SlideShare a Scribd company logo
1 of 121
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
………/……… .…../……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
PHẠM ANH TÂN
GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO ĐỒNG BÀO DÂN TỘC
ÍT NGƢỜI Ở HUYỆN SƠN HÒA, TÌNH PHÚ YÊN
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp – Luật Hành chính
Mã số: 60 38 01 02
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học :
PGS.TS NGUYỄN QUỐC SỬU
THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tác giả. Các thông
tin, số liệu được trình bày trong Luận văn là trung thực và có nguồn gốc, xuất
xứ được công bố, báo cáo rõ ràng.
Các kết quả nghiên cứu của Luận văn chưa được công bố trong bất kì
công trình nghiên cứu nào.
Phú Yên, ngày tháng năm 2017
Học viên
Phạm Anh Tân
Lời Câm Ơn
Để hoàn thành luận văn về đề tài “Giáo dục pháp luật cho đồng
bào các dån tộc ít người ở huyện Sơn Hòa, tînh Phú Yên”, tôi xin
đặc biệt câm ơn Thæy hướng dẫn PGS.TS Nguyễn Quốc Sửu
đã tận tình quan tåm hướng dẫn và giúp đỡ về nội dung, phương pháp
nghiên cứu khoa học trong suốt quá trình thực hiện Luận văn này.
Tác giâ Luận văn xin trån trọng câm ơn Ban Giám đốc,
Lãnh đäo Khoa Nhà nước pháp luật, Khoa Sau đäi học cùng Quý
thæy giáo, cô giáo cûa Học viện Hành chính Quốc gia; đồng câm ơn
các cơ quan, đơn vị, địa phương mà trong khuôn khổ đề tài đã tiến hành
nghiên cứu, điều tra„ đã täo những điều kiện hỗ trợ tốt nhçt, tham gia
góp ý kiến ûng hộ, giúp đỡ Tác giâ trong suốt quá trình học tập và thực
hiện đề tài luận văn.
Xin được bày tô lời câm ơn chån thành tới gia đình, bän bè,
đồng nghiệp đã luôn động viên, đồng hành, chia sẻ và täo điều kiện
thuận lợi giúp Tác giâ vượt qua những khó khăn để hoàn thành Luận
văn này.
Do những điều kiện chû quan, khách quan, chắc chắn kết quâ
nghiên cứu cûa Luận văn còn những điểu thiếu sót. Tác giâ rçt mong
tiếp tục nhận được những ý kiến đóng góp để hoàn thiện, nång cao chçt
lượng vçn đề được lựa chọn nghiên cứu.
Phú Yên, ngày tháng năm 2017
Học viên
Phäm Anh Tån
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT VÀ
GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO ĐỒNG BÀO DÂN TỘC ÍT NGƢỜI........10
1.1. Những vấn đề lý luận cơ bản về giáo dục pháp luật............................10
1.1.1. Khái niệm giáo dục pháp luật........................................................10
1.1.2. Mục đích của giáo dục pháp luật ..................................................13
1.1.3. Chủ thể và đối tượng của giáo dục pháp luật ...............................15
1.1.4. Nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục pháp luật.................16
1.1.5. Mối quan hệ giữa giáo dục pháp luật với các lĩnh vực giáo dục
khác..........................................................................................................17
1.2. Khái niệm, vai trò và đặc trưng công tác giáo dục pháp luật đối với
đồng bào dân tộc ít người...........................................................................19
1.2.1. Khái niệm giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc ít người......19
1.2.2. Vai trò của giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc ít người......21
1.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến giáo dục pháp luật cho đồng bào dân
tộc ít người...............................................................................................23
1.2.4. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về giáo dục pháp luật cho đồng
bào các dân tộc ít người ..........................................................................31
Tiểu kết chương 1.......................................................................................36
Chương 2: THỰC TRẠNG GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO ĐỒNG BÀO
DÂN TỘC ÍT NGƢỜI Ở HUYỆN SƠN HÒA, TỈNH PHÚ YÊN............37
2.1. Đặc điểm điều kiện tự nhiên, chính trị - kinh tế, xã hội ảnh hưởng đến
hoạt động giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc ít người ở huyện Sơn
Hòa, tỉnh Phú Yên......................................................................................37
2.1.1. Đặc điểm điều kiện tự nhiên..........................................................37
2.1.2. Về phát triển kinh tế.......................................................................39
2.1.3. Về xây dựng hệ thống chính trị, Quốc phòng – An ninh ...............41
2.1.4. Văn hóa, xã hội..............................................................................42
2.1.5. Đặc trưng văn hóa của đồng bào DTIN huyện Sơn Hòa ..............43
2.2. Tình hình giáo dục pháp luật đối với đồng bào dân tộc ít người ở huyện
Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên ..............................................................................48
2.2.1. Hoạt động tổ chức triển khai thực hiện nhiệm vụ giáo dục pháp
luật cho đồng bào dân tộc ít người ở huyện Sơn Hòa.............................48
2.2.2. Chủ thể, hình thức và nội dung giáo dục pháp luật cho đồng bào
dân tộc trên địa bàn huyện Sơn Hòa .......................................................50
2.2.3. Đánh giá chung về thực trạng công tác tuyên truyền và giáo dục
pháp luật ở huyện Sơn Hòa trong thời gian qua .....................................56
Tiểu kết chương 2.......................................................................................63
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG GIÁO DỤC
PHÁP LUẬT CHO ĐỒNG BÀO DÂN TỘC ÍT NGƢỜI Ở HUYỆN SƠN
HÒA, TỈNH PHÚ YÊN HIỆN NAY............................................................64
3.1. Quan điểm tăng cường giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc ít
người ở huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên hiện nay........................................64
3.1.1. Giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc ít người phải luôn đặt
dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng và sự chỉ đạo sâu sát của các cấp
chính quyền địaphương ...........................................................................64
3.1.2. Giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc ít người phải thu hút sự
tham gia chủ động, tích cực của tất cả các cơ quan, ban, ngành, tổ chức,
đoàn thể hữu quan ở các cấp trên địa bàn huyện Sơn Hòa ....................65
3.1.3. Phải đổi mới đồng bộ cả về nội dung, phương pháp và hình thức
giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc ít người..................................67
3.1.4. Kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục pháp luật với giáo dục về chính trị,
tư tưởng, đạo đức, lối sống cho đồng bào dân tộc ít người ....................68
3.1.5. Gắn kết chặt chẽ giữa giáo dục pháp luật với phát triển kinh tế,
văn hóa, xã hội ở vùng đồng bào dân tộc ít người, đáp ứng yêu cầu bảo
vệ trật tự, kỷ cương, an toàn xã hội.........................................................69
3.2. Các giải pháp cơ bản nhằm tăng cường giáo dục pháp luật đối với đồng
bào dân tộc ít người ở Sơn Hòa, Phú Yên hiện nay ...................................71
3.2.1. Nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm, năng lực của chủ thể, đối
tượng trong giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc ít người trên địa
bàn huyện Sơn Hòa..................................................................................71
3.2.2. Bảo đảm các điều kiện về kinh tế, chính trị, văn hóa và pháp luật
cho giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc ít người...........................87
3.2.3. Rà soát, điều chỉnh, ban hành mới các văn bản pháp quy về giáo
dục pháp luật cho đồng bào dân tộc ít người........................................100
3.2.4. Xã hội hóa giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc ít người ở
huyện Sơn Hòa.......................................................................................100
Tiểu kết chương 3.....................................................................................103
KẾT LUẬN..................................................................................................105
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 107
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU - CHỮ VIẾT TẮT
Viết tắt Chữ viết tắt
BCV Báo cáo viên
CBCC Cán bộ, công chức
DTIN Dân tộc ít người
DTTS Dân tộc thiểu số
GDPL Giáo dục pháp luật
PBGDPL Phổ biến, giáo dục pháp luật
TTV Tuyên truyền viên
XHCN Xã hội chủ nghĩa
1
PAGEMỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn
Trong công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và
lãnh đạo, đất nước ta đang tiến hành đổi mới toàn diện và sâu sắc các mặt, các
lĩnh vực của đời sống xã hội. Chúng ta đã và đang không ngừng nỗ lực xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân. Để xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền XHCN thì
bên cạnh việc xây dựng, ban hành hệ thống pháp luật đầy đủ, đồng bộ, điều
quan trọng hơn là phải đưa pháp luật vào thực tế xã hội để mọi thành viên trong
xã hội, trong đó có đồng bào các dân tộc ít người (DTIN), hiểu được những
nguyên tắc, quy định pháp luật; từ đó, sử dụng pháp luật như một công cụ để
bảo vệ lợi ích của Nhà nước, tập thể, cộng đồng và của mỗi người dân. Nhà
nước pháp quyền XHCN Việt Nam quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội
bằng pháp luật, phát huy dân chủ và không ngừng tăng cường pháp chế
XHCN, luôn luôn đặt pháp luật ở vị trí thượng tôn, yêu cầu mọi công dân phải
sống, làm việc theo pháp luật; đòi hỏi phải đẩy mạnh công tác phổ biến, giáo
dục pháp luật (PBGDPL) cho các tầng lớp nhân dân nhằm trang bị cho họ
những kiến thức, hiểu biết nhất định về pháp luật.
Đồng bào DTIN ở tỉnh Phú Yên là một bộ phận không thể tách rời của
đại gia đình các dân tộc Việt Nam, cư trú tập trung chủ yếu ở các huyện Sông
Hinh, Đồng Xuân và Sơn Hòa, có vị trí chiến lược quan trọng về mặt địa
chính trị và an ninh quốc phòng của tỉnh. Trong những năm qua, đồng bào
DTIN đã và đang có những đóng góp quan trọng cho sự nghiệp xây dựng kinh
tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh trên địa bàn tỉnh nói chung và ở
huyện Sơn Hòa nói riêng. Tuy nhiên, trình độ dân trí nói chung, trình độ kiến
thức, hiểu biết pháp luật nói riêng của đồng bào DTIN còn tương đối thấp, bên
cạnh đó ở địa bàn các huyện miền núi, các thế lực thù địch, bọn phản động như
2
“Funrô”, “Tin lành Đê-ga” vẫn có những âm mưu thâm độc, chống phá cách
mạng công cuộc đổi mới bằng chiến lược “diễn biến hòa bình”, bằng chiêu bài
“dân tộc – tôn giáo”…, lợi dụng trình độ hiểu biết pháp luật của đồng bào
DTIN còn thấp để tuyên truyền, kích động làm mất ổn định tình hình an ninh,
chính trị, kinh tế, xã hội, gây chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, gây mâu thuẫn
giữa các tôn giáo... Vì vậy, thực tế đòi hỏi cả hệ thống chính trị phải tiếp tục
có biện pháp mạnh mẽ và quyết liệt hơn trong công tác giáo dục pháp luật
(GDPL) cho nhân dân nói chung và đồng bào DTIN nói riêng.
Trong những năm qua, trên địa bàn huyện Sơn Hòa với sự nỗ lực và cố
gắng của các cấp, các ngành, công tác phổ biến, GDPL đã có những chuyển
biến tích cực, đã góp phần xây dựng ý thức sống và làm việc theo Hiến pháp
và pháp luật của cán bộ và nhân dân. Tuy nhiên, vẫn còn bộc lộ những hạn
chế, bất cập trên nhiều mặt, từ việc xác định mục tiêu GDPL, xây dựng đội
ngũ báo cáo viên (BCV), tuyên truyền viên (TTV) pháp luật, lựa chọn nội
dung, phương pháp cho đến hình thức GDPL cho đồng bào DTIN; bên cạnh
đó trách nhiệm của các cấp, các ngành chưa được xác định cụ thể, rõ ràng nên
kết quả đạt được còn thấp so với yêu cầu. Sự hiểu biết pháp luật của cán bộ và
nhân dân vùng đồng bào DTIN vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập; điều kiện để
tiếp nhận thông tin, nhất là các văn bản pháp luật của Nhà nước đối với đồng
bào vùng sâu, vùng xa bị hạn chế. Vì vậy, vẫn còn có tình trạng các luật tục
(cả tích cực và lạc hậu) của người đồng bào DTIN chi phối, điều chỉnh các
quan hệ xã hội ở thôn, buôn. Bối cảnh đó càng cho thấy việc tuyên truyền và
GDPL Nhà nước, đưa pháp luật vào cuộc sống ở đây là vấn đề đòi hỏi cần
được đáp ứng kịp thời.
Luật phổ biến, giáo dục pháp luật số 14/2012/QH13 đã quy định Phổ
biến, giáo dục pháp luật cho người dân ở vùng dân tộc thiểu số (DTTS), miền
núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, ven biển, hải đảo, vùng có điều kiện kinh tế
3
- xã hội đặc biệt khó khăn và ngư dân [Đ.17] điều đó khẳng định sự quan tâm
thiết thực của Đảng, Nhà nước ta đối với đồng bào DTIN. Một vấn đề đặt ra
là làm thế nào, cần có giải pháp gì để đưa chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước đến với đồng bào DTIN, trong đó có
đồng bào DTIN huyện Sơn Hòa đi vào thực tiễn, từng bước nâng cao hiểu
biết pháp luật cho nhân dân. Giữa hoạt động GDPL và ý thức tuân thủ, chấp
hành pháp luật, khả năng sử dụng kiến thức pháp luật để bảo vệ quyền con
người, quyền công dân, nâng cao chất lượng cuộc sống của đồng bào DTIN,
tăng cường xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc; góp phần hạn
chế tình trạng vi phạm pháp luật, giảm thiểu về tội phạm trong cộng đồng,
đảm bảo an ninh quốc phòng, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội trên địa bàn.
Như vậy hoạt động GDPL cho đồng bào DTIN huyện Sơn Hòa đang là
một yêu cầu khách quan, có tầm quan trọng trong điều kiện góp phần thúc đẩy
sự nghiệp phát triển công nghiệp hóa – hiện đại hóa, xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN hiện nay của địa phương. Đó cũng là lý do tác giả chọn nghiên
cứu vấn đề: “Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc ít người ở huyện
Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên” làm đề tài luận văn chuyên ngành Luật Hiến pháp,
Luật hành chính.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
GDPL với tư cách là một phạm trù pháp lý là một dạng hoạt động của
Nhà nước trong tổ chức thực hiện pháp luật, biện pháp tăng cường pháp chế,
vấn đề này đã thu hút sự quan tâm, nghiên cứu của nhiều cơ quan và các nhà
khoa học từ trước đến nay, đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới đất nước, đổi mới
xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Các
công trình nghiên cứu nổi bật như:
- Đào Trí Úc, "Xây dựng ý thức và lối sống theo pháp luật" [58], Tác
giả đã chỉ ra những đặc điểm về mặt xã hội, về mặt nhận thức của quá trình
4
hình thành ý thức pháp luật của con người Việt Nam, làm sáng tỏ những ảnh
hưởng của phương thức sản xuất, của các hệ tư tưởng, văn hóa, đạo đức và
tập quán truyền thống của điều kiện phát triển đất nước và cơ chế quản lý
kinh tế, quản lý xã hội đến ý thức và lối sống… và trên cơ sở nắm rõ cơ cấu,
nội dung, ý thức pháp luật của các tầng lớp, thành phần dân cư, đưa ra hệ
thống biện pháp xây dựng lối sống theo pháp luật.
- Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình lý luận Nhà nước và pháp
luật [57] chương IX- Ý thức pháp luật, các tác giả chỉ rõ mục đích của GDPL
được xem xét trên nhiều góc độ, tùy thuộc vào đối tượng giáo dục, cấp độ
giáo dục cũng như hình thức giáo dục có thể mang tính trước mắt hoặc lâu dài
vào đều hướng đến các vấn đề cơ bản: Thứ nhất, GDPL nhằm nâng cao khả
năng nhận thức pháp lý, sự hiểu biết pháp luật, hình thành tri thức pháp luật.
Hai là, GDPL nhằm khơi dậy tình cảm, lòng tin và thái độ đúng đắn đối với
pháp luật. Ba là, GDPL nhằm hình thành thói quen ứng xử theo pháp luật với
động cơ tích cực.
- Ngọ Văn Nhân, Xã hội học pháp luật (tái bản lần thứ nhất, có chỉnh
sửa, bổ sung)[33]. Theo tác giả, để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động
áp dụng pháp luật của đội ngũ Cán bộ, công chức nhà nước có thẩm quyền áp
dụng pháp luật, phụ thuộc vào trình độ tri thức, hiểu biết pháp luật và kỷ năng
nghiệp vụ của đội ngũ này. Vì vậy một biện pháp quan trọng đó chính là tăng
cường GDPL, bồi dưỡng kỷ năng nghiệp vụ cho cán bộ, công chức nhà nước
có thẩm quyền áp dụng pháp luật.
- Nguyễn Quốc Sửu, “Tăng cường giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán
bộ, công chức hành chính tỉnh Đăk Lăk”[41]. Là sách chuyên khảo về chủ đề
GDPL cho đội ngũ cán bộ, công chức hành chính ở Đăk Lăk. Trong một phần
nội dung, tác giả đã chỉ ra những nét đặc trưng của công tác GDPL với sự tác
động, ảnh hưởng của những luật tục, tập quán, lối sống, bản sắc văn hóa của
5
các DTTS; đánh giá thực trạng công tác GDPL thông qua điều tra xã hội học;
từ đó đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác này.
- Một số công trình nghiên cứu của các tác giả: "Một số vấn đề về giáo
dục pháp luật trong giai đoạn hiện nay", của Vụ Phổ biến giáo dục pháp luật,
Bộ Tư pháp, Nxb Thanh niên, 1997; "Tìm kiếm mô hình phổ biến giáo dục
pháp luật có hiệu quả trong một số dân tộc ít người", đề tài khoa học cấp Bộ
của Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý.
- Một số công trình nghiên cứu về đồng bào DTIN nói chung và đồng
bào DTIN ở tỉnh Phú Yên tiêu biểu như:
+ Ngô Đức Thịnh “Luật tục trong đời sống các tộc người Việt Nam”;
Tác giả đã chỉ rõ nguồn gốc, bản chất, các đặc trưng cơ bản và hình thức,
trình độ phát triển của luật tục. Trên cơ sở nghiên cứu luật tục của các DTTS,
tác giả đã đánh giá những tương đồng – khác biệt giữa luật tục với luật pháp
nhà nước, sự kết hợp giữa luật tục và luật pháp và vai trò của luật tục trong
phát triển nông thôn hiện nay.
+ “Lễ nghi cuộc đời của người Chăm” Sử Văn Ngọc, Hội Văn nghệ
dân gian Việt Nam (sưu tầm, biên dịch, giới thiệu) Nxb Văn hóa Dân tộc
2011; Lê Thế Vịnh “Văn hóa người Chăm H’roi tỉnh Phú Yên” Nxb Dân trí
2010.
- Một số bài viết của một số tác giả có liên quan đến nội dung GDPL
cho đồng bào DTIN thời gian gần đây:
+ “Công tác phổ biến giáo dục pháp luật ở vùng đồng bào dân tộc
thiểu số” - TS. Bế Trường Thành, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Dân tộc - Uỷ viên
Hội đồng PBGDPL của Chính phủ đã xác định: Phổ biến GDPL là một bộ
phận của công tác giáo dục chính trị tư tưởng, là nhiệm vụ của toàn bộ hệ
thống chính trị, với mục tiêu “Phổ biến kịp thời, đầy đủ những nội dung pháp
luật liên quan đến cuộc sống của các tầng lớp nhân dân, tạo điều kiện để công
6
dân sử dụng pháp luật làm phương tiện, công cụ bảo vệ quyền lợi và lợi ích
hợp pháp của mình, của nhà nước và xã hội. Nâng cao ý thức tự giác, chủ
động tìm hiểu và chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân”. Tạo bước phát
triển mới trong công tác GDPL để hỗ trợ tích cực hơn nữa nhu cầu hiểu biết
pháp luật, nâng cao dân trí pháp lý trong cán bộ, nhân dân, góp phần thực
hiện nhiệm vụ phát triển toàn diện con người Việt Nam.
+ “Một số giải pháp nâng cao chất lượng tuyên truyền pháp luật cho
đồng dân tộc thiểu số” của tác giả Vũ Ngân đăng trên Tạp chí Dân chủ và
Pháp luật ngày 23/6/2016.
+ “Kỹ năng phổ biến, giáo dục pháp luật cho người dân ở vùng dân tộc
thiểu số, miền núi, biên giới, vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã
hội đặc biệt khó khăn” của tác giả Vừ Bá Thông, Chuyên viên Vụ Pháp chế -
Ủy ban Dân tộc.
Qua tìm hiểu các công trình nghiên cứu khoa học của các tập thể và cá
nhân, các bài viết về GDPL, có thể khẳng định rằng đây là những tài liệu có
giá trị cao về mặt lý luận và thực tiễn trên phạm vi rộng của cả nước, của từng
vùng và của từng địa phương. Các công trình nghiên cứu đã chỉ ra được
những ưu điểm, hạn chế, bất cập và nguyên nhân dẫn đến thực trạng, các nhân
tố ảnh hưởng, tác động đến GDPL.
Tuy nhiên, có thể nói rằng cho đến nay chưa có một công trình nghiên
cứu về GDPL đối với đồng bào DTIN tại huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên. Từ
sự tổng quan tình hình nghiên cứu nêu trên, tác giả xác định những vấn đề đặt
ra cần được tiếp tục triển khai, đi sâu nghiên cứu trong quá trình thực hiện
luận văn. Với tư cách là một xã hội thu nhỏ của cộng đồng DTIN cùng sinh
sống ở huyện Sơn Hòa, trong giai đoạn hiện nay cần tiếp tục chú trọng đúng
mức, cấp thiết của việc GDPL và coi đây là nhiệm vụ chính trị quan trọng để
7
góp phần vào việc ổn định tình hình và phát triển kinh tế - xã hội ở một huyện
miền núi như Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu về hoạt động GDPL cho
đồng bào DTIN. Đây là đề tài có đối tượng nghiên cứu tương đối rộng, song
trong khuôn khổ nghiên cứu, luận văn chỉ đề cập về công tác GDPL cho đối
tượng là đồng bào DTIN trên địa bàn Huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên nói
chung và đại diện tiêu biểu là đồng bào DTIN chiếm số đông trong cộng đồng
các DTIN ở huyện Sơn Hòa gồm: đồng bào Chăm Hroi và đồng bào Ê đê.
- Phạm vi nghiên cứu của luận văn được giới hạn theo không gian, thời
gian và tính chất nghiên cứu. Theo không gian, phạm vi khảo sát thực tiễn vấn
đề nghiên cứu của luận văn chỉ giới hạn ở huyện Sơn Hòa, tập trung khu vực các
xã vùng III và nơi có đông đồng bào DTIN sinh sống. Theo thời gian, khảo sát
hoạt động GDPL cho đồng bào DTIN trong thời gian từ năm 2010 đến nay. Về
tính chất nghiên cứu, luận văn tập trung nghiên cứu sâu về hoạt động GDPL cho
đồng bào DTIN ở huyện Sơn Hòa.
4. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích của luận văn: trên cơ sở nghiên cứu phân tích lý luận, đánh giá
thực tiễn công tác GDPL cho đồng bào DTIN ở huyện Sơn Hòa; luận văn đề
xuất quan điểm, giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả bảo đảm công tác
GDPL cho đồng bào DTIN trên địa bàn huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên hiện nay.
- Nhiệm vụ của luận văn: Để hoàn thành mục đích đặt ra, luận văn thực
hiện các nhiệm vụ sau:
Thứ nhất: phân tích cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý của hoạt động GDPL
nói chung và cho đồng bào DTIN bao gồm: khái niệm, đặc trưng, mục tiêu,
chủ thể, đối tượng, nội dung, phương pháp, hình thức...; những yếu tố tác
động đến công tác GDPL cho nhóm đối tượng này.
8
Thứ hai: khảo sát, đánh giá đặc điểm tình hình kinh tế, văn hóa – xã hội
ở vùng đồng bào DTIN trên địa bàn nghiên cứu có ảnh hưởng đến công tác
GDPL trong giai đoạn 2010-2017. Làm rõ thực trạng công tác GDPL cho
đồng bào DTIN trên địa bàn huyện Sơn Hòa giai đoạn 2010-2017, trên
phương diện những kết quả đạt được, những tồn tại hạn chế, tìm nguyên nhân
của thực trạng; từ đó đúc kết những bài học kinh nghiệm phục vụ cho việc
kiến nghị, đề xuất xây dựng các giải pháp nhằm đảm bảo chất lượng, hiệu quả
của công tác này.
Thứ ba: trên cơ sở các quan điểm có tính chất chỉ đạo, Luận văn đề
xuất, luận giải tính khả thi của các giải pháp đảm bảo nâng cao về chất lượng,
hiệu quả trong hoạt động công tác GDPL cho đồng bào DTIN huyện Sơn Hòa
trong giai đoạn tiếp theo.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận triết học
Mác – Lênin về chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, lý
luận nhận thức; dựa trên tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và pháp
luật Nhà nước ta về công tác dân tộc, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, về
vai trò GDPL nói chung và cho đồng bào DTIN nói riêng.
- Phương pháp nghiên cứu: Để hoàn thành mục đích và nhiệm vụ
nghiên cứu, luận văn sử dụng các phương pháp tổng hợp và phân tích;
phương pháp lịch sử và lôgic; thống kê so sánh; khái quát hóa, hệ thống hóa...
trong quá trình thực hiện luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn luận giải, khái quát và nêu các đặc trưng của hoạt động
GDPL cho đồng bào DTIN ở huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên; chỉ ra các yếu tố
chủ quan, khách quan có tác động đến công tác GDPL cho đồng bào DTIN
trên địa bàn nghiên cứu.
9
- Từ việc tham khảo, nghiên cứu kinh nghiệm về công tác GDPL cho nhân
dân tại một số địa phương, một số vùng ở Việt Nam, luận văn rút ra những bài học
kinh nghiệm có thể vận dụng trên địa bàn huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên.
- Trong khuôn khổ nghiên cứu của luận văn, căn cứ kết quả tìm hiểu,
nắm bắt thông tin và từ các nguồn tài liệu có sẵn; tập trung phân tích, đánh
giá, chỉ ra những kết quả, hạn chế, nguyên nhân trong công tác GDPL cho
đồng bào DTIN ở huyện Sơn Hòa.
- Luận văn đưa ra những đề xuất, kiến nghị và giải pháp toàn diện, đảm
bảo nâng cao chất lượng, hiệu quả trong GDPL cho đồng bào DTIN trên địa
bàn huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên.
Luận văn đề cập, phân tích một trong những vấn đề quan trọng và cấp
thiết những chưa được nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống vấn đề
GDPL cho đồng bào DTIN ở huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên. Kết quả nghiên
cứu của luận văn góp phần làm phong phú thêm lý luận về GDPL cho một đối
tượng, khu vực cụ thể; đồng thời bổ sung thêm những luận cứ khoa học và
thực tiễn cho việc xây dựng, hoàn thiện về lý luận về GDPL cho đồng bào các
DTIN ở tỉnh Phú Yên nói chung và đồng bào DTIN ở huyện Sơn Hòa, tỉnh
Phú Yên nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu thành 3 chương, 10 tiết.
Chương 1: Những vấn đề lý luận về giáo dục pháp luật và giáo dục
pháp luật cho đồng bào dân tộc ít người
Chương 2: Thực trạng giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc ít
người ở huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên
Chương 3: Quan điểm và giải pháp tăng cường giáo dục pháp luật cho
đồng bào dân tộc ít người ở huyện sơn hòa, tỉnh phú yên hiện nay
10
Chương 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT VÀ GIÁO
DỤC PHÁP LUẬT CHO ĐỒNG BÀO DÂN TỘC ÍT NGƢỜI
1.1. Những vấn đề lý luận cơ bản về giáo dục pháp luật
1.1.1. Khái niệm giáo dục pháp luật
GDPL là vấn đề lý luận cơ bản có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong
khoa học giáo dục cũng như trong sự nghiệp giáo dục ở nước ta. Khái niệm
GDPL thường được quan niệm là một dạng hoạt động gắn liền với việc triển
khai thực hiện pháp luật cũng như trong hoạt động thực tiễn áp dụng pháp
luật. Với tư cách là một dạng giáo dục thì GDPL ở nước ta hình thành và thực
hiện muộn hơn so với giáo dục chính trị, và giáo dục đạo đức. Với tư cách là
một khái niệm pháp lý - GDPL được hình thành trong khoa học pháp lý cũng
như được tiến hành trong thực tế ở nước ta rất muộn mằn so với nhiều nước
trên thế giới. Chính vì vậy, quan niệm về GDPL ở nước ta vẫn còn có nhiều ý
kiến khác nhau, đó là lẽ bình thường. Song để có một cách nhìn nhận đúng
đắn khoa học về GDPL, trước hết cần xem xét một số các quan niệm về
GDPL cơ bản sau đây:
- Quan niệm thứ nhất cho rằng: GDPL là một bộ phận của giáo dục
chính trị tư tưởng, đạo đức. Theo quan niệm này khi tiến hành giáo dục chính
trị tư tưởng, các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng cho nhân dân thì
tự nó sẽ hình thành nên ý thức pháp luật. Điều đó có ý nghĩa làm tốt công tác
giáo dục chính trị tư tưởng, giáo dục đạo đức sẽ đạt được sự tôn trọng pháp
luật của nhân dân.
- Quan niệm thứ hai: Xem GDPL chỉ đơn thuần là hoạt động phổ biến
tuyên truyền, giải thích pháp luật thông qua các phương tiện thông tin, truyền
thông đại chúng như: đài phát thanh, truyền hình và sách báo. Chỉ cần làm tốt
11
công tác thông tin, phổ biến tuyên truyền pháp luật như vậy là có thể làm tốt
công tác GDPL.
- Quan niệm thứ ba: GDPL là lấy "trừng trị" để giáo dục người vi phạm
và răn đe, giáo dục người khác. Thông qua việc xử lý những hành vi vi phạm
pháp luật cũng như áp dụng hình phạt đối với người phạm tội, xử phạt vi
phạm hành chính hay áp dụng các chế độ trách nhiệm dân sự sẽ có tác dụng
GDPL cho mọi người.
- Quan niệm thứ tư cho rằng: công tác GDPL đồng nghĩa với việc dạy
và học pháp luật ở các trường học, còn việc tuyên truyền phổ biến pháp luật ở
ngoài xã hội thì không phải là GDPL.
Các quan niệm trên, mặc dù ở những góc độ khác nhau nhưng đều có
sự nhìn nhận GDPL ở những khía cạnh và mức độ hợp lý nhất định. Song ở
