SlideShare a Scribd company logo
1 of 128
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
ĐỖ XUÂN HỒNG
XÐt xö vô ¸n cã bÞ c¸o lµ ng­êi ch­a thµnh niªn
theo luËt tè TônG h×nh sù ViÖt Nam
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
ĐỖ XUÂN HỒNG
XÐt xö vô ¸n cã bÞ c¸o lµ ng­êi ch­a thµnh niªn
theo luËt tè TônG h×nh sù ViÖt Nam
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS. TRỊNH QUỐC TOẢN
HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Đỗ Xuân Hồng
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU....................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ
VỤ ÁN CÓ BỊ CÁO LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM ........................... 7
1.1. Khái niệm và đặc điểm của bị cáo là người chưa thành niên............... 7
1.2. Khái niệm và đặc điểm của hoạt động xét xử vụ án hình sự mà bị
cáo là người chưa thành niên ............................................................ 12
1.2.1. Khái niệm......................................................................................... 12
1.2.2. Đặc điểm .......................................................................................... 18
1.3. Ý nghĩa của việc quy định thủ tục xét xử riêng đối với bị cáo là
người chưa thành niên trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam............. 23
1.4. Khái quát lịch sử Luật tố tụng hình sự Việt Nam quy định về thủ
tục xét xử đối với bị cáo là người chưa thành niên từ năm 1945
đến trước khi ban hành bộ luật tố tụng hình sự 2003......................... 26
Chương 2: CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
HIỆN HÀNH VỀ THỦ TỤC XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN CÓ BỊ
CÁO LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN VÀ THỰC TIỄN
ÁP DỤNG........................................................................................ 32
2.1. Các quy định của bộ luật tố tụng hình sự hiện hành về thủ tục xét
xử các vụ án có bị cáo là người chưa thành niên............................... 32
2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định của bộ luật tố tụng hình sự hiện
hành về thủ tục xét xử các vụ án có bị cáo là người chưa thành niên.... 49
2.3. Những tồn tại, vướng mắc trong việc áp dụng các quy định của
bộ luật tố tụng hình sự hiện hành về thủ tục xét xử các vụ án có
bị cáo là người chưa thành niên và nguyên nhân của nó ................... 61
Chương 3: NHU CẦU VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
HIỆN HÀNH VỀ THỦ TỤC XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN HÌNH
SỰ CÓ BỊ CÁO LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN VÀ
NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG............................................. 84
3.1. Nhu cầu hoàn thiện các quy định của bộ luật tố tụng hình sự hiện
hành về thủ tục xét xử các vụ án có bị cáo là người chưa thành
niên và nâng cao hiệu quả áp dụng ................................................... 84
3.2. Một số giải pháp hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng
hình sự hiện hành về thủ tục xét xử các vụ án có bị cáo là người
chưa thành niên và nâng cao hiệu quả áp dụng ................................. 89
3.3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ
luật tố tụng hình sự hiện hành về thủ tục xét xử các vụ án có bị
cáo là người chưa thành niên .......................................................... 102
KẾT LUẬN............................................................................................... 114
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................. 116
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt Chữ không viết tắt
BLDS Bộ luật dân sự
BLHS Bộ luật hình sự
BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự
NCTN Người chưa thành niên
NCTNPT Người chưa thành niên phạm tội
TNHS Trách nhiệm hình sự
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua thực hiện công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo
của Đảng cộng sản Việt Nam, tình hình kinh tế - xã hội của cả nước nói
chung, đã có những bước phát chuyển biến tích cực; an ninh chính trị được
giữ vững, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo. Tuy nhiên, tình hình tội phạm
nói chung và tội phạm do người chưa thành niên (NCTN) thực hiện vẫn chưa
có chiều hướng giảm và có diễn biến phức tạp với tính chất mức độ nguy
hiểm cho xã hội ngày càng cao. Đây là vấn đề không chỉ Đảng, chính quyền,
các cơ quan bảo vệ pháp luật, các cơ quan tư pháp quan tâm mà các ngành,
các cấp và toàn thể nhân dân cả nước đang hết sức quan tâm. Quan điểm của
Đảng và Nhà nước ta về vấn đề giải quyết tội phạm đối với NCTN là: "Vấn
đề không phải chỉ đơn giản là xử một vụ án, trừng phạt một tội phạm nào đó,
điều quan trọng là phải tìm ra mọi cách để làm giảm bớt những hoạt động
phạm pháp và tốt hơn hết là ngăn ngừa đừng để các việc sai trái ấy xảy ra",
quán triệt tinh thần đó, Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003 đã dành
nguyên một chương riêng biệt (Chương XXXII) quy định về thủ tục tố tụng
đối với NCTN. Đây là cơ sở pháp lý để áp dụng khi xử lý đối với người bị
tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo là NCTN vi phạm pháp luật
Tuy nhiên, trong thực tiễn áp dụng các quy định này đã nảy sinh nhiều
vướng mắc và bất cập. Qua quá trình nghiên cứu lý luận và thực trạng áp
dụng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự trong việc giải quyết các vụ
án mà bị can, bị cáo là NCTN, chúng tôi thấy, những người tiến hành tố tụng
không những phải nắm vững các quy định của pháp luật, tuân thủ chặt chẽ các
thủ tục tố tụng đặc biệt này mà còn phải có kiến thức hiểu biết nhất định về
đặc điểm tâm sinh lý của lứa tuổi chưa thành niên để đề ra đường lối xét xử
2
vừa thấu tình đạt lý, phục vụ nhiệm vụ chính trị địa phương; song quan trọng
hơn giúp các em hiểu rõ các quy định của pháp luật tránh được các vi phạm
đáng tiếc xảy ra, giúp các em sửa chữa lỗi lầm trở thành các công dân có ích
cho gia đình và xã hội. Toà án nhân dân cả nước đã có nhiều cố gắng thực
hiện tốt chức năng nhiệm vụ được giao góp phần quan trọng trong công tác
đấu tranh phòng chống tội phạm, phục vụ nhiệm vụ chính trị. Song so với yêu
cầu cải cách tư pháp công tác xét xử các vụ án hình sự của Toà án nhân dân
các cấp vẫn còn nhiều hạn chế, thiếu sót nhất là đối với loại tội phạm do
NCTN thực hiện: Tình trạng vi phạm thủ tục tố tụng vẫn còn xảy ra, bị cáo là
NCTN hoặc người đại diện hợp pháp của họ không mời luật sư bào chữa
nhưng các cơ quan tiến hành tố tụng không chỉ định luật sư bào chữa là chưa
bảo đảm quyền bào chữa cho bị can, bị cáo; trình độ của một số Thẩm phán
chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao; sự đánh giá, nhìn nhận đối với lứa
tuổi là người chưa thành niên phạm tội (NCTNPT) theo nhiều chiều khác
nhau dẫn đến đường lối xử lý chưa thống nhất còn mang nặng tính răn đe vì
vậy tác dụng giáo dục, phòng ngừa không cao chưa đáp ứng được yêu cầu đấu
tranh phòng chống đối với loại tội phạm do NCTN thực hiện và xu thế hội
nhập quốc tế. Chính vì vậy, trước những đòi hỏi của công cuộc cải cách tư
pháp, việc nâng cao chất lượng xét xử những vụ án hình sự mà bị can, bị cáo
là NCTN trên phạm vi cả nước là vấn đề có ý nghĩa sâu sắc cả về mặt lý luận
cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật.
Vì lý do đó, việc nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý
luận và thực tiễn liên quan đến việc xét xử vụ án có bị cáo là người chưa
thành niên trong những năm gần đây, trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp, để
tiếp tục góp phần hoàn thiện những quy định về thủ tục tố tụng đối với người
chưa thành niên và giải quyết những vướng mắc của thực tiễn áp dụng Luật
Tố tụng Hình sự, là việc rất cần thiết, có ý nghĩa quan trọng cả về mặt lý luận
3
lẫn thực tiễn. Vì vậy, tôi chọn đề tài "Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa
thành niên theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam" làm đề tài nghiên cứu cho
Luận văn tốt nghiệp thạc sĩ Luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong công tác xét xử án hình sự, việc xét xử các vụ án hình sự mà bị
can, bị cáo là NCTN là một trong những nội dung quan trọng. Bởi vì ngoài
việc quyết định hình phạt đối với họ, Tòa án còn phải thực hiện việc giáo dục
họ sửa chữa lỗi lầm, phát triển lành mạnh về thể chất và tinh thần, tạo điều
kiện giúp họ sớm hòa nhập cuộc sống bình thường. Trong thời gian qua có
nhiều công trình nghiên cứu như:
Dưới góc độ đề tài nghiên cứu có: “Những nguyên nhân chủ yếu của
tình trạng trẻ em phạm tội” của Nguyễn Minh Ngọc, Hà Nội năm 1992; “Về
tình trạng trẻ em lang thang phạm tội và một số kiến nghị” của Lê Thế Tiệm,
Hà Nội năm 1992; “Tài liệu tham khảo về công tác trẻ em làm trái pháp luật”
của Ủy ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em & Tổ chức cứu trợ trẻ em Thụy Điển,
Hà Nội năm 1996; “Dự án tăng cường năng lực hệ thống tư pháp NCTN tại
Việt Nam” của Viện nghiên cứu Khoa học pháp lý- Bộ tư pháp năm 2000;
“Thanh thiếu niên phạm pháp - dự báo năm 2000” của Châu Diệu Ái; “Tổng
quan về những vấn đề xã hội của vị thành niên” của Viện Nghiên cứu thanh
niên và một số bài viết đăng trên các tạp chí khoa học; “Đấu tranh phòng,
chống tội phạm do người chưa thành niên thực hiện trên địa bàn thành phố
Hà Nội” của tác giả Trịnh Quốc Toản, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà
Nội năm 2007;
Dưới góc độ luận văn có: "Thủ tục tố tụng về những vụ án mà bị can, bị
cáo là NCTN và thực tiễn áp dụng tại thành phố Hà Nội" của học viên
Nguyễn Trần Bích Phượng, Luận văn cử nhân Luật, Trường Đại học Luật Hà
Nội năm 2001; "Thủ tục tố tụng về những vụ án mà bị can, bị cáo là NCTN -
4
một số vấn đề lý luận và thực tiễn" của học viên Phạm Thị Khánh Toàn, Luận
văn cử nhân Luật, Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2003; "Thủ tục tố tụng
đối với bị can, bị cáo là NCTN trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam" của
tác giả Đỗ Thị Phượng;
Dưới góc độ tài liệu là báo cáo, tạp chí có: “Tài liệu tham khảo về công
tác trẻ em làm trái pháp luật” của Ủy ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em & Tổ
chức cứu trợ trẻ em Thụy Điển, Hà Nội năm 1996; “Dự án tăng cường năng
lực hệ thống tư pháp NCTN tại Việt Nam” của Viện nghiên cứu Khoa học
pháp lý- Bộ tư pháp năm 2000;...
Tài liệu nghiên cứu nước ngoài có nhiều công trình khoa học nghiên cứu
về tội phạm của NCTN, ví dụ như: Deliquent Boys của Cohen Albert, Towards
and Understanding of Juvenile Deliquency của Lander Ernarad; Juvenile
Deliquency của Josph G. Weis; Robert D. Crutchfield. George S. Bridges…
Các công trình nghiên cứu nêu trên đã đề cập đến NCTN thực hiện
hành vi phạm tội trong một phạm vi và khoảng thời gian nhất định; có đề tài
nghiên cứu nâng cao chất lượng xét xử sơ thẩm của toà án cấp huyện đối với
mọi đối tượng phạm tội. Nhưng chưa có một công trình nghiên cứu khoa học
nào nghiên cứu độc lập toàn diện về công tác xét xử vụ án có NCTN là bị cáo
trên phạm vi toàn quốc.
Chính vì lẽ trên, việc nghiên cứu đề tài: "Xét xử vụ án có bị cáo là
người chưa thành niên theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam" càng trở lên
cần thiết và cấp bách nhằm góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn và lý luận, đánh giá thực tiễn xét xử
các vụ án hình sự bị cáo là NCTN, luận văn góp phần làm sáng tỏ các quy
5
định của pháp luật tố tụng hình sự về việc giải quyết vụ án mà bị cáo là
NCTN để áp dụng vào thực tiễn công tác xét xử nhằm đạt chất lượng và hiệu
quả cao nhất, đồng thời đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng xét
xử đối với các vụ án mà bị cáo là NCTN góp phần vào nâng cao chất lượng
xét xử các vụ án mà bị cáo là NCTN ở Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý của việc nâng cao
chất lượng xét xử các vụ án hình sự mà bị cáo là NCTN. Trong đó tập trung
nghiên cứu các vấn đề: khái quát về NCTN; đặc điểm tâm lý lứa tuổi của
NCTN; những quy định của pháp luật nói chung về NCTN; những quy định
của pháp luật tố tụng hình sự về thủ tục xét xử đối với vụ án mà bị cáo là
NCTN; thực tiễn xét xử các vụ án mà bị cáo là NCTN. Thông qua đó, luận
văn đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng xét xử các vụ án mà
bị cáo là NCTN không những chỉ nhằm mục đích phòng chống tội phạm mà
cao hơn cải tạo giáo dục họ mau chóng nhận thức được lỗi lầm để trở thành
công dân có ích cho gia đình và xã hội.
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, luận văn cũng đánh giá tình hình và từ
đó đề ra một số kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả xét xử các vụ án
mà bị cáo là NCTN.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong luận văn chúng tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu như:
Phương pháp lịch sử, so sánh, tổng hợp, thống kê tình hình thực tiễn xét xử tại
Tòa án. Qua đó rút ra những tồn tại, hạn chế của thủ tục xét xử vụ án mà bị
cáo là NCTN nhằm tìm ra nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế đó.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu: các quy định của pháp luật tố tụng hình
sự Việt Nam về thủ tục xét xử bị cáo là NCTN phạm tội từ trước đến nay, so
sánh với thủ tục tố tụng của một số nước khác trên thế giới.
6
Nghiên cứu thực trạng xét xử NCTN thông qua các phiên tòa của Tòa
án nhân dân trong những năm gần đây.
6. Điểm mới của luận văn
Nội dung của luận văn được trình bày một cách có hệ thống các quy
định pháp luật tố tụng về thủ tục xét xử vụ án và thực tiễn áp dụng pháp luật
tố tụng hình sự đối với các vụ án hình sự mà bị cáo là NCTN. Từ việc nghiên
cứu thực tiễn trong việc xét xử vụ án có bị cáo là NCTN, luận văn đã nêu lên
những bất hợp lý và những vướng mắc trong việc áp dụng các quy phạm pháp
luật tố tụng hình sự trong thực tiễn xét xử các vụ án về NCTN; những tồn tại
trong công tác tổ chức của Toà án. Từ đó đưa ra những đề xuất hướng giải
quyết sao cho phù hợp với thực tế, hoà nhập với các nước trong khu vực và
trên thế giới; đồng thời hạn chế phần nào những sai lầm, khuyết điểm của cơ
quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Góp phần đề xuất những
giải pháp nhằm nâng cao chất lượng xét xử các vụ án mà bị cáo là NCTN.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về hoạt động xét xử vụ án có bị cáo là
người chưa thành niên theo luật tố tụng hình sự Việt Nam.
Chương 2: Các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành về thủ
tục xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên và thực
tiến áp dụng.
Chương 3: Nhu cầu và những giải pháp hoàn thiện các quy định của
Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành về thủ tục xét xử chất
các vụ án có bị cáo là người chưa thành niên và nguyên
nhân của nó.
7
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ
VỤ ÁN CÓ BỊ CÁO LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm và đặc điểm của bị cáo là người chưa thành niên
Thuật ngữ “hệ thống tư pháp người chưa thành niên” mới được nhắc
đến nhiều ở Việt Nam trong những năm gần đây. Theo quan niệm thông dụng
quốc tế thì thuật ngữ này được dùng với nghĩa chỉ tất cả các quá trình và thủ
tục xử lý các hành vi vi phạm pháp luật (cả hành chính và hình sự) do những
người dưới 18 tuổi thực hiện. Với ý nghĩa đó, khái niệm này bao trùm rất
nhiều giai đoạn từ ngăn ngừa, giáo dục đến xử lý hành chính, xử lý hình sự và
tái hoà nhập cộng đồng cho người vi phạm chưa thành niên, sau khi họ đã
chấp hành đầy đủ hình phạt và các biện pháp giáo dục. Đảng và Nhà nước
Việt Nam luôn coi người chưa thành niên [33], đặc biệt là những người dưới
16 tuổi, là những người chưa trưởng thành do họ còn non nớt về thể chất và
trí tuệ. Do đó, họ cần được đối xử khác với cách đối xử dành cho người đã
thành niên và cần được gia đình, xã hội và Nhà nước bảo vệ, chăm sóc đặc
biệt. Quan điểm, chính sách cơ bản này đã được thể hiện trong Hiến pháp
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng như trong một số luật quan
trọng ở cả hệ thống hành chính và hình sự. Bên cạnh các điều khoản quy định
riêng trong Hiến pháp về người chưa thành niên, Nhà nước còn ban hành
riêng một văn bản luật quy định một cách toàn diện về bảo vệ, chăm sóc, giáo
dục trẻ em. Các văn bản luật quy định về các loại trách nhiệm pháp lý đối với
các hành vi vi phạm pháp luật đều có chương riêng hoặc một số điều khoản
riêng quy định áp dụng đối với người chưa thành niên [43].
8
Theo quy định tại Điều 1 Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1990
[21, tr.12] trẻ em là người dưới 18 tuổi trừ trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ
em đó có quy định tuổi thành niên sớm hơn. Bên cạnh Công ước về quyền trẻ
em thì Quy tắc tối thiểu phổ biến của Liên Hợp Quốc về việc áp dụng pháp luật
đối với người chưa thành niên (Quy tắc Bắc Kinh) [3] do Đại hội đồng Liên
Hợp Quốc thông qua ngày 14.12.1992 cũng nêu rõ người chưa thành niên là
người dưới 18 tuổi như là một sự kế thừa của Công ước về quyền trẻ em. Quy
tắc Riyath về phòng ngừa phạm pháp ở người chưa thành niên được Liên Hợp
Quốc thông qua ngày 14.12.1990 [22, tr.20] mặc dù không đưa ra một cách cụ
thể về khái niệm người chưa thành niên song thông qua các quy định cũng giúp
chúng ta hiểu người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi. Tuy nhiên, do sự
phát triển của từng quốc gia khác nhau, nên khái niệm người chưa thành niên ở
các quốc gia cũng khác nhau, bên cạnh việc đưa ra khái niệm này thì Công ước
về Quyền trẻ em vẫn còn những điều khoản để ngỏ cho các nước quy định về
độ tuổi cho người chưa thành niên, thậm chí ngay trong một quốc gia các văn
bản pháp luật cũng quy định không thống nhất về vấn đề này.
NCTN là khái niệm chung, bao trùm cho cả các quy định trong tố tụng
hình sự. Được coi là bị can khi họ có quyết định khởi tố đối với một người đã
thực hiện hành vi phạm tội. Quyết định khởi tố bị can là cơ sở pháp lý để áp
dụng các biện pháp ngăn chặn cần thiết và tiến hành các biện pháp điều tra
đối với người đó. Khái niệm bị can được tồn tại suốt cả quá trình tiến hành tố
tụng từ khi điều tra, truy tố, chuẩn bị xét xử. Như vậy người thực hiện hành vi
phạm tội trong quá trình tố tụng này chưa đủ 18 tuổi là bị can NCTN kể từ
thời điểm có quyết định đưa vụ án ra xét xử của Toà án đã thụ lý vụ án khi đó
bị can chính thức trở thành bị cáo. Quyết định đưa vụ án ra xét xử là cơ sở
pháp lý chứng minh đã đủ chứng cứ để đưa vụ án ra xét xử mà không phải trả
hồ sơ để điều tra bổ xung, tạm đình chỉ hay đình chỉ vụ án. Như vậy người bị
9
Viện kiểm sát truy tố và Toà án có quyết định đưa vụ án ra xét xử từ đủ 14
tuổi đến chưa đủ 18 tuổi gọi là bị cáo là NCTN.
Như vậy: Người chưa thành niên phạm tội là người chưa tròn 18 tuổi
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà Bộ luật hình sự quy định là tội
phạm. Tuy nhiên, không phải người chưa thành niên phạm tội nào cũng bị
truy cứu trách nhiệm hình sự.
Việc tìm hiểu đặc điểm bị cáo là người chưa thành niên là không thể
thiếu đối với cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng trong xét
xử vụ án hình sự có người chưa thành niên là bị cáo.
NCTN là khái niệm chung, bao trùm cho cả các quy định trong tố tụng
hình sự. NCTN được coi là bị cáo kể từ thời điểm có quyết định đưa vụ án ra
xét xử của Toà án đã thụ lý vụ án khi đó bị can chính thức trở thành bị cáo.
Quyết định đưa vụ án ra xét xử là cơ sở pháp lý chứng minh đã đủ chứng cứ để
đưa vụ án ra xét xử mà không phải trả hồ sơ để điều tra bổ xung, tạm đình chỉ
hay đình chỉ vụ án. Như vậy người bị Viện kiểm sát truy tố và Toà án có quyết
định đưa vụ án ra xét xử từ đủ 14 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi gọi là bị cáo NCTN.
Điểm đặc thù của người chưa thành niên là sự hạn chế về nhận thức, do
vậy việc xét xử họ chủ yếu nhằm giáo dục, qua đó giúp các em nhận thức
được sai lầm và tuân thủ quy định của pháp luật. Những nguyên tắc cơ bản
được quy định tại Điều 69 Bộ luật hình sự (BLHS) như sau: trong trường hợp
điều tra, xét xử hành vi phạm tội của người chưa thành niên, các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền phải xác định khả năng nhận thức của họ về hành vi
nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân, điều kiện gây ra tội
phạm. Người chưa thành niên phạm tội có thể được miễn truy cứu trách
nhiệm hình sự nếu người đó phạm tội không nghiêm trọng hoặc ít nghiêm
trọng, gây hại không lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và được gia đình, cơ
quan, tổ chức nhận giáo dục. Việc truy cứu trách nhiệm hình sự người chưa
10
thành niên phạm tội và áp dụng hình phạt với họ chỉ trong trường hợp cần
thiết và phải căn cứ vào tính chất của hành vi phạm tội, vào đặc điểm nhân
thân về nhân thân và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm.
Khi xét xử nếu thấy không cần thiết áp dụng hình phạt thì tòa án có thể
áp dụng một trong các biện pháp tư pháp thay thế là giáo dục tại xã phường,
thị trấn hoặc đưa vào trường giáo dưỡng. Đặc biệt, Bộ luật hình sự Việt Nam
không quy định áp dụng hình phạt chung thân hoặc tử hình đối với người
chưa thành niên phạm tội. Khi xử phạt tù có thời hạn, tòa án cho bị cáo là
người chưa thành niên phạm tội hưởng mức án tù nhẹ hơn mức án tù áp dụng
đối với người đã thành niên phạm tội tương đương; không áp dụng hình phạt
bổ sung đối với người chưa thành niên phạm tội, đối với người từ đủ 14 đến
dưới 16 tuổi không áp dụng hình phạt tiền và án đã tuyên đối với người chưa
thành niên phạm tội chưa đủ 16 tuổi thì không tính để xác định tái phạm hoặc
tái phạm nguy hiểm.
Xuất phát từ những đặc điểm khác biệt về thể chất và tinh thần của
NCTN so với người trưởng thành mà pháp luật có quy định chính sách hình
sự riêng đối với NCTN phạm tội, đồng thời cũng quy định thủ tục tố tụng cần
thiết đối với đối tượng này. Trước hết, việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn
đối với NCTN phạm tội, nhất là biện pháp bắt tạm giữ, tạm giam phải cân
nhắc, thận trọng. Bộ luật TTHS cũng quy định Điều tra viên, Kiểm sát viên,
Thẩm phán tiến hành tố tụng với người chưa thành niên phạm tội phải là
người có hiểu biết cần thiết về tâm lý học, khoa học giáo dục, cũng như hoạt
động đấu tranh phòng chống tội phạm của NCTN. Bởi những người tiến hành
tố tụng am hiểu về những vấn đề, đặc điểm riêng, tính cách của NCTN thì
mới có thể đánh giá, nhận xét được một cách xác đáng về tính chất, mức độ
của hành vi phạm tội, nguyên nhân, điều kiện phạm tội, động cơ mục đích
phạm tội cũng như nhân thân của người phạm tội, từ đó có thể áp dụng biện
pháp xử lý thích hợp.
11
Khi xét xử Sơ thẩm hay Phúc thẩm vụ án hình sự mà bị cáo là NCTN
ngoài những vấn đề bắt buộc phải chứng minh theo quy định tại Điều 63 Bộ
luật tố tụng hình sự (BLTTHS) (có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời
gian địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội; ai là người thực
hiện hành vi phạm tội, có lỗi hay không có lỗi, lỗi do cố ý hay vô ý, có năng
lực trách nhiệm hình sự (TNHS) hay không, mục đích động cơ phạm tội;
những tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ TNHS của bị cáo và những đặc
điểm về nhân thân của bị cáo; tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm
tội gây ra), thì theo quy định tại khoản 2 Điều 302 của BLTTHS Tòa án cần
phải xác định rõ các vấn đề sau đây:
Tuổi, trình độ phát triển về thể chất và tinh thần, mức độ nhận thức về
hành vi phạm tội của NCTN.
Việc xác định tuổi của bị cáo là NCTN đặc biệt quan trọng vì đây là căn
cứ để truy cứu TNHS của người phạm tội cũng như việc xác định trình độ phát
triển về thể chất và tinh thần, mức độ nhận thức về hành vi phạm tội giúp cho
người tiến hành tố tụng có thể đánh giá tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội
do hành vi phạm tội của NCTN gây ra để có thể áp dụng biện pháp tư pháp hay
hình phạt thích hợp, bảo đảm chế độ thi hành án theo quy định của pháp luật.
Điều kiện sinh sống và giáo dục
Hành vi phạm tội của NCTN thường bắt nguồn từ điều kiện sống và
giáo dục trong gia đình, nhà trường và xã hội. Cho nên, làm rõ yếu tố này
cũng xác định khả năng cải tạo và giáo dục NCTN phạm tội, đồng thời cũng
có thể giúp cho việc xác định nguyên nhân và điều kiện phạm tội để có thể
đưa ra các biện pháp phòng ngừa thích hợp đối với người phạm tội nói chung
và NCTNPT nói riêng.
Khoa học đã chứng minh con người chịu sự ảnh hưởng tác động qua lại
của môi trường xung quanh, hành vi phạm tội không phải ngẫu nhiên hình
12
thành, nó phát sinh không phải từ chính môi trường, chính bản thân người đó
mà là do sự tác động qua lại giữa môi trường và cá nhân con người đó. Đối
với NCTN ảnh hưởng của môi trường xung quanh càng thể hiện rõ hơn, đó là:
điều kiện sinh sống của gia đình, thái độ, cách ứng xử của cha mẹ, những
người thân trong gia đình; điều kiện học tập và sinh hoạt của họ ở nhà trường,
đoàn thể, nơi cư trú.
Có hay không có người đã thành niên xúi giục.
Việc xác định có hay không có người thành niên xúi giục cũng như
nguyên nhân và điều kiện phạm tội là những vấn đề quan trọng, làm cơ sở cho
việc đánh giá tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội mà NCTN
đã thực hiện, từ đó đề ra những biện pháp hữu hiệu ngăn chặn tái phạm.
1.2. Khái niệm và đặc điểm của hoạt động xét xử vụ án hình sự mà
bị cáo là người chưa thành niên
1.2.1. Khái niệm
