SlideShare a Scribd company logo
1 of 127
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN TIẾN HOÀN
CÁC NGUYÊN TẮC XỬ LÝ
NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành :Luật hình sự
Mã số : 60 38 40
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Trịnh TiếnViệt
HÀ NỘI- 2013
2
Tải miễn phí kết bạn Zalo:0917 193 864
Dịch vụ viết luận văn chất lượng
Website: luanvantrust.com
Zalo/Tele: 0917 193 864
Mail: baocaothuctapnet@gmail.com
3
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của
luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Lê Thẩm Du
4
MỤC LỤC
Trang
TRANG PHỤ BÌA
Lời cam đoan
MỤC LỤC
Danh mụccác bảng
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC NGUYÊN TẮC XỬ
LÝNGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊNPHẠMTỘI
9
1.1. Khái niệm, những cơ sở và ý nghĩa của việc quy định các
nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội trong luật
hình sự Việt Nam
9
1.1.1. Khái niệm các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm
tội trong luật hình sự Việt Nam
10
1.1.2. Những cơ sở của việc quy định các nguyên tắc xử lý người
chưa thành niên phạm tội trong luật hình sự Việt Nam
15
1.1.3. Ý nghĩa của việc quy định các nguyên tắc xử lý người chưa
thành niên phạm tội trong luật hình sự Việt Nam
19
1.2. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển các nguyên tắc xử
lý người chưa thành niên phạm tội trong luật hình sự Việt
Nam từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước khi
ban hành Bộ luật hình sự năm 1999
21
1.2.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước
khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985
21
1.2.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến
trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999
26
1.3. Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội trong 32
5
pháp luật quốc tế và pháp luật hình sự một số nước
1.3.1. Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội trong
pháp luật quốc tế
32
1.3.2. Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội trong
pháp luật hình sự một số nước trên thế giới
41
Chương 2: NỘI DUNG CÁC NGUYÊN TẮC XỬ LÝ NGƢỜI CHƢA
THÀNH NIÊN PHẠM TỘITRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM HIỆN HÀNH VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH
47
2.1. Nội dung các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm
tội trong Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành
47
2.2. Thực tiễn thi hành các nguyên tắc xử lý người chưa thành
niên phạm tội trong Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành
63
2.2.1. Đánh giá thực trạng thi hành các nguyên tắc xử lý người chưa
thành niên phạm tội
63
2.2.2. Những tồn tại trong thực tiễn thi hành và vướng mắc trong lập
pháp hình sự liên quan đến việc áp dụng các nguyên tắc xử lý
người chưa thành niên phạm tội
72
Chương 3: hoàn thiện pháp luật và những giải pháp bảo đảm thi hành
các nguyên tắc xửlý ngƣời chƣa thànhniên phạm tội trong
bộ luật hình sự việt nam hiện hành
78
3.1. Sự cần thiết của việc hoàn thiện pháp luật về các nguyên tắc
xử lý người chưa thành niên phạm tội trong Bộ luật hình sự
Việt Nam hiện hành
78
3.2. Hoàn thiện về các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên
phạm tội trong Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành
82
3.2.1. Nhận xét chung 82
3.2.2. Sửa đổi bổ sung các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên 88
6
phạm tội trong Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành
3.3. Những giải pháp bảo đảm thi hành các nguyên tắc xử lý
người chưa thành niên phạm tội trong Bộ luật hình sự Việt
Nam hiện hành
89
3.3.1. Xây dựng đội ngũ thẩm phán chuyên trách giải quyết án
người chưa thành niên phạm tội và nghiên cứu thành lập Tòa
án gia đình và người chưa thành niên
90
3.3.2. Tăng cường xử lý chuyển hướng đối với người chưa thành
niên phạm tội sang áp dụng biện pháp xử lý không chính thức
97
3.3.3. Tăng cường các biện pháp tái hòa nhập cộng đồng đối với
người chưa thành niên phạm tội
101
kết luận 106
DANH MỤC TÀI LIỆUTHAM KHẢO 109
7
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
bảng
Tên bảng Trang
1.1 So sánh độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự của một số nước 17
1.2 Sự hình thành và phát triển nhân cách con người 18
2.1 Tương quan giữa tổng số vụ án đã xét xử trên toàn quốc
và tổng số vụ án có bị cáo là người chưa thành niên đã
xét xử trên toàn quốc giai đoạn từ năm 2007 đến năm
2012
64
2.2 Tương quan giữa tổng số bị cáo đã xét xử trên toàn quốc
với tổng số bị cáo là người chưa thành niên đã xét xử trên
toàn quốc giai đoạn từ năm 2007 đến năm 2012
65
2.3 Tương quan giữa tổng số bị cáo là người chưa thành niên
đã xét xử trên toàn quốc với tổng số người chưa thành
niên được miễn trách nhiệm hình sự từ năm 2007 đến
năm 2012
66
2.4 Các vụ án hình sự có bị cáo là người chưa thành niên và
kết quả giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
từ năm 2007 đến năm 2012
67
2.5 Các vụ án hình sự sơ thẩm có bị cáo là người chưa thành
niên và việc áp dụng biện pháp tư pháp của Tòa án nhân
dân thành phố Hà Nội từ năm 2007 đến năm 2012
74
8
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trước đây và hiện nay công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em ở
nước ta luôn được coi là sự nghiệp lớn của đất nước và dân tộc, được đúc kết
bởi tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giáo dục: Vì lợi ích mười năm phải
trồng cây, vì lợi ích trăm năm phải trồng người. Tiếp thu tư tưởng trên của
Người, Đảng và Nhà nước ta khẳng định: "Chính sách chăm sóc, bảo vệ trẻ
em tập trung vào thực hiện quyền trẻ em, tạo điều kiện cho trẻ em được sống
trong môi trường an toàn và lành mạnh, phát triển hài hòa về thể chất, trí tuệ,
tinh thần và đạo đức" [16], và trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, Đảng
ta cũng khẳng định lại: "Chú trọng cải thiện điều kiện sống, lao động và học
tập của thanh niên, thiếu niên, giáo dục và bảo vệ trẻ em" [22]. Cho nên,
chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong việc chăm sóc và giáo dục trẻ em
là một lĩnh vực chính sách đặc biệt - đều coi trẻ em - người chưa thành niên là
đối tượng bảo vệ, chăm sóc và quan tâm đặc biệt. Với quan điểm nhất quán
trong việc bảo vệ trẻ em, ngay từ khi Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm
1989 được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua, Việt Nam là nước thứ hai
trên thế giới và là nước đầu tiên của Châu Á tham gia. Trên cơ sở đó, Nhà
nước ta đã thúc đẩy hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo vệ quyền trẻ em, trong
đó đã dành sự quan tâm đặc biệt cho đối tượng trẻ em vi phạm pháp luật, nhất
là những trường hợp người chưa thành niên phạm tội.
Xuất phát từ chính sách hình sự được ghi nhận trong Công ước về
quyền trẻ em năm 1989 là: "Trẻ em, do còn non nớt về thể chất và trí tuệ cần
được bảo vệ, chăm sóc đặc biệt, kể cả bảo vệ thích hợp về mặt pháp lí trước
cũng như sau khi ra đời" [33]. Bộ luật hình sự hiện hành đã xây dựng một
chương riêng quy định đường lối xử lý đối với người chưa thành niên phạm
9
tội. Quy định này dựa trên cơ sở phân tích về tâm, sinh lý đối với người chưa
thành niên. Đây là đối tượng chưa phát triển đầy đủ về thể chất cũng như tâm,
sinh lý, họ bị hạn chế về trình độ nhận thức cũng như về kinh nghiệm sống,
thiếu những điều kiện về bản lĩnh, tự lập, khả năng tự kìm chế chưa cao nên
họ dễ bị kích động, dễ bị lôi kéo vào những hoạt động phiêu lưu, mạo hiểm.
Do đó, pháp luật hình sự Việt Nam đã đặt ra những nguyên tắc riêng khi xử lý
hành vi phạm tội của người chưa thành niên, đó là những nguyên tắc cơ bản
có tính chất chỉ đạo, xuyên suốt trong quá trình khi xử lý người chưa thành
niên phạm tội cũng như phân loại mức độ phải chịu trách nhiệm hình sự của
từng lứa tuổi. Theo đó, người chưa thành niên ngay cả khi trở thành chủ thể
của tội phạm thì việc bảo vệ các quyền và lợi ích của họ cũng được tôn trọng
và đặt lên hàng đầu, lấy mục đích xử lý giáo dục, phòng ngừa là chính, làm
sao để các em có thể quay lại trở thành công dân có ích.
Tuy nhiên, trước tình trạng chung hiện nay, tội phạm có xu hướng trẻ
hóa, tội phạm do người chưa thành niên ngày càng diễn biến phức tạp và gia
tăng, chiếm 15-18%. Hàng năm các cơ quan thi hành pháp luật bắt giữ, truy tố
hơn 115 nghìn người, trong đó có 16 - 18 nghìn trẻ vị thành niên [10].
Bên cạnh đó, một số quy định về nguyên tắc xử lý người chưa thành
niên phạm tội còn chưa cụ thể dẫn đến việc áp dụng các nguyên tắc này của
các cơ quan tiến hành tố tụng còn chưa thống nhất và triệt để như việc áp
dụng miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt đối với người chưa thành niên
phạm tội, tình trạng áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người chưa
thành niên còn phổ biến. Chỉ tính riêng trên địa bàn thành phố Hà Nội trong
năm 2012, Tòa án nhân dân các cấp đã tuyên phạt 286 bị cáo là người chưa
thành niên hình phạt tù có thời hạn (trong đó có 220 trường hợp cho hưởng án
treo)... (bảng 2.4 - trang 56).
Do đó, nhằm bảo đảm thực hiện triệt để các nguyên tắc xử lý người
chưa thành niên phạm tội, thời gian qua, trên sách báo pháp lý và các công
10
trình nghiên cứu đã viết nhiều về người chưa thành niên phạm tội, ở việc phân
tích tình hình tội phạm do người chưa thành niên phạm tội và những giải pháp
đấu tranh, phòng ngừa hoặc ở các khía cạnh khác như trách nhiệm hình sự của
người chưa thành niên phạm tội; các hình phạt và biện pháp tư pháp áp dụng
đối với người chưa thành niên phạm tội… mà chưa có một công trình nào đi
sâu vào nghiên cứu riêng biệt, độc lập và dưới góc độ pháp lý hình sự -
chuyên đề về các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội trong luật
hình sự Việt Nam. Bên cạnh đó, ngày 19/6/2009, Quốc hội đã sửa đổi một số
nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội trong Bộ luật hình sự năm
1999. Theo đó, Điều 69 Bộ luật hình sự được sửa đổi, bổ sung thêm nguyên
tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội đã được ghi nhận trong Công ước
về quyền trẻ em và các chuẩn mực quốc tế khác, đó là biện pháp giam giữ chỉ
được áp dụng cuối cùng khi không còn biện pháp thích hợp nào khác và trong
thời hạn ngắn nhất. Cụ thể, khoản 5 Điều 69 được bổ sung thêm nguyên tắc
chỉ đạo: "Khi áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội cần
hạn chế áp dụng hình phạt tù" [58], để mở ra khả năng cho người chưa thành
niên phạm tội sớm tự cải tạo, giáo dục trở thành người có ích cho gia đình và
cộng đồng.
Vì những lý do trên, chúng tôi quyết định lựa chọn đề tài "Các
nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội trong luật hình sự Việt
Nam" để làm luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thời gian qua, ở các mức độ khác nhau đã có một số công trình khoa
học đề cập trực tiếp hoặc gián tiếp đến đề tài này hoặc xem xét nó trong tương
quan là một phần, mục trong các giáo trình, sách chuyên khảo, bình luận hoặc
đề cập chung khi nghiên cứu vấn đề trách nhiệm hình sự đối với người chưa
11
thành niên phạm hay vấn đề quyết định hình phạt hay dưới góc độ tội phạm
học - phòng ngừa tội phạm do đối tượng đặc thù này thực hiện…
Trước hết, về giáo trình, sách chuyên khảo, bình luận có các công
trình sau: 1) PGS.TS. Trịnh Quốc Toản, "Chương XVIII - Những đặc thù về
trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội", Giáo trình Luật
hình sự Việt Nam (Phần chung), Nxb Đại học Quốc Gia Hà Nội, 2001, tái bản
năm 2003, 2007 (Tập thể tác giả do GS. TSKH. Lê Cảm chủ biên); 2) TS.
Hoàng Văn Hùng, "Chương XVI - Trách nhiệm hình sự đối với người chưa
thành niên phạm tội", Giáo trình luật hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân
dân, Hà Nội, 2000 (tập thể tác giả do GS. TS Nguyễn Ngọc Hòa chỉ biên); 3)
PGS.TS Trần Đình Nhã, "Chương XXIV - Trách nhiệm hình sự đối với người
chưa thành niên phạm tội", Giáo trình luật hình sự Việt Nam, Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội, 2003 (tập thể tác giả do GS. TS Võ Khánh Vinh chủ biên); 4)
GS. TS Nguyễn Xuân Yêm, "Chương 27 - Phòng ngừa các tội phạm do người
chưa thành niên gây ra", Tội phạm học hiện đại và phòng ngừa tội phạm, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội, 2001; 5) ThS. Trịnh Đình Thể, Áp dụng chính
sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội, Nxb Tư pháp, Hà Nội,
2006; 6) TS. Vũ Đức Khiển, Bùi Hữu Hùng, Phạm Xuân Chiến, Đỗ Văn Hán,
Trần Phàn, Phòng ngừangườichưathànhniên phạmtội, Nxb Pháp lý, Hà Nội,
1987; 7) ThS. Trần Đức Châm, Thanh, thiếu niên làm trái pháp luật - Thực
trạng và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002; v.v…
Bên cạnh đó, dưới góc độ khoa học cho thấy mới có một số công trình
ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học nhưng dưới khía cạnh pháp lý hình sự hoặc
tội phạmhọc hay xem xét nội dung vấn đề trong tương quan với nhiều nội dung
khác như quyết định hình phạt, trách nhiệm hình sự người chưa thành niên:
1) Đào Thị Nga, Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm
tội, Luận văn thạc sĩ luật học, trường Đại học Luật Hà Nội, 1997; 2) Trần Văn
Dũng, Trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên phạm tội trong luật
12
hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội,
2003; 3) Nguyễn Minh Khuê, Quyết định hình phạt đối với người chưa thành
niên phạm tội, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà
Nội, 2007; 4) Lưu Ngọc Cảnh, Các hình phạt và biện pháp tư pháp áp dụng
đối với ngườichưa thành niên phạm tội theo Luật hình sự Việt Nam (trên cơ
sở thực tiễn xét xử trên địa bàn thành phốHà Nội), Luận văn thạc sĩ Luật học,
Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2010; v.v…
Còn về các công trình dưới dạng bài viết đăng trên tạp chí khoa học
pháp lý có thể kể đến các công trình sau: 1) GS. TSKH Lê Cảm, TS. Đỗ Thị
Phượng, Tư pháp hình sự đối với người chưa thành niên: Những khía cạnh
pháp lý hình sự, tố tụng hình sự, tội phạm học và so sánh luật học, Tạp chí
Tòa án nhân dân, số 20-10/2004; 2) TS. Trần Văn Dũng, Quyết định hình
phạttrong trường hợp người chưa thành niên phạm tội, Tạp chí Luật học, số
5/2000; 3) TS. Dương Tuyết Miên, Quyết định hình phạt đối với đối với
người chưa thành niên phạm tội, Tạp chí Luật học, số 4/2002; 4) TS. Trương
Minh Mạnh, Phân loại tội phạm với việc quy định trách nhiệm hình sự của
người chưa thành niên, Tạp chí Kiểm sát, số 8/2002; 5) TS. Trịnh Tiến Việt,
Những khía cạnh pháp lý hình sự về hình phạt và biện pháp áp dụng đối với
người chưa thành niên phạm tội, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 13 (6), 14
(7)/2010; v.v…
Tuy nhiên, hiện nay trong khoa học luật hình sự Việt Nam vẫn chưa
có công trình nào đề cập một cách tương đối có hệ thống, đồng bộ và toàn
diện về các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội và đặc biệt là ở
cấp độ một luận văn thạc sĩ đúng như tên gọi của đề tài - Cácnguyên tắc xử lý
người chưa thành niên phạm tội trong luật hình sự Việt Nam. Do đó, với tư
cách là một cán bộ ngành Kiểm sát - Cơ quan bảo vệ pháp luật, việc lựa chọn
đề tài này góp phần làm sáng tỏ các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam
về các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội, đồng thời đưa ra
13
những kiến nghị khả thi, tiến tới xây dựng một hệ thống chính sách pháp luật
và giải pháp nhất quán trong pháp luật và nhận thức về tội phạm người chưa
thành niên, về các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên, qua đó nâng cao
hiệu quả công tác giáo dục, phòng ngừa người chưa thành niên phạm tội.
3. Phạm vi và đối tƣợng nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu một cách có hệ thống về những vấn đề pháp lý
cơ bản về các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội như sau:
1) Khái niệm các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội;
2) Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của các nguyên tắc xử lý
người chưa thành niên phạm tội từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến
trước khi có Bộ luật hình sự năm 1999;
3) Nghiên cứu, phân tích một số quy định về nguyên tắc xử lý người
chưa thành niên phạm tội và các lý luận về hình sự trong pháp luật quốc tế và
pháp luật hình sự một số nước trên thế giới;
4) Phân tích quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 hiện hành về các
nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội;
5) Phân tích, đánh giá tình hình thi hành các nguyên tắc xử lý người
chưa thành niên phạm trong giai đoạn từ năm 2007 đến năm 2012 và rút ra
những tồn tại, hạn chế;
6) Đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam,
cũng như các giải pháp bảo đảm thi hành các nguyên tắc xử lý người chưa
thành niên phạm tội.
Đối tượng nghiên cứu
Đốitượngnghiên cứucủaluận văn đúngnhưtên gọicủanó - Cácnguyên
tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội theo luật hình sự Việt Nam.
14
4. Cơ sở phƣơng pháp luận và các phƣơng pháp nghiêncứu
Cơ sở phương pháp luận
Cơ sở phương pháp luận của việc nghiên cứu đề tài là hệ thống các
quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về các
nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội; các quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam về pháp luật nói chung, chính sách hình sự nói riêng, đặc
biệt là các quan điểm, tư tưởng về cải tạo, giáo dục, phòng ngừa tội phạm đối
với người chưa thành niên, cũng như việc áp dụng các nguyên tắc xử lý người
chưa thành niên phạm tội trong nước và quốc tế.
Các phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu của khoa học luật hình sự
như: phân tích, tổng hợp và thống kê xã hội học, phương pháp so sánh, đối
chiếu, phương pháp điều tra án điển hình để phân tích các giá trị tri thức khoa
học luật hình sự và luận chứng các vấn đề khoa học cần được nghiên cứu
trong luận văn này.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Xuất phát từ thực tiễn thi hành các nguyên tắc xử lý người chưa thành
niên phạm tội và qua nghiên cứu các quan điểm, chủ đạo của Đảng và Nhà
nước về việc xử lý người chưa thành niên phạm tội, chúng tôi lựa chọn đề tài
này với mong muốn làm rõ một số vấn đề lý luận về các nguyên tắc xử lý
người chưa thành niên phạm tội; phân tích những quy định của Bộ luật hình
sự hiện hành về các nguyên tắc xử lý đối với đối tượng này. Trên cơ sở đó,
luận văn đưa ra những đề xuất, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thi hành các
nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội ở khía cạnh lý luận, xây
dựng pháp luật và áp dụng trong thực tiễn.
15
Bên cạnh đó, luận văn có ý nghĩa là tài liệu tham khảo cần thiết cho
những nhà nghiên cứu pháp luật, sinh viên, nghiên cứu sinh chuyên ngành
pháp luật, đặc biệt là cán bộ trong các cơ quan tư pháp đang hoạt động thực
tiễn áp dụng pháp luật hình sự liên quan đến người chưa thành niên, qua đó
góp phần nâng cao hiệu quả công tác giáo dục, cải tạo và phòng ngừa đối
tượng người chưa thành niên, một đối tượng đặc thù ở nước ta hiện nay.
6. Kết cấuluận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về các nguyên tắc xử lý người chưa
thành niên phạm tội.
Chương 2: Nội dung các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên
phạm tội trong Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành và thực tiễn thi hành.
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và những giải pháp bảo đảm thi hành
các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội trong Bộ luật hình sự
Việt Nam.
16
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC NGUYÊN TẮC XỬ LÝ
NGƢỜICHƢATHÀNHNIÊN PHẠM TỘI
KHÁI NIỆM, NHỮNG CƠ SỞ VÀ Ý NGHĨA CỦA VIỆC QUY ĐỊNH
CÁC NGUYÊN TẮC XỬ LÝ NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI TRONG
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
Đường lối nhất quán của Đảng và Nhà nước ta là tôn trọng, bảo đảm
quyền con người, lấy con người là mục tiêu và động lực của sự phát triển, đặc
biệt là đối với trẻ em. Với đối tượng này, Đảng ta đã chỉ rõ:
Chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em là vấn đề có tính chiến
lược, lâu dài, góp phần quan trọng cho việc chuẩn bị và nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp Công nghiệp hóa -
Hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Đầu tư cho trẻ em là đầu
tư cho tương lai đất nước,… [23].
Thực tế, sau hơn 10 năm thực hiện Chỉ thị số 55-CT/TW ngày
28/6/2000 của Bộ Chính trị khóa VIII, công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục
trẻ em đã có sự chuyển biến tích cực và đạt được một số kết quả quantrọng:
Hệ thống pháp luật, chính sách bảo vệ, chăm sóc và giáo
dục trẻ em đã từng bước được hoàn thiện. Công tác quản lý Nhà
nước về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em được tăng cường.
Việc huy động và sử dụng nguồn lực để thực hiện mục tiêu vì trẻ
em ngày càng có hiệu quả; chăm sóc sức khỏe, đảm bảo dinh dưỡng
cho trẻ em được cải thiện đáng kể. Số trường đạt chuẩn quốc gia và
tỉ lệ trẻ em đi học đúng độ tuổi ngày càng tăng; đã hoàn thành phổ
cập trung học cơ sở… [23].
17
Tuy nhiên, tình trạng trẻ em vi phạm pháp luật ngày càng tăng "hàng
năm có khoảng 18.000.000 người chưa thành niên vi phạm pháp luật, trongđó
15% phạm tội đặc biệt nghiêm trọng" [29]. Cũng như mọi chính sách pháp
luật khác của Nhà nước, pháp luật hình sự Việt Nam luôn coi người chưa
thành niên là đối tượng cần được bảo vệ, ngay cả khi các em là đối tượng vi
phạm gây nguy hiểm cho xã hội. Khi các em là chủ thể của tội phạm thì việc
xử lý các em phải tuân theo nguyên tắc bao trùm mang tính chất chỉ đạo thể
hiện chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta là lấy giáo dục làm nền
tảng, trọng tâm trong quá trình xử lý vụ án. Chính vì vậy, Bộ luật hình sự đã
quy định tại Điều 69, về các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm.
Khái niệm các nguyên tắc xử lý ngƣời chƣa thành niên
phạm tội trong luật hình sự Việt Nam
Kế thừa và phát huy tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, kể từ khi
thành lập cho đến nay, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm chăm sóc, bảo vệ
và giáo dục trẻ em, hệ thống pháp luật, chính sách, chăm sóc bảo vệ trẻ em đã
từng bước được hoàn thiện. Trẻ em được cộng đồng quan tâm, giáo dục và
bảo vệ trước hành vi xâm hại và ngay cả khi các em là chủ thể của tội phạm
thì pháp luật hình sự cũng dành cho các em sự quan tâm đặc biệt. Theo Bộ
luật hình sự, việc xử lý, giải quyết các vụ án do người chưa thành niên phạm
tội phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản. Đó là "Nguyên tắc xử lý người chưa
thành niên phạm tội" được quy định tại Điều 69 Bộ luật hìnhsự.
Trước khi có Bộ luật hình sự đầu tiên, tuy chưa có hệ thống hoàn
chỉnh các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội nhưng cũng đã có
một số nguyên tắc cơ bản được đề cập tại sách báo pháp lý hoặc văn bản
hướng dẫn nghiệp vụ cấp ngành. Ví dụ: Bản tổng kết 452-HS2 ngày
10/8/1970 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn việc xét xử đối với người
chưa thành niên phạm tội giết người, Chuyên đề sơ kết kinh nghiệm về việc
xét xử vụ án về người chưa thành niên phạm tội gửi kèm Công văn số 37-
NCPL ngày 16/01/1976 của Tòa án nhân dân tốicao...
18
Kể từ khi có Bộ luật hình sự đầu tiên (Bộ luật hình sự năm 1985) và
cho đến Bộ luật hình sự hiện hành (Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi,
bổ sung một số điều năm 2009), các nguyên tắc này đã được pháp điển hóa và
hoàn thiện nhưng cho đến nay, trong khoa học luật hình sự Việt Nam, các
sách, báo chuyên khảo hoặc công trình nghiên cứu mới chỉ phân tích các
nguyên tắc cũng như đường lối xử lý người chưa thành niên phạm tội chứ
chưa thấy được và chỉ ra khái niệm khoa học về các nguyên tắc xử lý người
chưa thành niên phạm tội.
Do vậy, ở trong phạm vi nghiên cứu của luận văn này, chúng tôi xin
đưa ra khái niệm về các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
nhưng trước khi đưa ra khái niệm này, theo chúng tôi cần phải làm rõ những
đặc điểm đặc trưng của các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
như sau:
Thứ nhất, các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội thể
hiện tính nhân đạo sâu sắc của Đảng và Nhà nước ta. Điều này được thể hiện
xuyên suốt trong các nguyên tắc được ghi nhận tại Điều 69 Bộ luật hình sự
mà điển hình là nguyên tắc thứ hai - người chưa thành niên có thể được miễn
trách nhiệm hình sự nếu người đó phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm
trọng, gây hại không lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và được gia đình hoặc cơ
quan, tổ chức nhận giám sát, giáo dục. Đây là nguyên tắc thể hiện sự khoan
hồng, nhân đạo đặc biệt - miễn trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành
niên phạm tội, nó phản ánh chính sách nhân đạo của Nhà nước ta đối với
người phạm tội và hành vi do họ thực hiện, đồng thời nhằm động viên,
khuyến khích họ lập công chuộc tội, chứng tỏ khả năng giáo dục, cải tạo
nhanh chóng, tái hòa nhập cộng đồng và trở thành người có ích cho xã hội.
Ngoài ra, các nguyên tắc về mục đích xử lý người chưa thành niên phạm tội,
về việc áp dụng các biện pháp xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội
đều thể hiện tính nhân đạo đối với người chưa thành niên phạm tội.
19
Thứ hai, các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội trong
pháp luật hình sự Việt Nam thể hiện tính cụ thể, nhân văn. Điều này được thể
hiện ở chỗ không phải tất cả những người chưa thành niên phạm tội đều xử lý
bằng hình sự. Theo khoa học luật hình sự, tội phạm do người chưa thành niên
gây ra khi thỏa mãn năm điều kiện sau:
Một là, phải là hành vi nguy hiểm cho xã hội;
Hai là, do người chưa thành niên thực hiện hành vi phạm tội đủ tuổi
chịu trách nhiệm hình sự tương ứng với từng loại tội phạm và lỗi gây ra;
Ba là, có lỗi, riêng đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải
có lỗi cố ý nếu phạm tội rất nghiêm trọng;
Bốn là, hành vi nguy hiểm cho xã hội do người chưa thành niên thực
hiện phải được Bộ luật hình sự quy định là tộiphạm
Năm là, người đó thực tế phải chịu trách nhiệm hình sự sau khi các cơ
quan có thẩm quyền cân nhắc tính cần thiết phải xử lý bằng hình sự mà không
thể áp dụng các biện pháp tư pháp hoặc các biện pháp khác để quản lý, giáo
dục và phòng ngừa tội phạm.
Do vậy, bên cạnh việc xử lý hình sự người chưa thành niên phạm tội,
pháp luật hình sự nước ta còn quy định các biện pháp xử lý khác như miễn
trách nhiệm hình sự, áp dụng các biện pháp tư pháp v.v…
Bên cạnh đó, trong quá trình giải quyết vụ án có người chưa thành
niên phạm tội, các cơ quan tiến hành tố tụng ngoài việc điều tra, xác minh sự
thật khách quan quy định tại Điều 63 Bộ luật tố tụng hình sự còn phải "xác
định khả năng nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành
vi phạm tội, nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm" [54], để từ đó đưa ra
biện pháp xử lý mang lại hiệu quả giáo dục tốt nhất cho người chưa thành
niên phạm tội hoặc kiến nghị phòng ngừa tội phạm. Khi áp dụng chế tài xử lý
đối với người chưa thành niên phạm tội, những người tiến hành tố tụng chỉ
20
được áp dụng hình phạt nếu thấy thực sự cần thiết và đặc biệt phải "hạn chế
hình phạt tù. Khi áp dụng hình phạt tù có thời hạn, Tòa án cho người chưa
thành niên phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với
người đã thành niên phạm tội tương ứng" [54, Điều 69]. Điều này đòi hỏi
những người tiến hành tố tụng phải hiểu và đồng tình với quan niệm nhà tù là
lựa chọn cuối cùng để xử lý người chưa thành niên phạm tội. Và đương nhiên,
khi không phải lựa chọn một biện pháp nào để xử lý người chưa thành niên
phạm tội mới là điều tốt lành không là lý tưởng mà còn là những hành động
chiến lược lâu dài và rất cụ thể của tất cả chúng ta.
Thứ ba, các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội trong
pháp luật hình sự Việt Nam đều nhằm mục đích giáo dục, tái hòa nhập cộng
đồng đối với người chưa thành niên phạm tội. Nhấn mạnh điều này, các nhà
làm luật đã quy định ngay tại nguyên tắc đầu tiên trong Điều 69 Bộ luật hình
sự - Việc xử lý người chưa thành niên phạm tội chủ yếu nhằm giáo dục, giúp
đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho
xã hội. Nó cho thấy các biện pháp áp dụng người chưa thành niên phạm tội
chủ yếu nhằm giáo dục họ thấy được tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội
của tội phạm, sự nghiêm minh của pháp luật và giúp đỡ họ trở thành công dân
có ích. Việc quy định án đã tuyên đối với người chưa thành niên phạm tội khi
chưa đủ 16 tuổi không được tính để xác định tái phạm, tái phạm nguy hiểm
cũng thể hiện đặc điểm này, việc quy định như vậy đã tạo điều kiện để người
chưa thành niên có thể tái hòa nhập cộng đồng, phát triển lành mạnh về thể
chất và tinh thần, cũng như tránh mặc cảm tội lỗi của bản thân người chưa
thành niên và cái nhìn thiếu thiện cảm, dị nghị của xã hội đối với người đó
sau nay khi đã trở thành người thành niên.
Ngoài ra, các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội phản
ánh tính hướng thiện của người chưa thành niên. Người chưa thành niên là đối
tượng chưa phát triển đầy đủ về mặt thể chất cũng như tâm, sinh lý nên họ dễ
21
bị lôi kéo, kích động vào hành vi phạm tội, tuy nhiên họ cũng dễ thay đổi, cải
tạo, trở thành người lương thiện và công dân có ích cho xã hội nếu được quan
tâm, giáo dục đúng phương pháp trong một môi trường sinh hoạt lành mạnh.
Nhận thức được điều này, các nhà làm luật đã quy định các nguyên tắc xử lý
người chưa thành niên phạm tội trong Bộ luật hình sự nhằm đề cao tính
hướng thiện, tự hoàn thiện bản thân của người chưa thành niên.
Thứ tư, các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội hạn chế
sử dụng biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc đối với người chưa thành niên
phạm tội. Người chưa thành niên phạm tội có thể được áp dụng biện pháp tư
pháp giáo dục tại xã phường, thị trấn hoặc nếu bị áp dụng hình phạt thì chỉ
thực sự cần thiết, hạn chế hình phạt tù, không áp dụng hình phạt tù chung
thân, tử hình đối với người chưa thành niên. Điều này thể hiện không phải
mọi trường hợp người chưa thành niên phạm tội đều bị truy cứu trách nhiệm
hình sự. Việc truy cứu trách nhiệm hình sự chỉ được đặt ra khi nó thật sự cần
thiết và ngay cả khi người chưa thành niên phạm tội và bị truy cứu trách
nhiệm hình sự thì vẫn có khả năng không bị áp dụng hình phạt, thay vào đó
họ có thể áp dụng các biện pháp tư pháp nếu biện pháp này đủ tác dụng cải
tạo thành công dân có ích cho xã hội. Mặt khác, đối với người chưa thành
niên phạm tội, hình phạt không phải biện pháp răn đe, phòng ngừa chung
càng không phải là biện pháp trừng trị mà mục đích cuối cùng chỉ là giáo
dục, cải tạo họ thành công dân có ích mà với lứa tuổi, tâm sinh lý đang trong
quá trình hoàn thiện thì việc họ cần cả gia đình, nhà trường và xã hội có
trách nhiệm nâng đỡ, giáo dục, hoàn thiện nó trong môi trường thân thiện, tự
do thay vì chỉ có Cơ quan thi hành án hình sự hay chính quyền ủy ban nhân
dân cấp xã, phường.
Từ những đặc điểm trên chúng ta có thể đưa ra một khái niệm hoàn
chỉnh về các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội:
22
Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội trong luật
hình sự Việt Nam là những tư tưởng chủ đạo và là định hướng cơ bản thể
hiện chính sách hình sự và nguyên tắc nhân đạo của Nhà nước đối với người
chưa thành niên phạm tội, qua đó góp phần cải tạo, giáo dục, giúp đỡ họ
sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho gia
đình và xã hội.
Những cơ sở của việc quy định các nguyên tắc xử lý ngƣời
chƣa thành niên phạm tội trong luật hình sự Việt Nam
Nhà nước ta thừa nhận người chưa thành niên (trong đó bao gồm cả
người chưa thành niên phạm tội) là một nhóm nhân khẩu - xã hội đặc thù, cần
phải được sự bảo trợ của pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng.
Sự bảo trợ đặc biệt này không chỉ khi người chưa thành niên là đối tượng của
sự xâm hại mà ngay cả khi họ là chủ thể của hành vi phạm tội.
Điều 65 Hiến pháp năm 1992 khẳng định: "Trẻ em được gia đình, Nhà
nước và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục" [53].
Trước khi Bộ luật hình sự năm 1999 có hiệu lực, Nhà nước ta đã ban
hành nhiều quy định về tư pháp đối với người chưa thành niên phạm tội như
Nghị định số 60/CP của Chính phủ ngày 16/9/1993 quy định về bảo đảm các
nguyên tắc cơ bản của quyền trẻ em - như không được tra tấn hoặc đối xử tàn
tệ, xúc phạm nhân phẩm, danh dự; - Người chưa thành niên phạm tội không
được giam giữ chung với người thành niên; - Trong thời gian bị giam giữ các
em được giáo dục sửa chữa sai lầm, khuyết điểm được chăm sóc sức khỏe,
học văn hóa, học nghề, vui chơi giải trí, và được tiếp xúc ngườithân.
Tuy nhiên, văn bản pháp luật về người chưa thành niên trong thời kỳ
này vẫn còn không ít sơ hở, thiếu nhất quán. Một trong những thiếu sót đó là
các văn bản luật và dưới luật còn lạc hậu, chồng chéo hoặc chậm được ban
hành cho phù hợp với tình hình, dù đã có nhiều nghị quyết, văn bản của Đảng,
23
Nhà nước chỉ đạo, xác định nhưng những căn cứ pháp lý quy định trách
nhiệm của các chủ thể thực hiện công tác phòng ngừa người chưa thành niên
phạm tội vẫn còn chưa rõ ràng; hoặc nếu có xác định thì còn chung chung,
trùng lặp, chưa rõ ràng, rằng buộc trách nhiệm cụ thể. Đó là lỗ hổng của pháp
luật, mặt khác cũng vô tình gây khó khăn cho khâu thực hiện.
Trước tình hình cấp thiết đó, Nhà nước ta đã ban hành Bộ luật hình sự
năm 1999 và tiếp đó là luật sửa đổi bổ sung luật hình sự năm 2009 hoàn thiện
các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội, khắc phục những thiếu
sót trên.
Cơ sở của việc quy định các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên
phạm tội này chính là những căn cứ riêng thể hiện nội dung cơ bản và lợi ích
xã hội tương ứng của chính sách hình sự về người chưa thành niên, đồng thời
phản ánh quy luật phát triển khách quan tác động đến quá trình hình thành các
nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội có khả thi, có căn cứ và đảm
bảo sức thuyết phục nhằm đấu tranh có hiệu quả với tình hình tội phạm do
người chưa thành niên thực hiện. Từ khái niệm trên, chúng ta có thể đưa ra
những cơ sở của việc quy định các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên
phạm tội như sau:
Căn cứ thứ nhất, việc quy định các nguyên tắc xử lý người chưa thành
niên phạm tội phải dựa trên các tư tưởng pháp lý tiến bộ được thừa nhận
chung của nền văn minh nhân loại.
Nền văn minh nhân loại, tư tưởng tiến bộ ấy được đúc kết trong Công
ước quốc tế về quyền trẻ em, Quy tắc tối thiểu của Liên hợp quốc về áp dụng
pháp luật đối với người chưa thành niên (Quy tắc Bắc Kinh) và chính sách về
người chưa thành niên của từng quốc gia. Trên cơ sở tiếp thu những thành tựu
tiến bộ đó, Nhà nước ta đã thúc đẩy hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo vệ
quyền trẻ em, trong đó đã dành sự quan tâm đặc biệt cho đối tượng trẻ em vi
24
phạm pháp luật, mà cụ thể Bộ luật hình sự đã quy định về các nguyên tắc xử
lý người chưa thành niên phạm tội, đó là những nguyên tắc có tính chỉ đạo,
xuyên suốt trong quá trình giải quyết vụ án do người chưa thành niên phạm
tội; hay như dựa vào các điều kiện kinh tế - chính trị, văn hóa - xã hội, lịch sử -
truyền thống của đất nước có sự tham khảo, nghiên cứu các quy định của
pháp luật hình sự nước ngoài chúng ta xây dựng nên độ tuổi chịu trách nhiệm
hình sự (xem bảng 1.1).
Bảng 1.1:So sánh độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự của một số nước
Quốc gia
Tuổi chịu
tráchnhiệm
hình sự
Quốc gia
Tuổi chịu
tráchnhiệm
hình sự
Quốc gia
Tuổi chịu
tráchnhiệm
hình sự
Anh - XứWales 10 Đức 14 Namibia 10
Angiêri 13 Hi lạp 13 Hà Lan 12
Anđôra 16 Hônđurát 12 Niu Dilân 10
Áchentina 16 Hång K«ng 16 B¾c Ailen 10
Ácmênia 14 Hunggary 14 Na Uy 15
Ốxtr©ylia 10 Aix¬len 15 PhilÝppin 9
Áo 14 Ấn §é 7 Ba Lan 13
AdÐcbaidan 14 Ir¾c 9 Bå §µo Nha 16
B¸cba®èt 7 Ailen 12 Rumani 16
Bªlarót 14 Ixraen 13 Nga 14
BØ 16 Italia 14 Xan Mari« 12
B«xnia 14 Giamaica 7 NhËt B¶n 14
Bulgari 14 Kad¾cxtan 14 Xcètlen 8
Cana®a 12 Kªnya 7 Xªnªgan 13
§¶o X©yman 8 Hµn Quèc 14 Xingapo 7
Chilª 16 C«oÐt 7 Xl«vakia 15
Trung Quèc 14 L¸tvia 16 Xl«vªnia 14
C«l«mbia 18 Lib¨ng 12 Nam Phi 10
C«xta Rica 12 Li Bi 8 T©y Ban
Nha
14
Cuba 16 Lithuania 14 Thôy SÜ 7
SÝp 7 Luychx¨mbua 18 Tandania 15
Céng hßa
SÐc
15 Maxª®«nia 14 Th¸i Lan 7
25
§an M¹ch 15 Malaixia 10 T«g« 15
£cua®o 12 Manta 9 Trini®¸t 7
Ai CËp 15 M«ritiót 14 Thæ NhÜ Kú 12
Ext«nia 16 Mªhic« 6 Ucraina 14
PhÇn Lan 15 M«n®«va 16 Hoa Kú 6 +/N
Nguồn: Neal Hazel (2008), So sánh giữa các quốc gia về tư pháp
người chưa thành niên, Ủy ban Tư pháp thanh thiếu niên của Anh và Xứ
Wales-YJB, www.yjb.gov.uk.
Cơ sở thứ hai, việc quy định các nguyên tắc xử lý người chưa thành
niên phạm tội dựa trên những luận chứng khoa học thể hiện sự kết hợp hài
hòa giữa khoa học pháp lý với các ngành khoa học khác. Trước xu thế tất yếu
về hội nhập của Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới, khi
tình trạng tội phạm trong nước ngày càng trẻ hóa, tội phạm do người chưa
thành niên thực hiện ngày càng diễn biến phức tạp thì việc quy định các
nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội cần phải có được ba tiêu chí
cơ bản - khách quan, có căn cứ và đảm bảo sức thuyết phục. Chính sách hình
sự về người chưa thành niên phạm tội nói chung và nguyên tắc xử lý người
chưa thành niên phạm tội nói riêng không thể là một mục đích tự thân vận
động nên để cho những vấn đề trên đạt được ba tiêu chí trên thì nhất thiết
chúng ta phải ứng dụng các thành tựu khoa học khác như khoa học về tâm lý,
sinh lý về người chưa thành niên, xã hội học về người chưa thành niên. Ví dụ:
Qua nghiên cứu về tâm lý học con người, một tác giả của Việt Nam đã tổng
kết về sự hình thành và phát triển nhân cách con người qua bảng1.2.
Bảng 1.2:Sự hình thành và phát triển nhân cách con người
Lứa tuổi
Hoạt động
chủ đạo
Đặc trƣng tâmlý
Nét "trội" trong mục
tiêu cần chú ý giáo dục
Giai
đoạn
Thời kỳ
Tuổi
học
sinh
Nhi đồng
từ 6 - 7 tuổi
đến 11 - 12
tuổi
Học tập và
phát triển
trí tuệ
- Lĩnh hội nền tảng của tri
thức và phương pháp, công
cụ nhận thức.
- Ham tìm tòi, khám phá.
- Phương pháp học tập
và phẩm chất trí tuệ.
- "Lẽ phải".
- Sử dụng công cụ nhận
26
- Hiếu động. thức phổ thông.
Thiếu niên
từ 11 - 12
tuổi đến 14 -
15 tuổi
Học tập
giao lưu
"nhóm bạn
thân"
- Dậy thì.
- Quan hệ tâm tình bạn bè.
- "Cải tổ nhân cách" và định
hình bản ngã.
- Mất thăng bằng tâm lý.
- Xây dựng nhóm bạn bè
tốt.
Thanh niên
từ 14 - 15
tuổi đến 17 -
18 tuổi
Học tập
hoạt động
xã hội nghề
nghiệp
- Hoàn thành thế giới quan.
- Định hướng chuẩn bị nghề
nghiệp.
- Ham hoạt động xã hội.
- Tình bạnthân và mối tình đầu.
- ý thức công dân.
- ý thức nghề nghiệp.
- Hoài bão xã hội.
- Tình bạn, tình yêu.
Nguồn: Phạm Minh Hạc(1992), Tâm lý học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
Qua nghiên cứu về khoa học tâm lý người chưa thành niên chúng ta
nhận thấy ở độ tuổi này các em thường nghịch ngợm, muốn tỏ lòng dũngcảm,
không muốn thua kém người khác, đánh giá sai tình huống và các giá trị
chuẩn mực trong các mối quan hệ xã hội, dễ dàng chịu sự ảnh hưởng người
khác qua đó chúng ta nhận thấy động cơ của phần đông người chưa thành
niên phạm tội thường mang tính đặc thù của tuổi trẻ nên khả năng phục thiện
của các em nhanh hơn. Bên cạnh đó, đối với người chưa thành niên, khi tâm
lý cá nhân đang hình thành, thì những thiếu sót của việc giáo dục trong gia
đình, nhà trường, nơi sản xuất, nơi cư trú trong nhiều trường hợp lại lànguyên
nhân trực tiếp đẩy họ bước vào con đường phạm tội. Chính những điều này là
luận chứng khoa học, giao người chưa thành niên phạm tội cho gia đình, xã
hội giáo dục.
Cơ sở thứ ba, dựa trên sự tổng kết kinh nghiệm thực tiễn của các cơ
quan bảo vệ pháp luật và Tòa án trong việc đấu tranh, phòng ngừa tội phạm
do người chưa thành niên thực hiện. Với chức năng là các cơ quan trực tiếp
đấu tranh, phòng chống tội phạm nói chung, tội phạm là người chưa thành
niên nói riêng, các cơ quan bảo vệ pháp luật trong quá trình hoạt động của
mình phải đúc kết những kinh nghiệm, bài học thực tiễn trong quá trình giải
quyết những vụ án do người chưa thành niên thực hiện. Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát và đặc biệt là Tòa án phải làm rõ những nguyên nhân điều kiện
27
dẫn đến người chưa thành niên phạm tội, kiến nghị khắc phục những điều
kiện nguyên nhân đó. Tòa án thông qua hoạt động xét xử của mình, tổng kết
các biện pháp xử lý (hình phạt, các biện pháp tư pháp) có tác dụng giáo dục,
cải tạo người chưa thành niên phạm tội đồng thời cũng có tác dụng răn đe,
phòng ngừa chung.
Ý nghĩa của việc quy định các nguyên tắc xử lý ngƣời chƣa
thành niên phạm tội trong luật hình sự Việt Nam
Từ những nghiên cứu về khái niệm các nguyên tắc xử lý người chưa
thành niên phạm tội và các đặc điểm của nó, chúng ta nhận thấy việc quy định
các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội trong luật hình sự Việt
Nam có những ý nghĩa chính trị, xã hội, đạo đức và thực tiễn rất to lớn:
Thứ nhất, việc quy định các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên
phạm tội thể hiện sự minh chứng rõ ràng pháp luật hình sự Việt Nam được
xây dựng trên triết lý, tư tưởng nhân đạo của dân tộc có sự kế thừa nền tảng
các tư tưởng pháp lý tiến bộ của nền văn minh nhân loại. Nó thể hiện nguyên
tắc công bằng, nhân đạo và nhằm mục đích giáo dục phòng ngừa đối với
người chưa thành niên - là nhóm nhân khẩu đặc biệt cần quan tâm, bảo vệ.
Thứ hai, việc quy định các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên
phạm tội dựa trên những cơ sở khoa học - thực tiễn khách quan, có căn cứ và
đảm bảo sự thuyết phục chính là điều kiện chủ yếu và cần thiết mà nếu như
thiếu nó thì việc đấu tranh, phòng ngừa với loại tội phạm người chưa thành
niên sẽ không thành công. Bởi vậy nó là kim chỉ nam, là sợi chỉ xuyên suốt
cho cơ quan tiến hành tố tụng căn cứ vào đó để có cách giải quyết vụ án có
người chưa thành niên phạm tội một cách công minh, có căn cứ, đảm bảo việc
giáo dục, phòng ngừa đối với người chưa thành niên.
Thứ ba, xuất phát từ những đòi hỏi cấp bách của thực tiễn xã hội nói
chung, thực tiễn lập pháp và áp dụng pháp luật hình sự ở nước ta. Trải qua
28
hơn hai thập kỷ kể từ khi Bộ luật hình sự đầu tiên của nước Việt Nam thống
nhất được ban hành (Bộ luật hình sự năm 1985), Nhà nước ta đã tiến hành
pháp điển hóa lần hai Bộ luật hình sự với việc hoàn thiện các nguyên tắc xử lý
người chưa thành niên phạm tội đã đáp ứng được nhu cầu của thực tiễn, phù
hợp với các quan hệ xã hội.
Như vậy, với tất cả những lý lẽ phân tích ở trên không chỉ nói lên vai
trò quan trọng của các nguyên tắc xử lý hình sự về người chưa thành niên
phạm tội trong việc đấu tranh phòng ngừa tội phạm người chưa thành niên mà
còn là luận chứng cho việc nghiên cứu các nguyên tắc xử lý người chưa thành
niên phạm tội trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.
KHÁI QUÁT LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CÁC NGUYÊN
TẮC XỬ LÝ NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI TRONG LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM TỪ SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945 ĐẾN TRƢỚC KHI
BAN HÀNH BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999
Nghiên cứu một cách có hệ thống lịch sử hình thành và phát triển của
luật hình sự Việt Nam về các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm
tội sẽ có được cách nhìn toàn diện và khái quát về quá trình phát triển, đồng
thời rút ra được những giá trị cần được kế thừa của các nguyên tắc xử lý
người chưa thành niên phạm tội.
Tội phạm nói chung cũng như tội phạm do người chưa thành niên thực
hiện nói riêng tồn tại rất lâu trong lịch sử. Cũng như mọi chế định khác của
luật hình sự, qua mỗi hình thái kinh tế - xã hội các nguyên tắc xử lý người
chưa thành niên phạm tội đều thể hiện tính giai cấp sâu sắc. Trong phạm vi
của đề tài, chúng tôi chỉ đi sâu nghiên cứu lịch sử hình thành và quá trình phát
triển của các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội của Nhà nước
ta từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay, qua đó, cũng phân tích được
phần nào tính ưu việt, tiến bộ và nhân đạo của chính sách về người chưa
thành niên của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
29
Giaiđoạntừ sauCáchmạng tháng Támnăm1945 đến trƣớc
khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985
Từ sau Cách mạng tháng Tám thành công đến trước khi ban hành Bộ
luật hình sự năm 1985 là thời kỳ Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa mà
sau này là Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam vừa phải tiến hành
hai cuộc kháng chiến trường kỳ nhằm bảo vệ độc lập của dân tộc, vừa phải
tiến hành công cuộc xây dựng đất nước. Trong tình hình ấy, công tác xây
dựng pháp luật nói chung, cũng như pháp luật hình sự nói riêng, đặc biệt là
quy định về các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội trong luật
hình sự còn nhiều hạn chế. Hầu hết các quy định về các nguyên tắc xử lý
người chưa thành niên phạm tội không được tập hợp một cách có hệ thống,
mà nằm rải rác ở các văn bản pháp luật khác nhau. Thậm chí vấn đề các
nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội thường được đề cập trong
các báo cáo tổng kết có tính hướng dẫn nghiệp vụ chuyên môn của ngành tòa
án.
Tuy vậy, nghiên cứu một cách có hệ thống và đầy đủ các quy định của
pháp luật hình sự trong thời kỳ này về các nguyên tắc xử lý người chưa thành
niên phạm tội cho thấy có những đặc trưng chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, về tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Pháp luật của thời kỳ này
quy định người chưa thành niên là chưa đủ 18 tuổi, tuổi chịu trách nhiệm hình
sự là từ 14 tuổi đến 18 tuổi. Tại Báo cáo tổng kết công tác 4 năm (1965 -
1968) của Tòa án nhân dân tối cao đã xác định:
… Về nguyên tắc, từ đủ 14 tuổi tròn trở lên coi là có trách
nhiệm về mặt hình sự. Nói chung đối với lứa tuổi từ 14 đến 16 thì
chỉ bị truy tố, xét xử trong những trường hợp phạm các tội nghiêm
trọng như giết người, cướp của, hiếp dâm… Riêng về hiếp dâm nói
chung vẫn chủ yếu là giáo dục và cũng chỉ nên truy tố, xét xử trong
trường hợp nghiêm trọng.
30
- Đối với lứa tuổi từ 16 đến 18 tuổi, nếu hành vi phạm pháp
có tính chất tương đối nghiêm trọng, nói chung cần xét xử, nhưng
so với người lớn cần xử nhẹ hơn [66, tr. 14].
Như vậy, qua hướng dẫn trên đã xác định tuổi chịu trách nhiệm hình
sự là 14 tuổi. Dưới độ tuổi này, người chưa thành niên dù thực hiện hành vi
nguy hiểm đến mấy cũng không bị coi là người phạm tội.
Điểm tiến bộ trong luật hình sự thời kỳ này là đã xác định độ tuổi 14
là độ tuổi bắt đầu chịu trách nhiệm hình sự, nhưng không phải mọi trường
hợp người từ đủ 14 tuổi trở lên thực hiện hành vi bị coi là tội phạm đều bị đưa
ra xét xử mà "đối với lứa tuổi từ 14 đến 16 thì chỉ bị truy tố, xét xử trong
những trường hợp phạm các tội nghiêm trọng" [66, tr. 19]. Khi hướng dẫn
đường lối xét xử đối với một số tội phạm cụ thể Tòa án nhân dân tối cao đã
khẳng định đối với những người từ 14 tuổi tròn trở lên đến 16 tuổi, chỉ nên
truy tố trong những trường hợp phạm tội nghiêm trọng như giết người, cướp
của, hiếp dâm, riêng về hiếp dâm vẫn chủ yếu là giáo dục và cũng chỉ truy tố
trong những trường hợp phạm tội nghiêm trọng. Còn đối với lứa tuổi từ 16
đến 18 tuổi chỉ được xử lý hình sự nếu hành vi phạm pháp có tính chất tương
đối nghiêm trọng.
Như vậy, trong thời kỳ này pháp luật đã có sự phân hóa từng giai đoạn
độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên gắn với mức độ
nghiêm trọng của từng loại tội phạm.
Thứ hai, nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội được quy
định trong thời kỳ này là trách nhiệm hình sự có tính chất giảm nhẹ và có mục
đích giáo dục là chính.
Tại Báo cáo công tác 4 năm (1965 - 1968) của Tòa án nhân dân tối
cao đã hướng dẫn xét xử đối với người chưa thành niên nên xử nhẹ hơn so với
người lớn, hay như tại Chuyên đề sơ kết kinh nghiệm về việc xét xử các vụ án
người chưa thành niên phạm tội (gửi kèm theo Công văn số 37-NCPL ngày
31
16/01/1976 của Tòa án nhân dân tối cao), Tòa án nhân dân tối cao nhấn
mạnh: "Phải coi việc phạm tội chưa đến tuổi trưởng thành là một trường hợp
được giảm nhẹ tội, nghĩa là phải xử phạt nhẹ người chưa thành niên hơn
người lớn tuổi phạm tội trong điều kiện tương tự. Đó là nguyên tắc cần được
quán triệt" [66, tr. 36].
Cũng như trong Hướng dẫn số 329-HS2 ngày 11/2/1967 của Tòa án
nhân dân tối cao:
Khi xét xử cần chiếu cố thích đáng đến trình độ hiểu biết
pháp luật non kém và khả năng dễ tiếp thu cải tạo giáo dục của họ,
đến việc họ chưa nhận thức được đầy đủ tính chất nguy hiểm của
hành vi của mình mà xử nhẹ hơn các can phạm đã lớn tuổi… chỉ
vào khoảng 1/2 mức án đối với can phạm lớn tuổi [66, tr. 28].
Tính chất giảm nhẹ và mục đích giáo dục là chính của các nguyên tắc
xử lý người chưa thành niên phạm tộiđược thể hiện trong các quy định của thời
kỳ này là xuất phát từ chính sách nhân đạo và quan điểm chỉ đạo của Đảng
lấy giáo dục phòng ngừa là chính đối với người chưa thành niên phạm tội.
Tính chất giảm nhẹ và mục đích giáo dục phòng ngừa là chính của
nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội còn được thể hiện cụ thể
trong việc hướng dẫn áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm
tội của Tòa án nhân dân tối cao, đối với một số tội cụ thể.
Ví dụ: Bản tổng kết số 452 - HS2 ngày 10/8/1970 của Tòa án nhân
dân tối cao về thực tiễn xét xử loại tội giết người đã đề cập đến:
Vì tội giết người là một tội hết sức nguy hiểm mà lứa tuổi từ
14 tuổi tròn trở lên đã có thể nhận thức được ít nhiều tính chất, cho
nên, nói chung, cần truy tố xử các trường hợp giết người mà can
phạm có từ 14 tuổi tròn trở lên. Tuy nhiên, vì nhận thức của các
phạm còn non nớt, cho nên cần xét xử nhẹ hơn so với người đã
32
lớn… Mức hình phạt đối với các can phạm này nói chung chỉ nên
từ khoảng 15 năm tù trở xuống. Đối với các can phạm đã có từ 16
tuổi tròn trở lên cho đến dưới 18 tuổi một ít cũng có thể xử nhẹ một
phần so với can phạm đã lớn và đối với tất cả các loại can phạm
này, nói chung, không nên áp dụng hình phạt tử hình [66, tr. 19]
Hơn nữa, trong khi hướng dẫn xét xử đối với loại tội hiếp dâm do
người chưathành niên phạm tộithực hiện, Tòaán nhân dân tối cao đã chỉ rõ cơ
sở của việc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên là sự
hạn chế trong nhận thức tính chất nguy hiểm cho xã hội của loại tội này, cũng
như mục đích giáo dục là chính của việc xử lý người chưa thành niên phạm tội.
Nhìn chung đối với loại tội này, cơ quan xét xử phải chú ý
hơn nữa đến những suy nghĩ nhận thức của người chưa thành niên
phạm tội, họ có những nhận thức khác so với một số loại tội phạm
thông thường như trộm cắp, giết người…, ở loại tội này, bị cáo
thường ít hiểu rằng hành vi đó là nguy hiểm là có tội. Còn đối với
tội hiếp dâm, người chưa thành niên hành động theo bản năng tình
dục của mình, họ không nghĩ rằng đó là hành vi nguy hiểm cho xã
hội, là phạm tội và sẽ bị xử nặng.
Do vậy, nếu can phạm từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi, chủ yếu
nên dùng các biện pháp giáo dục như giao cho cha, anh, chú, bác
bảo lĩnh và giáo dục.
Nếu can phạm từ đủ 16 đến 18 tuổi, trừ một số ít các trường
hợp có tình tiết ít nghiêm trọng thì xử như hướng dẫntrên, nhìn chung
cần xét xử về hình sự. Khi xét xử cần chiếu cố thích đáng đến trình
độ hiểu biết pháp luật non kém và khả năng dễ tiếp thu cải tạo giáo
dục của họ, đến việc họ chưa nhận thức đầy đủ tính chất nguy hiểm
của hành vi của mình mà xử nhẹ hơn các can phạm đã lớn tuổi…
33
chỉ vào khoảng 1/2 mức án đối với can phạm lớn tuổi [66, tr. 42-
43].
Như vậy, điểm tiến bộ vượt bậc của luật hình sự thời kỳ này là việc áp
dụng nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội có tính chất giảm nhẹ
dựa trên sự đánh giá về mức độ nhận thức của bản thân người chưa thành niên
về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà họ thực hiện. Đối với hành
vi hiếp dâm, chủ thể đang ở độ tuổi vừa lớn dậy, họ không thể thấy hết mức
độ nguy hiểm của hành vi phạm tội thì không nhất thiết phải áp dụng hình
phạt mà có thể áp dụng những biện pháp có tính chất giáo dục.
Thứ ba, việc xử lý người chưa thành niên phạm tội phải căn cứ vào
trình độ nhận thức, hoàn cảnh phạm tội và nhân thân của các em. Trên cơ sở
cân nhắc sự phát triển về thể chất, khả năng nhận thức và các yếu tố tâm sinh
lý Tòa án nhân dân tối cao đã hướng dẫn:
Việc xử phạt nhiều, ít là tùy thuộc ở trình độ nhận thức và
trạng thái tâm sinh lý của người chưa thành niên đến mức độ nào
được thể hiện nói chung qua lứa tuổi cao thấp khác nhau, ở hoàn
cảnh phạm pháp, ở tính chất nguy hiểm nhiều hay ít của hành vi
phạm tội và của nhân thân người phạm tội cũng như yêu cầu của
tình hình chung [66, tr. 36].
Như vậy, mặc dù còn nhiều hạn chế nhưng luật hình sự nói riêng cũng
như pháp luật nói chung của thời kỳ này đã quy định một cách khá cụ thể
những nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội như vấn đề độ tuổi
chịu trách nhiệm hình sự, mục đích xử lý người chưa thành niên phạm tội
(chủ yếu mang tính giáo dục, phòng ngừa), các nguyên tắc xử lý và giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội. Những quy định
này là tiền đề cho việc xây dựng nguyên tắc xử lý người chưa thành niên
phạm tội thống nhất, cụ thể cho hai lần pháp điển hóa Bộ luật hình sự.
34
Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến
trƣớc khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999
Bộ luật hình sự năm 1985 ra đời trong hoàn cảnh đất nước đã thống
nhất, cả nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trước tình hình đó, đòi hỏi
chúng ta phải có một Bộ luật hình sự hoàn chỉnh để đáp ứng được yêu cầu của
nhiệm vụ cách mạng mới: "Đó là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa" (Lời nói đầu, Bộ luật hình sự năm
1985). Thực tiễn của công tác xây dựng và áp dụng pháp luật hình sự nói
chung, cũng như quy định về các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên
phạm tội nói riêng, từ khi Cách mạng tháng Tám thành công cho đến trước
khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985, cho thấy: Các văn bản pháp luật hình
sự do chính quyền cách mạng ban hành trước đó thường chỉ là những văn bản
riêng lẻ, quy định một nhóm tội hoặc trong một lĩnh vực cụ thể nào đó.
Ngày 27/6/1985, Bộ luật hình sự năm 1985 đã được Quốc hội nước
Cộnghòa xã hội chủnghĩa Việt Nam, tại kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa VI chính
thức thông qua. Với bản chất tốt đẹp của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, Đảng và
Nhà nước đã giành một sự quan tâm thích đáng cho công tác chăm sóc thiếu
niên nhi đồng, đặc biệt là lứa tuổi thanh niên. Trên tinh thần đó, Bộ luật hình
sự năm 1985 đã giành hẳn một chương quy định về người chưa thành niên
phạm tội trong đó có các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội.
Nghiên cứu các quy định của Bộ luật hình sự năm 1985 về các nguyên tắc xử
lý người chưa thành niên phạm tội có thể rút ra một số đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp hình sự ở nước ta, các
quy định về xử lý người chưa thành niên phạm tội được quy định thành một
chương hoàn chỉnh (chương VII), trong đó đã quy định khá đầy đủ các vấn đề
liên quan đến các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội. Đây được
coi là một chương đặc thù vì đối tượng được áp dụng các quy định của
chương này là người chưa thành niên phạm tội. Hơn nữa, Bộ luật hình sự năm
1985 còn thể hiện thống nhất một nguyên tắc chung là: Người chưa thành
35
niên phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự theo những quy định của chương
này, đồng thời theo những quy định khác của Phần chung Bộ luật không trái
với những quy định của chương này. Điều này có nghĩa khi áp dụng các
nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội, các cơ quan chức năng phải
lấy quy định của chương này để ưu tiên áp dụng, đồng thời vận dụng các quy
định khác thuộc phần chung nhưng phải "không trái" với quy định của
chương này, nếu trái thì không được áp dụng.
Thứ hai, tuổi chịu trách nhiệm hình sự cũng được các nhà lập pháp
hình sự thời kỳ này quy định một cách cụ thể. Điều 58 Bộ luật hình sự năm
1985 đã quy định: "Người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi phải