các quan niệm đó đều bộc lộ ít nhiều sự phiến diện; chưa thể hiện được đặc
thù và giá trị vốn có của GDPL. Vì vậy, những quan niệm đó đã hạ thấp vai
trò, vị trí xã hội của GDPL. Mặt khác trong thực tiễn, các quan niệm trên đã
không tạo ra khả năng hoặc thậm chí cản trở việc triển khai hoạt động GDPL
có tổ chức cũng như quy mô việc thực hiện pháp luật; làm cho hiệu lực, hiệu
quả của pháp luật trong thực tế không cao.
Để có quan niệm đúng đắn về GDPL, con đường duy nhất cần tiếp cận
là những thành tựu của khoa học giáo dục học. Giáo dục là một hiện tượng xã
hội và chỉ có trong xã hội loài người thể hiện nền văn minh nhân loại. Giáo
dục luôn luôn là nhu cầu của xã hội, nó có vai trò tác động trở lại xã hội. Vì
thế mà các nhà nước của giai cấp cầm quyền, để bảo vệ quyền lợi của mình
đều thông qua giáo dục. Trong khoa học sư phạm, giáo dục được hiểu theo
hai nghĩa đó là nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
- Theo nghĩa rộng: giáo dục là sự ảnh hưởng, tác động của những điều
kiện khách quan (như chế độ xã hội, trình độ phát triển kinh tế, môi trường
12
sống....) và của cả những nhân tố chủ quan (tác động tự giác, có chủ định và
định hướng của nhân tố con người) nhằm hình thành những phẩm chất, kỹ
năng nhất định của đối tượng giáo dục.
- Theo nghĩa hẹp: giáo dục là quá trình tác động định hướng của nhân
tố chủ quan lên khách thể giáo dục, nhằm truyền bá những kinh nghiệm đấu
tranh và sản xuất, những tri thức về tự nhiên, xã hội và tư duy, để họ có đầy
đủ khả năng tham gia vào lao động và đời sống xã hội.
Trong quá trình hoạt động thực tiễn, các nhà lý luận cũng đã thừa nhận
những yếu tố ảnh hưởng của các điều kiện khách quan tác động đến sự hình
thành ý thức cá nhân của con người. Song các nhà lý luận khoa học sư phạm
đã nhấn mạnh đến yếu tố tác động hàng đầu cực kỳ quan trọng và thậm chí
quyết định của nhân tố chủ quan trong giáo dục. Vì vậy khái niệm giáo dục
hiện nay chúng ta thường được hiểu theo nghĩa hẹp, từ đó các nhà khoa học
đã xây dựng khái niệm GDPL bởi các yếu tố sau đây:
- Thứ nhất: Sự hình thành ý thức của con người là một quá trình chịu
ảnh hưởng và sự tác động của các điều kiện khách quan lẫn các nhân tố chủ
quan. Các Mác viết: "Con người vốn là sản phẩm của hoàn cảnh và giáo dục.
Và do đó con người đã biến đổi là sản phẩm của những hoàn cảnh khác và
của một nền giáo dục đã thay đổi" [5, Tr.10]. Khi nghiên cứu sự tác động ảnh
hưởng lên ý thức con người thì các nhà lý luận giáo dục đã phân biệt điều
kiện khách quan và chủ quan. Điều kiện khách quan là những yếu tố ảnh
hưởng hình thành lên ý thức con người và điều kiện chủ quan là nhân tố tác
động có chủ đích, có định hướng, có nội dung và phạm vi nhất định. Vậy theo
nghĩa hẹp của giáo dục có thể vận dụng vào quan niệm GDPL đó là sự tác
động có định hướng của nhân tố chủ quan bằng việc xác định nội dung,
chương trình pháp luật cần đưa vào kế hoạch giáo dục cho công dân.
13
- Thứ hai: Từ nghĩa hẹp của khái niệm giáo dục trong khoa học sư phạm
để xây dựng khái niệm GDPL chúng ta nhận thức được mối quan hệ giữa “cái
chung” và “cái riêng”, “cái đặc thù”; trong mối quan hệ với giáo dục nói chung
là “cái chung”, “cái phổ biến”, “cái riêng” vừa phải mang những đặc điểm chung
vừa phải mang tính thể hiện những nét đặc thù. GDPL là “cái riêng” “cái đặc
thù” trong mối quan hệ với giáo dục là “cái chung”, “cái phổ biến”. Tính đặc thù
của GDPL so với các hoạt động giáo dục khác ở một số điểm: về mục đích, nội
dung, về chủ thể, đối tượng, hình thức, phương pháp GDPL.
- Thứ ba: Quan niệm GDPL vận dụng từ nghĩa hẹp của giáo dục có ý
nghĩa quan trọng trong việc phân biệt hai phạm trù: GDPL và ý thức pháp
luật. Hoạt động GDPL là sự tác động của nhân tố chủ quan, mà trước hết là
hoạt động có định hướng, có tổ chức, có chủ định về kế hoạch về nội dung,
chương trình, còn sự hình thành ý thức pháp luật là sản phẩm, là kết quả của
các ảnh hưởng của điều kiện khách quan, là sự tác động của nhân tố chủ quan,
nhưng nhân tố chủ quan này lại có vai trò chủ đạo và quyết định đến sự hình
thành ý thức pháp luật.
Tóm lại: Từ phân tích như trên có thể khái quát về GDPL như sau:
Giáo dục pháp luật là quá trình hoạt động có mục đích, có tổ chức, có kế
hoạch, theo nội dung và thông qua những phương pháp, hình thức nhất định
từ phía chủ thể GDPL, tác động đến đối tượng tiếp nhận GDPL nhằm làm
hình thành và phát triển ở họ hệ thống tri thức pháp luật, trình độ hiểu biết về
pháp luật; làm hình thành tình cảm, thói quen và hành vi ứng xử tích cực theo
pháp luật [39, tr.54] và đòi hỏi của nền pháp chế XHCN.
1.1.2. Mục đích của giáo dục pháp luật
Khi tiến hành bất cứ một hoạt động nào đó thì chúng ta phải xác định
mục đích để làm gì? cần đạt được mục đích ấy bằng con đường nào? phải
lựa chọn hình thức và phương pháp nhất định nào? Xác định đúng đắn mục
14
đích của GDPL chẳng những là căn cứ, tiêu chí để đánh giá hiệu quả mà còn
là căn cứ để xây dựng nội dung GDPL phù hợp với đối tượng được giáo dục.
Mục đích của GDPL khác với mục đích các dạng giáo dục khác ở các vấn đề
sau đây:
- Một là: Từng bước nâng cao nhận thức, mở rộng hiểu biết về pháp luật
cho công dân. Mục đích được đặt ra là không ngừng nâng cao nhận thức pháp
lý cho đối tượng được GDPL để họ có kiến thức vững vàng nắm bắt được
những tri thức về Nhà nước, về pháp luật và đặc biệt là pháp luật thực định.
- Hai là: Hình thành tình cảm pháp lý và niềm tin nội tâm đối với pháp
luật. Việc nâng cao trình độ kiến thức pháp lý là mục đích đầu tiên vô cùng
quan trọng nhưng bản thân nó chưa phải là sự quyết định đến hành vi xử sự
hợp pháp. Nếu đã có kiến thức pháp luật, nhưng trong mỗi con người cần phải
có tình cảm pháp lý, nghĩa là có thái độ tôn trọng pháp luật và tin tưởng vào
sự công bằng của pháp luật từ đó mới tạo ra khả năng điều chỉnh hành vi hợp
pháp của mình. Để có được tình cảm và lòng tin vào pháp luật thì cần phải
giáo dục tình cảm, lòng tin và sự công bằng, trách nhiệm, nghĩa vụ của công
dân, thái độ không khoan nhượng với hành vi vi phạm pháp luật.
- Ba là GDPL nhằm hình thành động cơ, hành vi và thói quen xử sự
hợp pháp, tích cực. Hành vi xử sự theo pháp luật của con người là kết quả của
một quá trình nhận thức pháp luật. Để đạt được mục đích này trong quá trình
GDPL phải lựa chọn nhiều hình thức, phương pháp và thường xuyên, liên tục
để mọi công dân hiểu được sự cần thiết, tính hợp lý của pháp luật vì lợi ích
chung của xã hội.
GDPL nhằm đạt được ba mục đích nêu trên, ngoài ra mục đích của nó
còn giúp cho việc xác định hiệu quả của quá trình GDPL. Không dựa vào mục
đích của GDPL thì không thể đánh giá được hiệu quả và các chỉ số xác định
hiệu quả của quá trình GDPL.
15
1.1.3. Chủ thể và đối tượng của giáo dục pháp luật
Trong hoạt động GDPL những người (cá nhân, tổ chức) theo chức năng
của mình tham gia vào việc truyền thụ phổ biến pháp luật như giảng dạy, trình
bày, giải thích, pháp luật gọi là chủ thể, những người được truyền thụ học tập,
nghiên cứu, tìm hiểu pháp luật gọi là (đối tượng).
- Về chủ thể của GDPL:
Trong lý luận về giáo dục học, chủ thể giáo dục là những thầy giáo, cô
giáo và tất cả những người làm công tác giáo dục khác. Theo từ điển Tiếng
Việt: Chủ thể nói chung được hiểu "là đối tượng gây ra hành động mang tính
tác động trong quan hệ đối lập với đối tượng bị chi phối bởi hành động tác
động, gọi là khách thể". Vận dụng vào GDPL, có thể hiểu chủ thể GDPL là
những người hoạt động GDPL. Hay nói khác đi thì chủ thể GDPL được hiểu
là tất cả những người, mà theo chức năng, nhiệm vụ hay trách nhiệm xã hội
đã tham gia góp phần vào việc thực hiện các mục tiêu GDPL. Việc xác định
chủ thể, đối tượng GDPL có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn. Trong mối quan
hệ và sự tác động qua lại giữa chủ thể và đối tượng GDPL trong quá trình
GDPL, chủ thể khi tiến hành mọi hoạt động GDPL thì sự tác động đó có ý
thức, có mục đích, có kế hoạch đến đối tượng giáo dục. Trên cơ sở đó, chủ thể
xác định những nhu cầu, khả năng và điều kiện tiếp nhận tác động GDPL của
đối tượng cũng như các yêu cầu đòi hỏi khách quan đối với các chủ thể GDPL
trong việc xác định nội dung, hình thức, phương pháp phù hợp để tiếp cận
GDPL và tiến hành giáo dục có hiệu quả cao nhất.
- Về đối tượng GDPL:
Vấn đề đối tượng của GDPL có quan hệ chặt chẽ với chủ thể, bởi lẽ
chủ thể khi tiến hành hoạt động GDPL thì phải xác định đối tượng là ai? cơ
quan, tổ chức hay cá nhân, công dân nào? trình độ, tuổi tác?... Trên cơ sở xác
định đúng đắn đối tượng cần GDPL thì chủ thể mới lựa chọn hình thức và
16
phương pháp thích hợp. Đối tượng GDPL có thể là những cá nhân công dân,
hay cơ quan tổ chức hoặc một nhóm cộng đồng dân cư trong xã hội được tiếp
nhận tác động của các hoạt động GDPL trực tiếp hoặc gián tiếp do chủ thể
GDPL tiến hành nhằm đạt được mục đích đặt ra.
1.1.4. Nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục pháp luật
- Nội dung GDPL: Việc xác định nội dung của GDPL là vấn đề đặc
biệt quan trọng, bởi việc xác định nội dung GDPL là gì? mức độ như thế nào?
cho từng loại đối tượng nào?... là vấn đề cốt lõi quyết định hiệu quả của
GDPL. Hay nói cách khác trên cơ sở mục đích và đối tượng mà xác định một
nội dung GDPL thiết thực để có hiệu quả cao. Nội dung GDPL nói chung là
một phạm vi rộng bao gồm kiến thức pháp luật cơ bản như lý luận khoa học
về pháp luật, các ngành luật, các văn bản pháp luật thực định. Ngoài ra nội
dung của GDPL còn bao hàm các thông tin về việc thực hiện pháp luật, về
việc điều tra, xét xử các vụ án hình sự, dân sự, kinh tế, cả về nghiên cứu điều
tra xã hội học pháp luật.
- Hình thức, phương pháp GDPL: Cần phải thông qua các phương
thức truyền tải thông tin, các hình thức giao tiếp giữa chủ thể và đối tượng
GDPL bằng những hình thức và phương pháp khác nhau. Nếu chủ thế giáo
dục biết lựa chọn các hình thức và phương pháp nào phù hợp với đối tượng
thì giáo dục sẽ mang lại hiệu quả cao. Nếu hình thức và phương pháp không
phù hợp thì hiệu quả sẽ thấp. Giữa hình thức, phương pháp và nội dung của
GDPL cũng có mối quan hệ tác động lẫn nhau, nó có tác động làm cho việc
truyền tải nội dung thấm sâu vào nhận thức của đối tượng và nội dung đến
lượt nó càng trở nên hoàn thiện hơn, thông qua việc truyền tải thông tin để bổ
sung chương trình nội dung GDPL.
Về phương pháp GDPL: có thể nói rằng trong khoa học pháp lý chưa
có một định nghĩa nào về phương pháp GDPL. Tuy nhiên theo khoa học sư
17
phạm thì phương pháp giảng dạy là các con đường, cách thức, biện pháp tác
động để chiếm lĩnh nội dung giảng dạy và đạt được mục đích giảng dạy.
Phương pháp GDPL là cách thức, biện pháp được chủ thể sử dụng để truyền
đạt nội dung pháp luật tác động đến đối tượng nhằm mục đích nâng cao nhận
thức pháp luật, tình cảm và lòng tin cũng như thói quen xử sự theo pháp luật.
1.1.5. Mối quan hệ giữa giáo dục pháp luật với các lĩnh vực giáo dục khác
- GDPL với giáo dục chính trị tư tưởng: Chính trị tư tưởng là một lĩnh
vực thuộc phạm trù ý thức, trong đó lập trường giai cấp, đường lối cách mạng
của Đảng cầm quyền là đường lối chính trị, là bản chất của giai cấp. Pháp luật
là sự cụ thể hóa, thể chế hóa tư tưởng đường lối của Đảng cầm quyền. Vì vậy
khi GDPL cũng hình thành nên ở đối tượng lập trường giai cấp và ý thức
chính trị. Ở nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam “là lực lượng lãnh đạo Nhà
nước và xã hội”. Đường lối chính sách của Đảng là “linh hồn” của pháp luật.
Đường lối nghị quyết của Đảng được thể chế hóa, cụ thể hóa bằng pháp luật.
Đã có thời gian dài trước đây, giáo dục chính trị được coi là nhiệm vụ hàng
đầu, là chủ yếu nên dẫn đến việc xem nhẹ GDPL. Cần phải xác định rằng giáo
dục chính trị tư tưởng khác với GDPL. Song giữa chúng có quan hệ mật thiết
với nhau.
Trong giáo dục chính trị tư tưởng có chứa đựng, đan xen nhất định
trong nội dung của mình những hiện tượng của pháp luật, cũng có những
quan hệ tích cực đối với những đòi hỏi của pháp luật, kích thích lợi ích được
điều chỉnh bằng pháp luật. Mối quan hệ mật thiết qua lại giữa GDPL và giáo
dục chính trị tư tưởng đòi hỏi các chủ thể giáo dục phải biết kết hợp tiến hành
đồng thời GDPL với giáo dục chính trị tư tưởng.
- GDPL và giáo dục đạo đức: Giữa pháp luật và đạo đức có mối quan
hệ chặt chẽ với nhau. Những quy định pháp luật là phù hợp với đạo đức và có
nhiều quy phạm đạo đức được Nhà nước thừa nhận trở thành quy tắc xử sự
18
bắt buộc như quy phạm pháp luật bởi nó thể hiện giá trị chung phổ biến của
xã hội. Do vậy giáo dục đạo đức tạo nên những tiền đề cần thiết để hình thành
ở công dân sự tôn trọng đối với pháp luật, ngược lại GDPL tạo khả năng thiết
lập trên thực tế những nguyên tắc đạo đức mới. Các quy phạm pháp luật và
quy tắc đạo đức đều là quy tắc điều chỉnh hành vi xử sự của con người, loại
quy phạm này có những điểm chung nhất tác động lên con người, đó là: Hình
thành nên lòng tin và sự cần thiết tuân theo những nguyên tắc cơ bản của đạo
đức; Mang lại niềm tin vào giá trị xã hội của pháp luật; Tạo ra thói quen xử
sự trong các hoàn cảnh cụ thể theo các tiêu chuẩn đạo đức và pháp luật.
Đồng thời thông qua GDPL - con đường hình thành ý thức pháp luật của công
dân; nhờ đó các quy tắc đạo đức của giai cấp bóc lột và các tập quán hủ tục
lạc hậu sẽ bị xã hội loại trừ và đi đến xóa bỏ. Do mối quan hệ giữa pháp luật
và đạo đức chặt chẽ như vậy và sự tác động qua lại lẫn nhau giữa chúng, đòi
hỏi cần chú trọng đến sự tác động của giáo dục đạo đức và GDPL.
- GDPL và giáo dục đào tạo các ngành khoa học khác:
+ Đào tạo pháp luật: là một quá trình giáo dục kiến thức lý luận khoa
học pháp lý cơ bản và kiến thức pháp luật thực định, nhằm cung cấp cho đối
tượng giáo dục những tri thức pháp luật. Đào tạo pháp luật được tiến hành
theo chương trình kế hoạch và thời gian nhất định. Quá trình đào tạo cũng là
quá trình GDPL. Theo chúng tôi không nên tách biệt hoàn toàn khái niệm
GDPL và đào tạo pháp luật nhưng rõ ràng khái niệm GDPL rộng hơn đào tạo
pháp luật làm rõ mối quan hệ này có ý nghĩa là trong thực tế khi tiến hành
GDPL có thể vận dụng nhiều hình thức, phương pháp để truyền tải thông tin
pháp lý đến đối tượng giáo dục vì đối tượng GDPL phong phú hơn, đa dạng
hơn đào tạo pháp luật.
+ Các ngành khoa học tự nhiên có đặc thù của nó là nghiên cứu khoa
học trong lĩnh vực tự nhiên như toán học, hóa học, vật lý học... tuy nhiên khi
19
GDPL cần phải sử dụng đến kiến thức của khoa học tự nhiên để luận giải cho
một quy định nào đó của pháp luật.
+ Khoa học xã hội là các ngành khoa học nghiên cứu về xã hội về con
người và tổ chức của con người trong xã hội. Vì thế GDPL nó có quan hệ gắn
chặt với giáo dục các môn của khoa học xã hội. Những cơ sở khoa học của
việc xây dựng các quy phạm pháp luật điều chỉnh hành vi của con người trong
xã hội và biện pháp phòng ngừa đối với xã hội đều cần đến tri thức của khoa
học xã hội.
Từ sự phân tích các mối quan hệ GDPL với các ngành khoa học khác
cho thấy GDPL có liên quan mật thiết với đào tạo pháp luật, khoa học tự
nhiên, khoa học xã hội. Vì vậy chủ thể của GDPL phải nghiên cứu tìm hiểu để
có kiến thức sâu rộng khi luận giải một quy định nào đó của pháp luật có như
vậy thì khả năng giảng dạy, truyền thụ mới sâu sắc, mới hấp dẫn và có cơ sở
khoa học. Đó cũng có nghĩa là tránh tình trạng nói suông, giáo điều không tạo
được niềm tin vào pháp luật một cách sâu sắc và nhanh nhất.
1.2. Khái niệm, vai trò và đặc trƣng công tác giáo dục pháp luật đối với
đồng bào dân tộc ít ngƣời
1.2.1. Khái niệm giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc ít người
Giáo dục pháp luật cho đồng bào DTIN trong giai đoạn hiện nay là một
trong những yêu cầu có tính khách quan, cấp thiết, là một loại hoạt động có ý
nghĩa xã hội đặc biệt quan trọng, hướng tới cung cấp, trang bị cho đồng bào
DTIN những kiến thức, hiểu biết nhất định về pháp luật; từ đó, làm hình thành
ở họ ý thức tôn trọng pháp luật, biết tuân thủ, chấp hành, sử dụng pháp luật một
cách chủ động, tích cực và đúng đắn.
Để có thể khái niệm về công tác GDPL cho đồng bào DTIN thì nhất
thiết phải đề cập đến các khía cạnh sau: Thứ nhất, GDPL là hoạt động thể hiện
sự tương tác giữa chủ thể GDPL và đối tượng GDPL. Chủ thể GDPL ở đây
20
chính là các cơ quan, ban, ngành, tổ chức, đoàn thể có chức năng, nhiệm vụ thực
hiện GDPL như Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp, Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) Việt
Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội... Đối tượng tiếp nhận GDPL ở đây chính
là đồng bào DTIN. Thứ hai, GDPL cho đồng bào DTIN là hoạt động có định
hướng, có mục đích, bao hàm những tác động tự giác, tích cực, tuân theo kế
hoạch đã được xác định của chủ thể GDPL lên đối tượng GDPL với các nội
dung cụ thể. Thứ ba, quá trình GDPL cho đồng bào DTIN luôn tuân theo nội
dung, chương trình PBGDPL cụ thể, dựa trên các phương pháp GDPL khoa
học, hiện đại và các hình thức GDPL phù hợp với đặc điểm tình hình kinh tế,
văn hóa, lối sống của đồng bào DTIN nhằm hiện thực hóa một cách tối ưu mục
tiêu GDPL cho họ. Ngoài ra, hoạt động GDPL cho đồng bào DTIN cũng phải
phù hợp với các đặc điểm văn hóa, lối sống, phong tục tập quán, truyền thống
tôn giáo, tín ngưỡng của đồng bào. Thứ tư, các chủ thể GDPL phải chú trọng
trang bị cho đồng bào DTIN những kiến thức, hiểu biết về các lĩnh vực pháp
luật có liên quan mật thiết với cuộc sống, lao động của họ với nội dung thật cụ
thể, rõ ràng; phương pháp phải truyền đạt dễ hiểu, dễ nhớ; hình thức phải hấp
dẫn, sinh động, phù hợp với truyền thống văn hóa, tập quán lao động, sinh hoạt,
học vấn của đồng bào DTIN. Thứ năm, GDPL cho đồng bào DTIN, suy cho
cùng, phải đạt được mục tiêu, hiệu quả mà chủ thể GDPL đặt ra và cũng là
những tiêu chí để đánh giá chất lượng công tác này. Mục tiêu, hiệu quả của
GDPL cho đồng bào DTIN phải được đánh giá qua việc người dân đạt được
những mục tiêu cụ thể gì từ quá trình này và được nhìn nhận trên ba tiêu chí:
mục tiêu về nhận thức, mục tiêu về thái độ và mục tiêu về hành vi.
Từ sự phân tích các khía cạnh nêu trên, có thể đưa ra khái niệm: GDPL
cho đồng bào DTIN là hoạt động có định hướng, có tổ chức, do các chủ thể
GDPL tiến hành theo chương trình, nội dung, phương pháp và hình thức nhất
định phù hợp với truyền thống văn hóa, tín ngưỡng, tập quán sản xuất, sinh hoạt
21
của đồng bào; làm hình thành ở họ ý thức pháp luật, tình cảm pháp luật và
hành vi phù hợp với các yêu cầu của pháp luật hiện hành; góp phần xây dựng,
củng cố ý thức về quyền con người, quyền công dân của đồng bào DTIN để họ
có thể tiếp cận, bảo vệ các quyền đó một cách hiệu quả.
1.2.2. Vai trò của giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc ít người
- Giáo dục pháp luật góp phần cung cấp, trang bị, nâng cao kiến thức,
hiểu biết pháp luật cho đồng bào DTIN
Một trong những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền XHCN là
pháp luật luôn được đặt ở vị trí thượng tôn, không một cơ quan, tổ chức hay cá
nhân nào có thể đứng ngoài hay đứng trên pháp luật. “Nhà nước được tổ chức và
hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp
luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ” [38, khoản 1. Đ. 8] Nhà nước xây
dựng, ban hành pháp luật là đề điều chỉnh các quan hệ xã hội, bảo vệ các quyền,
lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhà nước, tập thể và công dân. Muốn cho pháp
luật được thực hiện một cách đầy đủ, nghiêm túc trong thực tế xã hội, phát huy
được đầy đủ vai trò, chức năng của nó thì pháp luật phải được thẩm thấu vào
trong nhận thức và bộc lộ ra thông qua hành vi pháp luật hợp pháp của mỗi
thành viên trong xã hội. Tuy nhiên, pháp luật không thể tự nó đến được với mỗi
người, mà phải thông qua GDPL.
Đối với đồng bào DTIN, vì nhiều nguyên nhân về lịch sử, địa lý,
kinh tế, xã hội… mà trình độ dân trí về pháp luật còn nhiều hạn chế. Có
những người đồng bào DTIN chỉ biết rất ít hoặc hầu như không biết đến
các quy định pháp luật, trong đó có các quy định về quyền con người,
quyền công dân, từ đó dẫn đến khó có thể tiếp cận, bảo vệ quyền con
người, quyền công dân của mình. Muốn trang bị kiến thức pháp luật cho
đồng bào DTIN thì phương thức chủ yếu mà các cơ quan chức năng phải
triển khai là GDPL cho họ. Điều đó nói lên một trong những vai trò hết sức
22
quan trọng của GDPL là góp phần cung cấp, trang bị, nâng cao kiến thức,
hiểu biết pháp luật cho đồng bào DTIN.
- Giáo dục pháp luật góp phần xây dựng, củng cố tình cảm, niềm tin của
đồng bào DTIN đối với phápluật
Pháp luật chỉ có thể được mọi người dân thực hiện nghiêm chỉnh và thực
sự phát huy hiệu lực, hiệu quả khi họ tin tưởng vào các nguyên tắc, quy định của
pháp luật. Chỉ khi nào người dân nhận thức đúng đắn, đầy đủ các nguyên tắc,
quy định của pháp luật thì họ mới có thể thực hiện pháp luật một cách tự giác mà
không cần một biện pháp cưỡng chế nào từ phía Nhà nước. Từ vai trò cung cấp
thông tin, nâng cao trình độ kiến thức, hiểu biết pháp luật cho các tầng lớp nhân
dân, GDPL góp phần xây dựng, củng cố niềm tin của nhân dân đối với pháp
luật. Có niềm tin vào tính công bằng, nghiêm minh của pháp luật, đồng bào
DTIN sẽ biết cách thực hiện hành vi pháp luật phù hợp với các yêu cầu, đòi hỏi
của pháp luật một cách độc lập, tự nguyện, tự giác.
- Giáo dục pháp luật góp phần nâng cao ý thức tự giác chấp hành pháp
luật, thực hiện hành vi pháp luật hợp pháp cho đồng bào DTIN
Ý thức tự giác chấp hành pháp luật của đồng bào DTIN chỉ có thể được
nâng cao khi GDPL được tiến hành thường xuyên, kịp thời, hiệu quả, có tính
thuyết phục, góp phần hình thành, củng cố tình cảm tốt đẹp, niềm tin của đồng
bào đối với pháp luật, ngày càng nâng cao hiểu biết của họ về các văn bản
QPPL, các sự kiện, hiện tượng pháp luật xảy ra trong đời sống xã hội; từ đó,
nâng cao ý thức tự giác chấp hành pháp luật của đồng bào DTIN.
Để hoạt động GDPL cho đồng bào DTIN góp phần xây dựng, củng cố
niềm tin của đồng bào đối với pháp luật thì cần giáo dục tình cảm công bằng,
tình cảm trách nhiệm và nhận thức không khoan nhượng đối với các hành vi
phạm pháp, phạm tội. Giáo dục tình cảm công bằng là giáo dục cho đồng bào
DTIN biết đánh giá các QPPL, biết cách xác định các tiêu chuẩn về tính công
23
bằng của pháp luật để tự đánh giá hành vi của mình, biết cách xử sự trong quan
hệ với người khác và với chính bản thân mình dựa trên các QPPL. Giáo dục tình
cảm trách nhiệm là giáo dục cho đồng bào DTIN ý thức về nghĩa vụ pháp lý của
họ, làm cho họ nhận thức được rằng, mọi việc làm, mọi hành vi của họ đều phải
dựa trên cơ sở pháp luật và trong khuôn khổ các quy định pháp luật. Giáo dục
nhận thức không khoan nhượng với các hành vi phạm tội là giúp người đồng
bào DTIN biết chủ động, tích cực đấu tranh với tội phạm.
Giáo dục pháp luật giúp củng cố niềm tin sâu sắc của đồng bào DTIN vào
sự cần thiết phải tuân theo một cách tự nguyện các quy định của pháp luật là
những yếu tố quan trọng làm hình thành hành vi pháp luật tích cực. Những tình
cảm công bằng, tình cảm trách nhiệm, nhận thức không khoan nhượng với các
hành vi phạm tội... là những yếu tố tâm lý, tư tưởng không thể tách rời hành vi
pháp luật chủ động, tự giác và tích cực. Phải nhờ vào động lực thôi thúc nội tâm,
những tình cảm và niềm tin vững chắc vào pháp luật thì mới có thể hình thành
được hành vi pháp luật hợp pháp, tự nguyện và tích cực trong đồng bào DTIN.
Điều đó nói lên một trong những vai trò hết sức quan trọng của hoạt động GDPL
cho đồng bào DTIN là góp phần nâng cao ý thức tự giác chấp hành pháp luật,
thực hiện hành vi pháp luật hợp pháp cho đồng bào DTIN.
Việc xây dựng, củng cố niềm tin của đồng bào DTIN đối với pháp luật
càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong bối cảnh các thế lực phản động, thù
địch vẫn đang thực hiện các hoạt động tuyên truyền, xuyên tạc đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ta, gây chia rẽ giữa đồng
bào DTIN.
1.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc ít người
Cũng như các dạng hoạt động xã hội khác, GDPL cho đồng bào DTIN
luôn chịu sự tác động, ảnh hưởng của nhiều yếu tố, bao gồm các yếu tố chủ quan
và các yếu tố khách quan. Tất nhiên, sự phân chia các yếu tố chủ quan và khách
24
quan chỉ có ý nghĩa tương đối, vì về cơ bản, các yếu tố này luôn nằm trong sự
đan xen lẫn nhau và có quan hệ mật thiết với nhau. Việc xem xét, đánh giá đúng
đắn sự ảnh hưởng của các yếu tố chủ quan và khách quan đến GDPL cho đồng
bào DTIN là cơ sở khoa học, thực tiễn để xây dựng các giải pháp bảo đảm hiệu
quả của công tác này.
1.2.3.1. Các yếu tố chủ quan
Có thể có nhiều yếu tố chủ quan; song, về cơ bản, các yếu tố chủ quan
bao gồm trình độ học vấn và các nhân tố tâm lý.
- Trình độ học vấn Trình độ học vấn có vai trò đặc biệt quan trọng, có
ảnh hưởng mạnh mẽ tới hầu hết mọi lĩnh vực hoạt động của con người. Nó
vừa là nền tảng sức mạnh tinh thần (tri thức là sức mạnh), vừa là động lực
thúc đẩy mỗi người vươn lên trong cuộc sống, học tập, lao động, sản xuất
nhằm làm chủ tự nhiên, xã hội và bản thân. Thực tế cho thấy, do nhiều
nguyên nhân về lịch sử, kinh tế, xã hội nên nhìn chung trình độ học vấn của
đồng bào DTIN còn tương đối thấp; đây là một khó khăn thực sự, ảnh hưởng
tiêu cực tới chất lượng, hiệu quả GDPL cho đồng bào. Thiếu nền tảng tri
thức cần thiết để tiếp thu, lĩnh hội kiến thức pháp luật làm cho chủ thể
GDPL mất nhiều thời gian vì phải giải thích lại nhiều lần. Về phía đối
tượng, nghe mà không hiểu, không nhớ sẽ nảy sinh tâm lý chán nản, thiếu tự
tin, không còn mặn mà tham gia các buổi PBGDPL nữa... Hệ quả của tình
trạng này là GDPL không đạt được hiệu quả như mong muốn.
- Các nhân tố tâm lý Chất lượng, hiệu quả GDPL cho các đối tượng,
trong đó có đồng bào DTIN dù ít hay nhiều đều chịu ảnh hưởng của các nhân tố
tâm lý, quan trọng nhất là quá trình tâm lý bắt chước và quá trình lây lan tâm lý.
Bắt chước là sự mô phỏng, tái tạo, lặp lại các hành vi, tâm trạng, cách suy nghĩ
hay ứng xử của một người hoặc một nhóm người, thấy những người xung
quanh làm một việc thì cũng làm theo. Quá trình tâm lý bắc chước thường tạo ra
25
và định hình các “khuôn mẫu hành vi” cho các thành viên trong xã hội; do đó,
quá trình tâm lý bắc chước có ảnh hưởng nhất định đến công tác GDPL cho các
đối tượng xã hội. Trong hoạt động GDPL cho đồng bào DTIN, về cơ bản, quá
trình tâm lý bắt chước có ảnh hưởng tích cực đối với việc tham gia hoạt động
này của người dân, vì đa số đồng bào DTIN là những người chân thật, chất
phác, sống đề cao tình nghĩa, coi trọng công lý; biết thực hiện những hành vi
hợp pháp dù có thể chưa hiểu biết nhiều về pháp luật. Quá trình lây lan tâm lý
cũng có ảnh hưởng nhất định đến hoạt động GDPL cho đồng bào DTIN.
1.2.3.2. Các yếu tố khách quan
Các yếu tố khách quan được hiểu là các yếu tố tồn tại bên ngoài nhận
thức, quan niệm của chủ thể GDPL và đối tượng tiếp nhận GDPL. Hoạt động
GDPL cho bất kỳ đối tượng xã hội nào, trong đó có đồng bào DTIN ở huyện
Sơn Hòa, luôn diễn ra trong một phạm vi không gian xã hội nhất định, phụ
thuộc và chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội nhất
định. Nhìn trên phương diện này, các yếu tố khách quan ảnh hưởng đến GDPL
cho đồng bào DTIN bao gồm yếu tố kinh tế, yếu tố văn hóa - xã hội.
Yếu tố kinh tế
- Yếu tố kinh tế hiểu theo nghĩa rộng bao gồm tổng thể các điều kiện về
kinh tế, hệ thống các chính sách kinh tế, chính sách xã hội cũng như quá trình
triển khai thực hiện, áp dụng chúng trong thực tế xã hội. Nền kinh tế phát triển
năng động, bền vững sẽ là điều kiện thuận lợi để hoạt động GDPL cho đồng bào
DTIN đạt được chất lượng, hiệu quả cao. Ngược lại, khi nền kinh tế phát triển
chậm, thiếu bền vững sẽ ảnh hưởng tiêu cực tới chất lượng, hiệu quả GDPL cho
đồng bào. Điều đó nói lên rằng, yếu tố kinh tế có ảnh hưởng mạnh mẽ tới hoạt
