SlideShare a Scribd company logo
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
ĐẶNG NGỌC THANH
MéT Sè VÊN §Ò C¥ B¶N
§Ó GI¶M Vµ TIÕN TíI XO¸ Bá H×NH PH¹T Tö H×NH
TRONG LUËT H×NH Sù VIÖT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2016
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
ĐẶNG NGỌC THANH
MéT Sè VÊN §Ò C¥ B¶N
§Ó GI¶M Vµ TIÕN TíI XO¸ Bá H×NH PH¹T Tö H×NH
TRONG LUËT H×NH Sù VIÖT NAM
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: GS.TSKH. LÊ VĂN CẢM
HÀ NỘI - 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn về đề tài “Một số vấn đề cơ bản
để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình trong Luật hình sự Việt
Nam” là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong
Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính
chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn
học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định
của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Tôi viết Lời cam đoan này, đề nghị Khoa Luật xem xét, tạo
điều kiện để tôi được bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Người cam đoan
Đặng Ngọc Thanh
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục từ viết tắt
Danh mục bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÌNH PHẠT TỬ
HÌNH TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM...............................14
1.1. Các nghiên cứu hiện nay về hình phạt tử hình ..............................14
1.2. Hình phạt tử hình và cơ sở nhằm giảm và tiến tới xoá bỏ hình
phạt này trong luật hình sự Việt Nam ............................................23
1.2.1. Khái niệm về hình phạt tử hình...........................................................23
1.2.2. Các đặc điểm của hình phạt tử hình....................................................24
1.2.3. Bản chất của hình phạt tử hình............................................................32
1.3. Đối tượng và phạm vi của việc hạn chế và tiến tới xóa bỏ hình
phạt tử hình........................................................................................36
1.3.1. Đối tượng hạn chế (không) áp dụng hình phạt tử hình.......................36
1.3.2. Phạm vi hạn chế (không) áp dụng hình phạt tử hình đối với một
số tội danh trong Bộ luật hình sự ........................................................45
Chương 2: THỰC TRẠNG NHỮNG QUY PHẠM CỦA PHÁP
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ HÌNH PHẠT TỬ HÌNH VÀ
THỰC TIỄN ÁP DỤNG TỪ SAU CÁCH MẠNG THÁNG 8
NĂM 1945 ĐẾN NAY.......................................................................51
2.1. Lịch sử hình thành các quy định về hình phạt tử hình trong
luật hình sự Việt Nam.......................................................................51
2.1.1. Các quy định của luật hình sự Việt Nam giai đoạn 1945 - 1985 về
hình phạt tử hình .................................................................................51
2.1.2. Các quy định của luật hình sự Việt Nam giai đoạn 1985 – 1999 về
hình phạt tử hình .................................................................................58
2.1.3. Các quy định của luật hình sự Việt Nam giai đoạn 1999- đến nay
về hình phạt tử hình.............................................................................62
2.2. Thực trạng áp dụng hình phạt tử hình ở Việt Nam trong
những năm gần đây ...........................................................................65
2.3. Đánh giá các quy phạm về hình phạt tử hình trong luật hình sự
Việt Nam - những tồn tại, hạn chế của các quy định này trong
luật hiện hành .....................................................................................83
2.3.1. Đánh giá chung quy định của pháp luật hình sự về hình phạt tử hình.....83
2.3.2. Những tồn tại, bất cập về thực trạng quy định và áp dụng hình
phạt tử hình ở Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế.................84
Chương 3: CÁC LUẬN CỨ NHẰM GIẢM VÀ TIẾN TỚI XOÁ BỎ
HÌNH PHẠT TỬ HÌNH TRONG VIỆC HOÀN THIỆN
CHÍNH SÁCH PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ...................90
3.1. Một số định hướng cho việc hoàn thiện pháp luật để giảm và
tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình trong luật hình sự Việt Nam .......90
3.2. Một số giải pháp cụ thể nhằm giảm và tiến tới xoá bỏ hình
phạt tử hình trong luật hình sự Việt Nam ......................................91
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật hình sự...............................................91
3.2.2. Một số giải pháp pháp luật về mặt kinh tế, xã hội ..............................99
3.2.3. Một số giải pháp về giáo dục ............................................................100
KẾT LUẬN..................................................................................................101
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................105
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLHS: Bộ luật hình sự
NXB: Nhà xuất bản
TAND: Tòa án nhân dân
VKSND: Viện kiểm sát nhân dân
XHCN: Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC BẢNG
Số hiệu bảng Tên bảng Trang
Bảng 2.1: Số liệu người bị Tòa án cấp sơ thẩm kết án tử hình
từ năm 1992 đến năm 2003 69
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng hiện
nay của đất nước ta, đặc biệt khi chúng ta đang tiến hành công cuộc xây dựng
Nhà nước Pháp quyền (NNPQ) xã hội chủ nghĩa do Đại hội Đảng cộng sản
Việt Nam lần thứ IX, lần thứ X chỉ ra và tiếp tục khẳng định tại báo cáo chính
trị trình Đại hội Đảng lần thứ XI “Tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đảm bảo Nhà nước ta thực sự
là của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân” [37, tr. 246], với định hướng
rất rõ ràng đó là: Nâng cao nhận thức về xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN, tôn trọng và bảo vệ quyền con người. Còn tại Nghị quyết 49-NQ/TW
ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020 đã chỉ ra: “Công tác tư pháp còn nhiều hạn chế; Chính sách hình sự…
còn nhiều bất cập, chậm được sửa đổi bổ sung; Vẫn còn tình trạng oan, sai
trong điều tra, bắt, giam giữ, truy tố, xét xử…” [8] do đó nhiệm vụ cải cách
Tư pháp phải được tiến hành khẩn trương, đồng bộ, phù hợp với hoàn cảnh
nước ta và yêu cầu hội nhập quốc tế, đáp ứng được xu thế phát triển của xã
hội trong tương lai. Trong đó Nghị quyết đưa ra phương hướng cụ thể đó là:
Phải hoàn thiện chính sách pháp luật hình sự…, tôn trọng
và bảo vệ quyền con người; Coi trọng việc hoàn thiện chính sách
hình sự…, đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện
trong việc xử lý người phạm tội; Hạn chế áp dụng hình phạt tử
hình theo hướng chỉ áp dụng đối với một số ít loại tội phạm đặc
biệt nghiêm trọng [74, tr. 2].
Do đó việc nghiên cứu một số vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ
hình phạt tử hình trong Luật hình sự Việt Nam để từ đó đưa ra những quan điểm
phân tích mang tính khoa học, có chiều sâu và xác đáng góp phần Hoàn thiện
2
chính sách, PLHS Việt Nam là rất cần thiết và có ý nghĩa hết sức quan trọng cả
về mặt chính trị xã hội, mặt lập pháp, mặt lý luận và về mặt thực tiễn. Bởi vì:
Ngay tại Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
2013, được quốc hội thông qua ngày 28/11/2013, có hiệu lực thi hành từ ngày
01/01/2014 cũng đã quy định rất rõ tại Điều 19 đó là: “Mọi người có quyền
sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bi ̣tướ c đoạt tính
mạng trái luật” [65, Điều 19] . Đây chính là nguyên tắc hiến định rất quan
trọng về quyền con người, Chính vì vậy việc sửa đổi pháp luật nói chung, chính
sách pháp luật hình sự nói riêng là rất cần thiết để phù hợp với nguyên tắc này.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu đề tài: “Một số vấn đề cơ bản để giảm và
tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình trong Luật hình sự Việt Nam” có ý nghĩa hết
sức quan trọng trong việc đưa ra những phân tích mang tính khoa học có chiều
sâu và xác đáng được thể hiện trên một số bình diện cụ thể như sau:
1.1. Về góc độ chính trị- xã hội
Khi nói đến một NNPQ đích thực nào thì các quy định của pháp luật
hình sự cũng đều phải nhằm bảo vệ một cách hữu hiệu các quyền và tự do của
con người và của công dân, trong đó có quyền cao cả nhất là quyền được sống
an toàn trong hoà bình. Đây là một ý nghĩa và giá trị xã hội cao quý nhất được
thừa nhận chung của nền văn minh nhân loại; mặt khác các quy định của pháp
luật hình sự trong một Nhà nước như thế nào (có hay không có hình phạt tử
hình trong pháp luật hình sự quốc gia và nếu có thì việc quy định như thế nào,
áp dụng có phù hợp không, việc thực hiện ra sao? Có vi phạm các điều cấm
của quốc tế hay không, có phù hợp với xu thế hội nhập trong tương lai khi
quốc gia đó tiếp tục hội nhập với các tổ chức của quốc tế…) đó là những tiêu
chí căn bản để từ đó cộng đồng quốc tế (Tổ chức Liên hợp quốc) đánh giá
"mức độ dân chủ và nhân đạo, pháp chế và nhân văn" của mỗi quốc gia đó
như thế nào [18, tr. 2].
3
1.2. Về góc độ lập pháp
Nhìn chung ở hầu hết các NNPQ có tính đích thực thì các chế định của
pháp luật trong lĩnh vực Tư pháp hình sự (TPHS) nói chung và PLHS nói
riêng chính là để bảo vệ các quyền và tự do của con người về mặt cốt lõi phải
phù hợp với những quy định và những nguyên tắc được thừa nhận chung của
pháp luật quốc tế (Công ước quốc tế) trong lĩnh vực Tư pháp hình sự. Xuất
phát từ lý do này, để đáp ứng tốt trong xu thế hội nhập quốc tế, năm 2009
Quốc hội đã tiến hành thảo luận Dự thảo luật sửa đổi bổ sung một số điều của
Bộ luật hình sự (BLHS) Việt Nam năm 1999 theo hướng nhân đạo hoá (xoá
bớt một số cấu thành tội phạm quy định mức hình phạt tử hình). Do đó ngày
19/6/2009 Quốc hội chính thức thông qua Luật số 37/QH12 "Về sửa đổi bổ
sung một số điều của Bộ luật hình sự năm 1999" đã giảm bớt cấu thành tội
phạm (CTTP) từ 29 CTTP xuống còn 23 CTTP ở 22 điều luật có quy định
hình phạt tử hình. Vì vậy, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay nền kinh tế nước
ta đã có sự phát triển đáng kể, xu thế hội nhập ngày càng tích cực, sâu rộng và
có trách nhiệm trước cộng đồng quốc tế của nước ta thì việc cải cách thể chế
pháp luật, trong đó có PLHS cho phù hợp là rất cần thiết.
1.3. Về góc độ khoa học- thực tiễn
Hiện tại có hai nhóm quan điểm trái ngược nhau, chủ yếu xoay quanh
một số vấn đề là: có nên tiếp tục quy định hình phạt tử hình trong hệ thống
hình phạt của PLHS quốc gia hay không? Và nếu có thì cần hạn chế ở mức độ
nào? Hay là phải xoá bỏ ngay hình phạt đặc biệt nghiêm khắc, thiếu tính nhân
đạo nhất này ra khỏi hệ thống hình phạt của PLHS quốc gia. Hoặc nếu là tiến
tới xoá bỏ hình phạt tử hình thì tiến tới đến khi nào?. Do đó những đòi hỏi đặt
ra cho các nhà khoa học-luật gia, các cán bộ đã và đang làm việc trong lĩnh
vực TPHS của đất nước một nhiệm vụ quan trọng đó là cần phải nghiên cứu
để đưa ra những luận chứng, những nội dung phân tích có tính tích cực, khách
4
quan, khoa học để đóng góp ý kiến xác đáng với nhà làm luật nhằm khắc phục
và loại bỏ những bất cập-hạn chế nhất định trong thực tế áp dụng đó là:
Nếu xét dưới góc độ thực tiễn về mục đích của hình phạt (nói chung)
thì hình phạt sẽ có 4 mục đích đó là: 1) phục hồi lại công lý- sự công bằng xã
hội, 2) ngăn ngừa riêng, 3) ngăn ngừa chung, 4) hỗ trợ cho cuộc đấu tranh
phòng và chống tội phạm. Vì vậy khi áp dụng hình phạt tử hình được coi là
hình phạt đặc biệt nghiêm khắc nhất so với tất cả các loại hình phạt khác
trong hệ thống hình phạt PLHS Việt Nam thì đương nhiên loại bỏ 1 trong 4
mục đích đầy ý nghĩa của hình phạt (nói chung) - mục đích "ngăn ngừa
riêng". Bởi vì, khi đã áp dụng hình phạt tử hình đối với một người bị kết án
thì sinh mạng của người đó đã bị tước bỏ vĩnh viễn cho nên người đó sẽ
không bao giờ còn có cơ hội để cải tạo- giáo dục, sửa chữa lỗi lầm trong nhà
tù được nữa. Do đó hình phạt tử hình (nói riêng) chỉ còn lại có 3 trong 4 mục
đích chính của hình phạt (nói chung) mà tôi vừa đề cập ở trên [87, tr. 190].
Mặt khác, trên thực tế các quan điểm quốc tế trong thời kỳ đương đại
hiện nay được thừa nhận cho thấy trong các NNPQ là các nước văn minh phát
triển cao trên thế giới thì việc áp dụng hình phạt trong pháp luật hình sự về
mặt cơ bản đều có mục đích hướng đến không nhằm gây nên những đau đớn
về thể xác và hạ thấp nhân phẩm con người.
Như vậy, cả về lý luận cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật được đề
cập trên, đều đặt ra yêu cầu cần thiết nghiên cứu đề tài “Một số vấn đề cơ bản
để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình trong Luật hình sự Việt Nam”.
Đó chính là lý do thôi thúc tác giả lựa chọn đề tài này để nghiên cứu làm luận
văn thạc sỹ của mình trong nhiều năm qua.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến công
tác cải cách tư pháp, trong đó đặc biệt quan tâm đến cải cách về thể chế pháp
5
luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng. Tuy nhiên việc nghiên cứu đề
tài: “Một số vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
trong Luật hình sự Việt Nam” là một chuyên đề còn mới cho nên chưa được
quan tâm đúng mức, những công trình khoa học nghiên cứu về chuyên đề này
của các nhà khoa học- pháp luật trong nước còn khá khiêm tốn (mang tính
chung chung). Cụ thể, cho đến thời điểm hiện nay chỉ có một số ít cuốn sách,
công trình khoa học, đề tài chuyên khảo, một vài luận văn tiến sỹ và một số
bài báo viết về lĩnh vực tử hình trong Luật hình sự đó là:
2.1. Các sách như
1) Bộ luật hình sự của nước Công hoà xã hội chủ nghĩa (CHXHCN)
Việt Nam năm 1999, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2) Phạm Văn Lợi, Nguyễn Văn Hiển, “Một số vấn đề về hình phạt tử
hình và thi hành hình phạt tử hình - thực trạng và giải pháp”, NXB Tư pháp
Hà Nội, 2005;
3) TS. Phạm Văn Lợi (chủ biên) sách chuyên khảo "Một số vấn đề về
hình phạt tử hình và thi hành hình phạt tử hình”, Nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia Hà Nội, 2006;
4) TS. Phạm Văn Lợi (chủ biên) "Chính sách hình sự trong thời kỳ đổi
mới ở Việt Nam”, NXB Tư pháp Hà Nội, 2007.
5) Hội luật gia (Sách tham khảo) "Hình phạt tử hình trong Luật quốc
tế", NXB Hồng Đức, 2008;
6) ThS. Vũ Thị Thuý, (Sách chuyên khảo) “Hình phạt tử hình trong Luật
hình sự Việt Nam”, NXB Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, 2010;
7) Nguyễn Đăng Dung - Phạm Hồng Thái - Vũ Công Giao - Lã Khánh
Tùng, (Sách tham khảo) “Những điều cần biết về hình phạt tử hình”, NXB
Lao động - Xã hội, 2010;
8) GS.TSKH. Đào Trí Úc - PGS.TS. Vũ Công Giao - PGS.TS. Trương
6
Thị Hồng Hà, (sách tham khảo) “Quyền sống và Hình Phạt tử hình”, NXB
chính trị quốc gia - sự thật, Hà Nội 2015.
2.2. Các luận án tiến sỹ, luận văn thạc sỹ
1) Phạm Văn Beo (2007) "Hình phạt tử hình trong Luật hình sự Việt
Nam" Viện Nhà nước và Pháp luật - Luận án Tiến sỹ Luật học;
2) Trần Hữu Nam (2003), “Hình phạt tử hình trong luật hình sự Việt
Nam”, Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội - Luận văn Thạc sĩ Luật học.;
3) Trần Thu Huyền (2006), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về hình
phạt tử hình trong Luật hình sự Việt Nam, khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội
- Luận văn Thạc sỹ Luật học.;
2.3. Các bài báo
1) Trần Quang Tiệp (2003), "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về thi
hành hình phạt tử hình", Nhà nước và pháp luật, (3);
2) Trương Quang Vinh (1998) "Dư luận xã hội một số nước về việc áp
dụng hình phạt tử hình", Tạp chí Luật học, (3);
4) Viện Nhà nước và Pháp luật (2004), Luật hình sự và tố tụng hình sự
các nước trên thế giới; Nguyễn Quốc Khánh (2004), “Một số vấn đề pháp lý,
nhân đạo về hình phạt tử hình và công tác thi hành hình phạt tử hình”, Tạp
chí Dân chủ pháp luật (7);
5) Vu Diệu Giang (2002), "Tác dụng trừng phạt và cải tạo của hình
phạt tử hình", Tạp chí Luật học (5);
6) GS.TSKH. Lê Văn Cảm*
, Nguyễn Thị Lan “Hình phạt tử hình trong
pháp luật hình sự Việt Nam: Giữ nguyên hay cần giảm và tiến tới loại bỏ?” (Bài
viết) được đăng trên tạp chí khoa học ĐHQGHN, Tập 30, số 3 (2014) 1-14;
7) " Sửa đổi Bộ luật Hình sự: Hạn chế tử hình?" bài đăng trên Báo Pháp
luật ngày 16/3/2015;
8) Trần Văn Độ (2005), "Thi hành hình phạt tử hình ở một số nước trên
7
thế giới và vấn đề hoàn thiện pháp luật về thi hành hình phạt tử hình ở Việt
Nam", Nhà nước pháp luật, (3), tr.66.
9) Đặc biệt trong 6 năm gần đây, từ 2009– 2015 đã có một số các bài
báo, bài nghiên cứu khoa học ở các cấp độ khác nhau về vấn đề hình phạt tử
hình và hạn chế áp dụng hình phạt tử hình được đăng trên các Tạp chí Tòa án
nhân dân thuộc Tòa án nhân dân tối cao; Tạp chí Viện kiểm sát nhân dân, Báo
bảo vệ pháp luật thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao đó là: 1) Đinh Xuân
Thảo (2009) “Một số góp ý về dự thảo luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Bộ luật hình sự”, Tạp chí kiểm sát (10), tr. 33; 2) TS. Đỗ Đức Hồng Hà
(2009), “Hoàn thiện hệ thống hình phạt trong Bộ luật hình sự Việt Nam, qua
tham khảo bộ luật hình sự Trung Hoa”, Tạp chí kiểm sát (21), tr 44 -47; 3)
ThS Đỗ Mạnh Quang (2013) “Cần nghiên cứu thu hẹp phạm vi các tội danh
có quy định hình phạt tử hình trong Bộ luật hình sự”, Tạp chí kiểm sát (4), tr.
28 – 32; 4) ThS Huỳnh Quốc Hùng (2013) “Cần quy định rõ trong Bộ luật
hình sự các chế định phạm tội nghiêm trọng trong trường hợp nghiêm trọng,
rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng”, Tạp chí kiểm sát (4), tr. 33; 5)
TS. Phạm Minh Tuyên “Một số vấn đề về xét xử tội phạm khủng bố và tài trợ
khủng bố theo điều 230a và điều 230b của Bộ luật hình sự và thực tiễn áp
dụng”, Tạp chí kiểm sát (4), tr. 52 – 59; 6) ThS. Đàm Cảnh Long (2014),
“Cần hoàn thiện các quy định pháp luật về thi hành án hình sự nhằm nâng
cao hiệu quả công tác thi hành án hình sự của Tòa án”, Tạp chí kiểm sát
(20), tr. 45, 46; 7) TS. Mai Đắc Biên (2015) “Tội phạm hóa và phi tội phạm
hóa trong pháp luật hình sự ở nước ta hiện nay”, Tạp chí kiểm sát (Xuân)
tháng 01. 2015, tr. 47, 63; 8) Bùi Văn Hưng (2015) “Vài nét về chế độ tử hình
ở Hàn Quốc và một số liên hệ với Luật hình sự Việt Nam”, Tạp chí kiểm sát
(6), tr. 54- 63; 9) Đắc Thái (2015) “Xây dựng Bộ luật hình sự (sửa đổi) góp
phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam
XHCN, bảo vệ tốt hơn quyền con người, quyền công dân”, Báo bảo vệ pháp
8
luật (70), thứ 3 ngày 01.9.2015, tr. 9, 10; 10) Hoàng Anh Tuyên (2015),
“Những nội dung cơ bản sửa đổi, bổ sung trong dự thảo Bộ luật hình sự sửa
đổi”, Báo bảo vệ pháp luật (70), thứ 3 ngày 01.9.2015, tr. 11, 14; 11) ThS.
Đào Tới Anh (2015) “Vài nét về hình phạt tử hình trong pháp luật của một số
nước trên thế giới và đề xuất hoàn thiện Bộ luật hình sự Việt Nam”, Tạp chí
kiểm sát (21), tr. 43, 47; 12) TS. Trần Công Phàn (2014) “Một số định hướng
sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự đáp ứng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam”, Tạp chí kiểm sát (16), tr. 2- 12; 13) Ban biên tập
Tạp chí Tòa án nhân dân (2010) “Làm chết tử tù có phạm tội?”, Tạp chí Tòa
án nhân dân (23), tr. 30 - 34; 14) GS. TS Nguyễn Ngọc Anh (2010) “Giảm
hình phạt tử hình trong Bộ luật hình sự thể chế hóa quan điểm nhân đạo của
Đảng và Nhà nước ta”, Tạp chí Tòa án nhân dân (12), tr. 15 - 19; 15) ThS.
Phạm Văn Báu (2012) “Hình phạt tử hình trong Luật hình sự Việt Nam”, Tạp
chí Tòa án nhân dân (12), tr. 28 – 37;… và một số bài viết khác có liên quan.
Tuy nhiên nhìn một cách tổng thể thì các công trình khoa học và những
chuyên đề, bài viết nêu trên chỉ nghiên cứu ở chừng mực nhất định, chung
chung về vấn để tử hình trong Luật hình sự mà chưa đưa ra được cơ sở lý luận
thực tiễn chuyên sâu, đặc biệt là chưa đưa ra được cơ sở lý luận và thực tiễn
để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình trong Luật hình sự Việt Nam. Để
từ đó đề xuất hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam cho phù hợp với xu thế
hội nhập Quốc tế ngày càng sâu rộng, phù hợp với tình hình phát triển của đất
nước, đáp ứng được công cuộc cải cách Tư pháp mà Nghị quyết số 08/NQ-
TW và Nghị quyết 49/NQ-TW của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách Tư
pháp đến năm 2020 đã chỉ ra.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của luận văn
3.1 Mục đích của luận văn
Luận văn tập trung nghiên cứu một số vấn đề cơ bản mang tính lý luận
để giảm và tiến tới xóa bỏ hình phạt tử hình trong Luật hình sự Việt Nam. Vì
9
vậy luận văn phải đưa ra những lập luận, phân tích một cách sâu rộng, xác
đáng, khoa học và có tính biện chứng góp phần nhỏ cho các nhà làm luật, các
đọc giả quan tâm đến việc góp ý sửa đổi hoàn thiện chính sách pháp luật hình
sự Việt Nam theo định hướng của Đảng và Nhà nước với tinh thần hướng
thiện, đảm bảo quyền con người trong đó có quyền được sống… hướng tới
mục đích để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình trong Luật hình sự Việt
Nam trong tương lai.
3.2 Nhiệm vụ của luận văn
1) Về mặt lý luận, luận văn phải đưa ra nhận thức đầy đủ về “Một số
vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình trong Luật hình
sự Việt Nam”. Lý luận phải làm rõ được phương pháp luận của việc tiếp cận
vấn đề; phải đi sâu phân tích để tác động vào nhận thức của cộng đồng về sự
cần thiết phải giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình trong Luật hình sự
Việt Nam; Phải phân tích các quy định trong BLHS năm 1999 được sửa đổi
bổ sung một số điều năm 2009 vẫn còn tồn tại một loạt nhược điểm cơ bản.
Từ đó, đưa ra sự nhận thức đúng đắn sát thực với chủ trương cải cách tư pháp
của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay và trong tương lai.
2) Về mặt thực tiễn, luận văn phải làm sáng tỏ những vấn đề mà qua
thực tiễn xét xử, thi hành hình phạt tử hình và thực tiễn áp dụng các quy định
của PLHS về hình phạt tử hình để làm minh chứng đáng tin cậy, từ đó đưa ra
một số vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình trong Luật
hình sự Việt Nam.
3) Về mặt lập pháp, trên cơ sở lý luận và thực tiễn luận văn đã chỉ ra một
số điểm còn tồn tại, bất cập về hình phạt tử hình để góp ý kiến, đề xuất với các
nhà làm luật có thể hoàn thiện các quy định của PLHS nước ta sao cho phù hợp
các quan hệ xã hội đang tồn tại trong giai đoạn đương đại và sẽ phát triển trong
tương lai, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay chúng ta đang xây dựng “Nhà nước
Pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân” [37, tr. 85].
10
Và cuối cùng, luận văn phải đưa ra đề xuất về hoàn thiện PLHS Việt
Nam phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế và sự phát triển của đất nước trong
tương lai để đến năm 2020 khi nước ta đã cơ bản trở thành nước Công nghiệp
hiện đại, trong đó quyền con người được đảm bảo.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn tập trung nghiên cứu “Một số vấn đề cơ bản để giảm và tiến
tới xoá bỏ hình phạt tử hình trong Luật hình sự Việt Nam”. Trên cơ sở
nghiên cứu này để đưa ra lý luận nhằm hoàn thiện chính sách PLHS về hình
phạt tử hình, mà cụ thể là các quy định của BLHS hiện hành trong thời gian
tới nếu được sửa đổi cho phù hợp với Hiến pháp 2013, cũng đồng thời phù
hợp với sự phát triển của đất nước cả về kinh tế, chính trị và xã hội theo
hướng hiện đại hoá hội nhập quốc tế, nâng cao vị thế trên trường quốc tế.
Phạm vi nghiên cứu chủ yếu đi sâu phân tích một cách khoa học nhằm
làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản để các nhà làm luật và các nhà khoa
học-pháp luật đi đến tính thống nhất cao trong quan điểm để trong thời gian tới
sẽ đặc biệt quan tâm đến vấn đề này và cụ thể hoá vấn đề này, nhằm đáp ứng
với xu thế hội nhập quốc tế và cũng đồng thời thể hiện tính khoan hồng, nhân
đạo của chính sách hình sự Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và phát triển.
Nhìn chung qua nghiên cứu cho thấy: hình phạt tử hình là một vấn đề
có tính đa dạng phức tạp và rộng lớn đã được nhiều nhà nghiên cứu khoa
học đánh giá dưới nhiều góc độ khác nhau. Bản thân tác giả hiện đang công
tác trong ngành Thi hành án dân sự, do vậy nhận thức về việc nghiên cứu
khoa học về “Một số vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt
tử hình trong Luật hình sự Việt Nam” còn có những hạn chế nhất định,
tác giả rất mong nhận được các ý kiến chỉ bảo, góp ý của các chuyên gia,
các thầy cô giáo và các bạn đồng nghiệp để đề tài này có thể được nghiên
cứu chuyên sâu hơn.
11
5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở vận dụng phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, lý
luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về Nhà nước và Pháp luật, về tội phạm học, xã
hội học; về quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về chiến lược cải cách Tư
pháp đến năm 2020. Phép duy vật biện chứng là phương pháp luận để nhận
thức bản chất của vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng để giảm và tiến tới xoá
bỏ hình phạt tử hình trong Luật hình sự Việt Nam. Quan điểm duy vật lịch sử
được coi là cơ sở phương pháp luận để nhận thức quy luật phát triển của xã
hội của thời đại mà chúng ta hướng tới để xây dựng (xã hội XHCN tiến tới
chủ nghĩa cộng sản). Nhờ đó, người nghiên cứu làm rõ những nét đặc thù và
giá trị kế thừa có chọn lọc phù hợp với từng điều kiện, hoàn cảnh, trong từng
thời kỳ để việc áp dụng các quy định của BLHS đối với một số cấu thành tội
phạm trước đây và hiện tại đang ở khung hình phạt tử hình thì nay theo định
hướng về hạn chế và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình trong tương lai khi đất
nước phát triển theo hướng Công nghiệp hóa hiện đại hóa.
Bên cạnh đó đề tài được nghiên cứu trên cơ sở kết hợp với một số