chịu trách nhiệm hình sự về những tội phạm nghiêm trọng do cố ý, và người
từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm" [52].
Theo Điều 8 khoản 2 Bộ luật hình sự năm 1985 thì:
Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây ra nguy hại lớn cho
xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên
năm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.
Những tội phạm khác là tội phạm ít nghiêm trọng [52].
Như vậy, điều luật quy định phân hóa trách nhiệm hình sự đối với
người chưa thành niên. Nếu người chưa thành niên phạm tội là người đã đủ
16 tuổi trở lên thì họ phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi hành vi phạm tội
mà họ thực hiện. Nếu họ là người từ đủ 14 đến 16 tuổi thì chỉ phải chịu trách
nhiệm hình sự khi tội mà họ thực hiện là tội nghiêm trọng và được thực hiện
với lỗi cố ý. Còn nếu tội đó là tội ít nghiêm trọng, hoặc là tội nghiêm trọng
nhưng người chưa thành niên lại thực hiện với lỗi vô ý thì không phải chịu
trách nhiệm hình sự.
Thứ ba, Bộ luật hình sự năm 1985 đã quy định cả một hệ thống các
nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội. Điều 59 Bộ luật
36
hình sự năm 1985 quy định các nguyên tắc cơ bản để xử lý hành vi phạm tội
của người chưa thành niên. Những nguyên tắc này bao gồm:
Nguyêntắcthứnhất: Việc xử lý hành vi phạm tội của người chưa thành
niên chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh
và trở thành công dân có ích cho xã hội.
Trong mọi trường hợp điều tra, truy tố, xét xử hành vi phạm tội của
người chưa thành niên, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải xác định
khả năng nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi
phạm tội, nguyên nhân và điều kiện xảy ra phạm tội.
Nguyên tắc trên thể hiện quan điểm nhân đạo của Đảng và Nhà nước
ta, đối với người chưa thành niên, mục của hình phạt không phải là để trừng
trị họ mà để giáo dục, cải tạo họ thành công dân có ích. Để đạt được mục đích
này Bộ luật hình sự năm 1985 yêu cầu trong mọi trường hợp điều tra, truy tố,
xét xử hành vi phạm tội của người chưa thành niên, các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền phải xác định khả năng nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm
cho xã hộicủa hành vi phạmtội, nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm để từ
đó quyết định có cần áp dụng hình phạt hay có thể áp dụng biện pháp giáo
dục khác. Khi quyết định vấn đề này cần quán triệt nguyên tắc giáo dục là
chính.
Nguyên tắc thứ hai: Đối với người chưa thành niên phạm tội, Viện
kiểm sát và Tòa án áp dụng chủ yếu những biện pháp giáo dục, phòng ngừa;
gia đình, nhà trường và xã hội có trách nhiệm tham gia tích cực vào việc thực
hiện những biện pháp ấy.
Bộ luật hình sự năm 1985 đã chỉ rõ Viện kiểm sát và Tòa án chủ yếu
áp dụng biện pháp giáo dục, phòng ngừa đối với người chưa thành niên, coi
mặt công tác này là chính yếu trong đấu tranh, phòng chống tội phạm người
chưa thành niên. Nguyên tắc này cũng xác định trách nhiệm của cơ quan nhà
37
nước tổ chức xã hội trong việc tham gia tích cực vào thực hiện những biện
pháp có tính chất giáo dục, phòng ngừa người chưa thành niên phạm tội. Coi
việc giúp đỡ, giáo dục người chưa thành niên phạm tội là trách nhiệm của
toàn xã hội chứ không chỉ có các cơ quan tiến hành tố tụng, bởi có sự chung
sức của toàn xã hội sẽ tạo cho em một môi trường phát triển lành mạnh, giúp
các em nhanh chóng tự hoàn thiện bản thân và trở lại cộng đồng.
Nguyên tắc thứ ba: Viện kiểm sát có thể quyết định miễn truy cứu
trách nhiệm hình sự người chưa thành niên phạm tội nếu người đó phạm tội ít
nghiêm trọng, gây hại không lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và nếu được gia
đình và tổ chức xã hội nhận trách nhiệm giám sát, giáo dục.
Chỉ đưa người chưa thành niên phạm tội ra xét xử và áp dụng hình
phạt đối với họ trong trường hợp cần thiết, căn cứ vào tính chất nghiêm trọng
của hành vi phạm tội, vào những đặc điểm về nhân thân và yêu cầu của việc
phòng ngừa.
Nguyên tắc này cho phép Viện kiểm sát có quyền miễn truy cứu trách
nhiệm hình sự người chưa thành niên phạm tội nếu người đó phạm tội ít
nghiêm trọng, gây hại không lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và nếu được gia
đình hoặc một tổ chức xã hội nhận trách nhiệm giám sát, giáo dục. Người
phạm tội nói chung cũng có thể được miễn trách nhiệm hình sự nhưng chỉ
trong những trường hợp đặc biệt. Đối với người chưa thành niên phạm tội,
điều kiện để có thể được miễn trách nhiệm hình sự thấp hơn so với điệu kiện
miễn trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội nói chung. Với chức năng
và nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát, việc quy định Viện kiểm sát có
quyền quyết định miễn truy cứu trách nhiệm hình sự nêu trên vừa đảm bảo
việc miễn truy cứu trách nhiệm hình sự đúng pháp luật, vừa đảm bảo tính kịp
thời ngay cả trong giai đoạn điều tra, tránh cho việc người chưa thành niên
phải tham gia nhiều hoạt động tố tụng, ảnh hưởng đến tâm lý các em.
38
Người chưa thành niên phạm tội chỉ được đưa ra xét xử trong những
trường hợp cần thiết, đánh giá là cần thiết hay không cần thiết phụ thuộc vào
các yếu tố, tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội,
những đặc điểm phụ thuộc về nhân thân của người phạm tội và yêu cầu của
việc phòng ngừa tội phạm. Việc quy định này tránh cho người chưa thành
niên mặc cảm về hành vi phạm tội của mình, giúp các em nhanh chóng hòa
nhập và tự cải tạo bản thân, bởi vì một người được coi là có tội chi khi người
đó bị xét xử bằng bản án kết tội có hiệu lực của Tòa án, do vậy đối với trường
hợp không cần thiết và việc giáo dục, cải tạo người chưa thành niên không bị
ảnh hưởng thì không nhất thiết phải đưa họ ra xét xử.
Nguyên tắc thứ tư: Không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình người
chưa thành niên phạm tội. Khi phạt tù có thời hạn, Tòa án cho người chưa
thành niên phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với
người chưa thành niên.
Người chưa thành niên phạm tội được giam riêng.
Không xử phạt tiền và áp dụng các hình phạt bổ sung đối với người
chưa thành niên phạm tội.
Nguyên tắc này quy định không áp dụng hình phạt tử hình và tù chung
thân đối với người chưa thành niên phạm tội. Đây là hai hình phạt nghiêm
khắc nhất trong hệ thống hình phạt được quy định trong Bộ luật hình sự thể
hiện người phạm tội không còn khả năng giáo dục buộc phải loại bỏ hoặc
cách ly vĩnh viễn họ ra khỏi xã hội. Việc quy định không áp dụng hai hình
phạt này đối với người chưa thành niên phạm tội, dù họ phạm tội nghiêm
trọng thế nào chăng nữa thì mọi trường hợp người chưa thành niên phạm tội
vẫn có cơ hội để cải tạo thành người có ích cho xã hội. Điều này thể hiện
nguyên tắc nhân đạo của pháp luật hình sự hiện đại. Đây là một quy định có
tính chất tiến bộ nên trong các lần sửa đổi sau này, quy định này vẫn được
tiếp tục ghi nhận.
39
Trong trường hợp phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn, Tòa án cho
người chưa thành niên phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng
đối với người đã thành niên phạm tội tương ứng. Điều 64 Bộ luật hình sự năm
1985 quy định trực tiếp mức án cao nhất của hình phạt tù không được tuyên
vượt quá khi quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội là
mười lăm năm hoặc mười hai năm tù, tùy từng trường hợp phạm tội cụ thể.
Để đảm bảo an toàn đối với chưa thành niên, việc giam giữ họ tại nhà tạm
giữ, trại tạm giam, trại giam phải có sự phân loại, có buồng giam giữ riêng,
hạn chế sự tiếp xúc giữa họ với những đối tượng lưu manh.
Nguyên tắc này cũng quy định Tòa án không được áp dụng hình phạt
tiền và hình phạt bổ sung đối với người chưa thành niên bởi vì đối tượng này
chưa nằm trong độ tuổi lao động nên việc họ tự có thu nhập là hầu như không
có, việc áp dụng hình phạt tiền đối với họ là không khả thi và không có tác
dụng. Hình phạt bổ sung là hình phạt bổ trợ cho hình phạt chính, có tác dụng
hỗ trợ cho hình phạt chính, do vậy Tòa án không nên áp dụng hình phạt này
đối với người chưa thành niên để làm xấu hơn tình trạng họ.
Nguyên tắc thứ năm: Án đã tuyên đối với người phạm tội chưa đủ 16
tuổi thì không tính để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm.
Tính chất giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của quy định này thể hiện ở
chỗ nếu người chưa thành niên từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi thực hiện tội phạm
lần thứ hai thì cũng không được xác định là tái phạm hoặc tái phạm nguy
hiểm để tăng nặng hình phạt đối với họ. Mặt khác, tái phạm hoặc tái phạm
nguy hiểm là tình tiết thể hiện nhân thân người phạm tội có khả năng giáo
dục, cải tạo thấp nên việc quy định nguyên tắc này cũng tạo điều kiện cho
người chưa thành niên phạm tội một lần nữa có cơ hội sửa chữa sai lầm của
mình, cũng như tránh cho các em mặc cảm về nhân thân.
Tóm lại, nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội là
những nguyên tắc vừa có tính định hướng lại vừa cụ thể, những nguyên tắc
40
này yêu cầu các cơ quan tiến hành tố tụng khi xem xét vấn đề xử lý người
chưa thành niên phạm tội trong những trường hợp phạm tội cụ thể phải có
quan điểm toàn diện, trên tinh thần lấy giáo dục, phòng ngừa là chính. Bộ luật
hình sự năm 1985 buộc các cơ quan tiến hành tố tụng phải xác định được hai
vấn đề có tính nguyên tắc đó là khả năng nhận thức của họ về tính nguy hiểm
cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều kiện gây ra tộiphạm.
Thể hiện một cách cụ thể nội dung các nguyên tắc trên, Bộ luật hình
sự năm 1985 đã quy định hệ thống các biện pháp tư pháp và hình phạt có thể
áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội. Điều đáng chú ý là Bộ luật
hình sự năm 1985 đã quy định các biện pháp tư pháp lên trước sau đó quy
định đến hệ thống hình phạt chính có thể được áp dụng đối với người chưa
thành niên phạm tội. Điều này thể hiện một cách cụ thể nguyên tắc lấy giáo
dục, phòng ngừa là chính, việc áp dụng hình phạt chỉ là biện pháp cuốicùng.
CÁC NGUYÊN TẮC XỬ LÝ NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN PHẠM
TỘI TRONG PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ MỘT SỐ NƢỚC
Các nguyên tắc xử lý ngƣờichƣa thành niên phạm tộitrong
pháp luật quốc tế
Kể từ khi Liên hợp quốc ra đời, năm 1945, đặc biệt từ khi Bộ luật
quốc tế về quyền con người (bao gồm Tuyên ngôn thế giới về quyền con
người 1948; Công ước quốc tế về quyền dân sự, chính trị 1966; Công ước
quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa 1966), quyền con người đã
vượt khỏi phạm vi quốc gia trở thành Luật Quốc tế. Bên cạnh đó, ở tất cả các
quốc gia, từ xưa đến nay, trẻ em là đối tượng được quan tâm, chăm sóc đặc
biệt kể cả khi họ vi phạm pháp luật, thì nhân loại luôn dành cho các em sự
cảm thông chia sẻ, giúp các em trở lại với cuộc sống bình thường, giúp đỡ các
em khẳng định tư cách của mình trong gia đình và xã hội, trong học tập và lao
động, bởi vậy, Liên hợp quốc đã ban hành nhiều văn kiện về tư pháp người
chưa thành niên như: Công ước về quyền trẻ em năm 1989 cùng với hai Nghị
41
định thư không bắt buộc của công ước này (Nghị định thư về "sử dụng trẻ em
trong xung đột vũ trang", Nghị định thư về "buôn bán trẻ em, mại dâm trẻ em
và văn hóa phẩm khiêu dâm", đều được Việt Nam phê chuẩn ngày
20/12/2001); Những quytắc tối thiểu của Liên hợp quốc về áp dụng pháp luật
đối với Người chưa thành niên còn gọi là Quy tắc Bắc Kinh, được Đại hội
đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 29/11/1985; Hướng dẫn của Liên hợp
quốc về phòng ngừa tội phạm ở ngườichưa thành niên còn gọi là Hướng dẫn
Riyadh, được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 14/12/1990; Những
quy tắc tối thiểu, phổ biến của Liên hợp quốc về bảo vệ người chưa thành
niên bị tước quyền tự do - được Liên hợp quốc thông qua ngày 14/12/1990.
Đây là những văn kiện tổng hợp, đúc kết một cách rộng rãi kinh
nghiệm của các quốc gia trên lĩnh vực Tư pháp người chưa thành niên chúng
ta cần trân trọng, vận dụng như là những nghĩa vụ chính trị và kế thừa các giá
trị tinh thần tốt đẹp của cộng đồng quốc tế.
Cần lưu ý rằng những văn kiện trên đây chỉ đưa ra những hướng dẫn
và quy tắc tối thiểu trên lĩnh vực này. Điều đó có nghĩa, mỗi quốc gia có thể
vận dụng trong việc xây dựng và thực thi chính sách, pháp luật mang tính
sáng tạo, xây dung và khoan dung hơn theo nguyên tắc "lợi ích tốt nhất cho trẻ
em".
Các quy tắc và nguyên tắc nêu trên có chứa đựng một điều khoản cho
thấy rằng, các quy tắc và nguyên tắc đó được thực hiện dựa trên những điều
kiện kinh tế - xã hội và văn hóa hiện có của mỗi quốc gia. Các tiêu chuẩn nêu
ra rất linh hoạt, nếu được áp dụng một cách thiện chí theo cách thức phù hợp
nhất với với hoàn cảnh kinh tế - xã hội, văn hóa của từng quốc gia, chúng sẽ
là một công cụ hữu hiệu giúp cải thiện cuộc sống của số lượng ngày càng tăng
người chưa thành niên bị đẩy tới chỗ vi phạm pháp luật và chống lại xã hội.
Dựa trên những quy định của pháp luật quốc tế về chưa thành niên, các quốc
gia trên thế giới đã đưa ra các quy định về người chưa thành niên nói chung,
người chưa thành niên phạm tội nói riêng, các chế tài xử lý người chưa thành
42
niên phạm tội phù hợp với điều kiện kinh tế - văn hóa - xã hội, phong tục, tập
quán, pháp luật của mỗi nước. Do vậy, những văn kiện trên chỉ đưa ra những
hướng dẫn và quy tắc tối thiểu trên lĩnh vực này. Điều đó có nghĩa, mỗi quốc
gia có thể vận dụng trong việc xây dựng và thực thi chính sách, pháp luật
mang tính sáng tạo, xây dung và khoan dung hơn theo nguyên tắc "lợi ích tốt
nhất cho trẻ em". Chẳng hạn như: Tòa án người chưa thành niên ở Thái Lan
được thành lập ngày 28/1/1952, ngoài mục đích xử lý người chưa thành niên
phạm tội bằng những biện pháp đặc biệt thì thẩm quyền của Tòa án người
chưa thành niên còn được phép giải quyết một số trường hợp tranh chấp gia
đình liên quan tới hạnh phúc và lợi ích của người chưa thành niên.
Mục tiêu và những quy tắc trong các văn kiện trên là:
- Về mục tiêu: Toàn bộ hoạt động của hệ thống tư pháp người chưa
thành niên nhằm giảm đi đến mức tối thiểu việc các cơ quan tư pháp phải xử
lý đối với người chưa thành niên. Đồng thời làm giảm đi đến mức thấp nhất
ảnh hưởng xấu có thể có khi không thể không áp dụng các chế tài pháp luật
đối với người chưa thành niên vi phạm pháp luật. Do vậy, thực tiễn luật pháp
quốc tế đã có biện pháp xử lý chuyển hướng đối với người chưa thành niên -
biện pháp xử lý người chưa thành niên một cách không chính thức nằm ngoài
hệ thống tư pháp chính thống nhằm hạn chế thấp nhất việc áp dụng hình phạt
đối với người chưa thành niên. Tại Điều 40 (3) (b) Công ước quốc tế về quyền
trẻ em quy định các quốc gia thành viên "bất cứ khi nào xét thấy phù hợp và
nên làm" phải khuyến khích thúc đẩy việc thiết lập các biện pháp xử lý người
chưa thành niên vi phạm pháp luật mà không cần viện đến các thủ tục tư pháp
trong điều kiện bảo đảm quyền con người và sự nghiêm minh của pháp luật.
Quy tắc về các chuẩn mực tối thiểu về quản lý tư pháp người chưa
thành niên cũng trực tiếp khuyến khích thúc đẩy sử dụng các biện pháp xử lý
chuyển hướng: "Bất cứ khi nào xét thấy phù hợp, cần xem xét xử lý người
43
chưa thành niên vi phạm pháp luật theo hướng không viện dẫn đến hoạt động
xét xử chính thức của cơ quan thẩm quyền" [32, Quy tắc11.1].
Hay:
Cơ quan Công an, Kiểm sát và các cơ quan khác xử lý các
vụ việc có người chưa thành niên cần được giao thẩm quyền tự
quyết trong việc ra quyết định về các vụ án này mà không cần phải
tổ chức xét xử chính thức. Quyết định đưa ra dựa trên các tiêu chí
được quy định riêng cho mục đích này trong hệ thống pháp luật
tương ứng đồng thời phải phù hợp với các nguyên tắc được quy
định trong Bộ nguyên tắc này [32, Quy tắc 11.2].
Việc áp dụng các biện pháp ngoài tư pháp có thể quyết định trong suốt
quá trình giải quyết vụ án. Một, một số, hoặc tất cả các cơ quan đều có thể
chiểu theo những quy tắc và chính sách trong hệ thống tương ứng mà quyết
định áp dụng các biện pháp xử lý chuyển hướng. Xử lý chuyển hướng không
nhất thiết chỉ được sử dụng trong trường hợp phạm tội nhẹ, do đó các biện
pháp này có thể được khai thác như một chiến lược rất hữu ích để thực hiện
mục tiêu của hệ thống pháp luật quốc tế về người chưa thành niên.
Bên cạnh đó, Bộ quy tắc này cũng quy định điều kiện cần và đủ để thi
hành các biện pháp xử lý ngoài tư pháp đối với người chưa thành niên vi
phạm pháp luật: "Để hỗ trợ các quyết định được đưa ra dựa trên thẩm quyền
tự quyết trong các vụ việc có người chưa thành niên, cần có nỗ lực cung cấp
các chương trình tại cộng đồng như quản lý giám sát ngắn hạn, giáo huấn chỉ
dẫn, buộc bồi thường thiệt hại, đền bù cho người bị hại" [32, Quy tắc 11.4].
Quy tắc này khuyến khích đưa ra một số lựa chọn xử lý người chưa thành
niên dựa vào cộng đồng mang tính khả thi. Các chương trình tư pháp phục
hồi, bồi thường thiệt hại và ngăn ngừa vi phạm thông qua công tác quản lý,
giám sát, giáo huấn chỉ dẫn có thể sẽ đặc biệt phù hợp và hữu ích trong từng
trường hợp.
44
Trong khi đó Hướng dẫn của Liên hợp quốc về phòng ngừa tình trạng
phạm tội của người chưa thành niên lại nhấn mạnh vai trò của các chương
trình và dịch vụ tại cộng đồng trong ngăn ngừa và xử lý tội phạm trong giới
trẻ. Hướng dẫn này quy định rằng "các cơ quan công quyền quản lý xã hội chỉ
nên vào cuộc khi không còn biện pháp khả dĩ nào khác" [35, Điều 6].
Tuy nhiên, việc áp dụng biện pháp xử lý người chưa thành niên ngoài
tư pháp như chuyển người chưa thành niên đến các dịch vụ cộng đồng thích
hợp hoặc các dịch vụ khác đều đòi hỏi phải có sự đồng thuận của người chưa
thành niên hoặc cha mẹ hay người giám hộ của các em và phải chịu sự kiểm
tra của một số cơ quan có thẩm quyền. Sự đồng thuận của người chưa thành
niên hoặc cha mẹ các em là một điều kiện tiên quyết để áp dụng biện pháp xử
lý ngoài tư pháp. Tại Quy tắc 11.3 trong Quy tắc về các chuẩn mực tối thiểu
về quản lý tư pháp người chưa thành niên quy định rằng tất cả các tiến trình
xử lý chuyển hướng tuyến người chưa thành niên ra những dịch vụ tại cộng
đồng phù hợp hoặc các dịch vụ khác đều phải được sự đồng thuận của người
chưathành niên, cha mẹ hoặc người giám hộ của các em. Quy tắc này cũngnhấn
mạnh rằng cần có sự quan tâm giám sát phù hợp để giảm mức thấp nhất nguy
cơ bắt ép, đe dọa trong tất cả các giai đoạn của quy trình xử lý chuyển hướng
ngay tại Phần giải thích: Phải đảm bảo người chưa thành niên không bị gây
áp lực buộc phải đồng ý thực hiện chương trình xử lý chuyển hướng, chẳng
hạn như áp lực nếu không đồng ý chuyển hướng thì phải ra trước tòa án.
- Quy tắc tổng quát áp dụng trong hệ thống tư pháp người chưa thành
niên là "lợi ích tốt nhất cho trẻ em". Và tôn trọng, bảo vệ tất cả các quyền con
người của trẻ em. Quy tắc tổng quát này cần được vận dụng vào tất cả các giai
đoạn của quá trình tố tụng, từ bắt giữ, khởi tố, điều tra đến truy tố, xét xử và
cải tạo - giáo dục. Không trẻ em nào bị tước quyền tự do một cách tùy tiện,
việc bắt, giam giữ, bỏ tù trẻ em phải được tiến hành theo pháp luật và chỉ
được tính đến như biện pháp cuối cùng và trong thời gian ngắn nhất.
45
Ngay tại lời nói đầu của Công ước quốc tế của Liên hợp quốc về
quyền trẻ em đã "xét rằng, trẻ em cần được chuẩn bị đầy đủ để cuộc sống cá
nhân trong xã hội và cần được nuôi nấng, giáo dục theo tinh thần các lý tưởng
được nêu ra trong Hiến Chương Liên hợp quốc, nhất là theo tinh thần hòa
bình, phẩm giá, khoan dung, tự do, bình đẳng và đoàn kết" [33].
Ngoài ra tại mục 4 Điều 40 của Công ước này đã cụ thể hóa:
Cần có sẵn nhiều biện pháp khác nhau, như là sự chăm sóc,
các hướng dẫn và lệnh giám sát: tư vấn, tạm tha; sự chăm nom của
cha mẹ nuôi, các chương trình giáo dục và dạy nghề và những biện
pháp thay thế khác bên ngoài sự chăm sóc của các cơ quan và tổ
chức trong thể chế, nhằm bảo đảm cho các trẻ em được đối xử một
cách phù hợp với phúc lợi của các em và tương xứng với tình cảm
và tội phạm của những em này [33].
Bản Quy tắc về bảo vệ người chưa thành niên bị tước đoạt tự do thì
quy định các biện pháp không giam giữ phải được khuyến khích phát triển và
giám sát chặt chẽ (quy tắc 2..4). Bộ quy tắc này cũng khuyến khích thiết lập
đa dạng các biện pháp xử lý dựa vào cộng đồng:
Nhằm tạo ra các biện pháp xử lý linh hoạt để đáp ứng với
bản chất và mức độ nghiêm trọng của từng hành vi vi phạm, với
nhân thân và hoàn cảnh của người vi phạm cũng như với yêu cầu
bảo vệ xã hội và tránh áp dụng hình phạt tù khi chưa cần thiết, hệ
thống tư pháp hình sự cần thiết lập đa dạng các biện pháp xử lý
không giam giữ trong các quyết định từ trước khi xét xử tới sau khi
đưa ra hình phạt. Số lượng và loại hình các biện pháp không giam
giữ nên được quyết định áp dụng sao cho vẫn có thể áp dụng các
biện pháp trừng phạt khác [34, Quy tắc 2.3].
Bản Quy tắc về các chuẩn mực tối thiểu về quản lý tư pháp người
chưa thành niên cũng đã nêu rõ:
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Người chưa thành niên phạm tội, HAY
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Người chưa thành niên phạm tội, HAY
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Người chưa thành niên phạm tội, HAY
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Người chưa thành niên phạm tội, HAY
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Người chưa thành niên phạm tội, HAY
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Người chưa thành niên phạm tội, HAY
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Người chưa thành niên phạm tội, HAY
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Người chưa thành niên phạm tội, HAY
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Người chưa thành niên phạm tội, HAY
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Người chưa thành niên phạm tội, HAY
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Người chưa thành niên phạm tội, HAY
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Người chưa thành niên phạm tội, HAY
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Người chưa thành niên phạm tội, HAY
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Người chưa thành niên phạm tội, HAY
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Người chưa thành niên phạm tội, HAY
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Người chưa thành niên phạm tội, HAY
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Người chưa thành niên phạm tội, HAY
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Người chưa thành niên phạm tội, HAY
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Người chưa thành niên phạm tội, HAY
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Người chưa thành niên phạm tội, HAY
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Người chưa thành niên phạm tội, HAY
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Người chưa thành niên phạm tội, HAY
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Người chưa thành niên phạm tội, HAY
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Người chưa thành niên phạm tội, HAY
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Người chưa thành niên phạm tội, HAY
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Người chưa thành niên phạm tội, HAY
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Người chưa thành niên phạm tội, HAY
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Người chưa thành niên phạm tội, HAY
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Người chưa thành niên phạm tội, HAY
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Người chưa thành niên phạm tội, HAY
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Người chưa thành niên phạm tội, HAY
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Người chưa thành niên phạm tội, HAY
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Người chưa thành niên phạm tội, HAY
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Người chưa thành niên phạm tội, HAY
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Người chưa thành niên phạm tội, HAY
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Người chưa thành niên phạm tội, HAY
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Người chưa thành niên phạm tội, HAY
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Người chưa thành niên phạm tội, HAY
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Người chưa thành niên phạm tội, HAY
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Người chưa thành niên phạm tội, HAY
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Người chưa thành niên phạm tội, HAY
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Người chưa thành niên phạm tội, HAY
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Người chưa thành niên phạm tội, HAY
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Người chưa thành niên phạm tội, HAY
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Người chưa thành niên phạm tội, HAY
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Người chưa thành niên phạm tội, HAY
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Người chưa thành niên phạm tội, HAY
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Người chưa thành niên phạm tội, HAY
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Người chưa thành niên phạm tội, HAY
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Người chưa thành niên phạm tội, HAY
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Người chưa thành niên phạm tội, HAY
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Người chưa thành niên phạm tội, HAY
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Người chưa thành niên phạm tội, HAY
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Người chưa thành niên phạm tội, HAY
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Người chưa thành niên phạm tội, HAY
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Người chưa thành niên phạm tội, HAY
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Người chưa thành niên phạm tội, HAY
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Người chưa thành niên phạm tội, HAY
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Người chưa thành niên phạm tội, HAY
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Người chưa thành niên phạm tội, HAY
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Người chưa thành niên phạm tội, HAY
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Người chưa thành niên phạm tội, HAY
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Người chưa thành niên phạm tội, HAY
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Người chưa thành niên phạm tội, HAY
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Người chưa thành niên phạm tội, HAY
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Người chưa thành niên phạm tội, HAY
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Người chưa thành niên phạm tội, HAY
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Người chưa thành niên phạm tội, HAY
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Người chưa thành niên phạm tội, HAY
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Người chưa thành niên phạm tội, HAY
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Người chưa thành niên phạm tội, HAY
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Người chưa thành niên phạm tội, HAY
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Người chưa thành niên phạm tội, HAY
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Người chưa thành niên phạm tội, HAY
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Người chưa thành niên phạm tội, HAY
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Người chưa thành niên phạm tội, HAY
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Người chưa thành niên phạm tội, HAY
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Người chưa thành niên phạm tội, HAY
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Người chưa thành niên phạm tội, HAY
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Người chưa thành niên phạm tội, HAY
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Người chưa thành niên phạm tội, HAY
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Người chưa thành niên phạm tội, HAY