động GDPL cho đồng bào DTIN.
- Điều kiện kinh tế Khi nền kinh tế phát triển, đời sống vật chất, lợi ích
kinh tế của được bảo đảm thì đồng bào DTIN sẽ phấn khởi, tin tưởng vào
26
pháp luật, vào sự lãnh đạo của Đảng và hoạt động quản lý, điều hành của
Nhà nước; nhờ đó, củng cố niềm tin vào hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà
nước, tạo điều kiện thuận lợi để đồng bào DTIN hăng hái, nhiệt tình tham
gia hoạt động GDPL nhằm trang bị, nâng cao kiến thức, hiểu biết pháp luật.
Chỉ khi thu nhập, mức sống của đồng bào DTIN được cải thiện cơ bản,
không còn phải lo lắng về cái ăn, cái mặc hàng ngày thì đồng bào mới có thể
toàn tâm, toàn ý tham gia các công việc chung, trong đó có GDPL dành cho
họ; từ đó, chấp hành nghiêm chỉnh kỷ cương, phép nước. Còn khi lợi ích
kinh tế không được đảm bảo, đời sống vật chất còn nhiều khó khăn thì tư
tưởng nhân dân, đồng bào DTIN sẽ diễn biến phức tạp; ý thức chủ động, tích
cực tham gia GDPL sẽ bị suy giảm; và do đó, trình độ kiến thức pháp luật
của đối tượng này cũng khó có thể được cải thiện.
Kinh tế phát triển, với nguồn lực kinh tế đủ mạnh, chính quyền các
cấp có điều kiện để đầu tư kinh phí nhiều hơn cho việc xây dựng cơ sở vật
chất, mua sắm các thiết bị kỹ thuật phục vụ GDPL cho đồng bào DTIN.
Chính sách đãi ngộ đối với đội ngũ CBCC quản lý và trực tiếp tham gia
GDPL cho đồng bào DTIN nhờ đó cũng gia tăng. Ngoài ra, nguồn kinh phí
dồi dào cũng giúp chính quyền các cấp đầu tư mạnh hơn cho việc lựa chọn,
gửi con em đồng bào DTIN tham gia các hóa đào tạo chính quy, bài bản về
chuyên ngành luật, trở thành cán bộ pháp lý và quay trở về phục vụ chính
cộng đồng dân tộc mình. Kinh phí cũng phục vụ cho việc mua sắm các
thiết bị điện tử, biên soạn sách pháp luật phổ thông, các loại tài liệu, tờ gấp,
tờ rơi, băng, đĩa về pháp luật... phục vụ GDPL cho đồng bào DTIN. Ngược
lại, nếu điều kiện kinh tế, nguồn chi ngân sách trung ương và địa phương
cho GDPL cho đồng bào DTIN bị eo hẹp thì hoạt động GDPL cho đồng
bào khó đạt hiệu quả như mong muốn.
27
Yếu tố văn hóa - xãhội
Yếu tố văn hóa - xã hội luôn gắn liền với một phạm vi không gian - xã
hội nhất định - nơi các cá nhân và cộng đồng xã hội tổ chức các hoạt động sống,
lao động, sinh hoạt, cùng nhau tạo dựng, thừa nhận và chia sẻ các giá trị văn
hóa, ngôn ngữ, lối sống, phong tục, tập quán và tín ngưỡng. Các yếu tố văn hóa -
xã hội đó bao gồm: các giá trị văn hóa truyền thống, ngôn ngữ, lối sống, các
phong tục, tập quán, tôn giáo, tín ngưỡng của dân tộc DTIN, dư luận xã hội và
các phương tiện thông tin đại chúng. Ở mức độ khác nhau, các yếu tố đó ảnh
hưởng đến GDPL cho đồng bào DTIN, bao gồm các tác động tích cực và cả tác
động tiêu cực.
Lối sống của đồng bào DTIN - một thành tố của văn hóa - cũng có ảnh
hưởng quan trọng tới GDPL cho họ. “Lối sống là tổng thể các nét cơ bản đặc
trưng cho phương thức hoạt động sống và sinh hoạt của các giai cấp, dân tộc,
các tập đoàn xã hội trong những điều kiện xã hội nhất định về mặt lịch sử” [56,
tr.318]. Về nguyên tắc, phương thức hoạt động sống, lao động, sinh hoạt của
một cộng đồng người như thế nào thì sẽ quy định và làm hình thành lối sống
tương ứng như thế ấy. Căn cứ vào cách thức tổ chức cư trú, lao động, sinh hoạt
của cư dân, lối sống được chia thành lối sống đô thị, lối sống nông thôn và vùng
đồng bào DTIN với những nét đặc trưng riêng.
Đặc trưng nổi bật trong của lối sống của đồng bào DTIN là tính cộng
đồng, tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái. Ý thức cộng đồng giúp cho các
chủ thể GDPL dễ dàng hơn trong việc phổ biến, tuyên truyền và thực hiện các
chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến đồng
bào DTIN. Sức mạnh của tinh thần đoàn kết giúp cho các chủ thể GDPL hoàn
thành tốt nhiệm vụ GDPL, vì “dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân
liệu cũng xong”. Tinh thần đoàn kết là nền tảng để đồng bào DTIN động viên
nhau, cùng nhau nhận thức được những lợi ích thiết thực mà việc hiểu biết pháp
28
luật mang lại cho mỗi cá nhân; từ đó, đồng bào DTIN sẽ cùng nhau tích cực
tham dự hoạt độngGDPL.
Tuy nhiên, sự đề cao thái quá tính cộng đồng cũng dễ dẫn đồng bào
DTIN đến việc đánh mất ý thức về con người cá nhân, “cái tôi” có thể bị triệt
tiêu. Khi “cái tôi” bị nhạt nhòa trong các quan hệ buôn, làng thì ý thức và hành
vi cá nhân của mỗi người DTIN cũng bị đặt vào lối xử thế “hòa cả làng”. Tính
gắn kết cộng đồng cũng thường tạo ra ở các cá nhân thói quen ỷ lại cộng đồng
và tâm lý “an phận thủ thường”. Chính điều đó đã làm hạn chế sự chủ động,
quyết đoán của đồng bào DTIN khi họ gặp phải các sự kiện, tình huống pháp
luật xảy ra trong cuộc sống. Khi “cái tôi” không được khẳng định thì việc tiếp
nhận kiến thức pháp luật không còn là nhu cầu tự thân, tích cực trong mỗi người
dân nữa; có chăng, chỉ là sự miễn cưỡng, đối phó.
Dư luận xã hội trong cộng đồng dân tộc cũng có ảnh hưởng mạnh mẽ
đến hoạt động GDPL cho Đồng bào DTIN. Trong bất kỳ một cộng đồng xã hội
nào, dư luận xã hội luôn được coi là một thứ vũ khí lợi hại bậc nhất để duy trì sự
ổn định, trật tự, kỷ cương trong một cộng đồng xã hội, nhất là ở khu vực nông
thôn. Người dân nông thôn sợ dư luận xã hội tới mức “chỉ dám lựa theo dư luận
mà sống chứ ai dám dẫm lên dư luận mà đi theo ý mình” [42, tr.119]. Dư luận
xã hội trong cộng đồng dân tộc ít người luôn đòi hỏi mỗi thành viên của cộng
đồng phải có kiến thức, hiểu biết nhất định về pháp luật để bảo vệ, giải quyết
các vấn đề liên quan đến lợi ích của cá nhân và buôn, làng. Chỉ có tham gia tích
cực vào hoạt động GDPL thì mới thỏa mãn được đòi hỏi này. Nếu chủ thể
GDPL biết cách tạo ra dư luận xã hội trong các buôn, làng về sự cần thiết của
GDPL đối với đồng bào DTIN thì dư luận xã hội sẽ có tác động tích cực đến
công tác GDPL cho đồng bào DTIN.
Các phương tiện thông tin đại chúng (báo chí, phát thanh, truyền hình,
mạng Internet, Tủ sách pháp luật...) có ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động
29
GDPL cho đồng bào DTIN. Một mặt, do khả năng đưa thông tin đến với mọi
người, mọi nhà, trong đó có các gia đình người DTIN một cách nhanh chóng,
cập nhật, kịp thời nên các phương tiện thông tin đại chúng thường được sử dụng
như một kênh thông tin quan trọng, chuyển tải các thông tin, kiến thức pháp luật,
giải thích pháp luật... phục vụ GDPL cho Đồng bào DTIN một cách hiệu quả.
Mặt khác, các phương tiện thông tin đại chúng là diễn đàn ngôn luận công khai,
là nơi mỗi người dân có thể bày tỏ tâm tư, nguyện vọng, nêu lên những kiến
nghị, đề xuất các yêu cầu về mục tiêu, nội dung, phương pháp và hình thức
GDPL cho đồng bào DTIN. Điều đó giúp các chủ thể GDPL có thể đưa ra
những điều chỉnh, thay đổi hợp lý nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả GDPL
cho đồng bào DTIN; góp phần lan tỏa những hành vi xử sự hợp pháp, hình
thành thói quen “sống, làm việc theo pháp luật” trong đồng bào DTIN.
Yếu tố chính trị
Yếu tố chính trị là toàn bộ các yếu tố tạo nên đời sống chính trị của đất
nước, của mỗi địa phương ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, bao gồm môi
trường chính trị, hệ thống các chuẩn mực chính trị, chủ trương, đường lối, chính
sách của Đảng Cộng sản Việt Nam, của các cấp ủy Đảng ở địa phương và quá
trình tổ chức thực hiện chúng và các quan hệ chính trị; hoạt động của hệ thống
chính trị; cùng với đó là nền dân chủ xã hội và bầu không khí chính trị - xã hội.
Yếu tố chính trị đó có ảnh hưởng mạnh mẽ tới hoạt động GDPL cho các tầng
lớp nhân dân, đồng bào DTIN.
Môi trường chính trị - xã hội ổn định, phát triển bền vững là điều kiện
thuận lợi cho việc tiến hành các hoạt động PBGDPL cho đồng bào DTIN vì nó
tạo cơ sở củng cố niềm tin chính trị của đồng bào DTIN vào cương lĩnh, đường
lối lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng bộ địa phương; tin tưởng vào
chính sách, pháp luật của Nhà nước, sự quản lý, điều hành của các cấp chính
quyền địa phương. Đây là tiền đề quan trọng để Đồng bào DTIN nhiệt tình
30
tham gia quá trình GDPL nhằm tiếp nhận, nâng cao tri thức, hiểu biết pháp
luật. Ngược lại, môi trường chính trị bất ổn, các thiết chế chính trị ở địa
phương không phát huy được vai trò điều tiết, điều chỉnh các quan hệ chính trị
thường là nguyên nhân gây tâm lý bất an trong các tầng lớp xã hội, làm suy
giảm niềm tin chính trị trong đồng bào DTIN. Khi đó, hoạt động GDPL cho
Đồng bào DTIN khó mà đạt được chất lượng, hiệu quả như mong muốn.
Sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng đối với hoạt động GDPL cho đồng
bào DTIN có ảnh hưởng nhất định tới hiệu quả của hoạt động này. Thực tế
cho thấy, với tư cách là chủ thể tổ chức, triển khai và quản lý GDPL cho các
tầng lớp nhân dân, trong đó có đồng bào DTIN, nếu lãnh đạo Tỉnh ủy, Huyện
ủy, Đảng ủy các xã, thị trấn đều thấm nhuần nhiệm vụ chính trị, quan tâm chỉ
đạo sâu sát công tác GDPL cho các tầng lớp nhân dân thông qua những chỉ thị,
nghị quyết kịp thời, đưa ra những yêu cầu về nội dung, phương pháp và hình
thức GDPL phù hợp với từng nhóm đối tượng dân cư thì hiệu quả GDPL cho
các đối tượng sẽ được nâng cao. Ngược lại, hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo cầm
chừng, thiếu sâu sát, buông lỏng quản lý từ phía các cơ quan hữu quan sẽ có ảnh
hưởng tiêu cực tới việc GDPL cho đồng bào DTIN. Sự tham gia của cả hệ thống
chính trị vào hoạt động GDPL nói chung, GDPL cho đồng bào DTIN nói riêng
có ảnh hưởng tích cực và mạnh mẽ tới chất lượng, hiệu quả của hoạt động này.
Tính chất, mức độ của nền dân chủ xã hội cũng có ảnh hưởng quan trọng
tới hoạt động GDPL cho các tầng lớp nhân dân, trong đó có đồng bào DTIN.
Trong xã hội có nền dân chủ rộng rãi, thông tin đa dạng, phong phú, quy chế dân
chủ ở cấp xã được triển khai thực hiện đầy đủ... chính là điều kiện thuận lợi để
các tầng lớp xã hội nói chung, đồng bào DTIN nói riêng có thể thẳng thắn, công
khai bày tỏ tâm tư, tình cảm, nhu cầu, nguyện vọng của mình, đưa ra những đòi
hỏi về nội dung, phương pháp, hình thức GDPL phù hợp với thực tiễn đời sống
pháp luật. Trong điều kiện đó, đồng bào DTIN có thể chủ động, tích cực tham
31
dự GDPL với ý thức, trách nhiệm thực sự của họ. Còn trong điều kiện xã hội
thiếu dân chủ, thông tin nghèo nàn, thậm chí thông tin bị bưng bít, các chủ thể
GDPL tỏ ra thờ ơ, thiếu quan tâm đến ý kiến, nguyện vọng của Đồng bào DTIN
thì bầu không khí chính trị - xã hội sẽ ngột ngạt, tâm lý chính trị gò bó, mọi
người dân không dám nói thật suy nghĩ của lòng mình vì e ngại “phạm húy”
hoặc bị đánh giá về quan điểm, lập trường chính trị. Khi đó, hoạt động GDPL
cho đồng bào DTIN khó mà diễn ra một cách thuận lợi và hiệu quả.
1.2.4. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về giáo dục pháp luật cho đồng
bào các dân tộc ít người
Đảng, Nhà nước ta luôn luôn coi trọng công tác PBGDPL, coi đây là
khâu đầu tiên của quá trình tổ chức thi hành pháp luật; là trách nhiệm của
cả hệ thống chính trị, trong đó Nhà nước giữ vai trò nòng cốt. Điều này thể
hiện rõ nét trong các Kết luận của Bộ Chính trị triển khai thực hiện Nghị
quyết số 48 về Chiến lược xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật đến
năm 2010, định hướng đến năm 2020; Nghị quyết số 49 về Chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020 cũng như các Nghị quyết, Kết luận, Chỉ thị về
cải cách hành chính, cải cách tư pháp, xây dựng và hoàn thiện pháp luật, về
tuyên truyền miệng; về công tác giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống, về phòng chống tham nhũng, lãng phí và về tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng đối với công tác PBGDPL, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật
trong cán bộ và nhân dân.
Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về chiến
lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010,
định hướng đến năm 2020 đề ra giải pháp: “Phát triển hệ thống thông tin và
phổ biến giáo dục pháp luật, xây dựng và triển khai Chương trình quốc gia về
phổ biến, giáo dục pháp luật dài hạn. Hình thành Trung tâm Thông tin pháp
luật quốc gia, phát triển mạng lưới thông tin pháp luật”. Nghị quyết số 49-
32
NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020 đã xác định nhiệm vụ: “...Phát huy quyền làm chủ của nhân dân
đối với hoạt động tư pháp. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo
dục pháp luật; không ngừng nâng cao trình độ dân chí pháp lý, ý thức sống,
làm việc theo Hiến pháp và pháp luật cho mọi người dân...”. Đặc biệt, Chỉ thị
số 32-CT/TW năm 2003 và Kết luận số 04-KL/TW của Ban Bí thư về tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác PBGDPL đã đề ra nhiều chủ
trương, quan điểm, mục tiêu, yêu cầu và giải pháp tiếp tục tăng cường công
tác PBGDPL.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, Quốc hội đã ban hành
Hiến pháp năm 2013 với nhiều tư duy đổi mới nhằm xây dựng và hoàn thiện
Nhà nước pháp quyền XHCN, phát huy dân chủ, bảo đảm các quyền con
người, quyền công dân. Luật Tổ chức Chính phủ; Luật tổ chức chính quyền
địa phương, Luật PBGDPL và các văn bản hướng dẫn thi hành đã giao trách
nhiệm cho Chính phủ và chính quyền địa phương các cấp trong đảm bảo thi
hành pháp luật; chịu trách nhiệm tổ chức triển khai công tác PBGDPL với yêu
cầu tăng cường hơn. Đặc biệt, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật
năm 2015 đề ra yêu cầu đối với công tác xây dựng chính sách pháp luật đòi
hỏi phải tuyên truyền, phổ biến, quán triệt đầy đủ những nội dung chính sách
pháp luật mới hoặc được sửa đổi, bổ sung, thay thế. Trong điều kiện Quốc hội
mới ban hành Luật Tiếp cận thông tin; Luật Báo chí (sửa đổi) đòi hỏi phải
tăng cường trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước trong bảo đảm quyền tiếp
cận thông tin của người dân, trong đó có tiếp cận với thông tin pháp luật; phát
huy vai trò, trách nhiệm của báo chí trong cung cấp thông tin, tham gia tuyên
truyền, phổ biến chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đã đề ra nhiều yêu cầu mới về xây
dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN; phát huy dân chủ XHCN; bảo
33
đảm thực hiện đầy đủ quyền con người, quyền công dân; giải quyết tốt mối
quan hệ giữa xây dựng pháp luật với thực thi pháp luật và bảo vệ pháp luật;
về đổi mới hệ thống chính trị; đề ra nhiều chủ trương, chính sách để tiếp tục
công cuộc đổi mới, trong đó có đặt ra yêu cầu đổi mới công tác tư tưởng, lý
luận, giáo dục đạo đức, lối sống để xây dựng con người Việt Nam phát triển
toàn diện với các giá trị: “Trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân
thủ pháp luật. Tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, ý thức tôn trọng pháp
luật”; “Tập hợp, vận động nhân dân thực hiện tốt các chủ trương của Đảng và
chính sách, pháp luật của Nhà nước; giải quyết kịp thời, hiệu quả những bức
xúc, những kiến nghị chính đáng của Nhà nước và khiếu nại, tố cáo của nhân
dân”. Đảng ta cũng xác định rõ: “Mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân…Cấp ủy đảng và
chính quyền phải thường xuyên đối thoại, lắng nghe, học hỏi, tiếp thu ý kiến,
giải quyết các khó khăn, vướng mắc và yêu cầu chính đáng của Nhà nước; có
hình thức, cơ chế, biện pháp cụ thể, thích hợp để nhân dân bày tỏ chính kiến,
nguyện vọng và thực hiện quyền làm chủ”. [18, tr.46-200]
Các chủ trương, quan điểm và định hướng lớn trên đây đã trở thành cơ
sở chính trị quan trọng đòi hỏi phải tiếp tục đổi mới công tác PBGDPL, kịp
thời thể chế hóa thành những chính sách, pháp luật và biện pháp triển khai
thực hiện cụ thể, trên từng lĩnh vực, địa bàn, đối tượng. Đặt đổi mới công tác
PBGDPL trong mối quan hệ với đổi mới công tác tư tưởng, lý luận, chính trị,
với giáo dục đạo đức, lối sống để hình thành nhân cách con người Việt Nam
phát triển toàn diện.
Những văn bản trên đây đã tạo cơ sở chính trị - pháp lý đòi hỏi phải có
những đổi mới trong triển khai thực hiện nhiệm vụ công tác PBGDPL, nâng
cao ý thức tuân thủ, chấp hành pháp luật, bảo đảm quyền được tiếp cận thông
tin về chính sách, pháp luật của người dân trong đó bao đồng bào các DTIN.
34
Ngày 14/01/2011, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 05/2011/NĐ-CP
về công tác Dân tộc; Nghị định này quy định các hoạt động về công tác dân tộc
nhằm đảm bảo và thúc đẩy sự bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giúp nhau cùng
phát triển, tôn trọng và giữ gìn bản sắc văn hóa của các dân tộc cùng chung
sống trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Ngày 20/6/2012, Quốc hội khóa XIII đã ban hành luật số 14/2012/QH13,
Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật đã quy định quyền được thông tin về pháp
luật và trách nhiệm tìm hiểu, học tập pháp luật của công dân; nội dung, hình
thức phổ biến, giáo dục pháp luật; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân
có thẩm quyền và các điều kiện bảo đảm cho công tác phổ biến, giáo dục
pháp luật. Đối với công tác Phổ biến, GDPL cho người dân ở vùng DTIN,
miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, ven biển, hải đảo, vùng có điều kiện
kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và ngư dân quy định rõ: Thứ nhất Việc phổ
biến, giáo dục pháp luật cho người dân ở vùng dân tộc ít người, miền núi,
vùng sâu, vùng xa, biên giới, ven biển, hải đảo, vùng có điều kiện kinh tế - xã
hội đặc biệt khó khăn và ngư dân căn cứ vào đặc điểm của từng đối tượng mà
tập trung vào các quy định pháp luật về dân tộc, tôn giáo, trách nhiệm tham
gia bảo vệ, giữ gìn an ninh, quốc phòng, biên giới, chủ quyền quốc gia, biển,
đảo, tài nguyên, khoáng sản và các lĩnh vực pháp luật khác gắn liền với đời
sống, sản xuất của người dân; Thứ hai Hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật
cho người dân ở vùng dân tộc ít người, miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên
giới, ven biển, hải đảo, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và
ngư dân được chú trọng thực hiện thông qua hòa giải ở cơ sở, trợ giúp pháp lý
lưu động; tư vấn pháp luật, cung cấp miễn phí thông tin, tài liệu pháp luật
bằng tiếng dân tộc cho đồng bào dân tộc ít người; lồng ghép phổ biến, giáo
dục pháp luật trong các hoạt động văn hóa truyền thống; Thứ ba Nhà nước có
chính sách đào tạo, bồi dưỡng, hỗ trợ người làm công tác phổ biến, giáo dục
35
pháp luật, già làng, trưởng bản, người có uy tín trong cộng đồng các dân tộc ít
người tham gia phổ biến, giáo dục pháp luật tại địa phương; tạo điều kiện để
các tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động tình nguyện phổ biến, giáo dục pháp
luật cho người dân ở vùng dân tộc ít người, miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên
giới, ven biển, hải đảo, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và
ngư dân. Thứ tư UBND các cấp tổ chức phổ biến, giáo dục pháp luật cho
người dân ở vùng dân tộc ít người, miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng có điều
kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và ngư dân; chủ trì phối hợp với Bộ
đội biên phòng, Công an, Hải quan, Kiểm lâm, Cảnh sát biển tổ chức phổ
biến, giáo dục pháp luật cho người dân ở khu vực biên giới, ven biển và hải
đảo. [37, Đ.17]. Chính phủ đã ban hành Quyết định số 449/QĐ-TTg, ngày
12/3/2013 phê duyệt chiến lược công tác dân tộc đến năm 2020 và ban hành
quyết định 2356/QĐ-TTg, ngày 04/12/2013 chương trình hành động thực hiện
chiến lược công tác dân tộc đến năm 2020.
36
Tiểu kết chương 1
Qua việc phân tích những vấn đề lý luận cơ bản của GDPL nói chung
và GDPL cho đồng bào các DTIN của nước ta hiện nay cho thấy:
- GDPL là một hoạt động có định hướng, có tổ chức nhằm cung cấp tri
thức pháp luật, bồi dưỡng tình cảm và hành vi hợp pháp cho đối tượng GDPL
nhằm nâng cao ý thức pháp luật đúng đắn và thói quen hành động phù hợp
với các quy định của pháp luật. Từ đó tạo ra một trật tự xã hội: "Sống và làm
việc theo Hiến pháp và pháp luật", không ngừng tăng cường pháp chế XHCN.
- GDPL là quá trình nhằm nâng cao dân trí pháp lý, vì vậy để đạt được
mục đích đó thì chủ thể GDPL phải tìm hiểu, nghiên cứu các đối tượng
GDPL để áp dụng hình thức và phương pháp GDPL phù hợp nhằm mang lại
hiệu quả cao, vì thế khi tiến hành GDPL phải phân loại đối tượng, đặc biệt là
nhân dân các dân tộc ít người thì phải có phương pháp GDPL phù hợp, dễ
nhớ, dễ hiểu tránh lấy tư duy vòng vo trừu tượng.
- Khi GDPL cho đồng bào các dân tộc ít người nói chung và ở huyện
Sơn Hòa nói riêng phải chú trọng đến đặc điểm đối tượng, chủ thể GDPL lựa
chọn nội dung pháp luật nào phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội ở địa
phương, ưu tiên cho việc tuyên truyền GDPL đối với những lĩnh vực nào
mang tính chất cấp bách, thời sự liên quan đến đời sống hàng ngày của họ.
Những nội dung cơ bản của GDPL được phân tích ở chương I sẽ là cơ
sở cho việc phân tích đánh giá thực trạng GDPL cho đồng bào các dân tộc ít
người ở huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên được trình bày ở chương 2.
37
Chương 2:
THỰC TRẠNG GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO ĐỒNG BÀO DÂN TỘC
ÍT NGƢỜI Ở HUYỆN SƠN HÒA, TỈNH PHÚ YÊN
2.1. Đặc điểm điều kiện tự nhiên, chính trị - kinh tế, xã hội ảnh hƣởng
đến hoạt động giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc ít ngƣời ở huyện
Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên
2.1.1. Đặc điểm điều kiện tự nhiên
Huyện miền núi Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên đã được xác định là một khu
vực có vị trí hết sức quan trọng trên địa bàn chiến lược của Tỉnh; tiềm năng
về đất đai, tài nguyên và khoáng sản phong phú... nhiều dân tộc anh em sinh
sống; sự ổn định và phát triển bền vững của khu vực các huyện miền núi có ý
nghĩa hết sức quan trọng đối với Tỉnh kết nối với vùng Tây nguyên, cả về kinh
tế - xã hội và về an ninh quốc phòng.
Huyện Sơn Hòa được hình thành vào năm 1899, cách trung tâm Tỉnh lỵ
gần 50 Km về hướng tây, là cửa ngõ của Tỉnh nối liền giữa Phú Yên đi Đắk
Lắk, Gia Lai và vùng Tây Nguyên; là địa phương có vị trí chiến lược quan
trọng trong phát triển kinh tế cũng như đảm bảo Quốc phòng, An ninh. Tổng
diện tích tự nhiên 93.779,11ha. Phía đông giáp huyện Phú Hòa, phía bắc giáp
huyện Đồng Xuân và huyện Tuy An, phía nam giáp huyện Sông Hinh và phía
tây giáp huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai. Trên địa bàn Huyện có 02 tuyến
đường giao thông huyết mạch đó là Quốc lộ 25 và Quốc lộ 19c nối liền giữa
các tỉnh duyên hải Nam trung bộ như Phú Yên, Bình Định đi các tỉnh Tây
nguyên.
Sơn Hòa có địa hình trải rộng theo hướng Bắc – Nam và nghiêng từ
Tây sang Đông, ở độ cao từ 400m đến 1.000m so với mặt nước Biển; phía
đông dãy Trường Sơn dọc theo dòng Sông Ba bắt nguồn từ Kon Tum, Gia Lai
đổ về Phú Yên và ra biển đông ở cửa Sông Đà Rằng. Trên địa bàn huyện có
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc ít người, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc ít người, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc ít người, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc ít người, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc ít người, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc ít người, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc ít người, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc ít người, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc ít người, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc ít người, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc ít người, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc ít người, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc ít người, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc ít người, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc ít người, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc ít người, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc ít người, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc ít người, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc ít người, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc ít người, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc ít người, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc ít người, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc ít người, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc ít người, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc ít người, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc ít người, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc ít người, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc ít người, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc ít người, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc ít người, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc ít người, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc ít người, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc ít người, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc ít người, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc ít người, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc ít người, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc ít người, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc ít người, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc ít người, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc ít người, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc ít người, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc ít người, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc ít người, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc ít người, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc ít người, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc ít người, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc ít người, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc ít người, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc ít người, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc ít người, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc ít người, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc ít người, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc ít người, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc ít người, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc ít người, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc ít người, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc ít người, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc ít người, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc ít người, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc ít người, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc ít người, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc ít người, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc ít người, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc ít người, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc ít người, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc ít người, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc ít người, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc ít người, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc ít người, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc ít người, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc ít người, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc ít người, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc ít người, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc ít người, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc ít người, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc ít người, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc ít người, HOT