phương pháp nghiên cứu cụ thể khác như phương pháp thống kê, phân tích,
so sánh, tổng hợp. Nhờ sử dụng các phương pháp nói trên, luận văn có một số
đánh giá về những tồn tại hạn chế và những điểm còn bất cập chưa phù hợp
với thực tế áp dụng trong giai đoạn hiện nay và giai đoạn tiếp theo khi đất
nước phát triển theo hướng hiện đại, hội nhập quốc tế sâu rộng, để từ đó có
hướng đề xuất hoàn thiện PLHS Việt Nam hiệu quả nhất đáp ứng được cả
trong hiện tại và tương lai.
6. Những cái mới về mặt khoa học của luận văn
Thứ nhất, Luận văn đưa ra được luận chứng về sự cần thiết phải giảm
và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình trong Luật hình sự Việt Nam.
Thứ hai, Luận văn đưa ra những quan điểm mang tính định hướng đúng
12
phù hợp với lộ trình hội nhập quốc tế, Luật pháp quốc tế cả hiện tại và trong
tương lai mà Việt Nam chúng ta đã và đang tiến hành ký kết, tham gia một
cách đầy đủ và có trách nhiệm với cộng đồng quốc tế.
Thứ ba, Luận văn cũng đã đưa ra đề xuất cụ thể về thời điểm phù hợp
để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình đối với một số cấu thành tội
phạm không còn phù hợp trong giai đoạn hiện nay khi nền kinh tế đang trên
đà phát triển, nhận thức xã hội có nhiều đổi thay mang tính tích cực. Đồng
thời đưa ra một số kiến giải lập pháp nhằm hoàn thiện chính sách pháp luật
hình sự đảm bảo tính nhất quán về mặt chủ trương thể hiện tính nhân đạo,
nhân văn cao cả của Đảng và Nhà nước ta nhưng vẫn đảm bảo được hiệu quả
của việc quản lý xã hội.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Đề tài có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn trong nghiên cứu
chính sách pháp luật hình sự Việt Nam. Kết quả nghiên cứu của luận văn góp
phần phát triển lý luận về một số vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ
hình phạt tử hình trong Luật hình sự Việt Nam. Để từ đó đưa ra những luận
cứ khoa học làm cơ sở cho việc nghiên cứu có chọn lọc nhằm thể chế hoá
chính sách nhân đạo của Nhà nước trong quá trình hoàn thiện pháp luật hình
sự quy định về hình phạt tử hình.
Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu đề tài có thể phục vụ cho việc trang
bị kiến thức chuyên sâu về mặt lý luận để từng bước thay đổi nhận thức đối
với cán bộ pháp luật, các học giả, các nhà quản lý và hoạch định chính sách
pháp luật… để góp một phần nhỏ trong lĩnh vực hoàn thiện chính sách
pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng, tạo tiền đề thuận lợi cho
công cuộc xây dựng “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì
Nhân dân” [65, Điều 2].
13
8. Kết cấu của luận văn
Trong khuôn khổ hạn chế của luận văn với mục đích thực hiện những
nhiệm vụ trong phạm vi một số vấn đề cơ bản của việc nghiên cứu đề tài. Do
đó, bên cạnh Lời nói đầu, Kết luận, Phụ lục và Danh mục tài liệu tham khảo,
Luận văn còn có 3 chương. Cụ thể như sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về hình phạt tử hình.
Chương 2: Những quy phạm của Pháp luật hình sự Việt Nam quy định
về hình phạt tử hình từ sau cách mạng tháng 8 năm 1945 đến nay .
Chương 3: Các luận cứ nhằm hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam
theo hướng giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình.
14
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÌNH PHẠT TỬ HÌNH
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Các nghiên cứu hiện nay về hình phạt tử hình
Ở Việt Nam chúng ta do điều kiện hoàn cảnh đất nước bị đô hộ nhiều
năm của chế độ Thực dân phong kiến và Đế quốc Mỹ, chúng ta phải trải qua
hai cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc chống lại hai cường quốc mạnh vào
hạng nhất thế giới là Thực dân Pháp và Đế quốc Mỹ trong nhiều năm, cho nên
nền kinh tế cũng còn gặp nhiều khó khăn. Chính vì vậy, khoa học luật Hình
sự Việt Nam ra đời rất muộn so với các nước tiến bộ trên thế giới. Với những
điều kiện, bối cảnh đất nước như vậy thì việc nghiên cứu lý luận về hình phạt
nói chung và hình phạt tử hình nói riêng không có sự quan tâm phát triển. Vào
những năm trước đây (khoảng thập niên 90 của thế kỷ XX), chưa có một tài
liệu nào mang tính chất nghiên cứu về hình phạt tử hình ở nước ta giai đoạn
này, mà hình phạt tử hình chỉ có thể tìm thấy hoặc được đề cập rất ít, mang
tính chất tìm hiểu ở một vài giáo trình của các cơ sở đào tạo luật trong nước.
Trong những năm gần đây nền kinh tế của đất nước đã có sự đổi mới và
phát triển, các quan hệ pháp luật cũng từng bước được quan tâm của xã hội, do
đó một số các nhà nghiên cứu khoa học pháp luật hình sự trong nước đã bước
đầu có sự quan tâm đến vấn đề hình phạt tử hình trong hệ thống pháp luật hình
sự Việt Nam. Cụ thể như: Tác giả Võ Khánh Vinh và Nguyễn Mạnh Kháng, hai
tác giả cũng đã nghiên cứu về hình phạt tử hình và cho rằng, việc duy trì hình
phạt tử hình ở nước ta hiện nay là một yêu cầu khách quan trong cuộc đấu tranh
phòng chống tội phạm đang diễn ra phức tạp. Tuy nhiên hai tác giả cũng đã đề
cập đến việc không ngừng hoàn thiện nó cho phù hợp với tình hình thực tế. Hai
tác giả này cũng đã đưa ra hướng hoàn thiện hình phạt tử hình đó là: “đổi mới
15
hình thức thi hành án tử hình và hạn chế hình phạt tử hình trong Tư pháp hình
sự thông qua quá trình phi hình sự hoá” [96, tr. 119 - 124; 18, tr. 23].
Tác giả Trần Quang Tiệp trong bài “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
về thi hành hình phạt tử hình”, tác giả đã tập trung phân tích một loạt các
vướng mắc trong quá trình thi hành hình phạt tử hình. Theo ông, hình phạt tử
hình là một hình phạt nghiêm khắc nhất tước đi mạng sống của người bị kết án.
Bên cạnh đó ông còn sơ lược lịch sử các quy định của pháp luật hình sự Việt
Nam về thi hành hình phạt tử hình, đối chiếu với các quy định về thi hành hình
phạt tử hình của các nước trên thế giới, tác giả đã đưa ra một số vấn đề về thi
hành hình phạt tử hình ở nước ta cần hoàn thiện, như: “thời hạn xét đơn xin ân
giảm án tử hình của Chủ tịch nước, hình thức xử bắn gây tốn kém và gây ức
chế về mặt tâm lý cho những người tham gia đội bắn; việc cho phép thân nhân
tử tội nhận xác sau khi thi hành hình phạt tử hình”…v.v. [73, tr. 43]. Chính vì
vậy, sự điều chỉnh của pháp luật về thi hành hình phạt tử hình cần phải đảm
bảo tính chặt chẽ, thận trọng, chính xác tuyệt đối.
Tác giả Trần Văn Độ, khi bàn về vấn đề tử hình có quan điểm cho rằng
việc duy trì hình phạt tử hình hiện nay ở nước ta là cần thiết nhằm đấu tranh
phòng chống một số loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Tuy nhiên, theo tác
giả, phạm vi áp dụng hình phạt tử hình nên được thu hẹp lại và chỉ cần giữ
hình phạt này đối với các tội giết người, hiếp dâm trẻ em, cướp tài sản, một số
tội về ma tuý. Bên cạnh đó, tác giả còn đề nghị luật nên bổ sung một số nội
dung theo xu hướng nhân đạo và giảm bớt áp lực hơn về mặt tâm lý cho cả
phạm nhân và người thực thi nhiệm vụ như: “cho phép hoãn thi hành án tử
hình đối với các trường hợp có khả năng ân giảm, quy định thủ tục bảo đảm
thi hành án tử hình nhanh chóng để tránh tâm lý nặng lề, cần thay đổi hình
thức xử bắn và bổ sung hình thức tiêm thuốc độc đối với tử tội”…[38, tr. 66]
Khi nghiên cứu về hình phạt tử hình trong luật hình sự Việt Nam chúng
16
ta phải kể đến tác giả Phạm Văn Lợi và cộng sự đã nghiên cứu một cách khá
chi tiết về hình phạt này được thể hiện tại cuốn sách chuyên khảo: “Một số
vấn đề về hình phạt tử hình và thi hành hình phạt tử hình”. Tại đây, tác giả đã
phân tích chi tiết khái niệm, đặc điểm, mục đích và bản chất của hình phạt tử
hình, đồng thời tác giả cũng đã sơ lược về lịch sử các quy định của pháp luật
hình sự Việt Nam về hình phạt tử hình, phân tích những quy định của pháp
luật hình sự hiện hành về hình phạt tử hình và thi hành hình phạt tử hình. Trên
cơ sở của việc nghiên cứu thực tiễn áp dụng hình phạt tử hình và thi hành
hình phạt tử hình ở Việt Nam, nghiên cứu những xu hướng chung quy định
của pháp luật hình sự các nước trên thế giới. Tại phần nghiên cứu hình phạt tử
hình theo quy định của pháp luật hình sự một số nước trên thế giới tác giả
cũng đã đề cập đến quan điểm của các nước đó là có nên duy trì hình phạt tử
hình hay xóa bỏ hình phạt tử hình? Nhiều người theo quan điểm đòi phải hủy
bỏ hình phạt tử hình cho rằng:
Sự sống của con người là cái quý giá nhất mà tạo hóa đã ban
cho, con người không nên sử dụng pháp luật để tước đi cái đó. Ngoài
ra họ còn lập luận rằng, Tòa án có thể mắc sai lầm trong việc quyết
định hình phạt tử hình, mà khi đã thi hành xong hình phạt tử hình thì
không sửa chữa được nữa… Mặt khác, xu thế chung của toàn cầu có
thể nhận thấy là Cộng đồng quốc tế đã nhất trí hướng tới một thế giới
không có hình phạt tử hình… Trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình
sự của nhiều nước, việc hủy bỏ hình phạt tử hình trong hệ thống hình
phạt sẽ có xu hướng tăng lên [53, tr. 80- 81].
Tổng quát chung cho thấy các nghiên cứu trong nước về hình phạt tử
hình không nhiều và hầu hết đều tập trung khẳng định rằng hình phạt này là
còn cần thiết ở nước ta. Tuy nhiên theo xu thế tiến bộ và nhân đạo, các tác giả
đều cho rằng nên thu hẹp phạm vi hình phạt tử hình trong BLHS. Bên cạnh
17
đó, cần hoàn thiện pháp luật về thi hành hình phạt tử hình nhằm đảm bảo tính
nhân đạo và mục đích răn đe, giáo dục của hình phạt này. Nhưng về mặt thực
tế các tác giả chỉ mới đề cập đến vấn đề nhân đạo và một số bất cập trong quá
trình áp dụng và thi hành hình phạt tử hình mà chưa đi sâu phân tích dưới các
góc độ khác nhau để thấy rõ những điểm còn bất cập, tồn tại; đồng thời chưa
chỉ ra được những đổi thay của nền kinh tế, sự tiến bộ rõ rệt của xã hội trong
thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng của đất nước ta để từ đó đưa ra
các giải pháp trong việc hoàn thiện pháp luật hình sự theo hướng giảm và tiến
tới xóa bỏ hình phạt tử hình.
Trong những năm gần đây đã có một số nghiên cứu, bài viết đi sâu
phân tích theo xu hướng giảm và tiến tới xóa bỏ hình phạt tử hình đó là: tác
giả Vũ Thị Thúy, với nghiên cứu một cách khá chi tiết về hình phạt tử hình
trong luật hình sự Việt Nam được thể hiện tại cuốn sách chuyên khảo: “Một
số vấn đề về hình phạt tử hình và thi hành hình phạt tử hình” do nhà xuất bản
Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh phát hành năm 2010. Tại đây, tác
giả cũng đã phân tích chi tiết những quy định của pháp luật hình sự hiện hành
về hình phạt tử hình và thi hành hình phạt tử hình. Trên cơ sở của việc nghiên
cứu thực tiễn áp dụng hình phạt tử hình và thi hành hình phạt tử hình ở Việt
Nam, nghiên cứu chi tiết hai xu hướng trên thế giới bàn về duy trì hình phạt
tử hình hay xóa bỏ hình phạt tử hình. Sau khi phân tích đề cập một loạt các
vấn đề tác giả cũng đưa ra quan điểm: “Theo xu hướng chung của thế giới,
dựa trên cơ sở điều kiện kinh tế- xã hội của đất nước và tình hình tội phạm,
chúng ta cần thu hẹp phạm vi áp dụng hình phạt tử hình trong Bộ Luật hình
sự Việt Nam” [72, tr. 193].
Còn GS.TSKH. Lê Văn Cảm*
, Nguyễn Thị Lan “Hình phạt tử hình
trong pháp luật hình sự Việt Nam: Giữ nguyên hay cần giảm và tiến tới loại
bỏ?”. Tại nội dung bài viết tác giả cũng đã đi sâu phân tích nhiều vấn đề,
18
nhiều khía cạnh trên nhiều bình diện khác nhau như: 1) về mặt nhận thức xã hội;
2) về mặt lập pháp; 3) về mặt thực tiễn; 4) về sự cần thiết bảo vệ quyền sống của
con người, bởi lẽ theo tác giả đây là quyền cao quý nhất trong hệ thống các
quyền trong lĩnh vực tư pháp hình sự; 5) về quan hệ đối ngoại, tác giả cho rằng:
“trong bối cảnh xu thế hội nhập quốc tế hiện nay, để có thể xây dựng thành công
NNPQ thì Việt Nam không thể đứng ngoài xu thế đó… Theo tính toán của tổ
chức ân xá quốc tế thì trong pháp luật hình sự của mình có 7 quốc gia (trong đó
có Việt Nam) thuộc nhóm có số tử tù hàng năm cao nhất” [18, tr. 3-11]. Từ đó
tác giả đưa ra quan điểm cần giảm và tiến tới loại bỏ hình phạt tử hình trong
Luật hình sự Việt Nam.
Đặc biệt trong thời gian gần đây, để cụ thể hóa Hiến pháp năm 2013 đi
vào cuộc sống, đẩy mạnh triển khai thực hiện chính sách pháp luật hình sự theo
tình thần Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Trong đó “đề cao hiệu quả phòng ngừa
và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội; Hạn chế áp dụng hình
phạt tử hình theo hướng chỉ áp dụng đối với một số ít loại tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng” [8, tr. 1-2]. Do đó, Đảng và Nhà nước ta chủ trương lấy ý kiến
rộng rãi của nhân dân và đặc biệt là đội ngũ trí thức góp ý vào dự thảo sửa đổi
Bộ luật hình sự cho phù hợp với tình hình thực tế và thực tiễn áp dụng. Việc
sửa đổi bổ sung lần này trong dự thảo Bộ luật hình sự có một số vấn đề có liên
quan đến hình phạt tử hình đã nhận được sự quan tâm của dư luận xã hội và
của các học giả, các nhà luật gia với nhiều quan điểm khác nhau xung quanh
việc có nên bỏ hẳn án tử hình hay không? Giảm bao nhiêu tội và những tội
nào?. Trong bài viết “Giảm hình phạt tử hình trong dự thảo Bộ luật hình sự sửa
đổi: từ góc nhìn của công chúng và chuyên gia” của TS. Trương Hồ Hải. Tại
bài viết này tác giả đã đề cập đến quyền sống theo các quy định của pháp luật
quốc tế, pháp luật Việt Nam; các quan điểm về việc giảm số lượng tội danh có
19
mức án tử hình tại các cuộc hội thảo nghiên cứu hoàn thiện Bộ luật hình sự sửa
đổi của các chuyên gia, để từ đó đưa ra quan điểm:
Hình phạt tử hình quy định trong luật hình sự liên quan đến quyền sống
của con người. Ở mỗi quốc gia, việc quy định hình phạt tử hình là khác nhau,
phụ thuộc vào điều kiện kinh tế- xã hội và chính trị ở mỗi nước. Hiện trên thế
giới đã có rất nhiều nước bỏ hình phạt tử hình trong luật hình sự; những nước
còn quy định thì hạn chế về số lượng và thi hành án tử hình cũng khác nhau.
Có nước thi hành với số lượng ít, có nước có tuyên án tử hình nhưng cho hoãn
không thi hành [87, tr. 110].
Khi nói đến quyền sống, thì theo các quy định của pháp luật quốc tế và
trong hệ thống pháp luật Việt Nam cũng quy định rất rõ ràng đó là: Tuyên
ngôn toàn thế giới về nhân quyền (UDHR) năm 1948 là tuyên ngôn đầu tiên
chính thức được khẳng định: Quyền sống là quyền tự nhiên, cơ bản của con
người. Còn tại khoản 1, điều 6 của Công ước quốc tế về các quyền dân sự
chính trị năm 1966 (ICCPR) đã cụ thể hóa những quy định của UDHR như:
“Mọi người đều có quyền cố hữu được sống. Quyền này Phải được pháp luật
bảo vệ. Không ai có thể bị tước mạng sống một cách tùy tiện” [40, tr. 255].
Theo đó việc áp dụng hình phạt tử hình không được trái với những quy định
của ICCPR và của Công ước về ngăn ngừa và trừng trị tội diệt chủng;…
không được viện dẫn Điều 6 để trì hoãn hoặc ngăn cản việc xóa bỏ hình phạt
tử hình. Ở Việt Nam, quyền sống được ghi nhận từ rất sớm, ngay trong tuyên
ngôn độc lập năm 1945 Hồ Chủ tịch đọc tại Quảng trường Ba đình lịch sử.
Mặc dù trong các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992 quyền sống không
được đề cập trực tiếp nhưng được quy định gián tiếp thông qua các quyền bất
khả xâm phạm về thân thể, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của
công dân. Đến Hiến pháp năm 2013, quyền này mới được nêu trực tiếp trong
Điều 19: “Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật
bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật” [65, Điều 19]. Như vậy,
20
với những quy định này chúng ta nhận thấy: ở Việt Nam chúng ta hiện vẫn là
một trong những nước trên thế giới duy trì hình phạt tử hình. Nhưng qua mỗi
giai đoạn sửa đổi, số lượng tội danh có mức án tử hình cũng tăng giảm khác
nhau, tuy nhiên lần sửa đổi gần nhất của Bộ luật hình sự 1999 vào năm 2009
hình phạt tử hình đã giảm xuống còn 22 tội danh; đến thời điểm hiện tại
(27/11/2015) Quốc hội đã thông qua dự án luật sửa đổi bổ sung Bộ luật hình
sự năm 2015 đã giảm bớt, hiện chỉ còn 18 Điều. Về nguyên tắc, mặc dù việc
áp dụng hình phạt tử hình đã tương thích với các tiêu chuẩn của luật pháp
quốc tế, nhưng phạm vi áp dụng hình phạt này còn nhiều hơn so với các nước
trên thế giới.
Trong khi đó tại một nghiên cứu khá chi tiết của PGS. TS. Trịnh Quốc
Toản về “Hình phạt tử hình trong luật hình sự Việt Nam”, tác giả đã đi sâu
phân tích khá chi tiết đồng thời đưa ra quan điểm:
Tử hình là hình phạt nghiêm khắc nhất trong hệ thống hình phạt của
Nhà nước, tước đi quyền quan trọng và thiêng nhất của con người, đó là
quyền sống. Xuất phát từ quan điểm hình phạt tử hình (cho dù thể thức thi
hành nó trong thực tế như thế nào cũng là một hình phạt dã man, phi luân lý,
vô ích, không có tác dụng răn đe người phạm tội). Việc duy trì hình phạt này
không có tác dụng làm giảm tội phạm, kể cả các tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng [87, tr. 148].
Trong thực tiễn nhiều năm áp dụng cho thấy, hình phạt nghiêm khắc
thái quá chưa thể hiện rõ nét có tác dụng tích cực trong đấu tranh phòng,
chống tội phạm. Bởi lẽ mục đích của hình phạt phải là giáo dục con người
lầm lỗi trở thành người có ích cho xã hội. Đặc biệt khi pháp luật đóng sập
cánh cửa cho việc hoàn lương đối với người phạm tội đều không có ý nghĩa
phòng ngừa tích cực… Chính vì lẽ đó mà không phải ngẫu nhiên mà Nghị
quyết số 49-NQ/TW đã khẳng định tính hướng thiện của hình phạt “hạn chế
21
áp dụng hình phạt tử hình” Đây có thể coi đó là một chỉ đạo định hướng có ý
nghĩa hết sức quan trọng trong đổi mới tư duy, đổi mới nhận thức về chính
sách hình sự trong chiến lược cải cách tư pháp ở nước ta đến năm 2020.
Bên cạnh đó có ý kiến cho rằng: quyền sống của kẻ phạm tội có thể
thay thế bằng biện pháp khác có thể tiêm thuốc làm mất khả năng phạm tội,
không nhất thiết phải tước đi quyền sống của kẻ phạm tội mà vẫn đạt được
mục tiêu ngăn ngừa tái phạm, răn đe tội phạm chung.
Việc đề xuất bỏ án tử hình [87] một số quan điểm còn dựa trên lập luận
cho rằng: mức độ nguy hiểm cho xã hội mà một số tội gây ra như: (tội sản
xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc
phong bệnh; chống mệnh lệnh và đầu hàng địch). Bởi trong thực tế nhiều năm
chúng ta chưa áp dụng hình phạt tử hình cho nhóm tội danh này. Quan điểm
này cũng được nhiều chuyên gia trong lĩnh vực pháp luật đồng tình. Còn các
nhóm về xâm phạm an ninh quốc gia các quan điểm cũng đồng tình nên xóa
bỏ với những lập luận đó là chế độ chính trị của nước ta tương đối ổn định.
Cùng với chính sách nhân đạo thì trong xu thế hội nhập quốc tế, chúng ta đã
có những biện pháp chống lại âm mưu diễn biến hòa bình, nói xấu chế độ nên
các hành vi phạm tội xâm phạm an ninh ít xảy ra hoặc tính chất, mức độ, hậu
quả thường chưa đến mức phải phạt tử hình. Tương tự một số tội thông
thường cũng như vậy (Ví dụ: tội cướp tài sản, buôn lậu…).
Còn quan điểm về việc giảm số lượng tội danh có mức án tử hình thì
TS. Trần Công Phàn-chuyên gia nghiên cứu chính sách pháp luật cũng đều
cho rằng hiện tại Bộ luật hình sự hiện hành của chúng ta vẫn còn 22/272 tội
có mức án tử hình, chiếm tỷ lệ 8% trong tổng số các tội danh có trong Bộ luật
hình sự như hiện nay là cao vì thế cần thu hẹp phạm vi áp dụng hình phạt tử
hình [57, tr. 10].
Cùng quan điểm trên, tại hội thảo nghiên cứu hoàn thiện BLHS do
22
chương trình phát triển của liên hợp quốc (UNDP) và Bộ Tư pháp tổ chức vào
tháng 11/2014, các chuyên gia đã đề xuất giảm 09 tội danh, bao gồm (Hiếp
dâm trẻ em; cướp tài sản; sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực thực
phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh; tàng trữ vận chuyển trái phép chất
ma túy; phá hủy công trình phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia; tham
ô tài sản; nhận hối lộ; chống mệnh lệnh và tội đầu hàng địch. Đặc biệt là tại
cuộc hội thảo lấy ý kiến sửa đổi Bộ luật hình sự do Ủy Ban Tư pháp của Quốc
hội tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh, các chuyên gia cũng đã tập trung vào
một số vấn đề như bỏ hình phạt tử hình ở một số tội, bỏ hẳn nhiều tội thực tế
chưa bao giờ áp dụng, thu hẹp hành vi trong một số tội danh. Theo ông Trần
Công Phàn- Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao cho biết: hiện
nay, có 22 tội danh có khung hình phạt cao nhất là tử hình. Qua tổng kết thi
hành Bộ luật hình sự cho thấy có một số tội danh rất ít khi tòa án xử phạt đến
tử hình, thậm trí có tội chưa bao giờ tòa áp dụng mức hình phạt cao nhất này.
Đặc biệt tại cuộc hội thảo này PGS.TS. Trịnh Quốc Toản - Quyền chủ nhiệm
khoa luật – Đại học Quốc gia Hà Nội đã đưa ra dẫn chứng một cách cụ thể có
tính thuyết phục về những tội danh có khung hình phạt tử hình nhưng chưa
bao giờ áp dụng trong thực tiễn đó là: các tội xâm phạm an ninh quốc gia (Tội
phản bội tổ quốc; Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân; Tội bạo
loạn; Tội hoạt động phỉ; Tội phá hoại cơ sở vật chất của Nhà nước cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam); Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, Tội
chiếm đoạt tàu bay, tàu thủy; Tội chống mệnh lệnh; Tội hủy hoại vũ khí quân
dụng, phương tiện, kỹ thuật quân sự; các tội phạm quốc tế. Do đó tác giả cho
rằng, đối với Việt Nam trong giai đoan hiện nay, việc duy trì hình phạt tử
hình là cần thiết, nhưng nên cân nhắc tiếp tục loại bỏ hình phạt này đối với
một số tội phạm khác, trong đó bao gồm cả những tội phạm mà trong thực
tiễn xét xử từ năm 1993 đến năm 2010 đã không bị áp dụng hình phạt tử hình
(đã xóa bỏ trong thực tiễn áp dụng) [87, tr. 122-123].
23
1.2. Hình phạt tử hình và cơ sở nhằm giảm và tiến tới xoá bỏ hình
phạt này trong luật hình sự Việt Nam
1.2.1. Khái niệm về hình phạt tử hình
Tử hình là hình phạt nghiêm khắc nhất trong hệ thống hình phạt của
luật hình sự do Nhà nước áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm
trọng (thường được gọi là tội tử) để loại trừ vĩnh viễn người đó ra khỏi đời
sống xã hội. Quan niệm về tội phạm như thế nào là đặc biệt nghiêm trọng và
có thể áp dụng hình phạt tử hình không giống nhau ở những thời đại khác
nhau cũng như ở những quốc gia khác nhau. Hình phạt tử hình là việc “tước
bỏ tính mạng của một người, còn theo nghĩa thì chữ “tử hình” là có nguồn
gốc từ “Hán Việt, có nghĩa là hình phạt chết” [40, tr. 12].
Các nước theo hệ thống luật Anglo - Saxon, hình phạt tử hình trong luật
hình sự được định nghĩa là một hình phạt tước đi mạng sống của người phạm
tội, được áp dụng đối với những người phạm tội nghiêm trọng (felony).
Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi năm 2009 của Việt Nam tại
Điều 35 có quy định: “Tử hình là hình phạt đặc biệt chỉ áp dụng đối với
người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng” [64, Điều 35]; Còn tại Bộ luật hình sự
2015 thông qua ngày 27/11/2015 tại khoản 1 Điều 40 có quy định:
Tử hình là hình phạt đặc biệt chỉ áp dụng đối với người phạm
tội đặc biệt nghiêm trọng thuộc một trong nhóm các tội xâm phạm
an ninh quốc gia, xâm phạm tính mạng con người, các tội phạm về
ma túy, tham nhũng và một số tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác
do Bộ luật này quy định [66, Điều 40].
Với tư cách là một loại hình phạt đặc biệt trong hệ thống hình phạt của
luật hình sự Việt Nam. Tính chất đặc biệt của nó sẽ được phân tích trong phần
các quy định của luật hình sự Việt Nam hiện hành về hình phạt tử hình ở
Chương 2 của luận văn này. Tuy nhiên, khi nghiên cứu đặc điểm, khái niệm
24
hình phạt tử hình trong BLHS Việt Nam hiện hành, chúng tôi thấy khái niệm
của một số cấu thành chưa phù hợp với đặc điểm kinh tế và tình hình hội nhập
trong giai đoạn hiện nay và trong tương lai. Đó là: theo quy định trên thì hình
phạt tử hình “chỉ áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng”.
Trong khi đó khoản 3 điều 8 BLHS năm 1999, sửa đổi năm 2009 (khoản 4
Điều 9 BLHS năm 2015) quy định: tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm
có mức cao nhất của khung hình phạt là “trên 15 năm tù, tù chung thân hoặc tử
hình” [64, Điều 8]; [66, Điều 9]. Như vậy, khái niệm này chưa phải thực chất
của tính đặc biệt nghiêm trọng, khái niệm còn quá rộng, dễ hiểu nhầm. Vì vậy,
theo quan điểm của tôi, đoạn này nên được sửa lại là hình phạt tử hình “chỉ áp
dụng đối với người phạm tội có tính chất đặc biệt nguy hiểm cao cho xã hội”.
Thứ hai, khái niệm hình phạt tử hình trong BLHS hiện hành cũng không biểu
hiện nội dung của hình phạt này. Nội dung của hình phạt tử hình là tước đi
mạng sống của người phạm tội. Nội dung này luôn được thể hiện trong các
khái niệm hình phạt tử hình dù là dưới góc độ văn hoá hay pháp luật.
Vì vậy, từ những phân tích các đặc điểm của hình phạt tử hình và
những nội dung phân tích trên chúng ta có thể đưa ra khái niệm về hình phạt
tử hình như sau: “Tử hình là hình phạt đặc biệt nghiêm khắc trong hệ thống
hình phạt của luật hình sự Việt Nam, tước đi quyền sống của người phạm tội
bị kết án và chỉ được áp dụng đối với những người phạm tội có tính chất nguy
hiểm đặc biệt cao cho xã hội, được quy định trong Bộ luật hình sự”.
1.2.2. Các đặc điểm của hình phạt tử hình
Hình phạt tử hình, với tư cách là một loại hình phạt đặc biệt trong hệ
thống hình phạt của luật hình sự, vì vậy hình phạt tử hình có đầy đủ các đặc
điểm chung của hình phạt và đồng thời cũng có cả những đặc điểm riêng biệt
mang tính tàn khốc của hình phạt này.
Đặc điểm chung
1) Hình phạt tử hình được quy định trong Bộ luật hình sự.
25
Luật hình sự với nhiệm vụ quan trọng đó là đấu tranh phòng ngừa và
phòng chống tội phạm mà công cụ để thực hiện nhiệm vụ này là hình phạt.
Do đó, hình phạt là một trong những chế định quan trọng nhất được quy định
trong BLHS. Hình phạt khi được áp dụng nghĩa là tước bỏ hoặc hạn chế
quyền và lợi ích của người phạm tội. Chính vì vậy để tránh tuỳ tiện trong áp
dụng hình phạt thì việc áp dụng hình phạt cũng như xác định tội phạm cần
phải được BLHS quy định, có giá trị pháp lý chỉ sau Hiến pháp quy định.