More Related Content

What's hot

Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn huyện quảng...
Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn huyện quảng...Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn huyện quảng...
Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn huyện quảng...nataliej4
 
Top 456+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự - Ha...
Top 456+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự - Ha...Top 456+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự - Ha...
Top 456+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự - Ha...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAYĐề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAYViết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 

What's hot (20)

Luận văn: Tình hình tội phạm tại quận Phú Nhuận, TPHCM, 9đ
Luận văn: Tình hình tội phạm tại quận Phú Nhuận, TPHCM, 9đLuận văn: Tình hình tội phạm tại quận Phú Nhuận, TPHCM, 9đ
Luận văn: Tình hình tội phạm tại quận Phú Nhuận, TPHCM, 9đ
 
Luận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại Tp Hà Nội, 9đ
Luận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại Tp Hà Nội, 9đLuận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại Tp Hà Nội, 9đ
Luận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại Tp Hà Nội, 9đ
 
Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn huyện quảng...
Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn huyện quảng...Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn huyện quảng...
Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn huyện quảng...
 
200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Ngành Luật Tại Tòa Án, 9 Điểm
200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Ngành Luật Tại Tòa Án, 9 Điểm200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Ngành Luật Tại Tòa Án, 9 Điểm
200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Ngành Luật Tại Tòa Án, 9 Điểm
 
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOTLuận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
 
Biện pháp tư pháp đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Biện pháp tư pháp đối với người chưa thành niên phạm tội, HOTBiện pháp tư pháp đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Biện pháp tư pháp đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
 
Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy theo Luật hình sự, HOT
Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy theo Luật hình sự, HOTTội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy theo Luật hình sự, HOT
Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy theo Luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
Luận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tộiLuận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
Luận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
 
Luận án: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HAY
Luận án: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HAYLuận án: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HAY
Luận án: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HAY
 
Top 456+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự - Ha...
Top 456+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự - Ha...Top 456+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự - Ha...
Top 456+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự - Ha...
 