More Related Content

What's hot

What's hot (20)

Luận văn: Tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp xã, HAY
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp xã, HAYLuận văn: Tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp xã, HAY
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp xã, HAY
 
Luận văn: Sự độc lập của hoạt động xét xử, HOT
Luận văn: Sự độc lập của hoạt động xét xử, HOTLuận văn: Sự độc lập của hoạt động xét xử, HOT
Luận văn: Sự độc lập của hoạt động xét xử, HOT
 
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về giải quyết khiếu nại hành chính
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về giải quyết khiếu nại hành chínhLuận văn thạc sĩ: Pháp luật về giải quyết khiếu nại hành chính
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về giải quyết khiếu nại hành chính
 
Luận văn: Phổ biến giáo dục pháp luật tại huyện Vân Đồn, Quảng Ninh
Luận văn: Phổ biến giáo dục pháp luật tại huyện Vân Đồn, Quảng NinhLuận văn: Phổ biến giáo dục pháp luật tại huyện Vân Đồn, Quảng Ninh
Luận văn: Phổ biến giáo dục pháp luật tại huyện Vân Đồn, Quảng Ninh
 
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của UBND phường tại TP Cà Mau
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của UBND phường tại TP Cà MauLuận văn: Tổ chức và hoạt động của UBND phường tại TP Cà Mau
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của UBND phường tại TP Cà Mau
 
Luận văn: Chất lượng hoạt động tiếp công dân tại huyện An Biên
Luận văn: Chất lượng hoạt động tiếp công dân tại huyện An BiênLuận văn: Chất lượng hoạt động tiếp công dân tại huyện An Biên
Luận văn: Chất lượng hoạt động tiếp công dân tại huyện An Biên
 
Luận văn: Hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo, HOT
Luận văn: Hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo, HOTLuận văn: Hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo, HOT
Luận văn: Hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo, HOT
 
Luận văn: Thực trạng và giải pháp đổi mới cải cách thủ tục hành chính, HAY
Luận văn: Thực trạng và giải pháp đổi mới cải cách thủ tục hành chính, HAYLuận văn: Thực trạng và giải pháp đổi mới cải cách thủ tục hành chính, HAY
Luận văn: Thực trạng và giải pháp đổi mới cải cách thủ tục hành chính, HAY
 
Luận văn: Phổ biến, giáo dục pháp luật tại tỉnh Thanh Hoá, HAY
Luận văn: Phổ biến, giáo dục pháp luật tại tỉnh Thanh Hoá, HAYLuận văn: Phổ biến, giáo dục pháp luật tại tỉnh Thanh Hoá, HAY
Luận văn: Phổ biến, giáo dục pháp luật tại tỉnh Thanh Hoá, HAY
 
Luận văn: Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, HOT
Luận văn: Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, HOTLuận văn: Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, HOT
Luận văn: Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, HOT
 
Luận văn: Thực hiện chính sách cải cách hành chính tại Lai Châu
Luận văn: Thực hiện chính sách cải cách hành chính tại Lai ChâuLuận văn: Thực hiện chính sách cải cách hành chính tại Lai Châu
Luận văn: Thực hiện chính sách cải cách hành chính tại Lai Châu
 
Luận văn: Hoạt động của Hội đồng nhân dân xã, tỉnh Phú Yên
Luận văn: Hoạt động của Hội đồng nhân dân xã, tỉnh Phú YênLuận văn: Hoạt động của Hội đồng nhân dân xã, tỉnh Phú Yên
Luận văn: Hoạt động của Hội đồng nhân dân xã, tỉnh Phú Yên
 
Luận văn: Thực hiện pháp luật hòa giải ở cơ sở, tỉnh Quảng Ngãi
Luận văn: Thực hiện pháp luật hòa giải ở cơ sở, tỉnh Quảng NgãiLuận văn: Thực hiện pháp luật hòa giải ở cơ sở, tỉnh Quảng Ngãi
Luận văn: Thực hiện pháp luật hòa giải ở cơ sở, tỉnh Quảng Ngãi
 
Luận văn: Hoạt động của Văn phòng UBND TP Vinh, HAY
Luận văn: Hoạt động của Văn phòng UBND TP Vinh, HAYLuận văn: Hoạt động của Văn phòng UBND TP Vinh, HAY
Luận văn: Hoạt động của Văn phòng UBND TP Vinh, HAY
 
Đề tài: Thực hiện dân chủ ở xã huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên, HAY
Đề tài: Thực hiện dân chủ ở xã huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên, HAYĐề tài: Thực hiện dân chủ ở xã huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên, HAY
Đề tài: Thực hiện dân chủ ở xã huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên, HAY
 
Luận văn: Quản lý trong lĩnh vực khai sinh tại tỉnh Bến Tre, HAY
Luận văn: Quản lý trong lĩnh vực khai sinh tại tỉnh Bến Tre, HAYLuận văn: Quản lý trong lĩnh vực khai sinh tại tỉnh Bến Tre, HAY
Luận văn: Quản lý trong lĩnh vực khai sinh tại tỉnh Bến Tre, HAY
 
Luận văn: Chất lượng công chức cấp xã ở tỉnh Lâm Đồng, HOT
Luận văn: Chất lượng công chức cấp xã ở tỉnh Lâm Đồng, HOTLuận văn: Chất lượng công chức cấp xã ở tỉnh Lâm Đồng, HOT
Luận văn: Chất lượng công chức cấp xã ở tỉnh Lâm Đồng, HOT
 
Luận văn: Quy trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đ...
Luận văn: Quy trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đ...Luận văn: Quy trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đ...
Luận văn: Quy trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đ...
 