Điều 26 BLHS hiện hành nêu rõ: “Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm
khắc nhất …Hình phạt được quy định trong Bộ luật hình sự và do Toà án
quyết định.” [62]; [64, tr.18]. Quy định này chính là biểu hiện của sự tuân thủ
triệt để nguyên tắc pháp chế trong xây dựng và áp dụng luật hình sự, đồng
thời biểu hiện sự quán triệt của chính sách hình sự nước ta trong việc quy
định và áp dụng hình phạt. Tinh thần đó thể hiện ở chỗ ngoài những hình phạt
được quy định trong BLHS, không một biện pháp cưỡng chế nào được áp
dụng với tính cách là hình phạt.
Với đặc điểm là hình phạt nghiêm khắc nhất trong hệ thống hình phạt
nên trong BLHS, hình phạt tử hình được quy định ở cả phần chung và phần
các tội phạm. Ở phần chung, Điều 35 (Điều 40 BLHS năm 2015) quy định
hình phạt tử hình với tư cách là hình phạt chính với các nội dung: khái niệm
hình phạt tử hình, các trường hợp không được áp dụng hình phạt tử hình,
không được thi hành hình phạt tử hình và trường hợp người bị kết án tử hình
được ân giảm. Ở phần các tội phạm, hình phạt tử hình được quy định là chế
tài lựa chọn kèm theo các tội phạm cụ thể. Theo BLHS hiện hành, hình phạt
tử hình được quy định tại 22 điều luật và BLHS năm 2015 thông qua ngày
27/11/2015 quy định 18 điều luật.
2) Hình phạt tử hình do Toà án nhân danh Nhà nước quyết định
Điều 102 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Tòa án nhân dân là cơ quan
26
xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư
pháp…” [65, Điều 102]. Điều 26 BLHS hiện hành (Điều 30 BLHS năm 2015)
quy định: Hình phạt “do Toà án quyết định”, quy định này phù hợp với
nguyên tắc Hiến định. Mặt khác các quy định của luật tố tụng cũng đã thừa
nhận điều đó, bởi lẽ một số lĩnh vực khác (không phải hình sự), không bắt
buộc Toà án phải giải quyết (chẳng hạn lĩnh vực kinh tế, dân sự, hành chính),
những lĩnh vực này các đương sự có thể lựa chọn cách giải quyết khác, không
thông qua Toà án. Duy nhất, trong lĩnh vực hình sự, việc giải quyết vụ án
buộc phải thông qua các khâu tố tụng được quy định hết sức chặt chẽ và
nghiêm ngặt. Điều này xuất phát từ hậu quả pháp lý của việc giải quyết vụ án
hình sự có ảnh hưởng rất lớn đối với người phạm tội, biểu hiện cụ thể qua
việc quyết định hình phạt. Vì thế, Nhà nước đã giao cho các cơ quan trong Bộ
máy Nhà nước, đại diện mình, thực hiện các khâu trong quá trình tố tụng đảm
bảo chặt chẽ từ điều tra (Công an), truy tố (Viện kiểm sát). Đối với hoạt động
xét xử và quyết định hình phạt, Nhà nước giao cho Toà án. Trong đó, khâu
xét xử và quyết định hình phạt được xem là quan trọng nhất, bởi vì: tại Điều 9
BLTTHS 2003 quy định: “không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội
của Toà án đã có hiệu lực pháp luật” [61, Điều 9].
Do tính chất nghiêm trọng của hành vi phạm tội và hậu quả pháp lý của
hình phạt, Nhà nước đã trao cho Tòa án toàn quyền quyết định hình phạt một
cách độc lập mà không chịu sự chi phối của bất kỳ cơ quan nào mà chỉ tuân
theo pháp luật. Trong việc quyết đình hình phạt tử hình cũng không ngoại lệ.
Việc Chủ tịch nước xem xét đơn xin ân giảm của người bị kết án tử hình không
phải là hoạt động xét xử và việc chấp nhận hay bác đơn xin ân giảm cũng
không phải là hoạt động quyết định hình phạt. Quyết định hình phạt tử hình của
Tòa án là hoạt động trên cơ sở căn cứ vào hành vi phạm tội được thực hiện, đối
chiếu các quy định của BLHS, tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm, nhân
27
thân người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự
để tuyên phạt tử hình đối với người phạm tội sao cho đúng người, đúng tội.
Việc xét đơn xin ân giảm án tử hình của Chủ tịch nước là một thủ tục mang
tinh chất nhân đạo chứ không phải là việc xét lại bản án tử hình đã có hiệu lực
pháp luật. Vì thế, khi Chủ tịch nước chấp nhận đơn xin ân giảm án tử hình
không có nghĩa là hủy bản án tử hình do Tòa án quyết định mà chỉ chấp nhận
không thi hành án tử hình vì mục đích nhân đạo, thể hiện bản chất ưu việt của
Nhà nước việt Nam xã hội chủ nghĩa “của dân, do dân và vì dân”.
3) Hình phạt tử hình chỉ có thể được áp dụng đối với người phạm tội.
Hình phạt với tính chất là một biện pháp trách nhiệm, hậu quả pháp lý
của việc thực hiện hành vi phạm tội. “Chỉ người nào phạm một tội đã được
Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự” [64, Điều 2],
nghĩa là trách nhiệm hình sự chỉ phát sinh cho một cá nhân khi họ đã thực
hiện hành vi phạm tội. Đặc điểm này xuất phát từ nguyên tắc trách nhiệm
hình sự cá nhân. Như vậy, hình phạt tử hình cũng là một loại hình phạt cho
nên chỉ được áp dụng đối với người phạm tội.
Đặc điểm riêng
Bên cạnh những điểm đặc trưng của một hình phạt, hình phạt tử hình
còn chứa đựng những đặc điểm riêng vốn có của nó. Bởi lẽ, nó là một hình
phạt nghiêm khắc nhất trong hệ thống hình phạt, vì vậy chúng ta cần đi sâu
phân tích để tìm ra những tồn tại bất cập đó là:
1) Hình phạt tử hình có một đặc tính riêng biệt đó là hình phạt nghiêm
khắc nhất tước đi mạng sống của người phạm tội. Đặc điểm này chỉ phù hợp
đối với những người phạm tội có tính chất nguy hiểm đặc biệt cao cho xã hội,
với mục đích tước bỏ tuyệt đối khả năng tái phạm của người phạm tội này.
Bởi lẽ, một người đã cố ý phạm tội có tính chất nguy hiểm đặc biệt cao cho xã
hội thì thông thường họ sẽ không có tính người, không phân biệt được đúng
28
sai, ý nghĩa nhân đạo mà xã hội lên án (chẳng hạn giết người diệt khẩu, giết
nhiều người có tính chất giã man, côn đồ…). Do đó, hình phạt này đảm bảo
được việc thực hiện mục đích phòng ngừa riêng. Tức là kẻ phạm tội này buộc
phải đối diện với hình phạt tử hình, vì khi đã mất tính người thì kẻ phạm tội
này sẽ không thể giáo dục được nữa.
2) Do hình phạt có đặc điểm nghiêm khắc nhất trong hệ thống hình
phạt và chỉ được áp dụng đối với người phạm một tội có tính nguy hiểm đặc
biệt. So với các biện pháp trách nhiệm pháp lý khác dù rất nghiêm khắc
nhưng cũng chỉ có thể với nội dung là tước đi quyền tự do của người phạm
tội. Người bị áp dụng hình phạt tử hình sẽ bị tước đi tất cả mọi quyền và lợi
ích, kể cả quyền được sống. Do đây là loại hình phạt nghiêm khắc nhất nên
chỉ dành cho những tội phạm có tính đặc biệt nguy hiểm cao nhất trong số các
tội phạm được quy định.
Tuy nhiên, khi đối chiếu với các mục đích của hình phạt thì đương nhiên
sẽ mất đi một trong bốn mục đích của hình phạt nói chung (mục đích ngăn
ngừa riêng). Bởi lẽ khi áp dụng hình phạt tử hình thì sinh mạng của người bị
kết án đã bị tước bỏ vĩnh viễn nên người đó đương nhiên sẽ không còn cơ hội
để cải tạo - giáo dục trong nhà tù được nữa. Chính vì vậy, hình phạt tử hình chỉ
còn lại có 3 trong 4 mục đích của hình phạt nói chung [87, tr. 190]. Do đó, hình
phạt tử hình với ý nghĩa là hình phạt đặc biệt và nghiêm khắc nhất so với tất
cả các loại hình phạt khác trong hệ thống hình phạt của PLHS Việt Nam chỉ
phù hợp đối với những tội phạm có tính đặc biệt nguy hiểm như (giết người
diệt khẩu, giết nhiều người, giết người phi tang…). Bởi vì áp dụng tử hình đối
với kẻ phạm tội này chính là để răn đe người phạm tội không phạm phải.
Trong thực tế chúng ta thấy: có rất nhiều vụ án cũng có thể người phạm tội do
lỗi vô ý dẫn đến chết người, hoặc lỗi cố ý dẫn đến chết người… nhưng do sự
hiểu biết đơn thuần quy định của pháp luật về tử hình cho nên họ hay tìm cách
29
chốn chánh, bịt đầu mối để tránh cái chết do án tử hình khi phải đối mặt với
cơ quan pháp luật. Vì vậy khi đã giết một người do vô ý nhưng có người khác
nhìn thấy họ tiếp tục thực hiện hành vi giết tiếp để bịt đầu mối tránh sự khai
báo của người này trước cơ quan pháp luật; mặt khác kẻ phạm tội thường có
tâm lý nghĩ rằng đằng nào họ cũng phạm vào tội có khung hình phạt tử hình
thì dù giết một người hay nhiều người thì cũng vẫn là khung tử hình, do vậy
thà phạm tội tiếp để bịt đầu mối sẽ có cơ hội tránh sự phát hiện của cơ quan
bảo vệ pháp luật. Từ đó dẫn tới một số cái chết oan rất thương tâm của người
vô tình nhìn thấy hoặc chứng kiến vụ việc (Ví dụ gần đây nhất đó là vụ thảm
sát 6 người của gia đình anh Lê Văn Mỹ tại Bình Phước). Trong vụ việc này
nếu không có ý định giết người diệt khẩu thì không hà cớ gì kẻ phạm tội lại
giết nhiều người đến như vậy. Vụ việc đã được đấu tranh làm rõ đối với hai
nghi can, tuy nhiên về mặt khách quan nếu là mục đích cướp tài sản thì những
người bị hại đã bị khống chế hoàn toàn không thể chống cự; còn nếu mục đích
giết người vì tư thù cá nhân thì hai đứa cháu nhà ông Mỹ hoàn toàn không có
tư thù vì chúng chỉ là hai đứa cháu đến chơi nhà ông Mỹ.
Do vậy hình phạt tử hình chưa chắc đã là có giá trị răn đe cao nhất mà
trái lại nó còn gây tâm lý cho kẻ phạm tội để cố tình bưng bít cho hành vi sai
trái của mình đã xảy ra trước đó. Từ đó tội lỗi, lại trồng chất tội lỗi và những
người bị hại không phải là mục đích cho việc phạm tội ban đầu cũng phải bị
chết oan một cách không đáng có. Đây là một trong những điểm hạn chế tồn
tại mà đang cần phải bàn để làm sao hạn chế một số cấu thành có khung phạt
tử hình để hạn chế bớt những cái chết thương tâm như vừa phân tích trên.
Những cấu thành này có thể chuyển thành phạt tù chung thân nhưng không
được ân xá, miễn giảm (trừ trường hợp lập công lớn hoặc lập công chuộc tội).
Khi nói đến vấn đề thay thế hình phạt tử hình bằng hình phạt khác,
quan điểm của Beccaria cũng cho rằng hình phạt tử hình không ảnh hưởng
30
sâu sắc đến cảm giác của con người bằng các hình phạt khác như tù giam và
bắt buộc lao động khổ sai. Bởi lẽ, sự tác động của mỗi hình phạt nằm ở thời
gian tồn tại của nó chứ không phải ở cường độ của nó. Ông cho rằng: “xúc
cảm của con người không phải sự trừng trị nghiêm khắc nhưng diễn ra chóng
vánh mà nó chỉ bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi sự trừng trị mang tính lặp đi lặp
lại của hình phạt” [5, tr. 8].
3) Với tính chất là tước đi mạng sống của người phạm tội cho nên Hình
phạt tử hình không còn ý nghĩa giáo dục, cải tạo người phạm tội. Bởi vì, khi đã
thi hành hình phạt này thì người phạm tội sẽ không bao giờ còn có cơ hội ăn
năn, hối cải, sửa chữa lỗi lầm mà họ đã gây ra. Đây cũng là một trong những
điểm bất cập tồn tại gây khó khăn cho công tác phá án, bởi lẽ trong thực tiễn có
một số vụ án người phạm tội che dấu đồng phạm nếu chưa có đủ thời gian suy
nghĩ để ăn năn hối cải thì họ đã phải bị thi hành án tử hình, thì đương nhiên
những manh mối tội phạm sẽ đi vào dĩ vãng cùng cái chết của người bị kết án.
Chẳng hạn như vụ án Xiêng Phênh trong đường dây mua bán ma tuy năm 1996
trong thời gian hoãn thi hành án tử hình, Xiêng Phênh đã tỏ ra ăn năn hối cải,
tự nguyện khai báo để cơ quan Công an điều tra làm rõ người phạm tội quan
trọng là Vũ Xuân Trường để triệt phá tận gốc vụ án [74, tr. 30]
4) Hình phạt tử hình sẽ không mang lại lợi ích trực tiếp cho xã hội nó
khác biệt hoàn toàn các hình phạt khác như hình phạt tiền, cải tạo không giam
giữ, tù giam… có thể mang lại các lợi ích nhất định cho xã hội từ sự đóng góp
của người bị kết án trong quá trình chấp hành hình phạt, lao động cải tạo. Xét
ở góc độ kinh tế, đó là một nhược điểm lớn. Bởi lẽ, khi mất đi một cá nhân là
mất đi một phần đóng góp vào thu nhập quốc dân hàng năm của quốc gia; về
sức mạnh của đất nước cũng sẽ giảm đi bởi mất đi một cá nhân. Trong khi đó
để phát triển đất nước chúng ta đang rất cần nguồn nhân lực. Mặt khác tại
nghiên cứu về thi hành án hình sự của tác giả Đàm Cảnh Long đã nhận định:
31
“Thi hành hình phạt tử hình bằng hình thức tiêm thuốc độc đang gây tốn kém,
lãng phí về chi phí cho việc thi hành án tử hình” [55, tr. 45].
5) Đặc tính của hình phạt này là tước đi mạng sống vĩnh viễn của con
người mà không có thể thay đổi, đây là một đặc điểm quan trọng nhất biểu hiện
sự nhược điểm của hình phạt tử hình. Nó khác hẳn với các loại hình phạt khác,
một khi đã chứng minh được người bị áp dụng hình phạt bị oan sai hoặc bị áp
dụng hình phạt một cách tùy tiện thì hình phạt đó còn có thể sửa chữa được. Bởi
lẽ, tất cả các hệ thống TPHS đều tồn tại những vấn đề và khả năng sai sót, không
có hệ thống nào có thể tự cho là hoàn thiện, vì vậy nguy cơ người vô tội bị kết án
tử hình và bị tước bỏ tính mạng là sai lầm không thể lấy lại được. Theo một
nghiên cứu công bố năm 1987 trên tạp trí Stanford Law Review “ở Hoa kỳ cho
thấy rằng ở nước này trong giai đoạn 1900 đến 1985, có ít nhất 350 trường hợp
người vô tội bị cáo buộc phạm những tội có thể bị kết án tử hình. Trong số đó,
139 người đã bị tuyên án và 23 người bị hành quyết” [45, tr. 38].
6) Hình phạt tử hình chứa đựng tính cứng nhắc, duy nhất chỉ có một
mức độ không thể tăng lên hay giảm xuống trong những trường hợp tính nguy
hiểm cho xã hội của tội phạm khác nhau. Vì thế, khi kẻ phạm tội đã phạm
phải một tội có thể bị áp dụng hình phạt tử hình, họ chẳng ngần ngại gì khi
thực hiện tiếp theo hàng loạt các tội phạm khác cho đến khi bị sa lưới pháp
luật. Bởi vì, khi đó Tòa án cũng không thể áp dụng mức phạt nào khác cao
hơn so với khi kẻ đó chỉ phạm một tội ban đầu. Đây là một nhược điểm của
hình phạt tử hình, cần đặt ra cho các nhà làm luật bàn đến việc sửa đổi chính
sách pháp luật hình sự làm sao cho phù hợp, hạn chế việc áp dụng khung hình
phạt tử hình đồn thời có chính sách khoan hồng đối với kẻ phạm trọng tội
nhưng có thái độ ăn năn hối cải trước cơ quan pháp luật và không lẩn tránh
hoặc gây thêm tội lỗi tiếp theo.
Trong việc tranh luận về vấn đề có nên duy trì hình phạt tử hình trong
hệ thống hình phạt hay không, các nhà lý luận cũng như các chính trị gia
32
thường dựa vào các đặc điểm riêng của hình phạt tử hình để đưa ra quan điểm
của mình. Quan điểm ủng hộ hình phạt tử hình đưa ra những lý lẽ chứng minh
những đặc tính tích cực của hình phạt tử hình là có thật. Trong khi đó các
quan điểm hạn chế và tiến tới xóa bỏ hình phạt tử hình luôn đề cấp đến những
điểm còn tồn tại trong thực tế để đưa ra những luận cứ chứng minh một cách
khoa học đảm bảo cả góc độ lập pháp, kinh tế, nhân đạo và phù hợp với xu
thế chung của thời đại.
Về vấn đề này thì theo chúng tôi hiện nay đất nước ta đã có sự phát triển
nhất định, do đó chúng ta cần có chính sách pháp luật hình sự làm sao cho phù
hợp với chính sách nhân đạo khoan hồng để phục vụ tốt cho sự phát triển kinh
tế nhưng vẫn giữ vững được an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, phù hợp
với xu thế hội nhập mà Đảng và Nhà nước đã đề ra tại Nghị Quyết số 49-
NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị đó là “Hoàn thiện chính sách pháp
luật hình sự…, tôn trọng và bảo vệ quyền con người…, đề cao hiệu quả phòng
ngừa và tính hướng thiện… Hạn chế áp dụng hình phạt tử hình ...” [8, tr. 2].
1.2.3. Bản chất của hình phạt tử hình
Bản chất của hình phạt nói chung và hình phạt tử hình nói riêng đều
xuất phát từ các điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, hệ tư tưởng, đạo
đức lối sống của hình thái kinh tế - xã hội đó quyết định. Khi bàn về bản chất
của hình phạt, C.Mác viết: “Hình phạt không phải là một cái gì khác ngoài
phương tiện để bảo vệ mình của xã hội chống lại sự vi phạm của các điều
kiện tồn tại của nó” [72, tr. 19]. Như vậy, hình phạt thực chất là sự phản ứng
của Nhà nước đối với hành vi phạm tội nhằm bảo vệ lợi ích của giai cấp thống
trị, của xã hội. Nếu hành vi nguy hiểm cho lợi ích của giai cấp thống trị và
của xã hội càng cao thì thái độ phản ứng của Nhà nước càng mạnh mẽ. Mà
thái độ phản ứng của Nhà nước đối với người phạm tội được thể hiện chính là
thông qua hình phạt. Tuy nhiên sự phản ứng này nó cũng tùy thuộc vào từng
33
thời kỳ lịch sử, tùy vào sự phát triển và tiến bộ của xã hội cũng như khả năng
tự vệ của xã hội. Qua thực tiễn cho thấy, nếu khả năng tự vệ xã hội yếu thì
tính nghiêm khắc của hình phạt cao để trấn áp, răn đe người phạm tội; ngược
lại nếu khả năng tự vệ của xã hội cao thì tính nghiêm khắc của hình phạt
giảm, bởi lẽ khi đó Nhà nước có thể áp dụng các biện pháp tác động khác
nhằm hạn chế tình hình tội phạm, hoặc người phạm tội tự ý thức hơn khi thực
hiện hành vi phạm tội. Chẳng hạn trong thời kỳ đầu của xã hội loài người,
hình phạt tử hình được coi là sự báo thù của Nhà nước đối với hành vi phạm
tội, nên việc áp dụng nó mang tính chất tàn khốc, dã man được phổ biến trong
luật hình sự. Khi xã hội phát triển hơn, nhà nước xây dựng được cơ chế kiểm
soát hành vi con người có hiệu quả nên phạm vi áp dụng hình phạt tử hình sẽ
dần được thu hẹp. Theo quy luật phát triển thì đến một thời điểm nhất định,
nền kinh tế chi thức phát triển, ý thức tuân thủ pháp luật của người dân nâng
cao, nhà nước thiết lập được một trật tự xã hội ổn định, có cơ chế kiểm soát
hành vi của con người hiệu quả, khả năng tự vệ của con người cao… thì khi
đó có thể tiến tới xóa bỏ hình phạt tử hình. Nói tóm lại khi xã hội càng tiến bộ
thì các phương tiện tác động đến hành vi của con người càng đa dạng, phong
phú, do đó hình phạt không còn chiếm vị trí độc tôn. Chính vì vậy, để điều
chỉnh hành vi người phạm tội nó thường mang tính nhân bản và “hướng tới
mục tiêu cải hóa người phạm tội” [72, tr. 20].
Hình phạt xuất hiện là vì có sự tồn tại của tội phạm trong xã hội. Giữa
hình phạt và tội phạm có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, đó là mối quan hệ
nhân - quả. Tuy nhiên hình phạt nó còn có tính xã hội thông qua cơ sở, nền
tảng tồn tại của nó; trong khi đó Pháp luật xuất phát từ các quy luật phát triển
khách quan của xã hội, từ toàn bộ hệ thống các quan hệ trong từng hình thái
kinh tế - xã hội cụ thể. Tuy rằng các quy luật khách quan và các nhu cầu xã
hội không phải ảnh hưởng trực tiếp đến nội dung của pháp luật mà phải thông
34
qua ý thức của nhà làm luật, ý thức của nhà làm luật lại chịu ảnh hưởng của
các hình thái tư tưởng khác nhau, như kinh tế, triết học, đạo đức, tôn giáo, ý
thức chính trị, truyền thống pháp lý cho phù hợp với xu thế hội nhập quốc
tế… Tóm lại, giữa nhu cầu xã hội và sự phản ánh nhu cầu pháp luật có một
yếu tố trung gian là ý thức xã hội của thời đại. Ý thức xã hội xác định tính
chất, hình thức và mức độ phản ánh chính xác của pháp luật. Nó hoàn toàn
khác với quy luật tự nhiên, các quy luật pháp luật có thể phát huy được tính
tính cực, nhưng cũng có thể dẫn đến hậu quả tiêu cực; có thể phản ánh được
các nhu cầu của xã hội hoặc có thể không hoàn toàn phù hợp với nhu cầu đó.
Quá trình xây dựng và áp dụng pháp luật nói chung và hình phạt nói riêng
phải xem xét đến một số những vấn đề cơ bản nêu trên.
Tùy từng điều kiện hoàn cảnh lịch sử và thời điểm khác nhau, việc áp
dụng hình phạt nói chung và hình phạt tử hình nói riêng cần phải có sự thay đổi
cho phù hợp với thực tiễn nếu không nó sẽ mất đi giá trị, tính cần thiết và ý
nghĩa nhân văn cho sự phát triển xã hội cũng như mất đi ý nghĩa nhân đạo nhân
văn cao cả trong quá trình đấu tranh phòng chống tội phạm. Vì vậy, việc quy
định thay đổi nội dung của hình phạt tử hình, quy định hình phạt tử hình đối với
một loại tội phạm nào phụ thuộc vào các điều kiện kinh tế, xã hội của đất nước ở
mỗi giai đoạn cụ thể gắn với đặc điểm các quan hệ xã hội trong giai đoạn đó.
Hình phạt nói chung và hình phạt tử hình nói riêng đều là một trong
những công cụ của Nhà nước để quản lý xã hội, hình phạt cũng mang tính giai
cấp. Biểu hiện rõ nét ở chỗ hình phạt phục vụ cho sự củng cố địa vị thống trị
của Nhà nước. Hình phạt là công cụ, phương tiện nhằm bảo vệ trật tự, an toàn
xã hội mà bất cứ Nhà nước nào cũng cần đến nó. Tuy nhiên, mức độ cần thiết
và sử dụng hình phạt vào những mục đích của Nhà nước. Điều này có nghĩa
là, cùng với sự thay đổi của các hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử, mục
đích, ý nghĩa, chức năng của hình phạt cũng sẽ thay đổi phù hợp với ý chí của
35
giai cấp thống trị. Có thể thấy rằng, việc coi trọng hành vi nguy hiểm nào đó
là tội phạm, bên cạnh yêu cầu nhằm duy trì trật tự xã hội, Nhà nước rất quan
tâm đến việc hành vi đó có xâm phạm đến lợi ích và sự tồn tại của giai cấp
mình không. Từ việc quy định tội phạm như thế nào, Nhà nước sẽ quy định
kèm theo cho các tội phạm cụ thể tương ứng. Vì vậy, thông qua việc quy định
hình phạt cho các tội phạm cụ thể, thái độ mang bản chất Nhà nước. Trong xã
hội chiếm hữu nô lệ, phong kiến, hình phạt tử hình được giai cấp thống trị sử
dụng như một công cụ chủ yếu chống lại các hành vi phạm tội, bảo vệ tuyệt
đối quyền và lợi ích của giai cấp mình. Vì vậy, hình phạt tử hình được quy
định với phạm vi rất rộng và được áp dụng rất phổ biến. Nội dung của hình
phạt tử hình mang nặng tính trừng trị. Hình thức thi hành hình phạt tử hình
gồm nhiều loại dã man, tàn khốc.
Còn hình phạt tử hình trong xã hội Tư bản trước đây, giai cấp thống trị
cũng sử dụng hình phạt này khá phổ biến để bảo vệ chế độ Tư bản chủ nghĩa,
bảo vệ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, bảo vệ chế độ bóc lột nhằm đem lại
lợi ích của giai cấp tư sản. Tuy nhiên trong những thập niên gần đây do sự
phát triển của các lực lượng tiến bộ cũng như sự phát triển của nền kinh tế, xã
hội cho nên việc áp dụng hình phạt tử hình cũng có sự thay đổi nhất định ở
một loạt các nước có nền kinh tế phát triển đặc biệt là các nước ở châu âu.
Còn ở Việt Nam, khi còn dưới chế độ Nhà nước Phong kiến và Thực
dân nửa Phong kiến; hoặc chế độ ngụy quân, ngụy quyền (ở miền nam từ
1959- trước 30/4/1975) hình phạt tử hình cũng được quy định đối với nhiều
loại tội phạm, trong đó có các tội phạm ít nghiêm trọng, vi phạm đạo đức,
luân lý. Với hệ thống “ngũ hình” (xuy, trượng, đồ, lưu, tử…), hình phạt tử
hình được quy định với nhiều hình thức thi hành, như thắt cổ, chém đầu,
chém bêu đầu, nấu trong vạc dầu, xẻo thịt cho đến chết… rất dã man.
Khác hẳn với các Nhà nước bóc lột, bản chất của Nhà nước xã hội chủ
nghĩa là đấu tranh cho lợi ích của đại đa số nhân dân lao động. Trong công
36
cuộc đấu tranh với tội phạm, Nhà nước không chủ yếu dùng hình phạt mà kết
hợp với nhiều biện pháp mang tính giáo dục khác, như: kinh tế, văn hóa, giáo
dục…, và lôi cuốn đông đảo nhân dân tham gia bảo vệ trật tự pháp luật xã hội
chủ nghĩa. Phòng ngừa tội phạm là mục tiêu chính mà Nhà nước luôn quan
tâm đặc biệt. Do đó, hình phạt tử hình ở nước ta, Nhà nước đang trong thời kỳ
đầu của thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, không có nội dung nặng nề về
trừng trị mà chủ yếu nhằm phòng ngừa tội phạm. Hình phạt tử hình không
nhằm bảo vệ lợi ích và củng cố địa vị của số ít giai cấp thống trị mà để bảo vệ
thành quả và lợi ích của đa số nhân dân lao động. Chính vì vậy mà hệ thống
hình phạt trong luật hình sự luôn được Nhà nước ta sửa đổi bổ sung theo
hướng giảm dần việc áp dụng hình phạt tử hình để phù hợp với sự phát triển
của đất nước và của xã hội.
1.3. Đối tượng và phạm vi của việc hạn chế và tiến tới xóa bỏ hình
phạt tử hình
1.3.1. Đối tượng hạn chế (không) áp dụng hình phạt tử hình
1) Tuổi của người phạm tội có thể không áp dụng hình phạt tử hình
Hình phạt tử hình trong các chế độ phong kiến cổ đại, hình phạt này
được áp dụng rộng rãi không có sự phân biệt lứa tuổi. Khi nghiên cứu các Bộ
luật cổ đại có ghi nhận về hình phạt tử hình, nhưng đều không thấy đề cập đến
việc giới hạn tuổi và khả năng bị áp dụng hình phạt tử hình. Như vậy có nghĩa
là những ai có thể chịu hình phạt thì đều có thể bị xử tử hình. Chúng ta có thể
thấy rõ trong luật hình sự Trung Quốc cổ qua việc áp dụng chế định “độc tù”
(giết cả họ). Theo chế định hà khắc này, thì chỉ một người trong dòng họ
phạm tội bị cho là thuộc “Thập cá tội) thì cả dòng họ đó bất kể già, trẻ, gái,
trai, đều bị xử tử. Việc áp dụng hình phạt theo kiểu chế định này cũng không
riêng chỉ có Nhà nước phong kiến cổ đại trung Quốc mà còn cả một số nhà
nước phong kiến khác trên thế giới.
37
Xuất phát từ điều kiện kinh tế, xã hội kém phát triển, nhận thức pháp
luật còn hạn chế trên mọi phương diện cho nên tình trạng áp dụng hình phạt
tử hình không có sự phân biệt tuổi kéo dài trong suốt thời kì lịch sử áp dụng
loại hình phạt này. Đến khi phong trào đòi xóa bỏ hình phạt tử hình được dấy
lên mạnh mẽ trong thế kỷ XVII, XVIII, XIX, đặc biệt trong thế kỷ XX một số
các quốc gia ở Châu âu, Châu Mỹ xóa bỏ hình phạt tử hình, còn lại một số
quốc gia khác trên thế giới đã giới hạn độ tuổi có thể chịu hình phạt tử hình
trong đó có Việt Nam... Cụ thể, tại BLHS năm 1985 Việt Nam đã cấm áp
dụng hình phạt tử hình đối với người chưa thành niên phạm tội (Điều 27).
Đặc biệt năm 1989, Đại hội đồng Liên Hiệp quốc thông qua Công ước về các
quyền trẻ em đồng thời Công ước cũng đã nhấn mạnh việc trẻ em cần được
chăm sóc và bảo vệ đặc biệt. Cụ thể tại Điều 37(a) của Công ước này cấm áp
dụng hình phạt tử hình đối với người phạm tội là người chưa thành niên. Với
quy định này, các quốc gia trên thế giới bắt đầu quan tâm đến vấn đề tuổi của
người phạm tội và hình phạt tử hình. Lần lượt, các quốc gia còn duy trì hình
phạt tử hình đã loại trừ khả năng áp dụng hình phạt tử hình đối với người
phạm tội là người chưa thành niên.
Qua nghiên cứu luật hình sự các nước trên thế giới thì hầu hết đã quan
tâm đến tuổi tối thiểu của người phạm tội có thể áp dụng hình phạt tử hình,
nhưng vấn đề tuổi tối đa của người phạm tội có thể bị áp dụng hình phạt tử
hình thì lại chưa được quan tâm. Tính đến thời điểm hiện tại, chỉ có một số ít
quốc gia còn duy trì hình phạt tử hình là có quy định không áp dụng và không
thi hành hình phạt tử hình đối với người già như: (Sudan, người trên 70 tuổi);
(Liên bang Nga, người trên 65 tuổi); (Mông Cổ, Goatemala, Mexico người
trên 60 tuổi) [72, tr. 154].
Còn tại Việt Nam tuy chưa có quy định cụ thể trong BLHS nhưng tại điều
46 cũng đã quy định người gia là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; theo
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình

More Related Content

What's hot

Top 456+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự - Ha...
Top 456+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự - Ha...Top 456+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự - Ha...
Top 456+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự - Ha...
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
luan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hot
luan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hotluan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hot
luan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hot
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận Văn Tội giết người theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận Văn Tội giết người theo pháp luật hình sự Việt NamLuận Văn Tội giết người theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận Văn Tội giết người theo pháp luật hình sự Việt Nam
Nhận Viết Thuê Đề Tài Baocaothuctap.net 0973.287.149
 
Luận văn: Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, HAYLuận văn: Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, HAY
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật tại TPHCM
Luận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật tại TPHCMLuận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật tại TPHCM
Luận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật tại TPHCM
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận văn: Độc lập tư pháp và bảo đảm quyền con người, HAY
Luận văn: Độc lập tư pháp và bảo đảm quyền con người, HAYLuận văn: Độc lập tư pháp và bảo đảm quyền con người, HAY
Luận văn: Độc lập tư pháp và bảo đảm quyền con người, HAY
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận văn: Các tội xâm phạm tình dục trẻ em theo luật tại TPHCM
Luận văn: Các tội xâm phạm tình dục trẻ em theo luật tại TPHCMLuận văn: Các tội xâm phạm tình dục trẻ em theo luật tại TPHCM
Luận văn: Các tội xâm phạm tình dục trẻ em theo luật tại TPHCM
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Hình phạt cải tạo không giam giữ theo pháp luật hình sự
Luận văn: Hình phạt cải tạo không giam giữ theo pháp luật hình sựLuận văn: Hình phạt cải tạo không giam giữ theo pháp luật hình sự
Luận văn: Hình phạt cải tạo không giam giữ theo pháp luật hình sự
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận văn: Tội cố ý gây thương tích theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cố ý gây thương tích theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội cố ý gây thương tích theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cố ý gây thương tích theo pháp luật hình sự Việt Nam
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận án: Thực hiện pháp luật về bảo vệ trẻ em Việt Nam hiện nay - Gửi miễn ph...
Luận án: Thực hiện pháp luật về bảo vệ trẻ em Việt Nam hiện nay - Gửi miễn ph...Luận án: Thực hiện pháp luật về bảo vệ trẻ em Việt Nam hiện nay - Gửi miễn ph...
Luận án: Thực hiện pháp luật về bảo vệ trẻ em Việt Nam hiện nay - Gửi miễn ph...
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận án: Pháp luật thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn, HAY, 9đ
Luận án: Pháp luật thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn, HAY, 9đLuận án: Pháp luật thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn, HAY, 9đ
Luận án: Pháp luật thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn, HAY, 9đ
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn truy tố
Luận văn: Trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn truy tốLuận văn: Trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn truy tố
Luận văn: Trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn truy tố
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Loại bỏ hình phạt tử hình trong tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
Loại bỏ hình phạt tử hình trong tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tếLoại bỏ hình phạt tử hình trong tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
Loại bỏ hình phạt tử hình trong tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Tội sản xuất, buôn bán hàng giả theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội sản xuất, buôn bán hàng giả theo luật hình sự, HOTLuận văn: Tội sản xuất, buôn bán hàng giả theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội sản xuất, buôn bán hàng giả theo luật hình sự, HOT
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sự
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sựLuận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sự
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sự
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Tội buôn lậu trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội buôn lậu trong Luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội buôn lậu trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội buôn lậu trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Luận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOTLuận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Luận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
LUẬN ÁN TIẾN SĨ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ THÔNG TIN CÁ NHÂN Ở VIỆT NAM H...
LUẬN ÁN TIẾN SĨ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ THÔNG TIN CÁ NHÂN Ở VIỆT NAM H...LUẬN ÁN TIẾN SĨ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ THÔNG TIN CÁ NHÂN Ở VIỆT NAM H...
LUẬN ÁN TIẾN SĨ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ THÔNG TIN CÁ NHÂN Ở VIỆT NAM H...
PinkHandmade
 
Luận văn: Bảo đảm quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, HAY
Luận văn: Bảo đảm quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, HAYLuận văn: Bảo đảm quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, HAY
Luận văn: Bảo đảm quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, HAY
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOTLuận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 

What's hot (20)

Top 456+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự - Ha...
Top 456+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự - Ha...Top 456+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự - Ha...
Top 456+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự - Ha...
 
luan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hot
luan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hotluan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hot
luan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hot
 
Luận Văn Tội giết người theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận Văn Tội giết người theo pháp luật hình sự Việt NamLuận Văn Tội giết người theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận Văn Tội giết người theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, HAYLuận văn: Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, HAY
 
Luận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật tại TPHCM
Luận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật tại TPHCMLuận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật tại TPHCM
Luận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật tại TPHCM
 
Luận văn: Độc lập tư pháp và bảo đảm quyền con người, HAY
Luận văn: Độc lập tư pháp và bảo đảm quyền con người, HAYLuận văn: Độc lập tư pháp và bảo đảm quyền con người, HAY
Luận văn: Độc lập tư pháp và bảo đảm quyền con người, HAY
 
Luận văn: Các tội xâm phạm tình dục trẻ em theo luật tại TPHCM
Luận văn: Các tội xâm phạm tình dục trẻ em theo luật tại TPHCMLuận văn: Các tội xâm phạm tình dục trẻ em theo luật tại TPHCM
Luận văn: Các tội xâm phạm tình dục trẻ em theo luật tại TPHCM
 
Luận văn: Hình phạt cải tạo không giam giữ theo pháp luật hình sự
Luận văn: Hình phạt cải tạo không giam giữ theo pháp luật hình sựLuận văn: Hình phạt cải tạo không giam giữ theo pháp luật hình sự
Luận văn: Hình phạt cải tạo không giam giữ theo pháp luật hình sự
 
Luận văn: Tội cố ý gây thương tích theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cố ý gây thương tích theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội cố ý gây thương tích theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cố ý gây thương tích theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận án: Thực hiện pháp luật về bảo vệ trẻ em Việt Nam hiện nay - Gửi miễn ph...
Luận án: Thực hiện pháp luật về bảo vệ trẻ em Việt Nam hiện nay - Gửi miễn ph...Luận án: Thực hiện pháp luật về bảo vệ trẻ em Việt Nam hiện nay - Gửi miễn ph...
Luận án: Thực hiện pháp luật về bảo vệ trẻ em Việt Nam hiện nay - Gửi miễn ph...
 
Luận án: Pháp luật thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn, HAY, 9đ
Luận án: Pháp luật thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn, HAY, 9đLuận án: Pháp luật thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn, HAY, 9đ
Luận án: Pháp luật thừa kế thời kỳ nhà Lê, nhà Nguyễn, HAY, 9đ
 
Luận văn: Trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn truy tố
Luận văn: Trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn truy tốLuận văn: Trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn truy tố
Luận văn: Trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn truy tố
 
Loại bỏ hình phạt tử hình trong tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
Loại bỏ hình phạt tử hình trong tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tếLoại bỏ hình phạt tử hình trong tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
Loại bỏ hình phạt tử hình trong tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
 
Luận văn: Tội sản xuất, buôn bán hàng giả theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội sản xuất, buôn bán hàng giả theo luật hình sự, HOTLuận văn: Tội sản xuất, buôn bán hàng giả theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội sản xuất, buôn bán hàng giả theo luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sự
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sựLuận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sự
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sự
 
Luận văn: Tội buôn lậu trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội buôn lậu trong Luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội buôn lậu trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội buôn lậu trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Luận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOTLuận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Luận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
 
LUẬN ÁN TIẾN SĨ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ THÔNG TIN CÁ NHÂN Ở VIỆT NAM H...
LUẬN ÁN TIẾN SĨ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ THÔNG TIN CÁ NHÂN Ở VIỆT NAM H...LUẬN ÁN TIẾN SĨ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ THÔNG TIN CÁ NHÂN Ở VIỆT NAM H...
LUẬN ÁN TIẾN SĨ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ THÔNG TIN CÁ NHÂN Ở VIỆT NAM H...
 
Luận văn: Bảo đảm quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, HAY
Luận văn: Bảo đảm quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, HAYLuận văn: Bảo đảm quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, HAY
Luận văn: Bảo đảm quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, HAY
 
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOTLuận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
 

Similar to Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình

Luận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAYLuận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAY
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Nguyên tắc xử lý về hình sự trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc xử lý về hình sự trong luật hình sự Việt NamLuận văn: Nguyên tắc xử lý về hình sự trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc xử lý về hình sự trong luật hình sự Việt Nam
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Nguyên tắc xử lý về hình sự trong luật hình sự, HAY
Luận văn: Nguyên tắc xử lý về hình sự trong luật hình sự, HAYLuận văn: Nguyên tắc xử lý về hình sự trong luật hình sự, HAY
Luận văn: Nguyên tắc xử lý về hình sự trong luật hình sự, HAY
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Các hình phạt chính không tước tự do theo Luật hình sự
Luận văn: Các hình phạt chính không tước tự do theo Luật hình sựLuận văn: Các hình phạt chính không tước tự do theo Luật hình sự
Luận văn: Các hình phạt chính không tước tự do theo Luật hình sự
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Các hình phạt chính không tước tự do theo luật, HOT
Luận văn: Các hình phạt chính không tước tự do theo luật, HOTLuận văn: Các hình phạt chính không tước tự do theo luật, HOT
Luận văn: Các hình phạt chính không tước tự do theo luật, HOT
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt NamLuận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh tài sản, HOT
Biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh tài sản, HOTBiện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh tài sản, HOT
Biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh tài sản, HOT
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự, HAY
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự, HAYLuận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự, HAY
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự, HAY
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt NamLuận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận án: Quyền của người bị kết án phạt tù ở Việt Nam, HAY - Gửi miễn phí qua...
Luận án: Quyền của người bị kết án phạt tù ở Việt Nam, HAY - Gửi miễn phí qua...Luận án: Quyền của người bị kết án phạt tù ở Việt Nam, HAY - Gửi miễn phí qua...
Luận án: Quyền của người bị kết án phạt tù ở Việt Nam, HAY - Gửi miễn phí qua...
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận văn: Các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật TTHS Việt Nam
Luận văn: Các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật TTHS Việt NamLuận văn: Các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật TTHS Việt Nam
Luận văn: Các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật TTHS Việt Nam
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Nguyên Tắc Suy Đoán Vô Tội Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HOT.docx
Nguyên Tắc Suy Đoán Vô Tội Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HOT.docxNguyên Tắc Suy Đoán Vô Tội Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HOT.docx
Nguyên Tắc Suy Đoán Vô Tội Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HOT.docx
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Quyền con người qua biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự do
Quyền con người qua biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự doQuyền con người qua biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự do
Quyền con người qua biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự do
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOTLuận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Đề tài: Nhân thân người phạm tội trong việc quyết định hình phạt
Đề tài: Nhân thân người phạm tội trong việc quyết định hình phạtĐề tài: Nhân thân người phạm tội trong việc quyết định hình phạt
Đề tài: Nhân thân người phạm tội trong việc quyết định hình phạt
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Đề tài: Các tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, HAY
Đề tài: Các tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, HAYĐề tài: Các tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, HAY
Đề tài: Các tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, HAY
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, 9đ
Luận văn: Tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, 9đLuận văn: Tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, 9đ
Luận văn: Tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, 9đ
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Đề tài: Bảo vệ quyền con người bằng các quy phạm về tội phạm, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền con người bằng các quy phạm về tội phạm, HAYĐề tài: Bảo vệ quyền con người bằng các quy phạm về tội phạm, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền con người bằng các quy phạm về tội phạm, HAY
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Bảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sự
Bảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sựBảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sự
Bảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sự
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 

Similar to Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình (20)

Luận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAYLuận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAY
 
Luận văn: Nguyên tắc xử lý về hình sự trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc xử lý về hình sự trong luật hình sự Việt NamLuận văn: Nguyên tắc xử lý về hình sự trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc xử lý về hình sự trong luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Nguyên tắc xử lý về hình sự trong luật hình sự, HAY
Luận văn: Nguyên tắc xử lý về hình sự trong luật hình sự, HAYLuận văn: Nguyên tắc xử lý về hình sự trong luật hình sự, HAY
Luận văn: Nguyên tắc xử lý về hình sự trong luật hình sự, HAY
 
Luận văn: Các hình phạt chính không tước tự do theo Luật hình sự
Luận văn: Các hình phạt chính không tước tự do theo Luật hình sựLuận văn: Các hình phạt chính không tước tự do theo Luật hình sự
Luận văn: Các hình phạt chính không tước tự do theo Luật hình sự
 
Luận văn: Các hình phạt chính không tước tự do theo luật, HOT
Luận văn: Các hình phạt chính không tước tự do theo luật, HOTLuận văn: Các hình phạt chính không tước tự do theo luật, HOT
Luận văn: Các hình phạt chính không tước tự do theo luật, HOT
 
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt NamLuận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam
 
Biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh tài sản, HOT
Biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh tài sản, HOTBiện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh tài sản, HOT
Biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh tài sản, HOT
 
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự, HAY
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự, HAYLuận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự, HAY
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự, HAY
 
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt NamLuận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
 
Luận án: Quyền của người bị kết án phạt tù ở Việt Nam, HAY - Gửi miễn phí qua...
Luận án: Quyền của người bị kết án phạt tù ở Việt Nam, HAY - Gửi miễn phí qua...Luận án: Quyền của người bị kết án phạt tù ở Việt Nam, HAY - Gửi miễn phí qua...
Luận án: Quyền của người bị kết án phạt tù ở Việt Nam, HAY - Gửi miễn phí qua...
 
Luận văn: Các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật TTHS Việt Nam
Luận văn: Các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật TTHS Việt NamLuận văn: Các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật TTHS Việt Nam
Luận văn: Các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật TTHS Việt Nam
 
Nguyên Tắc Suy Đoán Vô Tội Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HOT.docx
Nguyên Tắc Suy Đoán Vô Tội Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HOT.docxNguyên Tắc Suy Đoán Vô Tội Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HOT.docx
Nguyên Tắc Suy Đoán Vô Tội Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HOT.docx
 
Quyền con người qua biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự do
Quyền con người qua biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự doQuyền con người qua biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự do
Quyền con người qua biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự do
 
Luận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOTLuận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
 
Đề tài: Nhân thân người phạm tội trong việc quyết định hình phạt
Đề tài: Nhân thân người phạm tội trong việc quyết định hình phạtĐề tài: Nhân thân người phạm tội trong việc quyết định hình phạt
Đề tài: Nhân thân người phạm tội trong việc quyết định hình phạt
 
Đề tài: Các tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, HAY
Đề tài: Các tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, HAYĐề tài: Các tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, HAY
Đề tài: Các tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, HAY
 
Luận văn: Tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, 9đ
Luận văn: Tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, 9đLuận văn: Tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, 9đ
Luận văn: Tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, 9đ
 
Đề tài: Bảo vệ quyền con người bằng các quy phạm về tội phạm, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền con người bằng các quy phạm về tội phạm, HAYĐề tài: Bảo vệ quyền con người bằng các quy phạm về tội phạm, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền con người bằng các quy phạm về tội phạm, HAY
 
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
 
Bảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sự
Bảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sựBảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sự
Bảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sự
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864

Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.docYếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.docTừ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.docTác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.docSong Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.docỨng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.docVai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.docThu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864 (20)

Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.docYếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
 
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.docTừ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
 
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
 
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.docTác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
 
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.docSong Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
 
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.docỨng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
 
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.docVai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
 
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.docThu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
 

Recently uploaded

30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf
30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf
30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf
ngocnguyensp1
 
Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...
Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...
Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...
https://www.facebook.com/garmentspace
 
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdfGIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
Điện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
CÁC BIỆN PHÁP KỸ THUẬT AN TOÀN KHI XÃY RA HỎA HOẠN TRONG.pptx
CÁC BIỆN PHÁP KỸ THUẬT AN TOÀN KHI XÃY RA HỎA HOẠN TRONG.pptxCÁC BIỆN PHÁP KỸ THUẬT AN TOÀN KHI XÃY RA HỎA HOẠN TRONG.pptx
CÁC BIỆN PHÁP KỸ THUẬT AN TOÀN KHI XÃY RA HỎA HOẠN TRONG.pptx
CNGTRC3
 
CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...
CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...
CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...
Nguyen Thanh Tu Collection
 
DS thi KTHP HK2 (dot 3) nam hoc 2023-2024.pdf
DS thi KTHP HK2 (dot 3) nam hoc 2023-2024.pdfDS thi KTHP HK2 (dot 3) nam hoc 2023-2024.pdf
DS thi KTHP HK2 (dot 3) nam hoc 2023-2024.pdf
thanhluan21
 
Nghiên cứu cơ chế và động học phản ứng giữa hợp chất Aniline (C6H5NH2) với gố...
Nghiên cứu cơ chế và động học phản ứng giữa hợp chất Aniline (C6H5NH2) với gố...Nghiên cứu cơ chế và động học phản ứng giữa hợp chất Aniline (C6H5NH2) với gố...
Nghiên cứu cơ chế và động học phản ứng giữa hợp chất Aniline (C6H5NH2) với gố...
Nguyen Thanh Tu Collection
 
BAI TAP ON HE LOP 2 LEN 3 MON TIENG VIET.pdf
BAI TAP ON HE LOP 2 LEN 3 MON TIENG VIET.pdfBAI TAP ON HE LOP 2 LEN 3 MON TIENG VIET.pdf
BAI TAP ON HE LOP 2 LEN 3 MON TIENG VIET.pdf
phamthuhoai20102005
 
Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nay
Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nayẢnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nay
Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nay
chinhkt50
 
98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...
98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...
98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...
Nguyen Thanh Tu Collection
 
GIAO TRINH TRIET HOC MAC - LENIN (Quoc gia).pdf
GIAO TRINH TRIET HOC MAC - LENIN (Quoc gia).pdfGIAO TRINH TRIET HOC MAC - LENIN (Quoc gia).pdf
GIAO TRINH TRIET HOC MAC - LENIN (Quoc gia).pdf
LngHu10
 

Recently uploaded (11)

30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf
30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf
30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf
 
Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...
Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...
Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...
 
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdfGIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
 
CÁC BIỆN PHÁP KỸ THUẬT AN TOÀN KHI XÃY RA HỎA HOẠN TRONG.pptx
CÁC BIỆN PHÁP KỸ THUẬT AN TOÀN KHI XÃY RA HỎA HOẠN TRONG.pptxCÁC BIỆN PHÁP KỸ THUẬT AN TOÀN KHI XÃY RA HỎA HOẠN TRONG.pptx
CÁC BIỆN PHÁP KỸ THUẬT AN TOÀN KHI XÃY RA HỎA HOẠN TRONG.pptx
 
CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...
CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...
CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...
 
DS thi KTHP HK2 (dot 3) nam hoc 2023-2024.pdf
DS thi KTHP HK2 (dot 3) nam hoc 2023-2024.pdfDS thi KTHP HK2 (dot 3) nam hoc 2023-2024.pdf
DS thi KTHP HK2 (dot 3) nam hoc 2023-2024.pdf
 
Nghiên cứu cơ chế và động học phản ứng giữa hợp chất Aniline (C6H5NH2) với gố...
Nghiên cứu cơ chế và động học phản ứng giữa hợp chất Aniline (C6H5NH2) với gố...Nghiên cứu cơ chế và động học phản ứng giữa hợp chất Aniline (C6H5NH2) với gố...
Nghiên cứu cơ chế và động học phản ứng giữa hợp chất Aniline (C6H5NH2) với gố...
 
BAI TAP ON HE LOP 2 LEN 3 MON TIENG VIET.pdf
BAI TAP ON HE LOP 2 LEN 3 MON TIENG VIET.pdfBAI TAP ON HE LOP 2 LEN 3 MON TIENG VIET.pdf
BAI TAP ON HE LOP 2 LEN 3 MON TIENG VIET.pdf
 
Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nay
Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nayẢnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nay
Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nay
 
98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...
98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...
98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...
 
GIAO TRINH TRIET HOC MAC - LENIN (Quoc gia).pdf
GIAO TRINH TRIET HOC MAC - LENIN (Quoc gia).pdfGIAO TRINH TRIET HOC MAC - LENIN (Quoc gia).pdf
GIAO TRINH TRIET HOC MAC - LENIN (Quoc gia).pdf
 

Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐẶNG NGỌC THANH MéT Sè VÊN §Ò C¥ B¶N §Ó GI¶M Vµ TIÕN TíI XO¸ Bá H×NH PH¹T Tö H×NH TRONG LUËT H×NH Sù VIÖT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2016
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐẶNG NGỌC THANH MéT Sè VÊN §Ò C¥ B¶N §Ó GI¶M Vµ TIÕN TíI XO¸ Bá H×NH PH¹T Tö H×NH TRONG LUËT H×NH Sù VIÖT NAM Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: GS.TSKH. LÊ VĂN CẢM HÀ NỘI - 2016
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn về đề tài “Một số vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình trong Luật hình sự Việt Nam” là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Tôi viết Lời cam đoan này, đề nghị Khoa Luật xem xét, tạo điều kiện để tôi được bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! Người cam đoan Đặng Ngọc Thanh
  • 4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục từ viết tắt Danh mục bảng MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÌNH PHẠT TỬ HÌNH TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM...............................14 1.1. Các nghiên cứu hiện nay về hình phạt tử hình ..............................14 1.2. Hình phạt tử hình và cơ sở nhằm giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt này trong luật hình sự Việt Nam ............................................23 1.2.1. Khái niệm về hình phạt tử hình...........................................................23 1.2.2. Các đặc điểm của hình phạt tử hình....................................................24 1.2.3. Bản chất của hình phạt tử hình............................................................32 1.3. Đối tượng và phạm vi của việc hạn chế và tiến tới xóa bỏ hình phạt tử hình........................................................................................36 1.3.1. Đối tượng hạn chế (không) áp dụng hình phạt tử hình.......................36 1.3.2. Phạm vi hạn chế (không) áp dụng hình phạt tử hình đối với một số tội danh trong Bộ luật hình sự ........................................................45 Chương 2: THỰC TRẠNG NHỮNG QUY PHẠM CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ HÌNH PHẠT TỬ HÌNH VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TỪ SAU CÁCH MẠNG THÁNG 8 NĂM 1945 ĐẾN NAY.......................................................................51 2.1. Lịch sử hình thành các quy định về hình phạt tử hình trong luật hình sự Việt Nam.......................................................................51 2.1.1. Các quy định của luật hình sự Việt Nam giai đoạn 1945 - 1985 về hình phạt tử hình .................................................................................51
  • 5. 2.1.2. Các quy định của luật hình sự Việt Nam giai đoạn 1985 – 1999 về hình phạt tử hình .................................................................................58 2.1.3. Các quy định của luật hình sự Việt Nam giai đoạn 1999- đến nay về hình phạt tử hình.............................................................................62 2.2. Thực trạng áp dụng hình phạt tử hình ở Việt Nam trong những năm gần đây ...........................................................................65 2.3. Đánh giá các quy phạm về hình phạt tử hình trong luật hình sự Việt Nam - những tồn tại, hạn chế của các quy định này trong luật hiện hành .....................................................................................83 2.3.1. Đánh giá chung quy định của pháp luật hình sự về hình phạt tử hình.....83 2.3.2. Những tồn tại, bất cập về thực trạng quy định và áp dụng hình phạt tử hình ở Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế.................84 Chương 3: CÁC LUẬN CỨ NHẰM GIẢM VÀ TIẾN TỚI XOÁ BỎ HÌNH PHẠT TỬ HÌNH TRONG VIỆC HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ...................90 3.1. Một số định hướng cho việc hoàn thiện pháp luật để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình trong luật hình sự Việt Nam .......90 3.2. Một số giải pháp cụ thể nhằm giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình trong luật hình sự Việt Nam ......................................91 3.2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật hình sự...............................................91 3.2.2. Một số giải pháp pháp luật về mặt kinh tế, xã hội ..............................99 3.2.3. Một số giải pháp về giáo dục ............................................................100 KẾT LUẬN..................................................................................................101 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................105
  • 6. DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT BLHS: Bộ luật hình sự NXB: Nhà xuất bản TAND: Tòa án nhân dân VKSND: Viện kiểm sát nhân dân XHCN: Xã hội chủ nghĩa
  • 7. DANH MỤC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang Bảng 2.1: Số liệu người bị Tòa án cấp sơ thẩm kết án tử hình từ năm 1992 đến năm 2003 69
  • 8. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng hiện nay của đất nước ta, đặc biệt khi chúng ta đang tiến hành công cuộc xây dựng Nhà nước Pháp quyền (NNPQ) xã hội chủ nghĩa do Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ IX, lần thứ X chỉ ra và tiếp tục khẳng định tại báo cáo chính trị trình Đại hội Đảng lần thứ XI “Tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đảm bảo Nhà nước ta thực sự là của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân” [37, tr. 246], với định hướng rất rõ ràng đó là: Nâng cao nhận thức về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, tôn trọng và bảo vệ quyền con người. Còn tại Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã chỉ ra: “Công tác tư pháp còn nhiều hạn chế; Chính sách hình sự… còn nhiều bất cập, chậm được sửa đổi bổ sung; Vẫn còn tình trạng oan, sai trong điều tra, bắt, giam giữ, truy tố, xét xử…” [8] do đó nhiệm vụ cải cách Tư pháp phải được tiến hành khẩn trương, đồng bộ, phù hợp với hoàn cảnh nước ta và yêu cầu hội nhập quốc tế, đáp ứng được xu thế phát triển của xã hội trong tương lai. Trong đó Nghị quyết đưa ra phương hướng cụ thể đó là: Phải hoàn thiện chính sách pháp luật hình sự…, tôn trọng và bảo vệ quyền con người; Coi trọng việc hoàn thiện chính sách hình sự…, đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội; Hạn chế áp dụng hình phạt tử hình theo hướng chỉ áp dụng đối với một số ít loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng [74, tr. 2]. Do đó việc nghiên cứu một số vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình trong Luật hình sự Việt Nam để từ đó đưa ra những quan điểm phân tích mang tính khoa học, có chiều sâu và xác đáng góp phần Hoàn thiện
  • 9. 2 chính sách, PLHS Việt Nam là rất cần thiết và có ý nghĩa hết sức quan trọng cả về mặt chính trị xã hội, mặt lập pháp, mặt lý luận và về mặt thực tiễn. Bởi vì: Ngay tại Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, được quốc hội thông qua ngày 28/11/2013, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2014 cũng đã quy định rất rõ tại Điều 19 đó là: “Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bi ̣tướ c đoạt tính mạng trái luật” [65, Điều 19] . Đây chính là nguyên tắc hiến định rất quan trọng về quyền con người, Chính vì vậy việc sửa đổi pháp luật nói chung, chính sách pháp luật hình sự nói riêng là rất cần thiết để phù hợp với nguyên tắc này. Chính vì vậy, việc nghiên cứu đề tài: “Một số vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình trong Luật hình sự Việt Nam” có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc đưa ra những phân tích mang tính khoa học có chiều sâu và xác đáng được thể hiện trên một số bình diện cụ thể như sau: 1.1. Về góc độ chính trị- xã hội Khi nói đến một NNPQ đích thực nào thì các quy định của pháp luật hình sự cũng đều phải nhằm bảo vệ một cách hữu hiệu các quyền và tự do của con người và của công dân, trong đó có quyền cao cả nhất là quyền được sống an toàn trong hoà bình. Đây là một ý nghĩa và giá trị xã hội cao quý nhất được thừa nhận chung của nền văn minh nhân loại; mặt khác các quy định của pháp luật hình sự trong một Nhà nước như thế nào (có hay không có hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự quốc gia và nếu có thì việc quy định như thế nào, áp dụng có phù hợp không, việc thực hiện ra sao? Có vi phạm các điều cấm của quốc tế hay không, có phù hợp với xu thế hội nhập trong tương lai khi quốc gia đó tiếp tục hội nhập với các tổ chức của quốc tế…) đó là những tiêu chí căn bản để từ đó cộng đồng quốc tế (Tổ chức Liên hợp quốc) đánh giá "mức độ dân chủ và nhân đạo, pháp chế và nhân văn" của mỗi quốc gia đó như thế nào [18, tr. 2].
  • 10. 3 1.2. Về góc độ lập pháp Nhìn chung ở hầu hết các NNPQ có tính đích thực thì các chế định của pháp luật trong lĩnh vực Tư pháp hình sự (TPHS) nói chung và PLHS nói riêng chính là để bảo vệ các quyền và tự do của con người về mặt cốt lõi phải phù hợp với những quy định và những nguyên tắc được thừa nhận chung của pháp luật quốc tế (Công ước quốc tế) trong lĩnh vực Tư pháp hình sự. Xuất phát từ lý do này, để đáp ứng tốt trong xu thế hội nhập quốc tế, năm 2009 Quốc hội đã tiến hành thảo luận Dự thảo luật sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự (BLHS) Việt Nam năm 1999 theo hướng nhân đạo hoá (xoá bớt một số cấu thành tội phạm quy định mức hình phạt tử hình). Do đó ngày 19/6/2009 Quốc hội chính thức thông qua Luật số 37/QH12 "Về sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự năm 1999" đã giảm bớt cấu thành tội phạm (CTTP) từ 29 CTTP xuống còn 23 CTTP ở 22 điều luật có quy định hình phạt tử hình. Vì vậy, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay nền kinh tế nước ta đã có sự phát triển đáng kể, xu thế hội nhập ngày càng tích cực, sâu rộng và có trách nhiệm trước cộng đồng quốc tế của nước ta thì việc cải cách thể chế pháp luật, trong đó có PLHS cho phù hợp là rất cần thiết. 1.3. Về góc độ khoa học- thực tiễn Hiện tại có hai nhóm quan điểm trái ngược nhau, chủ yếu xoay quanh một số vấn đề là: có nên tiếp tục quy định hình phạt tử hình trong hệ thống hình phạt của PLHS quốc gia hay không? Và nếu có thì cần hạn chế ở mức độ nào? Hay là phải xoá bỏ ngay hình phạt đặc biệt nghiêm khắc, thiếu tính nhân đạo nhất này ra khỏi hệ thống hình phạt của PLHS quốc gia. Hoặc nếu là tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình thì tiến tới đến khi nào?. Do đó những đòi hỏi đặt ra cho các nhà khoa học-luật gia, các cán bộ đã và đang làm việc trong lĩnh vực TPHS của đất nước một nhiệm vụ quan trọng đó là cần phải nghiên cứu để đưa ra những luận chứng, những nội dung phân tích có tính tích cực, khách
  • 11. 4 quan, khoa học để đóng góp ý kiến xác đáng với nhà làm luật nhằm khắc phục và loại bỏ những bất cập-hạn chế nhất định trong thực tế áp dụng đó là: Nếu xét dưới góc độ thực tiễn về mục đích của hình phạt (nói chung) thì hình phạt sẽ có 4 mục đích đó là: 1) phục hồi lại công lý- sự công bằng xã hội, 2) ngăn ngừa riêng, 3) ngăn ngừa chung, 4) hỗ trợ cho cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm. Vì vậy khi áp dụng hình phạt tử hình được coi là hình phạt đặc biệt nghiêm khắc nhất so với tất cả các loại hình phạt khác trong hệ thống hình phạt PLHS Việt Nam thì đương nhiên loại bỏ 1 trong 4 mục đích đầy ý nghĩa của hình phạt (nói chung) - mục đích "ngăn ngừa riêng". Bởi vì, khi đã áp dụng hình phạt tử hình đối với một người bị kết án thì sinh mạng của người đó đã bị tước bỏ vĩnh viễn cho nên người đó sẽ không bao giờ còn có cơ hội để cải tạo- giáo dục, sửa chữa lỗi lầm trong nhà tù được nữa. Do đó hình phạt tử hình (nói riêng) chỉ còn lại có 3 trong 4 mục đích chính của hình phạt (nói chung) mà tôi vừa đề cập ở trên [87, tr. 190]. Mặt khác, trên thực tế các quan điểm quốc tế trong thời kỳ đương đại hiện nay được thừa nhận cho thấy trong các NNPQ là các nước văn minh phát triển cao trên thế giới thì việc áp dụng hình phạt trong pháp luật hình sự về mặt cơ bản đều có mục đích hướng đến không nhằm gây nên những đau đớn về thể xác và hạ thấp nhân phẩm con người. Như vậy, cả về lý luận cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật được đề cập trên, đều đặt ra yêu cầu cần thiết nghiên cứu đề tài “Một số vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình trong Luật hình sự Việt Nam”. Đó chính là lý do thôi thúc tác giả lựa chọn đề tài này để nghiên cứu làm luận văn thạc sỹ của mình trong nhiều năm qua. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến công tác cải cách tư pháp, trong đó đặc biệt quan tâm đến cải cách về thể chế pháp
  • 12. 5 luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng. Tuy nhiên việc nghiên cứu đề tài: “Một số vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình trong Luật hình sự Việt Nam” là một chuyên đề còn mới cho nên chưa được quan tâm đúng mức, những công trình khoa học nghiên cứu về chuyên đề này của các nhà khoa học- pháp luật trong nước còn khá khiêm tốn (mang tính chung chung). Cụ thể, cho đến thời điểm hiện nay chỉ có một số ít cuốn sách, công trình khoa học, đề tài chuyên khảo, một vài luận văn tiến sỹ và một số bài báo viết về lĩnh vực tử hình trong Luật hình sự đó là: 2.1. Các sách như 1) Bộ luật hình sự của nước Công hoà xã hội chủ nghĩa (CHXHCN) Việt Nam năm 1999, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 2) Phạm Văn Lợi, Nguyễn Văn Hiển, “Một số vấn đề về hình phạt tử hình và thi hành hình phạt tử hình - thực trạng và giải pháp”, NXB Tư pháp Hà Nội, 2005; 3) TS. Phạm Văn Lợi (chủ biên) sách chuyên khảo "Một số vấn đề về hình phạt tử hình và thi hành hình phạt tử hình”, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Hà Nội, 2006; 4) TS. Phạm Văn Lợi (chủ biên) "Chính sách hình sự trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam”, NXB Tư pháp Hà Nội, 2007. 5) Hội luật gia (Sách tham khảo) "Hình phạt tử hình trong Luật quốc tế", NXB Hồng Đức, 2008; 6) ThS. Vũ Thị Thuý, (Sách chuyên khảo) “Hình phạt tử hình trong Luật hình sự Việt Nam”, NXB Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, 2010; 7) Nguyễn Đăng Dung - Phạm Hồng Thái - Vũ Công Giao - Lã Khánh Tùng, (Sách tham khảo) “Những điều cần biết về hình phạt tử hình”, NXB Lao động - Xã hội, 2010; 8) GS.TSKH. Đào Trí Úc - PGS.TS. Vũ Công Giao - PGS.TS. Trương
  • 13. 6 Thị Hồng Hà, (sách tham khảo) “Quyền sống và Hình Phạt tử hình”, NXB chính trị quốc gia - sự thật, Hà Nội 2015. 2.2. Các luận án tiến sỹ, luận văn thạc sỹ 1) Phạm Văn Beo (2007) "Hình phạt tử hình trong Luật hình sự Việt Nam" Viện Nhà nước và Pháp luật - Luận án Tiến sỹ Luật học; 2) Trần Hữu Nam (2003), “Hình phạt tử hình trong luật hình sự Việt Nam”, Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội - Luận văn Thạc sĩ Luật học.; 3) Trần Thu Huyền (2006), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về hình phạt tử hình trong Luật hình sự Việt Nam, khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội - Luận văn Thạc sỹ Luật học.; 2.3. Các bài báo 1) Trần Quang Tiệp (2003), "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về thi hành hình phạt tử hình", Nhà nước và pháp luật, (3); 2) Trương Quang Vinh (1998) "Dư luận xã hội một số nước về việc áp dụng hình phạt tử hình", Tạp chí Luật học, (3); 4) Viện Nhà nước và Pháp luật (2004), Luật hình sự và tố tụng hình sự các nước trên thế giới; Nguyễn Quốc Khánh (2004), “Một số vấn đề pháp lý, nhân đạo về hình phạt tử hình và công tác thi hành hình phạt tử hình”, Tạp chí Dân chủ pháp luật (7); 5) Vu Diệu Giang (2002), "Tác dụng trừng phạt và cải tạo của hình phạt tử hình", Tạp chí Luật học (5); 6) GS.TSKH. Lê Văn Cảm* , Nguyễn Thị Lan “Hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam: Giữ nguyên hay cần giảm và tiến tới loại bỏ?” (Bài viết) được đăng trên tạp chí khoa học ĐHQGHN, Tập 30, số 3 (2014) 1-14; 7) " Sửa đổi Bộ luật Hình sự: Hạn chế tử hình?" bài đăng trên Báo Pháp luật ngày 16/3/2015; 8) Trần Văn Độ (2005), "Thi hành hình phạt tử hình ở một số nước trên
  • 14. 7 thế giới và vấn đề hoàn thiện pháp luật về thi hành hình phạt tử hình ở Việt Nam", Nhà nước pháp luật, (3), tr.66. 9) Đặc biệt trong 6 năm gần đây, từ 2009– 2015 đã có một số các bài báo, bài nghiên cứu khoa học ở các cấp độ khác nhau về vấn đề hình phạt tử hình và hạn chế áp dụng hình phạt tử hình được đăng trên các Tạp chí Tòa án nhân dân thuộc Tòa án nhân dân tối cao; Tạp chí Viện kiểm sát nhân dân, Báo bảo vệ pháp luật thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao đó là: 1) Đinh Xuân Thảo (2009) “Một số góp ý về dự thảo luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự”, Tạp chí kiểm sát (10), tr. 33; 2) TS. Đỗ Đức Hồng Hà (2009), “Hoàn thiện hệ thống hình phạt trong Bộ luật hình sự Việt Nam, qua tham khảo bộ luật hình sự Trung Hoa”, Tạp chí kiểm sát (21), tr 44 -47; 3) ThS Đỗ Mạnh Quang (2013) “Cần nghiên cứu thu hẹp phạm vi các tội danh có quy định hình phạt tử hình trong Bộ luật hình sự”, Tạp chí kiểm sát (4), tr. 28 – 32; 4) ThS Huỳnh Quốc Hùng (2013) “Cần quy định rõ trong Bộ luật hình sự các chế định phạm tội nghiêm trọng trong trường hợp nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng”, Tạp chí kiểm sát (4), tr. 33; 5) TS. Phạm Minh Tuyên “Một số vấn đề về xét xử tội phạm khủng bố và tài trợ khủng bố theo điều 230a và điều 230b của Bộ luật hình sự và thực tiễn áp dụng”, Tạp chí kiểm sát (4), tr. 52 – 59; 6) ThS. Đàm Cảnh Long (2014), “Cần hoàn thiện các quy định pháp luật về thi hành án hình sự nhằm nâng cao hiệu quả công tác thi hành án hình sự của Tòa án”, Tạp chí kiểm sát (20), tr. 45, 46; 7) TS. Mai Đắc Biên (2015) “Tội phạm hóa và phi tội phạm hóa trong pháp luật hình sự ở nước ta hiện nay”, Tạp chí kiểm sát (Xuân) tháng 01. 2015, tr. 47, 63; 8) Bùi Văn Hưng (2015) “Vài nét về chế độ tử hình ở Hàn Quốc và một số liên hệ với Luật hình sự Việt Nam”, Tạp chí kiểm sát (6), tr. 54- 63; 9) Đắc Thái (2015) “Xây dựng Bộ luật hình sự (sửa đổi) góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN, bảo vệ tốt hơn quyền con người, quyền công dân”, Báo bảo vệ pháp
  • 15. 8 luật (70), thứ 3 ngày 01.9.2015, tr. 9, 10; 10) Hoàng Anh Tuyên (2015), “Những nội dung cơ bản sửa đổi, bổ sung trong dự thảo Bộ luật hình sự sửa đổi”, Báo bảo vệ pháp luật (70), thứ 3 ngày 01.9.2015, tr. 11, 14; 11) ThS. Đào Tới Anh (2015) “Vài nét về hình phạt tử hình trong pháp luật của một số nước trên thế giới và đề xuất hoàn thiện Bộ luật hình sự Việt Nam”, Tạp chí kiểm sát (21), tr. 43, 47; 12) TS. Trần Công Phàn (2014) “Một số định hướng sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự đáp ứng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, Tạp chí kiểm sát (16), tr. 2- 12; 13) Ban biên tập Tạp chí Tòa án nhân dân (2010) “Làm chết tử tù có phạm tội?”, Tạp chí Tòa án nhân dân (23), tr. 30 - 34; 14) GS. TS Nguyễn Ngọc Anh (2010) “Giảm hình phạt tử hình trong Bộ luật hình sự thể chế hóa quan điểm nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta”, Tạp chí Tòa án nhân dân (12), tr. 15 - 19; 15) ThS. Phạm Văn Báu (2012) “Hình phạt tử hình trong Luật hình sự Việt Nam”, Tạp chí Tòa án nhân dân (12), tr. 28 – 37;… và một số bài viết khác có liên quan. Tuy nhiên nhìn một cách tổng thể thì các công trình khoa học và những chuyên đề, bài viết nêu trên chỉ nghiên cứu ở chừng mực nhất định, chung chung về vấn để tử hình trong Luật hình sự mà chưa đưa ra được cơ sở lý luận thực tiễn chuyên sâu, đặc biệt là chưa đưa ra được cơ sở lý luận và thực tiễn để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình trong Luật hình sự Việt Nam. Để từ đó đề xuất hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam cho phù hợp với xu thế hội nhập Quốc tế ngày càng sâu rộng, phù hợp với tình hình phát triển của đất nước, đáp ứng được công cuộc cải cách Tư pháp mà Nghị quyết số 08/NQ- TW và Nghị quyết 49/NQ-TW của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách Tư pháp đến năm 2020 đã chỉ ra. 3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của luận văn 3.1 Mục đích của luận văn Luận văn tập trung nghiên cứu một số vấn đề cơ bản mang tính lý luận để giảm và tiến tới xóa bỏ hình phạt tử hình trong Luật hình sự Việt Nam. Vì
  • 16. 9 vậy luận văn phải đưa ra những lập luận, phân tích một cách sâu rộng, xác đáng, khoa học và có tính biện chứng góp phần nhỏ cho các nhà làm luật, các đọc giả quan tâm đến việc góp ý sửa đổi hoàn thiện chính sách pháp luật hình sự Việt Nam theo định hướng của Đảng và Nhà nước với tinh thần hướng thiện, đảm bảo quyền con người trong đó có quyền được sống… hướng tới mục đích để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình trong Luật hình sự Việt Nam trong tương lai. 3.2 Nhiệm vụ của luận văn 1) Về mặt lý luận, luận văn phải đưa ra nhận thức đầy đủ về “Một số vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình trong Luật hình sự Việt Nam”. Lý luận phải làm rõ được phương pháp luận của việc tiếp cận vấn đề; phải đi sâu phân tích để tác động vào nhận thức của cộng đồng về sự cần thiết phải giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình trong Luật hình sự Việt Nam; Phải phân tích các quy định trong BLHS năm 1999 được sửa đổi bổ sung một số điều năm 2009 vẫn còn tồn tại một loạt nhược điểm cơ bản. Từ đó, đưa ra sự nhận thức đúng đắn sát thực với chủ trương cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay và trong tương lai. 2) Về mặt thực tiễn, luận văn phải làm sáng tỏ những vấn đề mà qua thực tiễn xét xử, thi hành hình phạt tử hình và thực tiễn áp dụng các quy định của PLHS về hình phạt tử hình để làm minh chứng đáng tin cậy, từ đó đưa ra một số vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình trong Luật hình sự Việt Nam. 3) Về mặt lập pháp, trên cơ sở lý luận và thực tiễn luận văn đã chỉ ra một số điểm còn tồn tại, bất cập về hình phạt tử hình để góp ý kiến, đề xuất với các nhà làm luật có thể hoàn thiện các quy định của PLHS nước ta sao cho phù hợp các quan hệ xã hội đang tồn tại trong giai đoạn đương đại và sẽ phát triển trong tương lai, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay chúng ta đang xây dựng “Nhà nước Pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân” [37, tr. 85].
  • 17. 10 Và cuối cùng, luận văn phải đưa ra đề xuất về hoàn thiện PLHS Việt Nam phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế và sự phát triển của đất nước trong tương lai để đến năm 2020 khi nước ta đã cơ bản trở thành nước Công nghiệp hiện đại, trong đó quyền con người được đảm bảo. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn Luận văn tập trung nghiên cứu “Một số vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình trong Luật hình sự Việt Nam”. Trên cơ sở nghiên cứu này để đưa ra lý luận nhằm hoàn thiện chính sách PLHS về hình phạt tử hình, mà cụ thể là các quy định của BLHS hiện hành trong thời gian tới nếu được sửa đổi cho phù hợp với Hiến pháp 2013, cũng đồng thời phù hợp với sự phát triển của đất nước cả về kinh tế, chính trị và xã hội theo hướng hiện đại hoá hội nhập quốc tế, nâng cao vị thế trên trường quốc tế. Phạm vi nghiên cứu chủ yếu đi sâu phân tích một cách khoa học nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản để các nhà làm luật và các nhà khoa học-pháp luật đi đến tính thống nhất cao trong quan điểm để trong thời gian tới sẽ đặc biệt quan tâm đến vấn đề này và cụ thể hoá vấn đề này, nhằm đáp ứng với xu thế hội nhập quốc tế và cũng đồng thời thể hiện tính khoan hồng, nhân đạo của chính sách hình sự Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và phát triển. Nhìn chung qua nghiên cứu cho thấy: hình phạt tử hình là một vấn đề có tính đa dạng phức tạp và rộng lớn đã được nhiều nhà nghiên cứu khoa học đánh giá dưới nhiều góc độ khác nhau. Bản thân tác giả hiện đang công tác trong ngành Thi hành án dân sự, do vậy nhận thức về việc nghiên cứu khoa học về “Một số vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình trong Luật hình sự Việt Nam” còn có những hạn chế nhất định, tác giả rất mong nhận được các ý kiến chỉ bảo, góp ý của các chuyên gia, các thầy cô giáo và các bạn đồng nghiệp để đề tài này có thể được nghiên cứu chuyên sâu hơn.
  • 18. 11 5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở vận dụng phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về Nhà nước và Pháp luật, về tội phạm học, xã hội học; về quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về chiến lược cải cách Tư pháp đến năm 2020. Phép duy vật biện chứng là phương pháp luận để nhận thức bản chất của vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình trong Luật hình sự Việt Nam. Quan điểm duy vật lịch sử được coi là cơ sở phương pháp luận để nhận thức quy luật phát triển của xã hội của thời đại mà chúng ta hướng tới để xây dựng (xã hội XHCN tiến tới chủ nghĩa cộng sản). Nhờ đó, người nghiên cứu làm rõ những nét đặc thù và giá trị kế thừa có chọn lọc phù hợp với từng điều kiện, hoàn cảnh, trong từng thời kỳ để việc áp dụng các quy định của BLHS đối với một số cấu thành tội phạm trước đây và hiện tại đang ở khung hình phạt tử hình thì nay theo định hướng về hạn chế và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình trong tương lai khi đất nước phát triển theo hướng Công nghiệp hóa hiện đại hóa. Bên cạnh đó đề tài được nghiên cứu trên cơ sở kết hợp với một số phương pháp nghiên cứu cụ thể khác như phương pháp thống kê, phân tích, so sánh, tổng hợp. Nhờ sử dụng các phương pháp nói trên, luận văn có một số đánh giá về những tồn tại hạn chế và những điểm còn bất cập chưa phù hợp với thực tế áp dụng trong giai đoạn hiện nay và giai đoạn tiếp theo khi đất nước phát triển theo hướng hiện đại, hội nhập quốc tế sâu rộng, để từ đó có hướng đề xuất hoàn thiện PLHS Việt Nam hiệu quả nhất đáp ứng được cả trong hiện tại và tương lai. 6. Những cái mới về mặt khoa học của luận văn Thứ nhất, Luận văn đưa ra được luận chứng về sự cần thiết phải giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình trong Luật hình sự Việt Nam. Thứ hai, Luận văn đưa ra những quan điểm mang tính định hướng đúng
  • 19. 12 phù hợp với lộ trình hội nhập quốc tế, Luật pháp quốc tế cả hiện tại và trong tương lai mà Việt Nam chúng ta đã và đang tiến hành ký kết, tham gia một cách đầy đủ và có trách nhiệm với cộng đồng quốc tế. Thứ ba, Luận văn cũng đã đưa ra đề xuất cụ thể về thời điểm phù hợp để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình đối với một số cấu thành tội phạm không còn phù hợp trong giai đoạn hiện nay khi nền kinh tế đang trên đà phát triển, nhận thức xã hội có nhiều đổi thay mang tính tích cực. Đồng thời đưa ra một số kiến giải lập pháp nhằm hoàn thiện chính sách pháp luật hình sự đảm bảo tính nhất quán về mặt chủ trương thể hiện tính nhân đạo, nhân văn cao cả của Đảng và Nhà nước ta nhưng vẫn đảm bảo được hiệu quả của việc quản lý xã hội. 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Đề tài có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn trong nghiên cứu chính sách pháp luật hình sự Việt Nam. Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần phát triển lý luận về một số vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình trong Luật hình sự Việt Nam. Để từ đó đưa ra những luận cứ khoa học làm cơ sở cho việc nghiên cứu có chọn lọc nhằm thể chế hoá chính sách nhân đạo của Nhà nước trong quá trình hoàn thiện pháp luật hình sự quy định về hình phạt tử hình. Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu đề tài có thể phục vụ cho việc trang bị kiến thức chuyên sâu về mặt lý luận để từng bước thay đổi nhận thức đối với cán bộ pháp luật, các học giả, các nhà quản lý và hoạch định chính sách pháp luật… để góp một phần nhỏ trong lĩnh vực hoàn thiện chính sách pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng, tạo tiền đề thuận lợi cho công cuộc xây dựng “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân” [65, Điều 2].
  • 20. 13 8. Kết cấu của luận văn Trong khuôn khổ hạn chế của luận văn với mục đích thực hiện những nhiệm vụ trong phạm vi một số vấn đề cơ bản của việc nghiên cứu đề tài. Do đó, bên cạnh Lời nói đầu, Kết luận, Phụ lục và Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn còn có 3 chương. Cụ thể như sau: Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về hình phạt tử hình. Chương 2: Những quy phạm của Pháp luật hình sự Việt Nam quy định về hình phạt tử hình từ sau cách mạng tháng 8 năm 1945 đến nay . Chương 3: Các luận cứ nhằm hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam theo hướng giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình.
  • 21. 14 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÌNH PHẠT TỬ HÌNH TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. Các nghiên cứu hiện nay về hình phạt tử hình Ở Việt Nam chúng ta do điều kiện hoàn cảnh đất nước bị đô hộ nhiều năm của chế độ Thực dân phong kiến và Đế quốc Mỹ, chúng ta phải trải qua hai cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc chống lại hai cường quốc mạnh vào hạng nhất thế giới là Thực dân Pháp và Đế quốc Mỹ trong nhiều năm, cho nên nền kinh tế cũng còn gặp nhiều khó khăn. Chính vì vậy, khoa học luật Hình sự Việt Nam ra đời rất muộn so với các nước tiến bộ trên thế giới. Với những điều kiện, bối cảnh đất nước như vậy thì việc nghiên cứu lý luận về hình phạt nói chung và hình phạt tử hình nói riêng không có sự quan tâm phát triển. Vào những năm trước đây (khoảng thập niên 90 của thế kỷ XX), chưa có một tài liệu nào mang tính chất nghiên cứu về hình phạt tử hình ở nước ta giai đoạn này, mà hình phạt tử hình chỉ có thể tìm thấy hoặc được đề cập rất ít, mang tính chất tìm hiểu ở một vài giáo trình của các cơ sở đào tạo luật trong nước. Trong những năm gần đây nền kinh tế của đất nước đã có sự đổi mới và phát triển, các quan hệ pháp luật cũng từng bước được quan tâm của xã hội, do đó một số các nhà nghiên cứu khoa học pháp luật hình sự trong nước đã bước đầu có sự quan tâm đến vấn đề hình phạt tử hình trong hệ thống pháp luật hình sự Việt Nam. Cụ thể như: Tác giả Võ Khánh Vinh và Nguyễn Mạnh Kháng, hai tác giả cũng đã nghiên cứu về hình phạt tử hình và cho rằng, việc duy trì hình phạt tử hình ở nước ta hiện nay là một yêu cầu khách quan trong cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm đang diễn ra phức tạp. Tuy nhiên hai tác giả cũng đã đề cập đến việc không ngừng hoàn thiện nó cho phù hợp với tình hình thực tế. Hai tác giả này cũng đã đưa ra hướng hoàn thiện hình phạt tử hình đó là: “đổi mới
  • 22. 15 hình thức thi hành án tử hình và hạn chế hình phạt tử hình trong Tư pháp hình sự thông qua quá trình phi hình sự hoá” [96, tr. 119 - 124; 18, tr. 23]. Tác giả Trần Quang Tiệp trong bài “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về thi hành hình phạt tử hình”, tác giả đã tập trung phân tích một loạt các vướng mắc trong quá trình thi hành hình phạt tử hình. Theo ông, hình phạt tử hình là một hình phạt nghiêm khắc nhất tước đi mạng sống của người bị kết án. Bên cạnh đó ông còn sơ lược lịch sử các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về thi hành hình phạt tử hình, đối chiếu với các quy định về thi hành hình phạt tử hình của các nước trên thế giới, tác giả đã đưa ra một số vấn đề về thi hành hình phạt tử hình ở nước ta cần hoàn thiện, như: “thời hạn xét đơn xin ân giảm án tử hình của Chủ tịch nước, hình thức xử bắn gây tốn kém và gây ức chế về mặt tâm lý cho những người tham gia đội bắn; việc cho phép thân nhân tử tội nhận xác sau khi thi hành hình phạt tử hình”…v.v. [73, tr. 43]. Chính vì vậy, sự điều chỉnh của pháp luật về thi hành hình phạt tử hình cần phải đảm bảo tính chặt chẽ, thận trọng, chính xác tuyệt đối. Tác giả Trần Văn Độ, khi bàn về vấn đề tử hình có quan điểm cho rằng việc duy trì hình phạt tử hình hiện nay ở nước ta là cần thiết nhằm đấu tranh phòng chống một số loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Tuy nhiên, theo tác giả, phạm vi áp dụng hình phạt tử hình nên được thu hẹp lại và chỉ cần giữ hình phạt này đối với các tội giết người, hiếp dâm trẻ em, cướp tài sản, một số tội về ma tuý. Bên cạnh đó, tác giả còn đề nghị luật nên bổ sung một số nội dung theo xu hướng nhân đạo và giảm bớt áp lực hơn về mặt tâm lý cho cả phạm nhân và người thực thi nhiệm vụ như: “cho phép hoãn thi hành án tử hình đối với các trường hợp có khả năng ân giảm, quy định thủ tục bảo đảm thi hành án tử hình nhanh chóng để tránh tâm lý nặng lề, cần thay đổi hình thức xử bắn và bổ sung hình thức tiêm thuốc độc đối với tử tội”…[38, tr. 66] Khi nghiên cứu về hình phạt tử hình trong luật hình sự Việt Nam chúng
  • 23. 16 ta phải kể đến tác giả Phạm Văn Lợi và cộng sự đã nghiên cứu một cách khá chi tiết về hình phạt này được thể hiện tại cuốn sách chuyên khảo: “Một số vấn đề về hình phạt tử hình và thi hành hình phạt tử hình”. Tại đây, tác giả đã phân tích chi tiết khái niệm, đặc điểm, mục đích và bản chất của hình phạt tử hình, đồng thời tác giả cũng đã sơ lược về lịch sử các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về hình phạt tử hình, phân tích những quy định của pháp luật hình sự hiện hành về hình phạt tử hình và thi hành hình phạt tử hình. Trên cơ sở của việc nghiên cứu thực tiễn áp dụng hình phạt tử hình và thi hành hình phạt tử hình ở Việt Nam, nghiên cứu những xu hướng chung quy định của pháp luật hình sự các nước trên thế giới. Tại phần nghiên cứu hình phạt tử hình theo quy định của pháp luật hình sự một số nước trên thế giới tác giả cũng đã đề cập đến quan điểm của các nước đó là có nên duy trì hình phạt tử hình hay xóa bỏ hình phạt tử hình? Nhiều người theo quan điểm đòi phải hủy bỏ hình phạt tử hình cho rằng: Sự sống của con người là cái quý giá nhất mà tạo hóa đã ban cho, con người không nên sử dụng pháp luật để tước đi cái đó. Ngoài ra họ còn lập luận rằng, Tòa án có thể mắc sai lầm trong việc quyết định hình phạt tử hình, mà khi đã thi hành xong hình phạt tử hình thì không sửa chữa được nữa… Mặt khác, xu thế chung của toàn cầu có thể nhận thấy là Cộng đồng quốc tế đã nhất trí hướng tới một thế giới không có hình phạt tử hình… Trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự của nhiều nước, việc hủy bỏ hình phạt tử hình trong hệ thống hình phạt sẽ có xu hướng tăng lên [53, tr. 80- 81]. Tổng quát chung cho thấy các nghiên cứu trong nước về hình phạt tử hình không nhiều và hầu hết đều tập trung khẳng định rằng hình phạt này là còn cần thiết ở nước ta. Tuy nhiên theo xu thế tiến bộ và nhân đạo, các tác giả đều cho rằng nên thu hẹp phạm vi hình phạt tử hình trong BLHS. Bên cạnh
  • 24. 17 đó, cần hoàn thiện pháp luật về thi hành hình phạt tử hình nhằm đảm bảo tính nhân đạo và mục đích răn đe, giáo dục của hình phạt này. Nhưng về mặt thực tế các tác giả chỉ mới đề cập đến vấn đề nhân đạo và một số bất cập trong quá trình áp dụng và thi hành hình phạt tử hình mà chưa đi sâu phân tích dưới các góc độ khác nhau để thấy rõ những điểm còn bất cập, tồn tại; đồng thời chưa chỉ ra được những đổi thay của nền kinh tế, sự tiến bộ rõ rệt của xã hội trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng của đất nước ta để từ đó đưa ra các giải pháp trong việc hoàn thiện pháp luật hình sự theo hướng giảm và tiến tới xóa bỏ hình phạt tử hình. Trong những năm gần đây đã có một số nghiên cứu, bài viết đi sâu phân tích theo xu hướng giảm và tiến tới xóa bỏ hình phạt tử hình đó là: tác giả Vũ Thị Thúy, với nghiên cứu một cách khá chi tiết về hình phạt tử hình trong luật hình sự Việt Nam được thể hiện tại cuốn sách chuyên khảo: “Một số vấn đề về hình phạt tử hình và thi hành hình phạt tử hình” do nhà xuất bản Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh phát hành năm 2010. Tại đây, tác giả cũng đã phân tích chi tiết những quy định của pháp luật hình sự hiện hành về hình phạt tử hình và thi hành hình phạt tử hình. Trên cơ sở của việc nghiên cứu thực tiễn áp dụng hình phạt tử hình và thi hành hình phạt tử hình ở Việt Nam, nghiên cứu chi tiết hai xu hướng trên thế giới bàn về duy trì hình phạt tử hình hay xóa bỏ hình phạt tử hình. Sau khi phân tích đề cập một loạt các vấn đề tác giả cũng đưa ra quan điểm: “Theo xu hướng chung của thế giới, dựa trên cơ sở điều kiện kinh tế- xã hội của đất nước và tình hình tội phạm, chúng ta cần thu hẹp phạm vi áp dụng hình phạt tử hình trong Bộ Luật hình sự Việt Nam” [72, tr. 193]. Còn GS.TSKH. Lê Văn Cảm* , Nguyễn Thị Lan “Hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam: Giữ nguyên hay cần giảm và tiến tới loại bỏ?”. Tại nội dung bài viết tác giả cũng đã đi sâu phân tích nhiều vấn đề,
  • 25. 18 nhiều khía cạnh trên nhiều bình diện khác nhau như: 1) về mặt nhận thức xã hội; 2) về mặt lập pháp; 3) về mặt thực tiễn; 4) về sự cần thiết bảo vệ quyền sống của con người, bởi lẽ theo tác giả đây là quyền cao quý nhất trong hệ thống các quyền trong lĩnh vực tư pháp hình sự; 5) về quan hệ đối ngoại, tác giả cho rằng: “trong bối cảnh xu thế hội nhập quốc tế hiện nay, để có thể xây dựng thành công NNPQ thì Việt Nam không thể đứng ngoài xu thế đó… Theo tính toán của tổ chức ân xá quốc tế thì trong pháp luật hình sự của mình có 7 quốc gia (trong đó có Việt Nam) thuộc nhóm có số tử tù hàng năm cao nhất” [18, tr. 3-11]. Từ đó tác giả đưa ra quan điểm cần giảm và tiến tới loại bỏ hình phạt tử hình trong Luật hình sự Việt Nam. Đặc biệt trong thời gian gần đây, để cụ thể hóa Hiến pháp năm 2013 đi vào cuộc sống, đẩy mạnh triển khai thực hiện chính sách pháp luật hình sự theo tình thần Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Trong đó “đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội; Hạn chế áp dụng hình phạt tử hình theo hướng chỉ áp dụng đối với một số ít loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng” [8, tr. 1-2]. Do đó, Đảng và Nhà nước ta chủ trương lấy ý kiến rộng rãi của nhân dân và đặc biệt là đội ngũ trí thức góp ý vào dự thảo sửa đổi Bộ luật hình sự cho phù hợp với tình hình thực tế và thực tiễn áp dụng. Việc sửa đổi bổ sung lần này trong dự thảo Bộ luật hình sự có một số vấn đề có liên quan đến hình phạt tử hình đã nhận được sự quan tâm của dư luận xã hội và của các học giả, các nhà luật gia với nhiều quan điểm khác nhau xung quanh việc có nên bỏ hẳn án tử hình hay không? Giảm bao nhiêu tội và những tội nào?. Trong bài viết “Giảm hình phạt tử hình trong dự thảo Bộ luật hình sự sửa đổi: từ góc nhìn của công chúng và chuyên gia” của TS. Trương Hồ Hải. Tại bài viết này tác giả đã đề cập đến quyền sống theo các quy định của pháp luật quốc tế, pháp luật Việt Nam; các quan điểm về việc giảm số lượng tội danh có
  • 26. 19 mức án tử hình tại các cuộc hội thảo nghiên cứu hoàn thiện Bộ luật hình sự sửa đổi của các chuyên gia, để từ đó đưa ra quan điểm: Hình phạt tử hình quy định trong luật hình sự liên quan đến quyền sống của con người. Ở mỗi quốc gia, việc quy định hình phạt tử hình là khác nhau, phụ thuộc vào điều kiện kinh tế- xã hội và chính trị ở mỗi nước. Hiện trên thế giới đã có rất nhiều nước bỏ hình phạt tử hình trong luật hình sự; những nước còn quy định thì hạn chế về số lượng và thi hành án tử hình cũng khác nhau. Có nước thi hành với số lượng ít, có nước có tuyên án tử hình nhưng cho hoãn không thi hành [87, tr. 110]. Khi nói đến quyền sống, thì theo các quy định của pháp luật quốc tế và trong hệ thống pháp luật Việt Nam cũng quy định rất rõ ràng đó là: Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền (UDHR) năm 1948 là tuyên ngôn đầu tiên chính thức được khẳng định: Quyền sống là quyền tự nhiên, cơ bản của con người. Còn tại khoản 1, điều 6 của Công ước quốc tế về các quyền dân sự chính trị năm 1966 (ICCPR) đã cụ thể hóa những quy định của UDHR như: “Mọi người đều có quyền cố hữu được sống. Quyền này Phải được pháp luật bảo vệ. Không ai có thể bị tước mạng sống một cách tùy tiện” [40, tr. 255]. Theo đó việc áp dụng hình phạt tử hình không được trái với những quy định của ICCPR và của Công ước về ngăn ngừa và trừng trị tội diệt chủng;… không được viện dẫn Điều 6 để trì hoãn hoặc ngăn cản việc xóa bỏ hình phạt tử hình. Ở Việt Nam, quyền sống được ghi nhận từ rất sớm, ngay trong tuyên ngôn độc lập năm 1945 Hồ Chủ tịch đọc tại Quảng trường Ba đình lịch sử. Mặc dù trong các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992 quyền sống không được đề cập trực tiếp nhưng được quy định gián tiếp thông qua các quyền bất khả xâm phạm về thân thể, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của công dân. Đến Hiến pháp năm 2013, quyền này mới được nêu trực tiếp trong Điều 19: “Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật” [65, Điều 19]. Như vậy,
  • 27. 20 với những quy định này chúng ta nhận thấy: ở Việt Nam chúng ta hiện vẫn là một trong những nước trên thế giới duy trì hình phạt tử hình. Nhưng qua mỗi giai đoạn sửa đổi, số lượng tội danh có mức án tử hình cũng tăng giảm khác nhau, tuy nhiên lần sửa đổi gần nhất của Bộ luật hình sự 1999 vào năm 2009 hình phạt tử hình đã giảm xuống còn 22 tội danh; đến thời điểm hiện tại (27/11/2015) Quốc hội đã thông qua dự án luật sửa đổi bổ sung Bộ luật hình sự năm 2015 đã giảm bớt, hiện chỉ còn 18 Điều. Về nguyên tắc, mặc dù việc áp dụng hình phạt tử hình đã tương thích với các tiêu chuẩn của luật pháp quốc tế, nhưng phạm vi áp dụng hình phạt này còn nhiều hơn so với các nước trên thế giới. Trong khi đó tại một nghiên cứu khá chi tiết của PGS. TS. Trịnh Quốc Toản về “Hình phạt tử hình trong luật hình sự Việt Nam”, tác giả đã đi sâu phân tích khá chi tiết đồng thời đưa ra quan điểm: Tử hình là hình phạt nghiêm khắc nhất trong hệ thống hình phạt của Nhà nước, tước đi quyền quan trọng và thiêng nhất của con người, đó là quyền sống. Xuất phát từ quan điểm hình phạt tử hình (cho dù thể thức thi hành nó trong thực tế như thế nào cũng là một hình phạt dã man, phi luân lý, vô ích, không có tác dụng răn đe người phạm tội). Việc duy trì hình phạt này không có tác dụng làm giảm tội phạm, kể cả các tội phạm đặc biệt nghiêm trọng [87, tr. 148]. Trong thực tiễn nhiều năm áp dụng cho thấy, hình phạt nghiêm khắc thái quá chưa thể hiện rõ nét có tác dụng tích cực trong đấu tranh phòng, chống tội phạm. Bởi lẽ mục đích của hình phạt phải là giáo dục con người lầm lỗi trở thành người có ích cho xã hội. Đặc biệt khi pháp luật đóng sập cánh cửa cho việc hoàn lương đối với người phạm tội đều không có ý nghĩa phòng ngừa tích cực… Chính vì lẽ đó mà không phải ngẫu nhiên mà Nghị quyết số 49-NQ/TW đã khẳng định tính hướng thiện của hình phạt “hạn chế
  • 28. 21 áp dụng hình phạt tử hình” Đây có thể coi đó là một chỉ đạo định hướng có ý nghĩa hết sức quan trọng trong đổi mới tư duy, đổi mới nhận thức về chính sách hình sự trong chiến lược cải cách tư pháp ở nước ta đến năm 2020. Bên cạnh đó có ý kiến cho rằng: quyền sống của kẻ phạm tội có thể thay thế bằng biện pháp khác có thể tiêm thuốc làm mất khả năng phạm tội, không nhất thiết phải tước đi quyền sống của kẻ phạm tội mà vẫn đạt được mục tiêu ngăn ngừa tái phạm, răn đe tội phạm chung. Việc đề xuất bỏ án tử hình [87] một số quan điểm còn dựa trên lập luận cho rằng: mức độ nguy hiểm cho xã hội mà một số tội gây ra như: (tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phong bệnh; chống mệnh lệnh và đầu hàng địch). Bởi trong thực tế nhiều năm chúng ta chưa áp dụng hình phạt tử hình cho nhóm tội danh này. Quan điểm này cũng được nhiều chuyên gia trong lĩnh vực pháp luật đồng tình. Còn các nhóm về xâm phạm an ninh quốc gia các quan điểm cũng đồng tình nên xóa bỏ với những lập luận đó là chế độ chính trị của nước ta tương đối ổn định. Cùng với chính sách nhân đạo thì trong xu thế hội nhập quốc tế, chúng ta đã có những biện pháp chống lại âm mưu diễn biến hòa bình, nói xấu chế độ nên các hành vi phạm tội xâm phạm an ninh ít xảy ra hoặc tính chất, mức độ, hậu quả thường chưa đến mức phải phạt tử hình. Tương tự một số tội thông thường cũng như vậy (Ví dụ: tội cướp tài sản, buôn lậu…). Còn quan điểm về việc giảm số lượng tội danh có mức án tử hình thì TS. Trần Công Phàn-chuyên gia nghiên cứu chính sách pháp luật cũng đều cho rằng hiện tại Bộ luật hình sự hiện hành của chúng ta vẫn còn 22/272 tội có mức án tử hình, chiếm tỷ lệ 8% trong tổng số các tội danh có trong Bộ luật hình sự như hiện nay là cao vì thế cần thu hẹp phạm vi áp dụng hình phạt tử hình [57, tr. 10]. Cùng quan điểm trên, tại hội thảo nghiên cứu hoàn thiện BLHS do
  • 29. 22 chương trình phát triển của liên hợp quốc (UNDP) và Bộ Tư pháp tổ chức vào tháng 11/2014, các chuyên gia đã đề xuất giảm 09 tội danh, bao gồm (Hiếp dâm trẻ em; cướp tài sản; sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh; tàng trữ vận chuyển trái phép chất ma túy; phá hủy công trình phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia; tham ô tài sản; nhận hối lộ; chống mệnh lệnh và tội đầu hàng địch. Đặc biệt là tại cuộc hội thảo lấy ý kiến sửa đổi Bộ luật hình sự do Ủy Ban Tư pháp của Quốc hội tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh, các chuyên gia cũng đã tập trung vào một số vấn đề như bỏ hình phạt tử hình ở một số tội, bỏ hẳn nhiều tội thực tế chưa bao giờ áp dụng, thu hẹp hành vi trong một số tội danh. Theo ông Trần Công Phàn- Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao cho biết: hiện nay, có 22 tội danh có khung hình phạt cao nhất là tử hình. Qua tổng kết thi hành Bộ luật hình sự cho thấy có một số tội danh rất ít khi tòa án xử phạt đến tử hình, thậm trí có tội chưa bao giờ tòa áp dụng mức hình phạt cao nhất này. Đặc biệt tại cuộc hội thảo này PGS.TS. Trịnh Quốc Toản - Quyền chủ nhiệm khoa luật – Đại học Quốc gia Hà Nội đã đưa ra dẫn chứng một cách cụ thể có tính thuyết phục về những tội danh có khung hình phạt tử hình nhưng chưa bao giờ áp dụng trong thực tiễn đó là: các tội xâm phạm an ninh quốc gia (Tội phản bội tổ quốc; Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân; Tội bạo loạn; Tội hoạt động phỉ; Tội phá hoại cơ sở vật chất của Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam); Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, Tội chiếm đoạt tàu bay, tàu thủy; Tội chống mệnh lệnh; Tội hủy hoại vũ khí quân dụng, phương tiện, kỹ thuật quân sự; các tội phạm quốc tế. Do đó tác giả cho rằng, đối với Việt Nam trong giai đoan hiện nay, việc duy trì hình phạt tử hình là cần thiết, nhưng nên cân nhắc tiếp tục loại bỏ hình phạt này đối với một số tội phạm khác, trong đó bao gồm cả những tội phạm mà trong thực tiễn xét xử từ năm 1993 đến năm 2010 đã không bị áp dụng hình phạt tử hình (đã xóa bỏ trong thực tiễn áp dụng) [87, tr. 122-123].
  • 30. 23 1.2. Hình phạt tử hình và cơ sở nhằm giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt này trong luật hình sự Việt Nam 1.2.1. Khái niệm về hình phạt tử hình Tử hình là hình phạt nghiêm khắc nhất trong hệ thống hình phạt của luật hình sự do Nhà nước áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng (thường được gọi là tội tử) để loại trừ vĩnh viễn người đó ra khỏi đời sống xã hội. Quan niệm về tội phạm như thế nào là đặc biệt nghiêm trọng và có thể áp dụng hình phạt tử hình không giống nhau ở những thời đại khác nhau cũng như ở những quốc gia khác nhau. Hình phạt tử hình là việc “tước bỏ tính mạng của một người, còn theo nghĩa thì chữ “tử hình” là có nguồn gốc từ “Hán Việt, có nghĩa là hình phạt chết” [40, tr. 12]. Các nước theo hệ thống luật Anglo - Saxon, hình phạt tử hình trong luật hình sự được định nghĩa là một hình phạt tước đi mạng sống của người phạm tội, được áp dụng đối với những người phạm tội nghiêm trọng (felony). Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi năm 2009 của Việt Nam tại Điều 35 có quy định: “Tử hình là hình phạt đặc biệt chỉ áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng” [64, Điều 35]; Còn tại Bộ luật hình sự 2015 thông qua ngày 27/11/2015 tại khoản 1 Điều 40 có quy định: Tử hình là hình phạt đặc biệt chỉ áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng thuộc một trong nhóm các tội xâm phạm an ninh quốc gia, xâm phạm tính mạng con người, các tội phạm về ma túy, tham nhũng và một số tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác do Bộ luật này quy định [66, Điều 40]. Với tư cách là một loại hình phạt đặc biệt trong hệ thống hình phạt của luật hình sự Việt Nam. Tính chất đặc biệt của nó sẽ được phân tích trong phần các quy định của luật hình sự Việt Nam hiện hành về hình phạt tử hình ở Chương 2 của luận văn này. Tuy nhiên, khi nghiên cứu đặc điểm, khái niệm
  • 31. 24 hình phạt tử hình trong BLHS Việt Nam hiện hành, chúng tôi thấy khái niệm của một số cấu thành chưa phù hợp với đặc điểm kinh tế và tình hình hội nhập trong giai đoạn hiện nay và trong tương lai. Đó là: theo quy định trên thì hình phạt tử hình “chỉ áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng”. Trong khi đó khoản 3 điều 8 BLHS năm 1999, sửa đổi năm 2009 (khoản 4 Điều 9 BLHS năm 2015) quy định: tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có mức cao nhất của khung hình phạt là “trên 15 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình” [64, Điều 8]; [66, Điều 9]. Như vậy, khái niệm này chưa phải thực chất của tính đặc biệt nghiêm trọng, khái niệm còn quá rộng, dễ hiểu nhầm. Vì vậy, theo quan điểm của tôi, đoạn này nên được sửa lại là hình phạt tử hình “chỉ áp dụng đối với người phạm tội có tính chất đặc biệt nguy hiểm cao cho xã hội”. Thứ hai, khái niệm hình phạt tử hình trong BLHS hiện hành cũng không biểu hiện nội dung của hình phạt này. Nội dung của hình phạt tử hình là tước đi mạng sống của người phạm tội. Nội dung này luôn được thể hiện trong các khái niệm hình phạt tử hình dù là dưới góc độ văn hoá hay pháp luật. Vì vậy, từ những phân tích các đặc điểm của hình phạt tử hình và những nội dung phân tích trên chúng ta có thể đưa ra khái niệm về hình phạt tử hình như sau: “Tử hình là hình phạt đặc biệt nghiêm khắc trong hệ thống hình phạt của luật hình sự Việt Nam, tước đi quyền sống của người phạm tội bị kết án và chỉ được áp dụng đối với những người phạm tội có tính chất nguy hiểm đặc biệt cao cho xã hội, được quy định trong Bộ luật hình sự”. 1.2.2. Các đặc điểm của hình phạt tử hình Hình phạt tử hình, với tư cách là một loại hình phạt đặc biệt trong hệ thống hình phạt của luật hình sự, vì vậy hình phạt tử hình có đầy đủ các đặc điểm chung của hình phạt và đồng thời cũng có cả những đặc điểm riêng biệt mang tính tàn khốc của hình phạt này. Đặc điểm chung 1) Hình phạt tử hình được quy định trong Bộ luật hình sự.
  • 32. 25 Luật hình sự với nhiệm vụ quan trọng đó là đấu tranh phòng ngừa và phòng chống tội phạm mà công cụ để thực hiện nhiệm vụ này là hình phạt. Do đó, hình phạt là một trong những chế định quan trọng nhất được quy định trong BLHS. Hình phạt khi được áp dụng nghĩa là tước bỏ hoặc hạn chế quyền và lợi ích của người phạm tội. Chính vì vậy để tránh tuỳ tiện trong áp dụng hình phạt thì việc áp dụng hình phạt cũng như xác định tội phạm cần phải được BLHS quy định, có giá trị pháp lý chỉ sau Hiến pháp quy định. Điều 26 BLHS hiện hành nêu rõ: “Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất …Hình phạt được quy định trong Bộ luật hình sự và do Toà án quyết định.” [62]; [64, tr.18]. Quy định này chính là biểu hiện của sự tuân thủ triệt để nguyên tắc pháp chế trong xây dựng và áp dụng luật hình sự, đồng thời biểu hiện sự quán triệt của chính sách hình sự nước ta trong việc quy định và áp dụng hình phạt. Tinh thần đó thể hiện ở chỗ ngoài những hình phạt được quy định trong BLHS, không một biện pháp cưỡng chế nào được áp dụng với tính cách là hình phạt. Với đặc điểm là hình phạt nghiêm khắc nhất trong hệ thống hình phạt nên trong BLHS, hình phạt tử hình được quy định ở cả phần chung và phần các tội phạm. Ở phần chung, Điều 35 (Điều 40 BLHS năm 2015) quy định hình phạt tử hình với tư cách là hình phạt chính với các nội dung: khái niệm hình phạt tử hình, các trường hợp không được áp dụng hình phạt tử hình, không được thi hành hình phạt tử hình và trường hợp người bị kết án tử hình được ân giảm. Ở phần các tội phạm, hình phạt tử hình được quy định là chế tài lựa chọn kèm theo các tội phạm cụ thể. Theo BLHS hiện hành, hình phạt tử hình được quy định tại 22 điều luật và BLHS năm 2015 thông qua ngày 27/11/2015 quy định 18 điều luật. 2) Hình phạt tử hình do Toà án nhân danh Nhà nước quyết định Điều 102 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Tòa án nhân dân là cơ quan
  • 33. 26 xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp…” [65, Điều 102]. Điều 26 BLHS hiện hành (Điều 30 BLHS năm 2015) quy định: Hình phạt “do Toà án quyết định”, quy định này phù hợp với nguyên tắc Hiến định. Mặt khác các quy định của luật tố tụng cũng đã thừa nhận điều đó, bởi lẽ một số lĩnh vực khác (không phải hình sự), không bắt buộc Toà án phải giải quyết (chẳng hạn lĩnh vực kinh tế, dân sự, hành chính), những lĩnh vực này các đương sự có thể lựa chọn cách giải quyết khác, không thông qua Toà án. Duy nhất, trong lĩnh vực hình sự, việc giải quyết vụ án buộc phải thông qua các khâu tố tụng được quy định hết sức chặt chẽ và nghiêm ngặt. Điều này xuất phát từ hậu quả pháp lý của việc giải quyết vụ án hình sự có ảnh hưởng rất lớn đối với người phạm tội, biểu hiện cụ thể qua việc quyết định hình phạt. Vì thế, Nhà nước đã giao cho các cơ quan trong Bộ máy Nhà nước, đại diện mình, thực hiện các khâu trong quá trình tố tụng đảm bảo chặt chẽ từ điều tra (Công an), truy tố (Viện kiểm sát). Đối với hoạt động xét xử và quyết định hình phạt, Nhà nước giao cho Toà án. Trong đó, khâu xét xử và quyết định hình phạt được xem là quan trọng nhất, bởi vì: tại Điều 9 BLTTHS 2003 quy định: “không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật” [61, Điều 9]. Do tính chất nghiêm trọng của hành vi phạm tội và hậu quả pháp lý của hình phạt, Nhà nước đã trao cho Tòa án toàn quyền quyết định hình phạt một cách độc lập mà không chịu sự chi phối của bất kỳ cơ quan nào mà chỉ tuân theo pháp luật. Trong việc quyết đình hình phạt tử hình cũng không ngoại lệ. Việc Chủ tịch nước xem xét đơn xin ân giảm của người bị kết án tử hình không phải là hoạt động xét xử và việc chấp nhận hay bác đơn xin ân giảm cũng không phải là hoạt động quyết định hình phạt. Quyết định hình phạt tử hình của Tòa án là hoạt động trên cơ sở căn cứ vào hành vi phạm tội được thực hiện, đối chiếu các quy định của BLHS, tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm, nhân
  • 34. 27 thân người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự để tuyên phạt tử hình đối với người phạm tội sao cho đúng người, đúng tội. Việc xét đơn xin ân giảm án tử hình của Chủ tịch nước là một thủ tục mang tinh chất nhân đạo chứ không phải là việc xét lại bản án tử hình đã có hiệu lực pháp luật. Vì thế, khi Chủ tịch nước chấp nhận đơn xin ân giảm án tử hình không có nghĩa là hủy bản án tử hình do Tòa án quyết định mà chỉ chấp nhận không thi hành án tử hình vì mục đích nhân đạo, thể hiện bản chất ưu việt của Nhà nước việt Nam xã hội chủ nghĩa “của dân, do dân và vì dân”. 3) Hình phạt tử hình chỉ có thể được áp dụng đối với người phạm tội. Hình phạt với tính chất là một biện pháp trách nhiệm, hậu quả pháp lý của việc thực hiện hành vi phạm tội. “Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự” [64, Điều 2], nghĩa là trách nhiệm hình sự chỉ phát sinh cho một cá nhân khi họ đã thực hiện hành vi phạm tội. Đặc điểm này xuất phát từ nguyên tắc trách nhiệm hình sự cá nhân. Như vậy, hình phạt tử hình cũng là một loại hình phạt cho nên chỉ được áp dụng đối với người phạm tội. Đặc điểm riêng Bên cạnh những điểm đặc trưng của một hình phạt, hình phạt tử hình còn chứa đựng những đặc điểm riêng vốn có của nó. Bởi lẽ, nó là một hình phạt nghiêm khắc nhất trong hệ thống hình phạt, vì vậy chúng ta cần đi sâu phân tích để tìm ra những tồn tại bất cập đó là: 1) Hình phạt tử hình có một đặc tính riêng biệt đó là hình phạt nghiêm khắc nhất tước đi mạng sống của người phạm tội. Đặc điểm này chỉ phù hợp đối với những người phạm tội có tính chất nguy hiểm đặc biệt cao cho xã hội, với mục đích tước bỏ tuyệt đối khả năng tái phạm của người phạm tội này. Bởi lẽ, một người đã cố ý phạm tội có tính chất nguy hiểm đặc biệt cao cho xã hội thì thông thường họ sẽ không có tính người, không phân biệt được đúng
  • 35. 28 sai, ý nghĩa nhân đạo mà xã hội lên án (chẳng hạn giết người diệt khẩu, giết nhiều người có tính chất giã man, côn đồ…). Do đó, hình phạt này đảm bảo được việc thực hiện mục đích phòng ngừa riêng. Tức là kẻ phạm tội này buộc phải đối diện với hình phạt tử hình, vì khi đã mất tính người thì kẻ phạm tội này sẽ không thể giáo dục được nữa. 2) Do hình phạt có đặc điểm nghiêm khắc nhất trong hệ thống hình phạt và chỉ được áp dụng đối với người phạm một tội có tính nguy hiểm đặc biệt. So với các biện pháp trách nhiệm pháp lý khác dù rất nghiêm khắc nhưng cũng chỉ có thể với nội dung là tước đi quyền tự do của người phạm tội. Người bị áp dụng hình phạt tử hình sẽ bị tước đi tất cả mọi quyền và lợi ích, kể cả quyền được sống. Do đây là loại hình phạt nghiêm khắc nhất nên chỉ dành cho những tội phạm có tính đặc biệt nguy hiểm cao nhất trong số các tội phạm được quy định. Tuy nhiên, khi đối chiếu với các mục đích của hình phạt thì đương nhiên sẽ mất đi một trong bốn mục đích của hình phạt nói chung (mục đích ngăn ngừa riêng). Bởi lẽ khi áp dụng hình phạt tử hình thì sinh mạng của người bị kết án đã bị tước bỏ vĩnh viễn nên người đó đương nhiên sẽ không còn cơ hội để cải tạo - giáo dục trong nhà tù được nữa. Chính vì vậy, hình phạt tử hình chỉ còn lại có 3 trong 4 mục đích của hình phạt nói chung [87, tr. 190]. Do đó, hình phạt tử hình với ý nghĩa là hình phạt đặc biệt và nghiêm khắc nhất so với tất cả các loại hình phạt khác trong hệ thống hình phạt của PLHS Việt Nam chỉ phù hợp đối với những tội phạm có tính đặc biệt nguy hiểm như (giết người diệt khẩu, giết nhiều người, giết người phi tang…). Bởi vì áp dụng tử hình đối với kẻ phạm tội này chính là để răn đe người phạm tội không phạm phải. Trong thực tế chúng ta thấy: có rất nhiều vụ án cũng có thể người phạm tội do lỗi vô ý dẫn đến chết người, hoặc lỗi cố ý dẫn đến chết người… nhưng do sự hiểu biết đơn thuần quy định của pháp luật về tử hình cho nên họ hay tìm cách
  • 36. 29 chốn chánh, bịt đầu mối để tránh cái chết do án tử hình khi phải đối mặt với cơ quan pháp luật. Vì vậy khi đã giết một người do vô ý nhưng có người khác nhìn thấy họ tiếp tục thực hiện hành vi giết tiếp để bịt đầu mối tránh sự khai báo của người này trước cơ quan pháp luật; mặt khác kẻ phạm tội thường có tâm lý nghĩ rằng đằng nào họ cũng phạm vào tội có khung hình phạt tử hình thì dù giết một người hay nhiều người thì cũng vẫn là khung tử hình, do vậy thà phạm tội tiếp để bịt đầu mối sẽ có cơ hội tránh sự phát hiện của cơ quan bảo vệ pháp luật. Từ đó dẫn tới một số cái chết oan rất thương tâm của người vô tình nhìn thấy hoặc chứng kiến vụ việc (Ví dụ gần đây nhất đó là vụ thảm sát 6 người của gia đình anh Lê Văn Mỹ tại Bình Phước). Trong vụ việc này nếu không có ý định giết người diệt khẩu thì không hà cớ gì kẻ phạm tội lại giết nhiều người đến như vậy. Vụ việc đã được đấu tranh làm rõ đối với hai nghi can, tuy nhiên về mặt khách quan nếu là mục đích cướp tài sản thì những người bị hại đã bị khống chế hoàn toàn không thể chống cự; còn nếu mục đích giết người vì tư thù cá nhân thì hai đứa cháu nhà ông Mỹ hoàn toàn không có tư thù vì chúng chỉ là hai đứa cháu đến chơi nhà ông Mỹ. Do vậy hình phạt tử hình chưa chắc đã là có giá trị răn đe cao nhất mà trái lại nó còn gây tâm lý cho kẻ phạm tội để cố tình bưng bít cho hành vi sai trái của mình đã xảy ra trước đó. Từ đó tội lỗi, lại trồng chất tội lỗi và những người bị hại không phải là mục đích cho việc phạm tội ban đầu cũng phải bị chết oan một cách không đáng có. Đây là một trong những điểm hạn chế tồn tại mà đang cần phải bàn để làm sao hạn chế một số cấu thành có khung phạt tử hình để hạn chế bớt những cái chết thương tâm như vừa phân tích trên. Những cấu thành này có thể chuyển thành phạt tù chung thân nhưng không được ân xá, miễn giảm (trừ trường hợp lập công lớn hoặc lập công chuộc tội). Khi nói đến vấn đề thay thế hình phạt tử hình bằng hình phạt khác, quan điểm của Beccaria cũng cho rằng hình phạt tử hình không ảnh hưởng
  • 37. 30 sâu sắc đến cảm giác của con người bằng các hình phạt khác như tù giam và bắt buộc lao động khổ sai. Bởi lẽ, sự tác động của mỗi hình phạt nằm ở thời gian tồn tại của nó chứ không phải ở cường độ của nó. Ông cho rằng: “xúc cảm của con người không phải sự trừng trị nghiêm khắc nhưng diễn ra chóng vánh mà nó chỉ bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi sự trừng trị mang tính lặp đi lặp lại của hình phạt” [5, tr. 8]. 3) Với tính chất là tước đi mạng sống của người phạm tội cho nên Hình phạt tử hình không còn ý nghĩa giáo dục, cải tạo người phạm tội. Bởi vì, khi đã thi hành hình phạt này thì người phạm tội sẽ không bao giờ còn có cơ hội ăn năn, hối cải, sửa chữa lỗi lầm mà họ đã gây ra. Đây cũng là một trong những điểm bất cập tồn tại gây khó khăn cho công tác phá án, bởi lẽ trong thực tiễn có một số vụ án người phạm tội che dấu đồng phạm nếu chưa có đủ thời gian suy nghĩ để ăn năn hối cải thì họ đã phải bị thi hành án tử hình, thì đương nhiên những manh mối tội phạm sẽ đi vào dĩ vãng cùng cái chết của người bị kết án. Chẳng hạn như vụ án Xiêng Phênh trong đường dây mua bán ma tuy năm 1996 trong thời gian hoãn thi hành án tử hình, Xiêng Phênh đã tỏ ra ăn năn hối cải, tự nguyện khai báo để cơ quan Công an điều tra làm rõ người phạm tội quan trọng là Vũ Xuân Trường để triệt phá tận gốc vụ án [74, tr. 30] 4) Hình phạt tử hình sẽ không mang lại lợi ích trực tiếp cho xã hội nó khác biệt hoàn toàn các hình phạt khác như hình phạt tiền, cải tạo không giam giữ, tù giam… có thể mang lại các lợi ích nhất định cho xã hội từ sự đóng góp của người bị kết án trong quá trình chấp hành hình phạt, lao động cải tạo. Xét ở góc độ kinh tế, đó là một nhược điểm lớn. Bởi lẽ, khi mất đi một cá nhân là mất đi một phần đóng góp vào thu nhập quốc dân hàng năm của quốc gia; về sức mạnh của đất nước cũng sẽ giảm đi bởi mất đi một cá nhân. Trong khi đó để phát triển đất nước chúng ta đang rất cần nguồn nhân lực. Mặt khác tại nghiên cứu về thi hành án hình sự của tác giả Đàm Cảnh Long đã nhận định:
  • 38. 31 “Thi hành hình phạt tử hình bằng hình thức tiêm thuốc độc đang gây tốn kém, lãng phí về chi phí cho việc thi hành án tử hình” [55, tr. 45]. 5) Đặc tính của hình phạt này là tước đi mạng sống vĩnh viễn của con người mà không có thể thay đổi, đây là một đặc điểm quan trọng nhất biểu hiện sự nhược điểm của hình phạt tử hình. Nó khác hẳn với các loại hình phạt khác, một khi đã chứng minh được người bị áp dụng hình phạt bị oan sai hoặc bị áp dụng hình phạt một cách tùy tiện thì hình phạt đó còn có thể sửa chữa được. Bởi lẽ, tất cả các hệ thống TPHS đều tồn tại những vấn đề và khả năng sai sót, không có hệ thống nào có thể tự cho là hoàn thiện, vì vậy nguy cơ người vô tội bị kết án tử hình và bị tước bỏ tính mạng là sai lầm không thể lấy lại được. Theo một nghiên cứu công bố năm 1987 trên tạp trí Stanford Law Review “ở Hoa kỳ cho thấy rằng ở nước này trong giai đoạn 1900 đến 1985, có ít nhất 350 trường hợp người vô tội bị cáo buộc phạm những tội có thể bị kết án tử hình. Trong số đó, 139 người đã bị tuyên án và 23 người bị hành quyết” [45, tr. 38]. 6) Hình phạt tử hình chứa đựng tính cứng nhắc, duy nhất chỉ có một mức độ không thể tăng lên hay giảm xuống trong những trường hợp tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm khác nhau. Vì thế, khi kẻ phạm tội đã phạm phải một tội có thể bị áp dụng hình phạt tử hình, họ chẳng ngần ngại gì khi thực hiện tiếp theo hàng loạt các tội phạm khác cho đến khi bị sa lưới pháp luật. Bởi vì, khi đó Tòa án cũng không thể áp dụng mức phạt nào khác cao hơn so với khi kẻ đó chỉ phạm một tội ban đầu. Đây là một nhược điểm của hình phạt tử hình, cần đặt ra cho các nhà làm luật bàn đến việc sửa đổi chính sách pháp luật hình sự làm sao cho phù hợp, hạn chế việc áp dụng khung hình phạt tử hình đồn thời có chính sách khoan hồng đối với kẻ phạm trọng tội nhưng có thái độ ăn năn hối cải trước cơ quan pháp luật và không lẩn tránh hoặc gây thêm tội lỗi tiếp theo. Trong việc tranh luận về vấn đề có nên duy trì hình phạt tử hình trong hệ thống hình phạt hay không, các nhà lý luận cũng như các chính trị gia
  • 39. 32 thường dựa vào các đặc điểm riêng của hình phạt tử hình để đưa ra quan điểm của mình. Quan điểm ủng hộ hình phạt tử hình đưa ra những lý lẽ chứng minh những đặc tính tích cực của hình phạt tử hình là có thật. Trong khi đó các quan điểm hạn chế và tiến tới xóa bỏ hình phạt tử hình luôn đề cấp đến những điểm còn tồn tại trong thực tế để đưa ra những luận cứ chứng minh một cách khoa học đảm bảo cả góc độ lập pháp, kinh tế, nhân đạo và phù hợp với xu thế chung của thời đại. Về vấn đề này thì theo chúng tôi hiện nay đất nước ta đã có sự phát triển nhất định, do đó chúng ta cần có chính sách pháp luật hình sự làm sao cho phù hợp với chính sách nhân đạo khoan hồng để phục vụ tốt cho sự phát triển kinh tế nhưng vẫn giữ vững được an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, phù hợp với xu thế hội nhập mà Đảng và Nhà nước đã đề ra tại Nghị Quyết số 49- NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị đó là “Hoàn thiện chính sách pháp luật hình sự…, tôn trọng và bảo vệ quyền con người…, đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện… Hạn chế áp dụng hình phạt tử hình ...” [8, tr. 2]. 1.2.3. Bản chất của hình phạt tử hình Bản chất của hình phạt nói chung và hình phạt tử hình nói riêng đều xuất phát từ các điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, hệ tư tưởng, đạo đức lối sống của hình thái kinh tế - xã hội đó quyết định. Khi bàn về bản chất của hình phạt, C.Mác viết: “Hình phạt không phải là một cái gì khác ngoài phương tiện để bảo vệ mình của xã hội chống lại sự vi phạm của các điều kiện tồn tại của nó” [72, tr. 19]. Như vậy, hình phạt thực chất là sự phản ứng của Nhà nước đối với hành vi phạm tội nhằm bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị, của xã hội. Nếu hành vi nguy hiểm cho lợi ích của giai cấp thống trị và của xã hội càng cao thì thái độ phản ứng của Nhà nước càng mạnh mẽ. Mà thái độ phản ứng của Nhà nước đối với người phạm tội được thể hiện chính là thông qua hình phạt. Tuy nhiên sự phản ứng này nó cũng tùy thuộc vào từng
  • 40. 33 thời kỳ lịch sử, tùy vào sự phát triển và tiến bộ của xã hội cũng như khả năng tự vệ của xã hội. Qua thực tiễn cho thấy, nếu khả năng tự vệ xã hội yếu thì tính nghiêm khắc của hình phạt cao để trấn áp, răn đe người phạm tội; ngược lại nếu khả năng tự vệ của xã hội cao thì tính nghiêm khắc của hình phạt giảm, bởi lẽ khi đó Nhà nước có thể áp dụng các biện pháp tác động khác nhằm hạn chế tình hình tội phạm, hoặc người phạm tội tự ý thức hơn khi thực hiện hành vi phạm tội. Chẳng hạn trong thời kỳ đầu của xã hội loài người, hình phạt tử hình được coi là sự báo thù của Nhà nước đối với hành vi phạm tội, nên việc áp dụng nó mang tính chất tàn khốc, dã man được phổ biến trong luật hình sự. Khi xã hội phát triển hơn, nhà nước xây dựng được cơ chế kiểm soát hành vi con người có hiệu quả nên phạm vi áp dụng hình phạt tử hình sẽ dần được thu hẹp. Theo quy luật phát triển thì đến một thời điểm nhất định, nền kinh tế chi thức phát triển, ý thức tuân thủ pháp luật của người dân nâng cao, nhà nước thiết lập được một trật tự xã hội ổn định, có cơ chế kiểm soát hành vi của con người hiệu quả, khả năng tự vệ của con người cao… thì khi đó có thể tiến tới xóa bỏ hình phạt tử hình. Nói tóm lại khi xã hội càng tiến bộ thì các phương tiện tác động đến hành vi của con người càng đa dạng, phong phú, do đó hình phạt không còn chiếm vị trí độc tôn. Chính vì vậy, để điều chỉnh hành vi người phạm tội nó thường mang tính nhân bản và “hướng tới mục tiêu cải hóa người phạm tội” [72, tr. 20]. Hình phạt xuất hiện là vì có sự tồn tại của tội phạm trong xã hội. Giữa hình phạt và tội phạm có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, đó là mối quan hệ nhân - quả. Tuy nhiên hình phạt nó còn có tính xã hội thông qua cơ sở, nền tảng tồn tại của nó; trong khi đó Pháp luật xuất phát từ các quy luật phát triển khách quan của xã hội, từ toàn bộ hệ thống các quan hệ trong từng hình thái kinh tế - xã hội cụ thể. Tuy rằng các quy luật khách quan và các nhu cầu xã hội không phải ảnh hưởng trực tiếp đến nội dung của pháp luật mà phải thông
  • 41. 34 qua ý thức của nhà làm luật, ý thức của nhà làm luật lại chịu ảnh hưởng của các hình thái tư tưởng khác nhau, như kinh tế, triết học, đạo đức, tôn giáo, ý thức chính trị, truyền thống pháp lý cho phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế… Tóm lại, giữa nhu cầu xã hội và sự phản ánh nhu cầu pháp luật có một yếu tố trung gian là ý thức xã hội của thời đại. Ý thức xã hội xác định tính chất, hình thức và mức độ phản ánh chính xác của pháp luật. Nó hoàn toàn khác với quy luật tự nhiên, các quy luật pháp luật có thể phát huy được tính tính cực, nhưng cũng có thể dẫn đến hậu quả tiêu cực; có thể phản ánh được các nhu cầu của xã hội hoặc có thể không hoàn toàn phù hợp với nhu cầu đó. Quá trình xây dựng và áp dụng pháp luật nói chung và hình phạt nói riêng phải xem xét đến một số những vấn đề cơ bản nêu trên. Tùy từng điều kiện hoàn cảnh lịch sử và thời điểm khác nhau, việc áp dụng hình phạt nói chung và hình phạt tử hình nói riêng cần phải có sự thay đổi cho phù hợp với thực tiễn nếu không nó sẽ mất đi giá trị, tính cần thiết và ý nghĩa nhân văn cho sự phát triển xã hội cũng như mất đi ý nghĩa nhân đạo nhân văn cao cả trong quá trình đấu tranh phòng chống tội phạm. Vì vậy, việc quy định thay đổi nội dung của hình phạt tử hình, quy định hình phạt tử hình đối với một loại tội phạm nào phụ thuộc vào các điều kiện kinh tế, xã hội của đất nước ở mỗi giai đoạn cụ thể gắn với đặc điểm các quan hệ xã hội trong giai đoạn đó. Hình phạt nói chung và hình phạt tử hình nói riêng đều là một trong những công cụ của Nhà nước để quản lý xã hội, hình phạt cũng mang tính giai cấp. Biểu hiện rõ nét ở chỗ hình phạt phục vụ cho sự củng cố địa vị thống trị của Nhà nước. Hình phạt là công cụ, phương tiện nhằm bảo vệ trật tự, an toàn xã hội mà bất cứ Nhà nước nào cũng cần đến nó. Tuy nhiên, mức độ cần thiết và sử dụng hình phạt vào những mục đích của Nhà nước. Điều này có nghĩa là, cùng với sự thay đổi của các hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử, mục đích, ý nghĩa, chức năng của hình phạt cũng sẽ thay đổi phù hợp với ý chí của
  • 42. 35 giai cấp thống trị. Có thể thấy rằng, việc coi trọng hành vi nguy hiểm nào đó là tội phạm, bên cạnh yêu cầu nhằm duy trì trật tự xã hội, Nhà nước rất quan tâm đến việc hành vi đó có xâm phạm đến lợi ích và sự tồn tại của giai cấp mình không. Từ việc quy định tội phạm như thế nào, Nhà nước sẽ quy định kèm theo cho các tội phạm cụ thể tương ứng. Vì vậy, thông qua việc quy định hình phạt cho các tội phạm cụ thể, thái độ mang bản chất Nhà nước. Trong xã hội chiếm hữu nô lệ, phong kiến, hình phạt tử hình được giai cấp thống trị sử dụng như một công cụ chủ yếu chống lại các hành vi phạm tội, bảo vệ tuyệt đối quyền và lợi ích của giai cấp mình. Vì vậy, hình phạt tử hình được quy định với phạm vi rất rộng và được áp dụng rất phổ biến. Nội dung của hình phạt tử hình mang nặng tính trừng trị. Hình thức thi hành hình phạt tử hình gồm nhiều loại dã man, tàn khốc. Còn hình phạt tử hình trong xã hội Tư bản trước đây, giai cấp thống trị cũng sử dụng hình phạt này khá phổ biến để bảo vệ chế độ Tư bản chủ nghĩa, bảo vệ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, bảo vệ chế độ bóc lột nhằm đem lại lợi ích của giai cấp tư sản. Tuy nhiên trong những thập niên gần đây do sự phát triển của các lực lượng tiến bộ cũng như sự phát triển của nền kinh tế, xã hội cho nên việc áp dụng hình phạt tử hình cũng có sự thay đổi nhất định ở một loạt các nước có nền kinh tế phát triển đặc biệt là các nước ở châu âu. Còn ở Việt Nam, khi còn dưới chế độ Nhà nước Phong kiến và Thực dân nửa Phong kiến; hoặc chế độ ngụy quân, ngụy quyền (ở miền nam từ 1959- trước 30/4/1975) hình phạt tử hình cũng được quy định đối với nhiều loại tội phạm, trong đó có các tội phạm ít nghiêm trọng, vi phạm đạo đức, luân lý. Với hệ thống “ngũ hình” (xuy, trượng, đồ, lưu, tử…), hình phạt tử hình được quy định với nhiều hình thức thi hành, như thắt cổ, chém đầu, chém bêu đầu, nấu trong vạc dầu, xẻo thịt cho đến chết… rất dã man. Khác hẳn với các Nhà nước bóc lột, bản chất của Nhà nước xã hội chủ nghĩa là đấu tranh cho lợi ích của đại đa số nhân dân lao động. Trong công
  • 43. 36 cuộc đấu tranh với tội phạm, Nhà nước không chủ yếu dùng hình phạt mà kết hợp với nhiều biện pháp mang tính giáo dục khác, như: kinh tế, văn hóa, giáo dục…, và lôi cuốn đông đảo nhân dân tham gia bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa. Phòng ngừa tội phạm là mục tiêu chính mà Nhà nước luôn quan tâm đặc biệt. Do đó, hình phạt tử hình ở nước ta, Nhà nước đang trong thời kỳ đầu của thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, không có nội dung nặng nề về trừng trị mà chủ yếu nhằm phòng ngừa tội phạm. Hình phạt tử hình không nhằm bảo vệ lợi ích và củng cố địa vị của số ít giai cấp thống trị mà để bảo vệ thành quả và lợi ích của đa số nhân dân lao động. Chính vì vậy mà hệ thống hình phạt trong luật hình sự luôn được Nhà nước ta sửa đổi bổ sung theo hướng giảm dần việc áp dụng hình phạt tử hình để phù hợp với sự phát triển của đất nước và của xã hội. 1.3. Đối tượng và phạm vi của việc hạn chế và tiến tới xóa bỏ hình phạt tử hình 1.3.1. Đối tượng hạn chế (không) áp dụng hình phạt tử hình 1) Tuổi của người phạm tội có thể không áp dụng hình phạt tử hình Hình phạt tử hình trong các chế độ phong kiến cổ đại, hình phạt này được áp dụng rộng rãi không có sự phân biệt lứa tuổi. Khi nghiên cứu các Bộ luật cổ đại có ghi nhận về hình phạt tử hình, nhưng đều không thấy đề cập đến việc giới hạn tuổi và khả năng bị áp dụng hình phạt tử hình. Như vậy có nghĩa là những ai có thể chịu hình phạt thì đều có thể bị xử tử hình. Chúng ta có thể thấy rõ trong luật hình sự Trung Quốc cổ qua việc áp dụng chế định “độc tù” (giết cả họ). Theo chế định hà khắc này, thì chỉ một người trong dòng họ phạm tội bị cho là thuộc “Thập cá tội) thì cả dòng họ đó bất kể già, trẻ, gái, trai, đều bị xử tử. Việc áp dụng hình phạt theo kiểu chế định này cũng không riêng chỉ có Nhà nước phong kiến cổ đại trung Quốc mà còn cả một số nhà nước phong kiến khác trên thế giới.
  • 44. 37 Xuất phát từ điều kiện kinh tế, xã hội kém phát triển, nhận thức pháp luật còn hạn chế trên mọi phương diện cho nên tình trạng áp dụng hình phạt tử hình không có sự phân biệt tuổi kéo dài trong suốt thời kì lịch sử áp dụng loại hình phạt này. Đến khi phong trào đòi xóa bỏ hình phạt tử hình được dấy lên mạnh mẽ trong thế kỷ XVII, XVIII, XIX, đặc biệt trong thế kỷ XX một số các quốc gia ở Châu âu, Châu Mỹ xóa bỏ hình phạt tử hình, còn lại một số quốc gia khác trên thế giới đã giới hạn độ tuổi có thể chịu hình phạt tử hình trong đó có Việt Nam... Cụ thể, tại BLHS năm 1985 Việt Nam đã cấm áp dụng hình phạt tử hình đối với người chưa thành niên phạm tội (Điều 27). Đặc biệt năm 1989, Đại hội đồng Liên Hiệp quốc thông qua Công ước về các quyền trẻ em đồng thời Công ước cũng đã nhấn mạnh việc trẻ em cần được chăm sóc và bảo vệ đặc biệt. Cụ thể tại Điều 37(a) của Công ước này cấm áp dụng hình phạt tử hình đối với người phạm tội là người chưa thành niên. Với quy định này, các quốc gia trên thế giới bắt đầu quan tâm đến vấn đề tuổi của người phạm tội và hình phạt tử hình. Lần lượt, các quốc gia còn duy trì hình phạt tử hình đã loại trừ khả năng áp dụng hình phạt tử hình đối với người phạm tội là người chưa thành niên. Qua nghiên cứu luật hình sự các nước trên thế giới thì hầu hết đã quan tâm đến tuổi tối thiểu của người phạm tội có thể áp dụng hình phạt tử hình, nhưng vấn đề tuổi tối đa của người phạm tội có thể bị áp dụng hình phạt tử hình thì lại chưa được quan tâm. Tính đến thời điểm hiện tại, chỉ có một số ít quốc gia còn duy trì hình phạt tử hình là có quy định không áp dụng và không thi hành hình phạt tử hình đối với người già như: (Sudan, người trên 70 tuổi); (Liên bang Nga, người trên 65 tuổi); (Mông Cổ, Goatemala, Mexico người trên 60 tuổi) [72, tr. 154]. Còn tại Việt Nam tuy chưa có quy định cụ thể trong BLHS nhưng tại điều 46 cũng đã quy định người gia là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; theo