Pháp luật nói chung và Pháp luật hình sự nói riêng luôn luôn coi trẻ em
là đối tượng đặc biệt cần được bảo vệ không chỉ trong cuộc sống hàng ngày
mà ngay cả khi các em là chủ thể của hành vi nguy hiểm cho xã hội đến mức
phải truy cứu TNHS. Luật hình sự bảo vệ NCTN bị coi là tội phạm và cũng
quy định một chế tài riêng để xử lý, thì thủ tục tố tụng cũng phải phù hợp với
lứa tuổi NCTN nhằm thể hiện tính nhân đạo trong chính sách pháp luật của
Đảng và Nhà nước Việt Nam. BLTTHS năm 2003 [40] đã có một chương
riêng (Chương XXXII) quy định về thủ tục tố tụng đối với bị cáo là NCTN.
Tuy nhiên, trong Điều 301 quy định về phạm vi áp dụng "Thủ tục đối với
NCTN", nhà làm luật Việt Nam không ghi nhận khái niệm pháp lý "thủ tục
đối với NCTN", “thủ tục xét xử đối với NCTN” là gì? Qua nghiên cứu các
quy định về thủ tục xét xử đối với NCTN trong chương này, chúng ta có thể
hiểu: Các quy định về thủ tục xét xử đối với NCTN có những đặc trưng so với
13
thủ tục xét xử được áp dụng đối với người thành niên. Những đặc trưng này
thể hiện ở phạm vi áp dụng, việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn, về việc
tham gia của luật sư bào chữa, việc giám sát NCTN, việc tham gia của gia
đình, nhà trường và tổ chức xã hội vào quá trình chuẩn bị xét xử và xét xử.
Thủ tục xét xử vụ án mà bị cáo là NCTN theo Pháp luật tố tụng hình sự
Việt Nam là: tổng hợp các quy định chung về thủ tục xét xử vụ án hình sự và
các quy định về thủ tục đặc thù mang tính chất nhân đạo đối với bị cáo là
NCTN từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi nhằm xét xử vụ án một cách khách
quan, toàn diện và đúng pháp luật, đồng thời bảo vệ các quyền và lợi ích hợp
pháp của bi can, bị cáo trong hoạt động xét xử.
Việc nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự có người chưa thành niên tham gia
tố tụng cũng tương tự như việc nghiên cứu các vụ án hình sự khác. Tuy nhiên
do pháp luật hình sự có những quy định riêng trong trình tự, thủ tục tố tụng đối
với người chưa thành niên là người bị tạm giữ, bị can nên khi nghiên cứu hồ
sơ, Thẩm phán phải đặc biệt chú ý đến việc chấp hành các thủ tục, trình tự tố
tụng này của Điều tra viên, Kiểm sát viên. Trường hợp nếu phát hiện thấy có vi
phạm nghiêm trọng trong thủ tục tố tụng tức là không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng, không đầy đủ các trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định, xâm hại
nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng nói
chung và của người chưa thành niên nói riêng hoặc ảnh hưởng đến việc xác
định sự thật khách quan và toàn diện của vụ án. Các vi phạm nghiêm trọng
trong thủ tục tố tụng được hướng dẫn tại Điều 4 Thông tư liên tịch số
01/2010/TTLT-VKSNDTC-BCA-TANDTC ngày 27/08/2010 của Viện Kiểm
sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành
các quy định của BLTTHS về trả hồ sơ để điều tra bổ sung (sau đây xin được
viết tắt là Thông tư liên tịch số 01/2010). Theo hướng dẫn tại Điều 4 Thông tư
liên tịch số 01/2010 thì việc không yêu cầu cử người bào chữa cho bị can, bị
14
cáo theo quy định tại khoản 2 Điều 57 BLTTHS, chưa điều tra, lập lý lịch của
bị can; chưa xác định được những đặc điểm quan trọng về nhân thân của người
có hành vi phạm tội (tuổi, tiền án, tiền sự của bị can, bị cáo); khởi tố vụ án hình
sự nhưng không có yêu cầu của người bị hại hoặc của người đại diện hợp pháp
của người bị hại theo quy định tại khoản 1 Điều 105 của BLTTHS,...
Đối với các vụ án hình sự có người chưa thành niên tham gia tố tụng,
thì Thẩm phán cần nghiên cứu kỹ về độ tuổi, trình độ phát triển về thể chất,
tinh thần, khả năng nhận thức về hành vi phạm tội; có người xúi giục không;
nguyên nhân, điều kiện phạm tội; hoàn cảnh, động cơ, mục đích của người
phạm tội. Ngoài ra cần nghiên cứu để xác định rõ tính chất, mức độ nguy
hiểm của hành vi phạm tội, các tình tiết quan trọng khác có ảnh hưởng đến
quyết định hình phạt như nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ; có hay
không có người bảo lãnh… Từ các căn cứ trên, Thẩm phán có thể đề xuất
việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam. Chỉ có thể quyết định
tạm giam bị cáo chưa thành niên để chuẩn bị xét xử trong những trường hợp
quy định tại Điều 303 BLTTHS. Nếu không phải áp dụng biện pháp ngăn
chặn nghiêm khắc này thì giao bị cáo cho người đại diện hợp pháp hoặc người
đỡ đầu giám sát.
Trong quá trình chuẩn bị xét xử, Thẩm phán phải kiểm tra xem bị cáo,
người đại diện hợp pháp của bị cáo có yêu cầu Luật sư không; người bị hại
có mời người bào chữa hay không. Trong trường hợp bị cáo, người đại diện
hợp pháp của bị cáo chưa thành niên không mời nhưng có yêu cầu Luật sư
bào chữa thì Thẩm phán phải yêu cầu Đoàn Luật sư phân công văn phòng
Luật sư cử Luật sư bào chữa cho bị cáo. Thẩm phán phải xử lý các tình huống
mà bị cáo, người đại diện hợp pháp của họ có yêu cầu thay đổi hoặc từ chối
người bào chữa theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 56 BLTTHS để
chấp nhận hoặc không chấp nhận. Nếu chấp nhận thì yêu cầu Đoàn Luật sư cử
15
người khác, nếu không chấp nhận thì thông báo bằng văn bản cho người có
yêu cầu thay đổi biết. Nếu từ chối người bào chữa thì Tòa án vẫn triệu tập
người bào chữa. Tại phiên tòa nếu họ tiếp tục từ chối người bào chữa thì Hội
đồng xem xét, quyết định. Việc tiếp tục từ chối người bào chữa và quyết định
của Hội đồng xét xử được ghi trong biên bản phiên tòa.
Việc thành lập Hội đồng xét xử cần phải chú ý thành phần của Hội
đồng xét xử, phải có Hội thẩm nhân dân là giáo viên hoặc cán bộ Đoàn thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh (Điều 307 BLTTHS).Theo quy định tại Điều 16
Thông tư liên tịch số 01/2011 thì ngay cả các vụ án có người bị hại là người
chưa thành niên thì Tòa án cần phải tạo điều kiện để thành phần Hội đồng xét
xử có Hội thẩm nhân dân đã là giáo viên hoặc cán bộ Đoàn thanh niên như
trong trường hợp xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên.
Cũng rất cần chú ý việc triệu tập những người tham gia tố tụng khác là
người chưa thành niên và người đại diện hợp pháp, người giám hộ của họ.
Nếu xét thấy cần thiết, để tránh những ảnh hưởng tiêu cực của dư luận xã hội
đối với người chưa thành niên là bị cáo hoặc là người bị hại, đồng thời để tạo
điều kiện cho người chưa thành niên bình tĩnh, khai báo khách quan, trung
thực thì Tòa án có thể quyết định xử kín. Việc quyết định xử kín phải được
nêu trong quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Trong phần thủ tục bắt đầu phiên tòa, khi kiểm tra căn cước của bị cáo,
người bị hại, người có quyền, nghĩa vụ liên quan là người chưa thành niên thì
Chủ tọa phiên tòa cần hết sức chú ý đến việc xác định ngày, tháng, năm sinh
của họ. Trường hợp có việc không thống nhất về xác định tuổi của những
người tham gia tố tụng này thì Hội đồng xét xử phải quyết định hoãn phiên
tòa để trả hồ sơ điều tra bổ sung theo hướng dẫn tại điểm k Điều 1 Thông tư
liên tịch số 01/2010. Các vấn đề khác như xác định về đặc điểm nhân thân, lý
lịch tư pháp về năng lực TNHS, về tiền án, tiền sự…nếu không thể làm rõ
16
được trong phần thủ tục bắt đầu phiên tòa thì Hội đồng xét xử cũng phải hoãn
phiên tòa để căn cứ vào các hướng dẫn tại Điều 1 Thông tư liên tịch số
01/2010 để trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
Ngoài việc tuân thủ các quy định của BLTTHS về việc xét hỏi, trong vụ
án có người chưa thành niên tham gia tố tụng cần chú ý một số vấn đề sau đây:
+ Việc đặt câu hỏi đối với người chưa thành niên phải ngắn gọn, rõ
ràng, đơn giản và rất từ tốn, không được tỏ thái độ gay gắt, nhằm giúp cho
người chưa thành niên hiểu, bình tĩnh trả lời đúng câu hỏi một cách khách
quan. Nếu thấy họ chưa hiểu câu hỏi thì cần nhắc lại và có thể giải thích câu
hỏi cho rõ hơn.
+ Trường hợp bị cáo do quá sợ hãi, không trả lời được câu hỏi hoặc
mất bình tĩnh không trình bày được thì có thể động viên, giúp bị cáo trấn tĩnh
(cho ngồi xuống, cách ly người lớn…), cũng có thể chuyển sang xét hỏi bị
cáo khác, hỏi người bị hại… để bị cáo trấn tĩnh.
+ Việc hỏi đại diện gia đình, nhà trường, tổ chức là rất cần thiết nhằm
xác định nguyên nhân, điều kiện phạm tội, động cơ, mục đích, hoàn cảnh
phạm tội, từ đó Hội đồng xét xử có thể định hướng về biện pháp xử lý hình sự
đối với bị cáo là người chưa thành niên.
Hội đồng xét xử cần chú ý xem xét các chứng cứ, các yêu cầu của đại
diện gia đình, nhà trường. Nếu họ có yêu cầu hỏi bị cáo thì Hội đồng xem xét
quyết định (tinh thần là Chủ tọa phiên tòa nên chấp nhận yêu cầu này của đại
diện gia đình, nhà trường).
- Đối với người tham gia tố tụng là người bị hại, người làm chứng là
người chưa thành niên, đặc biệt là trong các vụ án xâm phạm tình dục trẻ em,
mua bán trẻ em thì Tòa án có thể quyết định xử kín và hạn chế tối đa việc để
họ phải đối mặt với bị cáo, người nhà bị cáo tại phiên tòa. Có thể cho phép họ
đứng sau màn chắn hoặc tại một phòng khác thông qua kết nối hệ thống
camera ( xem Điều 16 Thông tư liên tịch số 01/2011).
17
Ngoài bài bào chữa của người bào chữa thì đại diện hợp pháp của bị
cáo, người bị hại chưa thành niên, người giám hộ của người có quyền, nghĩa
vụ liên quan là người chưa thành niên, đại diện gia đình, nhà trường, tổ chức
xã hội cũng có quyền tham gia tranh luận tại phiên tòa. Nếu người đại diện
hợp pháp của những người tham gia tố tụng là người chưa thành niên tham
gia phiên tòa và thực hiện việc bào chữa và nếu không có yêu cầu Luật sư thì
họ được bào chữa, tranh luận (Tòa án không cần thiết phải chỉ định Luật sư
hoặc người bào chữa cho bị cáo).
Việc nghị án phải tuân thủ quy định tại Điều 222 BLTTHS. Tuy nhiên,
trong khi nghị án, Hội đồng xét xử cần phải chú ý đặc biệt đến chính sách
hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội được quy định trong BLHS.
+ Bị cáo phạm tội khi bao nhiêu tuổi và theo quy định của pháp luật về
độ tuổi chịu TNHS thì bị cáo có phải chịu TNHS không?
+ Bị cáo có tội không? Tội phạm quy định tại điểm, khoản, Điều nào
của BLHS?
+ Bị cáo có đủ điều kiện để miễn TNHS theo khoản 2 Điều 69
BLHS không?
+ Có cần thiết phải áp dụng hình phạt đối với bị cáo không? Có điều kiện
để áp dụng các biện pháp tư pháp theo quy định tại Điều 70 BLHS không?
+ Khi cần thiết phải áp dụng hình phạt thì cần chú ý việc lựa chọn hình
phạt. Nếu phải áp dụng hình phạt tù thì phải chú ý đến quy định về mức phạt
tù tối đa đối với người chưa thành niên ( Điều 74 BLHS) và cách tính mức
hình phạt đối với người chưa thành niên theo hướng dẫn tại Điều 11 Nghị
quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/05/2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao hướng dẫn một số quy định của BLHS.
+ Không xử phạt tù chung thân, tử hình đối với người chưa thành niên
phạm tội.
18
+ Không áp dụng hình phạt tiền đối với người phạm tội ở độ tuổi từ 14
tuổi đến dưới 16 tuổi.
+ Không áp dụng hình phạt bổ sung với người chưa thành niên phạm tội.
+ Không coi các bản án đã tuyên đối với người phạm tội khi chưa đủ 16
tuổi là tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm.
+ Khi áp dụng mức phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc tù có thời
hạn thì người chưa thành niên được hưởng mức nhẹ hơn mức áp dụng với
người đã thành niên phạm tội tương ứng.
+ Việc tổng hợp hình phạt phải tuân thủ quy định tại Điều 75 BLHS.
+ Chú ý cân nhắc để có thể áp dụng việc miễn hình phạt, áp dụng hình
phạt tù nhưng cho hưởng án treo đối với những trường hợp có thể áp dụng.
1.2.2. Đặc điểm
Người chưa thành niên (NCTN) là người ở độ tuổi chuyển tiếp của sự
tăng trưởng, phát triển từ độtuổi “trẻ em” đến thời điểm bắt đầu của tuổi
trưởng thành - là giai đoạn thay đổi quan trọng nhất về thể chất, cảm xúc và
ý thức xã hội diễn ra ở mỗi cá nhân. Sự tăng trưởng của các tuyến nội
tiết đãthúc đẩy phát triển các bộ phận cơ thể trưởng thành theo một trình tự
nhất định.Đây là giai đoạn “quá độ”, sự phát triển tâm lý rất phức tạp, mẫn
cảm, dễ thay đổi và khó lường trước. Tâm lý học xác định quá trình hình
thành và phát triển của NCTN phụ thuộc mạnh mẽ về tâm sinh lý, tùy thuộc
độ tuổi, nhưng ở mức độ không đồng đều và với những dấu hiệu tâm sinh lý
rất khác nhau ở mỗi giới tính; đồng thời có thể bị phân hóa để tạo thành tính
cách khác nhau khi bị tác động bởi những môi trường, điều kiện, hoàn cảnh
khác nhau.
Xuất phát từ những đặc điểm riêng của sự phát triển tâm sinh lý đó, nên
khi NCTN thực hiện hành vi vi phạm pháp luật thường xuất phát từ nhiều yếu
tố khác nhau và do đó, vi phạm pháp luật của NCTN có các đặc điểm, cơ chế
khác với hành vi vi phạm pháp luật của người đã thành niên.
19
Đối với những NCTN có điều kiện, mức sống bình thường thì hoạt
động xã hội của họ ở giai đoạn này chủ yếu là môi trường học tập tại nhà
trường. Sự giao tiếp bạn bè cùng lứa và các mối quan hệ cá nhân ngày càng
gắn bó, mở rộng và chịu ảnh hưởng từ quan hệ bạn bè rất mạnh, thậm chí là
nghe theo lời bạn nhiều hơn nghe lời khuyên can của cha mẹ, gia đình. Tính
cách của các em thường phát triển theo khuynh hướng thích chứng tỏ “đã” là
người lớn và mong muốn người xung quanh thừa nhận; do vậy, thường gặp
sai lầm trong khi muốn xử lý gấp mọi vấn đề khó khăn gặp phải, nhằm chứng
tỏ sự trưởng thành của mình. Nhiều trường hợp NCTN ở giai đoạn này đã tỏ
ra khó chịu, tự ái, thậm chí trở nên hung dữ khi bị coi là còn con nít hoặc bị
người lớn gọi là “chú bé”, “cô bé”. Sự tự trọng thái quá trở thành tự tôn hay
tự ti, mặc cảm và khi bị xúc phạm, dễ có tâm lý tiêu cực, mà hệ quả thông
thường là phản ứng bằng những hành vi sai trái hoặc hành vi vi phạm pháp
luật. Những NCTN này thường thiếu tự chủ, luôn hướng tới sự ham thích mới
lạ, hiếu động, bồng bột và dễ sa ngã. Nhiều em dễ bị kích động, dễ bị lôi kéo
vào những hoạt động phiêu lưu, mạo hiểm, muốn trở thành “người hùng” để
bạn bè khâm phục. Những em bị mặc cảm do kết quả học tập sa sút và bị thầy
cô, gia đình khiển trách, bạn bè chế giễu... cũng dễ có hành vi sai trái hoặc
hành vi vi phạm pháp luật. Khác với người thành niên khi vi phạm pháp luật
luôn có động cơ, mục đích cụ thể, những NCTN thường vi phạm pháp luật
với suy nghĩ rất đơn giản, thậm chí chỉ do nguyên nhân hiếu thắng, không tự
chủ mà họ đã gây ra nhiều vụ vi phạm pháp luật rất nghiêm trọng
và họ thường có xu hướng sử dụng bạo lực thể chất, như gây rối trật tự công
cộng, cố ý gây thương tích...
Như vậy, đặc điểm trước hết trong vi phạm pháp luật của NCTN hầu
hết là do tác động của môi trường,điều này cũng giải thích vì sao động cơ,
mục đích vi phạm pháp luật của NCTN thường là bột phát, nhất thời và không
20
rõ ràng. Cũng do hành động a dua, hùa theo bạn bè làm trái pháp luật, nên vi
phạm pháp luật của NCTN còn có yếu tố vi phạm tập thể, tuy chưa đến mức
vi phạm pháp luật có tổ chức (vì thiếu dấu hiệu thống nhất ý chí, phân công
thực hiện…), nhưng là cách thức nhiều người cùng thực hiện một loại hành vi
trái pháp luật, điều này thể hiện rõ nhất trong các vụ gây rối trật tự công cộng,
đua xe trái phép…
Ý nghĩa của đặc điểm này giúp ta khái quát được nguyên nhân cơ bản
dẫn đến vi phạm pháp luật của NCTN, từ đó có biện pháp chủ động trong
ngăn chặn, phòng ngừa vi phạm, tội phạm ở các lứa tuổi chưa thành niên.
Người thành niên khi thực hiện hành vi trái pháp luật vì kiếm lợi bất
chính thì cách thức, thủ đoạn tiến hành thường được chuẩn bị trước, có khi rất
tinh vi, phức tạp và quyết tâm hoàn thành hành vi dù có trở ngại khách quan.
Trái lại, đối với NCTN, nhất là những em có hoàn cảnh đặc biệt, như khuyết
tật, mồ côi, không nơi nương tựa, bị bỏ rơi, bỏ nhà sống lang thang, những em
là nạn nhân của bạo lực gia đình, nạn nhân của nghiện ngập ma túy; những
em có thói quen đua đòi mua sắm, tiêu xài sang trọng... (thuộc trường
hợp NCTN có nguy cơ) thì cách thức, hành vi vi phạm pháp luật đơn giản hơn
nhiều.Các em này thường bị áp lực do lệ thuộc về vật chất, nghiện
ngập, nên dễ bị người lớnđiều khiển, sai khiến hoặc tự mình tham gia những
việc làm trái pháp luật như mua bán ma túy, trộm cắp, cướp giật, cướp; có thể
có đồng phạm cùng tham gia, nhưng chỉ là vi phạm pháp luật mang tính tổ
chức giản đơn nên quyết tâm vi phạm pháp luật không cao… Và khi thực hiện
hành vi vi phạm pháp luật do bị người khác điều khiển, xúi giục hoặc vì nhu
cầu vật chất cá nhân thì hành vi vi phạm pháp luật của các em thường có đặc
điểm dễ nhận thấy là hành động phạm pháp đơn giản, nhanh lẹ vội vãvà ít có
quyết tâm thực hiện đến cùng nếu bị ngăn trở. Mặt khác, cũng do độ tuổi nên
khi phạm pháp, các em thường không lường trước, lường hết được sự nguy
21
hiểm, tác động và hậu quả của hành vi mà mình sẽ thực hiện; nhiều trường
hợp làm trái pháp luật, có hậu quả nghiêm trọng xảy ra, được người lớn giải
thích các em mới biết sai trái của mình. Nghiên cứu thấu đáo đặc điểm này sẽ
giúp xem xét dấu hiệu lỗi trong mặt chủ quan của hành vi vi phạm pháp luật
của NCTN. Khi là lỗi cố ý trực tiếp thì mới có căn cứ quy kết hành vi trái
pháp luật của họ là vi phạm pháp luật và xác định trách nhiệm pháp lý; còn
nếu là lỗi gián tiếp hay lỗi vô ý thì sẽ không cấu thành vi phạm pháp luật của
NCTN, nhất là đối với trẻ em theo các quy định của pháp luật về độ tuổi.
Ý nghĩa của đặc điểm này giúp cho cơ quan, người có thẩm quyền xử
lý vi phạm pháp luật của NCTN có nhận thức đúng đắn về hành vi vi phạm
pháp luật của họ và từ đó thực hiện áp dụng biện pháp xử lý phù hợp.
Theo quy định của pháp luật, NCTN chỉ được thừa nhận là chủ thể có
quyền và nghĩa vụ trong một số quan hệ xã hội nhất định (hợp đồng lao động
dịch vụ, lao động giản đơn). Vì lý do đó, trong thực tế đời sống, sinh
hoạt, NCTN chỉ có khả năng, điều kiện tham gia trong một số môi trường xã
hội nhất định, hay nói theo quan điểm cấu thành vi phạm thì NCTN chỉ có thể
có điều kiện xâm hại một số khách thể nhất định được pháp luật bảo vệ, như:
trật tự công cộng, quyền sở hữu (chủ yếu là sở hữu tư nhân). Ví dụ: Khoản 1
Điều 77 Luật Tố tụng hành chính quy định về giao nộp chứng cứ: “Đương sự
có quyền và nghĩa vụ giao nộp chứng cứ cho Tòa án; nếu đương sự không
nộp hoặc nộp không đầy đủ thì phải chịu hậu quả…”, nhưng nếu đương sự là
NCTN, thì phải tuân theo quy định tại khoản 4 Điều 48, là: “Trường hợp
đương sự là NCTN… thực hiện quyền và nghĩa vụ của đương sự trong tố tụng
hành chính thông qua người đại diện theo pháp luật”. Hoặc Điều 102 Bộ luật
Hình sự (BLHS) quy định Tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng
nguy hiểm đến tính mạng, đây là loại hành vi “không hành động”bị coi là
phạm tội (khi có hậu quả chết người), nhưng quy định này không thể áp dụng
22
với NCTN, vì luật quy định phải là người có đủ điều kiện mà không cứu giúp
thì mới phải chịu trách nhiệm pháp lý, trong khi NCTN là người chưa đến
tuổi trưởng thành, tức là chưa có đủ điều kiện về năng lực hành vi, nên không
thể đòi hỏi họ phải có nghĩa vụ pháp lý như người thành niên.
Hoặc có những quan hệ xã hội mà dù có cố ý, NCTN cũng không thể
tham gia, không thể có điều kiện thực hiện hành vi trái pháp luật, như trong
các quan hệ pháp luật về chức vụ, về các hoạt động tư pháp hoặc quản lý kinh
tế...; như vậy, vi phạm pháp luật của NCTN còn có đặc điểm là chỉ có thể xảy
ra trong những môi trường, hay nói cách khác là trong một số quan hệ xã hội
nhất định.
Chính sách hình sự trong tố tụng hình sự đối với người chưa thành niên
là bị cáo nhằm bảo đảm một cách tốt nhất quyền bào chữa cho đối tượng này,
hạn chế một cách tối đa việc áp dụng những biện pháp cưỡng chế, hạn chế
một cách thấp nhất những tác động không thể tránh khỏi về tâm lý đối với bị
cáo là người chưa thành niên do hoạt động tố tụng hình sự gây ra, đồng thời
tạo điều kiện thuận lợi cho việc làm rõ những nguyên nhân, điều kiện phạm
tội của họ để Tòa án có thể xét xử và tuyên bản án có tác động tích cực nhất
đến tâm lý của đối tượng này. Vì thế, trong tất cả các hoạt động điều tra, truy
tố, xét xử đối với bị can, bị cáo chưa thành niên, các cơ quan tiến hành tố tụng
phải xem xét một cách khách quan toàn diện và đầy đủ để xác định các yếu tố
có liên quan đến việc thực hiện tội phạm của họ như: khả năng nhận thức về
tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, những nguyên nhân và điều
kiện phạm tội. Nhìn chung, chính sách hình sự của Nhà nước Việt Nam đã
thấm nhuần tinh thần nhân đạo, coi trọng vai trò giáo dục, giúp đỡ người chưa
thành niên bảo vệ quyền và lợi ích của mình. Pháp luật đã có những quy định
tiến bộ, bao trùm từ giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án đến việc
áp dụng các biện pháp có tính chất phòng ngừa.
23
Đó là việc khuyến khích áp dụng rộng rãi chế định miễn TNHS, miễn
hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội. Tóm lại, từ những quy định
của BLHS và BLTTHS Việt Nam cho thấy chính sách hình sự của nước ta
trong hoạt động xét xử vụ án đối với bị cáo là người chưa thành niên thể hiện
tính nhân đạo rõ nét, quy định theo hướng bảo vệ tốt nhất các quyền và lợi ích
hợp pháp của người chưa thành niên, về mức độ trách nhiệm hình sự của bị
can, bị cáo chưa thành niên giảm nhẹ hơn so với bị can, bị cáo thành niên.
1.3. Ý nghĩa của việc quy định thủ tục xét xử riêng đối với bị cáo là
người chưa thành niên trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
“Trẻ em, do còn non nớt về thể chất và trí tuệ cần được bảo vệ, chăm
sóc đặc biệt, kể cả sự bảo vệ thích hợp về mặt pháp lí trước cũng như sau khi
ra đời”. Đồng thời, Hiến pháp Việt Nam năm 2013 quy định: “Công dân có
quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng,
sức khỏe, danh dự và nhân phẩm...” [43, Điều 20]. Bộ luật Hình sự hiện hành
xây dựng một chương riêng quy định đường lối xử lý đối với người chưa
thành niên phạm tội. Quy định này dựa trên cơ sở phân tích về tâm, sinh lý
đối với người chưa thành niên. Đây là đối tượng chưa phát triển đầy đủ về thể
chất cũng như về tâm, sinh lý, họ bị hạn chế về trình độ nhận thức cũng như
về kinh nghiệm sống, thiếu những điều kiện về bản lĩnh tự lập, khả năng tự
kiềm chế chưa cao nên họ dễ bị kích động, dễ bị lôi kéo vào những hoạt động
phiêu lưu, mạo hiểm. Do đó, Pháp luật hình sự Việt Nam đã đặt ra những
nguyên tắc riêng khi xử lý hành vi phạm tội của người chưa thành niên. Các
quy định về thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên có những điểm
khác biệt so với thủ tục tố tụng hình sự áp dụng đối với người thành niên
phạm tội. Chính sách hình sự của Nhà nước Việt Nam đối với việc truy cứu
trách nhiệm hình sự người chưa thành niên là nhằm giúp đỡ, cải tạo, giáo dục
để người chưa thành niên nhận ra sai lầm từ đó sửa chữa những sai lầm của
24
mình, tạo điều kiện để các em có khả năng tái hòa nhập cuộc sống. Với lý do
này Pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam đã có những quy định về thủ tục tố
tụng riêng dành cho người chưa thành niên khi họ là bị can, bị cáo trong các
vụ án hình sự. Trong BLHS Việt Nam quy định về chính sách hình sự đối với
người chưa thành niên phạm tội tại Điều 69, còn chính sách hình sự đối với
người chưa thành niên trong tố tụng hình sự thể hiện tại chương XXXII - thủ
tục tố tụng đối với người chưa thành niên - BLTTHS năm 2003. BLHS có qui
định nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội, nhưng không
đưa ra nguyên tắc xử lý đối với bị can là người chưa thành niên. Chính sách
đối với người chưa thành niên trong lĩnh vực hình sự chủ yếu liên quan đến
năng lực chịu TNHS, mục đích áp dụng TNHS nặng về giáo dục, giúp họ sửa
chữa sai lầm, phát triển lành mạnh để họ trở thành công dân tốt, có ích cho xã
hội chứ không nặng về trừng phạt “Việc xử lý người chưa thành niên phạm
tội chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh
và trở thành công dân có ích cho xã hội”. Đây là nguyên tắc bao trùm mang
tính chất chỉ đạo thể hiện chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước Việt Nam
lấy giáo dục làm nền tảng, trọng tâm trong quá trình xử lý vụ án mà bị can, bị
cáo là người chưa thành niên.
Trong quá trình xử lý và áp dụng biện pháp hình sự đối với người chưa
thành niên phạm tội, những người tiến hành tố tụng phải cân nhắc thận trọng để
bảo đảm được mục đích giáo dục, uốn nắn, răn đe các hành vi lệch lạc, làm cho
họ thấy rõ những sai phạm của mình và tự giác sửa chữa với sự giúp đỡ của gia
đình, nhà trường và xã hội. Nguyên tắc này đòi hỏi người tiến hành tố tụng
trong vụ án hình sự mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên phải thấy được
rằng việc xử lý hình sự là vì sự phát triển lành mạnh của người chưa thành niên
và mức độ xử lý phải đảm bảo sự phát triển lành mạnh của người đó. Điều này
thể hiện rõ trong các quy định từ Điều 69 đến Điều 77 của BLHS 1999.
25
Thủ tục tố tụng hình sự đối với tội phạm nói chung và người chưa
thành niên nói riêng bao gồm các thủ tục điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.
Ngoài những thủ tục chung của BLTTHS thì cũng như Bộ luật hình sự, Bộ
luật TTHS dành riêng một chương quy định về tố tụng hình sự và chính sách
xử lý đặc biệt với người chưa thành niên phạm tội (chương XXXII). Trong đó
quy định rõ Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán tiến hành tố tụng với bị
can, bị cáo là người chưa thành niên phạm tội phải là những người hiểu biết
cần thiết về tâm lý học, khoa học giáo dục cũng như về hoạt động đấu tranh
phòng chống tội phạm là người chưa thành niên. Khi tiến hành điều tra, truy
tố, xét xử người chưa thành niên phạm tội phải xác định rõ các yếu tố về tuổi,