Luận văn: Tạo động lực làm việc cho công chức nữ tỉnh Quảng Trị
Luận văn: Tạo động lực làm việc cho công chức nữ tỉnh Quảng TrịLuận văn: Tạo động lực làm việc cho công chức nữ tỉnh Quảng Trị
Luận văn: Tạo động lực làm việc cho công chức nữ tỉnh Quảng Trị
 
Luận văn: Phổ biến giáo dục pháp luật cho thanh niên đô thị, HAY
Luận văn: Phổ biến giáo dục pháp luật cho thanh niên đô thị, HAYLuận văn: Phổ biến giáo dục pháp luật cho thanh niên đô thị, HAY
Luận văn: Phổ biến giáo dục pháp luật cho thanh niên đô thị, HAY
 

Similar to Luận văn: Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc ít người, HOT

Similar to Luận văn: Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc ít người, HOT (20)

Đề tài: Pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở, Hà Nội, HOT
Đề tài: Pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở, Hà Nội, HOTĐề tài: Pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở, Hà Nội, HOT
Đề tài: Pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở, Hà Nội, HOT
 
Luận văn: Thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em, HOT
Luận văn: Thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em, HOTLuận văn: Thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em, HOT
Luận văn: Thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em, HOT
 
Thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em ở việt nam hiện nay 6834408
Thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em ở việt nam hiện nay 6834408Thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em ở việt nam hiện nay 6834408
Thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em ở việt nam hiện nay 6834408
 
Luận văn: Phổ biến pháp luật cho sinh viên người dân tộc thiểu số
Luận văn: Phổ biến pháp luật cho sinh viên người dân tộc thiểu sốLuận văn: Phổ biến pháp luật cho sinh viên người dân tộc thiểu số
Luận văn: Phổ biến pháp luật cho sinh viên người dân tộc thiểu số
 
Quản lý về giáo dục pháp luật cho sinh viên người dân tộc, HOT
Quản lý về giáo dục pháp luật cho sinh viên người dân tộc, HOTQuản lý về giáo dục pháp luật cho sinh viên người dân tộc, HOT
Quản lý về giáo dục pháp luật cho sinh viên người dân tộc, HOT
 
Đề tài: Phổ biến pháp luật cho sinh viên người dân tộc tỉnh Phú Thọ
Đề tài: Phổ biến pháp luật cho sinh viên người dân tộc tỉnh Phú ThọĐề tài: Phổ biến pháp luật cho sinh viên người dân tộc tỉnh Phú Thọ
Đề tài: Phổ biến pháp luật cho sinh viên người dân tộc tỉnh Phú Thọ
 
Phổ biến, giáo dục pháp luật cho sinh viên người dân tộc thiểu số
Phổ biến, giáo dục pháp luật cho sinh viên người dân tộc thiểu sốPhổ biến, giáo dục pháp luật cho sinh viên người dân tộc thiểu số
Phổ biến, giáo dục pháp luật cho sinh viên người dân tộc thiểu số
 
Luận văn: Phổ biến, giáo dục pháp luật cho sinh viên tỉnh Phú Thọ
Luận văn: Phổ biến, giáo dục pháp luật cho sinh viên tỉnh Phú ThọLuận văn: Phổ biến, giáo dục pháp luật cho sinh viên tỉnh Phú Thọ
Luận văn: Phổ biến, giáo dục pháp luật cho sinh viên tỉnh Phú Thọ
 
Pháp Luật Về Phổ Biến, Giao Dục Pháp Luật Và Thực Tiễn Áp Dụng
Pháp Luật Về Phổ Biến, Giao Dục Pháp Luật Và Thực Tiễn Áp DụngPháp Luật Về Phổ Biến, Giao Dục Pháp Luật Và Thực Tiễn Áp Dụng
Pháp Luật Về Phổ Biến, Giao Dục Pháp Luật Và Thực Tiễn Áp Dụng
 
Đề tài: Phổ biến pháp luật đối với đồng bào dân tộc tỉnh Lâm Đồng
Đề tài: Phổ biến pháp luật đối với đồng bào dân tộc tỉnh Lâm ĐồngĐề tài: Phổ biến pháp luật đối với đồng bào dân tộc tỉnh Lâm Đồng
Đề tài: Phổ biến pháp luật đối với đồng bào dân tộc tỉnh Lâm Đồng
 
Quản lý nhà nước về phổ biến pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số
Quản lý nhà nước về phổ biến pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu sốQuản lý nhà nước về phổ biến pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số
Quản lý nhà nước về phổ biến pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số
 
Luận văn: Pháp luật về bảo trợ xã hội tỉnh Đắk Lắk, HAY
Luận văn: Pháp luật về bảo trợ xã hội tỉnh Đắk Lắk, HAYLuận văn: Pháp luật về bảo trợ xã hội tỉnh Đắk Lắk, HAY
Luận văn: Pháp luật về bảo trợ xã hội tỉnh Đắk Lắk, HAY
 
Đề tài: Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình
Đề tài: Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên từ thực tiễn tỉnh Quảng BìnhĐề tài: Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình
Đề tài: Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình
 
Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên tỉnh Quảng Bình, 9đ
Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên tỉnh Quảng Bình, 9đPhổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên tỉnh Quảng Bình, 9đ
Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên tỉnh Quảng Bình, 9đ
 
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho thanh niên tỉnh Quảng Bình, 9đ
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho thanh niên tỉnh Quảng Bình, 9đLuận văn: Giáo dục pháp luật cho thanh niên tỉnh Quảng Bình, 9đ
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho thanh niên tỉnh Quảng Bình, 9đ
 
Luận văn: Giáo dục pháp luật trong các trường sĩ quan, HOT, 9đ
Luận văn: Giáo dục pháp luật trong các trường sĩ quan, HOT, 9đLuận văn: Giáo dục pháp luật trong các trường sĩ quan, HOT, 9đ
Luận văn: Giáo dục pháp luật trong các trường sĩ quan, HOT, 9đ
 
Đề tài: Pháp luật về phổ biến giáo dục pháp luật và thực tiễn áp dụng tại UBN...
Đề tài: Pháp luật về phổ biến giáo dục pháp luật và thực tiễn áp dụng tại UBN...Đề tài: Pháp luật về phổ biến giáo dục pháp luật và thực tiễn áp dụng tại UBN...
Đề tài: Pháp luật về phổ biến giáo dục pháp luật và thực tiễn áp dụng tại UBN...
 
Luận văn: Quản lý Nhà nước về tôn giáo tại tỉnh Bình Dương - Gửi miễn phí qu...
Luận văn: Quản lý Nhà nước về tôn giáo tại tỉnh Bình Dương  - Gửi miễn phí qu...Luận văn: Quản lý Nhà nước về tôn giáo tại tỉnh Bình Dương  - Gửi miễn phí qu...
Luận văn: Quản lý Nhà nước về tôn giáo tại tỉnh Bình Dương - Gửi miễn phí qu...
 
Đề tài: Phổ biến pháp luật cho đồng bào dân tộc Êđê tỉnh Đắk Lắk
Đề tài: Phổ biến pháp luật cho đồng bào dân tộc Êđê tỉnh Đắk LắkĐề tài: Phổ biến pháp luật cho đồng bào dân tộc Êđê tỉnh Đắk Lắk
Đề tài: Phổ biến pháp luật cho đồng bào dân tộc Êđê tỉnh Đắk Lắk
 
Luận văn: Ý thức pháp luật của người chưa thành niên, HOT
Luận văn: Ý thức pháp luật của người chưa thành niên, HOTLuận văn: Ý thức pháp luật của người chưa thành niên, HOT
Luận văn: Ý thức pháp luật của người chưa thành niên, HOT
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
dangdinhkien2k4
 
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
ltbdieu
 
Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1
Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1
Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1
mskellyworkmail
 

Recently uploaded (20)

NHẬN XÉT LUẬN VĂN THẠC SĨ: Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của n...
NHẬN XÉT LUẬN VĂN THẠC SĨ: Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của n...NHẬN XÉT LUẬN VĂN THẠC SĨ: Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của n...
NHẬN XÉT LUẬN VĂN THẠC SĨ: Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của n...
 
Mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam (Mar...
Mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam (Mar...Mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam (Mar...
Mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam (Mar...
 
GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ MỘT SỐ BÀI HÁT DÂN CA CÁC DÂN TỘC BẢN ĐỊA CHO HỌC...
GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ MỘT SỐ BÀI HÁT DÂN CA CÁC DÂN TỘC BẢN ĐỊA CHO HỌC...GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ MỘT SỐ BÀI HÁT DÂN CA CÁC DÂN TỘC BẢN ĐỊA CHO HỌC...
GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ MỘT SỐ BÀI HÁT DÂN CA CÁC DÂN TỘC BẢN ĐỊA CHO HỌC...
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
 
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...
 
PHIẾU KHẢO SÁT MỨC ĐỘ HÀI LÒNG VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ VẬN CHUYỂN HÀNG KHÁCH BẰ...
PHIẾU KHẢO SÁT MỨC ĐỘ HÀI LÒNG VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ VẬN CHUYỂN HÀNG KHÁCH BẰ...PHIẾU KHẢO SÁT MỨC ĐỘ HÀI LÒNG VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ VẬN CHUYỂN HÀNG KHÁCH BẰ...
PHIẾU KHẢO SÁT MỨC ĐỘ HÀI LÒNG VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ VẬN CHUYỂN HÀNG KHÁCH BẰ...
 
60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx
60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx
60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx
 
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
 
XÂY DỰNG KẾ HOẠCH KINH DOANH CHO CÔNG TY KHÁCH SẠN SÀI GÒN CENTER ĐẾN NĂM 2025
XÂY DỰNG KẾ HOẠCH KINH DOANH CHO CÔNG TY KHÁCH SẠN SÀI GÒN CENTER ĐẾN NĂM 2025XÂY DỰNG KẾ HOẠCH KINH DOANH CHO CÔNG TY KHÁCH SẠN SÀI GÒN CENTER ĐẾN NĂM 2025
XÂY DỰNG KẾ HOẠCH KINH DOANH CHO CÔNG TY KHÁCH SẠN SÀI GÒN CENTER ĐẾN NĂM 2025
 
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
 
[123doc] - ao-dai-truyen-thong-viet-nam-va-xuong-xam-trung-quoc-trong-nen-van...
[123doc] - ao-dai-truyen-thong-viet-nam-va-xuong-xam-trung-quoc-trong-nen-van...[123doc] - ao-dai-truyen-thong-viet-nam-va-xuong-xam-trung-quoc-trong-nen-van...
[123doc] - ao-dai-truyen-thong-viet-nam-va-xuong-xam-trung-quoc-trong-nen-van...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Luận văn 2024 Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý hành...
Luận văn 2024 Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý hành...Luận văn 2024 Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý hành...
Luận văn 2024 Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý hành...
 
Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1
Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1
Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1
 
Giới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vn
Giới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vnGiới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vn
Giới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vn
 
TIỂU LUẬN MÔN PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
TIỂU LUẬN MÔN PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌCTIỂU LUẬN MÔN PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
TIỂU LUẬN MÔN PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
 
Quản trị cơ sở Giáo dục nghề nghiệp
Quản trị cơ sở Giáo dục nghề nghiệpQuản trị cơ sở Giáo dục nghề nghiệp
Quản trị cơ sở Giáo dục nghề nghiệp
 
22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...
22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...
22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...
 

