SlideShare a Scribd company logo
1 of 94
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ THU HOÀI
CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN
ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI
(trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Hải Dương)
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số : 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trần Văn Luyện
HÀ NỘI - 2015
Lêi cam ®oan
T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn
cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ
trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh
x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña
luËn v¨n ch­a tõng ®­îc ai c«ng bè trong bÊt kú
c«ng tr×nh nµo kh¸c.
T¸c gi¶ luËn v¨n
NguyÔn ThÞ Thu Hoµi
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP NGĂN
CHẶN ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
7
1.1. Người chưa thành niên phạm tội và thủ tục giải quyết các vụ
án là người chưa thành niên trong tố tụng hình sự
7
1.1.1. Người chưa thành niên phạm tội 7
1.1.2. Thủ tục giải quyết các vụ án là người chưa thành niên trong
tố tụng hình sự
10
1.2.
1.2.1.
1.2.2.
1.2.3.
Biện pháp ngăn chặn áp dụng đối với người chưa thành niên
trong quá trình giải quyết vụ án hình sự
Khái niệm về các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự
Khái niệm biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành
niên phạm tội
Đặc điểm áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với người
chưa thành niên phạm tội
12
12
16
17
1.3. Bảo vệ quyền con người trong việc áp dụng các biện pháp
ngăn chặn đối với người chưa thành niên
19
1.3.1. Các tiêu chí quốc tế về quyền con người của người chưa
thành niên trong tố tụng hình sự
19
1.3. 2. Bảo vệ quyền của người chưa thành niên khi áp dụng các
biện pháp ngăn chặn
22
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC
TIỄN ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP NGĂN
CHẶN ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH
NIÊN PHẠM TỘI
25
2.1. Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về các biện pháp ngăn
chặn đối với người chưa thành niên phạm tội
25
2.1.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám đến trước khi ban
hành Bộ luật tố tụng hình sự 1988
25
2.1.2. Giai đoạn từ sau khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự 1988
đến trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự 2003
27
2.2.
2.3.
Thực trạng pháp luật hiện hành quy định về các biện pháp
ngăn chặn đối với người chưa thành niên
Thực tiễn áp dụng các biện các biện pháp ngăn chặn đối với
người chưa thành niên phạm tội trên địa bàn tỉnh Hải Dương
28
39
2.3.1. Tình hình áp dụng biện pháp bắt người 39
2.3.2. Tình hình áp dụng biện pháp tạm giữ 42
2.3.3. Tình hình áp dụng biện pháp tạm giam 45
2.3.4. Tình hình áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú 47
2.3.5. Tình hình áp dụng biện pháp bảo lĩnh 49
2.3.6. Tình hình áp dụng biện pháp đặt tiền hoặc tài sản 52
2.4. Nhận xét, đánh giá về việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn
đối với người chưa thành niên phạm tội trên địa bàn tỉnh Hải
Dương
53
2.4.1. Những ưu điểm 53
2.4.2. Những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế 56
Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP
DỤNG CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN ĐỐI
VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM
TỘI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HẢI DƯƠNG
63
3.1. Cơ sở của các biện pháp ngăn chặn đối với người chưa
thành niên phạm tội
63
3.2. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong việc áp dụng
các biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên
phạm tội trên địa bàn tỉnh Hải Dương
66
3.2.1. Hoàn thiện pháp luật quy định biện pháp ngăn chặn liên
quan đến người chưa thành niên phạm tội
66
3.2.2. Nâng cao chất lượng và kỹ năng áp dụng thực tiễn của đội
ngũ cán bộ có thẩm quyền áp dụng các biện pháp ngăn chặn
đối với người chưa thành niên phạm tội
74
3.2.3. Phát huy vai trò của người bào chữa, tổ chức luật sư trong
bảo vệ quyền lợi của người chưa thành niên bị áp dụng các
biện pháp ngăn chặn
76
3.2.4. Một số giải pháp khác 77
KẾT LUẬN 81
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 83
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS : Bộ luật hình sự
BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự
THTT : Tiến hành tố tụng
TTHS : Tố tụng hình sự
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
bảng
Tên bảng Trang
2.1 Số đối tượng áp dụng biện pháp bắt tại tỉnh Hải Dương
(2009-2013)
40
2.2 Số đối tượng bị áp dụng biện pháp tạm giữ trên địa bàn
tỉnh Hải Dương (2009- 2013)
43
2.3 Số đối tượng bị áp dụng biện pháp tạm giam tại tỉnh Hải
Dương (2009-2013)
45
2.4 Số đối tượng bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú
tại tỉnh Hải Dương (2009-2013)
48
2.5 Số đối tượng bị áp dụng biện pháp bảo lĩnh tại tỉnh Hải
Dương (2009-2013)
50
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là một quốc gia luôn đi đầu trong vấn đề chăm sóc và bảo
vệ trẻ em. Bởi thế hệ trẻ là tương lai của đất nước, là lớp người kế tục sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Nhà nước đã ban hành rất nhiều các văn
bản pháp luật nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em như: Hiến
pháp năm 2013, Luật bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004, Bộ luật
hình sự (BLHS) năm 1999, Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003…
Việt Nam cũng là một trong các quốc gia đầu tiên ở châu Á tham gia Công
ước về quyền trẻ em của Liên hợp quốc. Đảng và Nhà nước ta đã và đang tiến
hành nhiều biện pháp, hoạt động cụ thể để chăm sóc, giáo dục trẻ em, tạo
dựng một môi trường xã hội trong sạch, lành mạnh để các em phát triển toàn
diện. Trong đó, đặc biệt chú ý quan tâm đến vấn đề chăm sóc giáo dục thế hệ
trẻ và phòng ngừa, ngăn chặn người chưa thành niên phạm tội.
Bên cạnh những kết quả đạt được, chúng ta thấy tồn tại một thực trạng
đáng lo ngại trong cả nước nói chung cũng như ở địa bàn tỉnh Hải Dương nói
riêng, đó là tình hình phạm tội do người chưa thành niên thực hiện với tính
chất và mức độ gây nguy hiểm cho xã hội ngày càng gia tăng. Đặc biệt là các
tội phạm liên quan đến ma túy, giết người, cướp của, hiếp dâm cùng với việc
sử dụng các loại vũ khí, hung khí nguy hiểm, tụ tập thành các băng nhóm hoạt
động theo kiểu xã hội đen, gây ra tình trạng bất ổn cho xã hội và khó khăn
cho công tác điều tra, xử lý.
Trong hệ thống các biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự (TTHS), các
biện pháp ngăn chặn chiếm vị trí đặc biệt quan trọng, giúp hoạt động TTHS
xác định tội phạm, người phạm tội và vụ án. Việc áp dụng các biện pháp ngăn
chặn có ảnh hưởng lớn đến quá trình giải quyết vụ án hình sự và hiệu quả
cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm. Đây là vấn đề rất nhạy cảm, nó đụng
2
chạm đến quyền và lợi ích chính đáng của công dân được ghi nhận trong Hiến
pháp. Điều 20 Hiến pháp năm 2013 quy định:
Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được
pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm, không bị tra
tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào
khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm.
Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Tòa án nhân dân, quyết
định hoặc phê chuẩn của Viện Kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp
phạm tội quả tang. Việc bắt, giam giữ người do luật định… [48].
Quy định này của Hiến pháp nhằm bảo vệ nhân quyền, đảm bảo công
dân không bị áp dụng biện pháp ngăn chặn một cách tùy tiện.
Nghiên cứu thực tế những năm qua việc áp dụng cáp biện pháp ngăn
chặn đối với người chưa thành niên phạm tội trong cả nước nói chung cũng
như địa bàn tỉnh Hải Dương nói riêng còn những hạn chế nhất định, dẫn đến
hậu quả bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội, vi phạm nguyên tắc pháp chế
xã hội chủ nghĩa (XHCN)… Vì vậy, nắm vững các biện pháp ngăn chặn quy
định trong Chương VI BLTTHS 2013 là điều cần thiết, giúp các cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền tránh được những vi phạm đáng tiếc xảy ra, đồng thời
nâng cao hiệu quả trong việc ngăn chặn người chưa thành niên phạm tội, phục
vụ đắc lực hoạt động điều tra.
Xuất phát từ những lý do trên, việc tác giả chọn đề tài "Các biện pháp
ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội (trên cơ sở nghiên cứu
thực tiễn địa bàn tỉnh Hải Dương)" làm đề tài luận văn thạc sĩ là vấn đề
mang tính cấp bách, thiết thực không những về mặt lý luận mà cả về mặt thực
tiễn đối với địa phương trong giai đoạn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Chế định các biện pháp ngăn chặn trong luật TTHS đã được nhiều nhà
khoa học trong nước quan tâm nghiên cứu. Tiến sĩ Nguyễn Văn Nguyên có
công trình "Các biện pháp ngăn chặn và những vấn đề nâng cao hiệu quả của
3
chúng" (Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội, 1995); Nguyễn Mai Bộ có
công trình "Những biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự" (Nhà xuất bản
chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997); Luận án tiến sĩ của Nguyễn Văn Điệp "Các
biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam trong tố tụng hình sự Việt Nam.
Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp"; Luận án tiến sĩ của Nguyễn Trọng
Phúc "Chế định các biện pháp ngăn chặn theo luật tố tụng hình sự Việt
Nam"… Ngoài ra, còn có một số bài viết đăng trên các tạp chí Công an nhân
dân, trật tự an toàn xã hội, tạp chí Tòa án nhân dân, tạp chí Dân chủ và pháp
luật, tạp chí Kiểm sát… cũng đề cập đến vấn đề này.
Trong các công trình nghiên cứu của, các học giả mới chỉ đề cập đến
vấn đề lý luận chung về các biện pháp ngăn chặn hoặc phân tích các quy định
của pháp luật thực định về các biện pháp đó. Các công trình khoa học mới chỉ
nghiên cứu một cách tổng thể trên phạm vi rộng mà chưa đề cập đến những
khó khăn vướng mắc và những giải pháp về việc áp dụng các biện pháp ngăn
chặn đối với người chưa thành niên phạm tội trên từng địa phương cụ thể và
với những đặc trưng riêng của từng tỉnh. Cho đến nay vẫn chưa có công trình
nào nghiên cứu về thực tiễn áp dụng ngăn chặn đối với người chưa thành niên
phạm tội ở tỉnh Hải Dương.
Tình hình nghiên cứu trên cho thấy, vấn đề "Các biện pháp ngăn
chặn đối với người chưa thành nhiên phạm tội (trên cơ sở nghiên cứu thực
tiễn địa bàn tỉnh Hải Dương)" cần tiếp tục được nghiên cứu, để có những
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với
người chưa thành niên phạm tội không chỉ trên địa bàn tỉnh Hải Dương, mà
còn có thể tham khảo áp dụng trên toàn quốc.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu các quy định của
pháp luật về các biện pháp ngăn chặn và thực tiễn áp dụng đối với người chưa
4
thành niên phạm tội trên địa bàn tỉnh Hải Dương. Qua đó, phát hiện những
khó khăn, vướng mắc, thiếu sót trong quá trình thực hiện của các cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền, để đưa ra những giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả
việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội
trên địa bàn tỉnh Hải Dương.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ chủ
yếu sau:
- Nghiên cứu làm rõ nhận thức chung về các biện pháp ngăn chặn và
những quy định trong BLTTHS về các biện pháp ngăn chặn đối với người
chưa thành niên phạm tội.
- Khảo sát, đánh giá việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với
người chưa thành niên phạm tội trên địa bàn tỉnh Hải Dương.
- Đánh giá những kết quả đạt được, những tồn tại, thiếu sót, khó khăn,
vướng mắc khi thực hiện các quy định của BLTTHS về các biện pháp ngăn
chặn đối với người chưa thành niên phạm tội. Đồng thời đưa ra các giải pháp
khắc phục tồn tại đó và nâng cao hiệu quả áp dụng các biện pháp ngăn chặn
trên thực tiễn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu việc những vấn đề lý luận, quy định
của pháp luật TTHS và thực trạng áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với
người chưa thành niên là bị can, bị cáo.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Luận văn nghiên cứu quy định của BLTTHS Việt Nam về các biện
pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên là bị can, bị cáo.
5
- Về địa bàn khảo sát: Luận văn chỉ khảo sát thực trạng áp dụng các
biện pháp ngăn chặn áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội trên địa
bàn tỉnh Hải Dương.
- Về thời gian khảo sát: luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng các
biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội trong giai đoạn
2009- 2013.
5. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng
và Nhà nước ta về xây dựng nhà nước pháp quyền, về chính sách nhân đạo
đối với người chưa thành niên phạm tội, về vấn đề cải cách tư pháp, về công
tác đấu tranh phòng chống tội phạm và các tội phạm do người chưa thành
niên thực hiện.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng các phương pháp
cụ thể và đặc thù của khoa học Luật hình sự như: phương pháp phân tích và
tổng hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu, phương pháp diễn dịch, phương
pháp quy nạp; nghiên cứu tâm lý lứa tuổi, phương pháp thống kê, điều tra xã
hội học để đánh giá, hệ thống hóa hoạt động áp dụng biện pháp ngăn chặn đối
với người chưa thành niên phạm tội.
6. Những điểm mới và đóng góp của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa làm rõ hơn về phương
diện lý luận và thực tiễn áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong TTHS Việt
Nam hiện nay. Đề tài đã phân tích, đánh giá, tổng hợp thực tiễn áp dụng vác
biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội trên địa bàn tỉnh
Hải Dương. Qua đó, tìm ra những ưu điểm, hạn chế, thiếu sót, khó khăn,
vướng mắc khi thực hiện. Đồng thời kiến nghị một số giải pháp nhằm nâng
6
cao hiệu quả áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên
phạm tội trên địa bàn tỉnh Hải Dương.
Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật
TTHS về việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên
phạm tội. Qua đó, nâng cao hiệu quả đấu tranh, phòng chống tội phạm, bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của công dân nhất là đối với người chưa thành niên.
Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích
dành cho không chỉ các nhà lập pháp, mà còn cho các nhà nghiên cứu, các cán
bộ giảng dạy pháp luật, các nghiên cứu sinh, học viện cao học và sinh viên
thuộc chuyên ngành tư pháp hình sự tại các cơ sở đào tạo luật. Kết quả nghiên
cứu của luận văn còn phục vụ cho việc trang bị những kiến thức chuyên sâu
cho các cán bộ thực tiễn đang công tác tại các Cơ quan điều tra, Viện Kiểm
sát, Tòa án trong quá trình áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với người
chưa thành niên phạm tội được chính xác, khách quan.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về biện pháp ngăn chặn đối với
người chưa thành niên.
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng các biện pháp
ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả việc áp dụng các biện pháp
ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội trên địa bàn tỉnh Hải Dương.
7
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN
ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
1.1. NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI VÀ THỦ TỤC GIẢI
QUYẾT CÁC VỤ ÁN LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
1.1.1. Người chưa thành niên phạm tội
Người chưa thành niên là những người còn non nớt về thể chất và tinh
thần, song họ chính là chủ nhân tương lai của đất nước nên cần được quan
tâm chăm sóc đặc biệt. Trong lứa tuổi của mình, việc phạm sai lầm của những
người chưa thành niên là hoàn toàn dễ hiểu vì họ chưa phát triển đầy đủ cả về
thể chất và nhân cách, cho nên việc đấu tranh phòng chống tội phạm ở người
chưa thành niên cũng cần có căn cứ trên cơ sở đặc điểm tâm lý người chưa
thành niên.
Điều 1 Công ước quốc tế về quyền trẻ em được Đại hội đồng Liên hợp
quốc thông qua ngày 20/11/1989 có ghi: "Trong phạm vi Công ước này, trẻ
em có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật áp dụng đối với trẻ em
có quy định tuổi thành niên sớm hơn" [33].
Ở Việt Nam, độ tuổi người chưa thành niên được xác định thống nhất
trong Hiến pháp sửa đổi năm 2013, BLHS năm 1999, BLTTHS năm 2003, Bộ
luật lao động, Bộ luật dân sự, Luật xử lý vi phạm hành chính và một số văn
bản quy phạm pháp luật khác. Tất cả các văn bản pháp luật đó đều quy định
tuổi của người chưa thành niên là dưới 18 tuổi và quy định riêng những chế
định pháp luật đối với người chưa thành niên trong từng lĩnh vực cụ thể.
Dưới góc độ là chủ thể của tội phạm thì tuổi của người chưa thành
niên phạm tội được giới hạn hẹp hơn so với tuổi của người chưa thành niên
trong các ngành luật khác, đó là từ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi. Theo Điều 68
8
BLHS 1999 quy định: “Người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi
phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của chương này, đồng thời theo
những quy định khác của Phần chung Bộ luật không trái với những quy định
của chương này” [41]. Như vậy một câu hỏi được đặt ra ở đây là tại sao pháp
luật hình sự lại quy định độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự của người chưa
thành niên là 14 tuổi? Ở mỗi quốc gia trên thế giới có quy định độ tuổi chịu
trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên là rất khác nhau. Tuy nhiên
việc quy định độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự giữa các quốc gia có thể khác
nhau hoặc trùng nhau. Một số quốc gia quy định tuổi chịu trách nhiệm hình sự
là 7 tuổi như Singapore, Jamaica… song trong pháp luật hình sự một số quốc
gia khác như Đức, Nga, Nhật Bản là từ đủ 14 tuổi trở lên, trong khi đó ở
Peru, Colombia…, tuổi chịu trách nhiệm hình sự là 18 tuổi trùng với tuổi xác
định là thành niên. Sở dĩ, pháp luật hình sự mỗi quốc gia có quy định khác
nhau như vậy là vì phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, cũng như
sự phát triển của từng nước. Ở nước ta, pháp luật hình sự có quy định 14 tuổi
trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự là phù hợp với điều kiện kinh tế- xã hội.
Trong độ tuổi này, người chưa thành niên phát triển nhanh về tâm sinh lý, họ
đã ý thức được hành vi của mình, tự ý thức được đâu là đúng, là sai cũng như
ý thức được được phần nào việc gì là đúng pháp luật, việc gì là sai trái, bị
pháp luật cấm. Do đó, họ có nghĩa vụ phải chịu trách nhiệm về chính hành vi
sai trái do mình thực hiện.
Theo Điều 12 BLHS 1999 có sự phân hóa trách nhiệm hình sự trong
lứa tuổi người chưa thành niên phạm tội, quy định: “Người từ đủ 16 tuổi trở
lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm Người từ đủ 14 tuổi trở
lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất
nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”.
9
Như vậy, người chưa thành niên phạm tội và phải chịu trách nhiệm
hình sự có thể là:
- Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng do
cố ý, phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.
- Nguời từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm một tội được quy định
trong Bộ luật hình sự.
Điều 12 BLHS đã đưa ra độ tuổi tối thiểu phải chịu trách nhiệm hình
sự là đủ 14 tuổi. Cũng trong BLHS, Điều 68 ghi nhận việc áp dụng BLHS đối
với người chưa thành niên phạm tội đó là người từ đủ 14 tuổi dưới 18 tuổi.
Điều này có nghĩa rằng, ở độ tuổi từ đủ 14 đến dưới 18 tuổi có thể phải gánh
chịu hậu quả pháp lý bất lợi mà nhà nước áp dụng đối với hành vi nguy hiểm
do các đối tượng này gây ra.
Như vậy, tiêu chí để xác định trách nhiệm hình sự đối với người chưa
thành niên bao gồm:
- Có hành vi phạm tội do người chưa thành niên thực hiện.
- Người thực hiện hành vi phạm tội đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình
sự tương ứng với loại tội phạmvà lỗi của người đó.
- Các cơ quan có thẩm quyền đã cân nhắc tính cần thiết phải xử lý
bằng hình sự mà không thể áp dụng các biện pháp tư pháp hoặc các biện pháp
khác để quản lý, giáo dục và phòng ngừa tội phạm đối với người phạm tội.
Chỉ khi nào hội tụ đủ ba điều kiện trên thì người chưa thành niên mới
phải chịu trách nhiệm hình sự bằng hình phạt do Tòa án tuyên. Người chưa
thành niên thực hiện tội phạm ngoài những dấu hiệu và yếu tố pháp lý còn
được xác định bằng sự nhận định, cân nhắc cụ thể của cơ quan có thẩm quyền
để quyết định truy cứu trách nhiệm hình sự và áp dụng hình phạt đối với họ.
Tóm lại, trên cơ sở lập luận trên có thể đưa ra định nghĩa khoa học về
người chưa thành niên phạm tội như sau: Người chưa thành niên phạm tội là
người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi, có năng lực trách nhiệm hình sự chưa
10
đầy đủ do sự hạn chế bởi các đặc điểm về tâm, sinh lý và đã có lỗi trong việc
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm.
1.1.2. Thủ tục giải quyết các vụ án là người chưa thành niên trong
tố tụng hình sự
Người chưa thành niên phạm tội theo quy định của Luật hình sự phải
chịu trách nhiệm hình sự, do vậy cần phải có thủ tục tố tụng áp dụng. Thông
thường, theo quy định của pháp luật, thủ tục TTHS đối với tội phạm nói
chung và người chưa thành niên phạm tội nói riêng bao gồm các thủ tục điều
tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Ngoài những thủ tục chung thì BLTTHS dành
riêng một chương quy định về TTHS và chính sách xử lý đặc biệt với người
chưa thành niên phạm tội (tại Chương XXXII, từ Điều 302 đến Điều 310).
Người chưa thành niên phạm tội là ở lứa tuổi mà khả năng nhận thức về
tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội bị hạn chế và nhiều khi
còn bị tác động mạnh của những điều kiện bên ngoài. Do đó, quá trình điều
tra, truy tố, xét xử phải được tiến hành hết sức thận trọng, cụ thể và chính xác
trên cơ sở xem xét đầy đủ các yếu tố của bản thân và những điều kiện bên
ngoài tác động đến người đó. Điều 302 BLTTHS quy định về yêu cầu đối với
Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán khi THTT phải xác định rõ các yếu
tố về tuổi, trình độ phát triển về thể chất và tinh thần, mức độ nhận thức về
hành vi phạm tội của người chưa thành niên; điều kiện sinh sống và giáo dục;
có hay không có người thành niên xúi giục; nguyên nhân và điều kiện phạm
tội. Quy định này không những phù hợp với đặc điểm của người chưa thành
niên mà còn phù hợp với thực tế về những nguyên nhân khách quan tác động
đến hành vi phạm tội của các em. Chính vì vậy, việc quy định về hiểu biết
tâm sinh lý của người chưa thành niên đối với Điều tra viên, Kiểm sát viên,
Thẩm phán, cũng như các yếu tố liên quan đến nguyên nhân và điều kiện dẫn
việc thực hiện hành vi phạm tội của các em là cần thiết.
11
Pháp luật TTHS có những quy định đặc biệt để áp dụng biện pháp ngăn
chặn trong trường hợp bị can, bị cáo là người chưa thành niên. Đối với các
biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam người chưa thành niên, ngoài những yêu cầu
chung quy định tại các Điều 80, 81, 82, 86, 88 và 120 của BLTTHS, thì theo
quy định tại Điều 303 BLTTHS và những quy định có liên quan thì việc áp
dụng biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam đối với người chưa thành niên chỉ có
thể được áp dụng đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi trong trường
hợp họ phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm
trọng; đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi chỉ có thể áp dụng trong
trường hợp họ phạm tội nghiêm trọng do cố ý, phạm tội rất nghiêm trọng hoặc
đặc biệt nghiêm trọng.
Về việc giám sát bị cáo là người chưa thành niên: theo quy định tại
Điều 304 BLTTHS thì nếu xét thấy việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối
với người chưa thành niên là không cần thiết, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát
và Tòa án có thể ra quyết định giao bị can, bị cáo chưa thành niên cho cha mẹ,
người đỡ đầu của họ giám sát để đảm bảo sự có mặt của bị can, bị cáo khi có
giấy triệu tập của cơ quan THTT. Những người được giao nhiệm vụ giám sát
có nghĩa vụ giám sát chặt chẽ người chưa thành niên, theo dõi tư cách, đạo
đức và giáo dục người đó.
Về thi hành án phạt tù: Theo quy định thì không được áp dụng chế độ
tạm giữ người chưa thành niên như đối với người đã thành niên, mà họ phải
được giam giữ riêng, các chế độ với người chưa thành niên cũng được ưu ái
hơn. Pháp luật quy định về chế độ học văn hóa, đào tạo nghề nghiệp… để
giúp đỡ các em bổ túc trình độ văn hóa, tạo dựng nghề nghiệp đảm bảo khi ra
trường các em có nghề nghiệp ổn định. Điều này cũng có ý nghĩa trong công
tác phòng chống tội phạm ở tuổi vị thành niên.
12
1.2. BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN ÁP DỤNG ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA
THÀNH NIÊN TRONG QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.2.1. Khái niệm về các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự
Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, các cơ quan THTT được áp
dụng nhiều biện pháp trong đó có các biện pháp ngăn chặn. Các biện pháp
ngăn chặn là một trong những chế định pháp lý quan trọng được quy định tại
Chương VI BLTTHS năm 2003. Việc nhận thức thống nhất, đồng thời quy
định và áp dụng đúng đắn các biện pháp ngăn chặn là bảo đảm cần thiết cho
việc thực hiện tốt các nhiệm vụ của TTHS để phát hiện chính xác, nhanh
chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội
phạm, không làm oan người vô tội.
Trong lịch sử pháp luật TTHS Việt Nam, mặc dù chưa có quy phạm
định nghĩa về khái niệm biện pháp ngăn chặn, nhưng các biện pháp ngăn chặn
đã được quy định trong các văn bản pháp luật TTHS nước ta ngay từ sau
Cách mạng tháng Tám. Những biện pháp này được quy định trong luật số
103-SL/005 ngày 20/05/1957 về đảm bảo quyền tự do thân thể và quyền bất
khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ vật, thư tín của nhân dân, Sắc lệnh số 02-SL
ngày 15/03/1957 của Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam
Việt Nam đã quy định các biện pháp ngăn chặn gồm bắt bình thường, bắt
khẩn cấp, bắt người phạm pháp quả tang, tạm giữ và tạm giam. Tuy nhiên,
trong các văn bản pháp luật này không có quy phạm định nghĩa về biện pháp
ngăn chặn mà dùng thuật ngữ biện pháp cưỡng chế để chỉ nội dung biện pháp
ngăn chặn trong luật TTHS hiện hành.
Kế thừa có chọn lọc và tiếp tục phát triển luật TTHS của nhà nước ta
sau Cách mạng tháng Tám đến nay, BLTTHS hiện hành quy định những biện
pháp ngăn chặn trong Chương VI bao gồm: bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi
khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh và đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để đảm bảo.
13
Những biện pháp ngăn chặn mang tính cưỡng chế nghiêm khắc để kịp
thời ngăn chặn hành vị phạm tội, ngăn ngừa người phạm tội, bị can, bị cáo
tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành vi gây khó khăn cho việc
điều tra, truy tố, xét xử cũng như đảm bảo thi hành án. Các biện pháp ngăn
chặn là cơ sở pháp lý có ý nghĩa tạo điều kiện thuận lợi cho việc phòng ngừa
và đấu tranh chống tội phạm, đồng thời, là biện pháp hạn chế một số quyền và
tự do cá nhân nên vấn đề này được quan tâm không những từ phía các nhà lập
pháp mà cả những nhà nghiên cứu khoa học luật TTHS ở trong nước cũng
như nước ngoài.
Các chuyên gia luật học của nước ngoài có những khái niệm khác
nhau về các biện pháp ngăn chặn. Z.B Enhikeev cho rằng: "Các biện pháp
ngăn chặn là một phạm trù đặc biệt, có ý nghĩa phòng ngừa". Tác giả đã đúng
khi xác định biện pháp ngăn chặn có ý nghĩa phòng ngừa, nhưng lại không đề
cập đến căn cứ áp dụng, đối tượng áp dụng, cũng như chủ thể có quyền áp
dụng. M.S.Strogovich thì cho rằng: "Các biện pháp ngăn chặn là những biện
pháp cưỡng chế hạn chế tự do của bị cáo với mục đích ngăn ngừa sự trốn
tránh việc điều tra, xét xử". Tác giả đã đúng khi cho rằng các biện pháp ngăn
chặn là những cưỡng chế hạn chế tự do của bị cáo, nhưng có sự nhầm lẫn giữ
mục đích và căn cứ áp dụng chúng.
Những khái niệm khoa học trên về biện pháp ngăn chặn của các nhà
luật học nước ngoài có những quan điểm khác nhau. Tuy nhiên, chúng đã
phản ánh được khái quát những đối tượng nghiên cứu mà chúng ta cần tham
khảo, tiếp thu như: quan niệm về bản chất pháp lý của biện pháp ngăn chặn;
sự cưỡng chế nhưng mang tính chất phòng ngừa, quyền lựa chọn biện pháp
ngăn chặn trong TTHS.
Trong khoa học luật TTHS Việt Nam cũng có những khái niệm khác
nhau về biện pháp ngăn chặn. Theo Từ điển Luật học giải thích biện pháp
ngăn chặn là:
Biện pháp cưỡng chế về mặt tố tụng hình sự áp dụng khi có
14
đủ căn cứ đối với bị can, bị cáo hoặc người chưa bị khởi tố trong
trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang để ngăn chặn hành vi
nguy hiểm cho xã hội của họ, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, trốn
tránh pháp luật hoặc có hành động gây cản trở cho việc điều tra,
truy tố, xét xử và thi hành án [58, tr.69].
Từ điển đã xác định đúng đối tượng và mục đích áp dụng các biện
pháp ngăn chặn, nhưng không chỉ ra chủ thể có quyền áp dụng chúng.
Tiến sĩ Nguyễn Văn Điệp cho rằng:
Biện pháp ngăn chặn là biện pháp cưỡng chế cần thiết về
mặt tố tụng hình sự, do các cơ quan và những người có thẩm quyền
theo quy định của pháp luật áp dụng đối với bị can, bị cáo hoặc
người chưa bị khởi tố khi có căn cứ do Bộ luật tố tụng hình sự quy
định nhằm ngăn chặn tội phạm, bảo đảm cho việc điều tra, truy tố,
xét xử và thi hành án. Các biện pháp ngăn chặn bao gồm: bắt người,
tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài
sản có giá trị để bảo đảm [22, tr.26].
Khái niệm này đã đúng khi chỉ ra bản chất cưỡng chế của biện pháp
ngăn chặn, nhưng lại không nói đến mục đích ngăn ngừa phạm tội mới.
Ngoài ra, còn một số khái niệm khác nữa về biện pháp ngăn chặn của
các nhà khoa học nghiên cứu pháp luật, cán bộ làm công tác thực tiễn phòng
ngừa và đấu tranh chống tội phạm được công bố trong các giáo trình luật
TTHS Việt Nam, sách chuyên khảo, tạp chí chuyên ngành luật học. Các khái
niệm đó đều dựa trên cơ sở phân tích nội dung của các quy phạm pháp luật tại
Điều 61 BLTTHS năm 1988 và Điều 79 BLTTHS 2003, cũng như thực tiễn
áp dụng chúng trong công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.
Những khái niệm trên đã nêu lên được những khía cạnh của các biện
pháp ngăn chặn và tương đối thống nhất đề cập đến bản chất pháp lý của
chúng là sự cưỡng chế nhà nước. Tuy nhiên, nó vẫn chưa đầy đủ, khoa học
15
chứa đựng tất cả các đặc điểm của biện pháp ngăn chặn. Cho đến nay, trong
BLTTHS 2003 vẫn chưa có quy phạm nào định nghĩa về biện pháp ngăn
chặn, bởi vậy, vẫn còn những ý kiến khác nhau về vấn đề này.
Mặc dù các biện pháp ngăn chặn hạn chế tạm thời tự do đối với người
bị áp dụng, nhưng xét về bản chất pháp lý, nó không phải là hình thức thực
hiện trách nhiệm hình sự, vì người bị áp dụng các biện pháp ngăn chặn là khi
chưa có bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Chúng chỉ là các
phương tiện hỗ trợ cho việc thực hiện trách nhiệm hình sự. Mặt khác, cũng
không nên đồng nhất các biện pháp ngăn chặn với hình phạt. Cơ sở pháp lý
của việc áp dụng hình phạt là việc thực hiện tội phạm, còn cơ sở pháp lý để áp
dụng biện pháp ngăn chặn là những tài liệu, chứng cứ về việc bị can, bị cáo có
thể trốn tránh việc điều tra, truy tố, xét xử, tiếp tục phạm tội hoặc cản trở việc
thi hành án. Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất chỉ do Tòa
án quyết định, còn các biện pháp ngăn chặn có thể do Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát, Tòa án áp dụng tùy theo giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử. Ngoài ra,
mục đích của hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội, giáo dục họ
trở thành người có ích cho xã hội, mà còn mục đích giáo dục người khác tôn
trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, trong khi đó các
biện pháp ngăn chặn chỉ có mục đích phòng ngừa và tạo điều kiện để làm rõ
tội phạm và xử lý người phạm tội.
Đối tượng bị áp dụng biện pháp ngăn chặn là bị can, bị cáo, người
phạm tội quả tang hoặc người mà các cơ quan THTT có tài liệu, chứng cứ
nghi là họ phạm tội. Khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn, các cơ quan có
thẩm quyền chỉ được tiến hành trong phạm vi giới hạn cũng như thủ tục mà
pháp luật TTHS quy định. Thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn là
những người THTT có thẩm quyền thuộc Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát,
Tòa án hoặc người có chức vụ trong các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến
hành một số biện pháp điều tra, công dân tham gia vào việc bắt người phạm
16
tội quả tang. Mọi hành vi áp dụng biện pháp ngăn chặn không đúng đối
tượng, thẩm quyền, căn cứ, cũng như thủ tục đều bị coi là vi phạm pháp luật
vó thể bị xử lý theo quy định của pháp luật.
Từ những sự phân tích ở trên, có thể đưa ra khái niệm biện pháp ngăn
chặn như sau: Biện pháp ngăn chặn là biện pháp cưỡng chế nhà nước mang
tính phòng ngừa do người có thẩm quyền được quy định trong BLTTHS áp
dụng đối với bị can, bị cáo, người phạm tội quả tang hoặc người bị nghi là
phạm tội nhằm ngăn chặn kịp thời hành vi phạm
1.2.2. Khái niệm biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành
niên phạm tội
Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc đấu tranh phòng, chống tội phạm,
pháp luật TTHS của Nhà nước ta quy định nhiều biện pháp cưỡng chế khác
nhau. Những biện pháp cưỡng chế trong TTHS có nội dung tương đối rộng và
cụ thể, chia thành ba nhóm:
- Nhóm 1: những biện pháp ngăn chặn tội phạm như: bắt, tạm giữ, tạm
giam, cấm đi khỏi nơi cứ trú, bảo lĩnh và đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để
đảm bảo.
- Nhóm 2: gồm những biện pháp bảo đảm cho việc thu thập chứng cứ
như khám xét người, khám xét chỗ ở, địa điểm nơi làm việc, khám nghiệm
hiện trường, xem xét dấu vết trên thân thể…
- Nhóm 3: gồm những biện pháp bảo đảm sự thuận lợi cho hoạt động
điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án như kê biên tài sản, áp giải bị can, bị
cáo, người bị kết án, dẫn giải người làm chứng, những biện pháp xử lý do
thẩm phán chủ tọa phiên tòa áp dụng đối với người có hành vi vi phạm nội
quy phiên tòa.
Những biện pháp ngăn chặn là một trong những nhóm của biện pháp
cưỡng chế. Những biện pháp ngăn chặn mang tính cưỡng chế nghiêm khắc để
kịp thời ngăn chặn hành vi phạm tội, ngăn ngừa người phạm tội, bị can, bị cáo
17
tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành vi gây khó khăn cho việc
điều tra, truy tố, xét xử cũng như để đảm bảo thi hành án. Những biện pháp
ngăn chặn khi được áp dụng sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến các quyền cơ bản của
công dân được ghi nhận Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác.
Theo quy định của BLHS thì người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến
dưới 18 tuổi phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự, trong đó người từ đủ 14
tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm
rất nghiêm trọng do cố ý (mức cao nhất của khung hình phạt đến 15 năm tù)
hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng (mức cao nhất của khung hình phạt trên
15 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình); người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu
trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm. Tuy nhiên, người chưa thành niên là
người chưa phát triển đầy đủ về thể chất và tâm thần, là những đối tượng dễ
bị tổn thương, là người ở lứa tuổi mà khả năng nhận thức về tính chất nguy
hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội bị hạn chế và nhiều khi còn bị tác động
bởi yếu tố bên ngoài, khách quan khác. Do vậy, BLTTHS đã dành hẳn một
chương riêng để quy định về thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên,
trong đó có quy định về các biện pháp ngăn chặn.
Từ những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm biện pháp ngăn chặn
áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội như sau: Biện pháp ngăn
chặn áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội là biện pháp cưỡng chế
trong TTHS do người có thẩm quyền áp dụng đối với bị can, bị cáo, người bị
truy nã hoặc đối với những người chưa bị khởi tố (trong trường hợp khẩn cấp
hoặc phạm tội quả tang) và từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi nhằm ngăn chặn
những hành vi nguy hiểm cho xã hội của họ, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội,
trốn tránh pháp luật hoặc có hành động cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét
xử và thi hành án hình sự.
1.2.3. Đặc điểm áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với người
chưa thành niên
Dựa trên khái niệm biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành
18
niên phạm tội, chúng ta có thể rút ra được một số đặc điểm khi áp dụng các
biện pháp này đối với người chưa thành niên như sau:
- Biện pháp ngăn chặn là biện pháp cưỡng chế trong TTHS bao gồm 6
biện pháp: bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền
hoặc tài sản để đảm bảo nhằm cho phép lựa chọn tối ưu trong từng trường
hợp cụ thể, đáp ứng yêu cầu của hoạt động TTHS cũng như lợi ích của những
người tham gia tố tụng.
- Do người có thẩm quyền áp dụng: chủ thể không chỉ là Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát, và Tòa án mà một số chủ thể khác cũng có quyền áp dụng
biện pháp ngăn chặn như người chỉ huy đồn biên phòng, chỉ huy máy bay, tàu
biển…, chủ thể áp dụng là căn cứ phân biệt biện pháp ngăn chặn trong TTHS
và biện pháp ngăn chặn trong hành chính.
- Đối tượng bị áp dụng là bị can, bị cáo và cũng có thể là người chưa
bị khởi tố về hình sự.
- Mục đích chung nhất của biện pháp ngăn chặn là ngăn chặn hành vi
tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét
xử, thi hành án hình sự.
Do phạm vi trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên hẹp hơn
so với người thành niên, phạm vi áp dụng các biện pháp ngăn chặn của đối
tượng này cũng hạn hẹp hơn, tuy nhiên nhìn chung vẫn bao gồm các biện
pháp ngăn chặn cơ bản là: bắt, tạm giữ, tạm giam (quy định tại các Điều 80,
81, 82, 86, 88 và Điều 303 BLTTHS); cấm đi khỏi nơi cư trú (Điều 91); bảo
lĩnh (Điều 92); đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để đảm bảo (Điều 93); ngoài ra
còn có biện pháp giám sát, biện pháp đặc thù đối với bị can chưa thành niên
(Điều 304).
Việc áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên
phạm tội, nhìn chung về căn cứ, thẩm quyền, thủ tục và thời hạn áp dụng là
tương tự như người thành niên. Riêng ba biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam đối
19
với người chưa thành niên có giới hạn áp dụng hẹp hơn, đồng thời khi áp
dụng phải đáp ứng yêu cầu về xác định được độ tuổi của đối tượng áp dụng và
chủ thể áp dụng phải là người có hiểu biết về tâm sinh lý của người chưa
thành niên.
1.3. BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI TRONG VIỆC ÁP DỤNG BIỆN PHÁP
NGĂN CHẶN ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
1.3.1. Các tiêu chí quốc tế về quyền con người của người chưa
thành niên trong tố tụng hình sự
Kể từ khi Liên hợp quốc ra đời, năm 1945, đặc biệt từ khi Bộ luật
quốc tế về quyền con người (bao gồm Tuyên ngôn thế giới về quyền con
người 1948; Công ước quốc tế về quyền dân sự, chính trị 1966; Công ước
quốc tế các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa 1966), quyền con người đã vượt
khỏi phạm vi quốc gia trở thành Luật Quốc tế. Bên cạnh đó, ở tất cả các quốc
gia, từ xưa đến nay, trẻ em là đối tượng được quan tâm, chăm sóc đặc biệt kể
cả khi họ vi phạm pháp luật, thì nhân loại luôn dành cho các em sự cảm thông
chia sẻ, giúp các em trở lại với cuộc sống bình thường, giúp đỡ các em khẳng
định tư cách của mình trong gia đình và xã hội, trong học tập và lao động, bởi
vậy, Liên hợp quốc đã ban hành nhiều văn kiện về tư pháp người chưa thành
niên như: Công ước về quyền trẻ em năm 1989 cùng với hai Nghị định thư
không bắt buộc của công ước này (Nghị định thư về “sử dụng trẻ em trong
xung đột vũ trang”, Nghị định thư về “buôn bán trẻ em, mại dâm trẻ em và
văn hóa phẩm khiêu dâm”, đều được Việt Nam phê chuẩn ngày 20/12/2001);
Những quy tắc tối thiểu của Liên hợp quốc về áp dụng pháp luật đối với
Người chưa thành niên còn gọi là Quy tắc Bắc Kinh, được Đại hội đồng Liên
hợp quốc thông qua ngày 20/11/1985; Hướng dẫn Riyadh, được Đại hội đồng
Liên hợp quốc thông qua ngày 24/12/1990; Những quy tắc tối thiểu, phổ biến
của Liên hợp quốc về bảo vệ người chưa thành niên bị tước quyền tự do, được
Liên hợp quốc thông qua ngày 14/12/1990.
20
Nội dung các quy định nêu trong các Công ước, quy tắc có tính đến sự
đa dạng và cơ cấu pháp luật của các quốc gia, phản ánh mục đích và tinh thần
của tư pháp người chưa thành niên, đề ra những nguyên tắc mong muốn và
thông lệ đối với việc quản lý người chưa thành niên phạm tội; đồng thời đảm
bảo rằng, trong quá trình thực thi và áp dụng pháp luật thì quyền của người
chưa thành niên, kể cả trong trường hợp họ là đối tượng thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội không bị vi phạm.
Để thực hiện được mong muốn và tinh thần nêu trên, Công ước và
một số quy tắc, hướng dẫn khác đã thể hiện khá đầy đủ và tập trung các quyền
cụ thể của người chưa thành niên phạm tội cũng như những lưu ý đối với việc
xây dựng hệ thống pháp luật và việc áp dụng pháp luật nhằm bảo đảm quyền
con người, quyền trẻ em của người chưa thành niên khi các em phạm tội.
Điều 37 của Công ước quy định người chưa thành niên phải được bảo
vệ tránh khỏi bị tra tấn, phân biệt đối xử hoặc trừng phạt tồi tệ, vô nhân đạo
cũng như những hành vi làm mất phẩm giá. Người chưa thành niên chỉ bị bắt,
bị giam giữ và áp dụng hình phạt khi không thể áp dụng các biện pháp thay
thế. Trong trường hợp bị giam giữ, các em phải được đối xử nhân đạo và việc
giam giữ theo chế độ riêng phù hợp với sự phát triển của lứa tuổi về cả tâm và
sinh lý.
Điều 40 của Công ước có nêu ra một nguyên tắc chung định hướng
hành động có liên quan tới người chưa thành niên phạm tội như sau: “Mọi trẻ
bị cáo buộc, buộc tội hoặc bị coi là vi phạm luật hình sự đều có quyền được
đối xử phù hợp với sự phát triển ý thức về nhân phẩm và phẩm chất của trẻ.
Sự phát triển ý thức đó giúp tăng thêm ý thức tôn trọng các quyền con người
và quyền tự do cơ bản của người khác; giúp xem xét khía cạnh lứa tuổi của trẻ
và mong muốn của chúng về sự tái hoà nhập cộng đồng” [33].
Quy tắc Bắc Kinh đề ra các tiêu chuẩn tối thiểu, toàn diện về việc áp
dụng pháp luật với người chưa thành niên. Các quy tắc này hướng dẫn các
21
quốc gia thành viên khi xây dựng các hệ thống tư pháp riêng cho người chưa
thành niên theo nghĩa vụ được quy định tại Điều 40 của Công ước về quyền
trẻ em. Nội dung của điều này là cơ sở để các quốc gia thành viên xây dựng
và ban hành các luật, quy tắc, thể chế để áp dụng riêng đối với người chưa
thành niên phạm tội, và bảo vệ các quyền cơ bản của họ.
Hướng dẫn Riát đưa ra cách tiếp cận phòng ngừa tội phạm tích cực,
toàn diện và đặt người chưa thành niên là trung tâm. Cách tiếp cận này hướng
tới giải quyết các nguyên nhân xã hội căn bản dẫn đến hành vi phạm tội của
người chưa thành niên. Phòng ngừa không chỉ được coi là vấn đề giải quyết
các tình trạng tiêu cực thông qua các cơ quan chức năng và các cơ chế kiểm
soát xã hội, mà thay vào đó, Hướng dẫn này còn ủng hộ cách tiếp cận dựa trên
việc tích cực thúc đẩy sự phát triển và sức khỏe của các em từ khi các em còn
nhỏ. Chiến lược phòng ngừa người chưa thành niên phạm tội tốt nhất là chiến
lược phòng ngừa có nhiều biện pháp để thúc đẩy quyền của người chưa thành
niên và tăng cường sự phát triển cộng đồng, nhằm giải quyết vấn đề đói
nghèo và sự cách ly các em với xã hội. Hướng dẫn Riát khuyến nghị việc
phòng ngừa phạm tội ở người chưa thành niên cần được chính thức hóa ở mọi
cấp chính quyền. Hoạt động phòng ngừa cần xác định rõ trách nhiệm của các
cơ quan, sự phối kết hợp giữa các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và các
đoàn thể quần chúng, sự tham gia của cộng đồng thông qua một loạt các dịch
vụ và chương trình, hợp tác liên ngành giữa các chủ thể trong toàn xã hội và
sự tham gia của người chưa thành niên vào quá trình xây dựng tất cả các
chính sách phòng ngừa tội phạm.
Tóm lại, quyền của người chưa thành niên phạm tội là vấn đề nhạy
cảm, luôn luôn có nguy cơ bị xâm hại, cho nên pháp luật quốc tế bằng những
quy định, khuyến nghị của mình tạo ra các điều kiện, trình tự khác nhau, một
mặt buộc các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền phải tuân theo, mặt khác tạo cơ
22
sở vững chắc cho chính người chưa thành niên bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình.
1.3.2. Bảo vệ quyền của người chưa thành niên khi áp dụng các
biện pháp ngăn chặn
Ở Việt Nam, bảo đảm quyền của người chưa thành niên phạm tội là bảo
đảm cho những quy định của pháp luật về người được thực hiện trên thực tế,
phù hợp với thông lệ quốc tế; đồng thời bảo vệ quyền của người chưa thành
niên phạm tội khi có sự xâm hại, sự vi phạm quyền của các em từ các cơ
quan, các chủ thể thực hiện việc xem xét, xử lý hành vi phạm tội của người
chưa thành niên. Hiện nay, trong pháp luật hình sự, tố tụng hình sự, hàng loạt
các chế định pháp luật mang tính cá biệt nhằm bảo đảm quyền của người chưa
thành niên phạm tội, trong đó có chế định về các biện pháp ngăn chặn.
Các biện pháp ngăn chặn trong BLTTHS là một chế định có vai trò
hết sức quan trọng, chúng đảm bảo cho việc đấu tranh phòng ngừa, chống tội
phạm có hiệu quả, bảo đảm hoạt động của các cơ quan thực hiện tố tụng được
thuận lợi, thể hiện sự chuyên chính của Nhà nước XHCN trong việc đấu
tranh, phòng chống tội phạm.
Việc quy định các biện pháp ngăn chặn trong BLTTHS thể hiện sự
nghiêm minh của Nhà nước trong việc ngăn chặn chống tội phạm, không để
cho người có hành vi phạm tội bỏ trốn, tiếp tục phạm tội hoặc tiêu hủy tài
liệu, chứng cứ, gây khó khăn cho hoạt động điều tra, xét xử tội phạm. Tội
phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, gây ra hoặc đe dọa gây ra những thiệt
hại đáng kể cho các quan hệ xã hội được Luật hình sự bảo vệ. Tội phạm trực
tiếp hoặc gián tiếp xâm hại đến sự bền vững và ổn định của chế độ chính trị,
chế độ kinh tế - xã hội, đến tính mạng, sức khỏe, tự do, danh dự, nhân phẩm
và tài sản của công dân cũng như những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật
XHCN. Vì vậy, Nhà nước ta luôn chú trọng công cuộc đấu tranh phòng chống
tội phạm, ngăn chặn kịp thời, xử lý nghiêm minh, nhằm tiến tới loại trừ tội
23
phạm ra khỏi đời sống xã hội.
Áp dụng đúng đắn các biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành
niên phạm tội góp phần quan trọng trong việc bảo vệ quyền con người, quyền
công dân được quy định trong Hiến pháp như quyền bất khả xâm phạm về
thân thể, quyền tự do cư trú và đi lại…. Vì vậy, khi áp dụng các biện pháp
ngăn chặn, các cơ quan có thẩm quyền cần có thái độ đối xử với người chưa
thành niên là bị can, bị cáo như công dân bình thường, không định kiến với
những tiêu cực trong quá khứ của họ vì họ chưa phải là người bị kết tội.
Ngoài ra, việc áp dụng các biện pháp đối với người chưa thành niên
còn góp phần ngăn chặn người chưa thành niên tiếp tục phạm tội, gây khó
khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử và đảm bảo thi hành án. Đồng thời góp
phần bảo đảm cho việc giải quyết vụ án hình sự được khách quan, toàn diện,
đầy đủ và đúng pháp luật.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
1. Người chưa thành niên là những người còn non nớt về thể chất và
tinh thần, trong khi đây là thế hệ chủ nhân tương lai của đất nước nên họ cần
được quan tâm đặc biệt. Trong lứa tuổi của mình, việc phạm sai lầm của
người chưa thành niên là hoàn toàn dễ hiểu và có thể coi đây là một phần của
quá trình phát triển của người chưa thành niên.
2. Biện pháp ngăn chặn áp dụng đối với người chưa thành niên phạm
tội là một chế định quan trọng trong Luật TTHS. Đây là chế định thể hiện
nguyên tắc nhân đạo sâu sắc của pháp luật TTHS đối với người chưa thành
niên phạm tội. Việc xây dựng chế định này là dựa trên các tiêu chí quốc tế
cũng như chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Qua đó, cho thấy
chính sách hình sự của nước ta đối với bị can, bị cáo là người chưa thành niên
thể hiện tính nhân đạo rõ nét, bảo vệ tốt nhất các quyền và lợi ích hợp pháp
của người chưa thành niên.
3. Việc làm rõ các khái niệm về các biện pháp ngăn chặn; khái niệm,
24
người chưa thành niên phạm tội và đặc điểm áp dụng các biện pháp ngăn chặn
áp dụng đối với họ sẽ là tiền đề để nghiên cứu thực tiễn áp dụng các biện pháp
đó đối với người chưa thành niên phạm tội trong chương kế tiếp.
4. Các biện pháp ngăn chặn áp dụng đối với người chưa thành niên
phạm tội bao gồm: bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cứ trú, bảo lĩnh,
đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để đảm bảo.
25
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN
ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI
2.1. PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ CÁC BIỆN PHÁP
NGĂN CHẶN ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI
2.1.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 đến trước khi
ban hành bộ luật tố tụng hình sự 1988
Từ sau Cách mạng tháng Tám thành công đến trước khi ban hành
BLTTHS 1988 là thời kỳ Nhà nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa mà sau này
là Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam vừa phải tiến hành hai cuộc kháng
chiến trường kỳ nhằm bảo vệ độc lập dân tộc, vừa phải tiến hành công cuộc
xây dựng đất nước. Trong tình hình ấy, công tác xây dựng pháp luật nói
chung cũng như pháp luật hình sự nói riêng vẫn được chú trọng.
Cho đến trước khi BLTTHS 1988 được ban hành thì chế định các biện
pháp ngăn chặn chưa được ghi nhận với tính chất là một chế định độc lập
trong pháp luật hình sự, tuy nhiên thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự và
một số văn bản pháp lý đã được thừa nhận và áp dụng đã đề cập đến các biện
pháp ngăn chặn được áp dụng cho cả người chưa thành niên phạm tội. Chúng
ta có thể kể đến một số văn bản được ban hành trước khi có BLTTHS 1988 có
đề cập đến vấn đề các biện pháp ngăn chặn:
- Sắc lệnh 13/SL ngày 24/01/1946 về cách tổ chức các tòa án và các
ngạch thẩm phán;
- Sắc lệnh 131/SL ngày 20/7/1946 về việc khám xét nhà tư nhân;
Trong hai văn bản pháp luật này có một số nội dung liên quan đến các
biện pháp ngăn chặn như:
+ “Ban tư pháp xã không có quyền tịch thu tài sản của ai, cũng không
26
có quyền bắt bớ, giam giữ trừ khi có trát nã của Thẩm phán hay khi thấy một
người phạm tội quả tang” và “để đảm bảo quyền tự do thân thể của công dân,
nghiêm cấm việc bắt giam trái pháp luật, trừ những trường hợp phạm pháp
quả tang phải đưa ngay người bị bắt lên huyện, không được giữ ở xã quá 24
tiếng đồng hồ”[12, tr.479]
+ Trong trại tạm giam nên giam riêng biệt đối tượng đang bị giam cứu
để điều tra với các đối tượng bị kết án như: những người bị giam cứu; chính
trị phạm; những người bị an trí; những phạm nhân nguy hiểm hoặc hung dữ
không chịu hối cải (có thể giam vào biệt lao); những phạm nhân là đàn bà [51,
tr.46].
- Luật 103/SL-L005 ngày 20/5/1957 về đảm bảo quyền tự do thân thể
và quyền bất khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ vật, thư tín của nhân dân.
Luật đã đề cập đến nguyên tắc bảo đảm quyền bất khả xâm phạm thân
thể của công dân, thủ tục, thẩm quyền ra lệnh bắt người như:
+ “Quyền tự do thân thể và quyền bất khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ
vật, thư tín của nhân dân được tôn trọng và bảo đảm”. [37, tr.110]
+ Bắt người phạm đến luật phải có lệnh của cơ quan tư pháp cấp tỉnh
hoặc cấp thành phố trở lên nếu là thường dân hoặc Viện kiểm sát quân sự,
Tòa án quân sự nếu là quân nhân phạm tội; Viện trưởng, Phó Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc Trung ương
trở lên. Riêng đối với các tỉnh phía Nam, Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện
trở lên có quyền ra lệnh bắt giam người phạm tội trong những vụ án hình sự
đang thụ lý; Trưởng và Phó cơ quan Công an nhân dân từ cấp tỉnh trở lên có
quyền ra lệnh bắt giam người, lệnh phải được phê chuẩn chính xác của Viện
kiểm sát [37, tr.111].
+ “Đối với người phạm pháp quả tang, bất cứ người nào cũng có quyền
bắt và phải giải ngay đến Uỷ ban hành chính, Tòa án nhân dân hoặc đồn Công
an nơi gần nhất” [37, tr.111].
27
- Sắc lệnh 002/SL-T ngày 18/6/1957 quy định những trường hợp phạm
pháp quả tang, những trường hợp khẩn cấp và những trường hợp khám người
phạm pháp quả tang.
+ Các trường hợp bắt quả tang gồm: đang làm việc phạm pháp hoặc
ngay sau khi phạm pháp, thì bị phát giác ngay; đang bị đuổi bắt ngay sau khi
phạm pháp; đang bị giam giữ mà lẩn trốn; đang có lệnh truy nã. [37, tr.117]
+ Các trường hợp bắt khẩn cấp gồm: có hành động chuẩn bị làm việc
phạm pháp; người bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra vụ phạm pháp
chính mắt trông thấy và xác nhận đúng là kẻ phạm pháp; tìm thấy chứng cớ
phạm pháp trong người hoặc tại nhà ở của kẻ tình nghi phạm pháp; có hành
động chuẩn bị, hoặc đang trốn; có hành động chuẩn bị tiêu hủy chứng cớ, làm
giả chứng cớ; có sự thông đồng giữa những kẻ phạm pháp với nhau để trốn
tránh pháp luật; căn cước, lai lịch không rõ ràng. [37, tr.117]
- Sắc lệnh luật số 02/SL-76 ngày 15/03/1976 quy định về bắt, giam,
khám người, khám nhà ở, đồ vật.
2.1.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988
đến trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003
Ngày 28/6/1988, Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, khóa VIII
đã thông qua BLTTHS có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/1989 quy định một
chương V độc lập, với 14 điều luật từ Điều 61 đến Điều 77 để điều chỉnh
những nội dung cơ bản của hệ thống các biện pháp ngăn chặn, trong đó, có
một số khác biệt so với các văn bản pháp luật trước đó, cụ thể là:
- Điều 64 chỉ quy định ba trường hợp và thay thế trường hợp thứ tư là
bắt người đang lẩn trốn thành bắt người bị truy nã, đồng thời, điều chỉnh bốn
trường hợp này trong cùng một điều luật;
- Điều 63 chỉ quy định ba trường hợp bắt khẩn cấp;
- Quy định thêm bốn biện pháp ngăn chặn mới, gồm: cấm đi khỏi nơi
28
cư trú theo Điều 74; bảo lĩnh theo Điều 75; đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để
đảm bảo theo Điều 76.
Việc thu hẹp phạm vi căn cứ bắt người trong trường hợp khẩn cấp và
quy định them một số biện pháp ngăn chặn mới thể hiện sự quan tâm của Nhà
nước ta đối với vấn đề bảo vệ quyền và tự do cá nhân, đồng thời, đề cao trách
nhiệm của cơ quan THTT đối với việc ngăn chặn tội phạm.
Ngoài những quy định chung, BLTTHS 1988 cũng đã dành một phần ở
chương 31 quy định về thủ tục tố tụng mà bị can bị cáo là người chưa thành
niên. Trong đó Điều 272 có quy định khi điều tra, truy tố, xét xử những vụ án
mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên thì Điều tra viên, Kiểm sát viên,
Thẩm phán phải là những người hiểu biết về tâm lý học, khoa học giáo dục
cũng như về hoạt động đấu tranh phòng và chống tội phạm của người chưa
thành niên. Đối với việc bắt, tạm giữ, tạm giam người chưa thành niên phải
căn cứ theo Điều 62, 63, 64, 68, 71 BLTTHS nhưng chỉ trong trường hợp
phạm tội nghiêm trọng (tức là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức
cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên 5 năm, chung thân hoặc tử
hình).
2.2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH QUY ĐỊNH VỀ CÁC BIỆN
PHÁP NGĂN CHẶN ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
Bộ luật hình sự năm 1999 từ Điều 69 đến Điều 77 là những quy định
đối với người chưa thành niên phạm tội. Điều 12 BLHS đã định rõ tuổi phải
chịu trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên. Điều 69 quy định những
nguyên tắc cơ bản về xử lý những hành vi phạm tội của người chưa thành
niên, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần phải thận trọng khi xử lý phải
xác định rõ tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội, lấy biện pháp giáo dục,
phòng ngừa là chính và chỉ áp dụng hình phạt khi cần thiết, không tử hình và
phạt tù chung thân đối với người chưa thành niên phạm tội. Tại các điều 70,
29
71, 72, 73, 74 nêu lên những biện pháp tư pháp về hình phạt đối với người
chưa thành niên phạm tội đã thể hiện sự coi trọng công tác phòng ngừa, lấy
giáo dục thuyết phục là chính trong đó có biện pháp tư pháp, giáo dục, phòng
ngừa do Tòa án quy định gồm buộc phải chịu thử thách, đưa vào trường giáo
dưỡng. Đây là những căn cứ pháp lý để tiến hành tổ chức các hoạt động
phòng ngừa, không để tội phạm xảy ra và khi đã xảy ra phải điều tra, xử lý
người chưa thành niên phạm tội cho đúng pháp luật.
Cùng với các quy định của BLHS 1999, BLTTHS 2003 cũng dành
toàn bộ Phần thứ 7 thủ tục đặc biệt và Chương XXXII quy định thủ tục tố
tụng đối với người chưa thành niên phạm tội. Từ Điều 301 đến Điều 310
trong đó Điều 302 quy định về điều tra, truy tố, xét xử yêu cầu: Điều tra viên,
Kiểm sát viên, Thẩm phán THTT đối với người chưa thành niên phạm tội
phải là người có những hiểu biết cần thiết về tâm lý học, khoa học giáo dục
cũng như về hoạt động đấu tranh, phòng chống tội phạm của người chưa
thành niên. Điều này tránh được những sai lầm, lệch lạc khi xem xét, đánh
giá, xử lý những hành vi phạm tội do người chưa thành niên gây ra. Bên cạnh
đó các chủ thể khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử cần phải xác định rõ:
Tuổi, trình độ phát triển về thể chất và tinh thần, mức độ nhận thức về hành vi
phạm tội của người chưa thành niên, điều kiện sinh sống và giáo dục, có hay
không có người thành niên xúi giục, nguyên nhân và điều kiện phạm tội.
Các biện pháp ngăn chặn được áp dụng đối với người chưa thành niên
phạm tội bao gồm: bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh,
đặt tiền hoặc tài sản có gí trị để đảm bảo và giám sát đối với người chưa thành
niên phạm tội.
2.2.1. Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về bắt người
chưa thành niên phạm tội
Bắt bị can, bị cáo là người chưa thành niên phạm tội để tạm giam là
bắt người sau khi có lệnh tạm giam hoặc quyết định của cơ quan hoặc người
30
có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
* Bắt bị can, bị cáo là người chưa thành niên để tạm giam
Căn cứ bắt bị can, bị cáo là người chưa thành niên phạm tội để tạm
giam được quy định tại Điều 80 và Điều 303 BLTTHS. Để bắt bị can, bị cáo
là người chưa thành niên phạm tội từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi để tạm giam phải
có đủ các điều kiện sau đây: Một là, có lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam
của những người có thẩm quyền; Hai là, người chưa thành niên bị bắt để tạm
giam phải là bị can, bị cáo phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc là phạm tội
đặc biệt nghiêm trọng.
Để bắt bị can, bị cáo là người chưa thành niên phạm tội từ đủ 16 tuổi
đến dưới 18 tuổi cũng phải có đủ các điều kiện nói trên. Trong đó điều kiện
thứ nhất giống như đối với người chưa thành niên phạm tội từ đủ 14 tuổi đến
dưới 16 tuổi. Còn điều kiện thứ hai là, người chưa thành niên phạm tội bị bắt
để tạm giam phải là bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng do cố ý, tội phạm rất
nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Thẩm quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo là người chưa thành niên để tạm
giam là Viện trưởng, Phó viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện kiểm
sát quân sự các cấp; Chánh án, Phó chánh án Tòa án nhân dân và Tòa án quân
sự các cấp; Thẩm phán giữ chức vụ Chánh tòa, Phó Chánh tòa phúc thẩm Tòa
án nhân dân tối cao; Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp.
Trong trường hợp này lệnh bắt phải được sự phê chuẩn của Viện Kiểm sát
cùng cấp trước khi thi hành.
Thủ tục bắt bị can, bị cáo chưa thành niên để tạm giam: được quy định
tại khoản 2 và khoản 3 Điều 80 BLTTHS 2003. Lệnh bắt của người có thẩm
quyền phải ghi rõ ngày, tháng, năm, họ tên, chức vụ người ra lệnh; họ tên, địa
chỉ người bị bắt, lý do bắt; lệnh bắt phải có chữ ký của người ra lệnh và phải
có đóng dấu cơ quan. Người thi hành lệnh bắt phải đọc lệnh, giải thích lệnh
quyền và nghĩa vụ của người bị bắt và phải lập biên bản về việc bắt. Biên bản
31
về việc bắt phải ghi rõ ngày, tháng, năm, địa điểm bị bắt, nơi lập biên bản,
tình hình diễn biến khi thi hành lệnh bắt, những đồ vật bị tạm giữ, những
khiếu nại của người bị bắt; phải đọc lệnh bắt cho người bị bắt và người chứng
kiến cùng nghe, người thi hành lệnh bắt, người bị bắt và người chứng kiến
cùng ký vào biên bản, nếu có ý kiến thắc mắc thì có quyền ghi vào biên bản.
Việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam tại nơi cư trú của họ phải có đại
diện chính quyền nơi người đó cư trú hoặc làm việc và người láng giềng
chứng kiến. Không được bắt người vào ban đêm, trừ trường hợp khẩn cấp
hoặc phạm tội quả tang.
* Bắt người chưa thành niên phạm tội trong trường hợp khẩn cấp
Bắt người chưa thành niên phạm tội trong trường hợp khẩn cấp là bắt
người đang chuẩn bị thực hiện tội phạm hoặc sau khi thực hiện tội phạm thì
bỏ trốn, cản trở việc điều tra làm rõ tội phạm. Theo quy định tại khoản 1 Điều
81 BLTTHS thì có ba căn cứ bắt người trong trường hợp khẩn cấp như sau
- Khi có căn cứ cho rằng người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm
rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.
- Khi người bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính
mắt trông thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy
cần ngăn chặn ngay việc bỏ trốn.
- Khi thấy có dấu vết tội phạm ở người hay tại chỗ ở của người bị nghi
thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn người đó bỏ trốn hoặc tiêu hủy
chứng cứ.
Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 303 BLTTHS thì: chỉ được bắt khẩn
cấp người chưa thành niên từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi khi người đó đang chuẩn
bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý, hoặc tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng; chỉ được bắt khẩn cấp người chưa thành niên từ 16 tuổi đến
dưới 18 tuổi khi người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm nghiêm trọng do
32
cố ý, tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Những người có quyền ra lệnh bắt khẩn cấp: được quy định tại khoản 2
Điều 81 BLTTHS gồm: Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp;
người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương; người
chỉ huy đồn biên phòng ở hải đảo và biên giới; người chỉ huy tàu bay, tàu biển
khi tầu bay, tàu biển đã rời khỏi bến cảng.
Thủ tục bắt người trong trường hợp khẩn cấp cũng được áp dụng như
thủ tục bắt bị can để tạm giam nhưng có một số điểm khác:
- Lệnh bắt trong trường hợp khẩn cấp cần có sự phê chuẩn của Viện
kiểm sát cùng cấp trước khi thi hành, sau khi bắt người, việc bắt người phải
được báo cáo cho Viện kiểm sát cùng cấp bằng văn bản kèm theo tài liệu có
liên quan đến việc bắt khẩn cấp để xét phê chuẩn. Trong thời gian 12 giờ kể
từ khi nhận được đề nghị xét phê chuẩn và tài liệu liên quan đến việc bắt khẩn
cấp, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê
chuẩn. Nếu Viện kiểm sát quyết định không phê chuẩn thì người ra lệnh bắt
phải trả tự do ngay cho người bị bắt.
- Trường hợp bắt khẩn cấp thì được bắt vào bất kỳ lúc nào không kể
ban ngày hay ban đêm.
* Bắt người chưa thành niên phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã
Bắt người chưa thành niên phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã được
thực hiện theo quy định tại Điều 82 và Điều 303 BLTTHS. Theo Điều 82
BLTTHS thì chỉ được bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã khi
có các căn cứ như sau
- Người đang thực hiện tội phạm thì bị phát hiện là người đang thực
hiện hành vị được mô tả trong một cấu thành tội phạm cụ thể, hành vi đang
diễn ra mà chưa kết thúc, có thể gây ra hoặc chưa gây ra hậu quả tác hại.
- Ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện: đây là trường hợp
33
vừa thực hiện tội phạm xong, người phạm tội chưa kịp chạy trốn hoặc đang
cất giấu công cụ phương tiện phạm tội, đang xóa dấu vết của tội phạm trước
khi chạy trốn thì bị phát hiện.
- Đang bị đuổi bắt: là trường hợp người phạm tội đang thực hiện tội
phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện nên đã chạy trốn
và bị đuổi bắt. Trong quá trình này có sự giám sát liên tục và không bị gián
đoạn về thời gian.
Bắt người đang bị truy nã: là bắt người mà cơ quan có thẩm quyền đã
ra quyết định truy nã bao gồm đối tượng gây án bỏ trốn, trốn trại cải tạo, trại
tạm giam, nhà tạm giữ hoặc trốn khi đang dẫn giải, trốn khi thi hành án.
Còn theo Điều 303, thì chỉ được bắt người chưa thành niên từ đủ 14
tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã trong những
trường hợp phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm
trọng. Chỉ được bắt người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi
phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã trong những trường hợp phạm tội
nghiêm trọng do cố ý, phạm tội rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt
nghiêm trọng.
Thẩm quyền bắt người chưa thành niên phạm tội quả tang hoặc đang
bị truy nã: Bất kỳ người nào cũng có quyền bắt người phạm tội quả tang hoặc
người đang bị truy nã.
Thủ tục bắt người chưa thành niên phạm tội quả tang hoặc đang bị
truy nã: mọi công dân đều có quyền bắt và quyền tước vũ khí, hung khí của
người bị bắt. Sau khi bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã, người
bắt phải giải ngay người bị bắt đến cơ quan Công an, Viện kiểm sát hoặc Ủy
ban nhân dân gần nhất. Cơ quan này phải lập biên bản và giải ngay người bị
bắt đến Cơ quan điều tra có thẩm quyền.
Thực tế áp dụng việc bắt người chưa thành niên phạm tội quả tang
hoặc đang bị truy nã trong thời gian qua chủ yếu là chỉ dựa vào căn cứ quy
34
định tại khoản 1 Điều 82 BLTTHS mà không cần căn cứ vào khoản 1 hoặc
khoản 2 Điều 303 BLTTHS. Vì việc bắt người phạm tội quả tang thường có
diễn biến cấp bách, đột xuất do đó không thể xác định ngay được độ tuổi của
đối tượng. Tại cơ quan điều tra, các điều tra viên mới có điều kiện để xác
minh người bị bắt đã thành niên hay chưa thành niên để làm căn cứ giải
quyết. Một số trường hợp đối tượng bị bắt là người chưa thành niên nhưng lại
phạm tội ít nghiêm trọng hay phạm tội nghiêm trọng do vô ý thì việc áp dụng
biện pháp bắt quả tang lại không đúng quy định của pháp luật. Nhưng nếu
không áp dụng như trên thì hành vi thực hiện tội phạm đó sẽ không còn tính
quả tang nữa và không đáp ứng yêu cầu ngăn chặn tội phạm kịp thời.
2.2.2. Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về tạm giữ
người chưa thành niên phạm tội
Tạm giữ đối với người chưa thành niên phạm tội là biện pháp ngăn
chặn hạn chế tự do thân thể trong thời hạn nhất định đối với người bị bắt từ đủ
14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội
quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú, hoặc đối với người bị bắt theo quyết
định truy nã, nhằm đảm bảo cho cơ quan có thẩm quyền có điều kiện lấy lời
khai và xác minh lý lịch, nhân thân cũng như những tình tiết khác có liên
quan đến vụ án để có cơ sở ra quyết định khởi tố bị can, áp dụng biện pháp
ngăn chặn khác hoặc ra quyết định trả tự do cho người bị bắt.
Thẩm quyền ra lệnh tạm giữ: khoản 2 Điều 86 BLTTHS 2003 quy
định những người có quyền ra lệnh bắt khẩn cấp quy định tại khoản 2 Điều 81
BLTTHS 2003, Chỉ huy trưởng vùng Cảnh sát biển có quyền ra quyết định
tạm giữ.
Thủ tục tạm giữ: khoản 3 Điều 86 BLTTHS quy định: việc tạm giữ
phải có lệnh viết của người có thẩm quyền. Lệnh tạm giữ này phải ghi rõ lý
do tạm giữ, thời hạn tạm giữ, ngày hết hạn và giao cho người bị tạm giữ một
bản. Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi ra lệnh tạm giữ, lệnh tạm giữ phải được
35
gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp để kiểm sát việc áp dụng biện pháp ngăn
chặn. Nếu xét thấy việc tạm giữ không có căn cứ hoặc không cần thiết thì
Viện kiểm sát ra quyết định hủy bỏ quyết định tạm giữ và phải trả tự do ngay
cho người bị tạm giữ.
Thời hạn tạm giữ: theo quy định tại Điều 87 BLTTHS 2003 thì thời
hạn tạm giữ không được quá 3 ngày kể từ khi Cơ quan điều tra nhận thấy
người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, người ra quyết định tạm giữ có thể
gia hạn tạm giữ nhưng không quá 3 ngày. Trong trường hợp đặc biệt, người ra
quyết định tạm giữ có thể gia hạn lần 2 nhưng không quá 3 ngày. Mọi trường
hợp gia hạn tạm giữ đều phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn. Trong
thời hạn 12 giờ kể từ khi nhận được đề nghị gia hạn và tài liệu liên quan đến
việc tạm giữ, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hay không phê chuẩn.
Trong thời hạn tạm giữ, nếu không đủ căn cứ khởi tố bị can thì phải
trả tự do ngay cho người bị tạm giữ. Thời hạn bị tạm giữ được trừ vào thời
hạn tạm giam. Một ngày tạm giữ được tính bằng một ngày tạm giam.
2.2.3. Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về biện pháp
tạm giam người chưa thành niên phạm tội
Tạm giam đối với người chưa thành niên là biện pháp ngăn chặn áp
dụng đối với bị can, bị cáo từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội rất nghiêm
trọng, đặc biệt nghiêm trọng hoặc tội phạm mà BLHS hiện hành quy định
hình phạt trên 2 năm tù và có căn cứ cho rằng người đó có thể bỏ trốn hoặc
cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội.
Theo quy định của BLTTHS, áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với người
chưa thành niên phạm tội phải kết hợp các điều 80, Điều 88 với Điều 303,
theo đó người chưa thành niên phạm tội chỉ bị tạm giam theo loại tội tương
ứng với độ tuổi. Về căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam đối với người chưa
thành niên phạm tội, mặc dù Điều 303 đã có quy định dẫn chiếu đến Điều 88
36
và các điều luật khác nhưng do dẫn chiếu nhiều điều luật, nhiều căn cứ đã dẫn
đến việc coi nhẹ căn cứ tạm giam được quy định tại Điều 88 và Điều 79,
người THTT chỉ xem xét điều kiện về độ tuổi và tội phạm đã thực hiện để áp
dụng biện pháp tạm giam. Theo quy định của BLHS thì người từ đủ 14 tuổi
đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội rất nghiêm trọng và
tội đặc biệt nghiêm trọng. Vì vậy, có thể hiểu, tất cả người chưa thành niên từ
đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội loại này đều có thể tạm giam mà không
cần căn cứ nào. Điều này dẫn đến hệ lụy xã hội là rất nhiều trường hợp, bị
can, bị cáo đang là học sinh, sinh viên, không có biểu hiện trốn tránh việc
điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án nhưng vẫn bị áp dụng biện pháp tạm
giam, không được thực hiện quyền học tập, nghiên cứu mà họ đáng ra chưa bị
tước bỏ.
Thẩm quyền ra lệnh tạm giam: những người có thẩm quyền ra lệnh
tạm giam được quy định tại Điều 80 BLTTHS. Lệnh tạm giam của người này
được quy định tại khoản 1 Điều 80 BLTTHS phải được Viện kiểm sát cùng
cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Trong thời hạn 3 ngày kể từ ngày nhận
được lệnh tạm giam, đề nghị xét phê chuẩn và hồ sơ, tài liệu liên quan đến
việc tạm giam, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định
không phê chuẩn. Viện kiểm sát phải hoàn trả hồ sơ cho cơ quan điều tra ngay
sau khi kết thúc việc xét phê chuẩn.
Thủ tục tạm giam: Việc tạm giam phải có lệnh viết của người có thẩm
quyền, lệnh tạm giam phải ghi rõ ngày, tháng, năm, họ tên, chức vụ của người
ra lệnh; họ tên, địa chỉ của người bị tạm giam, lý do tạm giam, thời hạn tạm
giam và giao cho người bị tạm giam một bản. Cơ quan ra lệnh tạm giam phải
báo ngay cho gia đình người bị tạm giam biết.
Thời hạn tạm giam: Thời hạn tạm giam bị can, bị cáo là người chưa
thành niên phạm tội được quy định tại các điều 120, 166, 177, 228, 243, 250 và
Điều 287 BLTTHS. Tại các điều 120, 166, 177 BLTTHS quy định thời hạn
37
tạm giam để điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm bị can, bị cáo là người chưa
thành niên phạm tội phụ thuộc vào tội phạm mà bị can, bị cáo là người chưa
thành niên bị khởi tố, truy tố, bị đưa ra xét xử. Cụ thể như sau:
- Theo quy định tại Điều 120 BLTTHS thì thời hạn tạm giam để điều
tra không quá hai tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá ba tháng
đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá bốn tháng đối với tội phạm rất
nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
- Thời hạn tạm giam để truy tố là hai mươi ngày đối với tội phạm ít
nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng, ba mươi ngày đối với tội phạm rất
nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, kể từ ngày nhận được hồ sơ
vụ án và bản kết luận điều tra (khoản 1 Điều 166 BLTTHS).
- Thời hạn tạm giam bị can, bị cáo để chuẩn bị xét xử là ba mươi
ngày, đối với tội phạm ít nghiêm trọng, bốn mươi lăm ngày đối với tội phạm
nghiêm trọng, hai tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng, ba tháng đối với
tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án.
2.2.4. Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về cấm đi khỏi
nơi cư trú người chưa thành niên phạm tội
Cấm đi khỏi nơi cư trú đối với người chưa thành niên là biện pháp ngăn
chặn được áp dụng đối với bị can, bị cáo từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi có nơi
cư trú rõ ràng, buộc họ không được đi khỏi nơi cư trú nếu không được phép
của cơ quan có thẩm quyền, nhằm đảm bảo sự có mặt của họ theo giấy triệu
tập của cơ quan THTT.
Thẩm quyền và thủ tục cấm đi khỏi nơi cư trú: Cơ quan đơn vị,
Viện kiểm sát, Tòa án có quyền quyết định áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi
cư trú (theo quy định Điều 80 BLTTHS), Thẩm phán được phân công chủ tọa
phiên tòa có quyền ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú. Lệnh này phải ghi rõ ngày,
tháng, năm ra lệnh, họ tên, chức vụ của người ra lệnh; họ tên, địa chỉ của
người bị cấm đi khỏi nơi cư trú và nơi họ được phép cư trú. Lệnh này được
38
giao cho bị can, bị cáo một bản.
So với các biện pháp ngăn chặn khác như tạm giữ, tạm giam, bắt người
thì biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú ít nghiêm khắc hơn. Nó không tước bỏ
hoặc hạn chế quyền tự do thân thể, quyền học tập, làm việc ứng cử, bầu cử
của bị can, bị cáo mà chỉ hạn chế sự tự do đi lại trong một phạm vi nhất định.
2.2.5. Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về biện pháp
bảo lĩnh người chưa thành niên phạm tội
Bảo lĩnh đối với người chưa thành niên là biện pháp ngăn chặn được
các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng đối với bị can, bị cáo từ đủ 14 tuổi đến
dưới 18 tuổi có nhân thân, lai lịch rõ ràng, để thay thế biện pháp tạm giam
nhằm đảm bảo không để bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội hoặc cản trở điều tra,
truy tố, xét xử và bảo đảm sự có mặt của họ theo giấy triệu tập của các cơ
quan THTT.
Cá nhân nhận bảo lĩnh phải có ít nhất hai người và là thân thích của bị
can, bị cáo. Tổ chức cỏ thể nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo là thành viên của
tổ chức mình. Khi nhận bảo lĩnh, cá nhân hoặc tổ chức phải làm giấy cam
đoan không để bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội và đảm bảo sự có mặt của bị
can, bị cáo theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án.
Khi làm giấy cam đoan, cá nhân hoặc tổ chức nhận bảo lĩnh được thông báo
về những tình tiết của vụ án có liên quan đến việc nhận bảo lĩnh.
Cá nhân nhận bảo lĩnh phải có tư cách đạo đức tốt, nghiêm chỉnh chấp
hành pháp luật. Việc nhận bảo lĩnh, phải có xác nhận của chính quyền địa phương
nơi cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc. Đối với tổ chức nhận
bảo lĩnh thì việc bảo lãnh phải có xác nhận của người đứng đầu tổ chức.
Cá nhân hay tổ chức nhận bảo lĩnh vi phạm nghĩa vụ đã cam đoan thì
phải chịu trách nhiệm về nghĩa vụ đã cam đoan, trường hợp này bị can, bị cáo
sẽ bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác.
2.2.6. Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về biện pháp
39
đặt tiền hoặc tài sản để bảo đảm người chưa thành niên phạm tội
Đặt tiền hoặc tài sản để bảo đảm đối với người chưa thành niên là biện
pháp ngăn chặn do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án áp dụng đối với bị
can, bị cáo từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi có nhân thân, lai lịch rõ ràng, để
thay thế biện pháp tạm giam nhằm đảm bảo sự có mặt của họ theo giấy triệu
tập của các cơ quan THTT.
Những người được quy định tại khoản 1 Điều 80 BLTTHS, Thẩm
phán được phân công chủ tọa phiên tòa có quyền ra quyết định về việc đặt
tiền hoặc tài sản có giá trị để đảm bảo. Quyết định của những người được quy
định tại điểm d khoản 1 Điều 80 BLTTHS phải được Viện kiểm sát cùng cấp
phê chuẩn trước khi thi hành.
Cơ quan ra quyết định về việc đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để đảm
bảo phải lập biên bản ghi rõ số lượng tiền, tên và tình trạng tài sản đã được
đặt và giao cho bị can, bị cáo một bản.
Trong trường hợp bị can, bị cáo đã được Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát, Tòa án triệu tập mà vắng mặt không có lý do chính đáng, thì số tiền hoặc
tài sản đã đặt sẽ sung công quỹ nhà nước và trong trường hợp này, bị can, bị
cáo sẽ bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác.
Trình tự thủ tục, mức tiền hay giá trị tài sản phải đặt để đảm bảo việc
tạm giữ, hoàn trả, không hoàn trả số tiền hay tài sản đã đặt sẽ được thực hiện
theo đúng quy định của pháp luật.
2.3. THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN ĐỐI VỚI
NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HẢI DƯƠNG
2.3.1. Tình hình áp dụng biện pháp bắt người
Bắt người là biện pháp ngăn chặn có tính đặc thù, thường được áp
dụng liền trước các biện pháp tạm giữ hoặc tạm giam. Về nội dung biện pháp
này, là hạn chế quyền tự do thân thể của người bị bắt trong một khoảng thời
gian nhất định, nhằm ngăn chặn kịp thời hành vi phạm tội, không để đối
Biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT

More Related Content

What's hot

CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN ...
CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN ...CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN ...
CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN ...phamhieu56
 
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hìnhLuận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hìnhDịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
BIỆN PHÁP BẮT NGƯỜI TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM_10192812052019
BIỆN PHÁP BẮT NGƯỜI TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM_10192812052019BIỆN PHÁP BẮT NGƯỜI TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM_10192812052019
BIỆN PHÁP BẮT NGƯỜI TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM_10192812052019hanhha12
 

What's hot (18)

Luận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự, HOT
 
Luận văn: Các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật TTHS Việt Nam
Luận văn: Các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật TTHS Việt NamLuận văn: Các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật TTHS Việt Nam
Luận văn: Các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật TTHS Việt Nam
 
Biện pháp đặt tiền, tài sản để bảo đảm trong tố tụng hình sự, HOT
Biện pháp đặt tiền, tài sản để bảo đảm trong tố tụng hình sự, HOTBiện pháp đặt tiền, tài sản để bảo đảm trong tố tụng hình sự, HOT
Biện pháp đặt tiền, tài sản để bảo đảm trong tố tụng hình sự, HOT
 
CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN ...
CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN ...CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN ...
CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN ...
 
Luận văn: Biện pháp tạm giam theo tố tụng hình sự Việt Nam, 9đ
Luận văn: Biện pháp tạm giam theo tố tụng hình sự Việt Nam, 9đLuận văn: Biện pháp tạm giam theo tố tụng hình sự Việt Nam, 9đ
Luận văn: Biện pháp tạm giam theo tố tụng hình sự Việt Nam, 9đ
 
Luận văn: Biện pháp bắt người trong pháp luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Biện pháp bắt người trong pháp luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Biện pháp bắt người trong pháp luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Biện pháp bắt người trong pháp luật tố tụng hình sự, HOT
 
Luận văn: Bắt người trong trường hợp khẩn cấp theo pháp luật
Luận văn: Bắt người trong trường hợp khẩn cấp theo pháp luậtLuận văn: Bắt người trong trường hợp khẩn cấp theo pháp luật
Luận văn: Bắt người trong trường hợp khẩn cấp theo pháp luật
 
Kiểm sát biện pháp tạm giữ, tạm giam theo luật tố tụng hình sự, HOT
Kiểm sát biện pháp tạm giữ, tạm giam theo luật tố tụng hình sự, HOTKiểm sát biện pháp tạm giữ, tạm giam theo luật tố tụng hình sự, HOT
Kiểm sát biện pháp tạm giữ, tạm giam theo luật tố tụng hình sự, HOT
 
Luận văn: Hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hìnhLuận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
 
BIỆN PHÁP BẮT NGƯỜI TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM_10192812052019
BIỆN PHÁP BẮT NGƯỜI TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM_10192812052019BIỆN PHÁP BẮT NGƯỜI TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM_10192812052019
BIỆN PHÁP BẮT NGƯỜI TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM_10192812052019
 
Luận văn: Các tình tiết tăng nặng theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Các tình tiết tăng nặng theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Các tình tiết tăng nặng theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Các tình tiết tăng nặng theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
Luận văn: Áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sựLuận văn: Áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
Luận văn: Áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
 
Luận văn: Biện pháp tạm giam theo pháp luật tố tụng hình sự, 9đ
Luận văn: Biện pháp tạm giam theo pháp luật tố tụng hình sự, 9đLuận văn: Biện pháp tạm giam theo pháp luật tố tụng hình sự, 9đ
Luận văn: Biện pháp tạm giam theo pháp luật tố tụng hình sự, 9đ
 
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sựBiện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
 
Luận văn: Thi hành án phạt tù từ thực tiễn TPHCM, HAY, 9đ
Luận văn: Thi hành án phạt tù từ thực tiễn TPHCM, HAY, 9đLuận văn: Thi hành án phạt tù từ thực tiễn TPHCM, HAY, 9đ
Luận văn: Thi hành án phạt tù từ thực tiễn TPHCM, HAY, 9đ
 
Luận văn: Tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HOT
Luận văn: Tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HOTLuận văn: Tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HOT
Luận văn: Tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HOT
 
Luận văn: Vấn đề lý luận thực tiễn về thi hành hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề lý luận thực tiễn về thi hành hình phạt tử hìnhLuận văn: Vấn đề lý luận thực tiễn về thi hành hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề lý luận thực tiễn về thi hành hình phạt tử hình
 

Similar to Biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT

Luận Văn Thạc Sĩ Luật Hình Sự Người Chưa Thành Niên Phạm Tội Trong Hình Sự
Luận Văn Thạc Sĩ Luật Hình Sự Người Chưa Thành Niên Phạm Tội Trong Hình SựLuận Văn Thạc Sĩ Luật Hình Sự Người Chưa Thành Niên Phạm Tội Trong Hình Sự
Luận Văn Thạc Sĩ Luật Hình Sự Người Chưa Thành Niên Phạm Tội Trong Hình SựDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại Đà Nẵng, 9đ - Gửi miễn p...
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại Đà Nẵng, 9đ - Gửi miễn p...Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại Đà Nẵng, 9đ - Gửi miễn p...
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại Đà Nẵng, 9đ - Gửi miễn p...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN ...
CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN ...CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN ...
CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN ...TiLiu5
 
Luận văn thạc sĩ các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự việt ...
Luận văn thạc sĩ các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự việt ...Luận văn thạc sĩ các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự việt ...
Luận văn thạc sĩ các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự việt ...jackjohn45
 

Similar to Biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT (20)

Luận Văn Thạc Sĩ Luật Hình Sự Người Chưa Thành Niên Phạm Tội Trong Hình Sự
Luận Văn Thạc Sĩ Luật Hình Sự Người Chưa Thành Niên Phạm Tội Trong Hình SựLuận Văn Thạc Sĩ Luật Hình Sự Người Chưa Thành Niên Phạm Tội Trong Hình Sự
Luận Văn Thạc Sĩ Luật Hình Sự Người Chưa Thành Niên Phạm Tội Trong Hình Sự
 
Ngăn chặn người chưa thành niên phạm tội trong điều tra vụ án
Ngăn chặn người chưa thành niên phạm tội trong điều tra vụ ánNgăn chặn người chưa thành niên phạm tội trong điều tra vụ án
Ngăn chặn người chưa thành niên phạm tội trong điều tra vụ án
 
Luận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
Luận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tộiLuận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
Luận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
 
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Người chưa thành niên phạm tội, HAY
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Người chưa thành niên phạm tội, HAYBÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Người chưa thành niên phạm tội, HAY
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Người chưa thành niên phạm tội, HAY
 
Luận văn: Áp dụng biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng
Luận văn: Áp dụng biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụngLuận văn: Áp dụng biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng
Luận văn: Áp dụng biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng
 
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại Đà Nẵng, 9đ - Gửi miễn p...
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại Đà Nẵng, 9đ - Gửi miễn p...Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại Đà Nẵng, 9đ - Gửi miễn p...
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại Đà Nẵng, 9đ - Gửi miễn p...
 