trình độ phát triển về thể chất và tinh thần, mức độ nhận thức về hành vi phạm
tội bị can, bị cáo là người chưa thành niên; điều kiện sinh sống, giáo dục; có
hay không có người thành niên xúi giục; nguyên nhân và điều kiện phạm tội.
Quy định này không những phù hợp với đặc điểm của bị can, bị cáo là người
chưa thành niên mà còn phù hợp với thực tế về những nguyên nhân khách
quan tác động đến hành vi phạm tội của nhóm đối tượng này.
Thực tiễn đã chứng minh rằng đa số các em phạm tội đều chịu sự tác
động của gia đình và xã hội, trong đó bao gồm các em có hoàn cảnh đặc biệt
như kinh tế gia đình khó khăn, bố mẹ ly hôn, gia đình không yên ấm hoặc có
người hư hỏng phạm tội; bố mẹ không coi trọng việc giáo dục con cái, trình độ
văn hóa của các em quá thấp, các em không có công ăn việc làm...tình trạng
các em bị người thành niên (bố, mẹ, anh, chị) xúi giục phạm tội cũng chiếm
một số lượng không nhỏ. Chính vì vậy, việc quy định về hiểu biết tâm sinh lý
người chưa thành niên đối với bị can, bị cáo là người chưa thành niên đối với
những người tiến hành tố tụng là vô cùng cần thiết. Vì vậy những thủ tục xét
xử riêng với nhóm đối tượng này đòi hỏi phải tìm hiểu cả những yếu tố liên
26
quan đến nguyên nhân và hành vi phạm tội. Và cần được quan tâm hơn nữa
trong việc sửa đổi chính sách pháp luật hình sự đối với người chưa thành niên.
1.4. Khái quát lịch sử Luật tố tụng hình sự Việt Nam quy định về
thủ tục xét xử đối với bị cáo là người chưa thành niên từ năm 1945 đến
trước khi ban hành bộ luật tố tụng hình sự 2003
Hơn sáu mươi năm qua, Pháp luật Việt Nam đã tạo cơ sở pháp lý cho
việc xây dựng, củng cố chính quyền nhà nước; cho các cuộc kháng chiến cứu
nước thắng lợi; bảo đảm và bảo vệ các quyền tự do, dân chủ của công dân; tổ
chức đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội theo hướng ngày càng tiến bộ. Là yếu
tố thuộc kiến trúc thượng tầng chính trị - pháp lý, trong quá trình hình thành
và phát triển trong suốt hơn sáu mươi năm của mình, pháp luật Việt Nam đã
trải qua những bước thăng trầm, xu hướng phát triển của Pháp luật Việt Nam
trong khoảng thời gian 20 năm đầu của thế kỷ XXI.
Sau cách mạng tháng tám năm 1945, Hiến pháp năm 1946 ra đời đã có
những quan tâm lớn về quyền trẻ em. Tuy nhiên, các thủ tục tố tụng dành cho
bị can, bị cáo là người chưa thành niên chưa được quy định trong các văn bản
pháp luật thời kỳ này, mà được áp dụng giống như các thủ tục tố tụng dành
cho bị can là người đã thành niên.
Đến năm 1959 mặc dù chưa có những quy định riêng về thủ tục tố tụng
đối với bị can, bị cáo là người chưa thành niên nhưng những quy định trong
bản Hiến pháp 1959 về cơ bản đã đảm bảo cho bị can, bị cáo là người chưa
thành niên được xét xử một cách công bằng, khách quan theo quy định của
pháp luật. Đây chính là cơ sở cho sư hình thành và phát triển các chế định về
thủ tục đặc biệt dành cho các bị can, bị cáo là người chưa thành niên.
Năm 1974, đã có nhiều văn bản hướng dẫn quan tâm đến các vụ án có
bị can, bị cáo là người chưa thành niên. Thông tư số 16 của Tòa án nhân dân
tối cao ngày 27/9/1074 có hướng dẫn: “Nếu bị cáo là người chưa thành niên,
Tòa án có thể yêu cầu cha mẹ, người giám hộ hoặc giáo viên giúp đỡ đặt câu
27
hỏi cho bị cáo nhưng cũng có thể yêu cầu những người này tạm rời phòng xử
án nếu sự có mặt của họ làm cho bị cáo không dám khai...” [46].
Tới năm 1985, Bộ luật hình sự đầu tiên của Nước CHXHCN Việt Nam
ra đời. Từ đây, những vấn đề về người chưa thành niên phạm tội được quy
định cụ thể trong chương VII gồm 11 điều. Những quy định này thể hiện
đường lối xử lý người chưa thành niên phạm tội của Đảng và Nhà nước ta chủ
yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa những sai lầm để trở thành những
công dân có ích cho xã hội. Không áp dụng hình phạt tù chung thân, tử hình
với bị can, bị cáo là người chưa thành niên.
Ngày 13/11/1986, Hội đồng Bộ trưởng đã ra Nghị quyết số 141-HĐBT
ban hành quy chế buộc phải chịu thử thách đối với bị can, bị cáo là người
chưa thành niên phạm tội (từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi) phạm tội ít nghiêm
trọng. Nội dung của quy chế cũng quy định rõ trách nhiệm của gia đình, xã
hội trong việc giám sát, giáo dục, giúp đỡ người chưa thành niên khi họ buộc
phải áp dụng biện pháp này.
Bộ luật TTHS đầu tiên của nhà nước ta ra đời ngày 28/6/1988 [32] và có
hiệu lực từ ngày 01/01/1989. Trong chương XXXI của Bộ luật đã quy định rõ
về “Thủ tục về những vụ án mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên”. Đây
là một điểm mới trong pháp luật hình sự của nước ta, thể hiện tinh thần nhân
đạo và đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên.
Kế thừa và phát triển những quy định của BLTTHS năm 1988 và đồng
thời nhằm đáp ứng những yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn đấu tranh phòng
chống tội phạm. Ngày 26/01/2003, Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam đã thông qua Bộ luật TTHS năm 2003, trong đó thủ tục tố tụng đối
với người chưa thành niên được quy định tại chương XXXII trong phần thủ
tục đặc biệt. Xét từ góc độ quy định pháp luật, Bộ luật TTHS năm 2003 đã
dành một chương riêng (chương XXXII) quy định về thủ tục đối với NCTN.
28
Thực tiễn áp dụng pháp luật cho thấy những quy định của Bộ luật TTHS 2003
đối với NCTN phạm tội tuy đã tương đối hoàn chỉnh, nhưng không khó để
nhận thấy tính chưa chặt chẽ, chưa đầy đủ, chưa đáp ứng được yêu cầu thực
tiễn của các quy định này.
Pháp luật Việt Nam cũng đã có rất nhiều những quy định liên quan đến
người chưa thành niên:
- Đối với pháp luật hình sự:
+ Điều 12 Bộ luật Hình sự (sau đây viết tắt là BLHS) quy định:
Tuổi chịu trách nhiệm hình sự
1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự
về mọi tội phạm.
2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải
chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc
tội phạm đặc biệt nghiêm trọng [36].
Như vậy, người từ đủ 14 tuổi, nhưng chưa đủ 16 tuổi thì không phải
chịu trách nhiệm hình sự (sau đây viết tắt là TNHS) về những tội phạm ít
nghiêm trọng, nghiêm trọng do cố ý, cũng không phải chịu TNHS đối với các
tội rất nghiêm trọng do cố ý. Người dưới 14 tuổi không phải chịu TNHS về
mọi tội phạm.
+ Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) cũng dành hẳn một chương XXXII
để quy định thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên và các ngành hữu
quan Trung ương cũng đã ban hành Thông tư liên tịch số 01/2011TTLT-
VKSTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXHngày 12/07/2011 của Viện Kiểm
sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Lao động, Thương binh và
Xã hội để hướng dẫn thi hành một số quy định của BLTTHS đối với người
tham gia tố tụng là người chưa thành niên (sau đây gọi tắt là Thông tư liên
tịch số 01/2011).
29
- Đối với pháp luật dân sự:
Điều 2 Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn về quyền khởi kiện vụ án, quy định tại
Điều 161 Bộ luật Tố tụng dân sự:
….2. Đối với cá nhân là người từ đủ mười lăm tuổi đến
chưa đủ mười tám tuổi không mất năng lực hành vi dân sự, không
bị hạn chế năng lực hành vi dân sự đã tham gia lao động theo hợp
đồng lao động hoặc giao dịch dân sự bằng tài sản riêng của mình,
thì có thể tự mình hoặc nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện vụ
án về tranh chấp có liên quan đến hợp đồng lao động hoặc giao
dịch dân sự đó…
…3. Đối với cá nhân là người chưa thành niên (trừ trường
hợp được hướng dẫn tại khoản 2 Điều này), người mất năng lực
hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, thì người
đại diện hợp pháp của họ (đại diện theo pháp luật) có thể tự mình
hoặc nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện vụ án…’’
…6. b) Đối với trường hợp được hướng dẫn tại khoản 3 Điều
này, thì nguyên đơn là người chưa thành niên, người mất năng lực
hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Do
những người này không có năng lực hành vi tố tụng dân sự, nên
người đại diện hợp pháp của họ thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng
của nguyên đơn tại Toà án.
- Đối với pháp luật hành chính:
Điều 105 Luật Tố tụng Hành chính quy định về đơn khởi kiện:
…2. Người khởi kiện là cá nhân phải ký tên hoặc điểm chỉ;
người khởi kiện là cơ quan, tổ chức thì người đại diện theo pháp
luật của cơ quan, tổ chức đó phải ký tên và đóng dấu vào phần cuối
30
đơn; trường hợp khởi kiện để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự thì đơn
khởi kiện do người đại diện theo pháp luật của những người này ký
tên hoặc điểm chỉ… .
Chú ý: Điều 18 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính quy
định Viện Kiểm sát có quyền khởi tố vụ án hành chính, nhưng Luật Tố tụng
hành chính hiện hành chỉ quy định trong trường hợp cần bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự thì
Viện Kiểm sát có quyền kiến nghị Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi
cư trú của người đó có trách nhiệm cử người giám hộ hoặc đề nghị một tổ
chức đảm nhận việc giám hộ cho họ khi khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án
(khoản 3 Điều 23 Luật Tố tụng hành chính).
Từ những quy định nêu trên của pháp luật, có thể đưa ra một số nhận
xét sau:
Một là, đối với những người dưới 18 tuổi đều được coi là người chưa
thành niên khi họ tham gia tố tụng tại Tòa án.
Hai là, những người chưa thành niên cũng được phân chia thành các độ
tuổi khác nhau và từ sự phân chia này có thể xác định được tư cách tham gia
tố tụng tại Tòa án, xác định được tội danh, xác định được có phải chịu TNHS
hay không.
Ba là, trừ người chưa thành niên từ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi đã tham
gia lao động hoặc giao dịch dân sự bằng tài sản riêng của mình thì những
người chưa thành niên khác khi tham gia tố tụng đều có người đại diện hợp
pháp theo pháp luật hoặc người giám hộ.
Như vậy, có thể đưa ra khái niệm về người chưa thành niên là người
chưa đủ 18 tuổi. Họ có thể tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp
theo pháp luật hoặc người giám hộ để tham gia tố tụng tại các cơ quan tiến
31
hành tố tụng. Người chưa thành niên tham gia tố tụng thường với tư cách: bị
can, bị cáo, người bị hại, người có quyền, nghĩa vụ liên quan, nguyên đơn dân
sự, bị đơn dân sự, người làm chứng. Tùy theo tư cách tham gia tố tụng mà họ
có các quyền, nghĩa vụ tương ứng theo quy định của pháp luật hình sự, dân sự
hoặc hành chính.
Trình tự, thủ tục giải quyết các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia
đình, lao động, kinh doanh thương mại, hành chính có những điểm khác nhau
nên khi tham gia tố tụng đối với các loại vụ án nào thì các cơ quan tiến hành
tố tụng và người chưa thành niên hoặc người đại diện hợp pháp theo pháp luật
hoặc người giám hộ của họ đều phải tuân thủ đúng các quy định của pháp luật
về loại vụ án đó.
Người chưa thành niên khác với trẻ em. Nếu người chưa thành niên là
người chưa đủ 18 tuổi thì trẻ em là người chưa đủ 16 tuổi.
Những bất cập này đã dẫn đến sự tùy tiện của cơ quan tiến hành tố tụng
(THTT) và người THTT xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của
NCTN. Với những vấn đề nêu trên, quy định của pháp luật TTHS đối với
NCTN phạm tội đặt ra những vấn đề cần phải hoàn thiện theo hướng cần thiết
phải có những quy định cụ thể, chặt chẽ, thống nhất hơn nữa trong Bộ luật
TTHS về thủ tục tố tụng đối với bị cáo là NCTN. Về mặt thực tiễn, việc khởi
tố, điều tra, truy tố và xét xử đối với những vụ án mà bị can, bị cáo là NCTN
trong những năm qua cho thấy khi áp dụng những quy định về thủ tục đặc biệt
này còn bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập.
32
Chương 2
CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ HIỆN HÀNH
VỀ THỦ TỤC XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN CÓ BỊ CÁO LÀ NGƯỜI
CHƯA THÀNH NIÊN VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
2.1. Các quy định của bộ luật tố tụng hình sự hiện hành về thủ tục
xét xử các vụ án có bị cáo là người chưa thành niên
Về thủ tục xét xử sơ thẩm
Phạm vi áp dụng thủ tục xét xử sơ thẩm đối với bị cáo là NCTN bao
gồm các quy định tại Chương XXXII BLTTHS (từ Điều 302 đến Điều 307)
và tất cả những quy định khác của BLTTHS nếu không trái với những quy
định của chương này. Việc quy định phạm vi áp dụng như vậy để bảo đảm
quyền, lợi ích hợp pháp của bị cáo là NCTN.
Áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với bị cáo là NCTN.
Pháp luật về tố tụng hình sự cũng có những quy định đặc biệt để áp
dụng biện pháp ngăn chặn trong trường hợp bị cáo là NCTN nhất là đối với
các biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam. Ngoài những yêu cầu chung quy định
tại các Điều 80, 81, 82, 86, 88 và 120 của BLTTHS, theo quy định tại Điều
303 của BLTTHS và những quy định có liên quan thì việc áp dụng biện pháp
bắt, tạm giữ, tạm giam đối với NCTN được thực hiện hết sức chặt chẽ.
Biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam, chỉ có thể được áp dụng đối với
người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi trong trường hợp họ phạm tội rất nghiêm
trọng do cố ý hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng; đối với người từ đủ 16
tuổi đến dưới 18 tuổi, bắt, tạm giữ, tạm giam chỉ có thể được áp dụng trong
trường hợp họ phạm tội nghiêm trọng do cố ý, phạm tội rất nghiêm trọng hoặc
đặc biệt nghiêm trọng.
So sánh với quy định của BLTTHS năm 1988 trước đây, Điều 303 của
33
BLTTHS 2003 đã quy định bổ sung khoản 3, trong đó quy định rõ trách
nhiệm của cơ quan ra lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam mà BLTTHS cho phép để
bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN.
NCTN phải được giam, giữ ở khu vực riêng; không được giam, giữ
NCTN chung với người thành niên.
Về việc giám sát bị cáo là NCTN
Theo quy định tại Điều 304 BLTTHS thì nếu xét thấy việc áp dụng các
biện pháp ngăn chặn đối với NCTN là không cần thiết, Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát và Tòa án có thể ra quyết định giao bị cáo NCTN cho cha mẹ, người
đỡ đầu của họ giám sát để bảo đảm sự có mặt của bị cáo khi có giấy triệu tập
của cơ quan tiến hành tố tụng. Những người được giao nhiệm vụ giám sát có
nghĩa vụ giám sát chặt chẽ NCTN, theo dõi tư cách, đạo đức và giáo dục
người đó. Hiện nay, không có văn bản pháp luật nào hướng dẫn về việc cha
mẹ, người đỡ đầu có quyền từ chối không thực hiện nghĩa vụ giám sát của
mình khi được yêu cầu, mặt khác theo quy định của Luật bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục trẻ em năm 1991, Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 thì cha mẹ,
ông bà, các thành viên lớn tuổi khác trong gia đình và người đỡ đầu có trách
nhiệm về việc chăm sóc, nuôi dạy NCTN, cho nên họ phải có nghĩa vụ giám
sát, giáo dục, chăm sóc NCTN. Như vậy có nghĩa là trong mọi trường hợp cơ
quan tiến hành tố tụng yêu cầu thì việc giám sát bị cáo NCTN phải được cha
mẹ, người đỡ đầu của họ thực hiện. Hay nói một cách khác, việc giám sát bị
cáo NCTN vừa là quyền vừa là nghĩa vụ bắt buộc của cha mẹ, người đỡ đầu
của họ. Quy định này khác hẳn quy định tại Điều 75 BLTTHS về biện pháp
ngăn chặn bảo lĩnh đối với bị cáo NCTN, thủ tục bảo lĩnh chỉ được đặt ra đối
với bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng, có nơi cư trú rõ ràng và phải có cá nhân,
tổ chức nhận bảo lĩnh. Việc cá nhân, tổ chức nhận bảo lĩnh là do họ hoàn toàn
tự nguyện, các cơ quan tiến hành tố tụng không thể bắt buộc họ được.
34
Việc tham gia tố tụng của người bào chữa
Trong những vụ án mà người bị xét xử mà bị cáo là NCTN thì việc
tham gia tố tụng của người bào chữa là bắt buộc. Tuy nhiên, cần lưu ý là đối
với những trường hợp khi phạm tội, người phạm tội là NCTN nhưng khi khởi
tố, truy tố, xét xử họ đã đủ 18 tuổi thì không bắt buộc phải có sự tham gia của
người bào chữa. Theo quy định tại khoản 1 Điều 56 của BLTTHS thì người
bào chữa có thể là luật sư, người đại diện hợp pháp của người bị tạm giam
hoặc bào chữa viên nhân dân. Trong trường hợp người bào chữa tham gia tố
tụng theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng thì người bị tạm giữ, bị cáo
và người đại diện hợp pháp của họ vẫn có quyền yêu cầu thay đổi hoặc từ
chối người bào chữa theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 57 của BLTTHS.
Về việc xác định những trường hợp cụ thể nào có thể tham gia tố tụng
với tư cách là người bào chữa cho bị cáo là NCTN, chúng tôi thấy rằng:
Thứ nhất, theo quy định tại khoản 2 Điều 19 Pháp lệnh Luật sư được
Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua ngày 25/7/2001 và có hiệu lực kể từ
ngày 01/10/2001 thì "Công ty luật hợp danh... không được thực hiện dịch vụ
pháp lý trong lĩnh vực tố tụng" [61]. Như vậy, theo quy định này thì có thể
hiểu các luật sư là thành viên của công ty luật hợp danh không được tham gia
tố tụng với tư cách là người bào chữa nói chung và là người bào chữa cho
NCTN phạm tội nói riêng. Ngày 29/6/2006, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 9 thông qua Luật luật sư (Luật này
có hiệu lực từ ngày 01/01/2007) thay thế Pháp lệnh luật sư năm 2001. Theo
tinh thần quy định của Luật này thì người có đủ tiêu chuẩn để trở thành luật
sư, đã được cấp chứng chỉ hành nghề luật sư và đã gia nhập một đoàn luật sư
đều có thể hành nghề luật sư trong các lĩnh vực mà luật sư hoặc tổ chức hành
nghề luật sư nơi luật sư đó là thành viên đã đăng ký. Như vậy việc luật sư nào
có thể tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa không phụ thuộc vào
35
việc họ hành nghề trong công ty luật hợp danh, văn phòng luật sư hay hành
nghề với tư cách cá nhân. Chúng tôi cho rằng, việc sửa đổi này là hợp lý.
Thứ hai, theo quy định tại khoản 3 Điều 139 của Bộ luật dân sự
(BLDS) năm 2005 thì "quan hệ đại diện được xác lập theo pháp luật hoặc
theo ủy quyền" [41]; điều này có thể hiểu là "người đại diện hợp pháp" là
người đại diện theo pháp luật hoặc theo ủy quyền. Tuy nhiên, theo quy định
tại khoản 2 Điều 139 của BLDS này thì "... cá nhân không được để người
khác đại diện cho mình nếu pháp luật quy định họ phải tự mình xác lập, thực
hiện giao dịch đó" [41]. Như vậy, trong tố tụng hình sự không có người đại
diện theo ủy quyền của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mà chỉ có người đại
diện của những người này theo pháp luật. Việc xác định trường hợp nào là đại
diện theo pháp luật của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là NCTN được thực
hiện theo quy định tại khoản 1, 2 Điều 141 của BLDS; cụ thể họ có thể là cha,
mẹ hoặc người giám hộ của NCTN.
Thứ ba, về "bào chữa viên nhân dân", cho đến nay chưa có một văn bản
nào chính thức quy định hoặc giải thích về những tiêu chuẩn của người được
công nhận là "bào chữa viên nhân dân". Chúng tôi cho rằng, để bảo đảm cho
việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị truy cứu trách nhiệm hình
sự nói chung và NCTNPT nói riêng thì bào chữa viên nhân dân cũng phải đáp
ứng được những tiêu chuẩn nhất định. Hiện nay, Tòa án nhân dân tối cao
đang phối hợp với các cơ quan có liên quan soạn thảo thông tư liên tịch
hướng dẫn về vấn đề này. Về những tiêu chuẩn để có thể được công nhận là
bào chữa viên nhân dân, chúng tôi đề nghị cân nhắc và thể hiện trong dự thảo
thông tư liên tịch một số tiêu chuẩn sau đây:
- Là công dân Việt Nam từ đủ 18 tuổi trở lên;
- Là thành viên của một tổ chức của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
- Trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam;
36
- Có phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết và trung thực;
- Có kiến thức pháp lý;
- Có sức khỏe để bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ;
- Không thuộc một trong các trường hợp không được bào chữa quy
định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 56 của BLTTHS.
Việc tham gia tố tụng của đại diện gia đình, nhà trường, tổ chức.
Việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với NCTN phạm tội đòi hỏi phải
được tiến hành thận trọng nhằm hạn chế tối đa những ảnh hưởng tiêu cực đến
tương lai của họ. Theo quy định tại khoản 1 Điều 306 của BLTTHS, thì trong
trường hợp người phạm tội là NCTN, việc tham gia tố tụng của đại diện của
gia đình người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; thầy giáo, cô giáo, đại diện nhà
trường, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, tổ chức khác nơi người bị
tạm giam, bị cáo học tập, lao động và sinh sống vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ
theo quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng. Cho đến nay, mặc dù chưa có
văn bản giải thích chính thức "đại diện gia đình" của NCTN phạm tội là ai;
tuy nhiên, chúng tôi cho rằng khái niệm "đại diện gia đình" trong điều luật
này được hiểu rộng hơn khái niệm "người đại diện hợp pháp của NCTN",
không chỉ bao gồm cha, mẹ, người giám hộ của NCTN mà còn có thể là anh,
chị, ông, bà, cô, dì, chú, bác hoặc những người thân thích khác của họ.
Những vấn đề về người tiến hành tố tụng trong vụ án mà bị cáo là
người chưa thành niên.
Xuất phát từ những đặc điểm tâm sinh lý, trình độ, khả năng nhận thức
của NCTN, BLTTHS của Việt Nam có những quy định đặc biệt để áp dụng
riêng đối với những trường hợp mà người bị tạm giữ mà bị cáo là NCTN.
BLTTHS đã dành toàn bộ Chương XXXII để quy định về thủ tục tố tụng đối
với NCTN trên cơ sở kế thừa những quy định của BLTTHS được Quốc hội
thông qua ngày 29/6/1988, đồng thời có một số bổ sung, sửa đổi để hoàn thiện
37
hơn các quy định về thủ tục tố tụng áp dụng trong trường hợp người phạm tội
là NCTN. Theo đó, khoản 1 Điều 302 BLTTHS sự năm 2003 quy định
"...Thẩm phán tiến hành tố tụng đối với NCTNPT phải là những người có
hiểu biết cần thiết về tâm lý học và khoa học giáo dục cũng như về hoạt động
đấu tranh phòng chống tội phạm của NCTN" [40]. Đối với Hội thẩm nhân
dân, khi tham gia xét xử những vụ án mà bị cáo là NCTN, luật không quy
định phải có những điều kiện nêu trên, nhưng trong Hội đồng xét xử phải có
một Hội thẩm nhân dân là giáo viên hoặc cán bộ Đoàn thanh niên cộng sản
Hồ Chí Minh. Những tiêu chí này là những điều kiện cần thiết để Thẩm phán,
Hội thẩm có thể hiểu và có những phương pháp phù hợp khi tiến hành hoạt
động xét xử, bảo đảm nguyên tắc quy định tại khoản 1 Điều 69 BLHS là:
"việc xử lý NCTN phạm tội chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai
lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội" [36]. Tuy
nhiên, pháp luật Việt Nam chưa có văn bản pháp luật nào quy định về đội ngũ
những người tiến hành tố tụng chuyên trách trong những vụ án mà bị cáo là
NCTN, điều đó cho thấy, hiện nay những người tiến hành tố tụng đang phải
kiêm nhiệm giải quyết cả các vụ án do người thành niên thực hiện nên việc
bồi dưỡng kiến thức chuyên môn về lĩnh vực tâm lý học, khoa học giáo dục
đối với NCTN cho những người tiến hành tố tụng là cần thiết.
Khoản 1 Điều 302 BLTTHS quy định về yêu cầu đối với người tiến
hành tố tụng phải có những hiểu biết cần thiết về tâm lý học, khoa học giáo
dục cũng như về hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm của NCTN,
nhưng thực tế đang có nhiều bất cập về số lượng, về kiến thức của những
người tiến hành tố tụng với những diễn biến phức tạp của tội phạm là NCTN;
vì vậy, cần mở các lớp đào tạo đối với những người được giao nhiệm vụ tiến
hành tố tụng trong các vụ án NCTN, trang bị cho họ những kiến thức cần thiết
về tầm quan trọng của việc bảo vệ, giáo dục, chăm sóc trẻ em, những kiến
38
thức pháp luật quy định đối với những NCTNPT, đào tạo cho họ kỹ năng xét
hỏi những NCTN khi họ phạm tội. Cần có chính sách cụ thể đối với những
người tiến hành xét xử những NCTNPT. Cần nghiên cứu cải cách tư pháp
thành lập Toà án chuyên xét xử các bị cáo CTN. Trước mắt, khi chưa có điều
kiện thành lập bộ phận này thì cần phải cử những người tiến hành tố tụng có
nhiều kiến thức và kinh nghiệm giải quyết loại án liên quan đến NCTNPT.
Song song với đó cần phải có sự tham gia của các chuyên gia tư vấn để giúp
đỡ về mặt pháp lý cho NCTNPT, nhất là trong điều kiện hiện nay khi Luật về
trợ giúp pháp lý đã được Quốc hội thông qua.
Yêu cầu đặt ra khi tiến hành xét xử (khoản 2 Điều 302) là cần phải xác
định rõ: Tuổi, trình độ phát triển về thể chất và tinh thần, mức độ nhận thức
về hành vi phạm tội của NCTN; điều kiện sinh sống và giáo dục; nguyên nhân
và điều kiện phạm tội. Đây là một yêu cầu rất không dễ thực hiện vì với thời
hạn tố tụng không nhiều, điều kiện hiện có về cơ sở vật chất, các phương tiện
làm việc và nhất là vấn đề con người của các cơ quan Tòa án thì khó có thể
thực hiện được quy định này, đặc biệt là đối với NCTNPT là những trẻ lang
thang, không có địa chỉ cư trú rõ ràng.
Với các vấn đề đã phân tích trên khi xét xử NCTN phải tuân thủ chặt
chẽ các nguyên tắc xử lý đối với NCTNPT, đó là:
1. Việc xử lý NCTNPT chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa
sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội. Trong
mọi trường hợp điều tra, truy tố, xét xử hành vi phạm tội NCTN, các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền phải xác định khả năng nhận thức của họ về tính chất
nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều kiện gây ra
tội phạm. NCTN phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự, nếu người
đó phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng, gây hại không lớn, có
nhiều tình tiết giảm nhẹ và được gia đình hoặc cơ quan,tổ chức nhận giám sát,
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY

More Related Content

What's hot

Hình phạt cho người chưa thành niên phạm tội tại Quảng Ngãi, 9đ - Gửi miễn ph...
Hình phạt cho người chưa thành niên phạm tội tại Quảng Ngãi, 9đ - Gửi miễn ph...Hình phạt cho người chưa thành niên phạm tội tại Quảng Ngãi, 9đ - Gửi miễn ph...
Hình phạt cho người chưa thành niên phạm tội tại Quảng Ngãi, 9đ - Gửi miễn ph...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

What's hot (19)

Luận văn: Biện pháp điều tra theo pháp luật Tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp điều tra theo pháp luật Tố tụng hình sự, HAYLuận văn: Biện pháp điều tra theo pháp luật Tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp điều tra theo pháp luật Tố tụng hình sự, HAY
 
Luận văn: Kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm, HOT
Luận văn: Kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm, HOTLuận văn: Kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm, HOT
Luận văn: Kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm, HOT
 
Luận văn: Thời hạn tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Thời hạn tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Thời hạn tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Thời hạn tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự, HOT
 
Luận văn: Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, HAYLuận văn: Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, HAY
 
Luận văn: Mối quan hệ giữa điều tra và công tố, HOT
Luận văn: Mối quan hệ giữa điều tra và công tố, HOTLuận văn: Mối quan hệ giữa điều tra và công tố, HOT
Luận văn: Mối quan hệ giữa điều tra và công tố, HOT
 
Luận văn: Bảo đảm quyền bị can, bị cáo là người chưa thành niên
Luận văn: Bảo đảm quyền bị can, bị cáo là người chưa thành niênLuận văn: Bảo đảm quyền bị can, bị cáo là người chưa thành niên
Luận văn: Bảo đảm quyền bị can, bị cáo là người chưa thành niên
 
Luận văn: Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, HOT
Luận văn: Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, HOTLuận văn: Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, HOT
Luận văn: Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, HOT
 
Đề tài: Biện pháp điều tra khám xét theo luật tố tụng hình sự
Đề tài: Biện pháp điều tra khám xét theo luật tố tụng hình sựĐề tài: Biện pháp điều tra khám xét theo luật tố tụng hình sự
Đề tài: Biện pháp điều tra khám xét theo luật tố tụng hình sự
 
Luận văn: Kiểm sát điều tra các vụ án hình sự có bị can dưới 18 tuổi
Luận văn: Kiểm sát điều tra các vụ án hình sự có bị can dưới 18 tuổiLuận văn: Kiểm sát điều tra các vụ án hình sự có bị can dưới 18 tuổi
Luận văn: Kiểm sát điều tra các vụ án hình sự có bị can dưới 18 tuổi
 
Luận văn: Tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm theo luật
Luận văn: Tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm theo luậtLuận văn: Tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm theo luật
Luận văn: Tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm theo luật
 
Hình phạt cho người chưa thành niên phạm tội tại Quảng Ngãi, 9đ - Gửi miễn ph...
Hình phạt cho người chưa thành niên phạm tội tại Quảng Ngãi, 9đ - Gửi miễn ph...Hình phạt cho người chưa thành niên phạm tội tại Quảng Ngãi, 9đ - Gửi miễn ph...
Hình phạt cho người chưa thành niên phạm tội tại Quảng Ngãi, 9đ - Gửi miễn ph...
 
