hại, mà hoàn toàn phụ thuộc vào quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng (trừ một số ít vụ việc theo quy định của pháp luật). - Tố tụng hình sự Việt Nam đặt mục tiêu tìm đến chân lý khách quan của sự việc: Mục tiêu xuyên suốt của tố tụng hình sự nước ta là tìm ra sự thật, tìm đến chân lý khách quan của sự việc. Mục tiêu này chi phối mọi trình tự, thủ tục, cũng như thẩm quyền của các chủ thể trong tố tụng hình sự. Cách thức để đạt được mục tiêu này là pháp luật trao chọn vẹn trách nhiệm tìm kiếm chứng cứ, xác định sự thật của vụ án cho các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Cũng xuất phát từ mục tiêu này, trong tố tụng hình sự Việt Nam không tồn tại chế định “tuỳ nghi truy tố” hay “mặc cả thú tội” như trong tố tụng hình sự tranh tụng. Việc phát hiện và xử lý tội phạm mang tính bắt buộc.