Luận văn: Phòng ngừa tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện
Luận văn: Phòng ngừa tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiệnLuận văn: Phòng ngừa tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện
Luận văn: Phòng ngừa tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện
 
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
 
Luận văn: Phòng ngừa tội trộm cắp tài sản tại quận Tân Bình, HAY
Luận văn: Phòng ngừa tội trộm cắp tài sản tại quận Tân Bình, HAYLuận văn: Phòng ngừa tội trộm cắp tài sản tại quận Tân Bình, HAY
Luận văn: Phòng ngừa tội trộm cắp tài sản tại quận Tân Bình, HAY
 
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Điện Biên
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Điện BiênLuận văn: Các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Điện Biên
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Điện Biên
 
Luận văn: Tình hình tội phạm về ma túy tại tỉnh Quảng Nam, HAY
Luận văn: Tình hình tội phạm về ma túy tại tỉnh Quảng Nam, HAYLuận văn: Tình hình tội phạm về ma túy tại tỉnh Quảng Nam, HAY
Luận văn: Tình hình tội phạm về ma túy tại tỉnh Quảng Nam, HAY
 
Phòng ngừa tình hình các tội phạm về ma túy tại Đà Nẵng, 9đ
Phòng ngừa tình hình các tội phạm về ma túy tại Đà Nẵng, 9đPhòng ngừa tình hình các tội phạm về ma túy tại Đà Nẵng, 9đ
Phòng ngừa tình hình các tội phạm về ma túy tại Đà Nẵng, 9đ
 
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo Luật
Luận văn: Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo LuậtLuận văn: Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo Luật
Luận văn: Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo Luật
 
Luận văn: Giáo dục, tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Giáo dục, tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tộiLuận văn: Giáo dục, tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Giáo dục, tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
 
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAYĐề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
 

Similar to BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Người chưa thành niên phạm tội, HAY

Luận Văn Thạc Sĩ Luật Hình Sự Người Chưa Thành Niên Phạm Tội Trong Hình Sự
Luận Văn Thạc Sĩ Luật Hình Sự Người Chưa Thành Niên Phạm Tội Trong Hình SựLuận Văn Thạc Sĩ Luật Hình Sự Người Chưa Thành Niên Phạm Tội Trong Hình Sự
Luận Văn Thạc Sĩ Luật Hình Sự Người Chưa Thành Niên Phạm Tội Trong Hình SựDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Các hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội trong luật hình ...
Các hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội trong luật hình ...Các hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội trong luật hình ...
Các hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội trong luật hình ...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 

Similar to BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Người chưa thành niên phạm tội, HAY (20)

Luận văn: Chính sách hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Chính sách hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tộiLuận văn: Chính sách hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Chính sách hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
 
Luận Văn Thạc Sĩ Luật Hình Sự Người Chưa Thành Niên Phạm Tội Trong Hình Sự
Luận Văn Thạc Sĩ Luật Hình Sự Người Chưa Thành Niên Phạm Tội Trong Hình SựLuận Văn Thạc Sĩ Luật Hình Sự Người Chưa Thành Niên Phạm Tội Trong Hình Sự
Luận Văn Thạc Sĩ Luật Hình Sự Người Chưa Thành Niên Phạm Tội Trong Hình Sự
 
Bảo đảm quyền của bị can, bị cáo là người chưa thành niên
Bảo đảm quyền của bị can, bị cáo là người chưa thành niênBảo đảm quyền của bị can, bị cáo là người chưa thành niên
Bảo đảm quyền của bị can, bị cáo là người chưa thành niên
 
Luận văn: Bảo đảm quyền bị can, bị cáo là người chưa thành niên
Luận văn: Bảo đảm quyền bị can, bị cáo là người chưa thành niênLuận văn: Bảo đảm quyền bị can, bị cáo là người chưa thành niên
Luận văn: Bảo đảm quyền bị can, bị cáo là người chưa thành niên
 
Bảo đảm quyền của bị can, bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Bảo đảm quyền của bị can, bị cáo là người chưa thành niên, HAYBảo đảm quyền của bị can, bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Bảo đảm quyền của bị can, bị cáo là người chưa thành niên, HAY
 
Ngăn chặn bắt, tạm giam đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, 9đ
Ngăn chặn bắt, tạm giam đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, 9đNgăn chặn bắt, tạm giam đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, 9đ
Ngăn chặn bắt, tạm giam đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, 9đ
 
Các hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội trong luật hình ...
Các hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội trong luật hình ...Các hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội trong luật hình ...
Các hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội trong luật hình ...
 
Ngăn chặn người chưa thành niên phạm tội trong điều tra vụ án
Ngăn chặn người chưa thành niên phạm tội trong điều tra vụ ánNgăn chặn người chưa thành niên phạm tội trong điều tra vụ án
Ngăn chặn người chưa thành niên phạm tội trong điều tra vụ án
 
Quyền con người của người chưa thành niên phạm tội, HAY
Quyền con người của người chưa thành niên phạm tội, HAYQuyền con người của người chưa thành niên phạm tội, HAY
Quyền con người của người chưa thành niên phạm tội, HAY
 
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAYLuận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
 
Áp dụng pháp luật hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội
Áp dụng pháp luật hình sự đối với người chưa thành niên phạm tộiÁp dụng pháp luật hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội
Áp dụng pháp luật hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội
 
Biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội, HOTBiện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
 
Luận văn: Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tộiLuận văn: Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
 
Áp dụng các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Áp dụng các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tộiÁp dụng các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Áp dụng các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
 
Chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội, HOTChính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
 
Chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội
Chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tộiChính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội
Chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội
 
Luận án: Chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội
Luận án: Chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tộiLuận án: Chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội
Luận án: Chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội
 
Luận án: Chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội
Luận án: Chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tộiLuận án: Chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội
Luận án: Chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội
 
Hình phạt tù có thời hạn đối với người chưa thành niên phạm tội
Hình phạt tù có thời hạn đối với người chưa thành niên phạm tộiHình phạt tù có thời hạn đối với người chưa thành niên phạm tội
Hình phạt tù có thời hạn đối với người chưa thành niên phạm tội
 
Thực tiễn thi hành thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội!
Thực tiễn thi hành thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội!Thực tiễn thi hành thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội!
Thực tiễn thi hành thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội!
 

More from Viết Thuê Khóa Luận _ ZALO 0917.193.864 default

More from Viết Thuê Khóa Luận _ ZALO 0917.193.864 default (20)

Khóa luận ngành tài chính ngân hàng chính sách xã hội, HAY
Khóa luận ngành tài chính ngân hàng chính sách xã hội, HAYKhóa luận ngành tài chính ngân hàng chính sách xã hội, HAY
Khóa luận ngành tài chính ngân hàng chính sách xã hội, HAY
 
Bài mẫu báo cáo thực tập tại ngân hàng chính sách xã hội, HAY
Bài mẫu báo cáo thực tập tại ngân hàng chính sách xã hội, HAYBài mẫu báo cáo thực tập tại ngân hàng chính sách xã hội, HAY
Bài mẫu báo cáo thực tập tại ngân hàng chính sách xã hội, HAY
 
Bài mẫu báo cáo tại ngân hàng đầu tư và phát triển BIDV
Bài mẫu báo cáo tại ngân hàng đầu tư và phát triển BIDVBài mẫu báo cáo tại ngân hàng đầu tư và phát triển BIDV
Bài mẫu báo cáo tại ngân hàng đầu tư và phát triển BIDV
 
Báo cáo Thực trạng hoạt động cho vay cá nhân Tại Vietcombank, HAY
Báo cáo Thực trạng hoạt động cho vay cá nhân Tại Vietcombank, HAYBáo cáo Thực trạng hoạt động cho vay cá nhân Tại Vietcombank, HAY
Báo cáo Thực trạng hoạt động cho vay cá nhân Tại Vietcombank, HAY
 
Khóa luận tại ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, HAY
Khóa luận tại ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, HAYKhóa luận tại ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, HAY
Khóa luận tại ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, HAY
 
Bài mẫu tiểu luận về An ninh mạng, HAY
Bài mẫu tiểu luận về An ninh mạng, HAYBài mẫu tiểu luận về An ninh mạng, HAY
Bài mẫu tiểu luận về An ninh mạng, HAY
 
Bài mẫu Tiểu luận về an toàn giao thông đường bộ, HAY
Bài mẫu Tiểu luận về an toàn giao thông đường bộ, HAYBài mẫu Tiểu luận về an toàn giao thông đường bộ, HAY
Bài mẫu Tiểu luận về an toàn giao thông đường bộ, HAY
 
Tiểu luận Chiến lược cạnh tranh của công ty Amazon, HAY
Tiểu luận Chiến lược cạnh tranh của công ty Amazon, HAYTiểu luận Chiến lược cạnh tranh của công ty Amazon, HAY
Tiểu luận Chiến lược cạnh tranh của công ty Amazon, HAY
 
Bài mẫu tiểu luận môn về Apple, HAY
Bài mẫu tiểu luận môn về Apple, HAYBài mẫu tiểu luận môn về Apple, HAY
Bài mẫu tiểu luận môn về Apple, HAY
 
Bài mẫu Tiểu luận về FPT, HAY
Bài mẫu Tiểu luận về FPT, HAYBài mẫu Tiểu luận về FPT, HAY
Bài mẫu Tiểu luận về FPT, HAY
 
Bài mẫu Tiểu luận về chính quyền địa phương, HAY
Bài mẫu Tiểu luận về chính quyền địa phương, HAYBài mẫu Tiểu luận về chính quyền địa phương, HAY
Bài mẫu Tiểu luận về chính quyền địa phương, HAY
 
Bài mẫu tiểu luận về công ty Vissan, HAY
Bài mẫu tiểu luận về công ty Vissan, HAYBài mẫu tiểu luận về công ty Vissan, HAY
Bài mẫu tiểu luận về công ty Vissan, HAY
 
Tiểu luận Chiến lược marketing của kinh đô, HAY
Tiểu luận Chiến lược marketing của kinh đô, HAYTiểu luận Chiến lược marketing của kinh đô, HAY
Tiểu luận Chiến lược marketing của kinh đô, HAY
 
Bài mẫu Tiểu luận về cà phê Trung Nguyên, HAY
Bài mẫu Tiểu luận về cà phê Trung Nguyên, HAYBài mẫu Tiểu luận về cà phê Trung Nguyên, HAY
Bài mẫu Tiểu luận về cà phê Trung Nguyên, HAY
 
Bài mẫu tiểu luận về bình đẳng giới, 9 ĐIỂM
Bài mẫu tiểu luận về bình đẳng giới, 9 ĐIỂMBài mẫu tiểu luận về bình đẳng giới, 9 ĐIỂM
Bài mẫu tiểu luận về bình đẳng giới, 9 ĐIỂM
 
Bài mẫu tiểu luận về bánh ngọt, HAY
Bài mẫu tiểu luận về bánh ngọt, HAYBài mẫu tiểu luận về bánh ngọt, HAY
Bài mẫu tiểu luận về bánh ngọt, HAY
 
Bài mẫu tiểu luận về báo in, HAY
Bài mẫu tiểu luận về báo in, HAYBài mẫu tiểu luận về báo in, HAY
Bài mẫu tiểu luận về báo in, HAY
 
Bài mẫu Tiểu luận bảo vệ môi trường, HAY
Bài mẫu Tiểu luận bảo vệ môi trường, HAYBài mẫu Tiểu luận bảo vệ môi trường, HAY
Bài mẫu Tiểu luận bảo vệ môi trường, HAY
 
Tiểu luận thực trạng bạo lực gia đình Việt Nam hiện nay
Tiểu luận thực trạng bạo lực gia đình Việt Nam hiện nayTiểu luận thực trạng bạo lực gia đình Việt Nam hiện nay
Tiểu luận thực trạng bạo lực gia đình Việt Nam hiện nay
 
Tiểu luận Nguyên lý marketing với đề tài về BITIS, HAY
Tiểu luận Nguyên lý marketing với đề tài về BITIS, HAYTiểu luận Nguyên lý marketing với đề tài về BITIS, HAY
Tiểu luận Nguyên lý marketing với đề tài về BITIS, HAY
 

Recently uploaded

powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxpowerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxAnAn97022
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfVyTng986513
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxnhungdt08102004
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdftohoanggiabao81
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdfTrnHoa46
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (20)

powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxpowerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 

BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Người chưa thành niên phạm tội, HAY