Luận văn: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Mối quan hệ tố tụng giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát, HAY
Mối quan hệ tố tụng giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát, HAYMối quan hệ tố tụng giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát, HAY
Mối quan hệ tố tụng giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát, HAY
 
Luận văn: Thực hành quyền công tố đối với các tội xâm phạm sở hữu
Luận văn: Thực hành quyền công tố đối với các tội xâm phạm sở hữuLuận văn: Thực hành quyền công tố đối với các tội xâm phạm sở hữu
Luận văn: Thực hành quyền công tố đối với các tội xâm phạm sở hữu
 
Luận văn: Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát điều tra
Luận văn: Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát điều traLuận văn: Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát điều tra
Luận văn: Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát điều tra
 
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAYLuận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
 
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sựKiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự
 
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp luật
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp luậtHình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp luật
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp luật
 
Luận văn: Giảm nhẹ TNHS đối với người chưa thành niên phạm tội
Luận văn: Giảm nhẹ TNHS đối với người chưa thành niên phạm tộiLuận văn: Giảm nhẹ TNHS đối với người chưa thành niên phạm tội
Luận văn: Giảm nhẹ TNHS đối với người chưa thành niên phạm tội
 

Similar to Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY

Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội chưa thành niên
Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội chưa thành niênBảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội chưa thành niên
Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội chưa thành niênDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại Hà Nội, HAY - Gửi miễn p...
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại Hà Nội, HAY - Gửi miễn p...Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại Hà Nội, HAY - Gửi miễn p...
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại Hà Nội, HAY - Gửi miễn p...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại Nam Định, 9đ - Gửi miễn ...
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại Nam Định, 9đ - Gửi miễn ...Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại Nam Định, 9đ - Gửi miễn ...
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại Nam Định, 9đ - Gửi miễn ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Các hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội trong luật hình ...
Các hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội trong luật hình ...Các hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội trong luật hình ...
Các hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội trong luật hình ...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo pháp Luật Hình Sự Việt Nam
Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo pháp Luật Hình Sự Việt NamCác tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo pháp Luật Hình Sự Việt Nam
Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo pháp Luật Hình Sự Việt NamDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 

Similar to Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY (20)

Bảo đảm quyền của bị can, bị cáo là người chưa thành niên
Bảo đảm quyền của bị can, bị cáo là người chưa thành niênBảo đảm quyền của bị can, bị cáo là người chưa thành niên
Bảo đảm quyền của bị can, bị cáo là người chưa thành niên
 
Bảo đảm quyền của bị can, bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Bảo đảm quyền của bị can, bị cáo là người chưa thành niên, HAYBảo đảm quyền của bị can, bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Bảo đảm quyền của bị can, bị cáo là người chưa thành niên, HAY
 
Luận văn: Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tộiLuận văn: Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
 
Pháp luật trong xét xử sơ thẩm người chưa thành niên phạm tội
Pháp luật trong xét xử sơ thẩm người chưa thành niên phạm tộiPháp luật trong xét xử sơ thẩm người chưa thành niên phạm tội
Pháp luật trong xét xử sơ thẩm người chưa thành niên phạm tội
 
Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội chưa thành niên
Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội chưa thành niênBảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội chưa thành niên
Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội chưa thành niên
 
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại Hà Nội, HAY - Gửi miễn p...
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại Hà Nội, HAY - Gửi miễn p...Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại Hà Nội, HAY - Gửi miễn p...
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại Hà Nội, HAY - Gửi miễn p...
 
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại Nam Định, 9đ - Gửi miễn ...
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại Nam Định, 9đ - Gửi miễn ...Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại Nam Định, 9đ - Gửi miễn ...
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại Nam Định, 9đ - Gửi miễn ...
 
Các hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội trong luật hình ...
Các hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội trong luật hình ...Các hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội trong luật hình ...
Các hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội trong luật hình ...
 
Hình phạt tù có thời hạn đối với người chưa thành niên phạm tội
Hình phạt tù có thời hạn đối với người chưa thành niên phạm tộiHình phạt tù có thời hạn đối với người chưa thành niên phạm tội
Hình phạt tù có thời hạn đối với người chưa thành niên phạm tội
 
Luận văn: Áp dụng hình phạt tại huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai, 9đ
Luận văn: Áp dụng hình phạt tại huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai, 9đLuận văn: Áp dụng hình phạt tại huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai, 9đ
Luận văn: Áp dụng hình phạt tại huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai, 9đ
 
Thi hành án phạt tù đối với người bị kết án là người chưa thành niên
Thi hành án phạt tù đối với người bị kết án là người chưa thành niênThi hành án phạt tù đối với người bị kết án là người chưa thành niên
Thi hành án phạt tù đối với người bị kết án là người chưa thành niên
 
Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo pháp Luật Hình Sự Việt Nam
Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo pháp Luật Hình Sự Việt NamCác tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo pháp Luật Hình Sự Việt Nam
Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo pháp Luật Hình Sự Việt Nam
 
Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thực tiễn tại Đà Nẵng, HAY
Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thực tiễn tại Đà Nẵng, HAYTình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thực tiễn tại Đà Nẵng, HAY
Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thực tiễn tại Đà Nẵng, HAY
 
Luận văn: Các căn cứ quyết định hình phạt theo pháp luật hình sự
Luận văn: Các căn cứ quyết định hình phạt theo pháp luật hình sựLuận văn: Các căn cứ quyết định hình phạt theo pháp luật hình sự
Luận văn: Các căn cứ quyết định hình phạt theo pháp luật hình sự
 
Luận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOTLuận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Áp dụng hình phạt chính theo pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Áp dụng hình phạt chính theo pháp luật hình sự, HAYLuận văn: Áp dụng hình phạt chính theo pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Áp dụng hình phạt chính theo pháp luật hình sự, HAY
 
Luận văn: Nguyên tắc trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng
Luận văn: Nguyên tắc trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụngLuận văn: Nguyên tắc trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng
Luận văn: Nguyên tắc trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng
 
Luận văn: Vai trò của luật sư trong phòng chống oan sai trong TTHS
Luận văn: Vai trò của luật sư trong phòng chống oan sai trong TTHSLuận văn: Vai trò của luật sư trong phòng chống oan sai trong TTHS
Luận văn: Vai trò của luật sư trong phòng chống oan sai trong TTHS
 
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sựBiện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
 
BÀI MẪU LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ, 9 ĐIỂMBÀI MẪU LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ, 9 ĐIỂM
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864

Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docDịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864 (20)

Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.docYếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
 
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.docTừ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
 
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
 
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.docTác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
 
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.docSong Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
 
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.docỨng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
 
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.docVai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
 
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.docThu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
 

Recently uploaded

TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfNguyen Thanh Tu Collection
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngYhoccongdong.com
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...hoangtuansinh1
 
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-KhnhHuyn546843
 
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh choCD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh chonamc250
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docxTHAO316680
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảoKiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảohoanhv296
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoámyvh40253
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (20)

TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
 
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
 
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh choCD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảoKiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 

Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐỖ XUÂN HỒNG XÐt xö vô ¸n cã bÞ c¸o lµ ng­êi ch­a thµnh niªn theo luËt tè TônG h×nh sù ViÖt Nam LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2014
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐỖ XUÂN HỒNG XÐt xö vô ¸n cã bÞ c¸o lµ ng­êi ch­a thµnh niªn theo luËt tè TônG h×nh sù ViÖt Nam Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS. TRỊNH QUỐC TOẢN HÀ NỘI - 2014
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Đỗ Xuân Hồng
  • 4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt MỞ ĐẦU....................................................................................................... 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ VỤ ÁN CÓ BỊ CÁO LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM ........................... 7 1.1. Khái niệm và đặc điểm của bị cáo là người chưa thành niên............... 7 1.2. Khái niệm và đặc điểm của hoạt động xét xử vụ án hình sự mà bị cáo là người chưa thành niên ............................................................ 12 1.2.1. Khái niệm......................................................................................... 12 1.2.2. Đặc điểm .......................................................................................... 18 1.3. Ý nghĩa của việc quy định thủ tục xét xử riêng đối với bị cáo là người chưa thành niên trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam............. 23 1.4. Khái quát lịch sử Luật tố tụng hình sự Việt Nam quy định về thủ tục xét xử đối với bị cáo là người chưa thành niên từ năm 1945 đến trước khi ban hành bộ luật tố tụng hình sự 2003......................... 26 Chương 2: CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ HIỆN HÀNH VỀ THỦ TỤC XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN CÓ BỊ CÁO LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG........................................................................................ 32 2.1. Các quy định của bộ luật tố tụng hình sự hiện hành về thủ tục xét xử các vụ án có bị cáo là người chưa thành niên............................... 32
  • 5. 2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định của bộ luật tố tụng hình sự hiện hành về thủ tục xét xử các vụ án có bị cáo là người chưa thành niên.... 49 2.3. Những tồn tại, vướng mắc trong việc áp dụng các quy định của bộ luật tố tụng hình sự hiện hành về thủ tục xét xử các vụ án có bị cáo là người chưa thành niên và nguyên nhân của nó ................... 61 Chương 3: NHU CẦU VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ HIỆN HÀNH VỀ THỦ TỤC XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ CÓ BỊ CÁO LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG............................................. 84 3.1. Nhu cầu hoàn thiện các quy định của bộ luật tố tụng hình sự hiện hành về thủ tục xét xử các vụ án có bị cáo là người chưa thành niên và nâng cao hiệu quả áp dụng ................................................... 84 3.2. Một số giải pháp hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành về thủ tục xét xử các vụ án có bị cáo là người chưa thành niên và nâng cao hiệu quả áp dụng ................................. 89 3.3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành về thủ tục xét xử các vụ án có bị cáo là người chưa thành niên .......................................................... 102 KẾT LUẬN............................................................................................... 114 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................. 116
  • 6. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT Chữ viết tắt Chữ không viết tắt BLDS Bộ luật dân sự BLHS Bộ luật hình sự BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự NCTN Người chưa thành niên NCTNPT Người chưa thành niên phạm tội TNHS Trách nhiệm hình sự
  • 7. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong những năm qua thực hiện công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, tình hình kinh tế - xã hội của cả nước nói chung, đã có những bước phát chuyển biến tích cực; an ninh chính trị được giữ vững, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo. Tuy nhiên, tình hình tội phạm nói chung và tội phạm do người chưa thành niên (NCTN) thực hiện vẫn chưa có chiều hướng giảm và có diễn biến phức tạp với tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội ngày càng cao. Đây là vấn đề không chỉ Đảng, chính quyền, các cơ quan bảo vệ pháp luật, các cơ quan tư pháp quan tâm mà các ngành, các cấp và toàn thể nhân dân cả nước đang hết sức quan tâm. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề giải quyết tội phạm đối với NCTN là: "Vấn đề không phải chỉ đơn giản là xử một vụ án, trừng phạt một tội phạm nào đó, điều quan trọng là phải tìm ra mọi cách để làm giảm bớt những hoạt động phạm pháp và tốt hơn hết là ngăn ngừa đừng để các việc sai trái ấy xảy ra", quán triệt tinh thần đó, Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003 đã dành nguyên một chương riêng biệt (Chương XXXII) quy định về thủ tục tố tụng đối với NCTN. Đây là cơ sở pháp lý để áp dụng khi xử lý đối với người bị tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo là NCTN vi phạm pháp luật Tuy nhiên, trong thực tiễn áp dụng các quy định này đã nảy sinh nhiều vướng mắc và bất cập. Qua quá trình nghiên cứu lý luận và thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự trong việc giải quyết các vụ án mà bị can, bị cáo là NCTN, chúng tôi thấy, những người tiến hành tố tụng không những phải nắm vững các quy định của pháp luật, tuân thủ chặt chẽ các thủ tục tố tụng đặc biệt này mà còn phải có kiến thức hiểu biết nhất định về đặc điểm tâm sinh lý của lứa tuổi chưa thành niên để đề ra đường lối xét xử
  • 8. 2 vừa thấu tình đạt lý, phục vụ nhiệm vụ chính trị địa phương; song quan trọng hơn giúp các em hiểu rõ các quy định của pháp luật tránh được các vi phạm đáng tiếc xảy ra, giúp các em sửa chữa lỗi lầm trở thành các công dân có ích cho gia đình và xã hội. Toà án nhân dân cả nước đã có nhiều cố gắng thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ được giao góp phần quan trọng trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, phục vụ nhiệm vụ chính trị. Song so với yêu cầu cải cách tư pháp công tác xét xử các vụ án hình sự của Toà án nhân dân các cấp vẫn còn nhiều hạn chế, thiếu sót nhất là đối với loại tội phạm do NCTN thực hiện: Tình trạng vi phạm thủ tục tố tụng vẫn còn xảy ra, bị cáo là NCTN hoặc người đại diện hợp pháp của họ không mời luật sư bào chữa nhưng các cơ quan tiến hành tố tụng không chỉ định luật sư bào chữa là chưa bảo đảm quyền bào chữa cho bị can, bị cáo; trình độ của một số Thẩm phán chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao; sự đánh giá, nhìn nhận đối với lứa tuổi là người chưa thành niên phạm tội (NCTNPT) theo nhiều chiều khác nhau dẫn đến đường lối xử lý chưa thống nhất còn mang nặng tính răn đe vì vậy tác dụng giáo dục, phòng ngừa không cao chưa đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng chống đối với loại tội phạm do NCTN thực hiện và xu thế hội nhập quốc tế. Chính vì vậy, trước những đòi hỏi của công cuộc cải cách tư pháp, việc nâng cao chất lượng xét xử những vụ án hình sự mà bị can, bị cáo là NCTN trên phạm vi cả nước là vấn đề có ý nghĩa sâu sắc cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật. Vì lý do đó, việc nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến việc xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên trong những năm gần đây, trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp, để tiếp tục góp phần hoàn thiện những quy định về thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên và giải quyết những vướng mắc của thực tiễn áp dụng Luật Tố tụng Hình sự, là việc rất cần thiết, có ý nghĩa quan trọng cả về mặt lý luận
  • 9. 3 lẫn thực tiễn. Vì vậy, tôi chọn đề tài "Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam" làm đề tài nghiên cứu cho Luận văn tốt nghiệp thạc sĩ Luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Trong công tác xét xử án hình sự, việc xét xử các vụ án hình sự mà bị can, bị cáo là NCTN là một trong những nội dung quan trọng. Bởi vì ngoài việc quyết định hình phạt đối với họ, Tòa án còn phải thực hiện việc giáo dục họ sửa chữa lỗi lầm, phát triển lành mạnh về thể chất và tinh thần, tạo điều kiện giúp họ sớm hòa nhập cuộc sống bình thường. Trong thời gian qua có nhiều công trình nghiên cứu như: Dưới góc độ đề tài nghiên cứu có: “Những nguyên nhân chủ yếu của tình trạng trẻ em phạm tội” của Nguyễn Minh Ngọc, Hà Nội năm 1992; “Về tình trạng trẻ em lang thang phạm tội và một số kiến nghị” của Lê Thế Tiệm, Hà Nội năm 1992; “Tài liệu tham khảo về công tác trẻ em làm trái pháp luật” của Ủy ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em & Tổ chức cứu trợ trẻ em Thụy Điển, Hà Nội năm 1996; “Dự án tăng cường năng lực hệ thống tư pháp NCTN tại Việt Nam” của Viện nghiên cứu Khoa học pháp lý- Bộ tư pháp năm 2000; “Thanh thiếu niên phạm pháp - dự báo năm 2000” của Châu Diệu Ái; “Tổng quan về những vấn đề xã hội của vị thành niên” của Viện Nghiên cứu thanh niên và một số bài viết đăng trên các tạp chí khoa học; “Đấu tranh phòng, chống tội phạm do người chưa thành niên thực hiện trên địa bàn thành phố Hà Nội” của tác giả Trịnh Quốc Toản, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội năm 2007; Dưới góc độ luận văn có: "Thủ tục tố tụng về những vụ án mà bị can, bị cáo là NCTN và thực tiễn áp dụng tại thành phố Hà Nội" của học viên Nguyễn Trần Bích Phượng, Luận văn cử nhân Luật, Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2001; "Thủ tục tố tụng về những vụ án mà bị can, bị cáo là NCTN -
  • 10. 4 một số vấn đề lý luận và thực tiễn" của học viên Phạm Thị Khánh Toàn, Luận văn cử nhân Luật, Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2003; "Thủ tục tố tụng đối với bị can, bị cáo là NCTN trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam" của tác giả Đỗ Thị Phượng; Dưới góc độ tài liệu là báo cáo, tạp chí có: “Tài liệu tham khảo về công tác trẻ em làm trái pháp luật” của Ủy ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em & Tổ chức cứu trợ trẻ em Thụy Điển, Hà Nội năm 1996; “Dự án tăng cường năng lực hệ thống tư pháp NCTN tại Việt Nam” của Viện nghiên cứu Khoa học pháp lý- Bộ tư pháp năm 2000;... Tài liệu nghiên cứu nước ngoài có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về tội phạm của NCTN, ví dụ như: Deliquent Boys của Cohen Albert, Towards and Understanding of Juvenile Deliquency của Lander Ernarad; Juvenile Deliquency của Josph G. Weis; Robert D. Crutchfield. George S. Bridges… Các công trình nghiên cứu nêu trên đã đề cập đến NCTN thực hiện hành vi phạm tội trong một phạm vi và khoảng thời gian nhất định; có đề tài nghiên cứu nâng cao chất lượng xét xử sơ thẩm của toà án cấp huyện đối với mọi đối tượng phạm tội. Nhưng chưa có một công trình nghiên cứu khoa học nào nghiên cứu độc lập toàn diện về công tác xét xử vụ án có NCTN là bị cáo trên phạm vi toàn quốc. Chính vì lẽ trên, việc nghiên cứu đề tài: "Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam" càng trở lên cần thiết và cấp bách nhằm góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn và lý luận, đánh giá thực tiễn xét xử các vụ án hình sự bị cáo là NCTN, luận văn góp phần làm sáng tỏ các quy
  • 11. 5 định của pháp luật tố tụng hình sự về việc giải quyết vụ án mà bị cáo là NCTN để áp dụng vào thực tiễn công tác xét xử nhằm đạt chất lượng và hiệu quả cao nhất, đồng thời đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng xét xử đối với các vụ án mà bị cáo là NCTN góp phần vào nâng cao chất lượng xét xử các vụ án mà bị cáo là NCTN ở Việt Nam. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn nghiên cứu cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý của việc nâng cao chất lượng xét xử các vụ án hình sự mà bị cáo là NCTN. Trong đó tập trung nghiên cứu các vấn đề: khái quát về NCTN; đặc điểm tâm lý lứa tuổi của NCTN; những quy định của pháp luật nói chung về NCTN; những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thủ tục xét xử đối với vụ án mà bị cáo là NCTN; thực tiễn xét xử các vụ án mà bị cáo là NCTN. Thông qua đó, luận văn đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng xét xử các vụ án mà bị cáo là NCTN không những chỉ nhằm mục đích phòng chống tội phạm mà cao hơn cải tạo giáo dục họ mau chóng nhận thức được lỗi lầm để trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, luận văn cũng đánh giá tình hình và từ đó đề ra một số kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả xét xử các vụ án mà bị cáo là NCTN. 4. Phương pháp nghiên cứu Trong luận văn chúng tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: Phương pháp lịch sử, so sánh, tổng hợp, thống kê tình hình thực tiễn xét xử tại Tòa án. Qua đó rút ra những tồn tại, hạn chế của thủ tục xét xử vụ án mà bị cáo là NCTN nhằm tìm ra nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế đó. 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu: các quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về thủ tục xét xử bị cáo là NCTN phạm tội từ trước đến nay, so sánh với thủ tục tố tụng của một số nước khác trên thế giới.
  • 12. 6 Nghiên cứu thực trạng xét xử NCTN thông qua các phiên tòa của Tòa án nhân dân trong những năm gần đây. 6. Điểm mới của luận văn Nội dung của luận văn được trình bày một cách có hệ thống các quy định pháp luật tố tụng về thủ tục xét xử vụ án và thực tiễn áp dụng pháp luật tố tụng hình sự đối với các vụ án hình sự mà bị cáo là NCTN. Từ việc nghiên cứu thực tiễn trong việc xét xử vụ án có bị cáo là NCTN, luận văn đã nêu lên những bất hợp lý và những vướng mắc trong việc áp dụng các quy phạm pháp luật tố tụng hình sự trong thực tiễn xét xử các vụ án về NCTN; những tồn tại trong công tác tổ chức của Toà án. Từ đó đưa ra những đề xuất hướng giải quyết sao cho phù hợp với thực tế, hoà nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới; đồng thời hạn chế phần nào những sai lầm, khuyết điểm của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Góp phần đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng xét xử các vụ án mà bị cáo là NCTN. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề chung về hoạt động xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên theo luật tố tụng hình sự Việt Nam. Chương 2: Các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành về thủ tục xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên và thực tiến áp dụng. Chương 3: Nhu cầu và những giải pháp hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành về thủ tục xét xử chất các vụ án có bị cáo là người chưa thành niên và nguyên nhân của nó.
  • 13. 7 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ VỤ ÁN CÓ BỊ CÁO LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. Khái niệm và đặc điểm của bị cáo là người chưa thành niên Thuật ngữ “hệ thống tư pháp người chưa thành niên” mới được nhắc đến nhiều ở Việt Nam trong những năm gần đây. Theo quan niệm thông dụng quốc tế thì thuật ngữ này được dùng với nghĩa chỉ tất cả các quá trình và thủ tục xử lý các hành vi vi phạm pháp luật (cả hành chính và hình sự) do những người dưới 18 tuổi thực hiện. Với ý nghĩa đó, khái niệm này bao trùm rất nhiều giai đoạn từ ngăn ngừa, giáo dục đến xử lý hành chính, xử lý hình sự và tái hoà nhập cộng đồng cho người vi phạm chưa thành niên, sau khi họ đã chấp hành đầy đủ hình phạt và các biện pháp giáo dục. Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn coi người chưa thành niên [33], đặc biệt là những người dưới 16 tuổi, là những người chưa trưởng thành do họ còn non nớt về thể chất và trí tuệ. Do đó, họ cần được đối xử khác với cách đối xử dành cho người đã thành niên và cần được gia đình, xã hội và Nhà nước bảo vệ, chăm sóc đặc biệt. Quan điểm, chính sách cơ bản này đã được thể hiện trong Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng như trong một số luật quan trọng ở cả hệ thống hành chính và hình sự. Bên cạnh các điều khoản quy định riêng trong Hiến pháp về người chưa thành niên, Nhà nước còn ban hành riêng một văn bản luật quy định một cách toàn diện về bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em. Các văn bản luật quy định về các loại trách nhiệm pháp lý đối với các hành vi vi phạm pháp luật đều có chương riêng hoặc một số điều khoản riêng quy định áp dụng đối với người chưa thành niên [43].
  • 14. 8 Theo quy định tại Điều 1 Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1990 [21, tr.12] trẻ em là người dưới 18 tuổi trừ trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ em đó có quy định tuổi thành niên sớm hơn. Bên cạnh Công ước về quyền trẻ em thì Quy tắc tối thiểu phổ biến của Liên Hợp Quốc về việc áp dụng pháp luật đối với người chưa thành niên (Quy tắc Bắc Kinh) [3] do Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua ngày 14.12.1992 cũng nêu rõ người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi như là một sự kế thừa của Công ước về quyền trẻ em. Quy tắc Riyath về phòng ngừa phạm pháp ở người chưa thành niên được Liên Hợp Quốc thông qua ngày 14.12.1990 [22, tr.20] mặc dù không đưa ra một cách cụ thể về khái niệm người chưa thành niên song thông qua các quy định cũng giúp chúng ta hiểu người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi. Tuy nhiên, do sự phát triển của từng quốc gia khác nhau, nên khái niệm người chưa thành niên ở các quốc gia cũng khác nhau, bên cạnh việc đưa ra khái niệm này thì Công ước về Quyền trẻ em vẫn còn những điều khoản để ngỏ cho các nước quy định về độ tuổi cho người chưa thành niên, thậm chí ngay trong một quốc gia các văn bản pháp luật cũng quy định không thống nhất về vấn đề này. NCTN là khái niệm chung, bao trùm cho cả các quy định trong tố tụng hình sự. Được coi là bị can khi họ có quyết định khởi tố đối với một người đã thực hiện hành vi phạm tội. Quyết định khởi tố bị can là cơ sở pháp lý để áp dụng các biện pháp ngăn chặn cần thiết và tiến hành các biện pháp điều tra đối với người đó. Khái niệm bị can được tồn tại suốt cả quá trình tiến hành tố tụng từ khi điều tra, truy tố, chuẩn bị xét xử. Như vậy người thực hiện hành vi phạm tội trong quá trình tố tụng này chưa đủ 18 tuổi là bị can NCTN kể từ thời điểm có quyết định đưa vụ án ra xét xử của Toà án đã thụ lý vụ án khi đó bị can chính thức trở thành bị cáo. Quyết định đưa vụ án ra xét xử là cơ sở pháp lý chứng minh đã đủ chứng cứ để đưa vụ án ra xét xử mà không phải trả hồ sơ để điều tra bổ xung, tạm đình chỉ hay đình chỉ vụ án. Như vậy người bị
  • 15. 9 Viện kiểm sát truy tố và Toà án có quyết định đưa vụ án ra xét xử từ đủ 14 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi gọi là bị cáo là NCTN. Như vậy: Người chưa thành niên phạm tội là người chưa tròn 18 tuổi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm. Tuy nhiên, không phải người chưa thành niên phạm tội nào cũng bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Việc tìm hiểu đặc điểm bị cáo là người chưa thành niên là không thể thiếu đối với cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng trong xét xử vụ án hình sự có người chưa thành niên là bị cáo. NCTN là khái niệm chung, bao trùm cho cả các quy định trong tố tụng hình sự. NCTN được coi là bị cáo kể từ thời điểm có quyết định đưa vụ án ra xét xử của Toà án đã thụ lý vụ án khi đó bị can chính thức trở thành bị cáo. Quyết định đưa vụ án ra xét xử là cơ sở pháp lý chứng minh đã đủ chứng cứ để đưa vụ án ra xét xử mà không phải trả hồ sơ để điều tra bổ xung, tạm đình chỉ hay đình chỉ vụ án. Như vậy người bị Viện kiểm sát truy tố và Toà án có quyết định đưa vụ án ra xét xử từ đủ 14 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi gọi là bị cáo NCTN. Điểm đặc thù của người chưa thành niên là sự hạn chế về nhận thức, do vậy việc xét xử họ chủ yếu nhằm giáo dục, qua đó giúp các em nhận thức được sai lầm và tuân thủ quy định của pháp luật. Những nguyên tắc cơ bản được quy định tại Điều 69 Bộ luật hình sự (BLHS) như sau: trong trường hợp điều tra, xét xử hành vi phạm tội của người chưa thành niên, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải xác định khả năng nhận thức của họ về hành vi nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân, điều kiện gây ra tội phạm. Người chưa thành niên phạm tội có thể được miễn truy cứu trách nhiệm hình sự nếu người đó phạm tội không nghiêm trọng hoặc ít nghiêm trọng, gây hại không lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và được gia đình, cơ quan, tổ chức nhận giáo dục. Việc truy cứu trách nhiệm hình sự người chưa
  • 16. 10 thành niên phạm tội và áp dụng hình phạt với họ chỉ trong trường hợp cần thiết và phải căn cứ vào tính chất của hành vi phạm tội, vào đặc điểm nhân thân về nhân thân và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm. Khi xét xử nếu thấy không cần thiết áp dụng hình phạt thì tòa án có thể áp dụng một trong các biện pháp tư pháp thay thế là giáo dục tại xã phường, thị trấn hoặc đưa vào trường giáo dưỡng. Đặc biệt, Bộ luật hình sự Việt Nam không quy định áp dụng hình phạt chung thân hoặc tử hình đối với người chưa thành niên phạm tội. Khi xử phạt tù có thời hạn, tòa án cho bị cáo là người chưa thành niên phạm tội hưởng mức án tù nhẹ hơn mức án tù áp dụng đối với người đã thành niên phạm tội tương đương; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với người chưa thành niên phạm tội, đối với người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi không áp dụng hình phạt tiền và án đã tuyên đối với người chưa thành niên phạm tội chưa đủ 16 tuổi thì không tính để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm. Xuất phát từ những đặc điểm khác biệt về thể chất và tinh thần của NCTN so với người trưởng thành mà pháp luật có quy định chính sách hình sự riêng đối với NCTN phạm tội, đồng thời cũng quy định thủ tục tố tụng cần thiết đối với đối tượng này. Trước hết, việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với NCTN phạm tội, nhất là biện pháp bắt tạm giữ, tạm giam phải cân nhắc, thận trọng. Bộ luật TTHS cũng quy định Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán tiến hành tố tụng với người chưa thành niên phạm tội phải là người có hiểu biết cần thiết về tâm lý học, khoa học giáo dục, cũng như hoạt động đấu tranh phòng chống tội phạm của NCTN. Bởi những người tiến hành tố tụng am hiểu về những vấn đề, đặc điểm riêng, tính cách của NCTN thì mới có thể đánh giá, nhận xét được một cách xác đáng về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, nguyên nhân, điều kiện phạm tội, động cơ mục đích phạm tội cũng như nhân thân của người phạm tội, từ đó có thể áp dụng biện pháp xử lý thích hợp.
  • 17. 11 Khi xét xử Sơ thẩm hay Phúc thẩm vụ án hình sự mà bị cáo là NCTN ngoài những vấn đề bắt buộc phải chứng minh theo quy định tại Điều 63 Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) (có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội; ai là người thực hiện hành vi phạm tội, có lỗi hay không có lỗi, lỗi do cố ý hay vô ý, có năng lực trách nhiệm hình sự (TNHS) hay không, mục đích động cơ phạm tội; những tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ TNHS của bị cáo và những đặc điểm về nhân thân của bị cáo; tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra), thì theo quy định tại khoản 2 Điều 302 của BLTTHS Tòa án cần phải xác định rõ các vấn đề sau đây: Tuổi, trình độ phát triển về thể chất và tinh thần, mức độ nhận thức về hành vi phạm tội của NCTN. Việc xác định tuổi của bị cáo là NCTN đặc biệt quan trọng vì đây là căn cứ để truy cứu TNHS của người phạm tội cũng như việc xác định trình độ phát triển về thể chất và tinh thần, mức độ nhận thức về hành vi phạm tội giúp cho người tiến hành tố tụng có thể đánh giá tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội do hành vi phạm tội của NCTN gây ra để có thể áp dụng biện pháp tư pháp hay hình phạt thích hợp, bảo đảm chế độ thi hành án theo quy định của pháp luật. Điều kiện sinh sống và giáo dục Hành vi phạm tội của NCTN thường bắt nguồn từ điều kiện sống và giáo dục trong gia đình, nhà trường và xã hội. Cho nên, làm rõ yếu tố này cũng xác định khả năng cải tạo và giáo dục NCTN phạm tội, đồng thời cũng có thể giúp cho việc xác định nguyên nhân và điều kiện phạm tội để có thể đưa ra các biện pháp phòng ngừa thích hợp đối với người phạm tội nói chung và NCTNPT nói riêng. Khoa học đã chứng minh con người chịu sự ảnh hưởng tác động qua lại của môi trường xung quanh, hành vi phạm tội không phải ngẫu nhiên hình