Luận văn: Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc ít người, HOT

  • 1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ ………/……… .…../…… HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA PHẠM ANH TÂN GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO ĐỒNG BÀO DÂN TỘC ÍT NGƢỜI Ở HUYỆN SƠN HÒA, TÌNH PHÚ YÊN Chuyên ngành: Luật Hiến pháp – Luật Hành chính Mã số: 60 38 01 02 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH Ngƣời hƣớng dẫn khoa học : PGS.TS NGUYỄN QUỐC SỬU THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2017
  • 2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tác giả. Các thông tin, số liệu được trình bày trong Luận văn là trung thực và có nguồn gốc, xuất xứ được công bố, báo cáo rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu của Luận văn chưa được công bố trong bất kì công trình nghiên cứu nào. Phú Yên, ngày tháng năm 2017 Học viên Phạm Anh Tân
  • 3. Lời Câm Ơn Để hoàn thành luận văn về đề tài “Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dån tộc ít người ở huyện Sơn Hòa, tînh Phú Yên”, tôi xin đặc biệt câm ơn Thæy hướng dẫn PGS.TS Nguyễn Quốc Sửu đã tận tình quan tåm hướng dẫn và giúp đỡ về nội dung, phương pháp nghiên cứu khoa học trong suốt quá trình thực hiện Luận văn này. Tác giâ Luận văn xin trån trọng câm ơn Ban Giám đốc, Lãnh đäo Khoa Nhà nước pháp luật, Khoa Sau đäi học cùng Quý thæy giáo, cô giáo cûa Học viện Hành chính Quốc gia; đồng câm ơn các cơ quan, đơn vị, địa phương mà trong khuôn khổ đề tài đã tiến hành nghiên cứu, điều tra„ đã täo những điều kiện hỗ trợ tốt nhçt, tham gia góp ý kiến ûng hộ, giúp đỡ Tác giâ trong suốt quá trình học tập và thực hiện đề tài luận văn. Xin được bày tô lời câm ơn chån thành tới gia đình, bän bè, đồng nghiệp đã luôn động viên, đồng hành, chia sẻ và täo điều kiện thuận lợi giúp Tác giâ vượt qua những khó khăn để hoàn thành Luận văn này. Do những điều kiện chû quan, khách quan, chắc chắn kết quâ nghiên cứu cûa Luận văn còn những điểu thiếu sót. Tác giâ rçt mong tiếp tục nhận được những ý kiến đóng góp để hoàn thiện, nång cao chçt lượng vçn đề được lựa chọn nghiên cứu. Phú Yên, ngày tháng năm 2017 Học viên Phäm Anh Tån
  • 4. MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cam đoan Lời cảm ơn Mục lục Danh mục các chữ viết tắt MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT VÀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO ĐỒNG BÀO DÂN TỘC ÍT NGƢỜI........10 1.1. Những vấn đề lý luận cơ bản về giáo dục pháp luật............................10 1.1.1. Khái niệm giáo dục pháp luật........................................................10 1.1.2. Mục đích của giáo dục pháp luật ..................................................13 1.1.3. Chủ thể và đối tượng của giáo dục pháp luật ...............................15 1.1.4. Nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục pháp luật.................16 1.1.5. Mối quan hệ giữa giáo dục pháp luật với các lĩnh vực giáo dục khác..........................................................................................................17 1.2. Khái niệm, vai trò và đặc trưng công tác giáo dục pháp luật đối với đồng bào dân tộc ít người...........................................................................19 1.2.1. Khái niệm giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc ít người......19 1.2.2. Vai trò của giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc ít người......21 1.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc ít người...............................................................................................23 1.2.4. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc ít người ..........................................................................31 Tiểu kết chương 1.......................................................................................36 Chương 2: THỰC TRẠNG GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO ĐỒNG BÀO DÂN TỘC ÍT NGƢỜI Ở HUYỆN SƠN HÒA, TỈNH PHÚ YÊN............37
  • 5. 2.1. Đặc điểm điều kiện tự nhiên, chính trị - kinh tế, xã hội ảnh hưởng đến hoạt động giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc ít người ở huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên......................................................................................37 2.1.1. Đặc điểm điều kiện tự nhiên..........................................................37 2.1.2. Về phát triển kinh tế.......................................................................39 2.1.3. Về xây dựng hệ thống chính trị, Quốc phòng – An ninh ...............41 2.1.4. Văn hóa, xã hội..............................................................................42 2.1.5. Đặc trưng văn hóa của đồng bào DTIN huyện Sơn Hòa ..............43 2.2. Tình hình giáo dục pháp luật đối với đồng bào dân tộc ít người ở huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên ..............................................................................48 2.2.1. Hoạt động tổ chức triển khai thực hiện nhiệm vụ giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc ít người ở huyện Sơn Hòa.............................48 2.2.2. Chủ thể, hình thức và nội dung giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc trên địa bàn huyện Sơn Hòa .......................................................50 2.2.3. Đánh giá chung về thực trạng công tác tuyên truyền và giáo dục pháp luật ở huyện Sơn Hòa trong thời gian qua .....................................56 Tiểu kết chương 2.......................................................................................63 Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO ĐỒNG BÀO DÂN TỘC ÍT NGƢỜI Ở HUYỆN SƠN HÒA, TỈNH PHÚ YÊN HIỆN NAY............................................................64 3.1. Quan điểm tăng cường giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc ít người ở huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên hiện nay........................................64 3.1.1. Giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc ít người phải luôn đặt dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng và sự chỉ đạo sâu sát của các cấp chính quyền địaphương ...........................................................................64
  • 6. 3.1.2. Giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc ít người phải thu hút sự tham gia chủ động, tích cực của tất cả các cơ quan, ban, ngành, tổ chức, đoàn thể hữu quan ở các cấp trên địa bàn huyện Sơn Hòa ....................65 3.1.3. Phải đổi mới đồng bộ cả về nội dung, phương pháp và hình thức giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc ít người..................................67 3.1.4. Kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục pháp luật với giáo dục về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho đồng bào dân tộc ít người ....................68 3.1.5. Gắn kết chặt chẽ giữa giáo dục pháp luật với phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở vùng đồng bào dân tộc ít người, đáp ứng yêu cầu bảo vệ trật tự, kỷ cương, an toàn xã hội.........................................................69 3.2. Các giải pháp cơ bản nhằm tăng cường giáo dục pháp luật đối với đồng bào dân tộc ít người ở Sơn Hòa, Phú Yên hiện nay ...................................71 3.2.1. Nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm, năng lực của chủ thể, đối tượng trong giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc ít người trên địa bàn huyện Sơn Hòa..................................................................................71 3.2.2. Bảo đảm các điều kiện về kinh tế, chính trị, văn hóa và pháp luật cho giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc ít người...........................87 3.2.3. Rà soát, điều chỉnh, ban hành mới các văn bản pháp quy về giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc ít người........................................100 3.2.4. Xã hội hóa giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc ít người ở huyện Sơn Hòa.......................................................................................100 Tiểu kết chương 3.....................................................................................103 KẾT LUẬN..................................................................................................105 TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 107
  • 7. DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU - CHỮ VIẾT TẮT Viết tắt Chữ viết tắt BCV Báo cáo viên CBCC Cán bộ, công chức DTIN Dân tộc ít người DTTS Dân tộc thiểu số GDPL Giáo dục pháp luật PBGDPL Phổ biến, giáo dục pháp luật TTV Tuyên truyền viên XHCN Xã hội chủ nghĩa
  • 8. 1 PAGEMỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn Trong công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, đất nước ta đang tiến hành đổi mới toàn diện và sâu sắc các mặt, các lĩnh vực của đời sống xã hội. Chúng ta đã và đang không ngừng nỗ lực xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Để xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền XHCN thì bên cạnh việc xây dựng, ban hành hệ thống pháp luật đầy đủ, đồng bộ, điều quan trọng hơn là phải đưa pháp luật vào thực tế xã hội để mọi thành viên trong xã hội, trong đó có đồng bào các dân tộc ít người (DTIN), hiểu được những nguyên tắc, quy định pháp luật; từ đó, sử dụng pháp luật như một công cụ để bảo vệ lợi ích của Nhà nước, tập thể, cộng đồng và của mỗi người dân. Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội bằng pháp luật, phát huy dân chủ và không ngừng tăng cường pháp chế XHCN, luôn luôn đặt pháp luật ở vị trí thượng tôn, yêu cầu mọi công dân phải sống, làm việc theo pháp luật; đòi hỏi phải đẩy mạnh công tác phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL) cho các tầng lớp nhân dân nhằm trang bị cho họ những kiến thức, hiểu biết nhất định về pháp luật. Đồng bào DTIN ở tỉnh Phú Yên là một bộ phận không thể tách rời của đại gia đình các dân tộc Việt Nam, cư trú tập trung chủ yếu ở các huyện Sông Hinh, Đồng Xuân và Sơn Hòa, có vị trí chiến lược quan trọng về mặt địa chính trị và an ninh quốc phòng của tỉnh. Trong những năm qua, đồng bào DTIN đã và đang có những đóng góp quan trọng cho sự nghiệp xây dựng kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh trên địa bàn tỉnh nói chung và ở huyện Sơn Hòa nói riêng. Tuy nhiên, trình độ dân trí nói chung, trình độ kiến thức, hiểu biết pháp luật nói riêng của đồng bào DTIN còn tương đối thấp, bên cạnh đó ở địa bàn các huyện miền núi, các thế lực thù địch, bọn phản động như
  • 9. 2 “Funrô”, “Tin lành Đê-ga” vẫn có những âm mưu thâm độc, chống phá cách mạng công cuộc đổi mới bằng chiến lược “diễn biến hòa bình”, bằng chiêu bài “dân tộc – tôn giáo”…, lợi dụng trình độ hiểu biết pháp luật của đồng bào DTIN còn thấp để tuyên truyền, kích động làm mất ổn định tình hình an ninh, chính trị, kinh tế, xã hội, gây chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, gây mâu thuẫn giữa các tôn giáo... Vì vậy, thực tế đòi hỏi cả hệ thống chính trị phải tiếp tục có biện pháp mạnh mẽ và quyết liệt hơn trong công tác giáo dục pháp luật (GDPL) cho nhân dân nói chung và đồng bào DTIN nói riêng. Trong những năm qua, trên địa bàn huyện Sơn Hòa với sự nỗ lực và cố gắng của các cấp, các ngành, công tác phổ biến, GDPL đã có những chuyển biến tích cực, đã góp phần xây dựng ý thức sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật của cán bộ và nhân dân. Tuy nhiên, vẫn còn bộc lộ những hạn chế, bất cập trên nhiều mặt, từ việc xác định mục tiêu GDPL, xây dựng đội ngũ báo cáo viên (BCV), tuyên truyền viên (TTV) pháp luật, lựa chọn nội dung, phương pháp cho đến hình thức GDPL cho đồng bào DTIN; bên cạnh đó trách nhiệm của các cấp, các ngành chưa được xác định cụ thể, rõ ràng nên kết quả đạt được còn thấp so với yêu cầu. Sự hiểu biết pháp luật của cán bộ và nhân dân vùng đồng bào DTIN vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập; điều kiện để tiếp nhận thông tin, nhất là các văn bản pháp luật của Nhà nước đối với đồng bào vùng sâu, vùng xa bị hạn chế. Vì vậy, vẫn còn có tình trạng các luật tục (cả tích cực và lạc hậu) của người đồng bào DTIN chi phối, điều chỉnh các quan hệ xã hội ở thôn, buôn. Bối cảnh đó càng cho thấy việc tuyên truyền và GDPL Nhà nước, đưa pháp luật vào cuộc sống ở đây là vấn đề đòi hỏi cần được đáp ứng kịp thời. Luật phổ biến, giáo dục pháp luật số 14/2012/QH13 đã quy định Phổ biến, giáo dục pháp luật cho người dân ở vùng dân tộc thiểu số (DTTS), miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, ven biển, hải đảo, vùng có điều kiện kinh tế
  • 10. 3 - xã hội đặc biệt khó khăn và ngư dân [Đ.17] điều đó khẳng định sự quan tâm thiết thực của Đảng, Nhà nước ta đối với đồng bào DTIN. Một vấn đề đặt ra là làm thế nào, cần có giải pháp gì để đưa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến với đồng bào DTIN, trong đó có đồng bào DTIN huyện Sơn Hòa đi vào thực tiễn, từng bước nâng cao hiểu biết pháp luật cho nhân dân. Giữa hoạt động GDPL và ý thức tuân thủ, chấp hành pháp luật, khả năng sử dụng kiến thức pháp luật để bảo vệ quyền con người, quyền công dân, nâng cao chất lượng cuộc sống của đồng bào DTIN, tăng cường xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc; góp phần hạn chế tình trạng vi phạm pháp luật, giảm thiểu về tội phạm trong cộng đồng, đảm bảo an ninh quốc phòng, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội trên địa bàn. Như vậy hoạt động GDPL cho đồng bào DTIN huyện Sơn Hòa đang là một yêu cầu khách quan, có tầm quan trọng trong điều kiện góp phần thúc đẩy sự nghiệp phát triển công nghiệp hóa – hiện đại hóa, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN hiện nay của địa phương. Đó cũng là lý do tác giả chọn nghiên cứu vấn đề: “Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc ít người ở huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên” làm đề tài luận văn chuyên ngành Luật Hiến pháp, Luật hành chính. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn GDPL với tư cách là một phạm trù pháp lý là một dạng hoạt động của Nhà nước trong tổ chức thực hiện pháp luật, biện pháp tăng cường pháp chế, vấn đề này đã thu hút sự quan tâm, nghiên cứu của nhiều cơ quan và các nhà khoa học từ trước đến nay, đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới đất nước, đổi mới xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Các công trình nghiên cứu nổi bật như: - Đào Trí Úc, "Xây dựng ý thức và lối sống theo pháp luật" [58], Tác giả đã chỉ ra những đặc điểm về mặt xã hội, về mặt nhận thức của quá trình
  • 11. 4 hình thành ý thức pháp luật của con người Việt Nam, làm sáng tỏ những ảnh hưởng của phương thức sản xuất, của các hệ tư tưởng, văn hóa, đạo đức và tập quán truyền thống của điều kiện phát triển đất nước và cơ chế quản lý kinh tế, quản lý xã hội đến ý thức và lối sống… và trên cơ sở nắm rõ cơ cấu, nội dung, ý thức pháp luật của các tầng lớp, thành phần dân cư, đưa ra hệ thống biện pháp xây dựng lối sống theo pháp luật. - Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình lý luận Nhà nước và pháp luật [57] chương IX- Ý thức pháp luật, các tác giả chỉ rõ mục đích của GDPL được xem xét trên nhiều góc độ, tùy thuộc vào đối tượng giáo dục, cấp độ giáo dục cũng như hình thức giáo dục có thể mang tính trước mắt hoặc lâu dài vào đều hướng đến các vấn đề cơ bản: Thứ nhất, GDPL nhằm nâng cao khả năng nhận thức pháp lý, sự hiểu biết pháp luật, hình thành tri thức pháp luật. Hai là, GDPL nhằm khơi dậy tình cảm, lòng tin và thái độ đúng đắn đối với pháp luật. Ba là, GDPL nhằm hình thành thói quen ứng xử theo pháp luật với động cơ tích cực. - Ngọ Văn Nhân, Xã hội học pháp luật (tái bản lần thứ nhất, có chỉnh sửa, bổ sung)[33]. Theo tác giả, để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động áp dụng pháp luật của đội ngũ Cán bộ, công chức nhà nước có thẩm quyền áp dụng pháp luật, phụ thuộc vào trình độ tri thức, hiểu biết pháp luật và kỷ năng nghiệp vụ của đội ngũ này. Vì vậy một biện pháp quan trọng đó chính là tăng cường GDPL, bồi dưỡng kỷ năng nghiệp vụ cho cán bộ, công chức nhà nước có thẩm quyền áp dụng pháp luật. - Nguyễn Quốc Sửu, “Tăng cường giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức hành chính tỉnh Đăk Lăk”[41]. Là sách chuyên khảo về chủ đề GDPL cho đội ngũ cán bộ, công chức hành chính ở Đăk Lăk. Trong một phần nội dung, tác giả đã chỉ ra những nét đặc trưng của công tác GDPL với sự tác động, ảnh hưởng của những luật tục, tập quán, lối sống, bản sắc văn hóa của
  • 12. 5 các DTTS; đánh giá thực trạng công tác GDPL thông qua điều tra xã hội học; từ đó đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác này. - Một số công trình nghiên cứu của các tác giả: "Một số vấn đề về giáo dục pháp luật trong giai đoạn hiện nay", của Vụ Phổ biến giáo dục pháp luật, Bộ Tư pháp, Nxb Thanh niên, 1997; "Tìm kiếm mô hình phổ biến giáo dục pháp luật có hiệu quả trong một số dân tộc ít người", đề tài khoa học cấp Bộ của Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý. - Một số công trình nghiên cứu về đồng bào DTIN nói chung và đồng bào DTIN ở tỉnh Phú Yên tiêu biểu như: + Ngô Đức Thịnh “Luật tục trong đời sống các tộc người Việt Nam”; Tác giả đã chỉ rõ nguồn gốc, bản chất, các đặc trưng cơ bản và hình thức, trình độ phát triển của luật tục. Trên cơ sở nghiên cứu luật tục của các DTTS, tác giả đã đánh giá những tương đồng – khác biệt giữa luật tục với luật pháp nhà nước, sự kết hợp giữa luật tục và luật pháp và vai trò của luật tục trong phát triển nông thôn hiện nay. + “Lễ nghi cuộc đời của người Chăm” Sử Văn Ngọc, Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam (sưu tầm, biên dịch, giới thiệu) Nxb Văn hóa Dân tộc 2011; Lê Thế Vịnh “Văn hóa người Chăm H’roi tỉnh Phú Yên” Nxb Dân trí 2010. - Một số bài viết của một số tác giả có liên quan đến nội dung GDPL cho đồng bào DTIN thời gian gần đây: + “Công tác phổ biến giáo dục pháp luật ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số” - TS. Bế Trường Thành, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Dân tộc - Uỷ viên Hội đồng PBGDPL của Chính phủ đã xác định: Phổ biến GDPL là một bộ phận của công tác giáo dục chính trị tư tưởng, là nhiệm vụ của toàn bộ hệ thống chính trị, với mục tiêu “Phổ biến kịp thời, đầy đủ những nội dung pháp luật liên quan đến cuộc sống của các tầng lớp nhân dân, tạo điều kiện để công
  • 13. 6 dân sử dụng pháp luật làm phương tiện, công cụ bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của mình, của nhà nước và xã hội. Nâng cao ý thức tự giác, chủ động tìm hiểu và chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân”. Tạo bước phát triển mới trong công tác GDPL để hỗ trợ tích cực hơn nữa nhu cầu hiểu biết pháp luật, nâng cao dân trí pháp lý trong cán bộ, nhân dân, góp phần thực hiện nhiệm vụ phát triển toàn diện con người Việt Nam. + “Một số giải pháp nâng cao chất lượng tuyên truyền pháp luật cho đồng dân tộc thiểu số” của tác giả Vũ Ngân đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật ngày 23/6/2016. + “Kỹ năng phổ biến, giáo dục pháp luật cho người dân ở vùng dân tộc thiểu số, miền núi, biên giới, vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn” của tác giả Vừ Bá Thông, Chuyên viên Vụ Pháp chế - Ủy ban Dân tộc. Qua tìm hiểu các công trình nghiên cứu khoa học của các tập thể và cá nhân, các bài viết về GDPL, có thể khẳng định rằng đây là những tài liệu có giá trị cao về mặt lý luận và thực tiễn trên phạm vi rộng của cả nước, của từng vùng và của từng địa phương. Các công trình nghiên cứu đã chỉ ra được những ưu điểm, hạn chế, bất cập và nguyên nhân dẫn đến thực trạng, các nhân tố ảnh hưởng, tác động đến GDPL. Tuy nhiên, có thể nói rằng cho đến nay chưa có một công trình nghiên cứu về GDPL đối với đồng bào DTIN tại huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên. Từ sự tổng quan tình hình nghiên cứu nêu trên, tác giả xác định những vấn đề đặt ra cần được tiếp tục triển khai, đi sâu nghiên cứu trong quá trình thực hiện luận văn. Với tư cách là một xã hội thu nhỏ của cộng đồng DTIN cùng sinh sống ở huyện Sơn Hòa, trong giai đoạn hiện nay cần tiếp tục chú trọng đúng mức, cấp thiết của việc GDPL và coi đây là nhiệm vụ chính trị quan trọng để
  • 14. 7 góp phần vào việc ổn định tình hình và phát triển kinh tế - xã hội ở một huyện miền núi như Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn - Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu về hoạt động GDPL cho đồng bào DTIN. Đây là đề tài có đối tượng nghiên cứu tương đối rộng, song trong khuôn khổ nghiên cứu, luận văn chỉ đề cập về công tác GDPL cho đối tượng là đồng bào DTIN trên địa bàn Huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên nói chung và đại diện tiêu biểu là đồng bào DTIN chiếm số đông trong cộng đồng các DTIN ở huyện Sơn Hòa gồm: đồng bào Chăm Hroi và đồng bào Ê đê. - Phạm vi nghiên cứu của luận văn được giới hạn theo không gian, thời gian và tính chất nghiên cứu. Theo không gian, phạm vi khảo sát thực tiễn vấn đề nghiên cứu của luận văn chỉ giới hạn ở huyện Sơn Hòa, tập trung khu vực các xã vùng III và nơi có đông đồng bào DTIN sinh sống. Theo thời gian, khảo sát hoạt động GDPL cho đồng bào DTIN trong thời gian từ năm 2010 đến nay. Về tính chất nghiên cứu, luận văn tập trung nghiên cứu sâu về hoạt động GDPL cho đồng bào DTIN ở huyện Sơn Hòa. 4. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn - Mục đích của luận văn: trên cơ sở nghiên cứu phân tích lý luận, đánh giá thực tiễn công tác GDPL cho đồng bào DTIN ở huyện Sơn Hòa; luận văn đề xuất quan điểm, giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả bảo đảm công tác GDPL cho đồng bào DTIN trên địa bàn huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên hiện nay. - Nhiệm vụ của luận văn: Để hoàn thành mục đích đặt ra, luận văn thực hiện các nhiệm vụ sau: Thứ nhất: phân tích cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý của hoạt động GDPL nói chung và cho đồng bào DTIN bao gồm: khái niệm, đặc trưng, mục tiêu, chủ thể, đối tượng, nội dung, phương pháp, hình thức...; những yếu tố tác động đến công tác GDPL cho nhóm đối tượng này.
  • 15. 8 Thứ hai: khảo sát, đánh giá đặc điểm tình hình kinh tế, văn hóa – xã hội ở vùng đồng bào DTIN trên địa bàn nghiên cứu có ảnh hưởng đến công tác GDPL trong giai đoạn 2010-2017. Làm rõ thực trạng công tác GDPL cho đồng bào DTIN trên địa bàn huyện Sơn Hòa giai đoạn 2010-2017, trên phương diện những kết quả đạt được, những tồn tại hạn chế, tìm nguyên nhân của thực trạng; từ đó đúc kết những bài học kinh nghiệm phục vụ cho việc kiến nghị, đề xuất xây dựng các giải pháp nhằm đảm bảo chất lượng, hiệu quả của công tác này. Thứ ba: trên cơ sở các quan điểm có tính chất chỉ đạo, Luận văn đề xuất, luận giải tính khả thi của các giải pháp đảm bảo nâng cao về chất lượng, hiệu quả trong hoạt động công tác GDPL cho đồng bào DTIN huyện Sơn Hòa trong giai đoạn tiếp theo. 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu - Cơ sở lý luận: Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận triết học Mác – Lênin về chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, lý luận nhận thức; dựa trên tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và pháp luật Nhà nước ta về công tác dân tộc, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, về vai trò GDPL nói chung và cho đồng bào DTIN nói riêng. - Phương pháp nghiên cứu: Để hoàn thành mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, luận văn sử dụng các phương pháp tổng hợp và phân tích; phương pháp lịch sử và lôgic; thống kê so sánh; khái quát hóa, hệ thống hóa... trong quá trình thực hiện luận văn. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Luận văn luận giải, khái quát và nêu các đặc trưng của hoạt động GDPL cho đồng bào DTIN ở huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên; chỉ ra các yếu tố chủ quan, khách quan có tác động đến công tác GDPL cho đồng bào DTIN trên địa bàn nghiên cứu.
  • 16. 9 - Từ việc tham khảo, nghiên cứu kinh nghiệm về công tác GDPL cho nhân dân tại một số địa phương, một số vùng ở Việt Nam, luận văn rút ra những bài học kinh nghiệm có thể vận dụng trên địa bàn huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên. - Trong khuôn khổ nghiên cứu của luận văn, căn cứ kết quả tìm hiểu, nắm bắt thông tin và từ các nguồn tài liệu có sẵn; tập trung phân tích, đánh giá, chỉ ra những kết quả, hạn chế, nguyên nhân trong công tác GDPL cho đồng bào DTIN ở huyện Sơn Hòa. - Luận văn đưa ra những đề xuất, kiến nghị và giải pháp toàn diện, đảm bảo nâng cao chất lượng, hiệu quả trong GDPL cho đồng bào DTIN trên địa bàn huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên. Luận văn đề cập, phân tích một trong những vấn đề quan trọng và cấp thiết những chưa được nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống vấn đề GDPL cho đồng bào DTIN ở huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên. Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm phong phú thêm lý luận về GDPL cho một đối tượng, khu vực cụ thể; đồng thời bổ sung thêm những luận cứ khoa học và thực tiễn cho việc xây dựng, hoàn thiện về lý luận về GDPL cho đồng bào các DTIN ở tỉnh Phú Yên nói chung và đồng bào DTIN ở huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên nói riêng. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành 3 chương, 10 tiết. Chương 1: Những vấn đề lý luận về giáo dục pháp luật và giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc ít người Chương 2: Thực trạng giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc ít người ở huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên Chương 3: Quan điểm và giải pháp tăng cường giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc ít người ở huyện sơn hòa, tỉnh phú yên hiện nay