  • 1. 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN TIẾN HOÀN CÁC NGUYÊN TẮC XỬ LÝ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành :Luật hình sự Mã số : 60 38 40 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Trịnh TiếnViệt HÀ NỘI- 2013
  • 2. 2 Tải miễn phí kết bạn Zalo:0917 193 864 Dịch vụ viết luận văn chất lượng Website: luanvantrust.com Zalo/Tele: 0917 193 864 Mail: baocaothuctapnet@gmail.com
  • 3. 3 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Lê Thẩm Du
  • 4. 4 MỤC LỤC Trang TRANG PHỤ BÌA Lời cam đoan MỤC LỤC Danh mụccác bảng MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC NGUYÊN TẮC XỬ LÝNGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊNPHẠMTỘI 9 1.1. Khái niệm, những cơ sở và ý nghĩa của việc quy định các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội trong luật hình sự Việt Nam 9 1.1.1. Khái niệm các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội trong luật hình sự Việt Nam 10 1.1.2. Những cơ sở của việc quy định các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội trong luật hình sự Việt Nam 15 1.1.3. Ý nghĩa của việc quy định các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội trong luật hình sự Việt Nam 19 1.2. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội trong luật hình sự Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 21 1.2.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 21 1.2.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 26 1.3. Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội trong 32
  • 5. 5 pháp luật quốc tế và pháp luật hình sự một số nước 1.3.1. Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội trong pháp luật quốc tế 32 1.3.2. Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội trong pháp luật hình sự một số nước trên thế giới 41 Chương 2: NỘI DUNG CÁC NGUYÊN TẮC XỬ LÝ NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN PHẠM TỘITRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH 47 2.1. Nội dung các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội trong Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành 47 2.2. Thực tiễn thi hành các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội trong Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành 63 2.2.1. Đánh giá thực trạng thi hành các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội 63 2.2.2. Những tồn tại trong thực tiễn thi hành và vướng mắc trong lập pháp hình sự liên quan đến việc áp dụng các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội 72 Chương 3: hoàn thiện pháp luật và những giải pháp bảo đảm thi hành các nguyên tắc xửlý ngƣời chƣa thànhniên phạm tội trong bộ luật hình sự việt nam hiện hành 78 3.1. Sự cần thiết của việc hoàn thiện pháp luật về các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội trong Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành 78 3.2. Hoàn thiện về các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội trong Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành 82 3.2.1. Nhận xét chung 82 3.2.2. Sửa đổi bổ sung các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên 88
  • 6. 6 phạm tội trong Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành 3.3. Những giải pháp bảo đảm thi hành các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội trong Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành 89 3.3.1. Xây dựng đội ngũ thẩm phán chuyên trách giải quyết án người chưa thành niên phạm tội và nghiên cứu thành lập Tòa án gia đình và người chưa thành niên 90 3.3.2. Tăng cường xử lý chuyển hướng đối với người chưa thành niên phạm tội sang áp dụng biện pháp xử lý không chính thức 97 3.3.3. Tăng cường các biện pháp tái hòa nhập cộng đồng đối với người chưa thành niên phạm tội 101 kết luận 106 DANH MỤC TÀI LIỆUTHAM KHẢO 109
  • 7. 7 DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang 1.1 So sánh độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự của một số nước 17 1.2 Sự hình thành và phát triển nhân cách con người 18 2.1 Tương quan giữa tổng số vụ án đã xét xử trên toàn quốc và tổng số vụ án có bị cáo là người chưa thành niên đã xét xử trên toàn quốc giai đoạn từ năm 2007 đến năm 2012 64 2.2 Tương quan giữa tổng số bị cáo đã xét xử trên toàn quốc với tổng số bị cáo là người chưa thành niên đã xét xử trên toàn quốc giai đoạn từ năm 2007 đến năm 2012 65 2.3 Tương quan giữa tổng số bị cáo là người chưa thành niên đã xét xử trên toàn quốc với tổng số người chưa thành niên được miễn trách nhiệm hình sự từ năm 2007 đến năm 2012 66 2.4 Các vụ án hình sự có bị cáo là người chưa thành niên và kết quả giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội từ năm 2007 đến năm 2012 67 2.5 Các vụ án hình sự sơ thẩm có bị cáo là người chưa thành niên và việc áp dụng biện pháp tư pháp của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội từ năm 2007 đến năm 2012 74
  • 8. 8 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trước đây và hiện nay công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em ở nước ta luôn được coi là sự nghiệp lớn của đất nước và dân tộc, được đúc kết bởi tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giáo dục: Vì lợi ích mười năm phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm phải trồng người. Tiếp thu tư tưởng trên của Người, Đảng và Nhà nước ta khẳng định: "Chính sách chăm sóc, bảo vệ trẻ em tập trung vào thực hiện quyền trẻ em, tạo điều kiện cho trẻ em được sống trong môi trường an toàn và lành mạnh, phát triển hài hòa về thể chất, trí tuệ, tinh thần và đạo đức" [16], và trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta cũng khẳng định lại: "Chú trọng cải thiện điều kiện sống, lao động và học tập của thanh niên, thiếu niên, giáo dục và bảo vệ trẻ em" [22]. Cho nên, chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong việc chăm sóc và giáo dục trẻ em là một lĩnh vực chính sách đặc biệt - đều coi trẻ em - người chưa thành niên là đối tượng bảo vệ, chăm sóc và quan tâm đặc biệt. Với quan điểm nhất quán trong việc bảo vệ trẻ em, ngay từ khi Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989 được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua, Việt Nam là nước thứ hai trên thế giới và là nước đầu tiên của Châu Á tham gia. Trên cơ sở đó, Nhà nước ta đã thúc đẩy hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo vệ quyền trẻ em, trong đó đã dành sự quan tâm đặc biệt cho đối tượng trẻ em vi phạm pháp luật, nhất là những trường hợp người chưa thành niên phạm tội. Xuất phát từ chính sách hình sự được ghi nhận trong Công ước về quyền trẻ em năm 1989 là: "Trẻ em, do còn non nớt về thể chất và trí tuệ cần được bảo vệ, chăm sóc đặc biệt, kể cả bảo vệ thích hợp về mặt pháp lí trước cũng như sau khi ra đời" [33]. Bộ luật hình sự hiện hành đã xây dựng một chương riêng quy định đường lối xử lý đối với người chưa thành niên phạm
  • 9. 9 tội. Quy định này dựa trên cơ sở phân tích về tâm, sinh lý đối với người chưa thành niên. Đây là đối tượng chưa phát triển đầy đủ về thể chất cũng như tâm, sinh lý, họ bị hạn chế về trình độ nhận thức cũng như về kinh nghiệm sống, thiếu những điều kiện về bản lĩnh, tự lập, khả năng tự kìm chế chưa cao nên họ dễ bị kích động, dễ bị lôi kéo vào những hoạt động phiêu lưu, mạo hiểm. Do đó, pháp luật hình sự Việt Nam đã đặt ra những nguyên tắc riêng khi xử lý hành vi phạm tội của người chưa thành niên, đó là những nguyên tắc cơ bản có tính chất chỉ đạo, xuyên suốt trong quá trình khi xử lý người chưa thành niên phạm tội cũng như phân loại mức độ phải chịu trách nhiệm hình sự của từng lứa tuổi. Theo đó, người chưa thành niên ngay cả khi trở thành chủ thể của tội phạm thì việc bảo vệ các quyền và lợi ích của họ cũng được tôn trọng và đặt lên hàng đầu, lấy mục đích xử lý giáo dục, phòng ngừa là chính, làm sao để các em có thể quay lại trở thành công dân có ích. Tuy nhiên, trước tình trạng chung hiện nay, tội phạm có xu hướng trẻ hóa, tội phạm do người chưa thành niên ngày càng diễn biến phức tạp và gia tăng, chiếm 15-18%. Hàng năm các cơ quan thi hành pháp luật bắt giữ, truy tố hơn 115 nghìn người, trong đó có 16 - 18 nghìn trẻ vị thành niên [10]. Bên cạnh đó, một số quy định về nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội còn chưa cụ thể dẫn đến việc áp dụng các nguyên tắc này của các cơ quan tiến hành tố tụng còn chưa thống nhất và triệt để như việc áp dụng miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, tình trạng áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người chưa thành niên còn phổ biến. Chỉ tính riêng trên địa bàn thành phố Hà Nội trong năm 2012, Tòa án nhân dân các cấp đã tuyên phạt 286 bị cáo là người chưa thành niên hình phạt tù có thời hạn (trong đó có 220 trường hợp cho hưởng án treo)... (bảng 2.4 - trang 56). Do đó, nhằm bảo đảm thực hiện triệt để các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội, thời gian qua, trên sách báo pháp lý và các công
  • 10. 10 trình nghiên cứu đã viết nhiều về người chưa thành niên phạm tội, ở việc phân tích tình hình tội phạm do người chưa thành niên phạm tội và những giải pháp đấu tranh, phòng ngừa hoặc ở các khía cạnh khác như trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên phạm tội; các hình phạt và biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội… mà chưa có một công trình nào đi sâu vào nghiên cứu riêng biệt, độc lập và dưới góc độ pháp lý hình sự - chuyên đề về các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội trong luật hình sự Việt Nam. Bên cạnh đó, ngày 19/6/2009, Quốc hội đã sửa đổi một số nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội trong Bộ luật hình sự năm 1999. Theo đó, Điều 69 Bộ luật hình sự được sửa đổi, bổ sung thêm nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội đã được ghi nhận trong Công ước về quyền trẻ em và các chuẩn mực quốc tế khác, đó là biện pháp giam giữ chỉ được áp dụng cuối cùng khi không còn biện pháp thích hợp nào khác và trong thời hạn ngắn nhất. Cụ thể, khoản 5 Điều 69 được bổ sung thêm nguyên tắc chỉ đạo: "Khi áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội cần hạn chế áp dụng hình phạt tù" [58], để mở ra khả năng cho người chưa thành niên phạm tội sớm tự cải tạo, giáo dục trở thành người có ích cho gia đình và cộng đồng. Vì những lý do trên, chúng tôi quyết định lựa chọn đề tài "Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội trong luật hình sự Việt Nam" để làm luận văn thạc sĩ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Thời gian qua, ở các mức độ khác nhau đã có một số công trình khoa học đề cập trực tiếp hoặc gián tiếp đến đề tài này hoặc xem xét nó trong tương quan là một phần, mục trong các giáo trình, sách chuyên khảo, bình luận hoặc đề cập chung khi nghiên cứu vấn đề trách nhiệm hình sự đối với người chưa
  • 11. 11 thành niên phạm hay vấn đề quyết định hình phạt hay dưới góc độ tội phạm học - phòng ngừa tội phạm do đối tượng đặc thù này thực hiện… Trước hết, về giáo trình, sách chuyên khảo, bình luận có các công trình sau: 1) PGS.TS. Trịnh Quốc Toản, "Chương XVIII - Những đặc thù về trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội", Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung), Nxb Đại học Quốc Gia Hà Nội, 2001, tái bản năm 2003, 2007 (Tập thể tác giả do GS. TSKH. Lê Cảm chủ biên); 2) TS. Hoàng Văn Hùng, "Chương XVI - Trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội", Giáo trình luật hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2000 (tập thể tác giả do GS. TS Nguyễn Ngọc Hòa chỉ biên); 3) PGS.TS Trần Đình Nhã, "Chương XXIV - Trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội", Giáo trình luật hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2003 (tập thể tác giả do GS. TS Võ Khánh Vinh chủ biên); 4) GS. TS Nguyễn Xuân Yêm, "Chương 27 - Phòng ngừa các tội phạm do người chưa thành niên gây ra", Tội phạm học hiện đại và phòng ngừa tội phạm, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2001; 5) ThS. Trịnh Đình Thể, Áp dụng chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2006; 6) TS. Vũ Đức Khiển, Bùi Hữu Hùng, Phạm Xuân Chiến, Đỗ Văn Hán, Trần Phàn, Phòng ngừangườichưathànhniên phạmtội, Nxb Pháp lý, Hà Nội, 1987; 7) ThS. Trần Đức Châm, Thanh, thiếu niên làm trái pháp luật - Thực trạng và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002; v.v… Bên cạnh đó, dưới góc độ khoa học cho thấy mới có một số công trình ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học nhưng dưới khía cạnh pháp lý hình sự hoặc tội phạmhọc hay xem xét nội dung vấn đề trong tương quan với nhiều nội dung khác như quyết định hình phạt, trách nhiệm hình sự người chưa thành niên: 1) Đào Thị Nga, Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, Luận văn thạc sĩ luật học, trường Đại học Luật Hà Nội, 1997; 2) Trần Văn Dũng, Trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên phạm tội trong luật
  • 12. 12 hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2003; 3) Nguyễn Minh Khuê, Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2007; 4) Lưu Ngọc Cảnh, Các hình phạt và biện pháp tư pháp áp dụng đối với ngườichưa thành niên phạm tội theo Luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở thực tiễn xét xử trên địa bàn thành phốHà Nội), Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2010; v.v… Còn về các công trình dưới dạng bài viết đăng trên tạp chí khoa học pháp lý có thể kể đến các công trình sau: 1) GS. TSKH Lê Cảm, TS. Đỗ Thị Phượng, Tư pháp hình sự đối với người chưa thành niên: Những khía cạnh pháp lý hình sự, tố tụng hình sự, tội phạm học và so sánh luật học, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 20-10/2004; 2) TS. Trần Văn Dũng, Quyết định hình phạttrong trường hợp người chưa thành niên phạm tội, Tạp chí Luật học, số 5/2000; 3) TS. Dương Tuyết Miên, Quyết định hình phạt đối với đối với người chưa thành niên phạm tội, Tạp chí Luật học, số 4/2002; 4) TS. Trương Minh Mạnh, Phân loại tội phạm với việc quy định trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên, Tạp chí Kiểm sát, số 8/2002; 5) TS. Trịnh Tiến Việt, Những khía cạnh pháp lý hình sự về hình phạt và biện pháp áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 13 (6), 14 (7)/2010; v.v… Tuy nhiên, hiện nay trong khoa học luật hình sự Việt Nam vẫn chưa có công trình nào đề cập một cách tương đối có hệ thống, đồng bộ và toàn diện về các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội và đặc biệt là ở cấp độ một luận văn thạc sĩ đúng như tên gọi của đề tài - Cácnguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội trong luật hình sự Việt Nam. Do đó, với tư cách là một cán bộ ngành Kiểm sát - Cơ quan bảo vệ pháp luật, việc lựa chọn đề tài này góp phần làm sáng tỏ các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội, đồng thời đưa ra
  • 13. 13 những kiến nghị khả thi, tiến tới xây dựng một hệ thống chính sách pháp luật và giải pháp nhất quán trong pháp luật và nhận thức về tội phạm người chưa thành niên, về các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên, qua đó nâng cao hiệu quả công tác giáo dục, phòng ngừa người chưa thành niên phạm tội. 3. Phạm vi và đối tƣợng nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu một cách có hệ thống về những vấn đề pháp lý cơ bản về các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội như sau: 1) Khái niệm các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội; 2) Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến trước khi có Bộ luật hình sự năm 1999; 3) Nghiên cứu, phân tích một số quy định về nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội và các lý luận về hình sự trong pháp luật quốc tế và pháp luật hình sự một số nước trên thế giới; 4) Phân tích quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 hiện hành về các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội; 5) Phân tích, đánh giá tình hình thi hành các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm trong giai đoạn từ năm 2007 đến năm 2012 và rút ra những tồn tại, hạn chế; 6) Đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam, cũng như các giải pháp bảo đảm thi hành các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội. Đối tượng nghiên cứu Đốitượngnghiên cứucủaluận văn đúngnhưtên gọicủanó - Cácnguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội theo luật hình sự Việt Nam.
  • 14. 14 4. Cơ sở phƣơng pháp luận và các phƣơng pháp nghiêncứu Cơ sở phương pháp luận Cơ sở phương pháp luận của việc nghiên cứu đề tài là hệ thống các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội; các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về pháp luật nói chung, chính sách hình sự nói riêng, đặc biệt là các quan điểm, tư tưởng về cải tạo, giáo dục, phòng ngừa tội phạm đối với người chưa thành niên, cũng như việc áp dụng các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội trong nước và quốc tế. Các phương pháp nghiên cứu Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu của khoa học luật hình sự như: phân tích, tổng hợp và thống kê xã hội học, phương pháp so sánh, đối chiếu, phương pháp điều tra án điển hình để phân tích các giá trị tri thức khoa học luật hình sự và luận chứng các vấn đề khoa học cần được nghiên cứu trong luận văn này. 5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Xuất phát từ thực tiễn thi hành các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội và qua nghiên cứu các quan điểm, chủ đạo của Đảng và Nhà nước về việc xử lý người chưa thành niên phạm tội, chúng tôi lựa chọn đề tài này với mong muốn làm rõ một số vấn đề lý luận về các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội; phân tích những quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về các nguyên tắc xử lý đối với đối tượng này. Trên cơ sở đó, luận văn đưa ra những đề xuất, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thi hành các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội ở khía cạnh lý luận, xây dựng pháp luật và áp dụng trong thực tiễn.
  • 15. 15 Bên cạnh đó, luận văn có ý nghĩa là tài liệu tham khảo cần thiết cho những nhà nghiên cứu pháp luật, sinh viên, nghiên cứu sinh chuyên ngành pháp luật, đặc biệt là cán bộ trong các cơ quan tư pháp đang hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự liên quan đến người chưa thành niên, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả công tác giáo dục, cải tạo và phòng ngừa đối tượng người chưa thành niên, một đối tượng đặc thù ở nước ta hiện nay. 6. Kết cấuluận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề chung về các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội. Chương 2: Nội dung các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội trong Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành và thực tiễn thi hành. Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và những giải pháp bảo đảm thi hành các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội trong Bộ luật hình sự Việt Nam.
  • 16. 16 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC NGUYÊN TẮC XỬ LÝ NGƢỜICHƢATHÀNHNIÊN PHẠM TỘI KHÁI NIỆM, NHỮNG CƠ SỞ VÀ Ý NGHĨA CỦA VIỆC QUY ĐỊNH CÁC NGUYÊN TẮC XỬ LÝ NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM Đường lối nhất quán của Đảng và Nhà nước ta là tôn trọng, bảo đảm quyền con người, lấy con người là mục tiêu và động lực của sự phát triển, đặc biệt là đối với trẻ em. Với đối tượng này, Đảng ta đã chỉ rõ: Chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em là vấn đề có tính chiến lược, lâu dài, góp phần quan trọng cho việc chuẩn bị và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Đầu tư cho trẻ em là đầu tư cho tương lai đất nước,… [23]. Thực tế, sau hơn 10 năm thực hiện Chỉ thị số 55-CT/TW ngày 28/6/2000 của Bộ Chính trị khóa VIII, công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em đã có sự chuyển biến tích cực và đạt được một số kết quả quantrọng: Hệ thống pháp luật, chính sách bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em đã từng bước được hoàn thiện. Công tác quản lý Nhà nước về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em được tăng cường. Việc huy động và sử dụng nguồn lực để thực hiện mục tiêu vì trẻ em ngày càng có hiệu quả; chăm sóc sức khỏe, đảm bảo dinh dưỡng cho trẻ em được cải thiện đáng kể. Số trường đạt chuẩn quốc gia và tỉ lệ trẻ em đi học đúng độ tuổi ngày càng tăng; đã hoàn thành phổ cập trung học cơ sở… [23].
  • 17. 17 Tuy nhiên, tình trạng trẻ em vi phạm pháp luật ngày càng tăng "hàng năm có khoảng 18.000.000 người chưa thành niên vi phạm pháp luật, trongđó 15% phạm tội đặc biệt nghiêm trọng" [29]. Cũng như mọi chính sách pháp luật khác của Nhà nước, pháp luật hình sự Việt Nam luôn coi người chưa thành niên là đối tượng cần được bảo vệ, ngay cả khi các em là đối tượng vi phạm gây nguy hiểm cho xã hội. Khi các em là chủ thể của tội phạm thì việc xử lý các em phải tuân theo nguyên tắc bao trùm mang tính chất chỉ đạo thể hiện chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta là lấy giáo dục làm nền tảng, trọng tâm trong quá trình xử lý vụ án. Chính vì vậy, Bộ luật hình sự đã quy định tại Điều 69, về các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm. Khái niệm các nguyên tắc xử lý ngƣời chƣa thành niên phạm tội trong luật hình sự Việt Nam Kế thừa và phát huy tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, kể từ khi thành lập cho đến nay, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm chăm sóc, bảo vệ và giáo dục trẻ em, hệ thống pháp luật, chính sách, chăm sóc bảo vệ trẻ em đã từng bước được hoàn thiện. Trẻ em được cộng đồng quan tâm, giáo dục và bảo vệ trước hành vi xâm hại và ngay cả khi các em là chủ thể của tội phạm thì pháp luật hình sự cũng dành cho các em sự quan tâm đặc biệt. Theo Bộ luật hình sự, việc xử lý, giải quyết các vụ án do người chưa thành niên phạm tội phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản. Đó là "Nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội" được quy định tại Điều 69 Bộ luật hìnhsự. Trước khi có Bộ luật hình sự đầu tiên, tuy chưa có hệ thống hoàn chỉnh các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội nhưng cũng đã có một số nguyên tắc cơ bản được đề cập tại sách báo pháp lý hoặc văn bản hướng dẫn nghiệp vụ cấp ngành. Ví dụ: Bản tổng kết 452-HS2 ngày 10/8/1970 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn việc xét xử đối với người chưa thành niên phạm tội giết người, Chuyên đề sơ kết kinh nghiệm về việc xét xử vụ án về người chưa thành niên phạm tội gửi kèm Công văn số 37- NCPL ngày 16/01/1976 của Tòa án nhân dân tốicao...
  • 18. 18 Kể từ khi có Bộ luật hình sự đầu tiên (Bộ luật hình sự năm 1985) và cho đến Bộ luật hình sự hiện hành (Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2009), các nguyên tắc này đã được pháp điển hóa và hoàn thiện nhưng cho đến nay, trong khoa học luật hình sự Việt Nam, các sách, báo chuyên khảo hoặc công trình nghiên cứu mới chỉ phân tích các nguyên tắc cũng như đường lối xử lý người chưa thành niên phạm tội chứ chưa thấy được và chỉ ra khái niệm khoa học về các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội. Do vậy, ở trong phạm vi nghiên cứu của luận văn này, chúng tôi xin đưa ra khái niệm về các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội nhưng trước khi đưa ra khái niệm này, theo chúng tôi cần phải làm rõ những đặc điểm đặc trưng của các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội như sau: Thứ nhất, các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội thể hiện tính nhân đạo sâu sắc của Đảng và Nhà nước ta. Điều này được thể hiện xuyên suốt trong các nguyên tắc được ghi nhận tại Điều 69 Bộ luật hình sự mà điển hình là nguyên tắc thứ hai - người chưa thành niên có thể được miễn trách nhiệm hình sự nếu người đó phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng, gây hại không lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và được gia đình hoặc cơ quan, tổ chức nhận giám sát, giáo dục. Đây là nguyên tắc thể hiện sự khoan hồng, nhân đạo đặc biệt - miễn trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội, nó phản ánh chính sách nhân đạo của Nhà nước ta đối với người phạm tội và hành vi do họ thực hiện, đồng thời nhằm động viên, khuyến khích họ lập công chuộc tội, chứng tỏ khả năng giáo dục, cải tạo nhanh chóng, tái hòa nhập cộng đồng và trở thành người có ích cho xã hội. Ngoài ra, các nguyên tắc về mục đích xử lý người chưa thành niên phạm tội, về việc áp dụng các biện pháp xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội đều thể hiện tính nhân đạo đối với người chưa thành niên phạm tội.