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật Việt Nam tại Vĩnh Phúc
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật Việt Nam tại Vĩnh PhúcLuận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật Việt Nam tại Vĩnh Phúc
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật Việt Nam tại Vĩnh Phúc
 
CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN ...
CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN ...CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN ...
CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN ...
 
Luận văn thạc sĩ các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự việt ...
Luận văn thạc sĩ các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự việt ...Luận văn thạc sĩ các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự việt ...
Luận văn thạc sĩ các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự việt ...
 
Luận án: Chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội
Luận án: Chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tộiLuận án: Chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội
Luận án: Chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội
 
Chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội, HOTChính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
 
Chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội
Chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tộiChính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội
Chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội
 
Luận án: Chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội
Luận án: Chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tộiLuận án: Chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội
Luận án: Chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội
 
Luận văn thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự, HAY
Luận văn thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự, HAYLuận văn thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự, HAY
Luận văn thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự, HAY
 
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAYLuận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
 
Áp dụng pháp luật hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội
Áp dụng pháp luật hình sự đối với người chưa thành niên phạm tộiÁp dụng pháp luật hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội
Áp dụng pháp luật hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội
 
Quyền con người của người chưa thành niên phạm tội, HAY
Quyền con người của người chưa thành niên phạm tội, HAYQuyền con người của người chưa thành niên phạm tội, HAY
Quyền con người của người chưa thành niên phạm tội, HAY
 
Luận văn: Bảo đảm quyền bị can, bị cáo là người chưa thành niên
Luận văn: Bảo đảm quyền bị can, bị cáo là người chưa thành niênLuận văn: Bảo đảm quyền bị can, bị cáo là người chưa thành niên
Luận văn: Bảo đảm quyền bị can, bị cáo là người chưa thành niên
 
Bảo đảm quyền của bị can, bị cáo là người chưa thành niên
Bảo đảm quyền của bị can, bị cáo là người chưa thành niênBảo đảm quyền của bị can, bị cáo là người chưa thành niên
Bảo đảm quyền của bị can, bị cáo là người chưa thành niên
 
Bảo đảm quyền của bị can, bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Bảo đảm quyền của bị can, bị cáo là người chưa thành niên, HAYBảo đảm quyền của bị can, bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Bảo đảm quyền của bị can, bị cáo là người chưa thành niên, HAY
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Hệ thống ca dao than thân người Việt từ góc nhìn thi pháp
Hệ thống ca dao than thân người Việt từ góc nhìn thi phápHệ thống ca dao than thân người Việt từ góc nhìn thi pháp
Hệ thống ca dao than thân người Việt từ góc nhìn thi pháplamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 31-39)...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 31-39)...40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 31-39)...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 31-39)...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam (Mar...
Mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam (Mar...Mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam (Mar...
Mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam (Mar...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bày về triế...
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bày về triế...Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bày về triế...
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bày về triế...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
PHONG TRÀO “XUNG KÍCH, TÌNH NGUYỆN VÌ CUỘC SỐNG CỘNG ĐỒNG” CỦA ĐOÀN TNCS HỒ...
PHONG TRÀO “XUNG KÍCH, TÌNH NGUYỆN VÌ CUỘC SỐNG   CỘNG ĐỒNG” CỦA ĐOÀN TNCS HỒ...PHONG TRÀO “XUNG KÍCH, TÌNH NGUYỆN VÌ CUỘC SỐNG   CỘNG ĐỒNG” CỦA ĐOÀN TNCS HỒ...
PHONG TRÀO “XUNG KÍCH, TÌNH NGUYỆN VÌ CUỘC SỐNG CỘNG ĐỒNG” CỦA ĐOÀN TNCS HỒ...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Logic học và phương pháp nghiên cứu khoa học
Logic học và phương pháp nghiên cứu khoa họcLogic học và phương pháp nghiên cứu khoa học
Logic học và phương pháp nghiên cứu khoa họcK61PHMTHQUNHCHI
 
35 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM ...
35 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM ...35 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM ...
35 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
VẤN ĐỀ 12 VI PHẠM HÀNH CHÍNH VÀ.pptx
VẤN ĐỀ 12 VI PHẠM HÀNH CHÍNH VÀ.pptxVẤN ĐỀ 12 VI PHẠM HÀNH CHÍNH VÀ.pptx
VẤN ĐỀ 12 VI PHẠM HÀNH CHÍNH VÀ.pptxGingvin36HC
 
NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 1 B 1 2024.pptx
NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 1 B 1 2024.pptxNGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 1 B 1 2024.pptx
NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 1 B 1 2024.pptxsongtoan982017
 
Nhân tố ảnh hưởng tới động lực làm việc của kiểm toán viên tại Chi nhánh Công...
Nhân tố ảnh hưởng tới động lực làm việc của kiểm toán viên tại Chi nhánh Công...Nhân tố ảnh hưởng tới động lực làm việc của kiểm toán viên tại Chi nhánh Công...
Nhân tố ảnh hưởng tới động lực làm việc của kiểm toán viên tại Chi nhánh Công...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TOÁN 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯỜNG...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TOÁN 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯỜNG...TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TOÁN 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯỜNG...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TOÁN 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯỜNG...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Báo cáo tốt nghiệp Phát triển sản phẩm thẻ tại Ngân hàng thương mại cổ phần K...
Báo cáo tốt nghiệp Phát triển sản phẩm thẻ tại Ngân hàng thương mại cổ phần K...Báo cáo tốt nghiệp Phát triển sản phẩm thẻ tại Ngân hàng thương mại cổ phần K...
Báo cáo tốt nghiệp Phát triển sản phẩm thẻ tại Ngân hàng thương mại cổ phần K...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích hiệu quả hoạt động huy động và cho vay ...
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích hiệu quả hoạt động huy động và cho vay ...Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích hiệu quả hoạt động huy động và cho vay ...
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích hiệu quả hoạt động huy động và cho vay ...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Hoàn thiện công tác kiểm soát chi NSNN qua Kho bạc Nhà nước huyện Tri Tôn – t...
Hoàn thiện công tác kiểm soát chi NSNN qua Kho bạc Nhà nước huyện Tri Tôn – t...Hoàn thiện công tác kiểm soát chi NSNN qua Kho bạc Nhà nước huyện Tri Tôn – t...
Hoàn thiện công tác kiểm soát chi NSNN qua Kho bạc Nhà nước huyện Tri Tôn – t...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Thực trạng ứng dụng công nghệ trong lĩnh vực giống cây trồng: Nghiên cứu điển...
Thực trạng ứng dụng công nghệ trong lĩnh vực giống cây trồng: Nghiên cứu điển...Thực trạng ứng dụng công nghệ trong lĩnh vực giống cây trồng: Nghiên cứu điển...
Thực trạng ứng dụng công nghệ trong lĩnh vực giống cây trồng: Nghiên cứu điển...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 1-20) ...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 1-20) ...40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 1-20) ...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 1-20) ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Xây dựng mô hình ...
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Xây dựng mô hình ...Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Xây dựng mô hình ...
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Xây dựng mô hình ...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Quản lý dạy học phân hóa môn Toán tại các trường trung học cơ sở huyện Tam D...
Quản lý dạy học phân hóa môn Toán tại các trường trung học cơ sở huyện Tam D...Quản lý dạy học phân hóa môn Toán tại các trường trung học cơ sở huyện Tam D...
Quản lý dạy học phân hóa môn Toán tại các trường trung học cơ sở huyện Tam D...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 

Recently uploaded (20)

30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Hệ thống ca dao than thân người Việt từ góc nhìn thi pháp
Hệ thống ca dao than thân người Việt từ góc nhìn thi phápHệ thống ca dao than thân người Việt từ góc nhìn thi pháp
Hệ thống ca dao than thân người Việt từ góc nhìn thi pháp
 
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 31-39)...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 31-39)...40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 31-39)...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 31-39)...
 
Mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam (Mar...
Mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam (Mar...Mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam (Mar...
Mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam (Mar...
 
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bày về triế...
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bày về triế...Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bày về triế...
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bày về triế...
 
PHONG TRÀO “XUNG KÍCH, TÌNH NGUYỆN VÌ CUỘC SỐNG CỘNG ĐỒNG” CỦA ĐOÀN TNCS HỒ...
PHONG TRÀO “XUNG KÍCH, TÌNH NGUYỆN VÌ CUỘC SỐNG   CỘNG ĐỒNG” CỦA ĐOÀN TNCS HỒ...PHONG TRÀO “XUNG KÍCH, TÌNH NGUYỆN VÌ CUỘC SỐNG   CỘNG ĐỒNG” CỦA ĐOÀN TNCS HỒ...
PHONG TRÀO “XUNG KÍCH, TÌNH NGUYỆN VÌ CUỘC SỐNG CỘNG ĐỒNG” CỦA ĐOÀN TNCS HỒ...
 
Logic học và phương pháp nghiên cứu khoa học
Logic học và phương pháp nghiên cứu khoa họcLogic học và phương pháp nghiên cứu khoa học
Logic học và phương pháp nghiên cứu khoa học
 
35 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM ...
35 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM ...35 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM ...
35 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM ...
 
VẤN ĐỀ 12 VI PHẠM HÀNH CHÍNH VÀ.pptx
VẤN ĐỀ 12 VI PHẠM HÀNH CHÍNH VÀ.pptxVẤN ĐỀ 12 VI PHẠM HÀNH CHÍNH VÀ.pptx
VẤN ĐỀ 12 VI PHẠM HÀNH CHÍNH VÀ.pptx
 
NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 1 B 1 2024.pptx
NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 1 B 1 2024.pptxNGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 1 B 1 2024.pptx
NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 1 B 1 2024.pptx
 
Nhân tố ảnh hưởng tới động lực làm việc của kiểm toán viên tại Chi nhánh Công...
Nhân tố ảnh hưởng tới động lực làm việc của kiểm toán viên tại Chi nhánh Công...Nhân tố ảnh hưởng tới động lực làm việc của kiểm toán viên tại Chi nhánh Công...
Nhân tố ảnh hưởng tới động lực làm việc của kiểm toán viên tại Chi nhánh Công...
 
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TOÁN 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯỜNG...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TOÁN 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯỜNG...TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TOÁN 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯỜNG...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TOÁN 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯỜNG...
 
Báo cáo tốt nghiệp Phát triển sản phẩm thẻ tại Ngân hàng thương mại cổ phần K...
Báo cáo tốt nghiệp Phát triển sản phẩm thẻ tại Ngân hàng thương mại cổ phần K...Báo cáo tốt nghiệp Phát triển sản phẩm thẻ tại Ngân hàng thương mại cổ phần K...
Báo cáo tốt nghiệp Phát triển sản phẩm thẻ tại Ngân hàng thương mại cổ phần K...
 
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích hiệu quả hoạt động huy động và cho vay ...
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích hiệu quả hoạt động huy động và cho vay ...Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích hiệu quả hoạt động huy động và cho vay ...
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích hiệu quả hoạt động huy động và cho vay ...
 
Hoàn thiện công tác kiểm soát chi NSNN qua Kho bạc Nhà nước huyện Tri Tôn – t...
Hoàn thiện công tác kiểm soát chi NSNN qua Kho bạc Nhà nước huyện Tri Tôn – t...Hoàn thiện công tác kiểm soát chi NSNN qua Kho bạc Nhà nước huyện Tri Tôn – t...
Hoàn thiện công tác kiểm soát chi NSNN qua Kho bạc Nhà nước huyện Tri Tôn – t...
 
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...
 
Thực trạng ứng dụng công nghệ trong lĩnh vực giống cây trồng: Nghiên cứu điển...
Thực trạng ứng dụng công nghệ trong lĩnh vực giống cây trồng: Nghiên cứu điển...Thực trạng ứng dụng công nghệ trong lĩnh vực giống cây trồng: Nghiên cứu điển...
Thực trạng ứng dụng công nghệ trong lĩnh vực giống cây trồng: Nghiên cứu điển...
 
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 1-20) ...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 1-20) ...40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 1-20) ...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 1-20) ...
 
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Xây dựng mô hình ...
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Xây dựng mô hình ...Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Xây dựng mô hình ...
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Xây dựng mô hình ...
 
Quản lý dạy học phân hóa môn Toán tại các trường trung học cơ sở huyện Tam D...
Quản lý dạy học phân hóa môn Toán tại các trường trung học cơ sở huyện Tam D...Quản lý dạy học phân hóa môn Toán tại các trường trung học cơ sở huyện Tam D...
Quản lý dạy học phân hóa môn Toán tại các trường trung học cơ sở huyện Tam D...
 

Biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ THU HOÀI CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Hải Dương) Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số : 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trần Văn Luyện HÀ NỘI - 2015
  • 2. Lêi cam ®oan T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña luËn v¨n ch­a tõng ®­îc ai c«ng bè trong bÊt kú c«ng tr×nh nµo kh¸c. T¸c gi¶ luËn v¨n NguyÔn ThÞ Thu Hoµi
  • 3. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục các bảng MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN 7 1.1. Người chưa thành niên phạm tội và thủ tục giải quyết các vụ án là người chưa thành niên trong tố tụng hình sự 7 1.1.1. Người chưa thành niên phạm tội 7 1.1.2. Thủ tục giải quyết các vụ án là người chưa thành niên trong tố tụng hình sự 10 1.2. 1.2.1. 1.2.2. 1.2.3. Biện pháp ngăn chặn áp dụng đối với người chưa thành niên trong quá trình giải quyết vụ án hình sự Khái niệm về các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự Khái niệm biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội Đặc điểm áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội 12 12 16 17 1.3. Bảo vệ quyền con người trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên 19 1.3.1. Các tiêu chí quốc tế về quyền con người của người chưa thành niên trong tố tụng hình sự 19 1.3. 2. Bảo vệ quyền của người chưa thành niên khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn 22
  • 4. Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI 25 2.1. Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về các biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội 25 2.1.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám đến trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự 1988 25 2.1.2. Giai đoạn từ sau khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự 1988 đến trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự 2003 27 2.2. 2.3. Thực trạng pháp luật hiện hành quy định về các biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên Thực tiễn áp dụng các biện các biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội trên địa bàn tỉnh Hải Dương 28 39 2.3.1. Tình hình áp dụng biện pháp bắt người 39 2.3.2. Tình hình áp dụng biện pháp tạm giữ 42 2.3.3. Tình hình áp dụng biện pháp tạm giam 45 2.3.4. Tình hình áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú 47 2.3.5. Tình hình áp dụng biện pháp bảo lĩnh 49 2.3.6. Tình hình áp dụng biện pháp đặt tiền hoặc tài sản 52 2.4. Nhận xét, đánh giá về việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội trên địa bàn tỉnh Hải Dương 53 2.4.1. Những ưu điểm 53 2.4.2. Những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế 56 Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HẢI DƯƠNG 63
  • 5. 3.1. Cơ sở của các biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội 63 3.2. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội trên địa bàn tỉnh Hải Dương 66 3.2.1. Hoàn thiện pháp luật quy định biện pháp ngăn chặn liên quan đến người chưa thành niên phạm tội 66 3.2.2. Nâng cao chất lượng và kỹ năng áp dụng thực tiễn của đội ngũ cán bộ có thẩm quyền áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội 74 3.2.3. Phát huy vai trò của người bào chữa, tổ chức luật sư trong bảo vệ quyền lợi của người chưa thành niên bị áp dụng các biện pháp ngăn chặn 76 3.2.4. Một số giải pháp khác 77 KẾT LUẬN 81 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 83
  • 6. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS : Bộ luật hình sự BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự THTT : Tiến hành tố tụng TTHS : Tố tụng hình sự XHCN : Xã hội chủ nghĩa
  • 7. DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang 2.1 Số đối tượng áp dụng biện pháp bắt tại tỉnh Hải Dương (2009-2013) 40 2.2 Số đối tượng bị áp dụng biện pháp tạm giữ trên địa bàn tỉnh Hải Dương (2009- 2013) 43 2.3 Số đối tượng bị áp dụng biện pháp tạm giam tại tỉnh Hải Dương (2009-2013) 45 2.4 Số đối tượng bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú tại tỉnh Hải Dương (2009-2013) 48 2.5 Số đối tượng bị áp dụng biện pháp bảo lĩnh tại tỉnh Hải Dương (2009-2013) 50
  • 8. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Việt Nam là một quốc gia luôn đi đầu trong vấn đề chăm sóc và bảo vệ trẻ em. Bởi thế hệ trẻ là tương lai của đất nước, là lớp người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Nhà nước đã ban hành rất nhiều các văn bản pháp luật nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em như: Hiến pháp năm 2013, Luật bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004, Bộ luật hình sự (BLHS) năm 1999, Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003… Việt Nam cũng là một trong các quốc gia đầu tiên ở châu Á tham gia Công ước về quyền trẻ em của Liên hợp quốc. Đảng và Nhà nước ta đã và đang tiến hành nhiều biện pháp, hoạt động cụ thể để chăm sóc, giáo dục trẻ em, tạo dựng một môi trường xã hội trong sạch, lành mạnh để các em phát triển toàn diện. Trong đó, đặc biệt chú ý quan tâm đến vấn đề chăm sóc giáo dục thế hệ trẻ và phòng ngừa, ngăn chặn người chưa thành niên phạm tội. Bên cạnh những kết quả đạt được, chúng ta thấy tồn tại một thực trạng đáng lo ngại trong cả nước nói chung cũng như ở địa bàn tỉnh Hải Dương nói riêng, đó là tình hình phạm tội do người chưa thành niên thực hiện với tính chất và mức độ gây nguy hiểm cho xã hội ngày càng gia tăng. Đặc biệt là các tội phạm liên quan đến ma túy, giết người, cướp của, hiếp dâm cùng với việc sử dụng các loại vũ khí, hung khí nguy hiểm, tụ tập thành các băng nhóm hoạt động theo kiểu xã hội đen, gây ra tình trạng bất ổn cho xã hội và khó khăn cho công tác điều tra, xử lý. Trong hệ thống các biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự (TTHS), các biện pháp ngăn chặn chiếm vị trí đặc biệt quan trọng, giúp hoạt động TTHS xác định tội phạm, người phạm tội và vụ án. Việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn có ảnh hưởng lớn đến quá trình giải quyết vụ án hình sự và hiệu quả cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm. Đây là vấn đề rất nhạy cảm, nó đụng
  • 9. 2 chạm đến quyền và lợi ích chính đáng của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp. Điều 20 Hiến pháp năm 2013 quy định: Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm, không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm. Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Tòa án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện Kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt, giam giữ người do luật định… [48]. Quy định này của Hiến pháp nhằm bảo vệ nhân quyền, đảm bảo công dân không bị áp dụng biện pháp ngăn chặn một cách tùy tiện. Nghiên cứu thực tế những năm qua việc áp dụng cáp biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội trong cả nước nói chung cũng như địa bàn tỉnh Hải Dương nói riêng còn những hạn chế nhất định, dẫn đến hậu quả bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội, vi phạm nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa (XHCN)… Vì vậy, nắm vững các biện pháp ngăn chặn quy định trong Chương VI BLTTHS 2013 là điều cần thiết, giúp các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tránh được những vi phạm đáng tiếc xảy ra, đồng thời nâng cao hiệu quả trong việc ngăn chặn người chưa thành niên phạm tội, phục vụ đắc lực hoạt động điều tra. Xuất phát từ những lý do trên, việc tác giả chọn đề tài "Các biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Hải Dương)" làm đề tài luận văn thạc sĩ là vấn đề mang tính cấp bách, thiết thực không những về mặt lý luận mà cả về mặt thực tiễn đối với địa phương trong giai đoạn hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Chế định các biện pháp ngăn chặn trong luật TTHS đã được nhiều nhà khoa học trong nước quan tâm nghiên cứu. Tiến sĩ Nguyễn Văn Nguyên có công trình "Các biện pháp ngăn chặn và những vấn đề nâng cao hiệu quả của
  • 10. 3 chúng" (Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội, 1995); Nguyễn Mai Bộ có công trình "Những biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự" (Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997); Luận án tiến sĩ của Nguyễn Văn Điệp "Các biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam trong tố tụng hình sự Việt Nam. Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp"; Luận án tiến sĩ của Nguyễn Trọng Phúc "Chế định các biện pháp ngăn chặn theo luật tố tụng hình sự Việt Nam"… Ngoài ra, còn có một số bài viết đăng trên các tạp chí Công an nhân dân, trật tự an toàn xã hội, tạp chí Tòa án nhân dân, tạp chí Dân chủ và pháp luật, tạp chí Kiểm sát… cũng đề cập đến vấn đề này. Trong các công trình nghiên cứu của, các học giả mới chỉ đề cập đến vấn đề lý luận chung về các biện pháp ngăn chặn hoặc phân tích các quy định của pháp luật thực định về các biện pháp đó. Các công trình khoa học mới chỉ nghiên cứu một cách tổng thể trên phạm vi rộng mà chưa đề cập đến những khó khăn vướng mắc và những giải pháp về việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội trên từng địa phương cụ thể và với những đặc trưng riêng của từng tỉnh. Cho đến nay vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu về thực tiễn áp dụng ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội ở tỉnh Hải Dương. Tình hình nghiên cứu trên cho thấy, vấn đề "Các biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành nhiên phạm tội (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Hải Dương)" cần tiếp tục được nghiên cứu, để có những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội không chỉ trên địa bàn tỉnh Hải Dương, mà còn có thể tham khảo áp dụng trên toàn quốc. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu các quy định của pháp luật về các biện pháp ngăn chặn và thực tiễn áp dụng đối với người chưa
  • 11. 4 thành niên phạm tội trên địa bàn tỉnh Hải Dương. Qua đó, phát hiện những khó khăn, vướng mắc, thiếu sót trong quá trình thực hiện của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, để đưa ra những giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội trên địa bàn tỉnh Hải Dương. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ chủ yếu sau: - Nghiên cứu làm rõ nhận thức chung về các biện pháp ngăn chặn và những quy định trong BLTTHS về các biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội. - Khảo sát, đánh giá việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội trên địa bàn tỉnh Hải Dương. - Đánh giá những kết quả đạt được, những tồn tại, thiếu sót, khó khăn, vướng mắc khi thực hiện các quy định của BLTTHS về các biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội. Đồng thời đưa ra các giải pháp khắc phục tồn tại đó và nâng cao hiệu quả áp dụng các biện pháp ngăn chặn trên thực tiễn. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu việc những vấn đề lý luận, quy định của pháp luật TTHS và thực trạng áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên là bị can, bị cáo. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Luận văn nghiên cứu quy định của BLTTHS Việt Nam về các biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên là bị can, bị cáo.
  • 12. 5 - Về địa bàn khảo sát: Luận văn chỉ khảo sát thực trạng áp dụng các biện pháp ngăn chặn áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội trên địa bàn tỉnh Hải Dương. - Về thời gian khảo sát: luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội trong giai đoạn 2009- 2013. 5. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng nhà nước pháp quyền, về chính sách nhân đạo đối với người chưa thành niên phạm tội, về vấn đề cải cách tư pháp, về công tác đấu tranh phòng chống tội phạm và các tội phạm do người chưa thành niên thực hiện. Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng các phương pháp cụ thể và đặc thù của khoa học Luật hình sự như: phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu, phương pháp diễn dịch, phương pháp quy nạp; nghiên cứu tâm lý lứa tuổi, phương pháp thống kê, điều tra xã hội học để đánh giá, hệ thống hóa hoạt động áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội. 6. Những điểm mới và đóng góp của luận văn Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa làm rõ hơn về phương diện lý luận và thực tiễn áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong TTHS Việt Nam hiện nay. Đề tài đã phân tích, đánh giá, tổng hợp thực tiễn áp dụng vác biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội trên địa bàn tỉnh Hải Dương. Qua đó, tìm ra những ưu điểm, hạn chế, thiếu sót, khó khăn, vướng mắc khi thực hiện. Đồng thời kiến nghị một số giải pháp nhằm nâng
  • 13. 6 cao hiệu quả áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội trên địa bàn tỉnh Hải Dương. Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật TTHS về việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội. Qua đó, nâng cao hiệu quả đấu tranh, phòng chống tội phạm, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân nhất là đối với người chưa thành niên. Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích dành cho không chỉ các nhà lập pháp, mà còn cho các nhà nghiên cứu, các cán bộ giảng dạy pháp luật, các nghiên cứu sinh, học viện cao học và sinh viên thuộc chuyên ngành tư pháp hình sự tại các cơ sở đào tạo luật. Kết quả nghiên cứu của luận văn còn phục vụ cho việc trang bị những kiến thức chuyên sâu cho các cán bộ thực tiễn đang công tác tại các Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát, Tòa án trong quá trình áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội được chính xác, khách quan. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên. Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội trên địa bàn tỉnh Hải Dương.
  • 14. 7 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN 1.1. NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI VÀ THỦ TỤC GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN 1.1.1. Người chưa thành niên phạm tội Người chưa thành niên là những người còn non nớt về thể chất và tinh thần, song họ chính là chủ nhân tương lai của đất nước nên cần được quan tâm chăm sóc đặc biệt. Trong lứa tuổi của mình, việc phạm sai lầm của những người chưa thành niên là hoàn toàn dễ hiểu vì họ chưa phát triển đầy đủ cả về thể chất và nhân cách, cho nên việc đấu tranh phòng chống tội phạm ở người chưa thành niên cũng cần có căn cứ trên cơ sở đặc điểm tâm lý người chưa thành niên. Điều 1 Công ước quốc tế về quyền trẻ em được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 20/11/1989 có ghi: "Trong phạm vi Công ước này, trẻ em có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật áp dụng đối với trẻ em có quy định tuổi thành niên sớm hơn" [33]. Ở Việt Nam, độ tuổi người chưa thành niên được xác định thống nhất trong Hiến pháp sửa đổi năm 2013, BLHS năm 1999, BLTTHS năm 2003, Bộ luật lao động, Bộ luật dân sự, Luật xử lý vi phạm hành chính và một số văn bản quy phạm pháp luật khác. Tất cả các văn bản pháp luật đó đều quy định tuổi của người chưa thành niên là dưới 18 tuổi và quy định riêng những chế định pháp luật đối với người chưa thành niên trong từng lĩnh vực cụ thể. Dưới góc độ là chủ thể của tội phạm thì tuổi của người chưa thành niên phạm tội được giới hạn hẹp hơn so với tuổi của người chưa thành niên trong các ngành luật khác, đó là từ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi. Theo Điều 68
  • 15. 8 BLHS 1999 quy định: “Người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của chương này, đồng thời theo những quy định khác của Phần chung Bộ luật không trái với những quy định của chương này” [41]. Như vậy một câu hỏi được đặt ra ở đây là tại sao pháp luật hình sự lại quy định độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên là 14 tuổi? Ở mỗi quốc gia trên thế giới có quy định độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên là rất khác nhau. Tuy nhiên việc quy định độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự giữa các quốc gia có thể khác nhau hoặc trùng nhau. Một số quốc gia quy định tuổi chịu trách nhiệm hình sự là 7 tuổi như Singapore, Jamaica… song trong pháp luật hình sự một số quốc gia khác như Đức, Nga, Nhật Bản là từ đủ 14 tuổi trở lên, trong khi đó ở Peru, Colombia…, tuổi chịu trách nhiệm hình sự là 18 tuổi trùng với tuổi xác định là thành niên. Sở dĩ, pháp luật hình sự mỗi quốc gia có quy định khác nhau như vậy là vì phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, cũng như sự phát triển của từng nước. Ở nước ta, pháp luật hình sự có quy định 14 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự là phù hợp với điều kiện kinh tế- xã hội. Trong độ tuổi này, người chưa thành niên phát triển nhanh về tâm sinh lý, họ đã ý thức được hành vi của mình, tự ý thức được đâu là đúng, là sai cũng như ý thức được được phần nào việc gì là đúng pháp luật, việc gì là sai trái, bị pháp luật cấm. Do đó, họ có nghĩa vụ phải chịu trách nhiệm về chính hành vi sai trái do mình thực hiện. Theo Điều 12 BLHS 1999 có sự phân hóa trách nhiệm hình sự trong lứa tuổi người chưa thành niên phạm tội, quy định: “Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”.
  • 16. 9 Như vậy, người chưa thành niên phạm tội và phải chịu trách nhiệm hình sự có thể là: - Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý, phạm tội đặc biệt nghiêm trọng. - Nguời từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm một tội được quy định trong Bộ luật hình sự. Điều 12 BLHS đã đưa ra độ tuổi tối thiểu phải chịu trách nhiệm hình sự là đủ 14 tuổi. Cũng trong BLHS, Điều 68 ghi nhận việc áp dụng BLHS đối với người chưa thành niên phạm tội đó là người từ đủ 14 tuổi dưới 18 tuổi. Điều này có nghĩa rằng, ở độ tuổi từ đủ 14 đến dưới 18 tuổi có thể phải gánh chịu hậu quả pháp lý bất lợi mà nhà nước áp dụng đối với hành vi nguy hiểm do các đối tượng này gây ra. Như vậy, tiêu chí để xác định trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên bao gồm: - Có hành vi phạm tội do người chưa thành niên thực hiện. - Người thực hiện hành vi phạm tội đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự tương ứng với loại tội phạmvà lỗi của người đó. - Các cơ quan có thẩm quyền đã cân nhắc tính cần thiết phải xử lý bằng hình sự mà không thể áp dụng các biện pháp tư pháp hoặc các biện pháp khác để quản lý, giáo dục và phòng ngừa tội phạm đối với người phạm tội. Chỉ khi nào hội tụ đủ ba điều kiện trên thì người chưa thành niên mới phải chịu trách nhiệm hình sự bằng hình phạt do Tòa án tuyên. Người chưa thành niên thực hiện tội phạm ngoài những dấu hiệu và yếu tố pháp lý còn được xác định bằng sự nhận định, cân nhắc cụ thể của cơ quan có thẩm quyền để quyết định truy cứu trách nhiệm hình sự và áp dụng hình phạt đối với họ. Tóm lại, trên cơ sở lập luận trên có thể đưa ra định nghĩa khoa học về người chưa thành niên phạm tội như sau: Người chưa thành niên phạm tội là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi, có năng lực trách nhiệm hình sự chưa
  • 17. 10 đầy đủ do sự hạn chế bởi các đặc điểm về tâm, sinh lý và đã có lỗi trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm. 1.1.2. Thủ tục giải quyết các vụ án là người chưa thành niên trong tố tụng hình sự Người chưa thành niên phạm tội theo quy định của Luật hình sự phải chịu trách nhiệm hình sự, do vậy cần phải có thủ tục tố tụng áp dụng. Thông thường, theo quy định của pháp luật, thủ tục TTHS đối với tội phạm nói chung và người chưa thành niên phạm tội nói riêng bao gồm các thủ tục điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Ngoài những thủ tục chung thì BLTTHS dành riêng một chương quy định về TTHS và chính sách xử lý đặc biệt với người chưa thành niên phạm tội (tại Chương XXXII, từ Điều 302 đến Điều 310). Người chưa thành niên phạm tội là ở lứa tuổi mà khả năng nhận thức về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội bị hạn chế và nhiều khi còn bị tác động mạnh của những điều kiện bên ngoài. Do đó, quá trình điều tra, truy tố, xét xử phải được tiến hành hết sức thận trọng, cụ thể và chính xác trên cơ sở xem xét đầy đủ các yếu tố của bản thân và những điều kiện bên ngoài tác động đến người đó. Điều 302 BLTTHS quy định về yêu cầu đối với Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán khi THTT phải xác định rõ các yếu tố về tuổi, trình độ phát triển về thể chất và tinh thần, mức độ nhận thức về hành vi phạm tội của người chưa thành niên; điều kiện sinh sống và giáo dục; có hay không có người thành niên xúi giục; nguyên nhân và điều kiện phạm tội. Quy định này không những phù hợp với đặc điểm của người chưa thành niên mà còn phù hợp với thực tế về những nguyên nhân khách quan tác động đến hành vi phạm tội của các em. Chính vì vậy, việc quy định về hiểu biết tâm sinh lý của người chưa thành niên đối với Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, cũng như các yếu tố liên quan đến nguyên nhân và điều kiện dẫn việc thực hiện hành vi phạm tội của các em là cần thiết.
  • 18. 11 Pháp luật TTHS có những quy định đặc biệt để áp dụng biện pháp ngăn chặn trong trường hợp bị can, bị cáo là người chưa thành niên. Đối với các biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam người chưa thành niên, ngoài những yêu cầu chung quy định tại các Điều 80, 81, 82, 86, 88 và 120 của BLTTHS, thì theo quy định tại Điều 303 BLTTHS và những quy định có liên quan thì việc áp dụng biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam đối với người chưa thành niên chỉ có thể được áp dụng đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi trong trường hợp họ phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng; đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi chỉ có thể áp dụng trong trường hợp họ phạm tội nghiêm trọng do cố ý, phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Về việc giám sát bị cáo là người chưa thành niên: theo quy định tại Điều 304 BLTTHS thì nếu xét thấy việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên là không cần thiết, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án có thể ra quyết định giao bị can, bị cáo chưa thành niên cho cha mẹ, người đỡ đầu của họ giám sát để đảm bảo sự có mặt của bị can, bị cáo khi có giấy triệu tập của cơ quan THTT. Những người được giao nhiệm vụ giám sát có nghĩa vụ giám sát chặt chẽ người chưa thành niên, theo dõi tư cách, đạo đức và giáo dục người đó. Về thi hành án phạt tù: Theo quy định thì không được áp dụng chế độ tạm giữ người chưa thành niên như đối với người đã thành niên, mà họ phải được giam giữ riêng, các chế độ với người chưa thành niên cũng được ưu ái hơn. Pháp luật quy định về chế độ học văn hóa, đào tạo nghề nghiệp… để giúp đỡ các em bổ túc trình độ văn hóa, tạo dựng nghề nghiệp đảm bảo khi ra trường các em có nghề nghiệp ổn định. Điều này cũng có ý nghĩa trong công tác phòng chống tội phạm ở tuổi vị thành niên.
  • 19. 12 1.2. BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN ÁP DỤNG ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN TRONG QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÌNH SỰ 1.2.1. Khái niệm về các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, các cơ quan THTT được áp dụng nhiều biện pháp trong đó có các biện pháp ngăn chặn. Các biện pháp ngăn chặn là một trong những chế định pháp lý quan trọng được quy định tại Chương VI BLTTHS năm 2003. Việc nhận thức thống nhất, đồng thời quy định và áp dụng đúng đắn các biện pháp ngăn chặn là bảo đảm cần thiết cho việc thực hiện tốt các nhiệm vụ của TTHS để phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Trong lịch sử pháp luật TTHS Việt Nam, mặc dù chưa có quy phạm định nghĩa về khái niệm biện pháp ngăn chặn, nhưng các biện pháp ngăn chặn đã được quy định trong các văn bản pháp luật TTHS nước ta ngay từ sau Cách mạng tháng Tám. Những biện pháp này được quy định trong luật số 103-SL/005 ngày 20/05/1957 về đảm bảo quyền tự do thân thể và quyền bất khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ vật, thư tín của nhân dân, Sắc lệnh số 02-SL ngày 15/03/1957 của Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã quy định các biện pháp ngăn chặn gồm bắt bình thường, bắt khẩn cấp, bắt người phạm pháp quả tang, tạm giữ và tạm giam. Tuy nhiên, trong các văn bản pháp luật này không có quy phạm định nghĩa về biện pháp ngăn chặn mà dùng thuật ngữ biện pháp cưỡng chế để chỉ nội dung biện pháp ngăn chặn trong luật TTHS hiện hành. Kế thừa có chọn lọc và tiếp tục phát triển luật TTHS của nhà nước ta sau Cách mạng tháng Tám đến nay, BLTTHS hiện hành quy định những biện pháp ngăn chặn trong Chương VI bao gồm: bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh và đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để đảm bảo.