  • 18. 12 thành, nó phát sinh không phải từ chính môi trường, chính bản thân người đó mà là do sự tác động qua lại giữa môi trường và cá nhân con người đó. Đối với NCTN ảnh hưởng của môi trường xung quanh càng thể hiện rõ hơn, đó là: điều kiện sinh sống của gia đình, thái độ, cách ứng xử của cha mẹ, những người thân trong gia đình; điều kiện học tập và sinh hoạt của họ ở nhà trường, đoàn thể, nơi cư trú. Có hay không có người đã thành niên xúi giục. Việc xác định có hay không có người thành niên xúi giục cũng như nguyên nhân và điều kiện phạm tội là những vấn đề quan trọng, làm cơ sở cho việc đánh giá tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội mà NCTN đã thực hiện, từ đó đề ra những biện pháp hữu hiệu ngăn chặn tái phạm. 1.2. Khái niệm và đặc điểm của hoạt động xét xử vụ án hình sự mà bị cáo là người chưa thành niên 1.2.1. Khái niệm Pháp luật nói chung và Pháp luật hình sự nói riêng luôn luôn coi trẻ em là đối tượng đặc biệt cần được bảo vệ không chỉ trong cuộc sống hàng ngày mà ngay cả khi các em là chủ thể của hành vi nguy hiểm cho xã hội đến mức phải truy cứu TNHS. Luật hình sự bảo vệ NCTN bị coi là tội phạm và cũng quy định một chế tài riêng để xử lý, thì thủ tục tố tụng cũng phải phù hợp với lứa tuổi NCTN nhằm thể hiện tính nhân đạo trong chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước Việt Nam. BLTTHS năm 2003 [40] đã có một chương riêng (Chương XXXII) quy định về thủ tục tố tụng đối với bị cáo là NCTN. Tuy nhiên, trong Điều 301 quy định về phạm vi áp dụng "Thủ tục đối với NCTN", nhà làm luật Việt Nam không ghi nhận khái niệm pháp lý "thủ tục đối với NCTN", “thủ tục xét xử đối với NCTN” là gì? Qua nghiên cứu các quy định về thủ tục xét xử đối với NCTN trong chương này, chúng ta có thể hiểu: Các quy định về thủ tục xét xử đối với NCTN có những đặc trưng so với
  • 19. 13 thủ tục xét xử được áp dụng đối với người thành niên. Những đặc trưng này thể hiện ở phạm vi áp dụng, việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn, về việc tham gia của luật sư bào chữa, việc giám sát NCTN, việc tham gia của gia đình, nhà trường và tổ chức xã hội vào quá trình chuẩn bị xét xử và xét xử. Thủ tục xét xử vụ án mà bị cáo là NCTN theo Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam là: tổng hợp các quy định chung về thủ tục xét xử vụ án hình sự và các quy định về thủ tục đặc thù mang tính chất nhân đạo đối với bị cáo là NCTN từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi nhằm xét xử vụ án một cách khách quan, toàn diện và đúng pháp luật, đồng thời bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của bi can, bị cáo trong hoạt động xét xử. Việc nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự có người chưa thành niên tham gia tố tụng cũng tương tự như việc nghiên cứu các vụ án hình sự khác. Tuy nhiên do pháp luật hình sự có những quy định riêng trong trình tự, thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên là người bị tạm giữ, bị can nên khi nghiên cứu hồ sơ, Thẩm phán phải đặc biệt chú ý đến việc chấp hành các thủ tục, trình tự tố tụng này của Điều tra viên, Kiểm sát viên. Trường hợp nếu phát hiện thấy có vi phạm nghiêm trọng trong thủ tục tố tụng tức là không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định, xâm hại nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng nói chung và của người chưa thành niên nói riêng hoặc ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan và toàn diện của vụ án. Các vi phạm nghiêm trọng trong thủ tục tố tụng được hướng dẫn tại Điều 4 Thông tư liên tịch số 01/2010/TTLT-VKSNDTC-BCA-TANDTC ngày 27/08/2010 của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành các quy định của BLTTHS về trả hồ sơ để điều tra bổ sung (sau đây xin được viết tắt là Thông tư liên tịch số 01/2010). Theo hướng dẫn tại Điều 4 Thông tư liên tịch số 01/2010 thì việc không yêu cầu cử người bào chữa cho bị can, bị
  • 20. 14 cáo theo quy định tại khoản 2 Điều 57 BLTTHS, chưa điều tra, lập lý lịch của bị can; chưa xác định được những đặc điểm quan trọng về nhân thân của người có hành vi phạm tội (tuổi, tiền án, tiền sự của bị can, bị cáo); khởi tố vụ án hình sự nhưng không có yêu cầu của người bị hại hoặc của người đại diện hợp pháp của người bị hại theo quy định tại khoản 1 Điều 105 của BLTTHS,... Đối với các vụ án hình sự có người chưa thành niên tham gia tố tụng, thì Thẩm phán cần nghiên cứu kỹ về độ tuổi, trình độ phát triển về thể chất, tinh thần, khả năng nhận thức về hành vi phạm tội; có người xúi giục không; nguyên nhân, điều kiện phạm tội; hoàn cảnh, động cơ, mục đích của người phạm tội. Ngoài ra cần nghiên cứu để xác định rõ tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, các tình tiết quan trọng khác có ảnh hưởng đến quyết định hình phạt như nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ; có hay không có người bảo lãnh… Từ các căn cứ trên, Thẩm phán có thể đề xuất việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam. Chỉ có thể quyết định tạm giam bị cáo chưa thành niên để chuẩn bị xét xử trong những trường hợp quy định tại Điều 303 BLTTHS. Nếu không phải áp dụng biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc này thì giao bị cáo cho người đại diện hợp pháp hoặc người đỡ đầu giám sát. Trong quá trình chuẩn bị xét xử, Thẩm phán phải kiểm tra xem bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo có yêu cầu Luật sư không; người bị hại có mời người bào chữa hay không. Trong trường hợp bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo chưa thành niên không mời nhưng có yêu cầu Luật sư bào chữa thì Thẩm phán phải yêu cầu Đoàn Luật sư phân công văn phòng Luật sư cử Luật sư bào chữa cho bị cáo. Thẩm phán phải xử lý các tình huống mà bị cáo, người đại diện hợp pháp của họ có yêu cầu thay đổi hoặc từ chối người bào chữa theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 56 BLTTHS để chấp nhận hoặc không chấp nhận. Nếu chấp nhận thì yêu cầu Đoàn Luật sư cử
  • 21. 15 người khác, nếu không chấp nhận thì thông báo bằng văn bản cho người có yêu cầu thay đổi biết. Nếu từ chối người bào chữa thì Tòa án vẫn triệu tập người bào chữa. Tại phiên tòa nếu họ tiếp tục từ chối người bào chữa thì Hội đồng xem xét, quyết định. Việc tiếp tục từ chối người bào chữa và quyết định của Hội đồng xét xử được ghi trong biên bản phiên tòa. Việc thành lập Hội đồng xét xử cần phải chú ý thành phần của Hội đồng xét xử, phải có Hội thẩm nhân dân là giáo viên hoặc cán bộ Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (Điều 307 BLTTHS).Theo quy định tại Điều 16 Thông tư liên tịch số 01/2011 thì ngay cả các vụ án có người bị hại là người chưa thành niên thì Tòa án cần phải tạo điều kiện để thành phần Hội đồng xét xử có Hội thẩm nhân dân đã là giáo viên hoặc cán bộ Đoàn thanh niên như trong trường hợp xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên. Cũng rất cần chú ý việc triệu tập những người tham gia tố tụng khác là người chưa thành niên và người đại diện hợp pháp, người giám hộ của họ. Nếu xét thấy cần thiết, để tránh những ảnh hưởng tiêu cực của dư luận xã hội đối với người chưa thành niên là bị cáo hoặc là người bị hại, đồng thời để tạo điều kiện cho người chưa thành niên bình tĩnh, khai báo khách quan, trung thực thì Tòa án có thể quyết định xử kín. Việc quyết định xử kín phải được nêu trong quyết định đưa vụ án ra xét xử. Trong phần thủ tục bắt đầu phiên tòa, khi kiểm tra căn cước của bị cáo, người bị hại, người có quyền, nghĩa vụ liên quan là người chưa thành niên thì Chủ tọa phiên tòa cần hết sức chú ý đến việc xác định ngày, tháng, năm sinh của họ. Trường hợp có việc không thống nhất về xác định tuổi của những người tham gia tố tụng này thì Hội đồng xét xử phải quyết định hoãn phiên tòa để trả hồ sơ điều tra bổ sung theo hướng dẫn tại điểm k Điều 1 Thông tư liên tịch số 01/2010. Các vấn đề khác như xác định về đặc điểm nhân thân, lý lịch tư pháp về năng lực TNHS, về tiền án, tiền sự…nếu không thể làm rõ
  • 22. 16 được trong phần thủ tục bắt đầu phiên tòa thì Hội đồng xét xử cũng phải hoãn phiên tòa để căn cứ vào các hướng dẫn tại Điều 1 Thông tư liên tịch số 01/2010 để trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Ngoài việc tuân thủ các quy định của BLTTHS về việc xét hỏi, trong vụ án có người chưa thành niên tham gia tố tụng cần chú ý một số vấn đề sau đây: + Việc đặt câu hỏi đối với người chưa thành niên phải ngắn gọn, rõ ràng, đơn giản và rất từ tốn, không được tỏ thái độ gay gắt, nhằm giúp cho người chưa thành niên hiểu, bình tĩnh trả lời đúng câu hỏi một cách khách quan. Nếu thấy họ chưa hiểu câu hỏi thì cần nhắc lại và có thể giải thích câu hỏi cho rõ hơn. + Trường hợp bị cáo do quá sợ hãi, không trả lời được câu hỏi hoặc mất bình tĩnh không trình bày được thì có thể động viên, giúp bị cáo trấn tĩnh (cho ngồi xuống, cách ly người lớn…), cũng có thể chuyển sang xét hỏi bị cáo khác, hỏi người bị hại… để bị cáo trấn tĩnh. + Việc hỏi đại diện gia đình, nhà trường, tổ chức là rất cần thiết nhằm xác định nguyên nhân, điều kiện phạm tội, động cơ, mục đích, hoàn cảnh phạm tội, từ đó Hội đồng xét xử có thể định hướng về biện pháp xử lý hình sự đối với bị cáo là người chưa thành niên. Hội đồng xét xử cần chú ý xem xét các chứng cứ, các yêu cầu của đại diện gia đình, nhà trường. Nếu họ có yêu cầu hỏi bị cáo thì Hội đồng xem xét quyết định (tinh thần là Chủ tọa phiên tòa nên chấp nhận yêu cầu này của đại diện gia đình, nhà trường). - Đối với người tham gia tố tụng là người bị hại, người làm chứng là người chưa thành niên, đặc biệt là trong các vụ án xâm phạm tình dục trẻ em, mua bán trẻ em thì Tòa án có thể quyết định xử kín và hạn chế tối đa việc để họ phải đối mặt với bị cáo, người nhà bị cáo tại phiên tòa. Có thể cho phép họ đứng sau màn chắn hoặc tại một phòng khác thông qua kết nối hệ thống camera ( xem Điều 16 Thông tư liên tịch số 01/2011).
  • 23. 17 Ngoài bài bào chữa của người bào chữa thì đại diện hợp pháp của bị cáo, người bị hại chưa thành niên, người giám hộ của người có quyền, nghĩa vụ liên quan là người chưa thành niên, đại diện gia đình, nhà trường, tổ chức xã hội cũng có quyền tham gia tranh luận tại phiên tòa. Nếu người đại diện hợp pháp của những người tham gia tố tụng là người chưa thành niên tham gia phiên tòa và thực hiện việc bào chữa và nếu không có yêu cầu Luật sư thì họ được bào chữa, tranh luận (Tòa án không cần thiết phải chỉ định Luật sư hoặc người bào chữa cho bị cáo). Việc nghị án phải tuân thủ quy định tại Điều 222 BLTTHS. Tuy nhiên, trong khi nghị án, Hội đồng xét xử cần phải chú ý đặc biệt đến chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội được quy định trong BLHS. + Bị cáo phạm tội khi bao nhiêu tuổi và theo quy định của pháp luật về độ tuổi chịu TNHS thì bị cáo có phải chịu TNHS không? + Bị cáo có tội không? Tội phạm quy định tại điểm, khoản, Điều nào của BLHS? + Bị cáo có đủ điều kiện để miễn TNHS theo khoản 2 Điều 69 BLHS không? + Có cần thiết phải áp dụng hình phạt đối với bị cáo không? Có điều kiện để áp dụng các biện pháp tư pháp theo quy định tại Điều 70 BLHS không? + Khi cần thiết phải áp dụng hình phạt thì cần chú ý việc lựa chọn hình phạt. Nếu phải áp dụng hình phạt tù thì phải chú ý đến quy định về mức phạt tù tối đa đối với người chưa thành niên ( Điều 74 BLHS) và cách tính mức hình phạt đối với người chưa thành niên theo hướng dẫn tại Điều 11 Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/05/2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn một số quy định của BLHS. + Không xử phạt tù chung thân, tử hình đối với người chưa thành niên phạm tội.
  • 24. 18 + Không áp dụng hình phạt tiền đối với người phạm tội ở độ tuổi từ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi. + Không áp dụng hình phạt bổ sung với người chưa thành niên phạm tội. + Không coi các bản án đã tuyên đối với người phạm tội khi chưa đủ 16 tuổi là tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm. + Khi áp dụng mức phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc tù có thời hạn thì người chưa thành niên được hưởng mức nhẹ hơn mức áp dụng với người đã thành niên phạm tội tương ứng. + Việc tổng hợp hình phạt phải tuân thủ quy định tại Điều 75 BLHS. + Chú ý cân nhắc để có thể áp dụng việc miễn hình phạt, áp dụng hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo đối với những trường hợp có thể áp dụng. 1.2.2. Đặc điểm Người chưa thành niên (NCTN) là người ở độ tuổi chuyển tiếp của sự tăng trưởng, phát triển từ độtuổi “trẻ em” đến thời điểm bắt đầu của tuổi trưởng thành - là giai đoạn thay đổi quan trọng nhất về thể chất, cảm xúc và ý thức xã hội diễn ra ở mỗi cá nhân. Sự tăng trưởng của các tuyến nội tiết đãthúc đẩy phát triển các bộ phận cơ thể trưởng thành theo một trình tự nhất định.Đây là giai đoạn “quá độ”, sự phát triển tâm lý rất phức tạp, mẫn cảm, dễ thay đổi và khó lường trước. Tâm lý học xác định quá trình hình thành và phát triển của NCTN phụ thuộc mạnh mẽ về tâm sinh lý, tùy thuộc độ tuổi, nhưng ở mức độ không đồng đều và với những dấu hiệu tâm sinh lý rất khác nhau ở mỗi giới tính; đồng thời có thể bị phân hóa để tạo thành tính cách khác nhau khi bị tác động bởi những môi trường, điều kiện, hoàn cảnh khác nhau. Xuất phát từ những đặc điểm riêng của sự phát triển tâm sinh lý đó, nên khi NCTN thực hiện hành vi vi phạm pháp luật thường xuất phát từ nhiều yếu tố khác nhau và do đó, vi phạm pháp luật của NCTN có các đặc điểm, cơ chế khác với hành vi vi phạm pháp luật của người đã thành niên.
  • 25. 19 Đối với những NCTN có điều kiện, mức sống bình thường thì hoạt động xã hội của họ ở giai đoạn này chủ yếu là môi trường học tập tại nhà trường. Sự giao tiếp bạn bè cùng lứa và các mối quan hệ cá nhân ngày càng gắn bó, mở rộng và chịu ảnh hưởng từ quan hệ bạn bè rất mạnh, thậm chí là nghe theo lời bạn nhiều hơn nghe lời khuyên can của cha mẹ, gia đình. Tính cách của các em thường phát triển theo khuynh hướng thích chứng tỏ “đã” là người lớn và mong muốn người xung quanh thừa nhận; do vậy, thường gặp sai lầm trong khi muốn xử lý gấp mọi vấn đề khó khăn gặp phải, nhằm chứng tỏ sự trưởng thành của mình. Nhiều trường hợp NCTN ở giai đoạn này đã tỏ ra khó chịu, tự ái, thậm chí trở nên hung dữ khi bị coi là còn con nít hoặc bị người lớn gọi là “chú bé”, “cô bé”. Sự tự trọng thái quá trở thành tự tôn hay tự ti, mặc cảm và khi bị xúc phạm, dễ có tâm lý tiêu cực, mà hệ quả thông thường là phản ứng bằng những hành vi sai trái hoặc hành vi vi phạm pháp luật. Những NCTN này thường thiếu tự chủ, luôn hướng tới sự ham thích mới lạ, hiếu động, bồng bột và dễ sa ngã. Nhiều em dễ bị kích động, dễ bị lôi kéo vào những hoạt động phiêu lưu, mạo hiểm, muốn trở thành “người hùng” để bạn bè khâm phục. Những em bị mặc cảm do kết quả học tập sa sút và bị thầy cô, gia đình khiển trách, bạn bè chế giễu... cũng dễ có hành vi sai trái hoặc hành vi vi phạm pháp luật. Khác với người thành niên khi vi phạm pháp luật luôn có động cơ, mục đích cụ thể, những NCTN thường vi phạm pháp luật với suy nghĩ rất đơn giản, thậm chí chỉ do nguyên nhân hiếu thắng, không tự chủ mà họ đã gây ra nhiều vụ vi phạm pháp luật rất nghiêm trọng và họ thường có xu hướng sử dụng bạo lực thể chất, như gây rối trật tự công cộng, cố ý gây thương tích... Như vậy, đặc điểm trước hết trong vi phạm pháp luật của NCTN hầu hết là do tác động của môi trường,điều này cũng giải thích vì sao động cơ, mục đích vi phạm pháp luật của NCTN thường là bột phát, nhất thời và không
  • 26. 20 rõ ràng. Cũng do hành động a dua, hùa theo bạn bè làm trái pháp luật, nên vi phạm pháp luật của NCTN còn có yếu tố vi phạm tập thể, tuy chưa đến mức vi phạm pháp luật có tổ chức (vì thiếu dấu hiệu thống nhất ý chí, phân công thực hiện…), nhưng là cách thức nhiều người cùng thực hiện một loại hành vi trái pháp luật, điều này thể hiện rõ nhất trong các vụ gây rối trật tự công cộng, đua xe trái phép… Ý nghĩa của đặc điểm này giúp ta khái quát được nguyên nhân cơ bản dẫn đến vi phạm pháp luật của NCTN, từ đó có biện pháp chủ động trong ngăn chặn, phòng ngừa vi phạm, tội phạm ở các lứa tuổi chưa thành niên. Người thành niên khi thực hiện hành vi trái pháp luật vì kiếm lợi bất chính thì cách thức, thủ đoạn tiến hành thường được chuẩn bị trước, có khi rất tinh vi, phức tạp và quyết tâm hoàn thành hành vi dù có trở ngại khách quan. Trái lại, đối với NCTN, nhất là những em có hoàn cảnh đặc biệt, như khuyết tật, mồ côi, không nơi nương tựa, bị bỏ rơi, bỏ nhà sống lang thang, những em là nạn nhân của bạo lực gia đình, nạn nhân của nghiện ngập ma túy; những em có thói quen đua đòi mua sắm, tiêu xài sang trọng... (thuộc trường hợp NCTN có nguy cơ) thì cách thức, hành vi vi phạm pháp luật đơn giản hơn nhiều.Các em này thường bị áp lực do lệ thuộc về vật chất, nghiện ngập, nên dễ bị người lớnđiều khiển, sai khiến hoặc tự mình tham gia những việc làm trái pháp luật như mua bán ma túy, trộm cắp, cướp giật, cướp; có thể có đồng phạm cùng tham gia, nhưng chỉ là vi phạm pháp luật mang tính tổ chức giản đơn nên quyết tâm vi phạm pháp luật không cao… Và khi thực hiện hành vi vi phạm pháp luật do bị người khác điều khiển, xúi giục hoặc vì nhu cầu vật chất cá nhân thì hành vi vi phạm pháp luật của các em thường có đặc điểm dễ nhận thấy là hành động phạm pháp đơn giản, nhanh lẹ vội vãvà ít có quyết tâm thực hiện đến cùng nếu bị ngăn trở. Mặt khác, cũng do độ tuổi nên khi phạm pháp, các em thường không lường trước, lường hết được sự nguy
  • 27. 21 hiểm, tác động và hậu quả của hành vi mà mình sẽ thực hiện; nhiều trường hợp làm trái pháp luật, có hậu quả nghiêm trọng xảy ra, được người lớn giải thích các em mới biết sai trái của mình. Nghiên cứu thấu đáo đặc điểm này sẽ giúp xem xét dấu hiệu lỗi trong mặt chủ quan của hành vi vi phạm pháp luật của NCTN. Khi là lỗi cố ý trực tiếp thì mới có căn cứ quy kết hành vi trái pháp luật của họ là vi phạm pháp luật và xác định trách nhiệm pháp lý; còn nếu là lỗi gián tiếp hay lỗi vô ý thì sẽ không cấu thành vi phạm pháp luật của NCTN, nhất là đối với trẻ em theo các quy định của pháp luật về độ tuổi. Ý nghĩa của đặc điểm này giúp cho cơ quan, người có thẩm quyền xử lý vi phạm pháp luật của NCTN có nhận thức đúng đắn về hành vi vi phạm pháp luật của họ và từ đó thực hiện áp dụng biện pháp xử lý phù hợp. Theo quy định của pháp luật, NCTN chỉ được thừa nhận là chủ thể có quyền và nghĩa vụ trong một số quan hệ xã hội nhất định (hợp đồng lao động dịch vụ, lao động giản đơn). Vì lý do đó, trong thực tế đời sống, sinh hoạt, NCTN chỉ có khả năng, điều kiện tham gia trong một số môi trường xã hội nhất định, hay nói theo quan điểm cấu thành vi phạm thì NCTN chỉ có thể có điều kiện xâm hại một số khách thể nhất định được pháp luật bảo vệ, như: trật tự công cộng, quyền sở hữu (chủ yếu là sở hữu tư nhân). Ví dụ: Khoản 1 Điều 77 Luật Tố tụng hành chính quy định về giao nộp chứng cứ: “Đương sự có quyền và nghĩa vụ giao nộp chứng cứ cho Tòa án; nếu đương sự không nộp hoặc nộp không đầy đủ thì phải chịu hậu quả…”, nhưng nếu đương sự là NCTN, thì phải tuân theo quy định tại khoản 4 Điều 48, là: “Trường hợp đương sự là NCTN… thực hiện quyền và nghĩa vụ của đương sự trong tố tụng hành chính thông qua người đại diện theo pháp luật”. Hoặc Điều 102 Bộ luật Hình sự (BLHS) quy định Tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, đây là loại hành vi “không hành động”bị coi là phạm tội (khi có hậu quả chết người), nhưng quy định này không thể áp dụng
  • 28. 22 với NCTN, vì luật quy định phải là người có đủ điều kiện mà không cứu giúp thì mới phải chịu trách nhiệm pháp lý, trong khi NCTN là người chưa đến tuổi trưởng thành, tức là chưa có đủ điều kiện về năng lực hành vi, nên không thể đòi hỏi họ phải có nghĩa vụ pháp lý như người thành niên. Hoặc có những quan hệ xã hội mà dù có cố ý, NCTN cũng không thể tham gia, không thể có điều kiện thực hiện hành vi trái pháp luật, như trong các quan hệ pháp luật về chức vụ, về các hoạt động tư pháp hoặc quản lý kinh tế...; như vậy, vi phạm pháp luật của NCTN còn có đặc điểm là chỉ có thể xảy ra trong những môi trường, hay nói cách khác là trong một số quan hệ xã hội nhất định. Chính sách hình sự trong tố tụng hình sự đối với người chưa thành niên là bị cáo nhằm bảo đảm một cách tốt nhất quyền bào chữa cho đối tượng này, hạn chế một cách tối đa việc áp dụng những biện pháp cưỡng chế, hạn chế một cách thấp nhất những tác động không thể tránh khỏi về tâm lý đối với bị cáo là người chưa thành niên do hoạt động tố tụng hình sự gây ra, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho việc làm rõ những nguyên nhân, điều kiện phạm tội của họ để Tòa án có thể xét xử và tuyên bản án có tác động tích cực nhất đến tâm lý của đối tượng này. Vì thế, trong tất cả các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử đối với bị can, bị cáo chưa thành niên, các cơ quan tiến hành tố tụng phải xem xét một cách khách quan toàn diện và đầy đủ để xác định các yếu tố có liên quan đến việc thực hiện tội phạm của họ như: khả năng nhận thức về tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, những nguyên nhân và điều kiện phạm tội. Nhìn chung, chính sách hình sự của Nhà nước Việt Nam đã thấm nhuần tinh thần nhân đạo, coi trọng vai trò giáo dục, giúp đỡ người chưa thành niên bảo vệ quyền và lợi ích của mình. Pháp luật đã có những quy định tiến bộ, bao trùm từ giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án đến việc áp dụng các biện pháp có tính chất phòng ngừa.
  • 29. 23 Đó là việc khuyến khích áp dụng rộng rãi chế định miễn TNHS, miễn hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội. Tóm lại, từ những quy định của BLHS và BLTTHS Việt Nam cho thấy chính sách hình sự của nước ta trong hoạt động xét xử vụ án đối với bị cáo là người chưa thành niên thể hiện tính nhân đạo rõ nét, quy định theo hướng bảo vệ tốt nhất các quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, về mức độ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo chưa thành niên giảm nhẹ hơn so với bị can, bị cáo thành niên. 1.3. Ý nghĩa của việc quy định thủ tục xét xử riêng đối với bị cáo là người chưa thành niên trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam “Trẻ em, do còn non nớt về thể chất và trí tuệ cần được bảo vệ, chăm sóc đặc biệt, kể cả sự bảo vệ thích hợp về mặt pháp lí trước cũng như sau khi ra đời”. Đồng thời, Hiến pháp Việt Nam năm 2013 quy định: “Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm...” [43, Điều 20]. Bộ luật Hình sự hiện hành xây dựng một chương riêng quy định đường lối xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội. Quy định này dựa trên cơ sở phân tích về tâm, sinh lý đối với người chưa thành niên. Đây là đối tượng chưa phát triển đầy đủ về thể chất cũng như về tâm, sinh lý, họ bị hạn chế về trình độ nhận thức cũng như về kinh nghiệm sống, thiếu những điều kiện về bản lĩnh tự lập, khả năng tự kiềm chế chưa cao nên họ dễ bị kích động, dễ bị lôi kéo vào những hoạt động phiêu lưu, mạo hiểm. Do đó, Pháp luật hình sự Việt Nam đã đặt ra những nguyên tắc riêng khi xử lý hành vi phạm tội của người chưa thành niên. Các quy định về thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên có những điểm khác biệt so với thủ tục tố tụng hình sự áp dụng đối với người thành niên phạm tội. Chính sách hình sự của Nhà nước Việt Nam đối với việc truy cứu trách nhiệm hình sự người chưa thành niên là nhằm giúp đỡ, cải tạo, giáo dục để người chưa thành niên nhận ra sai lầm từ đó sửa chữa những sai lầm của
  • 30. 24 mình, tạo điều kiện để các em có khả năng tái hòa nhập cuộc sống. Với lý do này Pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam đã có những quy định về thủ tục tố tụng riêng dành cho người chưa thành niên khi họ là bị can, bị cáo trong các vụ án hình sự. Trong BLHS Việt Nam quy định về chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội tại Điều 69, còn chính sách hình sự đối với người chưa thành niên trong tố tụng hình sự thể hiện tại chương XXXII - thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên - BLTTHS năm 2003. BLHS có qui định nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội, nhưng không đưa ra nguyên tắc xử lý đối với bị can là người chưa thành niên. Chính sách đối với người chưa thành niên trong lĩnh vực hình sự chủ yếu liên quan đến năng lực chịu TNHS, mục đích áp dụng TNHS nặng về giáo dục, giúp họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh để họ trở thành công dân tốt, có ích cho xã hội chứ không nặng về trừng phạt “Việc xử lý người chưa thành niên phạm tội chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội”. Đây là nguyên tắc bao trùm mang tính chất chỉ đạo thể hiện chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước Việt Nam lấy giáo dục làm nền tảng, trọng tâm trong quá trình xử lý vụ án mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên. Trong quá trình xử lý và áp dụng biện pháp hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội, những người tiến hành tố tụng phải cân nhắc thận trọng để bảo đảm được mục đích giáo dục, uốn nắn, răn đe các hành vi lệch lạc, làm cho họ thấy rõ những sai phạm của mình và tự giác sửa chữa với sự giúp đỡ của gia đình, nhà trường và xã hội. Nguyên tắc này đòi hỏi người tiến hành tố tụng trong vụ án hình sự mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên phải thấy được rằng việc xử lý hình sự là vì sự phát triển lành mạnh của người chưa thành niên và mức độ xử lý phải đảm bảo sự phát triển lành mạnh của người đó. Điều này thể hiện rõ trong các quy định từ Điều 69 đến Điều 77 của BLHS 1999.
  • 31. 25 Thủ tục tố tụng hình sự đối với tội phạm nói chung và người chưa thành niên nói riêng bao gồm các thủ tục điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Ngoài những thủ tục chung của BLTTHS thì cũng như Bộ luật hình sự, Bộ luật TTHS dành riêng một chương quy định về tố tụng hình sự và chính sách xử lý đặc biệt với người chưa thành niên phạm tội (chương XXXII). Trong đó quy định rõ Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán tiến hành tố tụng với bị can, bị cáo là người chưa thành niên phạm tội phải là những người hiểu biết cần thiết về tâm lý học, khoa học giáo dục cũng như về hoạt động đấu tranh phòng chống tội phạm là người chưa thành niên. Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử người chưa thành niên phạm tội phải xác định rõ các yếu tố về tuổi, trình độ phát triển về thể chất và tinh thần, mức độ nhận thức về hành vi phạm tội bị can, bị cáo là người chưa thành niên; điều kiện sinh sống, giáo dục; có hay không có người thành niên xúi giục; nguyên nhân và điều kiện phạm tội. Quy định này không những phù hợp với đặc điểm của bị can, bị cáo là người chưa thành niên mà còn phù hợp với thực tế về những nguyên nhân khách quan tác động đến hành vi phạm tội của nhóm đối tượng này. Thực tiễn đã chứng minh rằng đa số các em phạm tội đều chịu sự tác động của gia đình và xã hội, trong đó bao gồm các em có hoàn cảnh đặc biệt như kinh tế gia đình khó khăn, bố mẹ ly hôn, gia đình không yên ấm hoặc có người hư hỏng phạm tội; bố mẹ không coi trọng việc giáo dục con cái, trình độ văn hóa của các em quá thấp, các em không có công ăn việc làm...tình trạng các em bị người thành niên (bố, mẹ, anh, chị) xúi giục phạm tội cũng chiếm một số lượng không nhỏ. Chính vì vậy, việc quy định về hiểu biết tâm sinh lý người chưa thành niên đối với bị can, bị cáo là người chưa thành niên đối với những người tiến hành tố tụng là vô cùng cần thiết. Vì vậy những thủ tục xét xử riêng với nhóm đối tượng này đòi hỏi phải tìm hiểu cả những yếu tố liên
  • 32. 26 quan đến nguyên nhân và hành vi phạm tội. Và cần được quan tâm hơn nữa trong việc sửa đổi chính sách pháp luật hình sự đối với người chưa thành niên. 1.4. Khái quát lịch sử Luật tố tụng hình sự Việt Nam quy định về thủ tục xét xử đối với bị cáo là người chưa thành niên từ năm 1945 đến trước khi ban hành bộ luật tố tụng hình sự 2003 Hơn sáu mươi năm qua, Pháp luật Việt Nam đã tạo cơ sở pháp lý cho việc xây dựng, củng cố chính quyền nhà nước; cho các cuộc kháng chiến cứu nước thắng lợi; bảo đảm và bảo vệ các quyền tự do, dân chủ của công dân; tổ chức đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội theo hướng ngày càng tiến bộ. Là yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng chính trị - pháp lý, trong quá trình hình thành và phát triển trong suốt hơn sáu mươi năm của mình, pháp luật Việt Nam đã trải qua những bước thăng trầm, xu hướng phát triển của Pháp luật Việt Nam trong khoảng thời gian 20 năm đầu của thế kỷ XXI. Sau cách mạng tháng tám năm 1945, Hiến pháp năm 1946 ra đời đã có những quan tâm lớn về quyền trẻ em. Tuy nhiên, các thủ tục tố tụng dành cho bị can, bị cáo là người chưa thành niên chưa được quy định trong các văn bản pháp luật thời kỳ này, mà được áp dụng giống như các thủ tục tố tụng dành cho bị can là người đã thành niên. Đến năm 1959 mặc dù chưa có những quy định riêng về thủ tục tố tụng đối với bị can, bị cáo là người chưa thành niên nhưng những quy định trong bản Hiến pháp 1959 về cơ bản đã đảm bảo cho bị can, bị cáo là người chưa thành niên được xét xử một cách công bằng, khách quan theo quy định của pháp luật. Đây chính là cơ sở cho sư hình thành và phát triển các chế định về thủ tục đặc biệt dành cho các bị can, bị cáo là người chưa thành niên. Năm 1974, đã có nhiều văn bản hướng dẫn quan tâm đến các vụ án có bị can, bị cáo là người chưa thành niên. Thông tư số 16 của Tòa án nhân dân tối cao ngày 27/9/1074 có hướng dẫn: “Nếu bị cáo là người chưa thành niên, Tòa án có thể yêu cầu cha mẹ, người giám hộ hoặc giáo viên giúp đỡ đặt câu
  • 33. 27 hỏi cho bị cáo nhưng cũng có thể yêu cầu những người này tạm rời phòng xử án nếu sự có mặt của họ làm cho bị cáo không dám khai...” [46]. Tới năm 1985, Bộ luật hình sự đầu tiên của Nước CHXHCN Việt Nam ra đời. Từ đây, những vấn đề về người chưa thành niên phạm tội được quy định cụ thể trong chương VII gồm 11 điều. Những quy định này thể hiện đường lối xử lý người chưa thành niên phạm tội của Đảng và Nhà nước ta chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa những sai lầm để trở thành những công dân có ích cho xã hội. Không áp dụng hình phạt tù chung thân, tử hình với bị can, bị cáo là người chưa thành niên. Ngày 13/11/1986, Hội đồng Bộ trưởng đã ra Nghị quyết số 141-HĐBT ban hành quy chế buộc phải chịu thử thách đối với bị can, bị cáo là người chưa thành niên phạm tội (từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi) phạm tội ít nghiêm trọng. Nội dung của quy chế cũng quy định rõ trách nhiệm của gia đình, xã hội trong việc giám sát, giáo dục, giúp đỡ người chưa thành niên khi họ buộc phải áp dụng biện pháp này. Bộ luật TTHS đầu tiên của nhà nước ta ra đời ngày 28/6/1988 [32] và có hiệu lực từ ngày 01/01/1989. Trong chương XXXI của Bộ luật đã quy định rõ về “Thủ tục về những vụ án mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên”. Đây là một điểm mới trong pháp luật hình sự của nước ta, thể hiện tinh thần nhân đạo và đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên. Kế thừa và phát triển những quy định của BLTTHS năm 1988 và đồng thời nhằm đáp ứng những yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm. Ngày 26/01/2003, Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Bộ luật TTHS năm 2003, trong đó thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên được quy định tại chương XXXII trong phần thủ tục đặc biệt. Xét từ góc độ quy định pháp luật, Bộ luật TTHS năm 2003 đã dành một chương riêng (chương XXXII) quy định về thủ tục đối với NCTN.
  • 34. 28 Thực tiễn áp dụng pháp luật cho thấy những quy định của Bộ luật TTHS 2003 đối với NCTN phạm tội tuy đã tương đối hoàn chỉnh, nhưng không khó để nhận thấy tính chưa chặt chẽ, chưa đầy đủ, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn của các quy định này. Pháp luật Việt Nam cũng đã có rất nhiều những quy định liên quan đến người chưa thành niên: - Đối với pháp luật hình sự: + Điều 12 Bộ luật Hình sự (sau đây viết tắt là BLHS) quy định: Tuổi chịu trách nhiệm hình sự 1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm. 2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng [36]. Như vậy, người từ đủ 14 tuổi, nhưng chưa đủ 16 tuổi thì không phải chịu trách nhiệm hình sự (sau đây viết tắt là TNHS) về những tội phạm ít nghiêm trọng, nghiêm trọng do cố ý, cũng không phải chịu TNHS đối với các tội rất nghiêm trọng do cố ý. Người dưới 14 tuổi không phải chịu TNHS về mọi tội phạm. + Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) cũng dành hẳn một chương XXXII để quy định thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên và các ngành hữu quan Trung ương cũng đã ban hành Thông tư liên tịch số 01/2011TTLT- VKSTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXHngày 12/07/2011 của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội để hướng dẫn thi hành một số quy định của BLTTHS đối với người tham gia tố tụng là người chưa thành niên (sau đây gọi tắt là Thông tư liên tịch số 01/2011).
  • 35. 29 - Đối với pháp luật dân sự: Điều 2 Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn về quyền khởi kiện vụ án, quy định tại Điều 161 Bộ luật Tố tụng dân sự: ….2. Đối với cá nhân là người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi không mất năng lực hành vi dân sự, không bị hạn chế năng lực hành vi dân sự đã tham gia lao động theo hợp đồng lao động hoặc giao dịch dân sự bằng tài sản riêng của mình, thì có thể tự mình hoặc nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện vụ án về tranh chấp có liên quan đến hợp đồng lao động hoặc giao dịch dân sự đó… …3. Đối với cá nhân là người chưa thành niên (trừ trường hợp được hướng dẫn tại khoản 2 Điều này), người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, thì người đại diện hợp pháp của họ (đại diện theo pháp luật) có thể tự mình hoặc nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện vụ án…’’ …6. b) Đối với trường hợp được hướng dẫn tại khoản 3 Điều này, thì nguyên đơn là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Do những người này không có năng lực hành vi tố tụng dân sự, nên người đại diện hợp pháp của họ thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn tại Toà án. - Đối với pháp luật hành chính: Điều 105 Luật Tố tụng Hành chính quy định về đơn khởi kiện: …2. Người khởi kiện là cá nhân phải ký tên hoặc điểm chỉ; người khởi kiện là cơ quan, tổ chức thì người đại diện theo pháp luật của cơ quan, tổ chức đó phải ký tên và đóng dấu vào phần cuối
  • 36. 30 đơn; trường hợp khởi kiện để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự thì đơn khởi kiện do người đại diện theo pháp luật của những người này ký tên hoặc điểm chỉ… . Chú ý: Điều 18 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính quy định Viện Kiểm sát có quyền khởi tố vụ án hành chính, nhưng Luật Tố tụng hành chính hiện hành chỉ quy định trong trường hợp cần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự thì Viện Kiểm sát có quyền kiến nghị Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi cư trú của người đó có trách nhiệm cử người giám hộ hoặc đề nghị một tổ chức đảm nhận việc giám hộ cho họ khi khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án (khoản 3 Điều 23 Luật Tố tụng hành chính). Từ những quy định nêu trên của pháp luật, có thể đưa ra một số nhận xét sau: Một là, đối với những người dưới 18 tuổi đều được coi là người chưa thành niên khi họ tham gia tố tụng tại Tòa án. Hai là, những người chưa thành niên cũng được phân chia thành các độ tuổi khác nhau và từ sự phân chia này có thể xác định được tư cách tham gia tố tụng tại Tòa án, xác định được tội danh, xác định được có phải chịu TNHS hay không. Ba là, trừ người chưa thành niên từ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi đã tham gia lao động hoặc giao dịch dân sự bằng tài sản riêng của mình thì những người chưa thành niên khác khi tham gia tố tụng đều có người đại diện hợp pháp theo pháp luật hoặc người giám hộ. Như vậy, có thể đưa ra khái niệm về người chưa thành niên là người chưa đủ 18 tuổi. Họ có thể tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp theo pháp luật hoặc người giám hộ để tham gia tố tụng tại các cơ quan tiến
  • 37. 31 hành tố tụng. Người chưa thành niên tham gia tố tụng thường với tư cách: bị can, bị cáo, người bị hại, người có quyền, nghĩa vụ liên quan, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người làm chứng. Tùy theo tư cách tham gia tố tụng mà họ có các quyền, nghĩa vụ tương ứng theo quy định của pháp luật hình sự, dân sự hoặc hành chính. Trình tự, thủ tục giải quyết các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh doanh thương mại, hành chính có những điểm khác nhau nên khi tham gia tố tụng đối với các loại vụ án nào thì các cơ quan tiến hành tố tụng và người chưa thành niên hoặc người đại diện hợp pháp theo pháp luật hoặc người giám hộ của họ đều phải tuân thủ đúng các quy định của pháp luật về loại vụ án đó. Người chưa thành niên khác với trẻ em. Nếu người chưa thành niên là người chưa đủ 18 tuổi thì trẻ em là người chưa đủ 16 tuổi. Những bất cập này đã dẫn đến sự tùy tiện của cơ quan tiến hành tố tụng (THTT) và người THTT xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN. Với những vấn đề nêu trên, quy định của pháp luật TTHS đối với NCTN phạm tội đặt ra những vấn đề cần phải hoàn thiện theo hướng cần thiết phải có những quy định cụ thể, chặt chẽ, thống nhất hơn nữa trong Bộ luật TTHS về thủ tục tố tụng đối với bị cáo là NCTN. Về mặt thực tiễn, việc khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử đối với những vụ án mà bị can, bị cáo là NCTN trong những năm qua cho thấy khi áp dụng những quy định về thủ tục đặc biệt này còn bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập.
  • 38. 32 Chương 2 CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ HIỆN HÀNH VỀ THỦ TỤC XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN CÓ BỊ CÁO LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG 2.1. Các quy định của bộ luật tố tụng hình sự hiện hành về thủ tục xét xử các vụ án có bị cáo là người chưa thành niên Về thủ tục xét xử sơ thẩm Phạm vi áp dụng thủ tục xét xử sơ thẩm đối với bị cáo là NCTN bao gồm các quy định tại Chương XXXII BLTTHS (từ Điều 302 đến Điều 307) và tất cả những quy định khác của BLTTHS nếu không trái với những quy định của chương này. Việc quy định phạm vi áp dụng như vậy để bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của bị cáo là NCTN. Áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với bị cáo là NCTN. Pháp luật về tố tụng hình sự cũng có những quy định đặc biệt để áp dụng biện pháp ngăn chặn trong trường hợp bị cáo là NCTN nhất là đối với các biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam. Ngoài những yêu cầu chung quy định tại các Điều 80, 81, 82, 86, 88 và 120 của BLTTHS, theo quy định tại Điều 303 của BLTTHS và những quy định có liên quan thì việc áp dụng biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam đối với NCTN được thực hiện hết sức chặt chẽ. Biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam, chỉ có thể được áp dụng đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi trong trường hợp họ phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng; đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, bắt, tạm giữ, tạm giam chỉ có thể được áp dụng trong trường hợp họ phạm tội nghiêm trọng do cố ý, phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. So sánh với quy định của BLTTHS năm 1988 trước đây, Điều 303 của
  • 39. 33 BLTTHS 2003 đã quy định bổ sung khoản 3, trong đó quy định rõ trách nhiệm của cơ quan ra lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam mà BLTTHS cho phép để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN. NCTN phải được giam, giữ ở khu vực riêng; không được giam, giữ NCTN chung với người thành niên. Về việc giám sát bị cáo là NCTN Theo quy định tại Điều 304 BLTTHS thì nếu xét thấy việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với NCTN là không cần thiết, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án có thể ra quyết định giao bị cáo NCTN cho cha mẹ, người đỡ đầu của họ giám sát để bảo đảm sự có mặt của bị cáo khi có giấy triệu tập của cơ quan tiến hành tố tụng. Những người được giao nhiệm vụ giám sát có nghĩa vụ giám sát chặt chẽ NCTN, theo dõi tư cách, đạo đức và giáo dục người đó. Hiện nay, không có văn bản pháp luật nào hướng dẫn về việc cha mẹ, người đỡ đầu có quyền từ chối không thực hiện nghĩa vụ giám sát của mình khi được yêu cầu, mặt khác theo quy định của Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 1991, Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 thì cha mẹ, ông bà, các thành viên lớn tuổi khác trong gia đình và người đỡ đầu có trách nhiệm về việc chăm sóc, nuôi dạy NCTN, cho nên họ phải có nghĩa vụ giám sát, giáo dục, chăm sóc NCTN. Như vậy có nghĩa là trong mọi trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu thì việc giám sát bị cáo NCTN phải được cha mẹ, người đỡ đầu của họ thực hiện. Hay nói một cách khác, việc giám sát bị cáo NCTN vừa là quyền vừa là nghĩa vụ bắt buộc của cha mẹ, người đỡ đầu của họ. Quy định này khác hẳn quy định tại Điều 75 BLTTHS về biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh đối với bị cáo NCTN, thủ tục bảo lĩnh chỉ được đặt ra đối với bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng, có nơi cư trú rõ ràng và phải có cá nhân, tổ chức nhận bảo lĩnh. Việc cá nhân, tổ chức nhận bảo lĩnh là do họ hoàn toàn tự nguyện, các cơ quan tiến hành tố tụng không thể bắt buộc họ được.
  • 40. 34 Việc tham gia tố tụng của người bào chữa Trong những vụ án mà người bị xét xử mà bị cáo là NCTN thì việc tham gia tố tụng của người bào chữa là bắt buộc. Tuy nhiên, cần lưu ý là đối với những trường hợp khi phạm tội, người phạm tội là NCTN nhưng khi khởi tố, truy tố, xét xử họ đã đủ 18 tuổi thì không bắt buộc phải có sự tham gia của người bào chữa. Theo quy định tại khoản 1 Điều 56 của BLTTHS thì người bào chữa có thể là luật sư, người đại diện hợp pháp của người bị tạm giam hoặc bào chữa viên nhân dân. Trong trường hợp người bào chữa tham gia tố tụng theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng thì người bị tạm giữ, bị cáo và người đại diện hợp pháp của họ vẫn có quyền yêu cầu thay đổi hoặc từ chối người bào chữa theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 57 của BLTTHS. Về việc xác định những trường hợp cụ thể nào có thể tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa cho bị cáo là NCTN, chúng tôi thấy rằng: Thứ nhất, theo quy định tại khoản 2 Điều 19 Pháp lệnh Luật sư được Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua ngày 25/7/2001 và có hiệu lực kể từ ngày 01/10/2001 thì "Công ty luật hợp danh... không được thực hiện dịch vụ pháp lý trong lĩnh vực tố tụng" [61]. Như vậy, theo quy định này thì có thể hiểu các luật sư là thành viên của công ty luật hợp danh không được tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa nói chung và là người bào chữa cho NCTN phạm tội nói riêng. Ngày 29/6/2006, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 9 thông qua Luật luật sư (Luật này có hiệu lực từ ngày 01/01/2007) thay thế Pháp lệnh luật sư năm 2001. Theo tinh thần quy định của Luật này thì người có đủ tiêu chuẩn để trở thành luật sư, đã được cấp chứng chỉ hành nghề luật sư và đã gia nhập một đoàn luật sư đều có thể hành nghề luật sư trong các lĩnh vực mà luật sư hoặc tổ chức hành nghề luật sư nơi luật sư đó là thành viên đã đăng ký. Như vậy việc luật sư nào có thể tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa không phụ thuộc vào
  • 41. 35 việc họ hành nghề trong công ty luật hợp danh, văn phòng luật sư hay hành nghề với tư cách cá nhân. Chúng tôi cho rằng, việc sửa đổi này là hợp lý. Thứ hai, theo quy định tại khoản 3 Điều 139 của Bộ luật dân sự (BLDS) năm 2005 thì "quan hệ đại diện được xác lập theo pháp luật hoặc theo ủy quyền" [41]; điều này có thể hiểu là "người đại diện hợp pháp" là người đại diện theo pháp luật hoặc theo ủy quyền. Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 2 Điều 139 của BLDS này thì "... cá nhân không được để người khác đại diện cho mình nếu pháp luật quy định họ phải tự mình xác lập, thực hiện giao dịch đó" [41]. Như vậy, trong tố tụng hình sự không có người đại diện theo ủy quyền của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mà chỉ có người đại diện của những người này theo pháp luật. Việc xác định trường hợp nào là đại diện theo pháp luật của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là NCTN được thực hiện theo quy định tại khoản 1, 2 Điều 141 của BLDS; cụ thể họ có thể là cha, mẹ hoặc người giám hộ của NCTN. Thứ ba, về "bào chữa viên nhân dân", cho đến nay chưa có một văn bản nào chính thức quy định hoặc giải thích về những tiêu chuẩn của người được công nhận là "bào chữa viên nhân dân". Chúng tôi cho rằng, để bảo đảm cho việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị truy cứu trách nhiệm hình sự nói chung và NCTNPT nói riêng thì bào chữa viên nhân dân cũng phải đáp ứng được những tiêu chuẩn nhất định. Hiện nay, Tòa án nhân dân tối cao đang phối hợp với các cơ quan có liên quan soạn thảo thông tư liên tịch hướng dẫn về vấn đề này. Về những tiêu chuẩn để có thể được công nhận là bào chữa viên nhân dân, chúng tôi đề nghị cân nhắc và thể hiện trong dự thảo thông tư liên tịch một số tiêu chuẩn sau đây: - Là công dân Việt Nam từ đủ 18 tuổi trở lên; - Là thành viên của một tổ chức của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam - Trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
  • 42. 36 - Có phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết và trung thực; - Có kiến thức pháp lý; - Có sức khỏe để bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ; - Không thuộc một trong các trường hợp không được bào chữa quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 56 của BLTTHS. Việc tham gia tố tụng của đại diện gia đình, nhà trường, tổ chức. Việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với NCTN phạm tội đòi hỏi phải được tiến hành thận trọng nhằm hạn chế tối đa những ảnh hưởng tiêu cực đến tương lai của họ. Theo quy định tại khoản 1 Điều 306 của BLTTHS, thì trong trường hợp người phạm tội là NCTN, việc tham gia tố tụng của đại diện của gia đình người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; thầy giáo, cô giáo, đại diện nhà trường, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, tổ chức khác nơi người bị tạm giam, bị cáo học tập, lao động và sinh sống vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ theo quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng. Cho đến nay, mặc dù chưa có văn bản giải thích chính thức "đại diện gia đình" của NCTN phạm tội là ai; tuy nhiên, chúng tôi cho rằng khái niệm "đại diện gia đình" trong điều luật này được hiểu rộng hơn khái niệm "người đại diện hợp pháp của NCTN", không chỉ bao gồm cha, mẹ, người giám hộ của NCTN mà còn có thể là anh, chị, ông, bà, cô, dì, chú, bác hoặc những người thân thích khác của họ. Những vấn đề về người tiến hành tố tụng trong vụ án mà bị cáo là người chưa thành niên. Xuất phát từ những đặc điểm tâm sinh lý, trình độ, khả năng nhận thức của NCTN, BLTTHS của Việt Nam có những quy định đặc biệt để áp dụng riêng đối với những trường hợp mà người bị tạm giữ mà bị cáo là NCTN. BLTTHS đã dành toàn bộ Chương XXXII để quy định về thủ tục tố tụng đối với NCTN trên cơ sở kế thừa những quy định của BLTTHS được Quốc hội thông qua ngày 29/6/1988, đồng thời có một số bổ sung, sửa đổi để hoàn thiện
  • 43. 37 hơn các quy định về thủ tục tố tụng áp dụng trong trường hợp người phạm tội là NCTN. Theo đó, khoản 1 Điều 302 BLTTHS sự năm 2003 quy định "...Thẩm phán tiến hành tố tụng đối với NCTNPT phải là những người có hiểu biết cần thiết về tâm lý học và khoa học giáo dục cũng như về hoạt động đấu tranh phòng chống tội phạm của NCTN" [40]. Đối với Hội thẩm nhân dân, khi tham gia xét xử những vụ án mà bị cáo là NCTN, luật không quy định phải có những điều kiện nêu trên, nhưng trong Hội đồng xét xử phải có một Hội thẩm nhân dân là giáo viên hoặc cán bộ Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh. Những tiêu chí này là những điều kiện cần thiết để Thẩm phán, Hội thẩm có thể hiểu và có những phương pháp phù hợp khi tiến hành hoạt động xét xử, bảo đảm nguyên tắc quy định tại khoản 1 Điều 69 BLHS là: "việc xử lý NCTN phạm tội chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội" [36]. Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam chưa có văn bản pháp luật nào quy định về đội ngũ những người tiến hành tố tụng chuyên trách trong những vụ án mà bị cáo là NCTN, điều đó cho thấy, hiện nay những người tiến hành tố tụng đang phải kiêm nhiệm giải quyết cả các vụ án do người thành niên thực hiện nên việc bồi dưỡng kiến thức chuyên môn về lĩnh vực tâm lý học, khoa học giáo dục đối với NCTN cho những người tiến hành tố tụng là cần thiết. Khoản 1 Điều 302 BLTTHS quy định về yêu cầu đối với người tiến hành tố tụng phải có những hiểu biết cần thiết về tâm lý học, khoa học giáo dục cũng như về hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm của NCTN, nhưng thực tế đang có nhiều bất cập về số lượng, về kiến thức của những người tiến hành tố tụng với những diễn biến phức tạp của tội phạm là NCTN; vì vậy, cần mở các lớp đào tạo đối với những người được giao nhiệm vụ tiến hành tố tụng trong các vụ án NCTN, trang bị cho họ những kiến thức cần thiết về tầm quan trọng của việc bảo vệ, giáo dục, chăm sóc trẻ em, những kiến
  • 44. 38 thức pháp luật quy định đối với những NCTNPT, đào tạo cho họ kỹ năng xét hỏi những NCTN khi họ phạm tội. Cần có chính sách cụ thể đối với những người tiến hành xét xử những NCTNPT. Cần nghiên cứu cải cách tư pháp thành lập Toà án chuyên xét xử các bị cáo CTN. Trước mắt, khi chưa có điều kiện thành lập bộ phận này thì cần phải cử những người tiến hành tố tụng có nhiều kiến thức và kinh nghiệm giải quyết loại án liên quan đến NCTNPT. Song song với đó cần phải có sự tham gia của các chuyên gia tư vấn để giúp đỡ về mặt pháp lý cho NCTNPT, nhất là trong điều kiện hiện nay khi Luật về trợ giúp pháp lý đã được Quốc hội thông qua. Yêu cầu đặt ra khi tiến hành xét xử (khoản 2 Điều 302) là cần phải xác định rõ: Tuổi, trình độ phát triển về thể chất và tinh thần, mức độ nhận thức về hành vi phạm tội của NCTN; điều kiện sinh sống và giáo dục; nguyên nhân và điều kiện phạm tội. Đây là một yêu cầu rất không dễ thực hiện vì với thời hạn tố tụng không nhiều, điều kiện hiện có về cơ sở vật chất, các phương tiện làm việc và nhất là vấn đề con người của các cơ quan Tòa án thì khó có thể thực hiện được quy định này, đặc biệt là đối với NCTNPT là những trẻ lang thang, không có địa chỉ cư trú rõ ràng. Với các vấn đề đã phân tích trên khi xét xử NCTN phải tuân thủ chặt chẽ các nguyên tắc xử lý đối với NCTNPT, đó là: 1. Việc xử lý NCTNPT chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội. Trong mọi trường hợp điều tra, truy tố, xét xử hành vi phạm tội NCTN, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải xác định khả năng nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm. NCTN phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự, nếu người đó phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng, gây hại không lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và được gia đình hoặc cơ quan,tổ chức nhận giám sát,