  • 17. 10 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT VÀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO ĐỒNG BÀO DÂN TỘC ÍT NGƢỜI 1.1. Những vấn đề lý luận cơ bản về giáo dục pháp luật 1.1.1. Khái niệm giáo dục pháp luật GDPL là vấn đề lý luận cơ bản có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong khoa học giáo dục cũng như trong sự nghiệp giáo dục ở nước ta. Khái niệm GDPL thường được quan niệm là một dạng hoạt động gắn liền với việc triển khai thực hiện pháp luật cũng như trong hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật. Với tư cách là một dạng giáo dục thì GDPL ở nước ta hình thành và thực hiện muộn hơn so với giáo dục chính trị, và giáo dục đạo đức. Với tư cách là một khái niệm pháp lý - GDPL được hình thành trong khoa học pháp lý cũng như được tiến hành trong thực tế ở nước ta rất muộn mằn so với nhiều nước trên thế giới. Chính vì vậy, quan niệm về GDPL ở nước ta vẫn còn có nhiều ý kiến khác nhau, đó là lẽ bình thường. Song để có một cách nhìn nhận đúng đắn khoa học về GDPL, trước hết cần xem xét một số các quan niệm về GDPL cơ bản sau đây: - Quan niệm thứ nhất cho rằng: GDPL là một bộ phận của giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức. Theo quan niệm này khi tiến hành giáo dục chính trị tư tưởng, các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng cho nhân dân thì tự nó sẽ hình thành nên ý thức pháp luật. Điều đó có ý nghĩa làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng, giáo dục đạo đức sẽ đạt được sự tôn trọng pháp luật của nhân dân. - Quan niệm thứ hai: Xem GDPL chỉ đơn thuần là hoạt động phổ biến tuyên truyền, giải thích pháp luật thông qua các phương tiện thông tin, truyền thông đại chúng như: đài phát thanh, truyền hình và sách báo. Chỉ cần làm tốt
  • 18. 11 công tác thông tin, phổ biến tuyên truyền pháp luật như vậy là có thể làm tốt công tác GDPL. - Quan niệm thứ ba: GDPL là lấy "trừng trị" để giáo dục người vi phạm và răn đe, giáo dục người khác. Thông qua việc xử lý những hành vi vi phạm pháp luật cũng như áp dụng hình phạt đối với người phạm tội, xử phạt vi phạm hành chính hay áp dụng các chế độ trách nhiệm dân sự sẽ có tác dụng GDPL cho mọi người. - Quan niệm thứ tư cho rằng: công tác GDPL đồng nghĩa với việc dạy và học pháp luật ở các trường học, còn việc tuyên truyền phổ biến pháp luật ở ngoài xã hội thì không phải là GDPL. Các quan niệm trên, mặc dù ở những góc độ khác nhau nhưng đều có sự nhìn nhận GDPL ở những khía cạnh và mức độ hợp lý nhất định. Song ở các quan niệm đó đều bộc lộ ít nhiều sự phiến diện; chưa thể hiện được đặc thù và giá trị vốn có của GDPL. Vì vậy, những quan niệm đó đã hạ thấp vai trò, vị trí xã hội của GDPL. Mặt khác trong thực tiễn, các quan niệm trên đã không tạo ra khả năng hoặc thậm chí cản trở việc triển khai hoạt động GDPL có tổ chức cũng như quy mô việc thực hiện pháp luật; làm cho hiệu lực, hiệu quả của pháp luật trong thực tế không cao. Để có quan niệm đúng đắn về GDPL, con đường duy nhất cần tiếp cận là những thành tựu của khoa học giáo dục học. Giáo dục là một hiện tượng xã hội và chỉ có trong xã hội loài người thể hiện nền văn minh nhân loại. Giáo dục luôn luôn là nhu cầu của xã hội, nó có vai trò tác động trở lại xã hội. Vì thế mà các nhà nước của giai cấp cầm quyền, để bảo vệ quyền lợi của mình đều thông qua giáo dục. Trong khoa học sư phạm, giáo dục được hiểu theo hai nghĩa đó là nghĩa rộng và nghĩa hẹp. - Theo nghĩa rộng: giáo dục là sự ảnh hưởng, tác động của những điều kiện khách quan (như chế độ xã hội, trình độ phát triển kinh tế, môi trường
  • 19. 12 sống....) và của cả những nhân tố chủ quan (tác động tự giác, có chủ định và định hướng của nhân tố con người) nhằm hình thành những phẩm chất, kỹ năng nhất định của đối tượng giáo dục. - Theo nghĩa hẹp: giáo dục là quá trình tác động định hướng của nhân tố chủ quan lên khách thể giáo dục, nhằm truyền bá những kinh nghiệm đấu tranh và sản xuất, những tri thức về tự nhiên, xã hội và tư duy, để họ có đầy đủ khả năng tham gia vào lao động và đời sống xã hội. Trong quá trình hoạt động thực tiễn, các nhà lý luận cũng đã thừa nhận những yếu tố ảnh hưởng của các điều kiện khách quan tác động đến sự hình thành ý thức cá nhân của con người. Song các nhà lý luận khoa học sư phạm đã nhấn mạnh đến yếu tố tác động hàng đầu cực kỳ quan trọng và thậm chí quyết định của nhân tố chủ quan trong giáo dục. Vì vậy khái niệm giáo dục hiện nay chúng ta thường được hiểu theo nghĩa hẹp, từ đó các nhà khoa học đã xây dựng khái niệm GDPL bởi các yếu tố sau đây: - Thứ nhất: Sự hình thành ý thức của con người là một quá trình chịu ảnh hưởng và sự tác động của các điều kiện khách quan lẫn các nhân tố chủ quan. Các Mác viết: "Con người vốn là sản phẩm của hoàn cảnh và giáo dục. Và do đó con người đã biến đổi là sản phẩm của những hoàn cảnh khác và của một nền giáo dục đã thay đổi" [5, Tr.10]. Khi nghiên cứu sự tác động ảnh hưởng lên ý thức con người thì các nhà lý luận giáo dục đã phân biệt điều kiện khách quan và chủ quan. Điều kiện khách quan là những yếu tố ảnh hưởng hình thành lên ý thức con người và điều kiện chủ quan là nhân tố tác động có chủ đích, có định hướng, có nội dung và phạm vi nhất định. Vậy theo nghĩa hẹp của giáo dục có thể vận dụng vào quan niệm GDPL đó là sự tác động có định hướng của nhân tố chủ quan bằng việc xác định nội dung, chương trình pháp luật cần đưa vào kế hoạch giáo dục cho công dân.
  • 20. 13 - Thứ hai: Từ nghĩa hẹp của khái niệm giáo dục trong khoa học sư phạm để xây dựng khái niệm GDPL chúng ta nhận thức được mối quan hệ giữa “cái chung” và “cái riêng”, “cái đặc thù”; trong mối quan hệ với giáo dục nói chung là “cái chung”, “cái phổ biến”, “cái riêng” vừa phải mang những đặc điểm chung vừa phải mang tính thể hiện những nét đặc thù. GDPL là “cái riêng” “cái đặc thù” trong mối quan hệ với giáo dục là “cái chung”, “cái phổ biến”. Tính đặc thù của GDPL so với các hoạt động giáo dục khác ở một số điểm: về mục đích, nội dung, về chủ thể, đối tượng, hình thức, phương pháp GDPL. - Thứ ba: Quan niệm GDPL vận dụng từ nghĩa hẹp của giáo dục có ý nghĩa quan trọng trong việc phân biệt hai phạm trù: GDPL và ý thức pháp luật. Hoạt động GDPL là sự tác động của nhân tố chủ quan, mà trước hết là hoạt động có định hướng, có tổ chức, có chủ định về kế hoạch về nội dung, chương trình, còn sự hình thành ý thức pháp luật là sản phẩm, là kết quả của các ảnh hưởng của điều kiện khách quan, là sự tác động của nhân tố chủ quan, nhưng nhân tố chủ quan này lại có vai trò chủ đạo và quyết định đến sự hình thành ý thức pháp luật. Tóm lại: Từ phân tích như trên có thể khái quát về GDPL như sau: Giáo dục pháp luật là quá trình hoạt động có mục đích, có tổ chức, có kế hoạch, theo nội dung và thông qua những phương pháp, hình thức nhất định từ phía chủ thể GDPL, tác động đến đối tượng tiếp nhận GDPL nhằm làm hình thành và phát triển ở họ hệ thống tri thức pháp luật, trình độ hiểu biết về pháp luật; làm hình thành tình cảm, thói quen và hành vi ứng xử tích cực theo pháp luật [39, tr.54] và đòi hỏi của nền pháp chế XHCN. 1.1.2. Mục đích của giáo dục pháp luật Khi tiến hành bất cứ một hoạt động nào đó thì chúng ta phải xác định mục đích để làm gì? cần đạt được mục đích ấy bằng con đường nào? phải lựa chọn hình thức và phương pháp nhất định nào? Xác định đúng đắn mục
  • 21. 14 đích của GDPL chẳng những là căn cứ, tiêu chí để đánh giá hiệu quả mà còn là căn cứ để xây dựng nội dung GDPL phù hợp với đối tượng được giáo dục. Mục đích của GDPL khác với mục đích các dạng giáo dục khác ở các vấn đề sau đây: - Một là: Từng bước nâng cao nhận thức, mở rộng hiểu biết về pháp luật cho công dân. Mục đích được đặt ra là không ngừng nâng cao nhận thức pháp lý cho đối tượng được GDPL để họ có kiến thức vững vàng nắm bắt được những tri thức về Nhà nước, về pháp luật và đặc biệt là pháp luật thực định. - Hai là: Hình thành tình cảm pháp lý và niềm tin nội tâm đối với pháp luật. Việc nâng cao trình độ kiến thức pháp lý là mục đích đầu tiên vô cùng quan trọng nhưng bản thân nó chưa phải là sự quyết định đến hành vi xử sự hợp pháp. Nếu đã có kiến thức pháp luật, nhưng trong mỗi con người cần phải có tình cảm pháp lý, nghĩa là có thái độ tôn trọng pháp luật và tin tưởng vào sự công bằng của pháp luật từ đó mới tạo ra khả năng điều chỉnh hành vi hợp pháp của mình. Để có được tình cảm và lòng tin vào pháp luật thì cần phải giáo dục tình cảm, lòng tin và sự công bằng, trách nhiệm, nghĩa vụ của công dân, thái độ không khoan nhượng với hành vi vi phạm pháp luật. - Ba là GDPL nhằm hình thành động cơ, hành vi và thói quen xử sự hợp pháp, tích cực. Hành vi xử sự theo pháp luật của con người là kết quả của một quá trình nhận thức pháp luật. Để đạt được mục đích này trong quá trình GDPL phải lựa chọn nhiều hình thức, phương pháp và thường xuyên, liên tục để mọi công dân hiểu được sự cần thiết, tính hợp lý của pháp luật vì lợi ích chung của xã hội. GDPL nhằm đạt được ba mục đích nêu trên, ngoài ra mục đích của nó còn giúp cho việc xác định hiệu quả của quá trình GDPL. Không dựa vào mục đích của GDPL thì không thể đánh giá được hiệu quả và các chỉ số xác định hiệu quả của quá trình GDPL.
  • 22. 15 1.1.3. Chủ thể và đối tượng của giáo dục pháp luật Trong hoạt động GDPL những người (cá nhân, tổ chức) theo chức năng của mình tham gia vào việc truyền thụ phổ biến pháp luật như giảng dạy, trình bày, giải thích, pháp luật gọi là chủ thể, những người được truyền thụ học tập, nghiên cứu, tìm hiểu pháp luật gọi là (đối tượng). - Về chủ thể của GDPL: Trong lý luận về giáo dục học, chủ thể giáo dục là những thầy giáo, cô giáo và tất cả những người làm công tác giáo dục khác. Theo từ điển Tiếng Việt: Chủ thể nói chung được hiểu "là đối tượng gây ra hành động mang tính tác động trong quan hệ đối lập với đối tượng bị chi phối bởi hành động tác động, gọi là khách thể". Vận dụng vào GDPL, có thể hiểu chủ thể GDPL là những người hoạt động GDPL. Hay nói khác đi thì chủ thể GDPL được hiểu là tất cả những người, mà theo chức năng, nhiệm vụ hay trách nhiệm xã hội đã tham gia góp phần vào việc thực hiện các mục tiêu GDPL. Việc xác định chủ thể, đối tượng GDPL có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn. Trong mối quan hệ và sự tác động qua lại giữa chủ thể và đối tượng GDPL trong quá trình GDPL, chủ thể khi tiến hành mọi hoạt động GDPL thì sự tác động đó có ý thức, có mục đích, có kế hoạch đến đối tượng giáo dục. Trên cơ sở đó, chủ thể xác định những nhu cầu, khả năng và điều kiện tiếp nhận tác động GDPL của đối tượng cũng như các yêu cầu đòi hỏi khách quan đối với các chủ thể GDPL trong việc xác định nội dung, hình thức, phương pháp phù hợp để tiếp cận GDPL và tiến hành giáo dục có hiệu quả cao nhất. - Về đối tượng GDPL: Vấn đề đối tượng của GDPL có quan hệ chặt chẽ với chủ thể, bởi lẽ chủ thể khi tiến hành hoạt động GDPL thì phải xác định đối tượng là ai? cơ quan, tổ chức hay cá nhân, công dân nào? trình độ, tuổi tác?... Trên cơ sở xác định đúng đắn đối tượng cần GDPL thì chủ thể mới lựa chọn hình thức và
  • 23. 16 phương pháp thích hợp. Đối tượng GDPL có thể là những cá nhân công dân, hay cơ quan tổ chức hoặc một nhóm cộng đồng dân cư trong xã hội được tiếp nhận tác động của các hoạt động GDPL trực tiếp hoặc gián tiếp do chủ thể GDPL tiến hành nhằm đạt được mục đích đặt ra. 1.1.4. Nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục pháp luật - Nội dung GDPL: Việc xác định nội dung của GDPL là vấn đề đặc biệt quan trọng, bởi việc xác định nội dung GDPL là gì? mức độ như thế nào? cho từng loại đối tượng nào?... là vấn đề cốt lõi quyết định hiệu quả của GDPL. Hay nói cách khác trên cơ sở mục đích và đối tượng mà xác định một nội dung GDPL thiết thực để có hiệu quả cao. Nội dung GDPL nói chung là một phạm vi rộng bao gồm kiến thức pháp luật cơ bản như lý luận khoa học về pháp luật, các ngành luật, các văn bản pháp luật thực định. Ngoài ra nội dung của GDPL còn bao hàm các thông tin về việc thực hiện pháp luật, về việc điều tra, xét xử các vụ án hình sự, dân sự, kinh tế, cả về nghiên cứu điều tra xã hội học pháp luật. - Hình thức, phương pháp GDPL: Cần phải thông qua các phương thức truyền tải thông tin, các hình thức giao tiếp giữa chủ thể và đối tượng GDPL bằng những hình thức và phương pháp khác nhau. Nếu chủ thế giáo dục biết lựa chọn các hình thức và phương pháp nào phù hợp với đối tượng thì giáo dục sẽ mang lại hiệu quả cao. Nếu hình thức và phương pháp không phù hợp thì hiệu quả sẽ thấp. Giữa hình thức, phương pháp và nội dung của GDPL cũng có mối quan hệ tác động lẫn nhau, nó có tác động làm cho việc truyền tải nội dung thấm sâu vào nhận thức của đối tượng và nội dung đến lượt nó càng trở nên hoàn thiện hơn, thông qua việc truyền tải thông tin để bổ sung chương trình nội dung GDPL. Về phương pháp GDPL: có thể nói rằng trong khoa học pháp lý chưa có một định nghĩa nào về phương pháp GDPL. Tuy nhiên theo khoa học sư
  • 24. 17 phạm thì phương pháp giảng dạy là các con đường, cách thức, biện pháp tác động để chiếm lĩnh nội dung giảng dạy và đạt được mục đích giảng dạy. Phương pháp GDPL là cách thức, biện pháp được chủ thể sử dụng để truyền đạt nội dung pháp luật tác động đến đối tượng nhằm mục đích nâng cao nhận thức pháp luật, tình cảm và lòng tin cũng như thói quen xử sự theo pháp luật. 1.1.5. Mối quan hệ giữa giáo dục pháp luật với các lĩnh vực giáo dục khác - GDPL với giáo dục chính trị tư tưởng: Chính trị tư tưởng là một lĩnh vực thuộc phạm trù ý thức, trong đó lập trường giai cấp, đường lối cách mạng của Đảng cầm quyền là đường lối chính trị, là bản chất của giai cấp. Pháp luật là sự cụ thể hóa, thể chế hóa tư tưởng đường lối của Đảng cầm quyền. Vì vậy khi GDPL cũng hình thành nên ở đối tượng lập trường giai cấp và ý thức chính trị. Ở nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam “là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Đường lối chính sách của Đảng là “linh hồn” của pháp luật. Đường lối nghị quyết của Đảng được thể chế hóa, cụ thể hóa bằng pháp luật. Đã có thời gian dài trước đây, giáo dục chính trị được coi là nhiệm vụ hàng đầu, là chủ yếu nên dẫn đến việc xem nhẹ GDPL. Cần phải xác định rằng giáo dục chính trị tư tưởng khác với GDPL. Song giữa chúng có quan hệ mật thiết với nhau. Trong giáo dục chính trị tư tưởng có chứa đựng, đan xen nhất định trong nội dung của mình những hiện tượng của pháp luật, cũng có những quan hệ tích cực đối với những đòi hỏi của pháp luật, kích thích lợi ích được điều chỉnh bằng pháp luật. Mối quan hệ mật thiết qua lại giữa GDPL và giáo dục chính trị tư tưởng đòi hỏi các chủ thể giáo dục phải biết kết hợp tiến hành đồng thời GDPL với giáo dục chính trị tư tưởng. - GDPL và giáo dục đạo đức: Giữa pháp luật và đạo đức có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Những quy định pháp luật là phù hợp với đạo đức và có nhiều quy phạm đạo đức được Nhà nước thừa nhận trở thành quy tắc xử sự
  • 25. 18 bắt buộc như quy phạm pháp luật bởi nó thể hiện giá trị chung phổ biến của xã hội. Do vậy giáo dục đạo đức tạo nên những tiền đề cần thiết để hình thành ở công dân sự tôn trọng đối với pháp luật, ngược lại GDPL tạo khả năng thiết lập trên thực tế những nguyên tắc đạo đức mới. Các quy phạm pháp luật và quy tắc đạo đức đều là quy tắc điều chỉnh hành vi xử sự của con người, loại quy phạm này có những điểm chung nhất tác động lên con người, đó là: Hình thành nên lòng tin và sự cần thiết tuân theo những nguyên tắc cơ bản của đạo đức; Mang lại niềm tin vào giá trị xã hội của pháp luật; Tạo ra thói quen xử sự trong các hoàn cảnh cụ thể theo các tiêu chuẩn đạo đức và pháp luật. Đồng thời thông qua GDPL - con đường hình thành ý thức pháp luật của công dân; nhờ đó các quy tắc đạo đức của giai cấp bóc lột và các tập quán hủ tục lạc hậu sẽ bị xã hội loại trừ và đi đến xóa bỏ. Do mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức chặt chẽ như vậy và sự tác động qua lại lẫn nhau giữa chúng, đòi hỏi cần chú trọng đến sự tác động của giáo dục đạo đức và GDPL. - GDPL và giáo dục đào tạo các ngành khoa học khác: + Đào tạo pháp luật: là một quá trình giáo dục kiến thức lý luận khoa học pháp lý cơ bản và kiến thức pháp luật thực định, nhằm cung cấp cho đối tượng giáo dục những tri thức pháp luật. Đào tạo pháp luật được tiến hành theo chương trình kế hoạch và thời gian nhất định. Quá trình đào tạo cũng là quá trình GDPL. Theo chúng tôi không nên tách biệt hoàn toàn khái niệm GDPL và đào tạo pháp luật nhưng rõ ràng khái niệm GDPL rộng hơn đào tạo pháp luật làm rõ mối quan hệ này có ý nghĩa là trong thực tế khi tiến hành GDPL có thể vận dụng nhiều hình thức, phương pháp để truyền tải thông tin pháp lý đến đối tượng giáo dục vì đối tượng GDPL phong phú hơn, đa dạng hơn đào tạo pháp luật. + Các ngành khoa học tự nhiên có đặc thù của nó là nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực tự nhiên như toán học, hóa học, vật lý học... tuy nhiên khi
  • 26. 19 GDPL cần phải sử dụng đến kiến thức của khoa học tự nhiên để luận giải cho một quy định nào đó của pháp luật. + Khoa học xã hội là các ngành khoa học nghiên cứu về xã hội về con người và tổ chức của con người trong xã hội. Vì thế GDPL nó có quan hệ gắn chặt với giáo dục các môn của khoa học xã hội. Những cơ sở khoa học của việc xây dựng các quy phạm pháp luật điều chỉnh hành vi của con người trong xã hội và biện pháp phòng ngừa đối với xã hội đều cần đến tri thức của khoa học xã hội. Từ sự phân tích các mối quan hệ GDPL với các ngành khoa học khác cho thấy GDPL có liên quan mật thiết với đào tạo pháp luật, khoa học tự nhiên, khoa học xã hội. Vì vậy chủ thể của GDPL phải nghiên cứu tìm hiểu để có kiến thức sâu rộng khi luận giải một quy định nào đó của pháp luật có như vậy thì khả năng giảng dạy, truyền thụ mới sâu sắc, mới hấp dẫn và có cơ sở khoa học. Đó cũng có nghĩa là tránh tình trạng nói suông, giáo điều không tạo được niềm tin vào pháp luật một cách sâu sắc và nhanh nhất. 1.2. Khái niệm, vai trò và đặc trƣng công tác giáo dục pháp luật đối với đồng bào dân tộc ít ngƣời 1.2.1. Khái niệm giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc ít người Giáo dục pháp luật cho đồng bào DTIN trong giai đoạn hiện nay là một trong những yêu cầu có tính khách quan, cấp thiết, là một loại hoạt động có ý nghĩa xã hội đặc biệt quan trọng, hướng tới cung cấp, trang bị cho đồng bào DTIN những kiến thức, hiểu biết nhất định về pháp luật; từ đó, làm hình thành ở họ ý thức tôn trọng pháp luật, biết tuân thủ, chấp hành, sử dụng pháp luật một cách chủ động, tích cực và đúng đắn. Để có thể khái niệm về công tác GDPL cho đồng bào DTIN thì nhất thiết phải đề cập đến các khía cạnh sau: Thứ nhất, GDPL là hoạt động thể hiện sự tương tác giữa chủ thể GDPL và đối tượng GDPL. Chủ thể GDPL ở đây
  • 27. 20 chính là các cơ quan, ban, ngành, tổ chức, đoàn thể có chức năng, nhiệm vụ thực hiện GDPL như Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp, Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội... Đối tượng tiếp nhận GDPL ở đây chính là đồng bào DTIN. Thứ hai, GDPL cho đồng bào DTIN là hoạt động có định hướng, có mục đích, bao hàm những tác động tự giác, tích cực, tuân theo kế hoạch đã được xác định của chủ thể GDPL lên đối tượng GDPL với các nội dung cụ thể. Thứ ba, quá trình GDPL cho đồng bào DTIN luôn tuân theo nội dung, chương trình PBGDPL cụ thể, dựa trên các phương pháp GDPL khoa học, hiện đại và các hình thức GDPL phù hợp với đặc điểm tình hình kinh tế, văn hóa, lối sống của đồng bào DTIN nhằm hiện thực hóa một cách tối ưu mục tiêu GDPL cho họ. Ngoài ra, hoạt động GDPL cho đồng bào DTIN cũng phải phù hợp với các đặc điểm văn hóa, lối sống, phong tục tập quán, truyền thống tôn giáo, tín ngưỡng của đồng bào. Thứ tư, các chủ thể GDPL phải chú trọng trang bị cho đồng bào DTIN những kiến thức, hiểu biết về các lĩnh vực pháp luật có liên quan mật thiết với cuộc sống, lao động của họ với nội dung thật cụ thể, rõ ràng; phương pháp phải truyền đạt dễ hiểu, dễ nhớ; hình thức phải hấp dẫn, sinh động, phù hợp với truyền thống văn hóa, tập quán lao động, sinh hoạt, học vấn của đồng bào DTIN. Thứ năm, GDPL cho đồng bào DTIN, suy cho cùng, phải đạt được mục tiêu, hiệu quả mà chủ thể GDPL đặt ra và cũng là những tiêu chí để đánh giá chất lượng công tác này. Mục tiêu, hiệu quả của GDPL cho đồng bào DTIN phải được đánh giá qua việc người dân đạt được những mục tiêu cụ thể gì từ quá trình này và được nhìn nhận trên ba tiêu chí: mục tiêu về nhận thức, mục tiêu về thái độ và mục tiêu về hành vi. Từ sự phân tích các khía cạnh nêu trên, có thể đưa ra khái niệm: GDPL cho đồng bào DTIN là hoạt động có định hướng, có tổ chức, do các chủ thể GDPL tiến hành theo chương trình, nội dung, phương pháp và hình thức nhất định phù hợp với truyền thống văn hóa, tín ngưỡng, tập quán sản xuất, sinh hoạt
  • 28. 21 của đồng bào; làm hình thành ở họ ý thức pháp luật, tình cảm pháp luật và hành vi phù hợp với các yêu cầu của pháp luật hiện hành; góp phần xây dựng, củng cố ý thức về quyền con người, quyền công dân của đồng bào DTIN để họ có thể tiếp cận, bảo vệ các quyền đó một cách hiệu quả. 1.2.2. Vai trò của giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc ít người - Giáo dục pháp luật góp phần cung cấp, trang bị, nâng cao kiến thức, hiểu biết pháp luật cho đồng bào DTIN Một trong những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền XHCN là pháp luật luôn được đặt ở vị trí thượng tôn, không một cơ quan, tổ chức hay cá nhân nào có thể đứng ngoài hay đứng trên pháp luật. “Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ” [38, khoản 1. Đ. 8] Nhà nước xây dựng, ban hành pháp luật là đề điều chỉnh các quan hệ xã hội, bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhà nước, tập thể và công dân. Muốn cho pháp luật được thực hiện một cách đầy đủ, nghiêm túc trong thực tế xã hội, phát huy được đầy đủ vai trò, chức năng của nó thì pháp luật phải được thẩm thấu vào trong nhận thức và bộc lộ ra thông qua hành vi pháp luật hợp pháp của mỗi thành viên trong xã hội. Tuy nhiên, pháp luật không thể tự nó đến được với mỗi người, mà phải thông qua GDPL. Đối với đồng bào DTIN, vì nhiều nguyên nhân về lịch sử, địa lý, kinh tế, xã hội… mà trình độ dân trí về pháp luật còn nhiều hạn chế. Có những người đồng bào DTIN chỉ biết rất ít hoặc hầu như không biết đến các quy định pháp luật, trong đó có các quy định về quyền con người, quyền công dân, từ đó dẫn đến khó có thể tiếp cận, bảo vệ quyền con người, quyền công dân của mình. Muốn trang bị kiến thức pháp luật cho đồng bào DTIN thì phương thức chủ yếu mà các cơ quan chức năng phải triển khai là GDPL cho họ. Điều đó nói lên một trong những vai trò hết sức
  • 29. 22 quan trọng của GDPL là góp phần cung cấp, trang bị, nâng cao kiến thức, hiểu biết pháp luật cho đồng bào DTIN. - Giáo dục pháp luật góp phần xây dựng, củng cố tình cảm, niềm tin của đồng bào DTIN đối với phápluật Pháp luật chỉ có thể được mọi người dân thực hiện nghiêm chỉnh và thực sự phát huy hiệu lực, hiệu quả khi họ tin tưởng vào các nguyên tắc, quy định của pháp luật. Chỉ khi nào người dân nhận thức đúng đắn, đầy đủ các nguyên tắc, quy định của pháp luật thì họ mới có thể thực hiện pháp luật một cách tự giác mà không cần một biện pháp cưỡng chế nào từ phía Nhà nước. Từ vai trò cung cấp thông tin, nâng cao trình độ kiến thức, hiểu biết pháp luật cho các tầng lớp nhân dân, GDPL góp phần xây dựng, củng cố niềm tin của nhân dân đối với pháp luật. Có niềm tin vào tính công bằng, nghiêm minh của pháp luật, đồng bào DTIN sẽ biết cách thực hiện hành vi pháp luật phù hợp với các yêu cầu, đòi hỏi của pháp luật một cách độc lập, tự nguyện, tự giác. - Giáo dục pháp luật góp phần nâng cao ý thức tự giác chấp hành pháp luật, thực hiện hành vi pháp luật hợp pháp cho đồng bào DTIN Ý thức tự giác chấp hành pháp luật của đồng bào DTIN chỉ có thể được nâng cao khi GDPL được tiến hành thường xuyên, kịp thời, hiệu quả, có tính thuyết phục, góp phần hình thành, củng cố tình cảm tốt đẹp, niềm tin của đồng bào đối với pháp luật, ngày càng nâng cao hiểu biết của họ về các văn bản QPPL, các sự kiện, hiện tượng pháp luật xảy ra trong đời sống xã hội; từ đó, nâng cao ý thức tự giác chấp hành pháp luật của đồng bào DTIN. Để hoạt động GDPL cho đồng bào DTIN góp phần xây dựng, củng cố niềm tin của đồng bào đối với pháp luật thì cần giáo dục tình cảm công bằng, tình cảm trách nhiệm và nhận thức không khoan nhượng đối với các hành vi phạm pháp, phạm tội. Giáo dục tình cảm công bằng là giáo dục cho đồng bào DTIN biết đánh giá các QPPL, biết cách xác định các tiêu chuẩn về tính công
  • 30. 23 bằng của pháp luật để tự đánh giá hành vi của mình, biết cách xử sự trong quan hệ với người khác và với chính bản thân mình dựa trên các QPPL. Giáo dục tình cảm trách nhiệm là giáo dục cho đồng bào DTIN ý thức về nghĩa vụ pháp lý của họ, làm cho họ nhận thức được rằng, mọi việc làm, mọi hành vi của họ đều phải dựa trên cơ sở pháp luật và trong khuôn khổ các quy định pháp luật. Giáo dục nhận thức không khoan nhượng với các hành vi phạm tội là giúp người đồng bào DTIN biết chủ động, tích cực đấu tranh với tội phạm. Giáo dục pháp luật giúp củng cố niềm tin sâu sắc của đồng bào DTIN vào sự cần thiết phải tuân theo một cách tự nguyện các quy định của pháp luật là những yếu tố quan trọng làm hình thành hành vi pháp luật tích cực. Những tình cảm công bằng, tình cảm trách nhiệm, nhận thức không khoan nhượng với các hành vi phạm tội... là những yếu tố tâm lý, tư tưởng không thể tách rời hành vi pháp luật chủ động, tự giác và tích cực. Phải nhờ vào động lực thôi thúc nội tâm, những tình cảm và niềm tin vững chắc vào pháp luật thì mới có thể hình thành được hành vi pháp luật hợp pháp, tự nguyện và tích cực trong đồng bào DTIN. Điều đó nói lên một trong những vai trò hết sức quan trọng của hoạt động GDPL cho đồng bào DTIN là góp phần nâng cao ý thức tự giác chấp hành pháp luật, thực hiện hành vi pháp luật hợp pháp cho đồng bào DTIN. Việc xây dựng, củng cố niềm tin của đồng bào DTIN đối với pháp luật càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong bối cảnh các thế lực phản động, thù địch vẫn đang thực hiện các hoạt động tuyên truyền, xuyên tạc đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ta, gây chia rẽ giữa đồng bào DTIN. 1.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc ít người Cũng như các dạng hoạt động xã hội khác, GDPL cho đồng bào DTIN luôn chịu sự tác động, ảnh hưởng của nhiều yếu tố, bao gồm các yếu tố chủ quan và các yếu tố khách quan. Tất nhiên, sự phân chia các yếu tố chủ quan và khách