  • 20. 13 Những biện pháp ngăn chặn mang tính cưỡng chế nghiêm khắc để kịp thời ngăn chặn hành vị phạm tội, ngăn ngừa người phạm tội, bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành vi gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử cũng như đảm bảo thi hành án. Các biện pháp ngăn chặn là cơ sở pháp lý có ý nghĩa tạo điều kiện thuận lợi cho việc phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm, đồng thời, là biện pháp hạn chế một số quyền và tự do cá nhân nên vấn đề này được quan tâm không những từ phía các nhà lập pháp mà cả những nhà nghiên cứu khoa học luật TTHS ở trong nước cũng như nước ngoài. Các chuyên gia luật học của nước ngoài có những khái niệm khác nhau về các biện pháp ngăn chặn. Z.B Enhikeev cho rằng: "Các biện pháp ngăn chặn là một phạm trù đặc biệt, có ý nghĩa phòng ngừa". Tác giả đã đúng khi xác định biện pháp ngăn chặn có ý nghĩa phòng ngừa, nhưng lại không đề cập đến căn cứ áp dụng, đối tượng áp dụng, cũng như chủ thể có quyền áp dụng. M.S.Strogovich thì cho rằng: "Các biện pháp ngăn chặn là những biện pháp cưỡng chế hạn chế tự do của bị cáo với mục đích ngăn ngừa sự trốn tránh việc điều tra, xét xử". Tác giả đã đúng khi cho rằng các biện pháp ngăn chặn là những cưỡng chế hạn chế tự do của bị cáo, nhưng có sự nhầm lẫn giữ mục đích và căn cứ áp dụng chúng. Những khái niệm khoa học trên về biện pháp ngăn chặn của các nhà luật học nước ngoài có những quan điểm khác nhau. Tuy nhiên, chúng đã phản ánh được khái quát những đối tượng nghiên cứu mà chúng ta cần tham khảo, tiếp thu như: quan niệm về bản chất pháp lý của biện pháp ngăn chặn; sự cưỡng chế nhưng mang tính chất phòng ngừa, quyền lựa chọn biện pháp ngăn chặn trong TTHS. Trong khoa học luật TTHS Việt Nam cũng có những khái niệm khác nhau về biện pháp ngăn chặn. Theo Từ điển Luật học giải thích biện pháp ngăn chặn là: Biện pháp cưỡng chế về mặt tố tụng hình sự áp dụng khi có
  • 21. 14 đủ căn cứ đối với bị can, bị cáo hoặc người chưa bị khởi tố trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang để ngăn chặn hành vi nguy hiểm cho xã hội của họ, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành động gây cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án [58, tr.69]. Từ điển đã xác định đúng đối tượng và mục đích áp dụng các biện pháp ngăn chặn, nhưng không chỉ ra chủ thể có quyền áp dụng chúng. Tiến sĩ Nguyễn Văn Điệp cho rằng: Biện pháp ngăn chặn là biện pháp cưỡng chế cần thiết về mặt tố tụng hình sự, do các cơ quan và những người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật áp dụng đối với bị can, bị cáo hoặc người chưa bị khởi tố khi có căn cứ do Bộ luật tố tụng hình sự quy định nhằm ngăn chặn tội phạm, bảo đảm cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Các biện pháp ngăn chặn bao gồm: bắt người, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm [22, tr.26]. Khái niệm này đã đúng khi chỉ ra bản chất cưỡng chế của biện pháp ngăn chặn, nhưng lại không nói đến mục đích ngăn ngừa phạm tội mới. Ngoài ra, còn một số khái niệm khác nữa về biện pháp ngăn chặn của các nhà khoa học nghiên cứu pháp luật, cán bộ làm công tác thực tiễn phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm được công bố trong các giáo trình luật TTHS Việt Nam, sách chuyên khảo, tạp chí chuyên ngành luật học. Các khái niệm đó đều dựa trên cơ sở phân tích nội dung của các quy phạm pháp luật tại Điều 61 BLTTHS năm 1988 và Điều 79 BLTTHS 2003, cũng như thực tiễn áp dụng chúng trong công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm. Những khái niệm trên đã nêu lên được những khía cạnh của các biện pháp ngăn chặn và tương đối thống nhất đề cập đến bản chất pháp lý của chúng là sự cưỡng chế nhà nước. Tuy nhiên, nó vẫn chưa đầy đủ, khoa học
  • 22. 15 chứa đựng tất cả các đặc điểm của biện pháp ngăn chặn. Cho đến nay, trong BLTTHS 2003 vẫn chưa có quy phạm nào định nghĩa về biện pháp ngăn chặn, bởi vậy, vẫn còn những ý kiến khác nhau về vấn đề này. Mặc dù các biện pháp ngăn chặn hạn chế tạm thời tự do đối với người bị áp dụng, nhưng xét về bản chất pháp lý, nó không phải là hình thức thực hiện trách nhiệm hình sự, vì người bị áp dụng các biện pháp ngăn chặn là khi chưa có bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Chúng chỉ là các phương tiện hỗ trợ cho việc thực hiện trách nhiệm hình sự. Mặt khác, cũng không nên đồng nhất các biện pháp ngăn chặn với hình phạt. Cơ sở pháp lý của việc áp dụng hình phạt là việc thực hiện tội phạm, còn cơ sở pháp lý để áp dụng biện pháp ngăn chặn là những tài liệu, chứng cứ về việc bị can, bị cáo có thể trốn tránh việc điều tra, truy tố, xét xử, tiếp tục phạm tội hoặc cản trở việc thi hành án. Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất chỉ do Tòa án quyết định, còn các biện pháp ngăn chặn có thể do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án áp dụng tùy theo giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử. Ngoài ra, mục đích của hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội, giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội, mà còn mục đích giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, trong khi đó các biện pháp ngăn chặn chỉ có mục đích phòng ngừa và tạo điều kiện để làm rõ tội phạm và xử lý người phạm tội. Đối tượng bị áp dụng biện pháp ngăn chặn là bị can, bị cáo, người phạm tội quả tang hoặc người mà các cơ quan THTT có tài liệu, chứng cứ nghi là họ phạm tội. Khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn, các cơ quan có thẩm quyền chỉ được tiến hành trong phạm vi giới hạn cũng như thủ tục mà pháp luật TTHS quy định. Thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn là những người THTT có thẩm quyền thuộc Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án hoặc người có chức vụ trong các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số biện pháp điều tra, công dân tham gia vào việc bắt người phạm
  • 23. 16 tội quả tang. Mọi hành vi áp dụng biện pháp ngăn chặn không đúng đối tượng, thẩm quyền, căn cứ, cũng như thủ tục đều bị coi là vi phạm pháp luật vó thể bị xử lý theo quy định của pháp luật. Từ những sự phân tích ở trên, có thể đưa ra khái niệm biện pháp ngăn chặn như sau: Biện pháp ngăn chặn là biện pháp cưỡng chế nhà nước mang tính phòng ngừa do người có thẩm quyền được quy định trong BLTTHS áp dụng đối với bị can, bị cáo, người phạm tội quả tang hoặc người bị nghi là phạm tội nhằm ngăn chặn kịp thời hành vi phạm 1.2.2. Khái niệm biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc đấu tranh phòng, chống tội phạm, pháp luật TTHS của Nhà nước ta quy định nhiều biện pháp cưỡng chế khác nhau. Những biện pháp cưỡng chế trong TTHS có nội dung tương đối rộng và cụ thể, chia thành ba nhóm: - Nhóm 1: những biện pháp ngăn chặn tội phạm như: bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cứ trú, bảo lĩnh và đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để đảm bảo. - Nhóm 2: gồm những biện pháp bảo đảm cho việc thu thập chứng cứ như khám xét người, khám xét chỗ ở, địa điểm nơi làm việc, khám nghiệm hiện trường, xem xét dấu vết trên thân thể… - Nhóm 3: gồm những biện pháp bảo đảm sự thuận lợi cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án như kê biên tài sản, áp giải bị can, bị cáo, người bị kết án, dẫn giải người làm chứng, những biện pháp xử lý do thẩm phán chủ tọa phiên tòa áp dụng đối với người có hành vi vi phạm nội quy phiên tòa. Những biện pháp ngăn chặn là một trong những nhóm của biện pháp cưỡng chế. Những biện pháp ngăn chặn mang tính cưỡng chế nghiêm khắc để kịp thời ngăn chặn hành vi phạm tội, ngăn ngừa người phạm tội, bị can, bị cáo
  • 24. 17 tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành vi gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử cũng như để đảm bảo thi hành án. Những biện pháp ngăn chặn khi được áp dụng sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến các quyền cơ bản của công dân được ghi nhận Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác. Theo quy định của BLHS thì người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự, trong đó người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý (mức cao nhất của khung hình phạt đến 15 năm tù) hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng (mức cao nhất của khung hình phạt trên 15 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình); người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm. Tuy nhiên, người chưa thành niên là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất và tâm thần, là những đối tượng dễ bị tổn thương, là người ở lứa tuổi mà khả năng nhận thức về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội bị hạn chế và nhiều khi còn bị tác động bởi yếu tố bên ngoài, khách quan khác. Do vậy, BLTTHS đã dành hẳn một chương riêng để quy định về thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên, trong đó có quy định về các biện pháp ngăn chặn. Từ những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm biện pháp ngăn chặn áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội như sau: Biện pháp ngăn chặn áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội là biện pháp cưỡng chế trong TTHS do người có thẩm quyền áp dụng đối với bị can, bị cáo, người bị truy nã hoặc đối với những người chưa bị khởi tố (trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang) và từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi nhằm ngăn chặn những hành vi nguy hiểm cho xã hội của họ, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành động cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. 1.2.3. Đặc điểm áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên Dựa trên khái niệm biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành
  • 25. 18 niên phạm tội, chúng ta có thể rút ra được một số đặc điểm khi áp dụng các biện pháp này đối với người chưa thành niên như sau: - Biện pháp ngăn chặn là biện pháp cưỡng chế trong TTHS bao gồm 6 biện pháp: bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản để đảm bảo nhằm cho phép lựa chọn tối ưu trong từng trường hợp cụ thể, đáp ứng yêu cầu của hoạt động TTHS cũng như lợi ích của những người tham gia tố tụng. - Do người có thẩm quyền áp dụng: chủ thể không chỉ là Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, và Tòa án mà một số chủ thể khác cũng có quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn như người chỉ huy đồn biên phòng, chỉ huy máy bay, tàu biển…, chủ thể áp dụng là căn cứ phân biệt biện pháp ngăn chặn trong TTHS và biện pháp ngăn chặn trong hành chính. - Đối tượng bị áp dụng là bị can, bị cáo và cũng có thể là người chưa bị khởi tố về hình sự. - Mục đích chung nhất của biện pháp ngăn chặn là ngăn chặn hành vi tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự. Do phạm vi trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên hẹp hơn so với người thành niên, phạm vi áp dụng các biện pháp ngăn chặn của đối tượng này cũng hạn hẹp hơn, tuy nhiên nhìn chung vẫn bao gồm các biện pháp ngăn chặn cơ bản là: bắt, tạm giữ, tạm giam (quy định tại các Điều 80, 81, 82, 86, 88 và Điều 303 BLTTHS); cấm đi khỏi nơi cư trú (Điều 91); bảo lĩnh (Điều 92); đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để đảm bảo (Điều 93); ngoài ra còn có biện pháp giám sát, biện pháp đặc thù đối với bị can chưa thành niên (Điều 304). Việc áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội, nhìn chung về căn cứ, thẩm quyền, thủ tục và thời hạn áp dụng là tương tự như người thành niên. Riêng ba biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam đối
  • 26. 19 với người chưa thành niên có giới hạn áp dụng hẹp hơn, đồng thời khi áp dụng phải đáp ứng yêu cầu về xác định được độ tuổi của đối tượng áp dụng và chủ thể áp dụng phải là người có hiểu biết về tâm sinh lý của người chưa thành niên. 1.3. BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI TRONG VIỆC ÁP DỤNG BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN 1.3.1. Các tiêu chí quốc tế về quyền con người của người chưa thành niên trong tố tụng hình sự Kể từ khi Liên hợp quốc ra đời, năm 1945, đặc biệt từ khi Bộ luật quốc tế về quyền con người (bao gồm Tuyên ngôn thế giới về quyền con người 1948; Công ước quốc tế về quyền dân sự, chính trị 1966; Công ước quốc tế các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa 1966), quyền con người đã vượt khỏi phạm vi quốc gia trở thành Luật Quốc tế. Bên cạnh đó, ở tất cả các quốc gia, từ xưa đến nay, trẻ em là đối tượng được quan tâm, chăm sóc đặc biệt kể cả khi họ vi phạm pháp luật, thì nhân loại luôn dành cho các em sự cảm thông chia sẻ, giúp các em trở lại với cuộc sống bình thường, giúp đỡ các em khẳng định tư cách của mình trong gia đình và xã hội, trong học tập và lao động, bởi vậy, Liên hợp quốc đã ban hành nhiều văn kiện về tư pháp người chưa thành niên như: Công ước về quyền trẻ em năm 1989 cùng với hai Nghị định thư không bắt buộc của công ước này (Nghị định thư về “sử dụng trẻ em trong xung đột vũ trang”, Nghị định thư về “buôn bán trẻ em, mại dâm trẻ em và văn hóa phẩm khiêu dâm”, đều được Việt Nam phê chuẩn ngày 20/12/2001); Những quy tắc tối thiểu của Liên hợp quốc về áp dụng pháp luật đối với Người chưa thành niên còn gọi là Quy tắc Bắc Kinh, được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 20/11/1985; Hướng dẫn Riyadh, được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 24/12/1990; Những quy tắc tối thiểu, phổ biến của Liên hợp quốc về bảo vệ người chưa thành niên bị tước quyền tự do, được Liên hợp quốc thông qua ngày 14/12/1990.
  • 27. 20 Nội dung các quy định nêu trong các Công ước, quy tắc có tính đến sự đa dạng và cơ cấu pháp luật của các quốc gia, phản ánh mục đích và tinh thần của tư pháp người chưa thành niên, đề ra những nguyên tắc mong muốn và thông lệ đối với việc quản lý người chưa thành niên phạm tội; đồng thời đảm bảo rằng, trong quá trình thực thi và áp dụng pháp luật thì quyền của người chưa thành niên, kể cả trong trường hợp họ là đối tượng thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội không bị vi phạm. Để thực hiện được mong muốn và tinh thần nêu trên, Công ước và một số quy tắc, hướng dẫn khác đã thể hiện khá đầy đủ và tập trung các quyền cụ thể của người chưa thành niên phạm tội cũng như những lưu ý đối với việc xây dựng hệ thống pháp luật và việc áp dụng pháp luật nhằm bảo đảm quyền con người, quyền trẻ em của người chưa thành niên khi các em phạm tội. Điều 37 của Công ước quy định người chưa thành niên phải được bảo vệ tránh khỏi bị tra tấn, phân biệt đối xử hoặc trừng phạt tồi tệ, vô nhân đạo cũng như những hành vi làm mất phẩm giá. Người chưa thành niên chỉ bị bắt, bị giam giữ và áp dụng hình phạt khi không thể áp dụng các biện pháp thay thế. Trong trường hợp bị giam giữ, các em phải được đối xử nhân đạo và việc giam giữ theo chế độ riêng phù hợp với sự phát triển của lứa tuổi về cả tâm và sinh lý. Điều 40 của Công ước có nêu ra một nguyên tắc chung định hướng hành động có liên quan tới người chưa thành niên phạm tội như sau: “Mọi trẻ bị cáo buộc, buộc tội hoặc bị coi là vi phạm luật hình sự đều có quyền được đối xử phù hợp với sự phát triển ý thức về nhân phẩm và phẩm chất của trẻ. Sự phát triển ý thức đó giúp tăng thêm ý thức tôn trọng các quyền con người và quyền tự do cơ bản của người khác; giúp xem xét khía cạnh lứa tuổi của trẻ và mong muốn của chúng về sự tái hoà nhập cộng đồng” [33]. Quy tắc Bắc Kinh đề ra các tiêu chuẩn tối thiểu, toàn diện về việc áp dụng pháp luật với người chưa thành niên. Các quy tắc này hướng dẫn các
  • 28. 21 quốc gia thành viên khi xây dựng các hệ thống tư pháp riêng cho người chưa thành niên theo nghĩa vụ được quy định tại Điều 40 của Công ước về quyền trẻ em. Nội dung của điều này là cơ sở để các quốc gia thành viên xây dựng và ban hành các luật, quy tắc, thể chế để áp dụng riêng đối với người chưa thành niên phạm tội, và bảo vệ các quyền cơ bản của họ. Hướng dẫn Riát đưa ra cách tiếp cận phòng ngừa tội phạm tích cực, toàn diện và đặt người chưa thành niên là trung tâm. Cách tiếp cận này hướng tới giải quyết các nguyên nhân xã hội căn bản dẫn đến hành vi phạm tội của người chưa thành niên. Phòng ngừa không chỉ được coi là vấn đề giải quyết các tình trạng tiêu cực thông qua các cơ quan chức năng và các cơ chế kiểm soát xã hội, mà thay vào đó, Hướng dẫn này còn ủng hộ cách tiếp cận dựa trên việc tích cực thúc đẩy sự phát triển và sức khỏe của các em từ khi các em còn nhỏ. Chiến lược phòng ngừa người chưa thành niên phạm tội tốt nhất là chiến lược phòng ngừa có nhiều biện pháp để thúc đẩy quyền của người chưa thành niên và tăng cường sự phát triển cộng đồng, nhằm giải quyết vấn đề đói nghèo và sự cách ly các em với xã hội. Hướng dẫn Riát khuyến nghị việc phòng ngừa phạm tội ở người chưa thành niên cần được chính thức hóa ở mọi cấp chính quyền. Hoạt động phòng ngừa cần xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan, sự phối kết hợp giữa các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và các đoàn thể quần chúng, sự tham gia của cộng đồng thông qua một loạt các dịch vụ và chương trình, hợp tác liên ngành giữa các chủ thể trong toàn xã hội và sự tham gia của người chưa thành niên vào quá trình xây dựng tất cả các chính sách phòng ngừa tội phạm. Tóm lại, quyền của người chưa thành niên phạm tội là vấn đề nhạy cảm, luôn luôn có nguy cơ bị xâm hại, cho nên pháp luật quốc tế bằng những quy định, khuyến nghị của mình tạo ra các điều kiện, trình tự khác nhau, một mặt buộc các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền phải tuân theo, mặt khác tạo cơ
  • 29. 22 sở vững chắc cho chính người chưa thành niên bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. 1.3.2. Bảo vệ quyền của người chưa thành niên khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn Ở Việt Nam, bảo đảm quyền của người chưa thành niên phạm tội là bảo đảm cho những quy định của pháp luật về người được thực hiện trên thực tế, phù hợp với thông lệ quốc tế; đồng thời bảo vệ quyền của người chưa thành niên phạm tội khi có sự xâm hại, sự vi phạm quyền của các em từ các cơ quan, các chủ thể thực hiện việc xem xét, xử lý hành vi phạm tội của người chưa thành niên. Hiện nay, trong pháp luật hình sự, tố tụng hình sự, hàng loạt các chế định pháp luật mang tính cá biệt nhằm bảo đảm quyền của người chưa thành niên phạm tội, trong đó có chế định về các biện pháp ngăn chặn. Các biện pháp ngăn chặn trong BLTTHS là một chế định có vai trò hết sức quan trọng, chúng đảm bảo cho việc đấu tranh phòng ngừa, chống tội phạm có hiệu quả, bảo đảm hoạt động của các cơ quan thực hiện tố tụng được thuận lợi, thể hiện sự chuyên chính của Nhà nước XHCN trong việc đấu tranh, phòng chống tội phạm. Việc quy định các biện pháp ngăn chặn trong BLTTHS thể hiện sự nghiêm minh của Nhà nước trong việc ngăn chặn chống tội phạm, không để cho người có hành vi phạm tội bỏ trốn, tiếp tục phạm tội hoặc tiêu hủy tài liệu, chứng cứ, gây khó khăn cho hoạt động điều tra, xét xử tội phạm. Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, gây ra hoặc đe dọa gây ra những thiệt hại đáng kể cho các quan hệ xã hội được Luật hình sự bảo vệ. Tội phạm trực tiếp hoặc gián tiếp xâm hại đến sự bền vững và ổn định của chế độ chính trị, chế độ kinh tế - xã hội, đến tính mạng, sức khỏe, tự do, danh dự, nhân phẩm và tài sản của công dân cũng như những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật XHCN. Vì vậy, Nhà nước ta luôn chú trọng công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, ngăn chặn kịp thời, xử lý nghiêm minh, nhằm tiến tới loại trừ tội
  • 30. 23 phạm ra khỏi đời sống xã hội. Áp dụng đúng đắn các biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội góp phần quan trọng trong việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân được quy định trong Hiến pháp như quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền tự do cư trú và đi lại…. Vì vậy, khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn, các cơ quan có thẩm quyền cần có thái độ đối xử với người chưa thành niên là bị can, bị cáo như công dân bình thường, không định kiến với những tiêu cực trong quá khứ của họ vì họ chưa phải là người bị kết tội. Ngoài ra, việc áp dụng các biện pháp đối với người chưa thành niên còn góp phần ngăn chặn người chưa thành niên tiếp tục phạm tội, gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử và đảm bảo thi hành án. Đồng thời góp phần bảo đảm cho việc giải quyết vụ án hình sự được khách quan, toàn diện, đầy đủ và đúng pháp luật. KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 1. Người chưa thành niên là những người còn non nớt về thể chất và tinh thần, trong khi đây là thế hệ chủ nhân tương lai của đất nước nên họ cần được quan tâm đặc biệt. Trong lứa tuổi của mình, việc phạm sai lầm của người chưa thành niên là hoàn toàn dễ hiểu và có thể coi đây là một phần của quá trình phát triển của người chưa thành niên. 2. Biện pháp ngăn chặn áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội là một chế định quan trọng trong Luật TTHS. Đây là chế định thể hiện nguyên tắc nhân đạo sâu sắc của pháp luật TTHS đối với người chưa thành niên phạm tội. Việc xây dựng chế định này là dựa trên các tiêu chí quốc tế cũng như chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Qua đó, cho thấy chính sách hình sự của nước ta đối với bị can, bị cáo là người chưa thành niên thể hiện tính nhân đạo rõ nét, bảo vệ tốt nhất các quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên. 3. Việc làm rõ các khái niệm về các biện pháp ngăn chặn; khái niệm,
  • 31. 24 người chưa thành niên phạm tội và đặc điểm áp dụng các biện pháp ngăn chặn áp dụng đối với họ sẽ là tiền đề để nghiên cứu thực tiễn áp dụng các biện pháp đó đối với người chưa thành niên phạm tội trong chương kế tiếp. 4. Các biện pháp ngăn chặn áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội bao gồm: bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cứ trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để đảm bảo.
  • 32. 25 Chương 2 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI 2.1. PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI 2.1.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 đến trước khi ban hành bộ luật tố tụng hình sự 1988 Từ sau Cách mạng tháng Tám thành công đến trước khi ban hành BLTTHS 1988 là thời kỳ Nhà nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa mà sau này là Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam vừa phải tiến hành hai cuộc kháng chiến trường kỳ nhằm bảo vệ độc lập dân tộc, vừa phải tiến hành công cuộc xây dựng đất nước. Trong tình hình ấy, công tác xây dựng pháp luật nói chung cũng như pháp luật hình sự nói riêng vẫn được chú trọng. Cho đến trước khi BLTTHS 1988 được ban hành thì chế định các biện pháp ngăn chặn chưa được ghi nhận với tính chất là một chế định độc lập trong pháp luật hình sự, tuy nhiên thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự và một số văn bản pháp lý đã được thừa nhận và áp dụng đã đề cập đến các biện pháp ngăn chặn được áp dụng cho cả người chưa thành niên phạm tội. Chúng ta có thể kể đến một số văn bản được ban hành trước khi có BLTTHS 1988 có đề cập đến vấn đề các biện pháp ngăn chặn: - Sắc lệnh 13/SL ngày 24/01/1946 về cách tổ chức các tòa án và các ngạch thẩm phán; - Sắc lệnh 131/SL ngày 20/7/1946 về việc khám xét nhà tư nhân; Trong hai văn bản pháp luật này có một số nội dung liên quan đến các biện pháp ngăn chặn như: + “Ban tư pháp xã không có quyền tịch thu tài sản của ai, cũng không
  • 33. 26 có quyền bắt bớ, giam giữ trừ khi có trát nã của Thẩm phán hay khi thấy một người phạm tội quả tang” và “để đảm bảo quyền tự do thân thể của công dân, nghiêm cấm việc bắt giam trái pháp luật, trừ những trường hợp phạm pháp quả tang phải đưa ngay người bị bắt lên huyện, không được giữ ở xã quá 24 tiếng đồng hồ”[12, tr.479] + Trong trại tạm giam nên giam riêng biệt đối tượng đang bị giam cứu để điều tra với các đối tượng bị kết án như: những người bị giam cứu; chính trị phạm; những người bị an trí; những phạm nhân nguy hiểm hoặc hung dữ không chịu hối cải (có thể giam vào biệt lao); những phạm nhân là đàn bà [51, tr.46]. - Luật 103/SL-L005 ngày 20/5/1957 về đảm bảo quyền tự do thân thể và quyền bất khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ vật, thư tín của nhân dân. Luật đã đề cập đến nguyên tắc bảo đảm quyền bất khả xâm phạm thân thể của công dân, thủ tục, thẩm quyền ra lệnh bắt người như: + “Quyền tự do thân thể và quyền bất khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ vật, thư tín của nhân dân được tôn trọng và bảo đảm”. [37, tr.110] + Bắt người phạm đến luật phải có lệnh của cơ quan tư pháp cấp tỉnh hoặc cấp thành phố trở lên nếu là thường dân hoặc Viện kiểm sát quân sự, Tòa án quân sự nếu là quân nhân phạm tội; Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc Trung ương trở lên. Riêng đối với các tỉnh phía Nam, Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện trở lên có quyền ra lệnh bắt giam người phạm tội trong những vụ án hình sự đang thụ lý; Trưởng và Phó cơ quan Công an nhân dân từ cấp tỉnh trở lên có quyền ra lệnh bắt giam người, lệnh phải được phê chuẩn chính xác của Viện kiểm sát [37, tr.111]. + “Đối với người phạm pháp quả tang, bất cứ người nào cũng có quyền bắt và phải giải ngay đến Uỷ ban hành chính, Tòa án nhân dân hoặc đồn Công an nơi gần nhất” [37, tr.111].
  • 34. 27 - Sắc lệnh 002/SL-T ngày 18/6/1957 quy định những trường hợp phạm pháp quả tang, những trường hợp khẩn cấp và những trường hợp khám người phạm pháp quả tang. + Các trường hợp bắt quả tang gồm: đang làm việc phạm pháp hoặc ngay sau khi phạm pháp, thì bị phát giác ngay; đang bị đuổi bắt ngay sau khi phạm pháp; đang bị giam giữ mà lẩn trốn; đang có lệnh truy nã. [37, tr.117] + Các trường hợp bắt khẩn cấp gồm: có hành động chuẩn bị làm việc phạm pháp; người bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra vụ phạm pháp chính mắt trông thấy và xác nhận đúng là kẻ phạm pháp; tìm thấy chứng cớ phạm pháp trong người hoặc tại nhà ở của kẻ tình nghi phạm pháp; có hành động chuẩn bị, hoặc đang trốn; có hành động chuẩn bị tiêu hủy chứng cớ, làm giả chứng cớ; có sự thông đồng giữa những kẻ phạm pháp với nhau để trốn tránh pháp luật; căn cước, lai lịch không rõ ràng. [37, tr.117] - Sắc lệnh luật số 02/SL-76 ngày 15/03/1976 quy định về bắt, giam, khám người, khám nhà ở, đồ vật. 2.1.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 đến trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 Ngày 28/6/1988, Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, khóa VIII đã thông qua BLTTHS có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/1989 quy định một chương V độc lập, với 14 điều luật từ Điều 61 đến Điều 77 để điều chỉnh những nội dung cơ bản của hệ thống các biện pháp ngăn chặn, trong đó, có một số khác biệt so với các văn bản pháp luật trước đó, cụ thể là: - Điều 64 chỉ quy định ba trường hợp và thay thế trường hợp thứ tư là bắt người đang lẩn trốn thành bắt người bị truy nã, đồng thời, điều chỉnh bốn trường hợp này trong cùng một điều luật; - Điều 63 chỉ quy định ba trường hợp bắt khẩn cấp; - Quy định thêm bốn biện pháp ngăn chặn mới, gồm: cấm đi khỏi nơi
  • 35. 28 cư trú theo Điều 74; bảo lĩnh theo Điều 75; đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để đảm bảo theo Điều 76. Việc thu hẹp phạm vi căn cứ bắt người trong trường hợp khẩn cấp và quy định them một số biện pháp ngăn chặn mới thể hiện sự quan tâm của Nhà nước ta đối với vấn đề bảo vệ quyền và tự do cá nhân, đồng thời, đề cao trách nhiệm của cơ quan THTT đối với việc ngăn chặn tội phạm. Ngoài những quy định chung, BLTTHS 1988 cũng đã dành một phần ở chương 31 quy định về thủ tục tố tụng mà bị can bị cáo là người chưa thành niên. Trong đó Điều 272 có quy định khi điều tra, truy tố, xét xử những vụ án mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên thì Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán phải là những người hiểu biết về tâm lý học, khoa học giáo dục cũng như về hoạt động đấu tranh phòng và chống tội phạm của người chưa thành niên. Đối với việc bắt, tạm giữ, tạm giam người chưa thành niên phải căn cứ theo Điều 62, 63, 64, 68, 71 BLTTHS nhưng chỉ trong trường hợp phạm tội nghiêm trọng (tức là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên 5 năm, chung thân hoặc tử hình). 2.2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH QUY ĐỊNH VỀ CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN Bộ luật hình sự năm 1999 từ Điều 69 đến Điều 77 là những quy định đối với người chưa thành niên phạm tội. Điều 12 BLHS đã định rõ tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên. Điều 69 quy định những nguyên tắc cơ bản về xử lý những hành vi phạm tội của người chưa thành niên, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần phải thận trọng khi xử lý phải xác định rõ tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội, lấy biện pháp giáo dục, phòng ngừa là chính và chỉ áp dụng hình phạt khi cần thiết, không tử hình và phạt tù chung thân đối với người chưa thành niên phạm tội. Tại các điều 70,
  • 36. 29 71, 72, 73, 74 nêu lên những biện pháp tư pháp về hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội đã thể hiện sự coi trọng công tác phòng ngừa, lấy giáo dục thuyết phục là chính trong đó có biện pháp tư pháp, giáo dục, phòng ngừa do Tòa án quy định gồm buộc phải chịu thử thách, đưa vào trường giáo dưỡng. Đây là những căn cứ pháp lý để tiến hành tổ chức các hoạt động phòng ngừa, không để tội phạm xảy ra và khi đã xảy ra phải điều tra, xử lý người chưa thành niên phạm tội cho đúng pháp luật. Cùng với các quy định của BLHS 1999, BLTTHS 2003 cũng dành toàn bộ Phần thứ 7 thủ tục đặc biệt và Chương XXXII quy định thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên phạm tội. Từ Điều 301 đến Điều 310 trong đó Điều 302 quy định về điều tra, truy tố, xét xử yêu cầu: Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán THTT đối với người chưa thành niên phạm tội phải là người có những hiểu biết cần thiết về tâm lý học, khoa học giáo dục cũng như về hoạt động đấu tranh, phòng chống tội phạm của người chưa thành niên. Điều này tránh được những sai lầm, lệch lạc khi xem xét, đánh giá, xử lý những hành vi phạm tội do người chưa thành niên gây ra. Bên cạnh đó các chủ thể khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử cần phải xác định rõ: Tuổi, trình độ phát triển về thể chất và tinh thần, mức độ nhận thức về hành vi phạm tội của người chưa thành niên, điều kiện sinh sống và giáo dục, có hay không có người thành niên xúi giục, nguyên nhân và điều kiện phạm tội. Các biện pháp ngăn chặn được áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội bao gồm: bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có gí trị để đảm bảo và giám sát đối với người chưa thành niên phạm tội. 2.2.1. Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về bắt người chưa thành niên phạm tội Bắt bị can, bị cáo là người chưa thành niên phạm tội để tạm giam là bắt người sau khi có lệnh tạm giam hoặc quyết định của cơ quan hoặc người
  • 37. 30 có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. * Bắt bị can, bị cáo là người chưa thành niên để tạm giam Căn cứ bắt bị can, bị cáo là người chưa thành niên phạm tội để tạm giam được quy định tại Điều 80 và Điều 303 BLTTHS. Để bắt bị can, bị cáo là người chưa thành niên phạm tội từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi để tạm giam phải có đủ các điều kiện sau đây: Một là, có lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam của những người có thẩm quyền; Hai là, người chưa thành niên bị bắt để tạm giam phải là bị can, bị cáo phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc là phạm tội đặc biệt nghiêm trọng. Để bắt bị can, bị cáo là người chưa thành niên phạm tội từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi cũng phải có đủ các điều kiện nói trên. Trong đó điều kiện thứ nhất giống như đối với người chưa thành niên phạm tội từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi. Còn điều kiện thứ hai là, người chưa thành niên phạm tội bị bắt để tạm giam phải là bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng do cố ý, tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Thẩm quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo là người chưa thành niên để tạm giam là Viện trưởng, Phó viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện kiểm sát quân sự các cấp; Chánh án, Phó chánh án Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp; Thẩm phán giữ chức vụ Chánh tòa, Phó Chánh tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao; Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp. Trong trường hợp này lệnh bắt phải được sự phê chuẩn của Viện Kiểm sát cùng cấp trước khi thi hành. Thủ tục bắt bị can, bị cáo chưa thành niên để tạm giam: được quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 80 BLTTHS 2003. Lệnh bắt của người có thẩm quyền phải ghi rõ ngày, tháng, năm, họ tên, chức vụ người ra lệnh; họ tên, địa chỉ người bị bắt, lý do bắt; lệnh bắt phải có chữ ký của người ra lệnh và phải có đóng dấu cơ quan. Người thi hành lệnh bắt phải đọc lệnh, giải thích lệnh quyền và nghĩa vụ của người bị bắt và phải lập biên bản về việc bắt. Biên bản
  • 38. 31 về việc bắt phải ghi rõ ngày, tháng, năm, địa điểm bị bắt, nơi lập biên bản, tình hình diễn biến khi thi hành lệnh bắt, những đồ vật bị tạm giữ, những khiếu nại của người bị bắt; phải đọc lệnh bắt cho người bị bắt và người chứng kiến cùng nghe, người thi hành lệnh bắt, người bị bắt và người chứng kiến cùng ký vào biên bản, nếu có ý kiến thắc mắc thì có quyền ghi vào biên bản. Việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam tại nơi cư trú của họ phải có đại diện chính quyền nơi người đó cư trú hoặc làm việc và người láng giềng chứng kiến. Không được bắt người vào ban đêm, trừ trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang. * Bắt người chưa thành niên phạm tội trong trường hợp khẩn cấp Bắt người chưa thành niên phạm tội trong trường hợp khẩn cấp là bắt người đang chuẩn bị thực hiện tội phạm hoặc sau khi thực hiện tội phạm thì bỏ trốn, cản trở việc điều tra làm rõ tội phạm. Theo quy định tại khoản 1 Điều 81 BLTTHS thì có ba căn cứ bắt người trong trường hợp khẩn cấp như sau - Khi có căn cứ cho rằng người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. - Khi người bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt trông thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc bỏ trốn. - Khi thấy có dấu vết tội phạm ở người hay tại chỗ ở của người bị nghi thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn người đó bỏ trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 303 BLTTHS thì: chỉ được bắt khẩn cấp người chưa thành niên từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi khi người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý, hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng; chỉ được bắt khẩn cấp người chưa thành niên từ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm nghiêm trọng do
  • 39. 32 cố ý, tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Những người có quyền ra lệnh bắt khẩn cấp: được quy định tại khoản 2 Điều 81 BLTTHS gồm: Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp; người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương; người chỉ huy đồn biên phòng ở hải đảo và biên giới; người chỉ huy tàu bay, tàu biển khi tầu bay, tàu biển đã rời khỏi bến cảng. Thủ tục bắt người trong trường hợp khẩn cấp cũng được áp dụng như thủ tục bắt bị can để tạm giam nhưng có một số điểm khác: - Lệnh bắt trong trường hợp khẩn cấp cần có sự phê chuẩn của Viện kiểm sát cùng cấp trước khi thi hành, sau khi bắt người, việc bắt người phải được báo cáo cho Viện kiểm sát cùng cấp bằng văn bản kèm theo tài liệu có liên quan đến việc bắt khẩn cấp để xét phê chuẩn. Trong thời gian 12 giờ kể từ khi nhận được đề nghị xét phê chuẩn và tài liệu liên quan đến việc bắt khẩn cấp, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn. Nếu Viện kiểm sát quyết định không phê chuẩn thì người ra lệnh bắt phải trả tự do ngay cho người bị bắt. - Trường hợp bắt khẩn cấp thì được bắt vào bất kỳ lúc nào không kể ban ngày hay ban đêm. * Bắt người chưa thành niên phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã Bắt người chưa thành niên phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã được thực hiện theo quy định tại Điều 82 và Điều 303 BLTTHS. Theo Điều 82 BLTTHS thì chỉ được bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã khi có các căn cứ như sau - Người đang thực hiện tội phạm thì bị phát hiện là người đang thực hiện hành vị được mô tả trong một cấu thành tội phạm cụ thể, hành vi đang diễn ra mà chưa kết thúc, có thể gây ra hoặc chưa gây ra hậu quả tác hại. - Ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện: đây là trường hợp
  • 40. 33 vừa thực hiện tội phạm xong, người phạm tội chưa kịp chạy trốn hoặc đang cất giấu công cụ phương tiện phạm tội, đang xóa dấu vết của tội phạm trước khi chạy trốn thì bị phát hiện. - Đang bị đuổi bắt: là trường hợp người phạm tội đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện nên đã chạy trốn và bị đuổi bắt. Trong quá trình này có sự giám sát liên tục và không bị gián đoạn về thời gian. Bắt người đang bị truy nã: là bắt người mà cơ quan có thẩm quyền đã ra quyết định truy nã bao gồm đối tượng gây án bỏ trốn, trốn trại cải tạo, trại tạm giam, nhà tạm giữ hoặc trốn khi đang dẫn giải, trốn khi thi hành án. Còn theo Điều 303, thì chỉ được bắt người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã trong những trường hợp phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng. Chỉ được bắt người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã trong những trường hợp phạm tội nghiêm trọng do cố ý, phạm tội rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng. Thẩm quyền bắt người chưa thành niên phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã: Bất kỳ người nào cũng có quyền bắt người phạm tội quả tang hoặc người đang bị truy nã. Thủ tục bắt người chưa thành niên phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã: mọi công dân đều có quyền bắt và quyền tước vũ khí, hung khí của người bị bắt. Sau khi bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã, người bắt phải giải ngay người bị bắt đến cơ quan Công an, Viện kiểm sát hoặc Ủy ban nhân dân gần nhất. Cơ quan này phải lập biên bản và giải ngay người bị bắt đến Cơ quan điều tra có thẩm quyền. Thực tế áp dụng việc bắt người chưa thành niên phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã trong thời gian qua chủ yếu là chỉ dựa vào căn cứ quy
  • 41. 34 định tại khoản 1 Điều 82 BLTTHS mà không cần căn cứ vào khoản 1 hoặc khoản 2 Điều 303 BLTTHS. Vì việc bắt người phạm tội quả tang thường có diễn biến cấp bách, đột xuất do đó không thể xác định ngay được độ tuổi của đối tượng. Tại cơ quan điều tra, các điều tra viên mới có điều kiện để xác minh người bị bắt đã thành niên hay chưa thành niên để làm căn cứ giải quyết. Một số trường hợp đối tượng bị bắt là người chưa thành niên nhưng lại phạm tội ít nghiêm trọng hay phạm tội nghiêm trọng do vô ý thì việc áp dụng biện pháp bắt quả tang lại không đúng quy định của pháp luật. Nhưng nếu không áp dụng như trên thì hành vi thực hiện tội phạm đó sẽ không còn tính quả tang nữa và không đáp ứng yêu cầu ngăn chặn tội phạm kịp thời. 2.2.2. Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về tạm giữ người chưa thành niên phạm tội Tạm giữ đối với người chưa thành niên phạm tội là biện pháp ngăn chặn hạn chế tự do thân thể trong thời hạn nhất định đối với người bị bắt từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú, hoặc đối với người bị bắt theo quyết định truy nã, nhằm đảm bảo cho cơ quan có thẩm quyền có điều kiện lấy lời khai và xác minh lý lịch, nhân thân cũng như những tình tiết khác có liên quan đến vụ án để có cơ sở ra quyết định khởi tố bị can, áp dụng biện pháp ngăn chặn khác hoặc ra quyết định trả tự do cho người bị bắt. Thẩm quyền ra lệnh tạm giữ: khoản 2 Điều 86 BLTTHS 2003 quy định những người có quyền ra lệnh bắt khẩn cấp quy định tại khoản 2 Điều 81 BLTTHS 2003, Chỉ huy trưởng vùng Cảnh sát biển có quyền ra quyết định tạm giữ. Thủ tục tạm giữ: khoản 3 Điều 86 BLTTHS quy định: việc tạm giữ phải có lệnh viết của người có thẩm quyền. Lệnh tạm giữ này phải ghi rõ lý do tạm giữ, thời hạn tạm giữ, ngày hết hạn và giao cho người bị tạm giữ một bản. Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi ra lệnh tạm giữ, lệnh tạm giữ phải được
  • 42. 35 gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp để kiểm sát việc áp dụng biện pháp ngăn chặn. Nếu xét thấy việc tạm giữ không có căn cứ hoặc không cần thiết thì Viện kiểm sát ra quyết định hủy bỏ quyết định tạm giữ và phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ. Thời hạn tạm giữ: theo quy định tại Điều 87 BLTTHS 2003 thì thời hạn tạm giữ không được quá 3 ngày kể từ khi Cơ quan điều tra nhận thấy người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ nhưng không quá 3 ngày. Trong trường hợp đặc biệt, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn lần 2 nhưng không quá 3 ngày. Mọi trường hợp gia hạn tạm giữ đều phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn. Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi nhận được đề nghị gia hạn và tài liệu liên quan đến việc tạm giữ, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hay không phê chuẩn. Trong thời hạn tạm giữ, nếu không đủ căn cứ khởi tố bị can thì phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ. Thời hạn bị tạm giữ được trừ vào thời hạn tạm giam. Một ngày tạm giữ được tính bằng một ngày tạm giam. 2.2.3. Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về biện pháp tạm giam người chưa thành niên phạm tội Tạm giam đối với người chưa thành niên là biện pháp ngăn chặn áp dụng đối với bị can, bị cáo từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng hoặc tội phạm mà BLHS hiện hành quy định hình phạt trên 2 năm tù và có căn cứ cho rằng người đó có thể bỏ trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội. Theo quy định của BLTTHS, áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội phải kết hợp các điều 80, Điều 88 với Điều 303, theo đó người chưa thành niên phạm tội chỉ bị tạm giam theo loại tội tương ứng với độ tuổi. Về căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam đối với người chưa thành niên phạm tội, mặc dù Điều 303 đã có quy định dẫn chiếu đến Điều 88
  • 43. 36 và các điều luật khác nhưng do dẫn chiếu nhiều điều luật, nhiều căn cứ đã dẫn đến việc coi nhẹ căn cứ tạm giam được quy định tại Điều 88 và Điều 79, người THTT chỉ xem xét điều kiện về độ tuổi và tội phạm đã thực hiện để áp dụng biện pháp tạm giam. Theo quy định của BLHS thì người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội rất nghiêm trọng và tội đặc biệt nghiêm trọng. Vì vậy, có thể hiểu, tất cả người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội loại này đều có thể tạm giam mà không cần căn cứ nào. Điều này dẫn đến hệ lụy xã hội là rất nhiều trường hợp, bị can, bị cáo đang là học sinh, sinh viên, không có biểu hiện trốn tránh việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án nhưng vẫn bị áp dụng biện pháp tạm giam, không được thực hiện quyền học tập, nghiên cứu mà họ đáng ra chưa bị tước bỏ. Thẩm quyền ra lệnh tạm giam: những người có thẩm quyền ra lệnh tạm giam được quy định tại Điều 80 BLTTHS. Lệnh tạm giam của người này được quy định tại khoản 1 Điều 80 BLTTHS phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Trong thời hạn 3 ngày kể từ ngày nhận được lệnh tạm giam, đề nghị xét phê chuẩn và hồ sơ, tài liệu liên quan đến việc tạm giam, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn. Viện kiểm sát phải hoàn trả hồ sơ cho cơ quan điều tra ngay sau khi kết thúc việc xét phê chuẩn. Thủ tục tạm giam: Việc tạm giam phải có lệnh viết của người có thẩm quyền, lệnh tạm giam phải ghi rõ ngày, tháng, năm, họ tên, chức vụ của người ra lệnh; họ tên, địa chỉ của người bị tạm giam, lý do tạm giam, thời hạn tạm giam và giao cho người bị tạm giam một bản. Cơ quan ra lệnh tạm giam phải báo ngay cho gia đình người bị tạm giam biết. Thời hạn tạm giam: Thời hạn tạm giam bị can, bị cáo là người chưa thành niên phạm tội được quy định tại các điều 120, 166, 177, 228, 243, 250 và Điều 287 BLTTHS. Tại các điều 120, 166, 177 BLTTHS quy định thời hạn
  • 44. 37 tạm giam để điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm bị can, bị cáo là người chưa thành niên phạm tội phụ thuộc vào tội phạm mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên bị khởi tố, truy tố, bị đưa ra xét xử. Cụ thể như sau: - Theo quy định tại Điều 120 BLTTHS thì thời hạn tạm giam để điều tra không quá hai tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá ba tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá bốn tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. - Thời hạn tạm giam để truy tố là hai mươi ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng, ba mươi ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra (khoản 1 Điều 166 BLTTHS). - Thời hạn tạm giam bị can, bị cáo để chuẩn bị xét xử là ba mươi ngày, đối với tội phạm ít nghiêm trọng, bốn mươi lăm ngày đối với tội phạm nghiêm trọng, hai tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng, ba tháng đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án. 2.2.4. Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về cấm đi khỏi nơi cư trú người chưa thành niên phạm tội Cấm đi khỏi nơi cư trú đối với người chưa thành niên là biện pháp ngăn chặn được áp dụng đối với bị can, bị cáo từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi có nơi cư trú rõ ràng, buộc họ không được đi khỏi nơi cư trú nếu không được phép của cơ quan có thẩm quyền, nhằm đảm bảo sự có mặt của họ theo giấy triệu tập của cơ quan THTT. Thẩm quyền và thủ tục cấm đi khỏi nơi cư trú: Cơ quan đơn vị, Viện kiểm sát, Tòa án có quyền quyết định áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú (theo quy định Điều 80 BLTTHS), Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa có quyền ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú. Lệnh này phải ghi rõ ngày, tháng, năm ra lệnh, họ tên, chức vụ của người ra lệnh; họ tên, địa chỉ của người bị cấm đi khỏi nơi cư trú và nơi họ được phép cư trú. Lệnh này được
  • 45. 38 giao cho bị can, bị cáo một bản. So với các biện pháp ngăn chặn khác như tạm giữ, tạm giam, bắt người thì biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú ít nghiêm khắc hơn. Nó không tước bỏ hoặc hạn chế quyền tự do thân thể, quyền học tập, làm việc ứng cử, bầu cử của bị can, bị cáo mà chỉ hạn chế sự tự do đi lại trong một phạm vi nhất định. 2.2.5. Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về biện pháp bảo lĩnh người chưa thành niên phạm tội Bảo lĩnh đối với người chưa thành niên là biện pháp ngăn chặn được các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng đối với bị can, bị cáo từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi có nhân thân, lai lịch rõ ràng, để thay thế biện pháp tạm giam nhằm đảm bảo không để bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội hoặc cản trở điều tra, truy tố, xét xử và bảo đảm sự có mặt của họ theo giấy triệu tập của các cơ quan THTT. Cá nhân nhận bảo lĩnh phải có ít nhất hai người và là thân thích của bị can, bị cáo. Tổ chức cỏ thể nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo là thành viên của tổ chức mình. Khi nhận bảo lĩnh, cá nhân hoặc tổ chức phải làm giấy cam đoan không để bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội và đảm bảo sự có mặt của bị can, bị cáo theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Khi làm giấy cam đoan, cá nhân hoặc tổ chức nhận bảo lĩnh được thông báo về những tình tiết của vụ án có liên quan đến việc nhận bảo lĩnh. Cá nhân nhận bảo lĩnh phải có tư cách đạo đức tốt, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật. Việc nhận bảo lĩnh, phải có xác nhận của chính quyền địa phương nơi cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc. Đối với tổ chức nhận bảo lĩnh thì việc bảo lãnh phải có xác nhận của người đứng đầu tổ chức. Cá nhân hay tổ chức nhận bảo lĩnh vi phạm nghĩa vụ đã cam đoan thì phải chịu trách nhiệm về nghĩa vụ đã cam đoan, trường hợp này bị can, bị cáo sẽ bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác. 2.2.6. Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về biện pháp
  • 46. 39 đặt tiền hoặc tài sản để bảo đảm người chưa thành niên phạm tội Đặt tiền hoặc tài sản để bảo đảm đối với người chưa thành niên là biện pháp ngăn chặn do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi có nhân thân, lai lịch rõ ràng, để thay thế biện pháp tạm giam nhằm đảm bảo sự có mặt của họ theo giấy triệu tập của các cơ quan THTT. Những người được quy định tại khoản 1 Điều 80 BLTTHS, Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa có quyền ra quyết định về việc đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để đảm bảo. Quyết định của những người được quy định tại điểm d khoản 1 Điều 80 BLTTHS phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Cơ quan ra quyết định về việc đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để đảm bảo phải lập biên bản ghi rõ số lượng tiền, tên và tình trạng tài sản đã được đặt và giao cho bị can, bị cáo một bản. Trong trường hợp bị can, bị cáo đã được Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án triệu tập mà vắng mặt không có lý do chính đáng, thì số tiền hoặc tài sản đã đặt sẽ sung công quỹ nhà nước và trong trường hợp này, bị can, bị cáo sẽ bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác. Trình tự thủ tục, mức tiền hay giá trị tài sản phải đặt để đảm bảo việc tạm giữ, hoàn trả, không hoàn trả số tiền hay tài sản đã đặt sẽ được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật. 2.3. THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HẢI DƯƠNG 2.3.1. Tình hình áp dụng biện pháp bắt người Bắt người là biện pháp ngăn chặn có tính đặc thù, thường được áp dụng liền trước các biện pháp tạm giữ hoặc tạm giam. Về nội dung biện pháp này, là hạn chế quyền tự do thân thể của người bị bắt trong một khoảng thời gian nhất định, nhằm ngăn chặn kịp thời hành vi phạm tội, không để đối