  • 19. 19 Thứ hai, các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội trong pháp luật hình sự Việt Nam thể hiện tính cụ thể, nhân văn. Điều này được thể hiện ở chỗ không phải tất cả những người chưa thành niên phạm tội đều xử lý bằng hình sự. Theo khoa học luật hình sự, tội phạm do người chưa thành niên gây ra khi thỏa mãn năm điều kiện sau: Một là, phải là hành vi nguy hiểm cho xã hội; Hai là, do người chưa thành niên thực hiện hành vi phạm tội đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự tương ứng với từng loại tội phạm và lỗi gây ra; Ba là, có lỗi, riêng đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải có lỗi cố ý nếu phạm tội rất nghiêm trọng; Bốn là, hành vi nguy hiểm cho xã hội do người chưa thành niên thực hiện phải được Bộ luật hình sự quy định là tộiphạm Năm là, người đó thực tế phải chịu trách nhiệm hình sự sau khi các cơ quan có thẩm quyền cân nhắc tính cần thiết phải xử lý bằng hình sự mà không thể áp dụng các biện pháp tư pháp hoặc các biện pháp khác để quản lý, giáo dục và phòng ngừa tội phạm. Do vậy, bên cạnh việc xử lý hình sự người chưa thành niên phạm tội, pháp luật hình sự nước ta còn quy định các biện pháp xử lý khác như miễn trách nhiệm hình sự, áp dụng các biện pháp tư pháp v.v… Bên cạnh đó, trong quá trình giải quyết vụ án có người chưa thành niên phạm tội, các cơ quan tiến hành tố tụng ngoài việc điều tra, xác minh sự thật khách quan quy định tại Điều 63 Bộ luật tố tụng hình sự còn phải "xác định khả năng nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm" [54], để từ đó đưa ra biện pháp xử lý mang lại hiệu quả giáo dục tốt nhất cho người chưa thành niên phạm tội hoặc kiến nghị phòng ngừa tội phạm. Khi áp dụng chế tài xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội, những người tiến hành tố tụng chỉ
  • 20. 20 được áp dụng hình phạt nếu thấy thực sự cần thiết và đặc biệt phải "hạn chế hình phạt tù. Khi áp dụng hình phạt tù có thời hạn, Tòa án cho người chưa thành niên phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người đã thành niên phạm tội tương ứng" [54, Điều 69]. Điều này đòi hỏi những người tiến hành tố tụng phải hiểu và đồng tình với quan niệm nhà tù là lựa chọn cuối cùng để xử lý người chưa thành niên phạm tội. Và đương nhiên, khi không phải lựa chọn một biện pháp nào để xử lý người chưa thành niên phạm tội mới là điều tốt lành không là lý tưởng mà còn là những hành động chiến lược lâu dài và rất cụ thể của tất cả chúng ta. Thứ ba, các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội trong pháp luật hình sự Việt Nam đều nhằm mục đích giáo dục, tái hòa nhập cộng đồng đối với người chưa thành niên phạm tội. Nhấn mạnh điều này, các nhà làm luật đã quy định ngay tại nguyên tắc đầu tiên trong Điều 69 Bộ luật hình sự - Việc xử lý người chưa thành niên phạm tội chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội. Nó cho thấy các biện pháp áp dụng người chưa thành niên phạm tội chủ yếu nhằm giáo dục họ thấy được tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm, sự nghiêm minh của pháp luật và giúp đỡ họ trở thành công dân có ích. Việc quy định án đã tuyên đối với người chưa thành niên phạm tội khi chưa đủ 16 tuổi không được tính để xác định tái phạm, tái phạm nguy hiểm cũng thể hiện đặc điểm này, việc quy định như vậy đã tạo điều kiện để người chưa thành niên có thể tái hòa nhập cộng đồng, phát triển lành mạnh về thể chất và tinh thần, cũng như tránh mặc cảm tội lỗi của bản thân người chưa thành niên và cái nhìn thiếu thiện cảm, dị nghị của xã hội đối với người đó sau nay khi đã trở thành người thành niên. Ngoài ra, các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội phản ánh tính hướng thiện của người chưa thành niên. Người chưa thành niên là đối tượng chưa phát triển đầy đủ về mặt thể chất cũng như tâm, sinh lý nên họ dễ
  • 21. 21 bị lôi kéo, kích động vào hành vi phạm tội, tuy nhiên họ cũng dễ thay đổi, cải tạo, trở thành người lương thiện và công dân có ích cho xã hội nếu được quan tâm, giáo dục đúng phương pháp trong một môi trường sinh hoạt lành mạnh. Nhận thức được điều này, các nhà làm luật đã quy định các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội trong Bộ luật hình sự nhằm đề cao tính hướng thiện, tự hoàn thiện bản thân của người chưa thành niên. Thứ tư, các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội hạn chế sử dụng biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc đối với người chưa thành niên phạm tội. Người chưa thành niên phạm tội có thể được áp dụng biện pháp tư pháp giáo dục tại xã phường, thị trấn hoặc nếu bị áp dụng hình phạt thì chỉ thực sự cần thiết, hạn chế hình phạt tù, không áp dụng hình phạt tù chung thân, tử hình đối với người chưa thành niên. Điều này thể hiện không phải mọi trường hợp người chưa thành niên phạm tội đều bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Việc truy cứu trách nhiệm hình sự chỉ được đặt ra khi nó thật sự cần thiết và ngay cả khi người chưa thành niên phạm tội và bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì vẫn có khả năng không bị áp dụng hình phạt, thay vào đó họ có thể áp dụng các biện pháp tư pháp nếu biện pháp này đủ tác dụng cải tạo thành công dân có ích cho xã hội. Mặt khác, đối với người chưa thành niên phạm tội, hình phạt không phải biện pháp răn đe, phòng ngừa chung càng không phải là biện pháp trừng trị mà mục đích cuối cùng chỉ là giáo dục, cải tạo họ thành công dân có ích mà với lứa tuổi, tâm sinh lý đang trong quá trình hoàn thiện thì việc họ cần cả gia đình, nhà trường và xã hội có trách nhiệm nâng đỡ, giáo dục, hoàn thiện nó trong môi trường thân thiện, tự do thay vì chỉ có Cơ quan thi hành án hình sự hay chính quyền ủy ban nhân dân cấp xã, phường. Từ những đặc điểm trên chúng ta có thể đưa ra một khái niệm hoàn chỉnh về các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội:
  • 22. 22 Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội trong luật hình sự Việt Nam là những tư tưởng chủ đạo và là định hướng cơ bản thể hiện chính sách hình sự và nguyên tắc nhân đạo của Nhà nước đối với người chưa thành niên phạm tội, qua đó góp phần cải tạo, giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội. Những cơ sở của việc quy định các nguyên tắc xử lý ngƣời chƣa thành niên phạm tội trong luật hình sự Việt Nam Nhà nước ta thừa nhận người chưa thành niên (trong đó bao gồm cả người chưa thành niên phạm tội) là một nhóm nhân khẩu - xã hội đặc thù, cần phải được sự bảo trợ của pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng. Sự bảo trợ đặc biệt này không chỉ khi người chưa thành niên là đối tượng của sự xâm hại mà ngay cả khi họ là chủ thể của hành vi phạm tội. Điều 65 Hiến pháp năm 1992 khẳng định: "Trẻ em được gia đình, Nhà nước và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục" [53]. Trước khi Bộ luật hình sự năm 1999 có hiệu lực, Nhà nước ta đã ban hành nhiều quy định về tư pháp đối với người chưa thành niên phạm tội như Nghị định số 60/CP của Chính phủ ngày 16/9/1993 quy định về bảo đảm các nguyên tắc cơ bản của quyền trẻ em - như không được tra tấn hoặc đối xử tàn tệ, xúc phạm nhân phẩm, danh dự; - Người chưa thành niên phạm tội không được giam giữ chung với người thành niên; - Trong thời gian bị giam giữ các em được giáo dục sửa chữa sai lầm, khuyết điểm được chăm sóc sức khỏe, học văn hóa, học nghề, vui chơi giải trí, và được tiếp xúc ngườithân. Tuy nhiên, văn bản pháp luật về người chưa thành niên trong thời kỳ này vẫn còn không ít sơ hở, thiếu nhất quán. Một trong những thiếu sót đó là các văn bản luật và dưới luật còn lạc hậu, chồng chéo hoặc chậm được ban hành cho phù hợp với tình hình, dù đã có nhiều nghị quyết, văn bản của Đảng,
  • 23. 23 Nhà nước chỉ đạo, xác định nhưng những căn cứ pháp lý quy định trách nhiệm của các chủ thể thực hiện công tác phòng ngừa người chưa thành niên phạm tội vẫn còn chưa rõ ràng; hoặc nếu có xác định thì còn chung chung, trùng lặp, chưa rõ ràng, rằng buộc trách nhiệm cụ thể. Đó là lỗ hổng của pháp luật, mặt khác cũng vô tình gây khó khăn cho khâu thực hiện. Trước tình hình cấp thiết đó, Nhà nước ta đã ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 và tiếp đó là luật sửa đổi bổ sung luật hình sự năm 2009 hoàn thiện các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội, khắc phục những thiếu sót trên. Cơ sở của việc quy định các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội này chính là những căn cứ riêng thể hiện nội dung cơ bản và lợi ích xã hội tương ứng của chính sách hình sự về người chưa thành niên, đồng thời phản ánh quy luật phát triển khách quan tác động đến quá trình hình thành các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội có khả thi, có căn cứ và đảm bảo sức thuyết phục nhằm đấu tranh có hiệu quả với tình hình tội phạm do người chưa thành niên thực hiện. Từ khái niệm trên, chúng ta có thể đưa ra những cơ sở của việc quy định các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội như sau: Căn cứ thứ nhất, việc quy định các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội phải dựa trên các tư tưởng pháp lý tiến bộ được thừa nhận chung của nền văn minh nhân loại. Nền văn minh nhân loại, tư tưởng tiến bộ ấy được đúc kết trong Công ước quốc tế về quyền trẻ em, Quy tắc tối thiểu của Liên hợp quốc về áp dụng pháp luật đối với người chưa thành niên (Quy tắc Bắc Kinh) và chính sách về người chưa thành niên của từng quốc gia. Trên cơ sở tiếp thu những thành tựu tiến bộ đó, Nhà nước ta đã thúc đẩy hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo vệ quyền trẻ em, trong đó đã dành sự quan tâm đặc biệt cho đối tượng trẻ em vi
  • 24. 24 phạm pháp luật, mà cụ thể Bộ luật hình sự đã quy định về các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội, đó là những nguyên tắc có tính chỉ đạo, xuyên suốt trong quá trình giải quyết vụ án do người chưa thành niên phạm tội; hay như dựa vào các điều kiện kinh tế - chính trị, văn hóa - xã hội, lịch sử - truyền thống của đất nước có sự tham khảo, nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự nước ngoài chúng ta xây dựng nên độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự (xem bảng 1.1). Bảng 1.1:So sánh độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự của một số nước Quốc gia Tuổi chịu tráchnhiệm hình sự Quốc gia Tuổi chịu tráchnhiệm hình sự Quốc gia Tuổi chịu tráchnhiệm hình sự Anh - XứWales 10 Đức 14 Namibia 10 Angiêri 13 Hi lạp 13 Hà Lan 12 Anđôra 16 Hônđurát 12 Niu Dilân 10 Áchentina 16 Hång K«ng 16 B¾c Ailen 10 Ácmênia 14 Hunggary 14 Na Uy 15 Ốxtr©ylia 10 Aix¬len 15 PhilÝppin 9 Áo 14 Ấn §é 7 Ba Lan 13 AdÐcbaidan 14 Ir¾c 9 Bå §µo Nha 16 B¸cba®èt 7 Ailen 12 Rumani 16 Bªlarót 14 Ixraen 13 Nga 14 BØ 16 Italia 14 Xan Mari« 12 B«xnia 14 Giamaica 7 NhËt B¶n 14 Bulgari 14 Kad¾cxtan 14 Xcètlen 8 Cana®a 12 Kªnya 7 Xªnªgan 13 §¶o X©yman 8 Hµn Quèc 14 Xingapo 7 Chilª 16 C«oÐt 7 Xl«vakia 15 Trung Quèc 14 L¸tvia 16 Xl«vªnia 14 C«l«mbia 18 Lib¨ng 12 Nam Phi 10 C«xta Rica 12 Li Bi 8 T©y Ban Nha 14 Cuba 16 Lithuania 14 Thôy SÜ 7 SÝp 7 Luychx¨mbua 18 Tandania 15 Céng hßa SÐc 15 Maxª®«nia 14 Th¸i Lan 7
  • 25. 25 §an M¹ch 15 Malaixia 10 T«g« 15 £cua®o 12 Manta 9 Trini®¸t 7 Ai CËp 15 M«ritiót 14 Thæ NhÜ Kú 12 Ext«nia 16 Mªhic« 6 Ucraina 14 PhÇn Lan 15 M«n®«va 16 Hoa Kú 6 +/N Nguồn: Neal Hazel (2008), So sánh giữa các quốc gia về tư pháp người chưa thành niên, Ủy ban Tư pháp thanh thiếu niên của Anh và Xứ Wales-YJB, www.yjb.gov.uk. Cơ sở thứ hai, việc quy định các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội dựa trên những luận chứng khoa học thể hiện sự kết hợp hài hòa giữa khoa học pháp lý với các ngành khoa học khác. Trước xu thế tất yếu về hội nhập của Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới, khi tình trạng tội phạm trong nước ngày càng trẻ hóa, tội phạm do người chưa thành niên thực hiện ngày càng diễn biến phức tạp thì việc quy định các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội cần phải có được ba tiêu chí cơ bản - khách quan, có căn cứ và đảm bảo sức thuyết phục. Chính sách hình sự về người chưa thành niên phạm tội nói chung và nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội nói riêng không thể là một mục đích tự thân vận động nên để cho những vấn đề trên đạt được ba tiêu chí trên thì nhất thiết chúng ta phải ứng dụng các thành tựu khoa học khác như khoa học về tâm lý, sinh lý về người chưa thành niên, xã hội học về người chưa thành niên. Ví dụ: Qua nghiên cứu về tâm lý học con người, một tác giả của Việt Nam đã tổng kết về sự hình thành và phát triển nhân cách con người qua bảng1.2. Bảng 1.2:Sự hình thành và phát triển nhân cách con người Lứa tuổi Hoạt động chủ đạo Đặc trƣng tâmlý Nét "trội" trong mục tiêu cần chú ý giáo dục Giai đoạn Thời kỳ Tuổi học sinh Nhi đồng từ 6 - 7 tuổi đến 11 - 12 tuổi Học tập và phát triển trí tuệ - Lĩnh hội nền tảng của tri thức và phương pháp, công cụ nhận thức. - Ham tìm tòi, khám phá. - Phương pháp học tập và phẩm chất trí tuệ. - "Lẽ phải". - Sử dụng công cụ nhận
  • 26. 26 - Hiếu động. thức phổ thông. Thiếu niên từ 11 - 12 tuổi đến 14 - 15 tuổi Học tập giao lưu "nhóm bạn thân" - Dậy thì. - Quan hệ tâm tình bạn bè. - "Cải tổ nhân cách" và định hình bản ngã. - Mất thăng bằng tâm lý. - Xây dựng nhóm bạn bè tốt. Thanh niên từ 14 - 15 tuổi đến 17 - 18 tuổi Học tập hoạt động xã hội nghề nghiệp - Hoàn thành thế giới quan. - Định hướng chuẩn bị nghề nghiệp. - Ham hoạt động xã hội. - Tình bạnthân và mối tình đầu. - ý thức công dân. - ý thức nghề nghiệp. - Hoài bão xã hội. - Tình bạn, tình yêu. Nguồn: Phạm Minh Hạc(1992), Tâm lý học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. Qua nghiên cứu về khoa học tâm lý người chưa thành niên chúng ta nhận thấy ở độ tuổi này các em thường nghịch ngợm, muốn tỏ lòng dũngcảm, không muốn thua kém người khác, đánh giá sai tình huống và các giá trị chuẩn mực trong các mối quan hệ xã hội, dễ dàng chịu sự ảnh hưởng người khác qua đó chúng ta nhận thấy động cơ của phần đông người chưa thành niên phạm tội thường mang tính đặc thù của tuổi trẻ nên khả năng phục thiện của các em nhanh hơn. Bên cạnh đó, đối với người chưa thành niên, khi tâm lý cá nhân đang hình thành, thì những thiếu sót của việc giáo dục trong gia đình, nhà trường, nơi sản xuất, nơi cư trú trong nhiều trường hợp lại lànguyên nhân trực tiếp đẩy họ bước vào con đường phạm tội. Chính những điều này là luận chứng khoa học, giao người chưa thành niên phạm tội cho gia đình, xã hội giáo dục. Cơ sở thứ ba, dựa trên sự tổng kết kinh nghiệm thực tiễn của các cơ quan bảo vệ pháp luật và Tòa án trong việc đấu tranh, phòng ngừa tội phạm do người chưa thành niên thực hiện. Với chức năng là các cơ quan trực tiếp đấu tranh, phòng chống tội phạm nói chung, tội phạm là người chưa thành niên nói riêng, các cơ quan bảo vệ pháp luật trong quá trình hoạt động của mình phải đúc kết những kinh nghiệm, bài học thực tiễn trong quá trình giải quyết những vụ án do người chưa thành niên thực hiện. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và đặc biệt là Tòa án phải làm rõ những nguyên nhân điều kiện
  • 27. 27 dẫn đến người chưa thành niên phạm tội, kiến nghị khắc phục những điều kiện nguyên nhân đó. Tòa án thông qua hoạt động xét xử của mình, tổng kết các biện pháp xử lý (hình phạt, các biện pháp tư pháp) có tác dụng giáo dục, cải tạo người chưa thành niên phạm tội đồng thời cũng có tác dụng răn đe, phòng ngừa chung. Ý nghĩa của việc quy định các nguyên tắc xử lý ngƣời chƣa thành niên phạm tội trong luật hình sự Việt Nam Từ những nghiên cứu về khái niệm các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội và các đặc điểm của nó, chúng ta nhận thấy việc quy định các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội trong luật hình sự Việt Nam có những ý nghĩa chính trị, xã hội, đạo đức và thực tiễn rất to lớn: Thứ nhất, việc quy định các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội thể hiện sự minh chứng rõ ràng pháp luật hình sự Việt Nam được xây dựng trên triết lý, tư tưởng nhân đạo của dân tộc có sự kế thừa nền tảng các tư tưởng pháp lý tiến bộ của nền văn minh nhân loại. Nó thể hiện nguyên tắc công bằng, nhân đạo và nhằm mục đích giáo dục phòng ngừa đối với người chưa thành niên - là nhóm nhân khẩu đặc biệt cần quan tâm, bảo vệ. Thứ hai, việc quy định các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội dựa trên những cơ sở khoa học - thực tiễn khách quan, có căn cứ và đảm bảo sự thuyết phục chính là điều kiện chủ yếu và cần thiết mà nếu như thiếu nó thì việc đấu tranh, phòng ngừa với loại tội phạm người chưa thành niên sẽ không thành công. Bởi vậy nó là kim chỉ nam, là sợi chỉ xuyên suốt cho cơ quan tiến hành tố tụng căn cứ vào đó để có cách giải quyết vụ án có người chưa thành niên phạm tội một cách công minh, có căn cứ, đảm bảo việc giáo dục, phòng ngừa đối với người chưa thành niên. Thứ ba, xuất phát từ những đòi hỏi cấp bách của thực tiễn xã hội nói chung, thực tiễn lập pháp và áp dụng pháp luật hình sự ở nước ta. Trải qua
  • 28. 28 hơn hai thập kỷ kể từ khi Bộ luật hình sự đầu tiên của nước Việt Nam thống nhất được ban hành (Bộ luật hình sự năm 1985), Nhà nước ta đã tiến hành pháp điển hóa lần hai Bộ luật hình sự với việc hoàn thiện các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội đã đáp ứng được nhu cầu của thực tiễn, phù hợp với các quan hệ xã hội. Như vậy, với tất cả những lý lẽ phân tích ở trên không chỉ nói lên vai trò quan trọng của các nguyên tắc xử lý hình sự về người chưa thành niên phạm tội trong việc đấu tranh phòng ngừa tội phạm người chưa thành niên mà còn là luận chứng cho việc nghiên cứu các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CÁC NGUYÊN TẮC XỬ LÝ NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945 ĐẾN TRƢỚC KHI BAN HÀNH BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 Nghiên cứu một cách có hệ thống lịch sử hình thành và phát triển của luật hình sự Việt Nam về các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội sẽ có được cách nhìn toàn diện và khái quát về quá trình phát triển, đồng thời rút ra được những giá trị cần được kế thừa của các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội. Tội phạm nói chung cũng như tội phạm do người chưa thành niên thực hiện nói riêng tồn tại rất lâu trong lịch sử. Cũng như mọi chế định khác của luật hình sự, qua mỗi hình thái kinh tế - xã hội các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội đều thể hiện tính giai cấp sâu sắc. Trong phạm vi của đề tài, chúng tôi chỉ đi sâu nghiên cứu lịch sử hình thành và quá trình phát triển của các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội của Nhà nước ta từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay, qua đó, cũng phân tích được phần nào tính ưu việt, tiến bộ và nhân đạo của chính sách về người chưa thành niên của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
  • 29. 29 Giaiđoạntừ sauCáchmạng tháng Támnăm1945 đến trƣớc khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 Từ sau Cách mạng tháng Tám thành công đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 là thời kỳ Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa mà sau này là Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam vừa phải tiến hành hai cuộc kháng chiến trường kỳ nhằm bảo vệ độc lập của dân tộc, vừa phải tiến hành công cuộc xây dựng đất nước. Trong tình hình ấy, công tác xây dựng pháp luật nói chung, cũng như pháp luật hình sự nói riêng, đặc biệt là quy định về các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội trong luật hình sự còn nhiều hạn chế. Hầu hết các quy định về các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội không được tập hợp một cách có hệ thống, mà nằm rải rác ở các văn bản pháp luật khác nhau. Thậm chí vấn đề các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội thường được đề cập trong các báo cáo tổng kết có tính hướng dẫn nghiệp vụ chuyên môn của ngành tòa án. Tuy vậy, nghiên cứu một cách có hệ thống và đầy đủ các quy định của pháp luật hình sự trong thời kỳ này về các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội cho thấy có những đặc trưng chủ yếu sau đây: Thứ nhất, về tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Pháp luật của thời kỳ này quy định người chưa thành niên là chưa đủ 18 tuổi, tuổi chịu trách nhiệm hình sự là từ 14 tuổi đến 18 tuổi. Tại Báo cáo tổng kết công tác 4 năm (1965 - 1968) của Tòa án nhân dân tối cao đã xác định: … Về nguyên tắc, từ đủ 14 tuổi tròn trở lên coi là có trách nhiệm về mặt hình sự. Nói chung đối với lứa tuổi từ 14 đến 16 thì chỉ bị truy tố, xét xử trong những trường hợp phạm các tội nghiêm trọng như giết người, cướp của, hiếp dâm… Riêng về hiếp dâm nói chung vẫn chủ yếu là giáo dục và cũng chỉ nên truy tố, xét xử trong trường hợp nghiêm trọng.
  • 30. 30 - Đối với lứa tuổi từ 16 đến 18 tuổi, nếu hành vi phạm pháp có tính chất tương đối nghiêm trọng, nói chung cần xét xử, nhưng so với người lớn cần xử nhẹ hơn [66, tr. 14]. Như vậy, qua hướng dẫn trên đã xác định tuổi chịu trách nhiệm hình sự là 14 tuổi. Dưới độ tuổi này, người chưa thành niên dù thực hiện hành vi nguy hiểm đến mấy cũng không bị coi là người phạm tội. Điểm tiến bộ trong luật hình sự thời kỳ này là đã xác định độ tuổi 14 là độ tuổi bắt đầu chịu trách nhiệm hình sự, nhưng không phải mọi trường hợp người từ đủ 14 tuổi trở lên thực hiện hành vi bị coi là tội phạm đều bị đưa ra xét xử mà "đối với lứa tuổi từ 14 đến 16 thì chỉ bị truy tố, xét xử trong những trường hợp phạm các tội nghiêm trọng" [66, tr. 19]. Khi hướng dẫn đường lối xét xử đối với một số tội phạm cụ thể Tòa án nhân dân tối cao đã khẳng định đối với những người từ 14 tuổi tròn trở lên đến 16 tuổi, chỉ nên truy tố trong những trường hợp phạm tội nghiêm trọng như giết người, cướp của, hiếp dâm, riêng về hiếp dâm vẫn chủ yếu là giáo dục và cũng chỉ truy tố trong những trường hợp phạm tội nghiêm trọng. Còn đối với lứa tuổi từ 16 đến 18 tuổi chỉ được xử lý hình sự nếu hành vi phạm pháp có tính chất tương đối nghiêm trọng. Như vậy, trong thời kỳ này pháp luật đã có sự phân hóa từng giai đoạn độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên gắn với mức độ nghiêm trọng của từng loại tội phạm. Thứ hai, nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội được quy định trong thời kỳ này là trách nhiệm hình sự có tính chất giảm nhẹ và có mục đích giáo dục là chính. Tại Báo cáo công tác 4 năm (1965 - 1968) của Tòa án nhân dân tối cao đã hướng dẫn xét xử đối với người chưa thành niên nên xử nhẹ hơn so với người lớn, hay như tại Chuyên đề sơ kết kinh nghiệm về việc xét xử các vụ án người chưa thành niên phạm tội (gửi kèm theo Công văn số 37-NCPL ngày
  • 31. 31 16/01/1976 của Tòa án nhân dân tối cao), Tòa án nhân dân tối cao nhấn mạnh: "Phải coi việc phạm tội chưa đến tuổi trưởng thành là một trường hợp được giảm nhẹ tội, nghĩa là phải xử phạt nhẹ người chưa thành niên hơn người lớn tuổi phạm tội trong điều kiện tương tự. Đó là nguyên tắc cần được quán triệt" [66, tr. 36]. Cũng như trong Hướng dẫn số 329-HS2 ngày 11/2/1967 của Tòa án nhân dân tối cao: Khi xét xử cần chiếu cố thích đáng đến trình độ hiểu biết pháp luật non kém và khả năng dễ tiếp thu cải tạo giáo dục của họ, đến việc họ chưa nhận thức được đầy đủ tính chất nguy hiểm của hành vi của mình mà xử nhẹ hơn các can phạm đã lớn tuổi… chỉ vào khoảng 1/2 mức án đối với can phạm lớn tuổi [66, tr. 28]. Tính chất giảm nhẹ và mục đích giáo dục là chính của các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tộiđược thể hiện trong các quy định của thời kỳ này là xuất phát từ chính sách nhân đạo và quan điểm chỉ đạo của Đảng lấy giáo dục phòng ngừa là chính đối với người chưa thành niên phạm tội. Tính chất giảm nhẹ và mục đích giáo dục phòng ngừa là chính của nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội còn được thể hiện cụ thể trong việc hướng dẫn áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội của Tòa án nhân dân tối cao, đối với một số tội cụ thể. Ví dụ: Bản tổng kết số 452 - HS2 ngày 10/8/1970 của Tòa án nhân dân tối cao về thực tiễn xét xử loại tội giết người đã đề cập đến: Vì tội giết người là một tội hết sức nguy hiểm mà lứa tuổi từ 14 tuổi tròn trở lên đã có thể nhận thức được ít nhiều tính chất, cho nên, nói chung, cần truy tố xử các trường hợp giết người mà can phạm có từ 14 tuổi tròn trở lên. Tuy nhiên, vì nhận thức của các phạm còn non nớt, cho nên cần xét xử nhẹ hơn so với người đã
  • 32. 32 lớn… Mức hình phạt đối với các can phạm này nói chung chỉ nên từ khoảng 15 năm tù trở xuống. Đối với các can phạm đã có từ 16 tuổi tròn trở lên cho đến dưới 18 tuổi một ít cũng có thể xử nhẹ một phần so với can phạm đã lớn và đối với tất cả các loại can phạm này, nói chung, không nên áp dụng hình phạt tử hình [66, tr. 19] Hơn nữa, trong khi hướng dẫn xét xử đối với loại tội hiếp dâm do người chưathành niên phạm tộithực hiện, Tòaán nhân dân tối cao đã chỉ rõ cơ sở của việc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên là sự hạn chế trong nhận thức tính chất nguy hiểm cho xã hội của loại tội này, cũng như mục đích giáo dục là chính của việc xử lý người chưa thành niên phạm tội. Nhìn chung đối với loại tội này, cơ quan xét xử phải chú ý hơn nữa đến những suy nghĩ nhận thức của người chưa thành niên phạm tội, họ có những nhận thức khác so với một số loại tội phạm thông thường như trộm cắp, giết người…, ở loại tội này, bị cáo thường ít hiểu rằng hành vi đó là nguy hiểm là có tội. Còn đối với tội hiếp dâm, người chưa thành niên hành động theo bản năng tình dục của mình, họ không nghĩ rằng đó là hành vi nguy hiểm cho xã hội, là phạm tội và sẽ bị xử nặng. Do vậy, nếu can phạm từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi, chủ yếu nên dùng các biện pháp giáo dục như giao cho cha, anh, chú, bác bảo lĩnh và giáo dục. Nếu can phạm từ đủ 16 đến 18 tuổi, trừ một số ít các trường hợp có tình tiết ít nghiêm trọng thì xử như hướng dẫntrên, nhìn chung cần xét xử về hình sự. Khi xét xử cần chiếu cố thích đáng đến trình độ hiểu biết pháp luật non kém và khả năng dễ tiếp thu cải tạo giáo dục của họ, đến việc họ chưa nhận thức đầy đủ tính chất nguy hiểm của hành vi của mình mà xử nhẹ hơn các can phạm đã lớn tuổi…