  • 31. 24 quan chỉ có ý nghĩa tương đối, vì về cơ bản, các yếu tố này luôn nằm trong sự đan xen lẫn nhau và có quan hệ mật thiết với nhau. Việc xem xét, đánh giá đúng đắn sự ảnh hưởng của các yếu tố chủ quan và khách quan đến GDPL cho đồng bào DTIN là cơ sở khoa học, thực tiễn để xây dựng các giải pháp bảo đảm hiệu quả của công tác này. 1.2.3.1. Các yếu tố chủ quan Có thể có nhiều yếu tố chủ quan; song, về cơ bản, các yếu tố chủ quan bao gồm trình độ học vấn và các nhân tố tâm lý. - Trình độ học vấn Trình độ học vấn có vai trò đặc biệt quan trọng, có ảnh hưởng mạnh mẽ tới hầu hết mọi lĩnh vực hoạt động của con người. Nó vừa là nền tảng sức mạnh tinh thần (tri thức là sức mạnh), vừa là động lực thúc đẩy mỗi người vươn lên trong cuộc sống, học tập, lao động, sản xuất nhằm làm chủ tự nhiên, xã hội và bản thân. Thực tế cho thấy, do nhiều nguyên nhân về lịch sử, kinh tế, xã hội nên nhìn chung trình độ học vấn của đồng bào DTIN còn tương đối thấp; đây là một khó khăn thực sự, ảnh hưởng tiêu cực tới chất lượng, hiệu quả GDPL cho đồng bào. Thiếu nền tảng tri thức cần thiết để tiếp thu, lĩnh hội kiến thức pháp luật làm cho chủ thể GDPL mất nhiều thời gian vì phải giải thích lại nhiều lần. Về phía đối tượng, nghe mà không hiểu, không nhớ sẽ nảy sinh tâm lý chán nản, thiếu tự tin, không còn mặn mà tham gia các buổi PBGDPL nữa... Hệ quả của tình trạng này là GDPL không đạt được hiệu quả như mong muốn. - Các nhân tố tâm lý Chất lượng, hiệu quả GDPL cho các đối tượng, trong đó có đồng bào DTIN dù ít hay nhiều đều chịu ảnh hưởng của các nhân tố tâm lý, quan trọng nhất là quá trình tâm lý bắt chước và quá trình lây lan tâm lý. Bắt chước là sự mô phỏng, tái tạo, lặp lại các hành vi, tâm trạng, cách suy nghĩ hay ứng xử của một người hoặc một nhóm người, thấy những người xung quanh làm một việc thì cũng làm theo. Quá trình tâm lý bắc chước thường tạo ra
  • 32. 25 và định hình các “khuôn mẫu hành vi” cho các thành viên trong xã hội; do đó, quá trình tâm lý bắc chước có ảnh hưởng nhất định đến công tác GDPL cho các đối tượng xã hội. Trong hoạt động GDPL cho đồng bào DTIN, về cơ bản, quá trình tâm lý bắt chước có ảnh hưởng tích cực đối với việc tham gia hoạt động này của người dân, vì đa số đồng bào DTIN là những người chân thật, chất phác, sống đề cao tình nghĩa, coi trọng công lý; biết thực hiện những hành vi hợp pháp dù có thể chưa hiểu biết nhiều về pháp luật. Quá trình lây lan tâm lý cũng có ảnh hưởng nhất định đến hoạt động GDPL cho đồng bào DTIN. 1.2.3.2. Các yếu tố khách quan Các yếu tố khách quan được hiểu là các yếu tố tồn tại bên ngoài nhận thức, quan niệm của chủ thể GDPL và đối tượng tiếp nhận GDPL. Hoạt động GDPL cho bất kỳ đối tượng xã hội nào, trong đó có đồng bào DTIN ở huyện Sơn Hòa, luôn diễn ra trong một phạm vi không gian xã hội nhất định, phụ thuộc và chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội nhất định. Nhìn trên phương diện này, các yếu tố khách quan ảnh hưởng đến GDPL cho đồng bào DTIN bao gồm yếu tố kinh tế, yếu tố văn hóa - xã hội. Yếu tố kinh tế - Yếu tố kinh tế hiểu theo nghĩa rộng bao gồm tổng thể các điều kiện về kinh tế, hệ thống các chính sách kinh tế, chính sách xã hội cũng như quá trình triển khai thực hiện, áp dụng chúng trong thực tế xã hội. Nền kinh tế phát triển năng động, bền vững sẽ là điều kiện thuận lợi để hoạt động GDPL cho đồng bào DTIN đạt được chất lượng, hiệu quả cao. Ngược lại, khi nền kinh tế phát triển chậm, thiếu bền vững sẽ ảnh hưởng tiêu cực tới chất lượng, hiệu quả GDPL cho đồng bào. Điều đó nói lên rằng, yếu tố kinh tế có ảnh hưởng mạnh mẽ tới hoạt động GDPL cho đồng bào DTIN. - Điều kiện kinh tế Khi nền kinh tế phát triển, đời sống vật chất, lợi ích kinh tế của được bảo đảm thì đồng bào DTIN sẽ phấn khởi, tin tưởng vào
  • 33. 26 pháp luật, vào sự lãnh đạo của Đảng và hoạt động quản lý, điều hành của Nhà nước; nhờ đó, củng cố niềm tin vào hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước, tạo điều kiện thuận lợi để đồng bào DTIN hăng hái, nhiệt tình tham gia hoạt động GDPL nhằm trang bị, nâng cao kiến thức, hiểu biết pháp luật. Chỉ khi thu nhập, mức sống của đồng bào DTIN được cải thiện cơ bản, không còn phải lo lắng về cái ăn, cái mặc hàng ngày thì đồng bào mới có thể toàn tâm, toàn ý tham gia các công việc chung, trong đó có GDPL dành cho họ; từ đó, chấp hành nghiêm chỉnh kỷ cương, phép nước. Còn khi lợi ích kinh tế không được đảm bảo, đời sống vật chất còn nhiều khó khăn thì tư tưởng nhân dân, đồng bào DTIN sẽ diễn biến phức tạp; ý thức chủ động, tích cực tham gia GDPL sẽ bị suy giảm; và do đó, trình độ kiến thức pháp luật của đối tượng này cũng khó có thể được cải thiện. Kinh tế phát triển, với nguồn lực kinh tế đủ mạnh, chính quyền các cấp có điều kiện để đầu tư kinh phí nhiều hơn cho việc xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm các thiết bị kỹ thuật phục vụ GDPL cho đồng bào DTIN. Chính sách đãi ngộ đối với đội ngũ CBCC quản lý và trực tiếp tham gia GDPL cho đồng bào DTIN nhờ đó cũng gia tăng. Ngoài ra, nguồn kinh phí dồi dào cũng giúp chính quyền các cấp đầu tư mạnh hơn cho việc lựa chọn, gửi con em đồng bào DTIN tham gia các hóa đào tạo chính quy, bài bản về chuyên ngành luật, trở thành cán bộ pháp lý và quay trở về phục vụ chính cộng đồng dân tộc mình. Kinh phí cũng phục vụ cho việc mua sắm các thiết bị điện tử, biên soạn sách pháp luật phổ thông, các loại tài liệu, tờ gấp, tờ rơi, băng, đĩa về pháp luật... phục vụ GDPL cho đồng bào DTIN. Ngược lại, nếu điều kiện kinh tế, nguồn chi ngân sách trung ương và địa phương cho GDPL cho đồng bào DTIN bị eo hẹp thì hoạt động GDPL cho đồng bào khó đạt hiệu quả như mong muốn.
  • 34. 27 Yếu tố văn hóa - xãhội Yếu tố văn hóa - xã hội luôn gắn liền với một phạm vi không gian - xã hội nhất định - nơi các cá nhân và cộng đồng xã hội tổ chức các hoạt động sống, lao động, sinh hoạt, cùng nhau tạo dựng, thừa nhận và chia sẻ các giá trị văn hóa, ngôn ngữ, lối sống, phong tục, tập quán và tín ngưỡng. Các yếu tố văn hóa - xã hội đó bao gồm: các giá trị văn hóa truyền thống, ngôn ngữ, lối sống, các phong tục, tập quán, tôn giáo, tín ngưỡng của dân tộc DTIN, dư luận xã hội và các phương tiện thông tin đại chúng. Ở mức độ khác nhau, các yếu tố đó ảnh hưởng đến GDPL cho đồng bào DTIN, bao gồm các tác động tích cực và cả tác động tiêu cực. Lối sống của đồng bào DTIN - một thành tố của văn hóa - cũng có ảnh hưởng quan trọng tới GDPL cho họ. “Lối sống là tổng thể các nét cơ bản đặc trưng cho phương thức hoạt động sống và sinh hoạt của các giai cấp, dân tộc, các tập đoàn xã hội trong những điều kiện xã hội nhất định về mặt lịch sử” [56, tr.318]. Về nguyên tắc, phương thức hoạt động sống, lao động, sinh hoạt của một cộng đồng người như thế nào thì sẽ quy định và làm hình thành lối sống tương ứng như thế ấy. Căn cứ vào cách thức tổ chức cư trú, lao động, sinh hoạt của cư dân, lối sống được chia thành lối sống đô thị, lối sống nông thôn và vùng đồng bào DTIN với những nét đặc trưng riêng. Đặc trưng nổi bật trong của lối sống của đồng bào DTIN là tính cộng đồng, tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái. Ý thức cộng đồng giúp cho các chủ thể GDPL dễ dàng hơn trong việc phổ biến, tuyên truyền và thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến đồng bào DTIN. Sức mạnh của tinh thần đoàn kết giúp cho các chủ thể GDPL hoàn thành tốt nhiệm vụ GDPL, vì “dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Tinh thần đoàn kết là nền tảng để đồng bào DTIN động viên nhau, cùng nhau nhận thức được những lợi ích thiết thực mà việc hiểu biết pháp
  • 35. 28 luật mang lại cho mỗi cá nhân; từ đó, đồng bào DTIN sẽ cùng nhau tích cực tham dự hoạt độngGDPL. Tuy nhiên, sự đề cao thái quá tính cộng đồng cũng dễ dẫn đồng bào DTIN đến việc đánh mất ý thức về con người cá nhân, “cái tôi” có thể bị triệt tiêu. Khi “cái tôi” bị nhạt nhòa trong các quan hệ buôn, làng thì ý thức và hành vi cá nhân của mỗi người DTIN cũng bị đặt vào lối xử thế “hòa cả làng”. Tính gắn kết cộng đồng cũng thường tạo ra ở các cá nhân thói quen ỷ lại cộng đồng và tâm lý “an phận thủ thường”. Chính điều đó đã làm hạn chế sự chủ động, quyết đoán của đồng bào DTIN khi họ gặp phải các sự kiện, tình huống pháp luật xảy ra trong cuộc sống. Khi “cái tôi” không được khẳng định thì việc tiếp nhận kiến thức pháp luật không còn là nhu cầu tự thân, tích cực trong mỗi người dân nữa; có chăng, chỉ là sự miễn cưỡng, đối phó. Dư luận xã hội trong cộng đồng dân tộc cũng có ảnh hưởng mạnh mẽ đến hoạt động GDPL cho Đồng bào DTIN. Trong bất kỳ một cộng đồng xã hội nào, dư luận xã hội luôn được coi là một thứ vũ khí lợi hại bậc nhất để duy trì sự ổn định, trật tự, kỷ cương trong một cộng đồng xã hội, nhất là ở khu vực nông thôn. Người dân nông thôn sợ dư luận xã hội tới mức “chỉ dám lựa theo dư luận mà sống chứ ai dám dẫm lên dư luận mà đi theo ý mình” [42, tr.119]. Dư luận xã hội trong cộng đồng dân tộc ít người luôn đòi hỏi mỗi thành viên của cộng đồng phải có kiến thức, hiểu biết nhất định về pháp luật để bảo vệ, giải quyết các vấn đề liên quan đến lợi ích của cá nhân và buôn, làng. Chỉ có tham gia tích cực vào hoạt động GDPL thì mới thỏa mãn được đòi hỏi này. Nếu chủ thể GDPL biết cách tạo ra dư luận xã hội trong các buôn, làng về sự cần thiết của GDPL đối với đồng bào DTIN thì dư luận xã hội sẽ có tác động tích cực đến công tác GDPL cho đồng bào DTIN. Các phương tiện thông tin đại chúng (báo chí, phát thanh, truyền hình, mạng Internet, Tủ sách pháp luật...) có ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động
  • 36. 29 GDPL cho đồng bào DTIN. Một mặt, do khả năng đưa thông tin đến với mọi người, mọi nhà, trong đó có các gia đình người DTIN một cách nhanh chóng, cập nhật, kịp thời nên các phương tiện thông tin đại chúng thường được sử dụng như một kênh thông tin quan trọng, chuyển tải các thông tin, kiến thức pháp luật, giải thích pháp luật... phục vụ GDPL cho Đồng bào DTIN một cách hiệu quả. Mặt khác, các phương tiện thông tin đại chúng là diễn đàn ngôn luận công khai, là nơi mỗi người dân có thể bày tỏ tâm tư, nguyện vọng, nêu lên những kiến nghị, đề xuất các yêu cầu về mục tiêu, nội dung, phương pháp và hình thức GDPL cho đồng bào DTIN. Điều đó giúp các chủ thể GDPL có thể đưa ra những điều chỉnh, thay đổi hợp lý nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả GDPL cho đồng bào DTIN; góp phần lan tỏa những hành vi xử sự hợp pháp, hình thành thói quen “sống, làm việc theo pháp luật” trong đồng bào DTIN. Yếu tố chính trị Yếu tố chính trị là toàn bộ các yếu tố tạo nên đời sống chính trị của đất nước, của mỗi địa phương ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, bao gồm môi trường chính trị, hệ thống các chuẩn mực chính trị, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam, của các cấp ủy Đảng ở địa phương và quá trình tổ chức thực hiện chúng và các quan hệ chính trị; hoạt động của hệ thống chính trị; cùng với đó là nền dân chủ xã hội và bầu không khí chính trị - xã hội. Yếu tố chính trị đó có ảnh hưởng mạnh mẽ tới hoạt động GDPL cho các tầng lớp nhân dân, đồng bào DTIN. Môi trường chính trị - xã hội ổn định, phát triển bền vững là điều kiện thuận lợi cho việc tiến hành các hoạt động PBGDPL cho đồng bào DTIN vì nó tạo cơ sở củng cố niềm tin chính trị của đồng bào DTIN vào cương lĩnh, đường lối lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng bộ địa phương; tin tưởng vào chính sách, pháp luật của Nhà nước, sự quản lý, điều hành của các cấp chính quyền địa phương. Đây là tiền đề quan trọng để Đồng bào DTIN nhiệt tình
  • 37. 30 tham gia quá trình GDPL nhằm tiếp nhận, nâng cao tri thức, hiểu biết pháp luật. Ngược lại, môi trường chính trị bất ổn, các thiết chế chính trị ở địa phương không phát huy được vai trò điều tiết, điều chỉnh các quan hệ chính trị thường là nguyên nhân gây tâm lý bất an trong các tầng lớp xã hội, làm suy giảm niềm tin chính trị trong đồng bào DTIN. Khi đó, hoạt động GDPL cho Đồng bào DTIN khó mà đạt được chất lượng, hiệu quả như mong muốn. Sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng đối với hoạt động GDPL cho đồng bào DTIN có ảnh hưởng nhất định tới hiệu quả của hoạt động này. Thực tế cho thấy, với tư cách là chủ thể tổ chức, triển khai và quản lý GDPL cho các tầng lớp nhân dân, trong đó có đồng bào DTIN, nếu lãnh đạo Tỉnh ủy, Huyện ủy, Đảng ủy các xã, thị trấn đều thấm nhuần nhiệm vụ chính trị, quan tâm chỉ đạo sâu sát công tác GDPL cho các tầng lớp nhân dân thông qua những chỉ thị, nghị quyết kịp thời, đưa ra những yêu cầu về nội dung, phương pháp và hình thức GDPL phù hợp với từng nhóm đối tượng dân cư thì hiệu quả GDPL cho các đối tượng sẽ được nâng cao. Ngược lại, hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo cầm chừng, thiếu sâu sát, buông lỏng quản lý từ phía các cơ quan hữu quan sẽ có ảnh hưởng tiêu cực tới việc GDPL cho đồng bào DTIN. Sự tham gia của cả hệ thống chính trị vào hoạt động GDPL nói chung, GDPL cho đồng bào DTIN nói riêng có ảnh hưởng tích cực và mạnh mẽ tới chất lượng, hiệu quả của hoạt động này. Tính chất, mức độ của nền dân chủ xã hội cũng có ảnh hưởng quan trọng tới hoạt động GDPL cho các tầng lớp nhân dân, trong đó có đồng bào DTIN. Trong xã hội có nền dân chủ rộng rãi, thông tin đa dạng, phong phú, quy chế dân chủ ở cấp xã được triển khai thực hiện đầy đủ... chính là điều kiện thuận lợi để các tầng lớp xã hội nói chung, đồng bào DTIN nói riêng có thể thẳng thắn, công khai bày tỏ tâm tư, tình cảm, nhu cầu, nguyện vọng của mình, đưa ra những đòi hỏi về nội dung, phương pháp, hình thức GDPL phù hợp với thực tiễn đời sống pháp luật. Trong điều kiện đó, đồng bào DTIN có thể chủ động, tích cực tham
  • 38. 31 dự GDPL với ý thức, trách nhiệm thực sự của họ. Còn trong điều kiện xã hội thiếu dân chủ, thông tin nghèo nàn, thậm chí thông tin bị bưng bít, các chủ thể GDPL tỏ ra thờ ơ, thiếu quan tâm đến ý kiến, nguyện vọng của Đồng bào DTIN thì bầu không khí chính trị - xã hội sẽ ngột ngạt, tâm lý chính trị gò bó, mọi người dân không dám nói thật suy nghĩ của lòng mình vì e ngại “phạm húy” hoặc bị đánh giá về quan điểm, lập trường chính trị. Khi đó, hoạt động GDPL cho đồng bào DTIN khó mà diễn ra một cách thuận lợi và hiệu quả. 1.2.4. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc ít người Đảng, Nhà nước ta luôn luôn coi trọng công tác PBGDPL, coi đây là khâu đầu tiên của quá trình tổ chức thi hành pháp luật; là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, trong đó Nhà nước giữ vai trò nòng cốt. Điều này thể hiện rõ nét trong các Kết luận của Bộ Chính trị triển khai thực hiện Nghị quyết số 48 về Chiến lược xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật đến năm 2010, định hướng đến năm 2020; Nghị quyết số 49 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 cũng như các Nghị quyết, Kết luận, Chỉ thị về cải cách hành chính, cải cách tư pháp, xây dựng và hoàn thiện pháp luật, về tuyên truyền miệng; về công tác giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, về phòng chống tham nhũng, lãng phí và về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác PBGDPL, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật trong cán bộ và nhân dân. Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 đề ra giải pháp: “Phát triển hệ thống thông tin và phổ biến giáo dục pháp luật, xây dựng và triển khai Chương trình quốc gia về phổ biến, giáo dục pháp luật dài hạn. Hình thành Trung tâm Thông tin pháp luật quốc gia, phát triển mạng lưới thông tin pháp luật”. Nghị quyết số 49-
  • 39. 32 NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã xác định nhiệm vụ: “...Phát huy quyền làm chủ của nhân dân đối với hoạt động tư pháp. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật; không ngừng nâng cao trình độ dân chí pháp lý, ý thức sống, làm việc theo Hiến pháp và pháp luật cho mọi người dân...”. Đặc biệt, Chỉ thị số 32-CT/TW năm 2003 và Kết luận số 04-KL/TW của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác PBGDPL đã đề ra nhiều chủ trương, quan điểm, mục tiêu, yêu cầu và giải pháp tiếp tục tăng cường công tác PBGDPL. Thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, Quốc hội đã ban hành Hiến pháp năm 2013 với nhiều tư duy đổi mới nhằm xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN, phát huy dân chủ, bảo đảm các quyền con người, quyền công dân. Luật Tổ chức Chính phủ; Luật tổ chức chính quyền địa phương, Luật PBGDPL và các văn bản hướng dẫn thi hành đã giao trách nhiệm cho Chính phủ và chính quyền địa phương các cấp trong đảm bảo thi hành pháp luật; chịu trách nhiệm tổ chức triển khai công tác PBGDPL với yêu cầu tăng cường hơn. Đặc biệt, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 đề ra yêu cầu đối với công tác xây dựng chính sách pháp luật đòi hỏi phải tuyên truyền, phổ biến, quán triệt đầy đủ những nội dung chính sách pháp luật mới hoặc được sửa đổi, bổ sung, thay thế. Trong điều kiện Quốc hội mới ban hành Luật Tiếp cận thông tin; Luật Báo chí (sửa đổi) đòi hỏi phải tăng cường trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước trong bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của người dân, trong đó có tiếp cận với thông tin pháp luật; phát huy vai trò, trách nhiệm của báo chí trong cung cấp thông tin, tham gia tuyên truyền, phổ biến chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đã đề ra nhiều yêu cầu mới về xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN; phát huy dân chủ XHCN; bảo
  • 40. 33 đảm thực hiện đầy đủ quyền con người, quyền công dân; giải quyết tốt mối quan hệ giữa xây dựng pháp luật với thực thi pháp luật và bảo vệ pháp luật; về đổi mới hệ thống chính trị; đề ra nhiều chủ trương, chính sách để tiếp tục công cuộc đổi mới, trong đó có đặt ra yêu cầu đổi mới công tác tư tưởng, lý luận, giáo dục đạo đức, lối sống để xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện với các giá trị: “Trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật. Tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, ý thức tôn trọng pháp luật”; “Tập hợp, vận động nhân dân thực hiện tốt các chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; giải quyết kịp thời, hiệu quả những bức xúc, những kiến nghị chính đáng của Nhà nước và khiếu nại, tố cáo của nhân dân”. Đảng ta cũng xác định rõ: “Mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân…Cấp ủy đảng và chính quyền phải thường xuyên đối thoại, lắng nghe, học hỏi, tiếp thu ý kiến, giải quyết các khó khăn, vướng mắc và yêu cầu chính đáng của Nhà nước; có hình thức, cơ chế, biện pháp cụ thể, thích hợp để nhân dân bày tỏ chính kiến, nguyện vọng và thực hiện quyền làm chủ”. [18, tr.46-200] Các chủ trương, quan điểm và định hướng lớn trên đây đã trở thành cơ sở chính trị quan trọng đòi hỏi phải tiếp tục đổi mới công tác PBGDPL, kịp thời thể chế hóa thành những chính sách, pháp luật và biện pháp triển khai thực hiện cụ thể, trên từng lĩnh vực, địa bàn, đối tượng. Đặt đổi mới công tác PBGDPL trong mối quan hệ với đổi mới công tác tư tưởng, lý luận, chính trị, với giáo dục đạo đức, lối sống để hình thành nhân cách con người Việt Nam phát triển toàn diện. Những văn bản trên đây đã tạo cơ sở chính trị - pháp lý đòi hỏi phải có những đổi mới trong triển khai thực hiện nhiệm vụ công tác PBGDPL, nâng cao ý thức tuân thủ, chấp hành pháp luật, bảo đảm quyền được tiếp cận thông tin về chính sách, pháp luật của người dân trong đó bao đồng bào các DTIN.
  • 41. 34 Ngày 14/01/2011, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 05/2011/NĐ-CP về công tác Dân tộc; Nghị định này quy định các hoạt động về công tác dân tộc nhằm đảm bảo và thúc đẩy sự bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giúp nhau cùng phát triển, tôn trọng và giữ gìn bản sắc văn hóa của các dân tộc cùng chung sống trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ngày 20/6/2012, Quốc hội khóa XIII đã ban hành luật số 14/2012/QH13, Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật đã quy định quyền được thông tin về pháp luật và trách nhiệm tìm hiểu, học tập pháp luật của công dân; nội dung, hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền và các điều kiện bảo đảm cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Đối với công tác Phổ biến, GDPL cho người dân ở vùng DTIN, miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, ven biển, hải đảo, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và ngư dân quy định rõ: Thứ nhất Việc phổ biến, giáo dục pháp luật cho người dân ở vùng dân tộc ít người, miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, ven biển, hải đảo, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và ngư dân căn cứ vào đặc điểm của từng đối tượng mà tập trung vào các quy định pháp luật về dân tộc, tôn giáo, trách nhiệm tham gia bảo vệ, giữ gìn an ninh, quốc phòng, biên giới, chủ quyền quốc gia, biển, đảo, tài nguyên, khoáng sản và các lĩnh vực pháp luật khác gắn liền với đời sống, sản xuất của người dân; Thứ hai Hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật cho người dân ở vùng dân tộc ít người, miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, ven biển, hải đảo, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và ngư dân được chú trọng thực hiện thông qua hòa giải ở cơ sở, trợ giúp pháp lý lưu động; tư vấn pháp luật, cung cấp miễn phí thông tin, tài liệu pháp luật bằng tiếng dân tộc cho đồng bào dân tộc ít người; lồng ghép phổ biến, giáo dục pháp luật trong các hoạt động văn hóa truyền thống; Thứ ba Nhà nước có chính sách đào tạo, bồi dưỡng, hỗ trợ người làm công tác phổ biến, giáo dục
  • 42. 35 pháp luật, già làng, trưởng bản, người có uy tín trong cộng đồng các dân tộc ít người tham gia phổ biến, giáo dục pháp luật tại địa phương; tạo điều kiện để các tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động tình nguyện phổ biến, giáo dục pháp luật cho người dân ở vùng dân tộc ít người, miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, ven biển, hải đảo, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và ngư dân. Thứ tư UBND các cấp tổ chức phổ biến, giáo dục pháp luật cho người dân ở vùng dân tộc ít người, miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và ngư dân; chủ trì phối hợp với Bộ đội biên phòng, Công an, Hải quan, Kiểm lâm, Cảnh sát biển tổ chức phổ biến, giáo dục pháp luật cho người dân ở khu vực biên giới, ven biển và hải đảo. [37, Đ.17]. Chính phủ đã ban hành Quyết định số 449/QĐ-TTg, ngày 12/3/2013 phê duyệt chiến lược công tác dân tộc đến năm 2020 và ban hành quyết định 2356/QĐ-TTg, ngày 04/12/2013 chương trình hành động thực hiện chiến lược công tác dân tộc đến năm 2020.
  • 43. 36 Tiểu kết chương 1 Qua việc phân tích những vấn đề lý luận cơ bản của GDPL nói chung và GDPL cho đồng bào các DTIN của nước ta hiện nay cho thấy: - GDPL là một hoạt động có định hướng, có tổ chức nhằm cung cấp tri thức pháp luật, bồi dưỡng tình cảm và hành vi hợp pháp cho đối tượng GDPL nhằm nâng cao ý thức pháp luật đúng đắn và thói quen hành động phù hợp với các quy định của pháp luật. Từ đó tạo ra một trật tự xã hội: "Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật", không ngừng tăng cường pháp chế XHCN. - GDPL là quá trình nhằm nâng cao dân trí pháp lý, vì vậy để đạt được mục đích đó thì chủ thể GDPL phải tìm hiểu, nghiên cứu các đối tượng GDPL để áp dụng hình thức và phương pháp GDPL phù hợp nhằm mang lại hiệu quả cao, vì thế khi tiến hành GDPL phải phân loại đối tượng, đặc biệt là nhân dân các dân tộc ít người thì phải có phương pháp GDPL phù hợp, dễ nhớ, dễ hiểu tránh lấy tư duy vòng vo trừu tượng. - Khi GDPL cho đồng bào các dân tộc ít người nói chung và ở huyện Sơn Hòa nói riêng phải chú trọng đến đặc điểm đối tượng, chủ thể GDPL lựa chọn nội dung pháp luật nào phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội ở địa phương, ưu tiên cho việc tuyên truyền GDPL đối với những lĩnh vực nào mang tính chất cấp bách, thời sự liên quan đến đời sống hàng ngày của họ. Những nội dung cơ bản của GDPL được phân tích ở chương I sẽ là cơ sở cho việc phân tích đánh giá thực trạng GDPL cho đồng bào các dân tộc ít người ở huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên được trình bày ở chương 2.
  • 44. 37 Chương 2: THỰC TRẠNG GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO ĐỒNG BÀO DÂN TỘC ÍT NGƢỜI Ở HUYỆN SƠN HÒA, TỈNH PHÚ YÊN 2.1. Đặc điểm điều kiện tự nhiên, chính trị - kinh tế, xã hội ảnh hƣởng đến hoạt động giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc ít ngƣời ở huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên 2.1.1. Đặc điểm điều kiện tự nhiên Huyện miền núi Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên đã được xác định là một khu vực có vị trí hết sức quan trọng trên địa bàn chiến lược của Tỉnh; tiềm năng về đất đai, tài nguyên và khoáng sản phong phú... nhiều dân tộc anh em sinh sống; sự ổn định và phát triển bền vững của khu vực các huyện miền núi có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với Tỉnh kết nối với vùng Tây nguyên, cả về kinh tế - xã hội và về an ninh quốc phòng. Huyện Sơn Hòa được hình thành vào năm 1899, cách trung tâm Tỉnh lỵ gần 50 Km về hướng tây, là cửa ngõ của Tỉnh nối liền giữa Phú Yên đi Đắk Lắk, Gia Lai và vùng Tây Nguyên; là địa phương có vị trí chiến lược quan trọng trong phát triển kinh tế cũng như đảm bảo Quốc phòng, An ninh. Tổng diện tích tự nhiên 93.779,11ha. Phía đông giáp huyện Phú Hòa, phía bắc giáp huyện Đồng Xuân và huyện Tuy An, phía nam giáp huyện Sông Hinh và phía tây giáp huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai. Trên địa bàn Huyện có 02 tuyến đường giao thông huyết mạch đó là Quốc lộ 25 và Quốc lộ 19c nối liền giữa các tỉnh duyên hải Nam trung bộ như Phú Yên, Bình Định đi các tỉnh Tây nguyên. Sơn Hòa có địa hình trải rộng theo hướng Bắc – Nam và nghiêng từ Tây sang Đông, ở độ cao từ 400m đến 1.000m so với mặt nước Biển; phía đông dãy Trường Sơn dọc theo dòng Sông Ba bắt nguồn từ Kon Tum, Gia Lai đổ về Phú Yên và ra biển đông ở cửa Sông Đà Rằng. Trên địa bàn huyện có