  • 33. 33 chỉ vào khoảng 1/2 mức án đối với can phạm lớn tuổi [66, tr. 42- 43]. Như vậy, điểm tiến bộ vượt bậc của luật hình sự thời kỳ này là việc áp dụng nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội có tính chất giảm nhẹ dựa trên sự đánh giá về mức độ nhận thức của bản thân người chưa thành niên về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà họ thực hiện. Đối với hành vi hiếp dâm, chủ thể đang ở độ tuổi vừa lớn dậy, họ không thể thấy hết mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội thì không nhất thiết phải áp dụng hình phạt mà có thể áp dụng những biện pháp có tính chất giáo dục. Thứ ba, việc xử lý người chưa thành niên phạm tội phải căn cứ vào trình độ nhận thức, hoàn cảnh phạm tội và nhân thân của các em. Trên cơ sở cân nhắc sự phát triển về thể chất, khả năng nhận thức và các yếu tố tâm sinh lý Tòa án nhân dân tối cao đã hướng dẫn: Việc xử phạt nhiều, ít là tùy thuộc ở trình độ nhận thức và trạng thái tâm sinh lý của người chưa thành niên đến mức độ nào được thể hiện nói chung qua lứa tuổi cao thấp khác nhau, ở hoàn cảnh phạm pháp, ở tính chất nguy hiểm nhiều hay ít của hành vi phạm tội và của nhân thân người phạm tội cũng như yêu cầu của tình hình chung [66, tr. 36]. Như vậy, mặc dù còn nhiều hạn chế nhưng luật hình sự nói riêng cũng như pháp luật nói chung của thời kỳ này đã quy định một cách khá cụ thể những nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội như vấn đề độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, mục đích xử lý người chưa thành niên phạm tội (chủ yếu mang tính giáo dục, phòng ngừa), các nguyên tắc xử lý và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội. Những quy định này là tiền đề cho việc xây dựng nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội thống nhất, cụ thể cho hai lần pháp điển hóa Bộ luật hình sự.
  • 34. 34 Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến trƣớc khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 Bộ luật hình sự năm 1985 ra đời trong hoàn cảnh đất nước đã thống nhất, cả nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trước tình hình đó, đòi hỏi chúng ta phải có một Bộ luật hình sự hoàn chỉnh để đáp ứng được yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng mới: "Đó là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa" (Lời nói đầu, Bộ luật hình sự năm 1985). Thực tiễn của công tác xây dựng và áp dụng pháp luật hình sự nói chung, cũng như quy định về các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội nói riêng, từ khi Cách mạng tháng Tám thành công cho đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985, cho thấy: Các văn bản pháp luật hình sự do chính quyền cách mạng ban hành trước đó thường chỉ là những văn bản riêng lẻ, quy định một nhóm tội hoặc trong một lĩnh vực cụ thể nào đó. Ngày 27/6/1985, Bộ luật hình sự năm 1985 đã được Quốc hội nước Cộnghòa xã hội chủnghĩa Việt Nam, tại kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa VI chính thức thông qua. Với bản chất tốt đẹp của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, Đảng và Nhà nước đã giành một sự quan tâm thích đáng cho công tác chăm sóc thiếu niên nhi đồng, đặc biệt là lứa tuổi thanh niên. Trên tinh thần đó, Bộ luật hình sự năm 1985 đã giành hẳn một chương quy định về người chưa thành niên phạm tội trong đó có các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội. Nghiên cứu các quy định của Bộ luật hình sự năm 1985 về các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội có thể rút ra một số đặc điểm sau đây: Thứ nhất, lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp hình sự ở nước ta, các quy định về xử lý người chưa thành niên phạm tội được quy định thành một chương hoàn chỉnh (chương VII), trong đó đã quy định khá đầy đủ các vấn đề liên quan đến các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội. Đây được coi là một chương đặc thù vì đối tượng được áp dụng các quy định của chương này là người chưa thành niên phạm tội. Hơn nữa, Bộ luật hình sự năm 1985 còn thể hiện thống nhất một nguyên tắc chung là: Người chưa thành
  • 35. 35 niên phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự theo những quy định của chương này, đồng thời theo những quy định khác của Phần chung Bộ luật không trái với những quy định của chương này. Điều này có nghĩa khi áp dụng các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội, các cơ quan chức năng phải lấy quy định của chương này để ưu tiên áp dụng, đồng thời vận dụng các quy định khác thuộc phần chung nhưng phải "không trái" với quy định của chương này, nếu trái thì không được áp dụng. Thứ hai, tuổi chịu trách nhiệm hình sự cũng được các nhà lập pháp hình sự thời kỳ này quy định một cách cụ thể. Điều 58 Bộ luật hình sự năm 1985 đã quy định: "Người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về những tội phạm nghiêm trọng do cố ý, và người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm" [52]. Theo Điều 8 khoản 2 Bộ luật hình sự năm 1985 thì: Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây ra nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên năm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình. Những tội phạm khác là tội phạm ít nghiêm trọng [52]. Như vậy, điều luật quy định phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên. Nếu người chưa thành niên phạm tội là người đã đủ 16 tuổi trở lên thì họ phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi hành vi phạm tội mà họ thực hiện. Nếu họ là người từ đủ 14 đến 16 tuổi thì chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự khi tội mà họ thực hiện là tội nghiêm trọng và được thực hiện với lỗi cố ý. Còn nếu tội đó là tội ít nghiêm trọng, hoặc là tội nghiêm trọng nhưng người chưa thành niên lại thực hiện với lỗi vô ý thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Thứ ba, Bộ luật hình sự năm 1985 đã quy định cả một hệ thống các nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội. Điều 59 Bộ luật
  • 36. 36 hình sự năm 1985 quy định các nguyên tắc cơ bản để xử lý hành vi phạm tội của người chưa thành niên. Những nguyên tắc này bao gồm: Nguyêntắcthứnhất: Việc xử lý hành vi phạm tội của người chưa thành niên chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội. Trong mọi trường hợp điều tra, truy tố, xét xử hành vi phạm tội của người chưa thành niên, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải xác định khả năng nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều kiện xảy ra phạm tội. Nguyên tắc trên thể hiện quan điểm nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta, đối với người chưa thành niên, mục của hình phạt không phải là để trừng trị họ mà để giáo dục, cải tạo họ thành công dân có ích. Để đạt được mục đích này Bộ luật hình sự năm 1985 yêu cầu trong mọi trường hợp điều tra, truy tố, xét xử hành vi phạm tội của người chưa thành niên, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải xác định khả năng nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hộicủa hành vi phạmtội, nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm để từ đó quyết định có cần áp dụng hình phạt hay có thể áp dụng biện pháp giáo dục khác. Khi quyết định vấn đề này cần quán triệt nguyên tắc giáo dục là chính. Nguyên tắc thứ hai: Đối với người chưa thành niên phạm tội, Viện kiểm sát và Tòa án áp dụng chủ yếu những biện pháp giáo dục, phòng ngừa; gia đình, nhà trường và xã hội có trách nhiệm tham gia tích cực vào việc thực hiện những biện pháp ấy. Bộ luật hình sự năm 1985 đã chỉ rõ Viện kiểm sát và Tòa án chủ yếu áp dụng biện pháp giáo dục, phòng ngừa đối với người chưa thành niên, coi mặt công tác này là chính yếu trong đấu tranh, phòng chống tội phạm người chưa thành niên. Nguyên tắc này cũng xác định trách nhiệm của cơ quan nhà
  • 37. 37 nước tổ chức xã hội trong việc tham gia tích cực vào thực hiện những biện pháp có tính chất giáo dục, phòng ngừa người chưa thành niên phạm tội. Coi việc giúp đỡ, giáo dục người chưa thành niên phạm tội là trách nhiệm của toàn xã hội chứ không chỉ có các cơ quan tiến hành tố tụng, bởi có sự chung sức của toàn xã hội sẽ tạo cho em một môi trường phát triển lành mạnh, giúp các em nhanh chóng tự hoàn thiện bản thân và trở lại cộng đồng. Nguyên tắc thứ ba: Viện kiểm sát có thể quyết định miễn truy cứu trách nhiệm hình sự người chưa thành niên phạm tội nếu người đó phạm tội ít nghiêm trọng, gây hại không lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và nếu được gia đình và tổ chức xã hội nhận trách nhiệm giám sát, giáo dục. Chỉ đưa người chưa thành niên phạm tội ra xét xử và áp dụng hình phạt đối với họ trong trường hợp cần thiết, căn cứ vào tính chất nghiêm trọng của hành vi phạm tội, vào những đặc điểm về nhân thân và yêu cầu của việc phòng ngừa. Nguyên tắc này cho phép Viện kiểm sát có quyền miễn truy cứu trách nhiệm hình sự người chưa thành niên phạm tội nếu người đó phạm tội ít nghiêm trọng, gây hại không lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và nếu được gia đình hoặc một tổ chức xã hội nhận trách nhiệm giám sát, giáo dục. Người phạm tội nói chung cũng có thể được miễn trách nhiệm hình sự nhưng chỉ trong những trường hợp đặc biệt. Đối với người chưa thành niên phạm tội, điều kiện để có thể được miễn trách nhiệm hình sự thấp hơn so với điệu kiện miễn trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội nói chung. Với chức năng và nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát, việc quy định Viện kiểm sát có quyền quyết định miễn truy cứu trách nhiệm hình sự nêu trên vừa đảm bảo việc miễn truy cứu trách nhiệm hình sự đúng pháp luật, vừa đảm bảo tính kịp thời ngay cả trong giai đoạn điều tra, tránh cho việc người chưa thành niên phải tham gia nhiều hoạt động tố tụng, ảnh hưởng đến tâm lý các em.
  • 38. 38 Người chưa thành niên phạm tội chỉ được đưa ra xét xử trong những trường hợp cần thiết, đánh giá là cần thiết hay không cần thiết phụ thuộc vào các yếu tố, tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, những đặc điểm phụ thuộc về nhân thân của người phạm tội và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm. Việc quy định này tránh cho người chưa thành niên mặc cảm về hành vi phạm tội của mình, giúp các em nhanh chóng hòa nhập và tự cải tạo bản thân, bởi vì một người được coi là có tội chi khi người đó bị xét xử bằng bản án kết tội có hiệu lực của Tòa án, do vậy đối với trường hợp không cần thiết và việc giáo dục, cải tạo người chưa thành niên không bị ảnh hưởng thì không nhất thiết phải đưa họ ra xét xử. Nguyên tắc thứ tư: Không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình người chưa thành niên phạm tội. Khi phạt tù có thời hạn, Tòa án cho người chưa thành niên phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người chưa thành niên. Người chưa thành niên phạm tội được giam riêng. Không xử phạt tiền và áp dụng các hình phạt bổ sung đối với người chưa thành niên phạm tội. Nguyên tắc này quy định không áp dụng hình phạt tử hình và tù chung thân đối với người chưa thành niên phạm tội. Đây là hai hình phạt nghiêm khắc nhất trong hệ thống hình phạt được quy định trong Bộ luật hình sự thể hiện người phạm tội không còn khả năng giáo dục buộc phải loại bỏ hoặc cách ly vĩnh viễn họ ra khỏi xã hội. Việc quy định không áp dụng hai hình phạt này đối với người chưa thành niên phạm tội, dù họ phạm tội nghiêm trọng thế nào chăng nữa thì mọi trường hợp người chưa thành niên phạm tội vẫn có cơ hội để cải tạo thành người có ích cho xã hội. Điều này thể hiện nguyên tắc nhân đạo của pháp luật hình sự hiện đại. Đây là một quy định có tính chất tiến bộ nên trong các lần sửa đổi sau này, quy định này vẫn được tiếp tục ghi nhận.
  • 39. 39 Trong trường hợp phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn, Tòa án cho người chưa thành niên phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người đã thành niên phạm tội tương ứng. Điều 64 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định trực tiếp mức án cao nhất của hình phạt tù không được tuyên vượt quá khi quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội là mười lăm năm hoặc mười hai năm tù, tùy từng trường hợp phạm tội cụ thể. Để đảm bảo an toàn đối với chưa thành niên, việc giam giữ họ tại nhà tạm giữ, trại tạm giam, trại giam phải có sự phân loại, có buồng giam giữ riêng, hạn chế sự tiếp xúc giữa họ với những đối tượng lưu manh. Nguyên tắc này cũng quy định Tòa án không được áp dụng hình phạt tiền và hình phạt bổ sung đối với người chưa thành niên bởi vì đối tượng này chưa nằm trong độ tuổi lao động nên việc họ tự có thu nhập là hầu như không có, việc áp dụng hình phạt tiền đối với họ là không khả thi và không có tác dụng. Hình phạt bổ sung là hình phạt bổ trợ cho hình phạt chính, có tác dụng hỗ trợ cho hình phạt chính, do vậy Tòa án không nên áp dụng hình phạt này đối với người chưa thành niên để làm xấu hơn tình trạng họ. Nguyên tắc thứ năm: Án đã tuyên đối với người phạm tội chưa đủ 16 tuổi thì không tính để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm. Tính chất giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của quy định này thể hiện ở chỗ nếu người chưa thành niên từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi thực hiện tội phạm lần thứ hai thì cũng không được xác định là tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm để tăng nặng hình phạt đối với họ. Mặt khác, tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm là tình tiết thể hiện nhân thân người phạm tội có khả năng giáo dục, cải tạo thấp nên việc quy định nguyên tắc này cũng tạo điều kiện cho người chưa thành niên phạm tội một lần nữa có cơ hội sửa chữa sai lầm của mình, cũng như tránh cho các em mặc cảm về nhân thân. Tóm lại, nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội là những nguyên tắc vừa có tính định hướng lại vừa cụ thể, những nguyên tắc
  • 40. 40 này yêu cầu các cơ quan tiến hành tố tụng khi xem xét vấn đề xử lý người chưa thành niên phạm tội trong những trường hợp phạm tội cụ thể phải có quan điểm toàn diện, trên tinh thần lấy giáo dục, phòng ngừa là chính. Bộ luật hình sự năm 1985 buộc các cơ quan tiến hành tố tụng phải xác định được hai vấn đề có tính nguyên tắc đó là khả năng nhận thức của họ về tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều kiện gây ra tộiphạm. Thể hiện một cách cụ thể nội dung các nguyên tắc trên, Bộ luật hình sự năm 1985 đã quy định hệ thống các biện pháp tư pháp và hình phạt có thể áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội. Điều đáng chú ý là Bộ luật hình sự năm 1985 đã quy định các biện pháp tư pháp lên trước sau đó quy định đến hệ thống hình phạt chính có thể được áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội. Điều này thể hiện một cách cụ thể nguyên tắc lấy giáo dục, phòng ngừa là chính, việc áp dụng hình phạt chỉ là biện pháp cuốicùng. CÁC NGUYÊN TẮC XỬ LÝ NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI TRONG PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ MỘT SỐ NƢỚC Các nguyên tắc xử lý ngƣờichƣa thành niên phạm tộitrong pháp luật quốc tế Kể từ khi Liên hợp quốc ra đời, năm 1945, đặc biệt từ khi Bộ luật quốc tế về quyền con người (bao gồm Tuyên ngôn thế giới về quyền con người 1948; Công ước quốc tế về quyền dân sự, chính trị 1966; Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa 1966), quyền con người đã vượt khỏi phạm vi quốc gia trở thành Luật Quốc tế. Bên cạnh đó, ở tất cả các quốc gia, từ xưa đến nay, trẻ em là đối tượng được quan tâm, chăm sóc đặc biệt kể cả khi họ vi phạm pháp luật, thì nhân loại luôn dành cho các em sự cảm thông chia sẻ, giúp các em trở lại với cuộc sống bình thường, giúp đỡ các em khẳng định tư cách của mình trong gia đình và xã hội, trong học tập và lao động, bởi vậy, Liên hợp quốc đã ban hành nhiều văn kiện về tư pháp người chưa thành niên như: Công ước về quyền trẻ em năm 1989 cùng với hai Nghị
  • 41. 41 định thư không bắt buộc của công ước này (Nghị định thư về "sử dụng trẻ em trong xung đột vũ trang", Nghị định thư về "buôn bán trẻ em, mại dâm trẻ em và văn hóa phẩm khiêu dâm", đều được Việt Nam phê chuẩn ngày 20/12/2001); Những quytắc tối thiểu của Liên hợp quốc về áp dụng pháp luật đối với Người chưa thành niên còn gọi là Quy tắc Bắc Kinh, được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 29/11/1985; Hướng dẫn của Liên hợp quốc về phòng ngừa tội phạm ở ngườichưa thành niên còn gọi là Hướng dẫn Riyadh, được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 14/12/1990; Những quy tắc tối thiểu, phổ biến của Liên hợp quốc về bảo vệ người chưa thành niên bị tước quyền tự do - được Liên hợp quốc thông qua ngày 14/12/1990. Đây là những văn kiện tổng hợp, đúc kết một cách rộng rãi kinh nghiệm của các quốc gia trên lĩnh vực Tư pháp người chưa thành niên chúng ta cần trân trọng, vận dụng như là những nghĩa vụ chính trị và kế thừa các giá trị tinh thần tốt đẹp của cộng đồng quốc tế. Cần lưu ý rằng những văn kiện trên đây chỉ đưa ra những hướng dẫn và quy tắc tối thiểu trên lĩnh vực này. Điều đó có nghĩa, mỗi quốc gia có thể vận dụng trong việc xây dựng và thực thi chính sách, pháp luật mang tính sáng tạo, xây dung và khoan dung hơn theo nguyên tắc "lợi ích tốt nhất cho trẻ em". Các quy tắc và nguyên tắc nêu trên có chứa đựng một điều khoản cho thấy rằng, các quy tắc và nguyên tắc đó được thực hiện dựa trên những điều kiện kinh tế - xã hội và văn hóa hiện có của mỗi quốc gia. Các tiêu chuẩn nêu ra rất linh hoạt, nếu được áp dụng một cách thiện chí theo cách thức phù hợp nhất với với hoàn cảnh kinh tế - xã hội, văn hóa của từng quốc gia, chúng sẽ là một công cụ hữu hiệu giúp cải thiện cuộc sống của số lượng ngày càng tăng người chưa thành niên bị đẩy tới chỗ vi phạm pháp luật và chống lại xã hội. Dựa trên những quy định của pháp luật quốc tế về chưa thành niên, các quốc gia trên thế giới đã đưa ra các quy định về người chưa thành niên nói chung, người chưa thành niên phạm tội nói riêng, các chế tài xử lý người chưa thành
  • 42. 42 niên phạm tội phù hợp với điều kiện kinh tế - văn hóa - xã hội, phong tục, tập quán, pháp luật của mỗi nước. Do vậy, những văn kiện trên chỉ đưa ra những hướng dẫn và quy tắc tối thiểu trên lĩnh vực này. Điều đó có nghĩa, mỗi quốc gia có thể vận dụng trong việc xây dựng và thực thi chính sách, pháp luật mang tính sáng tạo, xây dung và khoan dung hơn theo nguyên tắc "lợi ích tốt nhất cho trẻ em". Chẳng hạn như: Tòa án người chưa thành niên ở Thái Lan được thành lập ngày 28/1/1952, ngoài mục đích xử lý người chưa thành niên phạm tội bằng những biện pháp đặc biệt thì thẩm quyền của Tòa án người chưa thành niên còn được phép giải quyết một số trường hợp tranh chấp gia đình liên quan tới hạnh phúc và lợi ích của người chưa thành niên. Mục tiêu và những quy tắc trong các văn kiện trên là: - Về mục tiêu: Toàn bộ hoạt động của hệ thống tư pháp người chưa thành niên nhằm giảm đi đến mức tối thiểu việc các cơ quan tư pháp phải xử lý đối với người chưa thành niên. Đồng thời làm giảm đi đến mức thấp nhất ảnh hưởng xấu có thể có khi không thể không áp dụng các chế tài pháp luật đối với người chưa thành niên vi phạm pháp luật. Do vậy, thực tiễn luật pháp quốc tế đã có biện pháp xử lý chuyển hướng đối với người chưa thành niên - biện pháp xử lý người chưa thành niên một cách không chính thức nằm ngoài hệ thống tư pháp chính thống nhằm hạn chế thấp nhất việc áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên. Tại Điều 40 (3) (b) Công ước quốc tế về quyền trẻ em quy định các quốc gia thành viên "bất cứ khi nào xét thấy phù hợp và nên làm" phải khuyến khích thúc đẩy việc thiết lập các biện pháp xử lý người chưa thành niên vi phạm pháp luật mà không cần viện đến các thủ tục tư pháp trong điều kiện bảo đảm quyền con người và sự nghiêm minh của pháp luật. Quy tắc về các chuẩn mực tối thiểu về quản lý tư pháp người chưa thành niên cũng trực tiếp khuyến khích thúc đẩy sử dụng các biện pháp xử lý chuyển hướng: "Bất cứ khi nào xét thấy phù hợp, cần xem xét xử lý người
  • 43. 43 chưa thành niên vi phạm pháp luật theo hướng không viện dẫn đến hoạt động xét xử chính thức của cơ quan thẩm quyền" [32, Quy tắc11.1]. Hay: Cơ quan Công an, Kiểm sát và các cơ quan khác xử lý các vụ việc có người chưa thành niên cần được giao thẩm quyền tự quyết trong việc ra quyết định về các vụ án này mà không cần phải tổ chức xét xử chính thức. Quyết định đưa ra dựa trên các tiêu chí được quy định riêng cho mục đích này trong hệ thống pháp luật tương ứng đồng thời phải phù hợp với các nguyên tắc được quy định trong Bộ nguyên tắc này [32, Quy tắc 11.2]. Việc áp dụng các biện pháp ngoài tư pháp có thể quyết định trong suốt quá trình giải quyết vụ án. Một, một số, hoặc tất cả các cơ quan đều có thể chiểu theo những quy tắc và chính sách trong hệ thống tương ứng mà quyết định áp dụng các biện pháp xử lý chuyển hướng. Xử lý chuyển hướng không nhất thiết chỉ được sử dụng trong trường hợp phạm tội nhẹ, do đó các biện pháp này có thể được khai thác như một chiến lược rất hữu ích để thực hiện mục tiêu của hệ thống pháp luật quốc tế về người chưa thành niên. Bên cạnh đó, Bộ quy tắc này cũng quy định điều kiện cần và đủ để thi hành các biện pháp xử lý ngoài tư pháp đối với người chưa thành niên vi phạm pháp luật: "Để hỗ trợ các quyết định được đưa ra dựa trên thẩm quyền tự quyết trong các vụ việc có người chưa thành niên, cần có nỗ lực cung cấp các chương trình tại cộng đồng như quản lý giám sát ngắn hạn, giáo huấn chỉ dẫn, buộc bồi thường thiệt hại, đền bù cho người bị hại" [32, Quy tắc 11.4]. Quy tắc này khuyến khích đưa ra một số lựa chọn xử lý người chưa thành niên dựa vào cộng đồng mang tính khả thi. Các chương trình tư pháp phục hồi, bồi thường thiệt hại và ngăn ngừa vi phạm thông qua công tác quản lý, giám sát, giáo huấn chỉ dẫn có thể sẽ đặc biệt phù hợp và hữu ích trong từng trường hợp.
  • 44. 44 Trong khi đó Hướng dẫn của Liên hợp quốc về phòng ngừa tình trạng phạm tội của người chưa thành niên lại nhấn mạnh vai trò của các chương trình và dịch vụ tại cộng đồng trong ngăn ngừa và xử lý tội phạm trong giới trẻ. Hướng dẫn này quy định rằng "các cơ quan công quyền quản lý xã hội chỉ nên vào cuộc khi không còn biện pháp khả dĩ nào khác" [35, Điều 6]. Tuy nhiên, việc áp dụng biện pháp xử lý người chưa thành niên ngoài tư pháp như chuyển người chưa thành niên đến các dịch vụ cộng đồng thích hợp hoặc các dịch vụ khác đều đòi hỏi phải có sự đồng thuận của người chưa thành niên hoặc cha mẹ hay người giám hộ của các em và phải chịu sự kiểm tra của một số cơ quan có thẩm quyền. Sự đồng thuận của người chưa thành niên hoặc cha mẹ các em là một điều kiện tiên quyết để áp dụng biện pháp xử lý ngoài tư pháp. Tại Quy tắc 11.3 trong Quy tắc về các chuẩn mực tối thiểu về quản lý tư pháp người chưa thành niên quy định rằng tất cả các tiến trình xử lý chuyển hướng tuyến người chưa thành niên ra những dịch vụ tại cộng đồng phù hợp hoặc các dịch vụ khác đều phải được sự đồng thuận của người chưathành niên, cha mẹ hoặc người giám hộ của các em. Quy tắc này cũngnhấn mạnh rằng cần có sự quan tâm giám sát phù hợp để giảm mức thấp nhất nguy cơ bắt ép, đe dọa trong tất cả các giai đoạn của quy trình xử lý chuyển hướng ngay tại Phần giải thích: Phải đảm bảo người chưa thành niên không bị gây áp lực buộc phải đồng ý thực hiện chương trình xử lý chuyển hướng, chẳng hạn như áp lực nếu không đồng ý chuyển hướng thì phải ra trước tòa án. - Quy tắc tổng quát áp dụng trong hệ thống tư pháp người chưa thành niên là "lợi ích tốt nhất cho trẻ em". Và tôn trọng, bảo vệ tất cả các quyền con người của trẻ em. Quy tắc tổng quát này cần được vận dụng vào tất cả các giai đoạn của quá trình tố tụng, từ bắt giữ, khởi tố, điều tra đến truy tố, xét xử và cải tạo - giáo dục. Không trẻ em nào bị tước quyền tự do một cách tùy tiện, việc bắt, giam giữ, bỏ tù trẻ em phải được tiến hành theo pháp luật và chỉ được tính đến như biện pháp cuối cùng và trong thời gian ngắn nhất.
  • 45. 45 Ngay tại lời nói đầu của Công ước quốc tế của Liên hợp quốc về quyền trẻ em đã "xét rằng, trẻ em cần được chuẩn bị đầy đủ để cuộc sống cá nhân trong xã hội và cần được nuôi nấng, giáo dục theo tinh thần các lý tưởng được nêu ra trong Hiến Chương Liên hợp quốc, nhất là theo tinh thần hòa bình, phẩm giá, khoan dung, tự do, bình đẳng và đoàn kết" [33]. Ngoài ra tại mục 4 Điều 40 của Công ước này đã cụ thể hóa: Cần có sẵn nhiều biện pháp khác nhau, như là sự chăm sóc, các hướng dẫn và lệnh giám sát: tư vấn, tạm tha; sự chăm nom của cha mẹ nuôi, các chương trình giáo dục và dạy nghề và những biện pháp thay thế khác bên ngoài sự chăm sóc của các cơ quan và tổ chức trong thể chế, nhằm bảo đảm cho các trẻ em được đối xử một cách phù hợp với phúc lợi của các em và tương xứng với tình cảm và tội phạm của những em này [33]. Bản Quy tắc về bảo vệ người chưa thành niên bị tước đoạt tự do thì quy định các biện pháp không giam giữ phải được khuyến khích phát triển và giám sát chặt chẽ (quy tắc 2..4). Bộ quy tắc này cũng khuyến khích thiết lập đa dạng các biện pháp xử lý dựa vào cộng đồng: Nhằm tạo ra các biện pháp xử lý linh hoạt để đáp ứng với bản chất và mức độ nghiêm trọng của từng hành vi vi phạm, với nhân thân và hoàn cảnh của người vi phạm cũng như với yêu cầu bảo vệ xã hội và tránh áp dụng hình phạt tù khi chưa cần thiết, hệ thống tư pháp hình sự cần thiết lập đa dạng các biện pháp xử lý không giam giữ trong các quyết định từ trước khi xét xử tới sau khi đưa ra hình phạt. Số lượng và loại hình các biện pháp không giam giữ nên được quyết định áp dụng sao cho vẫn có thể áp dụng các biện pháp trừng phạt khác [34, Quy tắc 2.3]. Bản Quy tắc về các chuẩn mực tối thiểu về quản lý tư pháp người chưa thành niên cũng đã nêu rõ: