SlideShare a Scribd company logo
1 of 94
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN PHƯƠNG LINH
HOµN THIÖN PH¸P LUËT
VÒ B¶O VÖ QUYÒN CON NG¦êI CñA NG¦êI CH¦A THµNH NI£N
BÞ T¦íC Tù DO ë VIÖT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN PHƯƠNG LINH
HOµN THIÖN PH¸P LUËT
VÒ B¶O VÖ QUYÒN CON NG¦êI CñA NG¦êI CH¦A THµNH NI£N
BÞ T¦íC Tù DO ë VIÖT NAM
Chuyên ngành: Pháp luật về quyền con người
Mã số: Chuyên ngành đào tạo thí điểm
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS. TRỊNH QUỐC TOẢN
HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Nguyễn Phương Linh
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU.......................................................................................................1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẢO VỆ QUYỀN CON
NGƯỜI CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN BI TƯỚC TỰ
DO BẰNG PHÁP LUẬT..................................................................7
1.1. Khái niệm, đặc điểm người chưa thành niên và người chưa
thành niên bị tước tự do...................................................................7
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm người chưa thành niên ...................................7
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm người chưa thành niên bị tước tự do ............ 13
1.2. Quyền con người của người chưa thành niên bị tước tự do và
sự cần thiết bảo vệ nó ..................................................................... 15
1.3. Những quy định cơ bản của pháp luật quốc tế về bảo vệ
quyền con người của người chưa thành niên bị tước tự do.......... 22
Chương 2: CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ
QUYỀN CON NGƯỜI CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
BỊ TƯỚC TỰ DO VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG........................... 28
2.1. Các quy định của Pháp luật Việt Nam về quyền con người
của người chưa thành niên bị tước tự do ...................................... 28
2.1.1. Trong giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố........................................... 28
2.1.2. Trong giai đoạn xét xử...................................................................... 36
2.1.3. Chế độ của người chưa thành niên bị áp dụng các biện pháp
ngăn chặn tạm giữ, tạm giam; trong giai đoạn thi hành hình phạt
tù có thời hạn, biện pháp tư pháp đưa vào trường giáo dưỡng........... 42
2.1.4. Quyền khiếu nại, tố cáo của người chưa thành niên bị tước tự do ........ 51
2.2. Thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật Việt Nam về bảo
vệ quyền con người của người chưa thành niên bị tước tự do............ 52
2.2.1. Tình hình tội phạm do người chưa thành niên thực hiện................... 52
2.2.2. Thực trạng áp dụng hình phạt tù và biện pháp đưa vào trường
giáo dưỡng với người chưa thành niên.............................................. 55
2.2.3. Thực trạng áp dụng các biện pháp tạm giữ, tạm giam....................... 57
2.2.4. Thực trạng việc đảm bảo quyền bào chữa......................................... 58
2.3. Những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân của nó trong áp
dụng các quy định của pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền
của người chưa thành niên bị tước tự do ...................................... 60
2.3.1. Những tồn tại, hạn chế trong áp dụng các quy định của pháp luật
Việt Nam về bảo vệ quyền của người chưa thành niên bị tước tự do...... 60
2.3.2. Những nguyên nhân của tồn tại, hạn chế trong áp dụng các quy
định của pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền của người chưa
thành niên bị tước tự do.................................................................... 64
Chương 3: NHU CẦU VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC QUY
ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ QUYỀN CON NGƯỜI
CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN BỊ TƯỚC TỰ DO VÀ
NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG............................................... 67
3.1. Nhu cầu hoàn thiện các quy định pháp luật Việt Nam về
quyền con người của người chưa thành niên bị tước tự do.......... 67
3.2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật
Việt Nam về quyền con người của người chưa thành niên bị
tước tự do........................................................................................ 70
3.3. Một số giải pháp khác nâng cao hiệu quả áp dụng các quy
định pháp luật Việt Nam về quyền con người của người chưa
thành niên bị tước tự do................................................................. 73
3.3.1. Vấn đề xử lý chuyển hướng đối với người chưa thành niên vi
phạm pháp luật ................................................................................. 73
3.3.2. Thành lập Tòa án người chưa thành niên .......................................... 76
3.3.3. Nâng cao năng lực của những người tiến hành tố tụng...................... 78
KẾT LUẬN................................................................................................. 80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................... 81
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự.
BLHS: Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung
năm 2009.
Các quy tắc Bắc Kinh: Các quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên Hợp
Quốc về hoạt động tư pháp đối với người vị
thành niên.
CRC: Công ước về quyền trẻ em
ICCPR: Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị.
ICESCR: Công ước về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa.
LHS: Luật hình sự.
NCTN: Người chưa thành niên.
TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao.
UDHR: Tuyên ngôn thế giới về quyền con người.
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu bảng Tên bảng Trang
Bảng 1.1: Một số quyền con người cơ bản của người bị tước tự do 23
Bảng 2.1: Mức phạt tù có thời hạn áp dụng với người chưa thành
niên phạm tội 42
Bảng 2.2: Thống kê tội phạm chưa thành niên (giai đoạn từ 2009
đến năm 2013) 53
Bảng 2.3: Thống kê một số tội danh của NCTN phạm tội thời gian
từ 2009 đến 2013 54
Bảng 2.4: Thống kê việc xét xử sơ thẩm NCTN (giai đoạn từ 2009
đến 2013) 55
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Theo quy định của Luật nhân quyền quốc tế, người bị tước tự do là khái
niệm thường được dùng để chỉ những người do bị áp dụng các biện pháp ngăn
chặn hoặc chế tài hành chính hoặc hình sự dưới các hình thức như bị bắt, tạm
giữ, tạm giam, thi hành hình phạt tù, tập trung cải tạo, tập trung cai nghiện …
mà bị hạn chế quyền tự do đi lại, cư trú và một số quyền tự do khác. Do vị trí
yếu thế, bất lợi của nhóm này mà luật nhân quyền quốc tế coi đây là một
trong những nhóm đối tượng dễ bị tổn thương. Đặc biệt là nhóm đối tượng bị
tước tự do theo tố tụng hình sự, họ có thể bị tước một số quyền công dân để
phục vụ cho một số hoạt động khác nhau của cơ quan có thẩm quyền như các
hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Họ tham gia quá trình tố
tụng với những tư cách pháp lý khác nhau và với tư cách nào họ cũng đều là
những đối tượng này bị áp dụng những biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc
nhất của Nhà nước. Luôn tồn tại sự bất bình đẳng trong mối quan hệ giữa họ
với các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Bởi lẽ, một bên
họ là những đối tượng đang bị tình nghi, bị buộc tội bị kết án còn một bên là
các cơ quan tiến hành tố tụng đại diện nhà nước, nhân danh nhà nước với sức
mạnh cưỡng chế, quyền uy. Tuy nhiên, ngoài việc quy định nghĩa vụ của các
đối tượng này, pháp luật cũng có những quy định cụ thể nhằm bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của họ trong quá trình tố tụng đồng thời yêu cầu các cơ
quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng phải có trách nhiệm tôn
trọng các quyền này.
Nhưng trên thực tế, trong nhiều trường hợp các đối tượng này khó có
khả năng và điều kiện để bảo vệ quyền và lợi ích của mình đồng thời những
quyền và lợi ích hợp pháp này cũng dễ bị những người tiến hành tố tụng vô
2
tình hoặc cố ý xâm phạm. Những xâm phạm này gây ra những hậu quả khó có
thể khắc phục bởi nó liên quan trực tiếp đến những quyền cơ bản của cá nhân
như quyền sống, quyền tự do… của họ.
Nhằm hạn chế một cách tối đa những hành vi xâm phạm nói trên và
hậu quả của nó, trong phạm vi quốc tế và mỗi quốc gia, có nhiều quy định
chặt chẽ về các thủ tục tố tụng, đặc biệt là đối với những người bị tước tự do.
Tuy nhiên, trên thực tế, những quy định trên cũng bộc lộ nhiều điểm bất hợp
lý, thiếu hiệu quả chính vì lẽ đó đã ảnh hưởng đến chất lượng giải quyết các
vụ án, dẫn đến tình trạng oan sai, gây ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi
ích hợp pháp của các đối tượng.
Đặc biệt, đối với các đối tượng bị tước tự do là người chưa thành niên
(NCTN) thì vấn đề trên càng cần phải quan tâm nghiên cứu bởi lẽ, NCTN là
những người chưa phát triển hoàn thiện về thể chất, tinh thần và nhận thức.
Trong quá trình tố tụng, tự bản thân họ không đủ khả năng và hiểu biết để tự
tham gia và bảo vệ mình trong các giai đoạn của quá trình tố tụng. Mặt khác,
thế hệ trẻ là tương lai của đất nước, quyết định đến sự phát triển hay tồn vong
của một quốc gia việc bảo vệ quyền của NCTN, bảo đảm cho họ phát triển
toàn diện, hài hòa cả về thể chất và tinh thần là mối quan tâm chung của toàn
xã hội. Vì vậy, pháp luật đã ban hành các chế định nhằm cung cấp cho họ các
công cụ pháp lý để bảo vệ và thực hiện các quyền của mình trong tố tụng. Do
đó, việc nghiên cứu nội dung các chế định trên đồng thời đánh giá hiệu quả
của nó trên thực tế là một điều hết sức cần thiết nhằm bảo vệ quyền của
NCTN bị tước tự do.
Vì những lý do trên, tôi lựa chọn đề tài “Hoàn thiện pháp luật về bảo
vệ quyền con người của người chưa thành niên bị tước tự do ở Việt Nam”
làm đề tài luận văn thạc sĩ.
3
2. Tình hình nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề liên quan đến NCTN phạm tội và việc áp
dụng pháp luật trong xét xử án hình sự, xét xử NCTN phạm tội đã được một
số nhà khoa học và cán bộ làm công tác thực tiễn tiến hành, công bố trong
nhiều công trình khoa học. Có một số luận án tiến sỹ, luận văn thạc sỹ, một số
giáo trình giảng dạy, bài viết trên tạp chí và một số sách chuyên khảo đã
nghiên cứu về những vấn đề này. Cụ thể như sau:
Đề tài nghiên cứu khoa học:
+) Luật tố tụng hình sự Việt Nam với việc bảo vệ quyền con người, Đề
tài nghiên cứu khoa học, Chủ trì Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Chí – Khoa Luật, Đại
học quốc gia Hà Nội.
+) Thực trạng và giải pháp đấu tranh phòng chống tội phạm do NCTN
thực hiện trên địa bàn thành phố Hà Nội, Chủ trì TS. Trịnh Quốc Toản, 2005.
Sách chuyên khảo:
+) Quyền con người trong quản lý tư pháp, NXB Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2000.
+) Bảo vệ các nhóm dễ bị tổn thương trong tố tụng hình sự, Trung tâm
nghiên cứu quyền con người – quyền công dân và Trung tâm nghiên cứu tội
phạm học và tư pháp hình sự trực thuộc khoa Luật – Đại học quốc gia hà Nội.
+) Luật quốc tế về quyền của các nhóm người dễ bị tổn thương, Trung
tâm nghiên cứu quyền con người và quyền công dân trực thuộc khoa Luật –
Đại học quốc gia Hà Nội.
Một số luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ:
+) Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong
tố tụng hình sự Việt Nam, Luận án tiến sỹ luật học, Lại Văn Trình, 2011.
+) Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là NCTN trong tố tụng hình sự,
Luận án tiến sĩ luật học, Nguyễn Hữu Thế Trạch, 2014.
4
+) Bảo vệ quyền của NCTN trong tư pháp hình sự Việt Nam, Luận văn
thạc sỹ luật học, Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội, Nguyễn Thị Thanh, 2008.
+) Hình phạt tù có thời hạn, áp dụng đối với NCTN phạm tội theo Luật
hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sỹ luật học, Khoa luật Đại học quốc gia Hà
Nội, Nguyễn Thị Thu Huyền, 2012.
+) Quyền của những người bị tước tự do – Lý luận và thực tiễn, Luận
văn thạc sỹ luật học, Khoa luật Đại học quốc gia Hà Nội, Tạ Thị Nhàn, 2013
Một số bài viết trên các tạp chí chuyên ngành của các tác giả:
+) Nguyễn Sơn Hà (2013), “Tìm hiểu quy định của pháp luật quốc tế
về quyền của người bị bắt, tạm giam và đề xuất hướng hoàn thiện pháp luật
tố tụng hình sự Việt Nam”, Tạp chí kiểm sát, số 19 (tháng 10/2013, tr.52- 59).
+) Nguyễn Tiến Đạt (2006), “Bảo đảm quyền con người trong việc bắt,
tạm giữ, tạm giam”, Tạp chí khoa học pháp luật số 3(34)/2006.
Ngoài ra, còn một số bài viết khác của các học giả có đề cập đến vấn đề
này. Các công trình nghiên cứu trên cho thấy, việc nghiên cứu về quyền của
người bị tước tự do ở Việt Nam trong những năm qua đã được quan tâm và
đạt được những thành tựu nhất định. Tuy nhiên, chưa có công trình nào đi sâu
nghiên cứu về quyền con người của NCTN bị tước tự do ở Việt Nam. Luận
văn này có thể bổ sung cái nhìn tổng quát về NCTN bị tước tự do, đặc biệt
dưới góc độ luật nhân quyền quốc tế từ đó nâng cao nhận thức về các vấn đề
liên quan đến NCTN bị tước tự do đồng thời có những sự điều chỉnh hợp lý
nhằm tăng cường bảo đảm các quyền của NCTN bị tước tự do trên thực tế.
3. Mục tiêu nghiên cứu và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục tiêu
Đề tài luận văn cung cấp cái nhìn tổng quan về hệ thống các văn pháp
luật Việt Nam có liên quan đến NCTN bị tước tự do và các văn kiện luật nhân
quyền quốc tế về lĩnh vực này. Đồng thời xem xét thực tiễn áp dụng những
quy định nêu trên tại Việt Nam. Trên cơ sở đó, đưa ra những nhận xét, đánh
5
giá và những kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định về bảo vệ quyền của
NCTN bị tước tự do ở Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt được những mục tiêu nêu trên, luận văn đi sâu giải quyết các
vấn đề cụ thể sau:
+ Làm sáng tỏ khái niệm, đặc điểm về NCTN, NCTN bị tước tự do.
+ Phân tích các quy định đối với NCTN bị tước tự do theo quy định của
luật nhân quyền quốc tế và pháp luật Việt Nam.
+ So sánh, nhận xét, đánh giá các quy định của pháp luật Việt Nam với
các quy định của pháp luật nhân quyền quốc tế về tính hợp lý, tính phù hợp và
tính tương thích.
+ Nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật đối với việc
bảo vệ quyền con người của NCTN bị tước tự do.
+ Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc áp dụng các quy
định của pháp luật nhằm bảo vệ quyền con người của NCTN bị tước tự do.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; quan điểm của Đảng
cộng sản Việt Nam về Nhà nước và pháp luật xã hội chủ nghĩa. Nhất là quan
điểm chỉ đạo của Đảng về cải cách tư pháp trong Nghị quyết số 08-NQ/TW
ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị “Về một số nhiệm vụ trọng tâm của công
tác tư pháp trong thời gian tới” và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005
của Bộ Chính trị “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”, quan điểm
của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về bảo vệ, chăm sóc, giáo dục
thanh thiếu niên và đấu tranh phòng chống tội phạm do NCTN thực hiện.
Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử của Triết học Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh.
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phương pháp
6
phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê, phương pháp đối
chiếu, phương pháp so sánh, phương pháp logic, phương pháp chứng minh... để
làm sáng tỏ các vấn đề cần nghiên cứu.
5. Những điểm mới của Luận văn
- Thứ nhất: Thông qua việc nghiên cứu, tìm hiểu các quy định của luật
nhân quyền quốc tế và quy định của pháp luật Việt Nam. Luận văn đưa ra các kết
quả để nhận xét tính tương thích, tính hợp lý trong các quy định của pháp luật Việt
Nam với các quy định của pháp luật nhân quyền quốc tế về NCTN bị tước tự do.
- Thứ hai: Nhận xét thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật đối
với việc bảo vệ quyền của NCTN bị tước tự do tại Việt Nam.
- Thứ ba: Thông qua việc đánh giá thực trạng việc bảo đảm các quyền
con người của NCTN ở Việt Nam. Luận văn đưa ra những kiến nghị, giải
pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền
con người của NCTN bị tước tự do.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan tiến hành
tố tụng trong các vụ việc có liên quan đến NCTN đặc biệt là NCTN bị tước tự
do. Ngoài ra, luận văn còn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu
tại Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội và các cơ sở đào tạo khác ở Việt Nam.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn được chia thành 3 chương như sau:
Chương 1: Một số vấn đề chung về bảo vệ quyền con người của người
chưa thành niên bị tước tự do bằng pháp luật.
Chương 2: Các quy định của pháp luật Việt Nam về quyền con người
của người chưa thành niên bị tước tự do và thực tiễn áp dụng.
Chương 3: Nhu cầu và giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật
Việt Nam về quyền con người của người chưa thành niên
bị tước tự do và nâng cao hiệu quả áp dụng.
7
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI CỦA
NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN BI TƯỚC TỰ DO BẰNG PHÁP LUẬT
1.1. Khái niệm, đặc điểm người chưa thành niên và người chưa
thành niên bị tước tự do
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm người chưa thành niên
Quá trình phát triển của con người từ khi sinh ra đến khi trưởng thành
được chia thành nhiều giai đoạn khác nhau trong đó có một quá trình đặc biệt
mà con người có những bước phát triển nhảy vọt cả về thể chất và tâm hồn,
thời kỳ đó được gọi là thời kỳ chưa thành niên. Chưa thành niên là thời kỳ
quá độ từ trẻ em sang người lớn, luôn gắn liền với những biến đổi tâm sinh lý
mà bất kỳ người nào cũng phải trải qua. Lúc này, NCTN không hẳn là trẻ em,
cũng chưa hẳn là người trưởng thành, đây là thời kỳ chuyển tiếp, các em
không còn thụ động với vai trò của người được dạy dỗ nhưng lại chưa hẳn là
người lớn, chưa có đủ khả năng phán đoán và giải quyết các tình huống.
Hiện nay có rất nhiều quan điểm, định nghĩa về NCTN, trước hết trên
phương diện pháp luật quốc tế, khái niệm NCTN được đề cập tới trong nhiều
văn kiện pháp lý quan trọng cụ thể như sau:
Tại Điều 1, Phần 1 Công ước quốc tế về quyền trẻ em (CRC) được Đại
hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua ngày 20/11/1989, có hiệu lực từ ngày
02/9/1990 quy định “Trong phạm vi Công ước này, trẻ em có nghĩa là mọi
người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp pháp luật áp dụng đối với trẻ em có quy
định tuổi thành niên sớm hơn” [28]. Như vậy, theo CRC trẻ em bao gồm tất
cả những ai dưới 18 tuổi.
Tại Các Quy tắc của Liên Hợp Quốc về bảo vệ NCTN bị tước tự do,
được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua ngày 14/12/1990, trong phần
8
phạm vi áp dụng quy tắc, có quy định “Người chưa thành niên là người dưới
18 tuổi. Giới hạn độ tuổi thấp hơn mức này theo đó không được phép tước tự
do của trẻ em cần được pháp luật quy định” [30].
Các hướng dẫn của Liên hợp quốc về phòng ngừa phạm pháp ở người
chưa thành niên (các hướng dẫn Ri – Át), được thông qua và tuyên bố ngày
14/12/1990, mặc dù không đưa ra khái niệm cụ thể về NCTN nhưng thông
qua các quy định như:
Hướng dẫn này phải được giải thích và được thực hiện trong
phạm vi khuôn khổ của tuyên bố thế giới về quyền con người, Công
ước quốc tế về các quyền kinh tế - chính trị - văn hóa – xã hội,
Công ước về quyền trẻ em là phạm vi các quy tắc phổ biến của Liên
Hợp Quốc về việc áp dụng pháp luật đối với NCTN, cũng như các
văn kiện và tiêu chuẩn khác có liên quan đến các quyền và lợi ích,
phúc lợi của các thành niên… [29].
Như vậy, tinh thần của hướng dẫn cũng cho thấy NCTN là người
dưới 18 tuổi.
Theo Các quy tắc Bắc Kinh được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông
qua ngày 29/11/1985, “Người chưa thành niên là trẻ em hay thanh thiếu niên
mà tùy theo từng hệ thống pháp luật có thể bị xử lý khi phạm tội theo một
phương thức khác người lớn” [26]. Các quy tắc Bắc Kinh cũng nhấn mạnh
rằng giới hạn độ tuổi được coi là chưa thành niên phụ thuộc vào quy định của
từng hệ thống pháp luật nghĩa là các quy tắc Bắc Kinh chỉ quy định các tiêu
chuẩn tối thiểu và nó hoàn toàn tôn trọng tính “riêng” của mỗi quốc gia. Điều
này mở ra cho mỗi quốc gia được quy định giới hạn tuổi khác nhau đối với
NCTN để phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện thực tế của quốc gia mình.
Tóm lại, tuy các Văn kiện pháp lý quốc tế về quyền con người nói trên
có phạm vi điều chỉnh khác nhau xong đều thống nhất ở quan điểm NCTN là
người dưới 18 tuổi.
9
Ở Việt Nam, có nhiều quan điểm về NCTN, cụ thể:
Theo Từ điển Tiếng việt – Trung tâm ngôn ngữ học Việt Nam
thì:“NCTN là người chưa phát triển đầy đủ, toàn diện về thể lực, trí tuệ tinh
thần cũng như chưa có đầy đủ quyền và nghĩa vụ công dân” [55].
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, tùy từng đối tượng và phạm vi điều
chỉnh của mỗi ngành luật mà mỗi ngành luật lại có quy định khác nhau về NCTN.
Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: “... Người chưa đủ 18 tuổi là
NCTN”. Như vậy, NCTN là người dưới 18 tuổi [38, Điều 18].
Luật lao động năm 2012 quy định: “Người lao động chưa thành niên là
người lao động dưới 18 tuổi” [41, Điều 161].
Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em khẳng định: “Trẻ em quy
định trong luật này là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi” [37, Điều 1].
BLHS 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 quy định:
1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu TNHS về mọi tội phạm
2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi phải
chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc
tội phạm đặc biệt nghiêm trọng [40, Điều 12].
BLHS quy định: “NCTN từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội phải
chịu TNHS...” [40, Điều 68].
LHS (LHS) Việt Nam quy định NCTN phải chịu trách nhiệm hình sự
là người từ đủ 14 tuổi nhưng chưa đủ 18 tuổi, thực hiện hành vi phạm tội và
có năng lực TNHS. Nói cách khác, NCTN phạm tội là những người từ đủ 14
tuổi trở lên đến chưa đủ 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội
đặc biệt nghiêm trọng và những người từ đủ 16 tuổi trở lên những người
chưa đủ 18 tuổi phạm các tội phạm khác. Một NCTN chưa đủ 14 tuổi thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội cho dù hậu quả đặc biệt nghiêm trọng
hoặc NCTN từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, tội
10
nghiêm trọng hoặc rất nghiêm trọng do vô ý đều không phải chịu trách
nhiệm hình sự. Ngoài ra, quy định vấn đề NCTN phạm tội trong LHS còn có
ý nghĩa thể hiện nguyên tắc cá thể hóa trách nhiệm hình sự, nguyên tắc bình
đẳng trong LHS làm cơ sở cho việc quyết định hình phạt, đảm bảo mục đích
giáo dục, cải tạo người phạm tội.
Như vậy pháp luật Việt Nam nói chung có khá nhiều quy định khác
nhau về NCTN nhưng đều thống nhất khái niệm NCTN là những người dưới
18 tuổi hay là người chưa đủ 18 tuổi. Đến một độ tuổi nhất định, con người
mới có sự phát triển đầy đủ về thể chất, tâm sinh lý và trở thành người trưởng
thành. Độ tuổi nhất định ở đây là đủ 18 tuổi. Khi đó, một người có đủ năng
lực pháp luật, đủ năng lực hành vi và có thể tự chịu trách nhiệm khi tham gia
vào các mối quan hệ xã hội nói chung và các quan hệ pháp luật nói riêng. Ở
Việt Nam, khái niệm trẻ em và NCTN là không đồng nhất bởi lẽ theo các
phân tích ở trên, NCTN là những người dưới 18 tuổi nhưng trẻ em lại chỉ là
những công dân Việt Nam dưới 16 tuổi mà thôi. Như vậy, trẻ em là NCTN
nhưng NCTN không phải trong trường hợp nào cũng là trẻ em.
Nhìn từ khía cạnh luật pháp nhận thấy căn cứ để xác định một người có
phải là NCTN hay không chính là các giới hạn về độ tuổi mà nhà làm luật đã
quy định. Có nhiều ý kiến cho rằng khái niệm NCTN trên phương diện pháp
lý chưa được đầy đủ vì mới chỉ ra giới hạn về độ tuổi mà chưa chỉ ra các đặc
điểm về thể chất và trí tuệ. Tuy nhiên trên thực tế, khái niệm nhà làm luật đưa
ra là phù hợp bởi lẽ chính giới hạn về độ tuổi đã tính đến sự hợp lý giữa đặc
điểm thể chất, tinh thần của các em đặc biệt đã tính đến khả năng của các em
khi đặt các em trong mối tương quan với các quan hệ pháp luật khác nhau đó.
Từ các phân tích trên, có thể rút ra những đặc điểm của NCTN như sau:
Thứ nhất: Có nhiều ý kiến khác nhau về việc xác định cụ thể thời điểm
bắt đầu, kết thúc của thời kỳ này, với mỗi góc độ tiếp cận khác nhau thì quan
11
niệm về NCTN cũng theo đó mà không giống nhau. Nhưng tựu chung các
quan niệm này đều đồng ý, NCTN là người chưa trưởng thành về thể chất và
trí tuệ. Bởi các em đang ở trong quá trình hình thành, phát triển tâm sinh lý và
hoàn thiện nhân cách. Về cơ bản NCTN cũng có những trạng thái tâm lý khác
như những người bình thường. Tuy nhiên, do đặc trưng về lứa tuổi và sự phát
triển chưa đầy đủ về thể chất, tinh thần, kinh nghiệm sống ít ỏi, trình độ nhận
thức còn hạn chế mà ở họ tồn tại những đặc điểm tâm sinh lý riêng biệt. Ở lứa
tuổi này, các em đang trong giai đoạn phát triển mạnh mẽ về thể lực và tâm
sinh lý, do vậy các em dễ xúc động, khi thì trầm tư, lúc thì sôi nổi, dễ bị kích
động, lòng kiên trì và năng lực tự kiềm chế thấp. Các em mong muốn được
người lớn tôn trọng, luôn muốn khẳng định mình đã trưởng thành và không
chấp nhận sự can thiệp quá sâu của người lớn vào đời sống cá nhân. Tuy
nhiên, các em lại có xu hướng cường điệu trong đánh giá bản thân và các sự
việc xung quanh, tự cường điệu, đánh giá quá cao bản thân hoặc quá tiêu cực,
tự ti; luôn nhạy bén với mọi biến động của xã hội. Dám nói lên ý kiến và nhận
định của bản thân, muốn tự hành động, tự đưa ra quyết định theo ý kiến của
mình mà không muốn bị ảnh hưởng bởi người khác, khát khao được người
khác đánh giá và khẳng định mình. Mặt khác, NCTN có nhu cầu giao tiếp với
bạn bè, các em hay chơi thành nhóm với những đặc điểm khác nhau. Các em
có thể cùng học hỏi ở nhau những điểm tốt hoặc giúp đỡ nhau cùng tiến bộ
nhưng cũng dễ bị ảnh hưởng bởi những thói hư, tật xấu từ các thành viên
trong nhóm. Điểm đặc biệt ở những nhóm này là tinh thần đoàn kết rất cao
nhiều khi mang tính cực đoan, cục bộ, bè phái. Có thể vì một cá nhân mà cả
nhóm sẵn sang gây gổ đánh nhau với nhóm khác một cách vô lý để rằn mặt,
bảo vệ thành viên trong nhóm hay khẳng định địa vị của nhóm. Nói chung,
các em thiếu tính chín chắn, bồng bột trong suy nghĩ và nông nổi trong hoạt
động. Do vậy, nếu thiếu đi sự quan tâm, định hướng, khích lệ các em có cơ
12
hội vi phạm các chuẩn mực hành vi, chuẩn mực đạo đức dẫn đến thực hiện
các hành vi phạm pháp luật.
Thứ hai: Trong mối quan hệ so sánh với những người đã thành niên,
nhận thấy, NCTN dễ bị ảnh hưởng bởi những tác động tiêu cực từ bên ngoài
tính cách chưa được hình thành đầy đủ sự tự kiểm soát hành vi còn kém, dễ
bốc đồng và thiếu tự chủ cho nên khả năng phán đoán các tình huống còn
chậm và chưa chính xác, thiếu chín chắn trong việc lựa chọn các hành vi thay
thế hay đánh giá mức độ rủi ro và hậu quả của hành vi. Nhất là trong bối cảnh
hiện nay, các em rất dễ tìm kiếm những thông tin thiếu lành mạnh, trái với
thuần phong mỹ tục, trái đạo đức, có xu hướng bạo lực. Các em rất tò mò,
hiếu động, có xu hướng tìm kiếm, khám phá những cái mới lạ, hay bắt trước.
Mặt khác, sự hình thành và phát triển nhân cách phụ thuộc rất lớn vào môi
trường các em đang sống. Nếu sống trong môi trường lành mạnh, các em sẽ
có điều kiện phát triển toàn diện để trở thành một công dân có ích và ngược
lại môi trường sống phức tạp sẽ ảnh hưởng xấu đến tâm lý các em dẫn đến sự
lệch lạc trong nhận thức và hành vi, dễ bị lôi cuốn vào những hoạt động tiêu
cực. Theo đó các thói quen xấu dần được hình thành như nghiện thuốc lá,
rượu bia, chơi trò chơi có xu hướng bạo lực, đồi trụy dẫn tới hậu quả các em
có những hành động vượt quá những chuẩn mực cho phép. Trong khi đó, các
em cần tiền để thỏa mãn các nhu cầu trên nhưng lại chưa có nghề nghiệp,
chưa có khả năng kiếm tiền. Dẫn đến thực tế các em có thể làm bất cứ công
việc gì để kiếm tiền thỏa mãn nhu cầu của mình kể cả những việc trái pháp
luật để có tiền tham gia vào các hoạt động tiêu cực, thiếu lành mạnh nêu trên.
Thứ ba: NCTN chưa phát triển hoàn thiện về thể chất, tinh thần, có
nhận thức chưa hoàn chỉnh về thế giới xung quanh, có kiến thức pháp luật và
kiến thức xã hội chưa đầy đủ, đánh giá về xã hội chưa được chuẩn xác, dễ có
những hành vi bốc đồng lệch chuẩn. Cũng vì lẽ đó mà các em là một trong
13
các nhóm đối tượng dễ bị tổn thương, cần được bảo vệ. Do vậy, phải có
những quy định đặc biệt đối với NCTN sao cho phù hợp với lứa tuổi, với đặc
điểm tâm sinh lý của các em trên tinh thần tôn trọng nhân cách, phẩm giá, các
quyền tự do cơ bản; cũng như nhằm tăng cường lòng tôn trọng của các em đối
với quyền con người và các quyền tự do cơ bản khác nhằm mục đích giáo dục
các em trở thành người có ích cho xã hội.
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm người chưa thành niên bị tước tự do
Theo Điểm b, Điều 11 Các quy tắc của Liên Hợp Quốc về bảo vệ
NCTN bị tước tự do, 1990 định nghĩa: “Tước tự do nghĩa là bất kỳ hình thức
giam giữ hoặc cầm tù nào, hay đưa một người vào nơi giam giữ chung hoặc
riêng, mà người đó không được tự ý rời bỏ nơi giam giữ trừ khi có quyết định
của cơ quan tư pháp, hành chính hoặc cơ quan công quyền” [30, Điều 11].
Khái niệm tước tự do theo luật nhân quyền quốc tế được hiểu theo
nghĩa rất rộng, bao gồm không chỉ việc bỏ tù hay tạm giam mà còn là những
việc hạn chế một phần hay toàn bộ tự do của một người dưới nhiều hình thức
và tên gọi khác nhau như bắt, tạm giữ, tạm giam, quản chế, đưa vào trường
giáo dưỡng, đưa vào các trung tâm cải tạo giáo dục… Như vậy, bên cạnh các
trường hợp tước tự do theo thủ tục hình sự còn có các hình thức tước tự do
theo thủ tục hành chính. Sự tước tự do này khiến người bị tước tự do không
thể có đầy đủ các quyền tự do như một người bình thường. Họ bị buộc phải ở
tại một nơi giam giữ, không được tự ý rời bỏ nơi giam giữ trừ khi được cho
phép bởi một quyết định của một cơ quan có thẩm quyền. Họ bao gồm tù
nhân, những người bị tam giam, tạm giữ, quản chế, cải tạo... tức là tất cả
những người bị giới hạn, ở bất cứ mức độ và dưới bất cứ hình thức nào, các tự
do chính trị, dân sự của mình so với những công dân bình thường.
Người bị tước tự do bị giới hạn một số quyền nhất định vì các lý do an
ninh hay trật tự xã hội chứ không phải bị tước bỏ hoàn toàn tự do của con
14
người. Ví dụ người bị tạm giam, tạm giữ, tù nhân bị tước đi quyền tự do đi
lại, tự do cư trú nhưng họ vẫn được hưởng các quyền tự do khác như tự do
ngôn luận, tự do tín ngưỡng tôn giáo, tự do tư tưởng và các quyền đó vẫn phải
được pháp luật tôn trọng và bảo đảm bằng các biện pháp cần thiết. Cơ sở của
việc tước tự do là khi một người có hành vi xâm phạm tự do của người khác
và xâm phạm đến lợi ích cộng đồng hoặc có nguy cơ ảnh hưởng đến cộng
đồng. Việc tước tự do trước hết là nhằm ngăn chặn hành vi xâm phạm; giáo
dục, cải tạo họ trở thành những người có ích cho gia đình và xã hội đồng thời
là bài học cho những ai đang hoặc sẽ có ý định thực hiện hành vi xâm phạm
đến tự do của người khác và lợi ích chung của cộng đồng.
Việc tước tự do phải được điều chỉnh bằng nhiều quy phạm pháp luật,
ví dụ việc tước tự do theo thủ tục hành chính được điều chỉnh bằng pháp luật
hành chính và việc tước tự do theo thủ tục tố tụng hình sự được điều chỉnh
bằng tư pháp hình sự. Trong đó, việc tước tự do theo thủ tục tố tụng hình sự
đối với NCTN xảy ra khi cơ quan có thẩm quyền áp dụng các biện pháp
ngăn chặn, khi Toà án áp dụng hình phạt tù có thời hạn hoặc áp dụng biện
pháp tư pháp đưa vào trường giáo dưỡng đối với NCTN khi có đầy đủ các
căn cứ theo luật định.
Từ các phân tích trên có thể hiểu NCTN bị tước tự do là những người
từ đủ 14 đến dưới 18 tuổi bị giới hạn các quyền tự do chính trị, dân sự so với
các công dân bình thường bởi việc giam, giữ, cải tạo tại một nơi theo quyết
định của Cơ quan có thẩm quyền. Nơi giam, giữ, cải tạo có thể là trại tạm
giam, nhà tạm giữ, nhà tù hoặc các trường giáo dưỡng.
Đặc điểm của NCTN bị tước tự do:
- Thứ nhất, NCTN bị tước tự do bị hạn chế một số quyền tự do cơ bản
NCTN bị tước tự do với tư cách là thành viên của gia đình nhân loại
nên họ vẫn được hưởng tất cả những quyền con người cơ bản như quyền được
15
sống; quyền được tôn trọng danh dự nhân phẩm, quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo, quyền được bảo vệ không bị tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn ác vô
nhân đạo hoặc hạ nhục; quyền được bảo vệ để không bị bắt, giam giữ tuỳ tiện,
quyền được giáo dục, quyền về sức khoẻ… Tuy nhiên do hoàn cảnh bị tước tự
do, họ không có đầy đủ các điều kiện để thụ hưởng các quyền này. Việc tước
tự do, bị buộc ở tại nơi giam giữ cải tạo khiến họ bị mất đi quyền tự do đi lại,
tự do cư trú, quyền bầu cử, ứng cử… Tuy nhiên, do tính chất đặc thù này mà
NCTN bị tước tự do được hưởng những ưu đãi nhằm tạo điều kiện tốt hơn
cho các em được thụ hưởng các quyền của mình.
- Thứ hai, NCTN bị tước tự do có nguy cơ bị khinh miệt, xa lánh, kỳ thị:
Bản thân NCTN dễ bị mất cân bằng khi bị bị tước tự do. Phần lớn trong
thời gian cải tạo các em có tâm lý nặng nề như mặc cảm tự ti, bi quan, chán
nản, nhiều lúc tuyệt vọng, có thái độ thời ơ bất cần. Đến khi trở lại với cộng
đồng, các em thường bị xa lánh, kỳ thị điều này ảnh hưởng sâu sắc đến quan
điểm sống và tương lai của NCTN. Sự xa lánh, kỳ thị xuất phát từ sự thiếu
nhận thức về nhóm đối tượng này. Đa phần họ có suy nghĩ các em là những
đối tượng không ngoan, đầu gấu, không có sự giáo dục của gia đình, thiếu
suy nghĩ, không biết kiềm chế, sốc nổi… Là thành phần hư từ bé, không thể
cải tạo và giáo dục được. Họ xa lánh không muốn tiếp xúc, không muốn cho
con em mình kết bạn, chơi cùng các đối tượng này. Đặc biệt một số cơ sở
kinh doanh hay doanh nghiệp có xu hướng không muốn nhận NCTN đã từng
bị tước tự do vào làm việc tại đơn vị mình. Điều này làm hạn chế đến hiệu
quả công tác tái hòa nhập cộng đồng đối với NCTN.
1.2. Quyền con người của người chưa thành niên bị tước tự do và
sự cần thiết bảo vệ nó
Trước hết, cần có nhận thức chung nhất về quyền con người Có nhiều
định nghĩa khác nhau về quyền con người bởi đây là một phạm trù đa diện, ở
16
mỗi một góc độ khác nhau người ta lại có một định nghĩa về quyền con người
khác nhau. Tính phù hợp của mỗi định nghĩa này phụ thuộc vào sự nhìn nhận
chủ quan của mỗi con người. Ở cấp độ quốc tế, Văn phòng Cao ủy Liên hợp
quốc về quyền con người có định nghĩa “quyền con người là những bảo đảm
pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại
những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự
được phép và tự do cơ bản của con người” [22].
Ở Việt Nam, có nhiều định nghĩa khác nhau về quyền con người,
những định nghĩa này không hoàn toàn giống nhau. Nhưng xét chung
“quyền con người được hiểu là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có của
con người được nghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa
thuận pháp lý quốc tế” [22].
Như vậy, quyền con người là những chuẩn mực được cộng đồng quốc
tế thừa nhận và tuân thủ. Những chuẩn mực này là kết tinh những giá trị nhân
văn của toàn nhân loại, áp dụng với tất cả mọi người. Thông qua đó, mọi
thành viên trong gia đình nhân loại được bảo vệ nhân phẩm, có điều kiện phát
triển đầy đủ các năng lực cá nhân với tư cách là một con người. Quyền con
người là những giá trị cao cả cần được tôn trọng và bảo vệ trong mọi xã hội
và mọi giai đoạn lịch sử.
Chủ thể cơ bản của quyền con người là các cá nhân. Tuy nhiên trong
một số trường hợp, chủ thể của quyền con người còn là các nhóm người như
các nhóm thiểu số về dân tộc, chủng tộc, tôn giáo… Như vậy, trẻ em nói
chung và NCTN nói riêng đều là những chủ thể của quyền con người. Tuy
nhiên, vị thế của các em trong việc thụ hưởng các quyền này như thế nào.
Quay lại lịch sử, năm 1924 Tuyên ngôn Geneve về quyền trẻ được Hội quốc
liên thông qua đánh dấu một bước ngoặt trong nhận thức và hành động bảo vệ
trẻ em trên toàn thế giới. Những lời mở đầu của UDHR, ICCPR, ICECSR đều
17
nhấn mạnh “Việc thừa nhân phẩm giá vốn có và những quyền bình đẳng,
không thể chuyển nhượng của mọi thành viên trong cộng đồng nhân loại là
nền tảng cho tự do, công lý và hòa bình thế giới” [53]; Mặt khác, mệnh đề
mở đầu của các văn kiện pháp lý quốc tế trên đều là "Mọi người có quyền …
hay bất cứ người nào đều có quyền…. " đã thừa nhận một cách chắc chắn
rằng trẻ em cũng là chủ thể bình đẳng so với người lớn trong việc hưởng tất
cả các quyền và tự do cơ bản được ghi nhận trong các văn kiện pháp lý quốc
tế về quyền con người.
Các văn kiện quốc tế về quyền con người đều xác định trẻ em là đối
tượng cần bảo vệ đặc biệt và có những quyền con người đặc thù. Bởi lẽ, dù
Luật nhân quyền quốc tế thừa nhận trẻ em và người lớn đều bình đẳng với
nhau về quyền, nhưng việc “cào bằng” vị thế chủ thể quyền của người lớn và
trẻ em cũng không hoàn toàn phù hợp do đặc trưng của trẻ em còn non nớt cả
về thể chất lẫn tinh thần. Do vậy, ngay trong UDHR, ICCPR, ICECSR trẻ em
đều được ghi nhận các quyền đặc thù. Cụ thể:
UDHR khẳng định “… Các bà mẹ và trẻ em có quyền được hưởng sự
chăm sóc và giúp đỡ đặc biệt. Mọi trẻ em dù sinh ra trong hay ngoài giá thú,
đều phải được sự bảo trợ xã hội như nhau” [53, Điều 25, Khoản 2, tr.53].
ICESCR khẳng định:
Cần áp dụng những biện pháp bảo vệ và trợ giúp đặc biệt đối
với mọi trẻ em và thanh thiếu niên mà không có bất kỳ sự phân biệt
đối xử nào vì các lý do xuất thân hoặc các điều kiện khác. Trẻ em
và thanh thiếu niên cần được bảo vệ để không bị bóc lột về kinh tế,
xã hội. Việc thuê trẻ em và thanh thiếu niên làm các công việc có
hại cho tinh thần, sức khỏe hoặc nguy hiểm tới tính mạng, hay có
hại tới sự phát triển bình thường của các em phải bị trừng trị theo
pháp luật. Các quốc gia cần định ra những giới hạn về độ tuổi mà
18
việc thuê lao động trẻ em dưới hạn tuổi đó phải bị pháp luật nghiêm
cấm và trừng phạt [53, Điều 10, Khoản 3, tr.59].
ICCPR nhấn mạnh: “Mọi trẻ em, không phân biệt chủng tộc, màu da,
giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, nguồn gốc dân tộc hoặc xã hội, tài sản hoặc
dòng dõi đều có quyền được hưởng những biện pháp bảo hộ của gia đình, xã
hội và nhà nước cần thiết cho NCTN …” [53, Điều 24, Khoản 1, tr. 85].
Một trong những văn kiện quốc tế về quyền của trẻ em quan trọng nhất
là CRC. Công ước CRC là điều ước quốc tế về quyền con người của Liên Hợp
Quốc có số lượng quốc gia thành viên tham gia cao nhất từ trước đến nay.
Công ước này không chỉ đưa ra định nghĩa trẻ em mà còn nêu lên các nguyên
tắc cơ bản trong việc bảo vệ quyền của nhóm đối tượng này. Công ước khẳng
định trẻ em là chủ thể của quyền chứ quyền trẻ em không phải xuất phát từ sự
ban phát hay thương hại của lòng từ thiện thuần túy, trẻ em là nhóm dễ bị tổn
thương nhất, có những nhu cầu đặc biệt… do vậy có quyền hưởng sự chăm sóc,
đối xử và bảo vệ đặc biệt. Có thể nói Công ước CRC đã bao quát được hầu hết
các khía cạnh của quyền trẻ em và xác định rõ nghĩa vụ của các quốc gia trong
việc đảm bảo quyền của trẻ em và mối quan hệ giữa quyền trẻ em và quyền con
người. Với phương châm dành lợi ích tốt nhất cho trẻ em, CRC ghi nhận do trẻ
em cần được bảo vệ và chăm sóc đặc biệt, kể cả sự bảo vệ thích hợp về mặt
pháp lý trước cũng như sau khi ra đời. Trẻ em có quyền:
- Quyền không phân biệt đối xử.
- Quyền được có họ tên và quốc tịch ngay từ khi ra đời.
- Quyền không bị cách ly khỏi cha mẹ.
- Quyền được chăm sóc sức khỏe.
- Quyền được học hành.
- Quyền được sống trong môi trường lành mạnh và tự nhiên.
- Quyền được vui chơi, giải trí.
19
- Quyền được thông tin phù hợp với lứa tuổi.
- Quyền được tự do kết giao và tập hợp nhau theo những nhóm bạn
cùng chung sở thích.
- Quyền được nhận sự chăm sóc đặc biệt.
- Quyền được tự do bày tỏ ý kiến.
- Quyền được bảo vệ chống lại sự ngược đãi.
- Quyền được bảo vệ chống lại sự lạm dụng tình dục.
- Quyền được bảo vệ chống mọi hình thức tra tấn và đối xử tàn tệ.
- Quyền có các đặc thù khi có hành vi vi phạm pháp luật …
Ở Việt Nam, NCTN là người có độ tuổi dưới 18, còn trẻ em là người có
độ tuổi dưới 16. Do vậy, khái niệm về trẻ em và NCTN không đồng nhất. Tuy
nhiên trẻ em là NCTN, nên quyền trẻ em cũng chính là quyền của NCTN.
Mặt khác, trẻ em trong phạm vi Công ước CRC là bất kỳ người nào dưới 18
tuổi. Hơn nữa Việt Nam là một trong các thành viên của Công ước CRC. Do
vậy, tất cả NCTN nói chung và NCTN bị tước tự do nói riêng ở Việt Nam đều
được hưởng quyền và những bảo đảm pháp lý nêu tại CRC.
Các quy tắc của Liên hợp quốc về bảo vệ NCTN bị tước tự do, 1990
nhấn mạnh: “NCTN bị tước tự do không vì bất cứ lý do nào liên quan tới địa
vị của mình mà bị phủ nhận các quyền dân sự, kinh tế, chính trị, xã hội và văn
hóa họ có theo pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế và tương thích với
việc tước tự do” [30, Điều 13].
Điều này khẳng định chắc chắn rằng, NCTN bị tước tự do vì bất kỳ
lý do gì, trong thời gian bao lâu, bị giam giữ hay cải tạo ở đâu cũng có
quyền con người. Quyền con người ở đây bao gồm các quyền dân sự, kinh
tế, chính trị, xã hội và văn hóa họ có theo pháp luật quốc gia và pháp luật
quốc tế. Tuy nhiên những quyền này họ được thụ hưởng phù hợp với việc
tước tự do của mình.
20
Quyền của NCTN bị tước tự do có những đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất: quyền con người của NCTN bị tước tự do cũng là quyền con
người theo quy định chung của Luật nhân quyền quốc tế. Do vậy, quyền con
người của NCTN bị tước tự do mang đầy đủ các đặc điểm của quyền con
người nói chung như tính phổ biến, tính không thể chuyển nhượng, tính
không thể phân chia, tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau. Cụ thể:
- Tính phổ biến:
Quyền con người là những gì bẩm sinh, vốn có của con người và được
áp dụng bình đẳng cho tất cả mọi thành viên trong gia đình nhân loại. Không
có sự phân biệt đối xử vì bất cứ lý do gì, chẳng hạn chủng tộc, dân tộc, giới
tính, tôn giáo, độ tuổi …
- Tính không thể tước bỏ:
Các quyền con người không thể bị tước đoạt hay hạn chế một cách tùy
tiện bởi bất cứ chủ thể nào, kể cả các cơ quan và quan chức nhà nước. Không
thể bị tước đoạt hay hạn chế tùy tiện có nghĩa là trong một số trường hợp đặc
biệt thì có thể bị tước đi một số quyền tự do trong những trường hợp đặc biệt
và phải tuân thủ các quy định của pháp luật.
- Tính không thể phân chia:
Các quyền con người đều có tầm quan trọng như nhau, nên về nguyên tắc,
không có quyền nào quan trọng hơn quyền nào và không có quyền nào có giá trị
cao hơn quyền nào. Việc tước bỏ hay hạn chế bất kỳ quyền con người nào đều
tác động tiêu cực đến nhân phẩm, giá trị và sự phát triển của con người.
- Tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau:
Việc bảo đảm các quyền con người, toàn bộ hoặc một phần, nằm trong
mối liên hệ phụ thuộc và tác động lẫn nhau. Sự vi phạm một quyền sẽ trực
tiếp hoặc gián tiếp gây ảnh hưởng tiêu cực đến việc bảo đảm các quyền khác.
Thứ hai: Quyền con người của NCTN bị tước tự do mang tính chất đặc
21
thù. Bởi lẽ, NCTN nói chung và NCTN bị tước tự do nói riêng đều là những
nhóm yếu thế trong xã hội do sự non nớt về thể chất và tinh thần, do vị thế pháp
lý… do vậy, các em cần phải nhận được nhiều những ưu đãi hơn so với các
nhóm, các cá nhân khác. Sự ưu tiên này không đi ngược với nguyên tắc bình
đẳng về quyền của Luật nhân quyền quốc tế mà thực chất nhằm thực hiện, hay
tạo điều kiện cho các chủ thể được bình đẳng về quyền. Bởi lẽ, bình đẳng về
quyền có nghĩa là mọi thành viên trong cộng đồng nhân loại đều có cơ hội được
hưởng các quyền như nhau trong những điều kiện, hoàn cảnh, năng lực sẵn có
như nhau. Như vậy, với các cá nhân, các nhóm phải chịu những thiệt thòi và có
xuất phát điểm thấp hơn những nhóm khác, cần thiết được hưởng các quyền đặc
thù để có thể đạt được sự bình đẳng thực chất với các cá nhân khác trong việc
hưởng thụ các quyền con người. Sự ưu tiên này nhằm bảo đảm sự bình đẳng
thực chất về cơ hội của những NCTN bị tước tự do với tất cả mọi thành viên
trong xã hội đảm bảo tất cả thành viên trong xã hội đều được hưởng thụ các
quyền của con người trong bối cảnh khác biệt về trình độ, văn hóa và vị thế.
Bảo vệ quyền của NCTN bị tước tự do là sự bảo đảm thực hiện các quyền
của NCTN là người bị giam, giữ, chấp hành án phạt tù, học sinh trong trường
giáo dưỡng… được ghi nhận trong pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia.
Vấn đề bảo vệ quyền con người của NCTN là vấn đề quan tâm đặc biệt
của toàn thế giới. Sự nghiệp chăm sóc và giáo dục trẻ em được xác định là
trách nhiệm của toàn xã hội. Đối với NCTN nói chung và NCTN bị tước tự do
nói riêng, việc bảo vệ quyền con người của đối tượng này càng cần được chú
trọng. Bởi lẽ, NCTN bị tước tự do là những người tuổi đời còn rất trẻ, kinh
nghiệm sống còn ít ỏi, hiểu biết về pháp luật và các chuẩn mực xã hội còn hạn
chế. Đặc biệt đây là lứa tuổi có sự chuyển biến mạnh mẽ về tâm, sinh lý và là
giai đoạn quan trọng của quá trình hình thành và phát triển nhân cách. Do vậy,
NCTN dễ bị người khác dụ dỗ, kích động, lôi kéo vào việc thực hiện tội phạm.
Các loại tội phạm do NCTN thực hiện chủ yếu xuất phát từ nhận thức hạn chế
22
về pháp luật. Tuy nhiên, do thiếu hiểu biết pháp luật, ý thức phạm tội chưa rõ
rệt nên NCTN phạm tội dễ uốn nắn, cải tạo và giáo dục trở thành người có ích
cho xã hội. Bên cạnh đó, NCTN đa phần không thuộc những đối tượng ngoan
cố, lì lợm hay có ý thức cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử. Cũng do thể chất
và tâm lý chưa có sự phát triển đầy đủ nên khi bị áp dụng những biện pháp
cưỡng chế tố tụng, sự tổn hại về thể chất và đặc biệt sự tổn hại về tinh thần của
lứa tuổi này thường dẫn đến những sang chấn tâm lý mạnh và để lại những hậu
quả tiêu cực kéo dài đối với NCTN trong suốt thời gian dài sau đó.
Biện pháp tước tự do là cần thiết trong những điều kiện và hoàn cảnh
cụ thể. Tuy nhiên việc tước đoạt tự do trong nhiều trường hợp làm tổn hại
nghiêm trọng đến quyền cơ bản của một người. Bởi khi họ bị bắt, tạm giữ,
tạm giam hay bị cầm tù đều, họ đều ở trong một tình trạng chung là bị hạn chế
thân thể, tự do đi lại, tự do cư trú trong một thời hạn nhất định vì thế quyền và
lợi ích hợp pháp của họ dễ bị xâm phạm. Việc quyền của những NCTN bị
tước tự do có nguy cơ cao bị xâm phạm, do vậy cần thiết phải bảo đảm quyền
cho nhóm người này.
Mặt khác, với vị thế là một nhóm dễ bị tổn thương nên NCTN bị tước
tự do được pháp luật quy định một số quyền năng để tự bảo vệ mình trước sự
xâm phạm về quyền của một số nhóm đối tượng khác, để đảm bảo họ vẫn
được sống trong phẩm giá vốn có của mình và được hưởng đầy đủ các quyền
con người mà chỉ bị hạn chế bởi hoàn cảnh sống bị tước tự do của họ mà thôi.
1.3. Những quy định cơ bản của pháp luật quốc tế về bảo vệ quyền
con người của người chưa thành niên bị tước tự do
Trước hết, NCTN bị tước tự do cũng được hưởng các quyền cơ bản của
con người nói chung và đặc biệt là các quyền trong hoạt động tư pháp. Quyền
con người trong lĩnh vực này rất đa dạng, nhưng đặc biệt quan trong là những
quyền thuộc nhóm quyền dân sự - chính trị. Người bị tước tự do buộc có
nghĩa vụ phải tuân thủ những quy định của pháp luật nhưng họ cũng có những
23
quyền nhất định để bảo vệ mình khỏi bị xâm phạm bởi các chủ thể tiến hành
tố tụng. Cơ bản có thể kể đến một số quyền như quyền không bị tra tấn, quyền
được tôn trọng về nhân phẩm, tính mạng, quyền bào chữa, quyền tự do, an
ninh cá nhân và quyền được xét xử công bằng.
Quyền sống, tự do và an ninh cá nhân bao hàm một tập hợp các bảo
đảm tố tụng nhằm bảo vệ sự an toàn về tính mạng, thân thể, danh dự, nhân
phẩm và tự do của con người. Quyền này hàm chứa nhiều quyền cụ thể, trong
đó bao gồm quyền sống, quyền được bảo vệ không bị tra tấn, đối xử hay trừng
phạt tàn ác, vô nhân đạo hay hạ nhục; quyền được bảo vệ khỏi bị bắt giữ tùy
tiện và quyền được đối xử nhân đạo và tôn trọng nhân phẩm của những người
bị tước tự do…
Tập hợp của các quyền này cùng với những bảo đảm về xét xử công
bằng cấu thành một trong những mảng rất quan trọng của luật quốc tế về quyền
con người mà thường được gọi là quyền con người trong hoạt động tố tụng.
Bảng 1.1: Một số quyền con người cơ bản của người bị tước tự do
Quyền sống - Đề cập tại Điều 3 UDHR
- Cụ thể hóa tại Điều 6 ICCPR
Quyền được bảo vệ không bị tra
tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn
bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục
- Đề cập tại Điều 5 UDHR
- Cụ thể hóa tại Điều 7 ICCPR
- Công ước chống tra tấn (CAT)
- Là một quy phạm tập quán quốc tế
Quyền được bảo vệ khỏi việc bị
bắt, giam giữ tùy tiện. (quyền tự
do về an ninh cá nhân)
- Đề cập tại Điều 9 UDHR
- Cụ thể hóa tại Điều 9 ICCPR
- Bình luận chung số 8 thông qua tại phiên họp
thứ 16 năm 1982
Quyền được đối xử nhân đạo và
tôn trọng nhân phẩm của những
người bị tước tự do
- Quy định tại Điều 10 ICCPR
- Các tiêu chuẩn tối thiểu của Liên hợp quốc về
đối xử với tù nhân (1955)
Quyền được xét xử công bằng - Đề cập tại Điều 10, 11 UDHR.
(Nguồn: Các văn kiện quốc tế vê quyền con người).
24
Mặt khác, với tư cách là NCTN, quyền của các em còn được ghi nhận
và bảo vệ bởi các văn kiện quốc tế quan trọng khác. Nhìn chung các em có
những quyền cơ bản như:
- Quyền bình đẳng với người lớn về mọi quyền tố tụng.
- Không bị tuyên và thi hành án tử hình.
- Việc bắt, giam và tuyên án tù chỉ là biện pháp cuối cùng có thể áp
dụng với NCTN. Được bảo vệ đặc biệt khi bị giam giữ, thể hiện ở các quy
định về thăm viếng, giam giữ tách riêng khỏi người lớn, chăm sóc, học văn
hoá, học nghề.
Khi nghiên cứu các quy định bảo vệ quyền của NCTN phạm tội không
thể không nhắc tới Công ước CRC – Công ước quan trọng về quyền của trẻ
em. Nguyên tắc nền tảng trong vấn đề này là trẻ em làm trái pháp luật phải
được đối xử theo cách thức nhằm nâng cao ý thức của các em về nhân phẩm,
danh dự của các em; tăng cường sự tôn trọng của trẻ em đối với các quyền
con người và các quyền tự do cơ bản của người khác; các biện pháp áp dụng
với các em phải tính đến sự phù hợp về lứa tuổi và tâm sinh lý nhằm mục đích
tái hòa nhập chứ không nhằm mục đích trừng phạt các em.
Trong quá trình tố tụng đối với trẻ em bị truy cứu trách nhiệm hình sự,
cần phải đảm bảo các nguyên tắc:
- Không áp dụng hồi tố;
- Áp dụng nguyên tắc suy đoán vô tội;
- Phải được thông báo nhanh chóng, trực tiếp về những điều bị buộc tội;
- Phải được giúp đỡ về mặt pháp lý hoặc sự giúp đỡ thích hợp khác để
thực hiện việc bào chữa trước khi bị đưa ra xét xử;
- Tại phiên tòa, trẻ em phải được sự giúp đỡ về pháp lý để tham gia
cùng với cha mẹ hoặc người giám hộ vào một cuộc thẩm vấn công bằng đúng
pháp luật trước một Hội đồng xét xử có thẩm quyền, độc lập, và có khả năng
ra quyết định một cách không chậm trễ;
25
- Không bị ép buộc, làm chứng hay nhận tội, có quyền thẩm vấn hay
nhờ người thẩm vấn những nhân chứng chống lại mình đồng thời có quyền
đưa ra những người làm chứng cho mình trong những điều kiện bình đẳng;
- Quyền được kháng cáo đối với những quyết định sơ thẩm để được
xét xử phúc thẩm bởi một Hội đồng xét xử có thẩm quyền cao hơn, độc lập
và vô tư;
- Được có người phiên dịch miễn phí trong những trường hợp cần thiết;
- Được giữ bí mật những điều riêng tư trong suốt quá trình tố tụng.
Quy tắc số 7 về quyền của NCTN thuộc Các quy tắc Bắc Kinh nhấn mạnh:
Trong tất cả các giai đoạn tố tụng, cần bảo đảm các biện pháp
bảo vệ mang tính thủ tục cơ bản, như giả định vô tội, quyền được
thông báo về các lời buộc tội, quyền được giữ yên lặng, quyền được
có luật sư bào chữa, quyền được sự có mặt của cha mẹ hay người
giám hộ, quyền đối chất và thẩm vấn chéo các nhân chứng, quyền
được kháng cáo lên một cơ quan có thẩm quyền cao hơn [26].
Quy tắc này đã đề cập đến một số điểm quan trọng được xem là những
yếu tố cơ bản bảo đảm cho quá trình xét xử được công bằng, bình đẳng và
những điểm này đã được quốc tế công nhận trong những văn kiện hiện hành
về quyền con người như UDHR, ICCPR… Quy tắc đã cụ thể hóa các quy
định về Điều tra và truy tố, về xét xử và quyết định, về cách xử lý không giam
giữ đối với NCTN.
Nhìn chung, NCTN bị tước tự do có các quyền:
- Được đối xử nhân đạo trong quá trình bị giam giữ bao gồm không bị
tra tấn, đối xử tàn bạo, vô nhân đạo, không bị bức cung.
- Được đảm bảo các điều kiện sinh hoạt tối thiểu.
- Được giữ mối liên hệ với thế giới bên ngoài, với thân nhân, luật sư trừ
một số hạn chế để đảm bảo tố tụng.
26
Cụ thể, Điều 10 các quy tắc tối thiểu chuẩn của Liên Hợp Quốc về thực
thi công lý với NCTN (Quy tắc Bắc Kinh) quy định:
Những người mất tự do vẫn phải được đối xử nhân đạo và
tôn trọng nhân phẩm:
a, Ngoại trừ những trường hợp đặc biệt, các bị cáo chưa được
xét xử phải được giam giữ cách biệt với những người đã can án và
phải được đối xử theo quy chế của những người không can án.
b, Các bị cáo thiếu nhi phải được giam giữ cách biệt với
người lớn và phải được xét xử trong thời hạn sớm nhất.
c, Chế độ lao tù phải đặt trọng tâm vào việc cải huấn tù nhân,
tạo cho họ cơ hội cải hóa và hội nhập vào đời sống xã hội. Các
thiếu nhi phạm pháp phải được giam giữ cách biệt với người lớn và
phải được đối xử tùy theo tuổi tác và tình trạng pháp lý của chúng.
d, Trong các vụ án thiếu nhi, thủ tục xét xử phải căn cứ vào tuổi
tác của bị cáo và hướng về mục tiêu cải huấn can phạm [26, Điều 10].
Riêng về vấn đề áp dụng biện pháp tước tự do, nhiều văn kiện pháp lý
quốc tế quy định về vấn đề này như Quy tắc tối thiểu phổ biến của Liên Hợp
Quốc về bảo vệ NCTN bị tước tự do thông qua ngày 14/12/1990, quy tắc này
quan tâm đến việc tái hòa nhập cộng đồng của NCTN phạm tội tái hòa nhập
cộng đồng sau khi hết thời hạn bị tước quyền tự do. Theo đó, các cơ quan
giam giữ cần mở các khóa đặc biệt về dạy nghề cho NCTN, thực hiện các thủ
tục giảm án, thả tù trước thời hạn; tạo điều kiện cho gia đình hay các cơ quan
cung cấp dịch vụ cho NCTN được tiếp xúc với NCTN ngay khi còn bị giam
giữ nhằm nhanh chóng giúp họ trở về với cộng đồng sau khi được trả tự do.
Đối với các cơ quan có thẩm quyền, cần cung cấp các bảo đảm cần thiết để
NCTN có được nơi ở, làm việc, ăn mặc thích hợp và đủ điều kiện tồn tại sau
khi được trả tự do; hạn chế các định kiến chống lại NCTN trong xã hội.
27
Bên cạnh đó, bình luận chung (số 10) về quyền trẻ em trong tư pháp
NCTN của Uỷ ban về quyền trẻ em tại mục 28b, 28c nhấn mạnh: Mọi trẻ em
bị tước quyền tự do có quyền được nhanh chóng tiếp cận với sự giúp đỡ pháp
lý và những giúp đỡ thích hợp khác, cũng như quyền được biết về tính hợp
pháp của việc tước quyền tự do, có quyền đòi hỏi một quyết định nhanh
chóng về bất kỳ hành động nào. Mọi trẻ em bị bắt giữ và tước tự do cần phải
được đưa ra trước một nhà chức trách có năng lực để xem xét tính hợp pháp
của việc tước quyền tự do. Mọi trẻ em bị tước quyền tự do phải được cách ly
với người trưởng thành. Mọi trẻ em bị tước quyền tự do không bị giam giữ
trong nhà tù dành cho người trưởng thành hay các cơ sở vật chất khác dành
cho người trưởng thành. Mọi trẻ em bị tước tự do có quyền duy trì liên lạc với
gia đình của mình qua thư tín và các cuộc viếng thăm.
Như vậy, NCTN bị tước tự do cũng được hưởng các quyền như những
người đã thành niên. Nhưng với thực tế, NCTN là những người chưa phát triển
toàn diện về mặt thể chất và tinh thần, là đối tượng dễ bị tổn thương cần đặc
biệt quan tâm. Do vậy pháp luật quốc tế quy định cho những NCTN được có
những quyền ưu tiên hơn tạo điều kiện tốt nhất để bảo vệ lợi ích của các em.
28
Chương 2
CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ QUYỀN
CON NGƯỜI CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN BỊ TƯỚC TỰ DO
VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
2.1. Các quy định của Pháp luật Việt Nam về quyền con người của
người chưa thành niên bị tước tự do
Trong Nhà nước pháp quyền, việc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp
của tất cả các chủ thể tham gia tố tụng hình sự như người bị tạm giữ, tạm
giam, bị can, bị cáo, bị hại, người làm chứng… là quan trọng như nhau. Pháp
luật Việt Nam có những quy định rất chặt chẽ nhằm bảo vệ quyền con người
của NCTN bị tước tự do.
Ở Việt Nam, những NCTN bị tước tự do theo thủ tục tố tụng hình sự
bao gồm NCTN bị tạm giữ, tạm giam, chấp hành án phạt tù có thời hạn và
NCTN bị áp dụng biện pháp tư pháp đưa vào trường giáo dưỡng. Ở mỗi giai
đoạn của quá trình tố tụng, NCTN đều được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình bởi rất nhiều các quy định khác nhau. Cụ thể:
2.1.1. Trong giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố
Khởi tố, điều tra, truy tố là ba giai đoạn đầu của quá trình tố tụng hình
sự. Kết quả của những giai đoạn này là tiền đề quan trọng của việc xét xử, là cơ
sở để Tòa án nghiên cứu, xem xét ban hành một bản án đúng người đúng tội.
Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn tố tụng hình sự đầu tiên mà trong đó
cơ quan có thẩm quyền căn cứ vào các quy định của pháp luật tố tụng hình sự
tiến hành các hoạt động nhằm xác định có hay không có các dấu hiệu của tội
phạm trong hành vi nguy hiểm cho xã hội đã được thực hiện, đồng thời ban
hành quyết định về việc khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự liên quan
đến hành vi đó.
Điều tra vụ án hình sự là giai đoạn tố tụng hình sự thứ hai mà trong đó
29
Cơ quan điều tra căn cứ vào các quy định của pháp luật tố tụng hình sự và
dưới dự kiểm sát của Viện kiểm sát tiến hành các biện pháp cần thiết nhằm
thu thập và củng cố các chứng cứ, nghiên cứu các tình tiết của vụ án hình sự,
phát hiện nhanh chóng và đầy đủ tội phạm, cũng như người phạm tội để truy
cứu trách nhiệm hình sự, đồng thời bảo đảm cho việc bồi thường thiệt hại về
vật chất và tinh thần do tội phạm gây nên. Trên cơ sở điều tra để quyết định
đình chỉ điều tra vụ án hình sự hoặc kết thúc điều tra chuyển toàn bộ hồ sơ vụ
án sang Viện kiểm sát và đề nghị truy tố bị can.
Truy tố là giai đoạn thứ ba của hoạt động tố tụng hình sự, ở giai đoạn
này Viện kiểm sát đánh giá một cách toàn diện, khách quan các tài liệu chứng
cứ trong vụ án hình sự do Cơ quan điều tra chuyển đến. Bên cạnh đó Viện
kiểm sát có thể tiến hành một số hoạt động điều tra khi thấy cần thiết. Trên cơ
sở đánh giá chứng cứ Viện kiểm sát ra một trong các quyết định Trả hồ sơ
điều tra bổ sung; Tạm đình chỉ vụ án hình sự; Đình chỉ vụ án hình sự hay ban
hành Cáo trạng truy tố bị cáo ra trước Tòa án nhân dân để xét xử.
Hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố trong những vụ án có bị can là
NCTN cũng được tiến hành theo thủ tục chung mà BLTTHS đã quy định.
Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn mở đầu cho quá trình tố tụng. Mở ra giai
đoạn điều tra vụ án hình sự. Trong giai đoạn này, NCTN phạm tội nói chung
có một quyền tố tụng rất quan trọng, đó là quyền không bị bắt, giữ, giam một
cách tùy tiện. Pháp luật Việt Nam đã quy định cụ thể về căn cứ áp dụng biện
pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam NCTN theo thủ tục tố tụng hình sự.
Căn cứ để tiến hành áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm
giam được quy định tại các điều Điều 80, 81, 82, 86, 88, 120 và 303
BLTTHS, NCTN bị bắt bao gồm NCTN bị bắt trong trường hợp khẩn cấp,
phạm tội quả tang, NCTN bị bắt theo quyết định truy nã….
NCTN bị tạm giữ, tạm giam là người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp,
30
phạm tội quả tang, bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú,
đầu thú mà tại thời điểm bị bắt, tạm giữ, tạm giam họ là NCTN từ đủ 14 tuổi
đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc phạm tội đặc biệt
nghiêm trọng; từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội nghiêm trọng do cố ý,
tội rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.
Bị can chưa thành niên là người bị khởi tố về hình sự vì có căn cứ xác
định họ thực hiện hành vi phạm tội theo quy định của pháp luật hình sự mà tại
thời điểm có quyết định khởi tố của cơ quan có thẩm quyền họ là người từ đủ
14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc phạm tội đặc
biệt nghiêm trọng; từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội nghiêm trọng do
cố ý, tội rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.
Như vậy, người bị bắt tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo là NCTN phải
thỏa mãn những quy định pháp luật về người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo và tại các thời điểm tố tụng đó, họ đang ở độ tuổi từ đủ 14 đến chưa đủ
18 tuổi. Những thủ tục đối với người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là
NCTN phải được tiến hành theo thủ tục đặc biệt được quy định tại Chương
XXXII, BLTTHS. Đây là những quy định nhằm đưa ra các thủ tục tố tụng sao
cho phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của người bị bắt bị tạm giữ, tạm giam,
bị can, bị cáo là NCTN góp phần bảo vệ quyền và lợi ích của họ. Việc bắt
NCTN để tạm giữ, tạm giam chỉ được thực hiện khi tuân thủ các quy định
chặt chẽ và thận trọng trên cơ sở có tính đến sự cần thiết của việc áp dụng đó.
Nhằm đảm bảo quyền không bị giam giữ một cách tùy tiện, người bị
tạm giữ, tạm giam còn phải được biết lý do mình bị giam, giữ, có quyền thực
hiện các hành vi tố tụng mà pháp luật quy định để bác bỏ các căn cứ giam,
giữ. Đồng thời những quy định này còn nhằm kết hợp hài hòa giữa các biện
pháp cưỡng chế và giáo dục nhằm tạo ra những điều kiện cần thiết để những
NCTN sửa chữa những sai lầm, sớm trở thành người có ích cho xã hội.
31
BLTTHS có những quy định hoàn toàn phù hợp với điểm b, Điều 37
của Công ước CRC. Tinh thần chung là chỉ áp dụng biện pháp bắt NCTN để
tạm giữ, tạm giam trong trường hợp thật cần thiết khi việc áp dụng biện pháp
ngăn chặn khác không có hiệu quả. Tinh thần đó đã được biểu hiện rõ tại Điều
303 BLTTHS. Theo quy định tại Điều 303 BLTTHS, chỉ có thể bắt tạm giữ,
tạm giam đối với NCTN nếu đủ các căn cứ quy định tại các Điều 80, 81, 82,
86, 88 và 120 của luật này đồng thời các căn cứ trên chỉ xét đến trong những
trường hợp người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý
hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng; và trường hợp người từ đủ 16 tuổi đến
dưới 18 tuổi phạm tội nghiêm trọng do cố ý, phạm tội rất nghiêm trọng hoặc
phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.
Như vậy, việc áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam đối
với NCTN chỉ được thực hiện trong những trường hợp phạm tội nghiêm trọng
do cố ý, phạm tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng. Quy định
này đã thu hẹp đáng kể phạm vi NCTN bị bắt tạm giữ, tạm giam. Ngay sau
khi bắt, tạm giữ, tạm giam cơ quan ra lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam NCTN phải
thông báo cho gia đình, người đại diện hợp pháp của họ biết.
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát khi xét thấy không còn cần thiết phải
áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam NCTN phải áp dụng biện pháp tạm giữ,
tạm giam NCTN thì phải trả tự do ngay cho họ hoặc thay thế bằng biện pháp
ngăn chặn khác.
Mặt khác, theo quy định tại Điều 304 BLTTHS nếu xét thấy việc áp
dụng biện pháp ngăn chặn trên là không cần thiết Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát, Tòa án có thể ra quyết định giao bị can, bị cáo là NCTN cho cha mẹ,
người đỡ đầu của họ giám sát để đảm bảo sự có mặt của bị can, bị cáo khi có
giấy triệu tập của Cơ quan tiến hành tố tụng. Biện pháp này có thể được các
Cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng theo đề nghị của cha, mẹ hoặc người đỡ
32
đầu của NCTN phạm tội hoặc theo sáng kiến của chính các Cơ quan tiến hành
tố tụng. Để quyết định giao việc giám sát NCTN phạm tội cho cha, mẹ hoặc
người đỡ đầu của họ, các Cơ quan tiến hành tố tụng cần xem xét các yếu tố:
Tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, lứa tuổi, tình
trạng sức khỏe, nhân thân của NCTN...; khả năng thực hiện nhiệm vụ giám
sát của cha, mẹ hoặc người đỡ đầu của NCTN. Nếu trường hợp phạm tội của
NCTN không thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng và không cần phải tạm
giữ, tạm giam và cha, mẹ hoặc người đỡ đầu có khả năng giám sát, đảm bảo
bị can, bị cáo không phạm tội mới, không trốn tránh hoặc cản trở tố tụng thì
Cơ quan tiến hành tố tụng có thể giao cho cha, mẹ, người đỡ đầu giám sát.
Người được giao nhiệm vụ giám sát có nghĩa vụ giám sát chặt chẽ NCTN,
theo dõi tư cách, đạo đức và giáo dục người đó. Trong trường hợp người được
giao nhiệm vụ giám sát không thực hiện tốt nghĩa vụ của mình, các Cơ quan
tiến hành tố tụng có thể áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nghiêm khắc hơn.
Theo quy định của Điều 79 BLHS, biện pháp này không phải là một biện
pháp ngăn chặn. Đây là những quy định có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, thể
hiện chính sách ngày càng nhân đạo của Nhà nước ta đối với NCTN
Một trong những quyền quan trọng ở giai đoạn này của NCTN bị tạm
giữ, tạm giam, bị can chưa thành niên là quyền bào chữa. Tại Hiến pháp
2013 quy định “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố
xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư bào chữa hoặc nhờ người khác bào
chữa” [43, Điều 31, Khoản 4]. Đây là quy định nhằm bảo đảm quyền con
người của NCTN.
Quyền bào chữa được phát sinh ngay từ khi NCTN phạm tội bị bắt tạm
giữ. Đây cũng là một phương tiện pháp lý cần thiết để người bị tạm giữ, bị
can chưa thành niên bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, đảm bảo quá
trình tố tụng được khách quan công bằng. Điều 11 BLTTHS quy định người
33
bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào
chữa. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có nhiệm vụ bảo đảm cho
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa theo quy định của
BLTTHS. Theo đó, trong giai đoạn này, Cơ quan tiến hành tố tụng phải bảo
đảm cho bị can thực hiện quyền bào chữa bằng cách:
- Giải thích cho họ quyền bào chữa
- Tạo điều kiện cho bị can nhờ người bào chữa
- Yêu cầu cử người bào chữa trong trường hợp quy định
- Tạo điều kiện cho người bào chữa của họ thực hiện quyền tố tụng
(cấp giấy chứng nhận người bào chữa, thông báo cho người bào chữa thời
gian, địa điểm hỏi cung bị can, tống đạt các quyết định của Cơ quan tiến
hành tố tụng …)
Điều 48, 49 BLTTHS người bị tạm giữ, bị can có quyền tự bào chữa
hoặc nhờ người khác bào chữa. Quy định này được cụ thể tại Thông tư số
70/TT-BCA ngày 10/10/2011 của Bộ công an quy định chi tiết thi hành các
quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự liên quan đến việc bảo đảm quyền bào
chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, cụ thể Điều 4 Thông tư quy định:
Khi giao Quyết định tạm giữ cho người bị tạm giữ, Quyết
định khởi tố bị can, Điều tra viên phải đọc và giải thích cho họ biết
rõ về quyền, nghĩa vụ của người bị tạm giữ, bị can theo quy định tại
Điều 48, Điều 49 BLTTHS và lập biên bản giao nhận Quyết định.
Trong biên bản phải ghi rõ ý kiến của người bị tạm giữ, bị can về
việc có nhờ người bào chữa hay không… [3, Điều 4].
Tuy nhiên, NCTN là người chưa đủ 18 tuổi chưa phát triển đầy đủ về thể
chất, tinh thần. Vì vậy, bên cạnh các quy định trên Điều 57 và 305 BLTTHS
quy định người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là NCTN
có thể lựa chọn người bào chữa hoặc tự mình bào chữa cho người bị tạm giữ, bị
34
can, bị cáo. Trong trường hợp bị can, bị cáo là NCTN hoặc người đại diện hợp
pháp của họ không lựa chọn được người bào chữa hoặc từ chối quyền được
nhờ bào chữa thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án phải yêu cầu Đoàn
luật sư cử người bào chữa cho họ hoặc đề nghị Đoàn thanh niên cộng sản Hồ
Chí Minh cử người bào chữa. Như vậy, pháp luật đã dự liệu các trường hợp có
thể xảy ra nhằm đảm bảo trong bất kỳ trường hợp nào, trong những vụ án
NCTN đều có sự tham gia của người bào chữa.
Theo quy định của BLTTHS, người bào chữa cho người bị tạm giữ, bị
can chưa thành niên có thể là người đại diện hợp pháp của NCTN, Luật sư,
Bào chữa viên nhân dân. Đặc biệt theo Luật trợ giúp pháp lý năm 2006, đối
với trẻ em không nơi nương tựa là người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, các em có
thể được hỗ trợ bởi dịch vụ trợ giúp pháp lý để tìm người bào chữa cho mình.
Sau khi có quyết định khởi tố vụ án hình sự đối với vụ án có NCTN
thực hiện lúc này Cơ quan điều tra mới được phép tiến hành các hoạt động
điều tra (trừ các hoạt động khám nghiệm). Một trong những hoạt động điều
tra cần thiết, bắt buộc phải tiến hành đó là hoạt động lấy lời khai của người bị
tạm giữ, hỏi cung bị can. Điều 131, 306 BLTTHS quy định về việc lấy lời
khai của người bị tạm giữ, hỏi cung bị can và được hướng dẫn cụ thể tại Điều
10 Thông tư liên tịch số 01/2011/TTLT-VKSTC-TANDTC-BCA-BTP-
BLĐTBXH ngày 12/7/2011 hướng dẫn thi hành một số quy định của
BLTTHS đối với người tham gia tố tụng là NCTN. Theo đó việc lấy lời khai
người bị tạm giữ, hỏi cung bị can là NCTN được tiến hành theo một cách thức
phù hợp để làm giảm bớt sự căng thẳng, sợ hãi. Số lần lấy lời khai và hỏi
cung cần được hạn chế đến mức thấp thấp nhất. Những Điều tra viên, Kiểm
sát viên lấy lời khai, hỏi cung phải có thái độ và hành vi phù hợp với mức độ
trưởng thành của từng em. Bên cạnh đó, pháp luật còn quy định khi tiến hành
lấy lời khai, hỏi cung, Cơ quan tiến hành tố tụng phải thông báo trước cho
35
người bào chữa, người đại diện hợp pháp của NCTN các thông tin như thời
gian, địa điểm… Nếu NCTN có yêu cầu, có thể mời cán bộ chuyên trách, cán
bộ trợ giúp tư vấn về pháp lý, y tế để cùng tham gia, tạo không khí yên tâm
thoải mái cho các em.
Đây là quy định rất quan trọng bởi lẽ khi phải tiếp xúc với Điều tra
viên, Kiểm sát viên để trình bày lại hành vi phạm tội của mình, các em không
tránh khỏi những hoang mang, lo lắng. Sự hoang mang lo lắng này không
những để lại dấu ấn tâm lý không tốt cho các em mà trong nhiều trường hợp
dẫn đến hậu quả lời khai của các em thiếu khách quan không phản ánh đúng
sự thật của vụ án. Vì lo sợ mà nhận tội hoặc khai báo không đúng với những
gì diễn ra trên thực tế dẫn tới những khó khăn trong việc giải quyết vụ án. Bởi
vậy, sự có mặt của đại diện gia đình sẽ giúp các em vững tâm đồng thời giúp
cán bộ điều tra hiểu rõ hơn điều kiện sinh sống, sự giáo dục của gia đình qua
đó tìm ra nguyên nhân, điều kiện phạm tội.
Mặt khác, khi tiến hành các hoạt động điều tra trong vụ án NCTN, pháp
luật đòi hỏi Điều tra viên, Kiểm sát viên phải có những hiểu biết cần thiết về
tâm sinh lý của trẻ em. Thông qua đại diện gia đình, cán bộ điều tra sẽ tạo
được mối quan hệ tin cậy, gần gũi tín nhiệm đối với các em. Khiến các em bớt
đi sự lo lắng để khai báo khách quan, thành khẩn. Mặt khác, việc có mặt của
người bào chữa cũng là một yếu tố quan trọng để ngăn không cho các Điều tra
viên bức cung hay dùng nhục hình đối với các em. Việc Điều tra viên tiến
hành lấy lời khai, hỏi cung NCTN mà không có sự tham gia của người bào
chữa, người giám hộ là sự vi phạm nghiêm trọng về tố tụng. Đây là một trong
những căn cứ để Viện kiểm sát, Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung để khắc
phục những vi phạm về thủ tục tố tụng nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp
pháp của NCTN.
Trong giai đoạn truy tố, thông qua việc thực hiện quyền công tố, Viện
36
kiểm sát phải rà soát lại toàn bộ hồ sơ vụ án, kiểm tra tính có căn cứ tất cả các
tài liệu điều tra của Cơ quan điều tra. Nếu phát hiện thấy có vi phạm, Viện
kiểm sát phải kịp thời có những yêu cầu, kiến nghị đối với Cơ quan điều tra
nhằm khắc phục những vi phạm đó. Trong giai đoạn này, Viện kiểm sát có
quyền áp dụng hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn. Điều 166 BLTTHS quy
định về thời hạn áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam chỉ là 20 ngày đối
với tội phạm nghiêm trọng, 30 mươi ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng
và đặc biệt nghiêm trọng.
Khi tiến hành giao Cáo trạng, cán bộ Kiểm sát phải đảm bảo có mặt
người đại diện hợp pháp hay người bào chữa của NCTN. Để bảo vệ quyền và
lợi ích cho bị can chưa thành niên, người bào chữa có quyền đọc bản cáo
trạng, ghi chép, sao chụp những tài liệu có trong hồ sơ vụ án liên quan điểm
việc bào chữa theo quy định của pháp luật và đề xuất các yêu cầu.
2.1.2. Trong giai đoạn xét xử
Xét xử vụ án hình sự là giai đoạn trung tâm của hoạt động tố tụng hình
sự mà trong đó Tòa án có thẩm quyền căn cứ vào quy định của pháp luật để ra
quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung, đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án,
quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục sơ thẩm để xem xét về các tình tiết
trong vụ án đồng thời trên cơ sở cuộc thẩm vấn công khai tại phiên tòa để ra
phán quyết về hành vi có tính nguy hiểm cho xã hội hay không, bị cáo có tội
hay không có tội. Hoặc xét xử vụ án theo thủ tục phúc thẩm nếu bản án hay
quyết định sở thẩm đã được tuyên và chưa có hiệu lực pháp luật nhưng bị
kháng cáo kháng nghị.
Trong giai đoạn xét xử NCTN, Tòa án phải chú trọng thực hiện đầy đủ
các quy định về NCTN đặc biệt là các quy định về NCTN tại BLTTHS và
BLHS. Trong giai đoạn này họ có có các quyền như quyền bào chữa, quyền
được áp dụng các thủ tục tố tụng đặc biệt, đồng thời các Cơ quan tiến hành tố
37
tụng nói chung và Tòa án nói riêng phải thực hiện đúng các quy định của
pháp luật nhằm đảm bảo cho bị cáo có điều kiện tốt nhất để thụ hưởng các
quyền của mình. Cụ thể:
Thứ nhất: Việc bắt bị cáo chưa thành niên để tạm giam.
Bị cáo chưa thành niên là người mà tại thời điểm bị Tòa án quyết định
đưa vụ án ra xét xử, họ là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất
nghiêm trọng do cố ý hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng; từ đủ 16 tuổi đến
dưới 18 tuổi phạm tội nghiêm trọng do cố ý, tội rất nghiêm trọng hoặc phạm
tội đặc biệt nghiêm trọng.
Việc bắt bị cáo chưa thành niên để tạm giam là việc bắt người đã bị Tòa
án quyết định đưa ra xét xử nhằm ngăn chặn bị cáo tiếp tục phạm tội, tạo điều
kiện cho việc xét xử và thi hành án hình sự. Việc bắt bị cáo để tạm giam phải
đảm bảo đầy đủ các quy định tương tự như việc bắt bị can để tạm giam trong
giai đoạn điều tra, truy tố. Tuy nhiên, những người có thẩm quyền bắt bị cáo để
tạm giam bao gồm Chánh án, Phó chánh án Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự
các cấp, thẩm phán giữ chức vụ chánh tòa, Phó chánh án tòa, tòa phúc thẩm
TANDTC, Hội đồng xét xử và thời hạn tạm giam cũng phải phù hợp với thời
hạn chuẩn bị xét xử đối với từng loại tội danh mà NCTN thực hiện.
Thứ hai: Thành phần Hội đồng xét xử.
Ngoài việc thỏa mãn các quy định tại Điều 185 và 244 BLTTHS, thành
phần Hội đồng xét xử phải thỏa mãn các quy định tại khoản 1, Điều 307
BLTTHS và Điều 11, Thông tư liên tịch số 01/2011/TTLT-VKSTC-
TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH ngày 12/7/2011 hướng dẫn thi hành một số
quy định của BLTTHS đối với người tham gia tố tụng là NCTN. Theo đó,
thành phần Hội đồng xét xử phải có một Hội thẩm là giáo viên hoặc là cán bộ
Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh. Trong khi tham gia phiên tòa, Kiểm
sát viên phải chú ý vấn đề này bởi nếu thành phần xét xử không đúng theo
quy định này, Kiểm sát viên phải yêu cầu hoãn phiên tòa.
38
Nhằm đảm bảo một cách tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN,
BLTTHS có quy định không chỉ Điều tra viên, Kiểm sát viên mà cả Thẩm
phán tiến hành tố tụng đối với NCTN cũng phải là người có những hiểu biết
cần thiết về tâm lý học, khoa học giáo dục cũng như về hoạt động đấu tranh
phòng chống tội phạm của NCTN.
Thứ ba: Quyền bào chữa.
Quyền bào chữa của người bị tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo là
NCTN phạm tội không chỉ được thực hiện trong trong cả quá trình điều tra,
truy tố trước đó mà phải đảm bảo nghiêm túc trong giai đoạn xét xử sơ thẩm.
Vì vậy trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, nếu thẩm phán phát hiện ở các giai
đoạn tố tụng trước đó, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát đã thực hiện không
đúng, không đầy đủ các quy định của pháp luật nhằm đảm bảo việc thực hiện
quyền bào chữa của họ thì Tòa án trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ
sung theo quy định tại Điều 179 BLTTHS nhằm khắc phục những thiếu sót về
tố tụng. Mặt khác, Toà án phải đảm bảo cho bị cáo thực hiện đầy đủ quyền
bào chữa của mình
Theo quy định tại Điều 306 BLTTHS, tại phiên tòa xét xử bị cáo là
NCTN phải có mặt đại diện gia đình bị cáo. Trong trường hợp bị cáo là
NCTN đang học ở trường hoặc đang học tập, sinh hoạt trong một tổ chức nào
đó (đoàn thanh niên) thì phải có đại diện của nhà trường, tổ chức đó làm đại
diện. Những người này có quyền đưa ra tài liệu, đồ vật… yêu cầu và đề nghị
thay đổi người tiến hành tố tụng, tham gia tranh luận tại phiên tòa, khiếu nại
các hành vi tố tụng của những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng và các
quyết định của Tòa án. Sự có mặt của đại diện hợp pháp của bị cáo tại phiên
toà có ý nghĩa quan trọng. Bởi lẽ NCTN dù ở độ tuổi nào thì cũng là người
còn phụ thuộc vào gia đình, nhà trường và xã hội. Xét từ bất cứ góc độ nào
cũng có thể rút ra kết luận, sự sai lầm của NCTN phạm tội có một phần trách
Bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên bị tước tự do
Bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên bị tước tự do
Bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên bị tước tự do
Bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên bị tước tự do
Bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên bị tước tự do
Bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên bị tước tự do
Bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên bị tước tự do
Bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên bị tước tự do
Bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên bị tước tự do
Bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên bị tước tự do
Bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên bị tước tự do
Bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên bị tước tự do
Bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên bị tước tự do
Bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên bị tước tự do
Bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên bị tước tự do
Bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên bị tước tự do
Bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên bị tước tự do
Bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên bị tước tự do
Bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên bị tước tự do
Bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên bị tước tự do
Bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên bị tước tự do
Bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên bị tước tự do
Bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên bị tước tự do
Bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên bị tước tự do
Bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên bị tước tự do
Bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên bị tước tự do
Bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên bị tước tự do
Bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên bị tước tự do
Bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên bị tước tự do
Bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên bị tước tự do
Bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên bị tước tự do
Bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên bị tước tự do
Bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên bị tước tự do
Bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên bị tước tự do
Bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên bị tước tự do
Bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên bị tước tự do
Bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên bị tước tự do
Bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên bị tước tự do
Bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên bị tước tự do
Bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên bị tước tự do
Bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên bị tước tự do
Bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên bị tước tự do
Bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên bị tước tự do
Bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên bị tước tự do
Bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên bị tước tự do
Bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên bị tước tự do
Bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên bị tước tự do
Bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên bị tước tự do

More Related Content

What's hot

Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Những nội dung cơ bản của công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị
Những nội dung cơ bản của công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trịNhững nội dung cơ bản của công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị
Những nội dung cơ bản của công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trịjackjohn45
 

What's hot (20)

Luận văn: Hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...
 
Luận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOT
Luận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOTLuận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOT
Luận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOT
 
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOTLuận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Tội giao cấu với trẻ em trong luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội giao cấu với trẻ em trong luật hình sự, HAYLuận văn: Tội giao cấu với trẻ em trong luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội giao cấu với trẻ em trong luật hình sự, HAY
 
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sựLuận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự
 
Đề tài: Hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh Quảng Ngãi, HOT
Đề tài: Hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh Quảng Ngãi, HOTĐề tài: Hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh Quảng Ngãi, HOT
Đề tài: Hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh Quảng Ngãi, HOT
 
Luận văn: Tội chống người thi hành công vụ tại TPHCM, HAY
Luận văn: Tội chống người thi hành công vụ tại TPHCM, HAYLuận văn: Tội chống người thi hành công vụ tại TPHCM, HAY
Luận văn: Tội chống người thi hành công vụ tại TPHCM, HAY
 
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam Định
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam ĐịnhLuận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam Định
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam Định
 
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOTLuận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
 
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOTLuận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
 
Luận văn: Quyền của những người bị tước tự do, HOT, HAY
Luận văn: Quyền của những người bị tước tự do, HOT, HAYLuận văn: Quyền của những người bị tước tự do, HOT, HAY
Luận văn: Quyền của những người bị tước tự do, HOT, HAY
 
Luận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAYLuận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAY
 
Luận văn: Chế độ thi hành án phạt tù ở Việt Nam hiện nay, HAY
Luận văn: Chế độ thi hành án phạt tù ở Việt Nam hiện nay, HAYLuận văn: Chế độ thi hành án phạt tù ở Việt Nam hiện nay, HAY
Luận văn: Chế độ thi hành án phạt tù ở Việt Nam hiện nay, HAY
 
Những nội dung cơ bản của công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị
Những nội dung cơ bản của công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trịNhững nội dung cơ bản của công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị
Những nội dung cơ bản của công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị
 
Luận văn: Chứng minh trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Chứng minh trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, HAYLuận văn: Chứng minh trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Chứng minh trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, HAY
 
Luận văn: Hoãn thi hành án hình sự theo pháp luật Việt Nam, HAY
Luận văn: Hoãn thi hành án hình sự theo pháp luật Việt Nam, HAYLuận văn: Hoãn thi hành án hình sự theo pháp luật Việt Nam, HAY
Luận văn: Hoãn thi hành án hình sự theo pháp luật Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Mặt khách quan của tội phạm trong Luật hình sự, HOT
Luận văn: Mặt khách quan của tội phạm trong Luật hình sự, HOTLuận văn: Mặt khách quan của tội phạm trong Luật hình sự, HOT
Luận văn: Mặt khách quan của tội phạm trong Luật hình sự, HOT
 

Similar to Bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên bị tước tự do

Biện pháp tạm giam theo luật tố tụng hình sự việt nam (luận văn thạc sỹ luật)...
Biện pháp tạm giam theo luật tố tụng hình sự việt nam (luận văn thạc sỹ luật)...Biện pháp tạm giam theo luật tố tụng hình sự việt nam (luận văn thạc sỹ luật)...
Biện pháp tạm giam theo luật tố tụng hình sự việt nam (luận văn thạc sỹ luật)...Man_Ebook
 

Similar to Bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên bị tước tự do (20)

Luận văn: Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên phạm tội
Luận văn: Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên phạm tộiLuận văn: Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên phạm tội
Luận văn: Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên phạm tội
 
Quyền con người qua biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự do
Quyền con người qua biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự doQuyền con người qua biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự do
Quyền con người qua biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự do
 
Luận văn: Quyền con người trong hoạt động xét xử sơ thẩm, HAY
Luận văn: Quyền con người trong hoạt động xét xử sơ thẩm, HAYLuận văn: Quyền con người trong hoạt động xét xử sơ thẩm, HAY
Luận văn: Quyền con người trong hoạt động xét xử sơ thẩm, HAY
 
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
Đề tài: Quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do
 
Luận văn: Vấn đề về quyền xét xử công bằng ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Vấn đề về quyền xét xử công bằng ở Việt Nam, HOTLuận văn: Vấn đề về quyền xét xử công bằng ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Vấn đề về quyền xét xử công bằng ở Việt Nam, HOT
 
Đề tài: Địa vị pháp lý của người chưa thành niên theo luật, HOT
Đề tài: Địa vị pháp lý của người chưa thành niên theo luật, HOTĐề tài: Địa vị pháp lý của người chưa thành niên theo luật, HOT
Đề tài: Địa vị pháp lý của người chưa thành niên theo luật, HOT
 
Luận án: Bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội, HAY
Luận án: Bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội, HAYLuận án: Bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội, HAY
Luận án: Bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội, HAY
 
Quyền của người bị tạm giữ, tạm giam và chấp hành hình phạt tù
Quyền của người bị tạm giữ, tạm giam và chấp hành hình phạt tùQuyền của người bị tạm giữ, tạm giam và chấp hành hình phạt tù
Quyền của người bị tạm giữ, tạm giam và chấp hành hình phạt tù
 
Luận án: Quyền trẻ em trong xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam
Luận án: Quyền trẻ em trong xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt NamLuận án: Quyền trẻ em trong xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam
Luận án: Quyền trẻ em trong xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam
 
Quyền trẻ em trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền
Quyền trẻ em trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyềnQuyền trẻ em trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền
Quyền trẻ em trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền
 
Biện pháp tạm giam theo luật tố tụng hình sự việt nam (luận văn thạc sỹ luật)...
Biện pháp tạm giam theo luật tố tụng hình sự việt nam (luận văn thạc sỹ luật)...Biện pháp tạm giam theo luật tố tụng hình sự việt nam (luận văn thạc sỹ luật)...
Biện pháp tạm giam theo luật tố tụng hình sự việt nam (luận văn thạc sỹ luật)...
 
Bảo Đảm Quyền Bào Chữa Trong Luật Tố Tụng Hình Sự.doc
Bảo Đảm Quyền Bào Chữa Trong Luật Tố Tụng Hình Sự.docBảo Đảm Quyền Bào Chữa Trong Luật Tố Tụng Hình Sự.doc
Bảo Đảm Quyền Bào Chữa Trong Luật Tố Tụng Hình Sự.doc
 
Quyền con người đối với người bị bắt trong giai đoạn điều tra, HOT
Quyền con người đối với người bị bắt trong giai đoạn điều tra, HOTQuyền con người đối với người bị bắt trong giai đoạn điều tra, HOT
Quyền con người đối với người bị bắt trong giai đoạn điều tra, HOT
 
Luận văn: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
Luận văn: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ ánLuận văn: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
Luận văn: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
 
Đề tài: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
Đề tài: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ ánĐề tài: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
Đề tài: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
 
Bảo vệ quyền con người trong biện pháp tạm giữ, tạm giam, HAY
Bảo vệ quyền con người trong biện pháp tạm giữ, tạm giam, HAYBảo vệ quyền con người trong biện pháp tạm giữ, tạm giam, HAY
Bảo vệ quyền con người trong biện pháp tạm giữ, tạm giam, HAY
 
Đề tài: Bảo vệ, thúc đẩy quyền dân sự của người khuyết tật, HOT
Đề tài: Bảo vệ, thúc đẩy quyền dân sự của người khuyết tật, HOTĐề tài: Bảo vệ, thúc đẩy quyền dân sự của người khuyết tật, HOT
Đề tài: Bảo vệ, thúc đẩy quyền dân sự của người khuyết tật, HOT
 
Bảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sự
Bảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sựBảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sự
Bảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sự
 
Luận văn: Quyền con người trong tạm giữ, tạm giam tỉnh Đắk Lắk
Luận văn: Quyền con người trong tạm giữ, tạm giam tỉnh Đắk LắkLuận văn: Quyền con người trong tạm giữ, tạm giam tỉnh Đắk Lắk
Luận văn: Quyền con người trong tạm giữ, tạm giam tỉnh Đắk Lắk
 
Luận án: Bảo đảm quyền của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án
Luận án: Bảo đảm quyền của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ ánLuận án: Bảo đảm quyền của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án
Luận án: Bảo đảm quyền của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa2353020138
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxnhungdt08102004
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxendkay31
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNguyễn Đăng Quang
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdftohoanggiabao81
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 

Recently uploaded (19)

10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 

Bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên bị tước tự do

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN PHƯƠNG LINH HOµN THIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ QUYÒN CON NG¦êI CñA NG¦êI CH¦A THµNH NI£N BÞ T¦íC Tù DO ë VIÖT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2014
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN PHƯƠNG LINH HOµN THIÖN PH¸P LUËT VÒ B¶O VÖ QUYÒN CON NG¦êI CñA NG¦êI CH¦A THµNH NI£N BÞ T¦íC Tù DO ë VIÖT NAM Chuyên ngành: Pháp luật về quyền con người Mã số: Chuyên ngành đào tạo thí điểm LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS. TRỊNH QUỐC TOẢN HÀ NỘI - 2014
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Nguyễn Phương Linh
  • 4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục các bảng MỞ ĐẦU.......................................................................................................1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN BI TƯỚC TỰ DO BẰNG PHÁP LUẬT..................................................................7 1.1. Khái niệm, đặc điểm người chưa thành niên và người chưa thành niên bị tước tự do...................................................................7 1.1.1. Khái niệm và đặc điểm người chưa thành niên ...................................7 1.1.2. Khái niệm và đặc điểm người chưa thành niên bị tước tự do ............ 13 1.2. Quyền con người của người chưa thành niên bị tước tự do và sự cần thiết bảo vệ nó ..................................................................... 15 1.3. Những quy định cơ bản của pháp luật quốc tế về bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên bị tước tự do.......... 22 Chương 2: CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ QUYỀN CON NGƯỜI CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN BỊ TƯỚC TỰ DO VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG........................... 28 2.1. Các quy định của Pháp luật Việt Nam về quyền con người của người chưa thành niên bị tước tự do ...................................... 28 2.1.1. Trong giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố........................................... 28 2.1.2. Trong giai đoạn xét xử...................................................................... 36
  • 5. 2.1.3. Chế độ của người chưa thành niên bị áp dụng các biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam; trong giai đoạn thi hành hình phạt tù có thời hạn, biện pháp tư pháp đưa vào trường giáo dưỡng........... 42 2.1.4. Quyền khiếu nại, tố cáo của người chưa thành niên bị tước tự do ........ 51 2.2. Thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên bị tước tự do............ 52 2.2.1. Tình hình tội phạm do người chưa thành niên thực hiện................... 52 2.2.2. Thực trạng áp dụng hình phạt tù và biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng với người chưa thành niên.............................................. 55 2.2.3. Thực trạng áp dụng các biện pháp tạm giữ, tạm giam....................... 57 2.2.4. Thực trạng việc đảm bảo quyền bào chữa......................................... 58 2.3. Những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân của nó trong áp dụng các quy định của pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền của người chưa thành niên bị tước tự do ...................................... 60 2.3.1. Những tồn tại, hạn chế trong áp dụng các quy định của pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền của người chưa thành niên bị tước tự do...... 60 2.3.2. Những nguyên nhân của tồn tại, hạn chế trong áp dụng các quy định của pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền của người chưa thành niên bị tước tự do.................................................................... 64 Chương 3: NHU CẦU VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ QUYỀN CON NGƯỜI CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN BỊ TƯỚC TỰ DO VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG............................................... 67 3.1. Nhu cầu hoàn thiện các quy định pháp luật Việt Nam về quyền con người của người chưa thành niên bị tước tự do.......... 67 3.2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật Việt Nam về quyền con người của người chưa thành niên bị tước tự do........................................................................................ 70
  • 6. 3.3. Một số giải pháp khác nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định pháp luật Việt Nam về quyền con người của người chưa thành niên bị tước tự do................................................................. 73 3.3.1. Vấn đề xử lý chuyển hướng đối với người chưa thành niên vi phạm pháp luật ................................................................................. 73 3.3.2. Thành lập Tòa án người chưa thành niên .......................................... 76 3.3.3. Nâng cao năng lực của những người tiến hành tố tụng...................... 78 KẾT LUẬN................................................................................................. 80 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................... 81
  • 7. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự. BLHS: Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009. Các quy tắc Bắc Kinh: Các quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên Hợp Quốc về hoạt động tư pháp đối với người vị thành niên. CRC: Công ước về quyền trẻ em ICCPR: Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị. ICESCR: Công ước về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa. LHS: Luật hình sự. NCTN: Người chưa thành niên. TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao. UDHR: Tuyên ngôn thế giới về quyền con người.
  • 8. DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang Bảng 1.1: Một số quyền con người cơ bản của người bị tước tự do 23 Bảng 2.1: Mức phạt tù có thời hạn áp dụng với người chưa thành niên phạm tội 42 Bảng 2.2: Thống kê tội phạm chưa thành niên (giai đoạn từ 2009 đến năm 2013) 53 Bảng 2.3: Thống kê một số tội danh của NCTN phạm tội thời gian từ 2009 đến 2013 54 Bảng 2.4: Thống kê việc xét xử sơ thẩm NCTN (giai đoạn từ 2009 đến 2013) 55
  • 9. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Theo quy định của Luật nhân quyền quốc tế, người bị tước tự do là khái niệm thường được dùng để chỉ những người do bị áp dụng các biện pháp ngăn chặn hoặc chế tài hành chính hoặc hình sự dưới các hình thức như bị bắt, tạm giữ, tạm giam, thi hành hình phạt tù, tập trung cải tạo, tập trung cai nghiện … mà bị hạn chế quyền tự do đi lại, cư trú và một số quyền tự do khác. Do vị trí yếu thế, bất lợi của nhóm này mà luật nhân quyền quốc tế coi đây là một trong những nhóm đối tượng dễ bị tổn thương. Đặc biệt là nhóm đối tượng bị tước tự do theo tố tụng hình sự, họ có thể bị tước một số quyền công dân để phục vụ cho một số hoạt động khác nhau của cơ quan có thẩm quyền như các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Họ tham gia quá trình tố tụng với những tư cách pháp lý khác nhau và với tư cách nào họ cũng đều là những đối tượng này bị áp dụng những biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước. Luôn tồn tại sự bất bình đẳng trong mối quan hệ giữa họ với các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Bởi lẽ, một bên họ là những đối tượng đang bị tình nghi, bị buộc tội bị kết án còn một bên là các cơ quan tiến hành tố tụng đại diện nhà nước, nhân danh nhà nước với sức mạnh cưỡng chế, quyền uy. Tuy nhiên, ngoài việc quy định nghĩa vụ của các đối tượng này, pháp luật cũng có những quy định cụ thể nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ trong quá trình tố tụng đồng thời yêu cầu các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng phải có trách nhiệm tôn trọng các quyền này. Nhưng trên thực tế, trong nhiều trường hợp các đối tượng này khó có khả năng và điều kiện để bảo vệ quyền và lợi ích của mình đồng thời những quyền và lợi ích hợp pháp này cũng dễ bị những người tiến hành tố tụng vô
  • 10. 2 tình hoặc cố ý xâm phạm. Những xâm phạm này gây ra những hậu quả khó có thể khắc phục bởi nó liên quan trực tiếp đến những quyền cơ bản của cá nhân như quyền sống, quyền tự do… của họ. Nhằm hạn chế một cách tối đa những hành vi xâm phạm nói trên và hậu quả của nó, trong phạm vi quốc tế và mỗi quốc gia, có nhiều quy định chặt chẽ về các thủ tục tố tụng, đặc biệt là đối với những người bị tước tự do. Tuy nhiên, trên thực tế, những quy định trên cũng bộc lộ nhiều điểm bất hợp lý, thiếu hiệu quả chính vì lẽ đó đã ảnh hưởng đến chất lượng giải quyết các vụ án, dẫn đến tình trạng oan sai, gây ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đối tượng. Đặc biệt, đối với các đối tượng bị tước tự do là người chưa thành niên (NCTN) thì vấn đề trên càng cần phải quan tâm nghiên cứu bởi lẽ, NCTN là những người chưa phát triển hoàn thiện về thể chất, tinh thần và nhận thức. Trong quá trình tố tụng, tự bản thân họ không đủ khả năng và hiểu biết để tự tham gia và bảo vệ mình trong các giai đoạn của quá trình tố tụng. Mặt khác, thế hệ trẻ là tương lai của đất nước, quyết định đến sự phát triển hay tồn vong của một quốc gia việc bảo vệ quyền của NCTN, bảo đảm cho họ phát triển toàn diện, hài hòa cả về thể chất và tinh thần là mối quan tâm chung của toàn xã hội. Vì vậy, pháp luật đã ban hành các chế định nhằm cung cấp cho họ các công cụ pháp lý để bảo vệ và thực hiện các quyền của mình trong tố tụng. Do đó, việc nghiên cứu nội dung các chế định trên đồng thời đánh giá hiệu quả của nó trên thực tế là một điều hết sức cần thiết nhằm bảo vệ quyền của NCTN bị tước tự do. Vì những lý do trên, tôi lựa chọn đề tài “Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên bị tước tự do ở Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sĩ.
  • 11. 3 2. Tình hình nghiên cứu Nghiên cứu những vấn đề liên quan đến NCTN phạm tội và việc áp dụng pháp luật trong xét xử án hình sự, xét xử NCTN phạm tội đã được một số nhà khoa học và cán bộ làm công tác thực tiễn tiến hành, công bố trong nhiều công trình khoa học. Có một số luận án tiến sỹ, luận văn thạc sỹ, một số giáo trình giảng dạy, bài viết trên tạp chí và một số sách chuyên khảo đã nghiên cứu về những vấn đề này. Cụ thể như sau: Đề tài nghiên cứu khoa học: +) Luật tố tụng hình sự Việt Nam với việc bảo vệ quyền con người, Đề tài nghiên cứu khoa học, Chủ trì Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Chí – Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội. +) Thực trạng và giải pháp đấu tranh phòng chống tội phạm do NCTN thực hiện trên địa bàn thành phố Hà Nội, Chủ trì TS. Trịnh Quốc Toản, 2005. Sách chuyên khảo: +) Quyền con người trong quản lý tư pháp, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000. +) Bảo vệ các nhóm dễ bị tổn thương trong tố tụng hình sự, Trung tâm nghiên cứu quyền con người – quyền công dân và Trung tâm nghiên cứu tội phạm học và tư pháp hình sự trực thuộc khoa Luật – Đại học quốc gia hà Nội. +) Luật quốc tế về quyền của các nhóm người dễ bị tổn thương, Trung tâm nghiên cứu quyền con người và quyền công dân trực thuộc khoa Luật – Đại học quốc gia Hà Nội. Một số luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ: +) Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam, Luận án tiến sỹ luật học, Lại Văn Trình, 2011. +) Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là NCTN trong tố tụng hình sự, Luận án tiến sĩ luật học, Nguyễn Hữu Thế Trạch, 2014.
  • 12. 4 +) Bảo vệ quyền của NCTN trong tư pháp hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sỹ luật học, Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội, Nguyễn Thị Thanh, 2008. +) Hình phạt tù có thời hạn, áp dụng đối với NCTN phạm tội theo Luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sỹ luật học, Khoa luật Đại học quốc gia Hà Nội, Nguyễn Thị Thu Huyền, 2012. +) Quyền của những người bị tước tự do – Lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc sỹ luật học, Khoa luật Đại học quốc gia Hà Nội, Tạ Thị Nhàn, 2013 Một số bài viết trên các tạp chí chuyên ngành của các tác giả: +) Nguyễn Sơn Hà (2013), “Tìm hiểu quy định của pháp luật quốc tế về quyền của người bị bắt, tạm giam và đề xuất hướng hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam”, Tạp chí kiểm sát, số 19 (tháng 10/2013, tr.52- 59). +) Nguyễn Tiến Đạt (2006), “Bảo đảm quyền con người trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam”, Tạp chí khoa học pháp luật số 3(34)/2006. Ngoài ra, còn một số bài viết khác của các học giả có đề cập đến vấn đề này. Các công trình nghiên cứu trên cho thấy, việc nghiên cứu về quyền của người bị tước tự do ở Việt Nam trong những năm qua đã được quan tâm và đạt được những thành tựu nhất định. Tuy nhiên, chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu về quyền con người của NCTN bị tước tự do ở Việt Nam. Luận văn này có thể bổ sung cái nhìn tổng quát về NCTN bị tước tự do, đặc biệt dưới góc độ luật nhân quyền quốc tế từ đó nâng cao nhận thức về các vấn đề liên quan đến NCTN bị tước tự do đồng thời có những sự điều chỉnh hợp lý nhằm tăng cường bảo đảm các quyền của NCTN bị tước tự do trên thực tế. 3. Mục tiêu nghiên cứu và nhiệm vụ của luận văn 3.1. Mục tiêu Đề tài luận văn cung cấp cái nhìn tổng quan về hệ thống các văn pháp luật Việt Nam có liên quan đến NCTN bị tước tự do và các văn kiện luật nhân quyền quốc tế về lĩnh vực này. Đồng thời xem xét thực tiễn áp dụng những quy định nêu trên tại Việt Nam. Trên cơ sở đó, đưa ra những nhận xét, đánh
  • 13. 5 giá và những kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định về bảo vệ quyền của NCTN bị tước tự do ở Việt Nam. 3.2. Nhiệm vụ của luận văn Để đạt được những mục tiêu nêu trên, luận văn đi sâu giải quyết các vấn đề cụ thể sau: + Làm sáng tỏ khái niệm, đặc điểm về NCTN, NCTN bị tước tự do. + Phân tích các quy định đối với NCTN bị tước tự do theo quy định của luật nhân quyền quốc tế và pháp luật Việt Nam. + So sánh, nhận xét, đánh giá các quy định của pháp luật Việt Nam với các quy định của pháp luật nhân quyền quốc tế về tính hợp lý, tính phù hợp và tính tương thích. + Nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật đối với việc bảo vệ quyền con người của NCTN bị tước tự do. + Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc áp dụng các quy định của pháp luật nhằm bảo vệ quyền con người của NCTN bị tước tự do. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về Nhà nước và pháp luật xã hội chủ nghĩa. Nhất là quan điểm chỉ đạo của Đảng về cải cách tư pháp trong Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị “Về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới” và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”, quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về bảo vệ, chăm sóc, giáo dục thanh thiếu niên và đấu tranh phòng chống tội phạm do NCTN thực hiện. Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Triết học Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh. Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phương pháp
  • 14. 6 phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê, phương pháp đối chiếu, phương pháp so sánh, phương pháp logic, phương pháp chứng minh... để làm sáng tỏ các vấn đề cần nghiên cứu. 5. Những điểm mới của Luận văn - Thứ nhất: Thông qua việc nghiên cứu, tìm hiểu các quy định của luật nhân quyền quốc tế và quy định của pháp luật Việt Nam. Luận văn đưa ra các kết quả để nhận xét tính tương thích, tính hợp lý trong các quy định của pháp luật Việt Nam với các quy định của pháp luật nhân quyền quốc tế về NCTN bị tước tự do. - Thứ hai: Nhận xét thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật đối với việc bảo vệ quyền của NCTN bị tước tự do tại Việt Nam. - Thứ ba: Thông qua việc đánh giá thực trạng việc bảo đảm các quyền con người của NCTN ở Việt Nam. Luận văn đưa ra những kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền con người của NCTN bị tước tự do. Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong các vụ việc có liên quan đến NCTN đặc biệt là NCTN bị tước tự do. Ngoài ra, luận văn còn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu tại Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội và các cơ sở đào tạo khác ở Việt Nam. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn được chia thành 3 chương như sau: Chương 1: Một số vấn đề chung về bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên bị tước tự do bằng pháp luật. Chương 2: Các quy định của pháp luật Việt Nam về quyền con người của người chưa thành niên bị tước tự do và thực tiễn áp dụng. Chương 3: Nhu cầu và giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật Việt Nam về quyền con người của người chưa thành niên bị tước tự do và nâng cao hiệu quả áp dụng.
  • 15. 7 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN BI TƯỚC TỰ DO BẰNG PHÁP LUẬT 1.1. Khái niệm, đặc điểm người chưa thành niên và người chưa thành niên bị tước tự do 1.1.1. Khái niệm và đặc điểm người chưa thành niên Quá trình phát triển của con người từ khi sinh ra đến khi trưởng thành được chia thành nhiều giai đoạn khác nhau trong đó có một quá trình đặc biệt mà con người có những bước phát triển nhảy vọt cả về thể chất và tâm hồn, thời kỳ đó được gọi là thời kỳ chưa thành niên. Chưa thành niên là thời kỳ quá độ từ trẻ em sang người lớn, luôn gắn liền với những biến đổi tâm sinh lý mà bất kỳ người nào cũng phải trải qua. Lúc này, NCTN không hẳn là trẻ em, cũng chưa hẳn là người trưởng thành, đây là thời kỳ chuyển tiếp, các em không còn thụ động với vai trò của người được dạy dỗ nhưng lại chưa hẳn là người lớn, chưa có đủ khả năng phán đoán và giải quyết các tình huống. Hiện nay có rất nhiều quan điểm, định nghĩa về NCTN, trước hết trên phương diện pháp luật quốc tế, khái niệm NCTN được đề cập tới trong nhiều văn kiện pháp lý quan trọng cụ thể như sau: Tại Điều 1, Phần 1 Công ước quốc tế về quyền trẻ em (CRC) được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua ngày 20/11/1989, có hiệu lực từ ngày 02/9/1990 quy định “Trong phạm vi Công ước này, trẻ em có nghĩa là mọi người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp pháp luật áp dụng đối với trẻ em có quy định tuổi thành niên sớm hơn” [28]. Như vậy, theo CRC trẻ em bao gồm tất cả những ai dưới 18 tuổi. Tại Các Quy tắc của Liên Hợp Quốc về bảo vệ NCTN bị tước tự do, được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua ngày 14/12/1990, trong phần
  • 16. 8 phạm vi áp dụng quy tắc, có quy định “Người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi. Giới hạn độ tuổi thấp hơn mức này theo đó không được phép tước tự do của trẻ em cần được pháp luật quy định” [30]. Các hướng dẫn của Liên hợp quốc về phòng ngừa phạm pháp ở người chưa thành niên (các hướng dẫn Ri – Át), được thông qua và tuyên bố ngày 14/12/1990, mặc dù không đưa ra khái niệm cụ thể về NCTN nhưng thông qua các quy định như: Hướng dẫn này phải được giải thích và được thực hiện trong phạm vi khuôn khổ của tuyên bố thế giới về quyền con người, Công ước quốc tế về các quyền kinh tế - chính trị - văn hóa – xã hội, Công ước về quyền trẻ em là phạm vi các quy tắc phổ biến của Liên Hợp Quốc về việc áp dụng pháp luật đối với NCTN, cũng như các văn kiện và tiêu chuẩn khác có liên quan đến các quyền và lợi ích, phúc lợi của các thành niên… [29]. Như vậy, tinh thần của hướng dẫn cũng cho thấy NCTN là người dưới 18 tuổi. Theo Các quy tắc Bắc Kinh được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua ngày 29/11/1985, “Người chưa thành niên là trẻ em hay thanh thiếu niên mà tùy theo từng hệ thống pháp luật có thể bị xử lý khi phạm tội theo một phương thức khác người lớn” [26]. Các quy tắc Bắc Kinh cũng nhấn mạnh rằng giới hạn độ tuổi được coi là chưa thành niên phụ thuộc vào quy định của từng hệ thống pháp luật nghĩa là các quy tắc Bắc Kinh chỉ quy định các tiêu chuẩn tối thiểu và nó hoàn toàn tôn trọng tính “riêng” của mỗi quốc gia. Điều này mở ra cho mỗi quốc gia được quy định giới hạn tuổi khác nhau đối với NCTN để phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện thực tế của quốc gia mình. Tóm lại, tuy các Văn kiện pháp lý quốc tế về quyền con người nói trên có phạm vi điều chỉnh khác nhau xong đều thống nhất ở quan điểm NCTN là người dưới 18 tuổi.
  • 17. 9 Ở Việt Nam, có nhiều quan điểm về NCTN, cụ thể: Theo Từ điển Tiếng việt – Trung tâm ngôn ngữ học Việt Nam thì:“NCTN là người chưa phát triển đầy đủ, toàn diện về thể lực, trí tuệ tinh thần cũng như chưa có đầy đủ quyền và nghĩa vụ công dân” [55]. Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, tùy từng đối tượng và phạm vi điều chỉnh của mỗi ngành luật mà mỗi ngành luật lại có quy định khác nhau về NCTN. Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: “... Người chưa đủ 18 tuổi là NCTN”. Như vậy, NCTN là người dưới 18 tuổi [38, Điều 18]. Luật lao động năm 2012 quy định: “Người lao động chưa thành niên là người lao động dưới 18 tuổi” [41, Điều 161]. Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em khẳng định: “Trẻ em quy định trong luật này là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi” [37, Điều 1]. BLHS 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 quy định: 1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu TNHS về mọi tội phạm 2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng [40, Điều 12]. BLHS quy định: “NCTN từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội phải chịu TNHS...” [40, Điều 68]. LHS (LHS) Việt Nam quy định NCTN phải chịu trách nhiệm hình sự là người từ đủ 14 tuổi nhưng chưa đủ 18 tuổi, thực hiện hành vi phạm tội và có năng lực TNHS. Nói cách khác, NCTN phạm tội là những người từ đủ 14 tuổi trở lên đến chưa đủ 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng và những người từ đủ 16 tuổi trở lên những người chưa đủ 18 tuổi phạm các tội phạm khác. Một NCTN chưa đủ 14 tuổi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội cho dù hậu quả đặc biệt nghiêm trọng hoặc NCTN từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, tội
  • 18. 10 nghiêm trọng hoặc rất nghiêm trọng do vô ý đều không phải chịu trách nhiệm hình sự. Ngoài ra, quy định vấn đề NCTN phạm tội trong LHS còn có ý nghĩa thể hiện nguyên tắc cá thể hóa trách nhiệm hình sự, nguyên tắc bình đẳng trong LHS làm cơ sở cho việc quyết định hình phạt, đảm bảo mục đích giáo dục, cải tạo người phạm tội. Như vậy pháp luật Việt Nam nói chung có khá nhiều quy định khác nhau về NCTN nhưng đều thống nhất khái niệm NCTN là những người dưới 18 tuổi hay là người chưa đủ 18 tuổi. Đến một độ tuổi nhất định, con người mới có sự phát triển đầy đủ về thể chất, tâm sinh lý và trở thành người trưởng thành. Độ tuổi nhất định ở đây là đủ 18 tuổi. Khi đó, một người có đủ năng lực pháp luật, đủ năng lực hành vi và có thể tự chịu trách nhiệm khi tham gia vào các mối quan hệ xã hội nói chung và các quan hệ pháp luật nói riêng. Ở Việt Nam, khái niệm trẻ em và NCTN là không đồng nhất bởi lẽ theo các phân tích ở trên, NCTN là những người dưới 18 tuổi nhưng trẻ em lại chỉ là những công dân Việt Nam dưới 16 tuổi mà thôi. Như vậy, trẻ em là NCTN nhưng NCTN không phải trong trường hợp nào cũng là trẻ em. Nhìn từ khía cạnh luật pháp nhận thấy căn cứ để xác định một người có phải là NCTN hay không chính là các giới hạn về độ tuổi mà nhà làm luật đã quy định. Có nhiều ý kiến cho rằng khái niệm NCTN trên phương diện pháp lý chưa được đầy đủ vì mới chỉ ra giới hạn về độ tuổi mà chưa chỉ ra các đặc điểm về thể chất và trí tuệ. Tuy nhiên trên thực tế, khái niệm nhà làm luật đưa ra là phù hợp bởi lẽ chính giới hạn về độ tuổi đã tính đến sự hợp lý giữa đặc điểm thể chất, tinh thần của các em đặc biệt đã tính đến khả năng của các em khi đặt các em trong mối tương quan với các quan hệ pháp luật khác nhau đó. Từ các phân tích trên, có thể rút ra những đặc điểm của NCTN như sau: Thứ nhất: Có nhiều ý kiến khác nhau về việc xác định cụ thể thời điểm bắt đầu, kết thúc của thời kỳ này, với mỗi góc độ tiếp cận khác nhau thì quan
  • 19. 11 niệm về NCTN cũng theo đó mà không giống nhau. Nhưng tựu chung các quan niệm này đều đồng ý, NCTN là người chưa trưởng thành về thể chất và trí tuệ. Bởi các em đang ở trong quá trình hình thành, phát triển tâm sinh lý và hoàn thiện nhân cách. Về cơ bản NCTN cũng có những trạng thái tâm lý khác như những người bình thường. Tuy nhiên, do đặc trưng về lứa tuổi và sự phát triển chưa đầy đủ về thể chất, tinh thần, kinh nghiệm sống ít ỏi, trình độ nhận thức còn hạn chế mà ở họ tồn tại những đặc điểm tâm sinh lý riêng biệt. Ở lứa tuổi này, các em đang trong giai đoạn phát triển mạnh mẽ về thể lực và tâm sinh lý, do vậy các em dễ xúc động, khi thì trầm tư, lúc thì sôi nổi, dễ bị kích động, lòng kiên trì và năng lực tự kiềm chế thấp. Các em mong muốn được người lớn tôn trọng, luôn muốn khẳng định mình đã trưởng thành và không chấp nhận sự can thiệp quá sâu của người lớn vào đời sống cá nhân. Tuy nhiên, các em lại có xu hướng cường điệu trong đánh giá bản thân và các sự việc xung quanh, tự cường điệu, đánh giá quá cao bản thân hoặc quá tiêu cực, tự ti; luôn nhạy bén với mọi biến động của xã hội. Dám nói lên ý kiến và nhận định của bản thân, muốn tự hành động, tự đưa ra quyết định theo ý kiến của mình mà không muốn bị ảnh hưởng bởi người khác, khát khao được người khác đánh giá và khẳng định mình. Mặt khác, NCTN có nhu cầu giao tiếp với bạn bè, các em hay chơi thành nhóm với những đặc điểm khác nhau. Các em có thể cùng học hỏi ở nhau những điểm tốt hoặc giúp đỡ nhau cùng tiến bộ nhưng cũng dễ bị ảnh hưởng bởi những thói hư, tật xấu từ các thành viên trong nhóm. Điểm đặc biệt ở những nhóm này là tinh thần đoàn kết rất cao nhiều khi mang tính cực đoan, cục bộ, bè phái. Có thể vì một cá nhân mà cả nhóm sẵn sang gây gổ đánh nhau với nhóm khác một cách vô lý để rằn mặt, bảo vệ thành viên trong nhóm hay khẳng định địa vị của nhóm. Nói chung, các em thiếu tính chín chắn, bồng bột trong suy nghĩ và nông nổi trong hoạt động. Do vậy, nếu thiếu đi sự quan tâm, định hướng, khích lệ các em có cơ
  • 20. 12 hội vi phạm các chuẩn mực hành vi, chuẩn mực đạo đức dẫn đến thực hiện các hành vi phạm pháp luật. Thứ hai: Trong mối quan hệ so sánh với những người đã thành niên, nhận thấy, NCTN dễ bị ảnh hưởng bởi những tác động tiêu cực từ bên ngoài tính cách chưa được hình thành đầy đủ sự tự kiểm soát hành vi còn kém, dễ bốc đồng và thiếu tự chủ cho nên khả năng phán đoán các tình huống còn chậm và chưa chính xác, thiếu chín chắn trong việc lựa chọn các hành vi thay thế hay đánh giá mức độ rủi ro và hậu quả của hành vi. Nhất là trong bối cảnh hiện nay, các em rất dễ tìm kiếm những thông tin thiếu lành mạnh, trái với thuần phong mỹ tục, trái đạo đức, có xu hướng bạo lực. Các em rất tò mò, hiếu động, có xu hướng tìm kiếm, khám phá những cái mới lạ, hay bắt trước. Mặt khác, sự hình thành và phát triển nhân cách phụ thuộc rất lớn vào môi trường các em đang sống. Nếu sống trong môi trường lành mạnh, các em sẽ có điều kiện phát triển toàn diện để trở thành một công dân có ích và ngược lại môi trường sống phức tạp sẽ ảnh hưởng xấu đến tâm lý các em dẫn đến sự lệch lạc trong nhận thức và hành vi, dễ bị lôi cuốn vào những hoạt động tiêu cực. Theo đó các thói quen xấu dần được hình thành như nghiện thuốc lá, rượu bia, chơi trò chơi có xu hướng bạo lực, đồi trụy dẫn tới hậu quả các em có những hành động vượt quá những chuẩn mực cho phép. Trong khi đó, các em cần tiền để thỏa mãn các nhu cầu trên nhưng lại chưa có nghề nghiệp, chưa có khả năng kiếm tiền. Dẫn đến thực tế các em có thể làm bất cứ công việc gì để kiếm tiền thỏa mãn nhu cầu của mình kể cả những việc trái pháp luật để có tiền tham gia vào các hoạt động tiêu cực, thiếu lành mạnh nêu trên. Thứ ba: NCTN chưa phát triển hoàn thiện về thể chất, tinh thần, có nhận thức chưa hoàn chỉnh về thế giới xung quanh, có kiến thức pháp luật và kiến thức xã hội chưa đầy đủ, đánh giá về xã hội chưa được chuẩn xác, dễ có những hành vi bốc đồng lệch chuẩn. Cũng vì lẽ đó mà các em là một trong
  • 21. 13 các nhóm đối tượng dễ bị tổn thương, cần được bảo vệ. Do vậy, phải có những quy định đặc biệt đối với NCTN sao cho phù hợp với lứa tuổi, với đặc điểm tâm sinh lý của các em trên tinh thần tôn trọng nhân cách, phẩm giá, các quyền tự do cơ bản; cũng như nhằm tăng cường lòng tôn trọng của các em đối với quyền con người và các quyền tự do cơ bản khác nhằm mục đích giáo dục các em trở thành người có ích cho xã hội. 1.1.2. Khái niệm và đặc điểm người chưa thành niên bị tước tự do Theo Điểm b, Điều 11 Các quy tắc của Liên Hợp Quốc về bảo vệ NCTN bị tước tự do, 1990 định nghĩa: “Tước tự do nghĩa là bất kỳ hình thức giam giữ hoặc cầm tù nào, hay đưa một người vào nơi giam giữ chung hoặc riêng, mà người đó không được tự ý rời bỏ nơi giam giữ trừ khi có quyết định của cơ quan tư pháp, hành chính hoặc cơ quan công quyền” [30, Điều 11]. Khái niệm tước tự do theo luật nhân quyền quốc tế được hiểu theo nghĩa rất rộng, bao gồm không chỉ việc bỏ tù hay tạm giam mà còn là những việc hạn chế một phần hay toàn bộ tự do của một người dưới nhiều hình thức và tên gọi khác nhau như bắt, tạm giữ, tạm giam, quản chế, đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào các trung tâm cải tạo giáo dục… Như vậy, bên cạnh các trường hợp tước tự do theo thủ tục hình sự còn có các hình thức tước tự do theo thủ tục hành chính. Sự tước tự do này khiến người bị tước tự do không thể có đầy đủ các quyền tự do như một người bình thường. Họ bị buộc phải ở tại một nơi giam giữ, không được tự ý rời bỏ nơi giam giữ trừ khi được cho phép bởi một quyết định của một cơ quan có thẩm quyền. Họ bao gồm tù nhân, những người bị tam giam, tạm giữ, quản chế, cải tạo... tức là tất cả những người bị giới hạn, ở bất cứ mức độ và dưới bất cứ hình thức nào, các tự do chính trị, dân sự của mình so với những công dân bình thường. Người bị tước tự do bị giới hạn một số quyền nhất định vì các lý do an ninh hay trật tự xã hội chứ không phải bị tước bỏ hoàn toàn tự do của con
  • 22. 14 người. Ví dụ người bị tạm giam, tạm giữ, tù nhân bị tước đi quyền tự do đi lại, tự do cư trú nhưng họ vẫn được hưởng các quyền tự do khác như tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng tôn giáo, tự do tư tưởng và các quyền đó vẫn phải được pháp luật tôn trọng và bảo đảm bằng các biện pháp cần thiết. Cơ sở của việc tước tự do là khi một người có hành vi xâm phạm tự do của người khác và xâm phạm đến lợi ích cộng đồng hoặc có nguy cơ ảnh hưởng đến cộng đồng. Việc tước tự do trước hết là nhằm ngăn chặn hành vi xâm phạm; giáo dục, cải tạo họ trở thành những người có ích cho gia đình và xã hội đồng thời là bài học cho những ai đang hoặc sẽ có ý định thực hiện hành vi xâm phạm đến tự do của người khác và lợi ích chung của cộng đồng. Việc tước tự do phải được điều chỉnh bằng nhiều quy phạm pháp luật, ví dụ việc tước tự do theo thủ tục hành chính được điều chỉnh bằng pháp luật hành chính và việc tước tự do theo thủ tục tố tụng hình sự được điều chỉnh bằng tư pháp hình sự. Trong đó, việc tước tự do theo thủ tục tố tụng hình sự đối với NCTN xảy ra khi cơ quan có thẩm quyền áp dụng các biện pháp ngăn chặn, khi Toà án áp dụng hình phạt tù có thời hạn hoặc áp dụng biện pháp tư pháp đưa vào trường giáo dưỡng đối với NCTN khi có đầy đủ các căn cứ theo luật định. Từ các phân tích trên có thể hiểu NCTN bị tước tự do là những người từ đủ 14 đến dưới 18 tuổi bị giới hạn các quyền tự do chính trị, dân sự so với các công dân bình thường bởi việc giam, giữ, cải tạo tại một nơi theo quyết định của Cơ quan có thẩm quyền. Nơi giam, giữ, cải tạo có thể là trại tạm giam, nhà tạm giữ, nhà tù hoặc các trường giáo dưỡng. Đặc điểm của NCTN bị tước tự do: - Thứ nhất, NCTN bị tước tự do bị hạn chế một số quyền tự do cơ bản NCTN bị tước tự do với tư cách là thành viên của gia đình nhân loại nên họ vẫn được hưởng tất cả những quyền con người cơ bản như quyền được
  • 23. 15 sống; quyền được tôn trọng danh dự nhân phẩm, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, quyền được bảo vệ không bị tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn ác vô nhân đạo hoặc hạ nhục; quyền được bảo vệ để không bị bắt, giam giữ tuỳ tiện, quyền được giáo dục, quyền về sức khoẻ… Tuy nhiên do hoàn cảnh bị tước tự do, họ không có đầy đủ các điều kiện để thụ hưởng các quyền này. Việc tước tự do, bị buộc ở tại nơi giam giữ cải tạo khiến họ bị mất đi quyền tự do đi lại, tự do cư trú, quyền bầu cử, ứng cử… Tuy nhiên, do tính chất đặc thù này mà NCTN bị tước tự do được hưởng những ưu đãi nhằm tạo điều kiện tốt hơn cho các em được thụ hưởng các quyền của mình. - Thứ hai, NCTN bị tước tự do có nguy cơ bị khinh miệt, xa lánh, kỳ thị: Bản thân NCTN dễ bị mất cân bằng khi bị bị tước tự do. Phần lớn trong thời gian cải tạo các em có tâm lý nặng nề như mặc cảm tự ti, bi quan, chán nản, nhiều lúc tuyệt vọng, có thái độ thời ơ bất cần. Đến khi trở lại với cộng đồng, các em thường bị xa lánh, kỳ thị điều này ảnh hưởng sâu sắc đến quan điểm sống và tương lai của NCTN. Sự xa lánh, kỳ thị xuất phát từ sự thiếu nhận thức về nhóm đối tượng này. Đa phần họ có suy nghĩ các em là những đối tượng không ngoan, đầu gấu, không có sự giáo dục của gia đình, thiếu suy nghĩ, không biết kiềm chế, sốc nổi… Là thành phần hư từ bé, không thể cải tạo và giáo dục được. Họ xa lánh không muốn tiếp xúc, không muốn cho con em mình kết bạn, chơi cùng các đối tượng này. Đặc biệt một số cơ sở kinh doanh hay doanh nghiệp có xu hướng không muốn nhận NCTN đã từng bị tước tự do vào làm việc tại đơn vị mình. Điều này làm hạn chế đến hiệu quả công tác tái hòa nhập cộng đồng đối với NCTN. 1.2. Quyền con người của người chưa thành niên bị tước tự do và sự cần thiết bảo vệ nó Trước hết, cần có nhận thức chung nhất về quyền con người Có nhiều định nghĩa khác nhau về quyền con người bởi đây là một phạm trù đa diện, ở
  • 24. 16 mỗi một góc độ khác nhau người ta lại có một định nghĩa về quyền con người khác nhau. Tính phù hợp của mỗi định nghĩa này phụ thuộc vào sự nhìn nhận chủ quan của mỗi con người. Ở cấp độ quốc tế, Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc về quyền con người có định nghĩa “quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và tự do cơ bản của con người” [22]. Ở Việt Nam, có nhiều định nghĩa khác nhau về quyền con người, những định nghĩa này không hoàn toàn giống nhau. Nhưng xét chung “quyền con người được hiểu là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có của con người được nghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế” [22]. Như vậy, quyền con người là những chuẩn mực được cộng đồng quốc tế thừa nhận và tuân thủ. Những chuẩn mực này là kết tinh những giá trị nhân văn của toàn nhân loại, áp dụng với tất cả mọi người. Thông qua đó, mọi thành viên trong gia đình nhân loại được bảo vệ nhân phẩm, có điều kiện phát triển đầy đủ các năng lực cá nhân với tư cách là một con người. Quyền con người là những giá trị cao cả cần được tôn trọng và bảo vệ trong mọi xã hội và mọi giai đoạn lịch sử. Chủ thể cơ bản của quyền con người là các cá nhân. Tuy nhiên trong một số trường hợp, chủ thể của quyền con người còn là các nhóm người như các nhóm thiểu số về dân tộc, chủng tộc, tôn giáo… Như vậy, trẻ em nói chung và NCTN nói riêng đều là những chủ thể của quyền con người. Tuy nhiên, vị thế của các em trong việc thụ hưởng các quyền này như thế nào. Quay lại lịch sử, năm 1924 Tuyên ngôn Geneve về quyền trẻ được Hội quốc liên thông qua đánh dấu một bước ngoặt trong nhận thức và hành động bảo vệ trẻ em trên toàn thế giới. Những lời mở đầu của UDHR, ICCPR, ICECSR đều
  • 25. 17 nhấn mạnh “Việc thừa nhân phẩm giá vốn có và những quyền bình đẳng, không thể chuyển nhượng của mọi thành viên trong cộng đồng nhân loại là nền tảng cho tự do, công lý và hòa bình thế giới” [53]; Mặt khác, mệnh đề mở đầu của các văn kiện pháp lý quốc tế trên đều là "Mọi người có quyền … hay bất cứ người nào đều có quyền…. " đã thừa nhận một cách chắc chắn rằng trẻ em cũng là chủ thể bình đẳng so với người lớn trong việc hưởng tất cả các quyền và tự do cơ bản được ghi nhận trong các văn kiện pháp lý quốc tế về quyền con người. Các văn kiện quốc tế về quyền con người đều xác định trẻ em là đối tượng cần bảo vệ đặc biệt và có những quyền con người đặc thù. Bởi lẽ, dù Luật nhân quyền quốc tế thừa nhận trẻ em và người lớn đều bình đẳng với nhau về quyền, nhưng việc “cào bằng” vị thế chủ thể quyền của người lớn và trẻ em cũng không hoàn toàn phù hợp do đặc trưng của trẻ em còn non nớt cả về thể chất lẫn tinh thần. Do vậy, ngay trong UDHR, ICCPR, ICECSR trẻ em đều được ghi nhận các quyền đặc thù. Cụ thể: UDHR khẳng định “… Các bà mẹ và trẻ em có quyền được hưởng sự chăm sóc và giúp đỡ đặc biệt. Mọi trẻ em dù sinh ra trong hay ngoài giá thú, đều phải được sự bảo trợ xã hội như nhau” [53, Điều 25, Khoản 2, tr.53]. ICESCR khẳng định: Cần áp dụng những biện pháp bảo vệ và trợ giúp đặc biệt đối với mọi trẻ em và thanh thiếu niên mà không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào vì các lý do xuất thân hoặc các điều kiện khác. Trẻ em và thanh thiếu niên cần được bảo vệ để không bị bóc lột về kinh tế, xã hội. Việc thuê trẻ em và thanh thiếu niên làm các công việc có hại cho tinh thần, sức khỏe hoặc nguy hiểm tới tính mạng, hay có hại tới sự phát triển bình thường của các em phải bị trừng trị theo pháp luật. Các quốc gia cần định ra những giới hạn về độ tuổi mà
  • 26. 18 việc thuê lao động trẻ em dưới hạn tuổi đó phải bị pháp luật nghiêm cấm và trừng phạt [53, Điều 10, Khoản 3, tr.59]. ICCPR nhấn mạnh: “Mọi trẻ em, không phân biệt chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, nguồn gốc dân tộc hoặc xã hội, tài sản hoặc dòng dõi đều có quyền được hưởng những biện pháp bảo hộ của gia đình, xã hội và nhà nước cần thiết cho NCTN …” [53, Điều 24, Khoản 1, tr. 85]. Một trong những văn kiện quốc tế về quyền của trẻ em quan trọng nhất là CRC. Công ước CRC là điều ước quốc tế về quyền con người của Liên Hợp Quốc có số lượng quốc gia thành viên tham gia cao nhất từ trước đến nay. Công ước này không chỉ đưa ra định nghĩa trẻ em mà còn nêu lên các nguyên tắc cơ bản trong việc bảo vệ quyền của nhóm đối tượng này. Công ước khẳng định trẻ em là chủ thể của quyền chứ quyền trẻ em không phải xuất phát từ sự ban phát hay thương hại của lòng từ thiện thuần túy, trẻ em là nhóm dễ bị tổn thương nhất, có những nhu cầu đặc biệt… do vậy có quyền hưởng sự chăm sóc, đối xử và bảo vệ đặc biệt. Có thể nói Công ước CRC đã bao quát được hầu hết các khía cạnh của quyền trẻ em và xác định rõ nghĩa vụ của các quốc gia trong việc đảm bảo quyền của trẻ em và mối quan hệ giữa quyền trẻ em và quyền con người. Với phương châm dành lợi ích tốt nhất cho trẻ em, CRC ghi nhận do trẻ em cần được bảo vệ và chăm sóc đặc biệt, kể cả sự bảo vệ thích hợp về mặt pháp lý trước cũng như sau khi ra đời. Trẻ em có quyền: - Quyền không phân biệt đối xử. - Quyền được có họ tên và quốc tịch ngay từ khi ra đời. - Quyền không bị cách ly khỏi cha mẹ. - Quyền được chăm sóc sức khỏe. - Quyền được học hành. - Quyền được sống trong môi trường lành mạnh và tự nhiên. - Quyền được vui chơi, giải trí.
  • 27. 19 - Quyền được thông tin phù hợp với lứa tuổi. - Quyền được tự do kết giao và tập hợp nhau theo những nhóm bạn cùng chung sở thích. - Quyền được nhận sự chăm sóc đặc biệt. - Quyền được tự do bày tỏ ý kiến. - Quyền được bảo vệ chống lại sự ngược đãi. - Quyền được bảo vệ chống lại sự lạm dụng tình dục. - Quyền được bảo vệ chống mọi hình thức tra tấn và đối xử tàn tệ. - Quyền có các đặc thù khi có hành vi vi phạm pháp luật … Ở Việt Nam, NCTN là người có độ tuổi dưới 18, còn trẻ em là người có độ tuổi dưới 16. Do vậy, khái niệm về trẻ em và NCTN không đồng nhất. Tuy nhiên trẻ em là NCTN, nên quyền trẻ em cũng chính là quyền của NCTN. Mặt khác, trẻ em trong phạm vi Công ước CRC là bất kỳ người nào dưới 18 tuổi. Hơn nữa Việt Nam là một trong các thành viên của Công ước CRC. Do vậy, tất cả NCTN nói chung và NCTN bị tước tự do nói riêng ở Việt Nam đều được hưởng quyền và những bảo đảm pháp lý nêu tại CRC. Các quy tắc của Liên hợp quốc về bảo vệ NCTN bị tước tự do, 1990 nhấn mạnh: “NCTN bị tước tự do không vì bất cứ lý do nào liên quan tới địa vị của mình mà bị phủ nhận các quyền dân sự, kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa họ có theo pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế và tương thích với việc tước tự do” [30, Điều 13]. Điều này khẳng định chắc chắn rằng, NCTN bị tước tự do vì bất kỳ lý do gì, trong thời gian bao lâu, bị giam giữ hay cải tạo ở đâu cũng có quyền con người. Quyền con người ở đây bao gồm các quyền dân sự, kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa họ có theo pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế. Tuy nhiên những quyền này họ được thụ hưởng phù hợp với việc tước tự do của mình.
  • 28. 20 Quyền của NCTN bị tước tự do có những đặc trưng cơ bản sau: Thứ nhất: quyền con người của NCTN bị tước tự do cũng là quyền con người theo quy định chung của Luật nhân quyền quốc tế. Do vậy, quyền con người của NCTN bị tước tự do mang đầy đủ các đặc điểm của quyền con người nói chung như tính phổ biến, tính không thể chuyển nhượng, tính không thể phân chia, tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau. Cụ thể: - Tính phổ biến: Quyền con người là những gì bẩm sinh, vốn có của con người và được áp dụng bình đẳng cho tất cả mọi thành viên trong gia đình nhân loại. Không có sự phân biệt đối xử vì bất cứ lý do gì, chẳng hạn chủng tộc, dân tộc, giới tính, tôn giáo, độ tuổi … - Tính không thể tước bỏ: Các quyền con người không thể bị tước đoạt hay hạn chế một cách tùy tiện bởi bất cứ chủ thể nào, kể cả các cơ quan và quan chức nhà nước. Không thể bị tước đoạt hay hạn chế tùy tiện có nghĩa là trong một số trường hợp đặc biệt thì có thể bị tước đi một số quyền tự do trong những trường hợp đặc biệt và phải tuân thủ các quy định của pháp luật. - Tính không thể phân chia: Các quyền con người đều có tầm quan trọng như nhau, nên về nguyên tắc, không có quyền nào quan trọng hơn quyền nào và không có quyền nào có giá trị cao hơn quyền nào. Việc tước bỏ hay hạn chế bất kỳ quyền con người nào đều tác động tiêu cực đến nhân phẩm, giá trị và sự phát triển của con người. - Tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau: Việc bảo đảm các quyền con người, toàn bộ hoặc một phần, nằm trong mối liên hệ phụ thuộc và tác động lẫn nhau. Sự vi phạm một quyền sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp gây ảnh hưởng tiêu cực đến việc bảo đảm các quyền khác. Thứ hai: Quyền con người của NCTN bị tước tự do mang tính chất đặc
  • 29. 21 thù. Bởi lẽ, NCTN nói chung và NCTN bị tước tự do nói riêng đều là những nhóm yếu thế trong xã hội do sự non nớt về thể chất và tinh thần, do vị thế pháp lý… do vậy, các em cần phải nhận được nhiều những ưu đãi hơn so với các nhóm, các cá nhân khác. Sự ưu tiên này không đi ngược với nguyên tắc bình đẳng về quyền của Luật nhân quyền quốc tế mà thực chất nhằm thực hiện, hay tạo điều kiện cho các chủ thể được bình đẳng về quyền. Bởi lẽ, bình đẳng về quyền có nghĩa là mọi thành viên trong cộng đồng nhân loại đều có cơ hội được hưởng các quyền như nhau trong những điều kiện, hoàn cảnh, năng lực sẵn có như nhau. Như vậy, với các cá nhân, các nhóm phải chịu những thiệt thòi và có xuất phát điểm thấp hơn những nhóm khác, cần thiết được hưởng các quyền đặc thù để có thể đạt được sự bình đẳng thực chất với các cá nhân khác trong việc hưởng thụ các quyền con người. Sự ưu tiên này nhằm bảo đảm sự bình đẳng thực chất về cơ hội của những NCTN bị tước tự do với tất cả mọi thành viên trong xã hội đảm bảo tất cả thành viên trong xã hội đều được hưởng thụ các quyền của con người trong bối cảnh khác biệt về trình độ, văn hóa và vị thế. Bảo vệ quyền của NCTN bị tước tự do là sự bảo đảm thực hiện các quyền của NCTN là người bị giam, giữ, chấp hành án phạt tù, học sinh trong trường giáo dưỡng… được ghi nhận trong pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia. Vấn đề bảo vệ quyền con người của NCTN là vấn đề quan tâm đặc biệt của toàn thế giới. Sự nghiệp chăm sóc và giáo dục trẻ em được xác định là trách nhiệm của toàn xã hội. Đối với NCTN nói chung và NCTN bị tước tự do nói riêng, việc bảo vệ quyền con người của đối tượng này càng cần được chú trọng. Bởi lẽ, NCTN bị tước tự do là những người tuổi đời còn rất trẻ, kinh nghiệm sống còn ít ỏi, hiểu biết về pháp luật và các chuẩn mực xã hội còn hạn chế. Đặc biệt đây là lứa tuổi có sự chuyển biến mạnh mẽ về tâm, sinh lý và là giai đoạn quan trọng của quá trình hình thành và phát triển nhân cách. Do vậy, NCTN dễ bị người khác dụ dỗ, kích động, lôi kéo vào việc thực hiện tội phạm. Các loại tội phạm do NCTN thực hiện chủ yếu xuất phát từ nhận thức hạn chế
  • 30. 22 về pháp luật. Tuy nhiên, do thiếu hiểu biết pháp luật, ý thức phạm tội chưa rõ rệt nên NCTN phạm tội dễ uốn nắn, cải tạo và giáo dục trở thành người có ích cho xã hội. Bên cạnh đó, NCTN đa phần không thuộc những đối tượng ngoan cố, lì lợm hay có ý thức cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử. Cũng do thể chất và tâm lý chưa có sự phát triển đầy đủ nên khi bị áp dụng những biện pháp cưỡng chế tố tụng, sự tổn hại về thể chất và đặc biệt sự tổn hại về tinh thần của lứa tuổi này thường dẫn đến những sang chấn tâm lý mạnh và để lại những hậu quả tiêu cực kéo dài đối với NCTN trong suốt thời gian dài sau đó. Biện pháp tước tự do là cần thiết trong những điều kiện và hoàn cảnh cụ thể. Tuy nhiên việc tước đoạt tự do trong nhiều trường hợp làm tổn hại nghiêm trọng đến quyền cơ bản của một người. Bởi khi họ bị bắt, tạm giữ, tạm giam hay bị cầm tù đều, họ đều ở trong một tình trạng chung là bị hạn chế thân thể, tự do đi lại, tự do cư trú trong một thời hạn nhất định vì thế quyền và lợi ích hợp pháp của họ dễ bị xâm phạm. Việc quyền của những NCTN bị tước tự do có nguy cơ cao bị xâm phạm, do vậy cần thiết phải bảo đảm quyền cho nhóm người này. Mặt khác, với vị thế là một nhóm dễ bị tổn thương nên NCTN bị tước tự do được pháp luật quy định một số quyền năng để tự bảo vệ mình trước sự xâm phạm về quyền của một số nhóm đối tượng khác, để đảm bảo họ vẫn được sống trong phẩm giá vốn có của mình và được hưởng đầy đủ các quyền con người mà chỉ bị hạn chế bởi hoàn cảnh sống bị tước tự do của họ mà thôi. 1.3. Những quy định cơ bản của pháp luật quốc tế về bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên bị tước tự do Trước hết, NCTN bị tước tự do cũng được hưởng các quyền cơ bản của con người nói chung và đặc biệt là các quyền trong hoạt động tư pháp. Quyền con người trong lĩnh vực này rất đa dạng, nhưng đặc biệt quan trong là những quyền thuộc nhóm quyền dân sự - chính trị. Người bị tước tự do buộc có nghĩa vụ phải tuân thủ những quy định của pháp luật nhưng họ cũng có những
  • 31. 23 quyền nhất định để bảo vệ mình khỏi bị xâm phạm bởi các chủ thể tiến hành tố tụng. Cơ bản có thể kể đến một số quyền như quyền không bị tra tấn, quyền được tôn trọng về nhân phẩm, tính mạng, quyền bào chữa, quyền tự do, an ninh cá nhân và quyền được xét xử công bằng. Quyền sống, tự do và an ninh cá nhân bao hàm một tập hợp các bảo đảm tố tụng nhằm bảo vệ sự an toàn về tính mạng, thân thể, danh dự, nhân phẩm và tự do của con người. Quyền này hàm chứa nhiều quyền cụ thể, trong đó bao gồm quyền sống, quyền được bảo vệ không bị tra tấn, đối xử hay trừng phạt tàn ác, vô nhân đạo hay hạ nhục; quyền được bảo vệ khỏi bị bắt giữ tùy tiện và quyền được đối xử nhân đạo và tôn trọng nhân phẩm của những người bị tước tự do… Tập hợp của các quyền này cùng với những bảo đảm về xét xử công bằng cấu thành một trong những mảng rất quan trọng của luật quốc tế về quyền con người mà thường được gọi là quyền con người trong hoạt động tố tụng. Bảng 1.1: Một số quyền con người cơ bản của người bị tước tự do Quyền sống - Đề cập tại Điều 3 UDHR - Cụ thể hóa tại Điều 6 ICCPR Quyền được bảo vệ không bị tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục - Đề cập tại Điều 5 UDHR - Cụ thể hóa tại Điều 7 ICCPR - Công ước chống tra tấn (CAT) - Là một quy phạm tập quán quốc tế Quyền được bảo vệ khỏi việc bị bắt, giam giữ tùy tiện. (quyền tự do về an ninh cá nhân) - Đề cập tại Điều 9 UDHR - Cụ thể hóa tại Điều 9 ICCPR - Bình luận chung số 8 thông qua tại phiên họp thứ 16 năm 1982 Quyền được đối xử nhân đạo và tôn trọng nhân phẩm của những người bị tước tự do - Quy định tại Điều 10 ICCPR - Các tiêu chuẩn tối thiểu của Liên hợp quốc về đối xử với tù nhân (1955) Quyền được xét xử công bằng - Đề cập tại Điều 10, 11 UDHR. (Nguồn: Các văn kiện quốc tế vê quyền con người).
  • 32. 24 Mặt khác, với tư cách là NCTN, quyền của các em còn được ghi nhận và bảo vệ bởi các văn kiện quốc tế quan trọng khác. Nhìn chung các em có những quyền cơ bản như: - Quyền bình đẳng với người lớn về mọi quyền tố tụng. - Không bị tuyên và thi hành án tử hình. - Việc bắt, giam và tuyên án tù chỉ là biện pháp cuối cùng có thể áp dụng với NCTN. Được bảo vệ đặc biệt khi bị giam giữ, thể hiện ở các quy định về thăm viếng, giam giữ tách riêng khỏi người lớn, chăm sóc, học văn hoá, học nghề. Khi nghiên cứu các quy định bảo vệ quyền của NCTN phạm tội không thể không nhắc tới Công ước CRC – Công ước quan trọng về quyền của trẻ em. Nguyên tắc nền tảng trong vấn đề này là trẻ em làm trái pháp luật phải được đối xử theo cách thức nhằm nâng cao ý thức của các em về nhân phẩm, danh dự của các em; tăng cường sự tôn trọng của trẻ em đối với các quyền con người và các quyền tự do cơ bản của người khác; các biện pháp áp dụng với các em phải tính đến sự phù hợp về lứa tuổi và tâm sinh lý nhằm mục đích tái hòa nhập chứ không nhằm mục đích trừng phạt các em. Trong quá trình tố tụng đối với trẻ em bị truy cứu trách nhiệm hình sự, cần phải đảm bảo các nguyên tắc: - Không áp dụng hồi tố; - Áp dụng nguyên tắc suy đoán vô tội; - Phải được thông báo nhanh chóng, trực tiếp về những điều bị buộc tội; - Phải được giúp đỡ về mặt pháp lý hoặc sự giúp đỡ thích hợp khác để thực hiện việc bào chữa trước khi bị đưa ra xét xử; - Tại phiên tòa, trẻ em phải được sự giúp đỡ về pháp lý để tham gia cùng với cha mẹ hoặc người giám hộ vào một cuộc thẩm vấn công bằng đúng pháp luật trước một Hội đồng xét xử có thẩm quyền, độc lập, và có khả năng ra quyết định một cách không chậm trễ;
  • 33. 25 - Không bị ép buộc, làm chứng hay nhận tội, có quyền thẩm vấn hay nhờ người thẩm vấn những nhân chứng chống lại mình đồng thời có quyền đưa ra những người làm chứng cho mình trong những điều kiện bình đẳng; - Quyền được kháng cáo đối với những quyết định sơ thẩm để được xét xử phúc thẩm bởi một Hội đồng xét xử có thẩm quyền cao hơn, độc lập và vô tư; - Được có người phiên dịch miễn phí trong những trường hợp cần thiết; - Được giữ bí mật những điều riêng tư trong suốt quá trình tố tụng. Quy tắc số 7 về quyền của NCTN thuộc Các quy tắc Bắc Kinh nhấn mạnh: Trong tất cả các giai đoạn tố tụng, cần bảo đảm các biện pháp bảo vệ mang tính thủ tục cơ bản, như giả định vô tội, quyền được thông báo về các lời buộc tội, quyền được giữ yên lặng, quyền được có luật sư bào chữa, quyền được sự có mặt của cha mẹ hay người giám hộ, quyền đối chất và thẩm vấn chéo các nhân chứng, quyền được kháng cáo lên một cơ quan có thẩm quyền cao hơn [26]. Quy tắc này đã đề cập đến một số điểm quan trọng được xem là những yếu tố cơ bản bảo đảm cho quá trình xét xử được công bằng, bình đẳng và những điểm này đã được quốc tế công nhận trong những văn kiện hiện hành về quyền con người như UDHR, ICCPR… Quy tắc đã cụ thể hóa các quy định về Điều tra và truy tố, về xét xử và quyết định, về cách xử lý không giam giữ đối với NCTN. Nhìn chung, NCTN bị tước tự do có các quyền: - Được đối xử nhân đạo trong quá trình bị giam giữ bao gồm không bị tra tấn, đối xử tàn bạo, vô nhân đạo, không bị bức cung. - Được đảm bảo các điều kiện sinh hoạt tối thiểu. - Được giữ mối liên hệ với thế giới bên ngoài, với thân nhân, luật sư trừ một số hạn chế để đảm bảo tố tụng.
  • 34. 26 Cụ thể, Điều 10 các quy tắc tối thiểu chuẩn của Liên Hợp Quốc về thực thi công lý với NCTN (Quy tắc Bắc Kinh) quy định: Những người mất tự do vẫn phải được đối xử nhân đạo và tôn trọng nhân phẩm: a, Ngoại trừ những trường hợp đặc biệt, các bị cáo chưa được xét xử phải được giam giữ cách biệt với những người đã can án và phải được đối xử theo quy chế của những người không can án. b, Các bị cáo thiếu nhi phải được giam giữ cách biệt với người lớn và phải được xét xử trong thời hạn sớm nhất. c, Chế độ lao tù phải đặt trọng tâm vào việc cải huấn tù nhân, tạo cho họ cơ hội cải hóa và hội nhập vào đời sống xã hội. Các thiếu nhi phạm pháp phải được giam giữ cách biệt với người lớn và phải được đối xử tùy theo tuổi tác và tình trạng pháp lý của chúng. d, Trong các vụ án thiếu nhi, thủ tục xét xử phải căn cứ vào tuổi tác của bị cáo và hướng về mục tiêu cải huấn can phạm [26, Điều 10]. Riêng về vấn đề áp dụng biện pháp tước tự do, nhiều văn kiện pháp lý quốc tế quy định về vấn đề này như Quy tắc tối thiểu phổ biến của Liên Hợp Quốc về bảo vệ NCTN bị tước tự do thông qua ngày 14/12/1990, quy tắc này quan tâm đến việc tái hòa nhập cộng đồng của NCTN phạm tội tái hòa nhập cộng đồng sau khi hết thời hạn bị tước quyền tự do. Theo đó, các cơ quan giam giữ cần mở các khóa đặc biệt về dạy nghề cho NCTN, thực hiện các thủ tục giảm án, thả tù trước thời hạn; tạo điều kiện cho gia đình hay các cơ quan cung cấp dịch vụ cho NCTN được tiếp xúc với NCTN ngay khi còn bị giam giữ nhằm nhanh chóng giúp họ trở về với cộng đồng sau khi được trả tự do. Đối với các cơ quan có thẩm quyền, cần cung cấp các bảo đảm cần thiết để NCTN có được nơi ở, làm việc, ăn mặc thích hợp và đủ điều kiện tồn tại sau khi được trả tự do; hạn chế các định kiến chống lại NCTN trong xã hội.
  • 35. 27 Bên cạnh đó, bình luận chung (số 10) về quyền trẻ em trong tư pháp NCTN của Uỷ ban về quyền trẻ em tại mục 28b, 28c nhấn mạnh: Mọi trẻ em bị tước quyền tự do có quyền được nhanh chóng tiếp cận với sự giúp đỡ pháp lý và những giúp đỡ thích hợp khác, cũng như quyền được biết về tính hợp pháp của việc tước quyền tự do, có quyền đòi hỏi một quyết định nhanh chóng về bất kỳ hành động nào. Mọi trẻ em bị bắt giữ và tước tự do cần phải được đưa ra trước một nhà chức trách có năng lực để xem xét tính hợp pháp của việc tước quyền tự do. Mọi trẻ em bị tước quyền tự do phải được cách ly với người trưởng thành. Mọi trẻ em bị tước quyền tự do không bị giam giữ trong nhà tù dành cho người trưởng thành hay các cơ sở vật chất khác dành cho người trưởng thành. Mọi trẻ em bị tước tự do có quyền duy trì liên lạc với gia đình của mình qua thư tín và các cuộc viếng thăm. Như vậy, NCTN bị tước tự do cũng được hưởng các quyền như những người đã thành niên. Nhưng với thực tế, NCTN là những người chưa phát triển toàn diện về mặt thể chất và tinh thần, là đối tượng dễ bị tổn thương cần đặc biệt quan tâm. Do vậy pháp luật quốc tế quy định cho những NCTN được có những quyền ưu tiên hơn tạo điều kiện tốt nhất để bảo vệ lợi ích của các em.
  • 36. 28 Chương 2 CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ QUYỀN CON NGƯỜI CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN BỊ TƯỚC TỰ DO VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG 2.1. Các quy định của Pháp luật Việt Nam về quyền con người của người chưa thành niên bị tước tự do Trong Nhà nước pháp quyền, việc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của tất cả các chủ thể tham gia tố tụng hình sự như người bị tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo, bị hại, người làm chứng… là quan trọng như nhau. Pháp luật Việt Nam có những quy định rất chặt chẽ nhằm bảo vệ quyền con người của NCTN bị tước tự do. Ở Việt Nam, những NCTN bị tước tự do theo thủ tục tố tụng hình sự bao gồm NCTN bị tạm giữ, tạm giam, chấp hành án phạt tù có thời hạn và NCTN bị áp dụng biện pháp tư pháp đưa vào trường giáo dưỡng. Ở mỗi giai đoạn của quá trình tố tụng, NCTN đều được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình bởi rất nhiều các quy định khác nhau. Cụ thể: 2.1.1. Trong giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố Khởi tố, điều tra, truy tố là ba giai đoạn đầu của quá trình tố tụng hình sự. Kết quả của những giai đoạn này là tiền đề quan trọng của việc xét xử, là cơ sở để Tòa án nghiên cứu, xem xét ban hành một bản án đúng người đúng tội. Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn tố tụng hình sự đầu tiên mà trong đó cơ quan có thẩm quyền căn cứ vào các quy định của pháp luật tố tụng hình sự tiến hành các hoạt động nhằm xác định có hay không có các dấu hiệu của tội phạm trong hành vi nguy hiểm cho xã hội đã được thực hiện, đồng thời ban hành quyết định về việc khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự liên quan đến hành vi đó. Điều tra vụ án hình sự là giai đoạn tố tụng hình sự thứ hai mà trong đó
  • 37. 29 Cơ quan điều tra căn cứ vào các quy định của pháp luật tố tụng hình sự và dưới dự kiểm sát của Viện kiểm sát tiến hành các biện pháp cần thiết nhằm thu thập và củng cố các chứng cứ, nghiên cứu các tình tiết của vụ án hình sự, phát hiện nhanh chóng và đầy đủ tội phạm, cũng như người phạm tội để truy cứu trách nhiệm hình sự, đồng thời bảo đảm cho việc bồi thường thiệt hại về vật chất và tinh thần do tội phạm gây nên. Trên cơ sở điều tra để quyết định đình chỉ điều tra vụ án hình sự hoặc kết thúc điều tra chuyển toàn bộ hồ sơ vụ án sang Viện kiểm sát và đề nghị truy tố bị can. Truy tố là giai đoạn thứ ba của hoạt động tố tụng hình sự, ở giai đoạn này Viện kiểm sát đánh giá một cách toàn diện, khách quan các tài liệu chứng cứ trong vụ án hình sự do Cơ quan điều tra chuyển đến. Bên cạnh đó Viện kiểm sát có thể tiến hành một số hoạt động điều tra khi thấy cần thiết. Trên cơ sở đánh giá chứng cứ Viện kiểm sát ra một trong các quyết định Trả hồ sơ điều tra bổ sung; Tạm đình chỉ vụ án hình sự; Đình chỉ vụ án hình sự hay ban hành Cáo trạng truy tố bị cáo ra trước Tòa án nhân dân để xét xử. Hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố trong những vụ án có bị can là NCTN cũng được tiến hành theo thủ tục chung mà BLTTHS đã quy định. Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn mở đầu cho quá trình tố tụng. Mở ra giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Trong giai đoạn này, NCTN phạm tội nói chung có một quyền tố tụng rất quan trọng, đó là quyền không bị bắt, giữ, giam một cách tùy tiện. Pháp luật Việt Nam đã quy định cụ thể về căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam NCTN theo thủ tục tố tụng hình sự. Căn cứ để tiến hành áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam được quy định tại các điều Điều 80, 81, 82, 86, 88, 120 và 303 BLTTHS, NCTN bị bắt bao gồm NCTN bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, NCTN bị bắt theo quyết định truy nã…. NCTN bị tạm giữ, tạm giam là người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp,
  • 38. 30 phạm tội quả tang, bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú mà tại thời điểm bị bắt, tạm giữ, tạm giam họ là NCTN từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng; từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội nghiêm trọng do cố ý, tội rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng. Bị can chưa thành niên là người bị khởi tố về hình sự vì có căn cứ xác định họ thực hiện hành vi phạm tội theo quy định của pháp luật hình sự mà tại thời điểm có quyết định khởi tố của cơ quan có thẩm quyền họ là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng; từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội nghiêm trọng do cố ý, tội rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng. Như vậy, người bị bắt tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo là NCTN phải thỏa mãn những quy định pháp luật về người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và tại các thời điểm tố tụng đó, họ đang ở độ tuổi từ đủ 14 đến chưa đủ 18 tuổi. Những thủ tục đối với người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là NCTN phải được tiến hành theo thủ tục đặc biệt được quy định tại Chương XXXII, BLTTHS. Đây là những quy định nhằm đưa ra các thủ tục tố tụng sao cho phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của người bị bắt bị tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo là NCTN góp phần bảo vệ quyền và lợi ích của họ. Việc bắt NCTN để tạm giữ, tạm giam chỉ được thực hiện khi tuân thủ các quy định chặt chẽ và thận trọng trên cơ sở có tính đến sự cần thiết của việc áp dụng đó. Nhằm đảm bảo quyền không bị giam giữ một cách tùy tiện, người bị tạm giữ, tạm giam còn phải được biết lý do mình bị giam, giữ, có quyền thực hiện các hành vi tố tụng mà pháp luật quy định để bác bỏ các căn cứ giam, giữ. Đồng thời những quy định này còn nhằm kết hợp hài hòa giữa các biện pháp cưỡng chế và giáo dục nhằm tạo ra những điều kiện cần thiết để những NCTN sửa chữa những sai lầm, sớm trở thành người có ích cho xã hội.
  • 39. 31 BLTTHS có những quy định hoàn toàn phù hợp với điểm b, Điều 37 của Công ước CRC. Tinh thần chung là chỉ áp dụng biện pháp bắt NCTN để tạm giữ, tạm giam trong trường hợp thật cần thiết khi việc áp dụng biện pháp ngăn chặn khác không có hiệu quả. Tinh thần đó đã được biểu hiện rõ tại Điều 303 BLTTHS. Theo quy định tại Điều 303 BLTTHS, chỉ có thể bắt tạm giữ, tạm giam đối với NCTN nếu đủ các căn cứ quy định tại các Điều 80, 81, 82, 86, 88 và 120 của luật này đồng thời các căn cứ trên chỉ xét đến trong những trường hợp người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng; và trường hợp người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội nghiêm trọng do cố ý, phạm tội rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng. Như vậy, việc áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam đối với NCTN chỉ được thực hiện trong những trường hợp phạm tội nghiêm trọng do cố ý, phạm tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng. Quy định này đã thu hẹp đáng kể phạm vi NCTN bị bắt tạm giữ, tạm giam. Ngay sau khi bắt, tạm giữ, tạm giam cơ quan ra lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam NCTN phải thông báo cho gia đình, người đại diện hợp pháp của họ biết. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát khi xét thấy không còn cần thiết phải áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam NCTN phải áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam NCTN thì phải trả tự do ngay cho họ hoặc thay thế bằng biện pháp ngăn chặn khác. Mặt khác, theo quy định tại Điều 304 BLTTHS nếu xét thấy việc áp dụng biện pháp ngăn chặn trên là không cần thiết Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể ra quyết định giao bị can, bị cáo là NCTN cho cha mẹ, người đỡ đầu của họ giám sát để đảm bảo sự có mặt của bị can, bị cáo khi có giấy triệu tập của Cơ quan tiến hành tố tụng. Biện pháp này có thể được các Cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng theo đề nghị của cha, mẹ hoặc người đỡ
  • 40. 32 đầu của NCTN phạm tội hoặc theo sáng kiến của chính các Cơ quan tiến hành tố tụng. Để quyết định giao việc giám sát NCTN phạm tội cho cha, mẹ hoặc người đỡ đầu của họ, các Cơ quan tiến hành tố tụng cần xem xét các yếu tố: Tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, lứa tuổi, tình trạng sức khỏe, nhân thân của NCTN...; khả năng thực hiện nhiệm vụ giám sát của cha, mẹ hoặc người đỡ đầu của NCTN. Nếu trường hợp phạm tội của NCTN không thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng và không cần phải tạm giữ, tạm giam và cha, mẹ hoặc người đỡ đầu có khả năng giám sát, đảm bảo bị can, bị cáo không phạm tội mới, không trốn tránh hoặc cản trở tố tụng thì Cơ quan tiến hành tố tụng có thể giao cho cha, mẹ, người đỡ đầu giám sát. Người được giao nhiệm vụ giám sát có nghĩa vụ giám sát chặt chẽ NCTN, theo dõi tư cách, đạo đức và giáo dục người đó. Trong trường hợp người được giao nhiệm vụ giám sát không thực hiện tốt nghĩa vụ của mình, các Cơ quan tiến hành tố tụng có thể áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nghiêm khắc hơn. Theo quy định của Điều 79 BLHS, biện pháp này không phải là một biện pháp ngăn chặn. Đây là những quy định có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, thể hiện chính sách ngày càng nhân đạo của Nhà nước ta đối với NCTN Một trong những quyền quan trọng ở giai đoạn này của NCTN bị tạm giữ, tạm giam, bị can chưa thành niên là quyền bào chữa. Tại Hiến pháp 2013 quy định “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa” [43, Điều 31, Khoản 4]. Đây là quy định nhằm bảo đảm quyền con người của NCTN. Quyền bào chữa được phát sinh ngay từ khi NCTN phạm tội bị bắt tạm giữ. Đây cũng là một phương tiện pháp lý cần thiết để người bị tạm giữ, bị can chưa thành niên bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, đảm bảo quá trình tố tụng được khách quan công bằng. Điều 11 BLTTHS quy định người
  • 41. 33 bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có nhiệm vụ bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa theo quy định của BLTTHS. Theo đó, trong giai đoạn này, Cơ quan tiến hành tố tụng phải bảo đảm cho bị can thực hiện quyền bào chữa bằng cách: - Giải thích cho họ quyền bào chữa - Tạo điều kiện cho bị can nhờ người bào chữa - Yêu cầu cử người bào chữa trong trường hợp quy định - Tạo điều kiện cho người bào chữa của họ thực hiện quyền tố tụng (cấp giấy chứng nhận người bào chữa, thông báo cho người bào chữa thời gian, địa điểm hỏi cung bị can, tống đạt các quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng …) Điều 48, 49 BLTTHS người bị tạm giữ, bị can có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. Quy định này được cụ thể tại Thông tư số 70/TT-BCA ngày 10/10/2011 của Bộ công an quy định chi tiết thi hành các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự liên quan đến việc bảo đảm quyền bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, cụ thể Điều 4 Thông tư quy định: Khi giao Quyết định tạm giữ cho người bị tạm giữ, Quyết định khởi tố bị can, Điều tra viên phải đọc và giải thích cho họ biết rõ về quyền, nghĩa vụ của người bị tạm giữ, bị can theo quy định tại Điều 48, Điều 49 BLTTHS và lập biên bản giao nhận Quyết định. Trong biên bản phải ghi rõ ý kiến của người bị tạm giữ, bị can về việc có nhờ người bào chữa hay không… [3, Điều 4]. Tuy nhiên, NCTN là người chưa đủ 18 tuổi chưa phát triển đầy đủ về thể chất, tinh thần. Vì vậy, bên cạnh các quy định trên Điều 57 và 305 BLTTHS quy định người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là NCTN có thể lựa chọn người bào chữa hoặc tự mình bào chữa cho người bị tạm giữ, bị
  • 42. 34 can, bị cáo. Trong trường hợp bị can, bị cáo là NCTN hoặc người đại diện hợp pháp của họ không lựa chọn được người bào chữa hoặc từ chối quyền được nhờ bào chữa thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án phải yêu cầu Đoàn luật sư cử người bào chữa cho họ hoặc đề nghị Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh cử người bào chữa. Như vậy, pháp luật đã dự liệu các trường hợp có thể xảy ra nhằm đảm bảo trong bất kỳ trường hợp nào, trong những vụ án NCTN đều có sự tham gia của người bào chữa. Theo quy định của BLTTHS, người bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can chưa thành niên có thể là người đại diện hợp pháp của NCTN, Luật sư, Bào chữa viên nhân dân. Đặc biệt theo Luật trợ giúp pháp lý năm 2006, đối với trẻ em không nơi nương tựa là người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, các em có thể được hỗ trợ bởi dịch vụ trợ giúp pháp lý để tìm người bào chữa cho mình. Sau khi có quyết định khởi tố vụ án hình sự đối với vụ án có NCTN thực hiện lúc này Cơ quan điều tra mới được phép tiến hành các hoạt động điều tra (trừ các hoạt động khám nghiệm). Một trong những hoạt động điều tra cần thiết, bắt buộc phải tiến hành đó là hoạt động lấy lời khai của người bị tạm giữ, hỏi cung bị can. Điều 131, 306 BLTTHS quy định về việc lấy lời khai của người bị tạm giữ, hỏi cung bị can và được hướng dẫn cụ thể tại Điều 10 Thông tư liên tịch số 01/2011/TTLT-VKSTC-TANDTC-BCA-BTP- BLĐTBXH ngày 12/7/2011 hướng dẫn thi hành một số quy định của BLTTHS đối với người tham gia tố tụng là NCTN. Theo đó việc lấy lời khai người bị tạm giữ, hỏi cung bị can là NCTN được tiến hành theo một cách thức phù hợp để làm giảm bớt sự căng thẳng, sợ hãi. Số lần lấy lời khai và hỏi cung cần được hạn chế đến mức thấp thấp nhất. Những Điều tra viên, Kiểm sát viên lấy lời khai, hỏi cung phải có thái độ và hành vi phù hợp với mức độ trưởng thành của từng em. Bên cạnh đó, pháp luật còn quy định khi tiến hành lấy lời khai, hỏi cung, Cơ quan tiến hành tố tụng phải thông báo trước cho
  • 43. 35 người bào chữa, người đại diện hợp pháp của NCTN các thông tin như thời gian, địa điểm… Nếu NCTN có yêu cầu, có thể mời cán bộ chuyên trách, cán bộ trợ giúp tư vấn về pháp lý, y tế để cùng tham gia, tạo không khí yên tâm thoải mái cho các em. Đây là quy định rất quan trọng bởi lẽ khi phải tiếp xúc với Điều tra viên, Kiểm sát viên để trình bày lại hành vi phạm tội của mình, các em không tránh khỏi những hoang mang, lo lắng. Sự hoang mang lo lắng này không những để lại dấu ấn tâm lý không tốt cho các em mà trong nhiều trường hợp dẫn đến hậu quả lời khai của các em thiếu khách quan không phản ánh đúng sự thật của vụ án. Vì lo sợ mà nhận tội hoặc khai báo không đúng với những gì diễn ra trên thực tế dẫn tới những khó khăn trong việc giải quyết vụ án. Bởi vậy, sự có mặt của đại diện gia đình sẽ giúp các em vững tâm đồng thời giúp cán bộ điều tra hiểu rõ hơn điều kiện sinh sống, sự giáo dục của gia đình qua đó tìm ra nguyên nhân, điều kiện phạm tội. Mặt khác, khi tiến hành các hoạt động điều tra trong vụ án NCTN, pháp luật đòi hỏi Điều tra viên, Kiểm sát viên phải có những hiểu biết cần thiết về tâm sinh lý của trẻ em. Thông qua đại diện gia đình, cán bộ điều tra sẽ tạo được mối quan hệ tin cậy, gần gũi tín nhiệm đối với các em. Khiến các em bớt đi sự lo lắng để khai báo khách quan, thành khẩn. Mặt khác, việc có mặt của người bào chữa cũng là một yếu tố quan trọng để ngăn không cho các Điều tra viên bức cung hay dùng nhục hình đối với các em. Việc Điều tra viên tiến hành lấy lời khai, hỏi cung NCTN mà không có sự tham gia của người bào chữa, người giám hộ là sự vi phạm nghiêm trọng về tố tụng. Đây là một trong những căn cứ để Viện kiểm sát, Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung để khắc phục những vi phạm về thủ tục tố tụng nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN. Trong giai đoạn truy tố, thông qua việc thực hiện quyền công tố, Viện
  • 44. 36 kiểm sát phải rà soát lại toàn bộ hồ sơ vụ án, kiểm tra tính có căn cứ tất cả các tài liệu điều tra của Cơ quan điều tra. Nếu phát hiện thấy có vi phạm, Viện kiểm sát phải kịp thời có những yêu cầu, kiến nghị đối với Cơ quan điều tra nhằm khắc phục những vi phạm đó. Trong giai đoạn này, Viện kiểm sát có quyền áp dụng hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn. Điều 166 BLTTHS quy định về thời hạn áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam chỉ là 20 ngày đối với tội phạm nghiêm trọng, 30 mươi ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng. Khi tiến hành giao Cáo trạng, cán bộ Kiểm sát phải đảm bảo có mặt người đại diện hợp pháp hay người bào chữa của NCTN. Để bảo vệ quyền và lợi ích cho bị can chưa thành niên, người bào chữa có quyền đọc bản cáo trạng, ghi chép, sao chụp những tài liệu có trong hồ sơ vụ án liên quan điểm việc bào chữa theo quy định của pháp luật và đề xuất các yêu cầu. 2.1.2. Trong giai đoạn xét xử Xét xử vụ án hình sự là giai đoạn trung tâm của hoạt động tố tụng hình sự mà trong đó Tòa án có thẩm quyền căn cứ vào quy định của pháp luật để ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung, đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án, quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục sơ thẩm để xem xét về các tình tiết trong vụ án đồng thời trên cơ sở cuộc thẩm vấn công khai tại phiên tòa để ra phán quyết về hành vi có tính nguy hiểm cho xã hội hay không, bị cáo có tội hay không có tội. Hoặc xét xử vụ án theo thủ tục phúc thẩm nếu bản án hay quyết định sở thẩm đã được tuyên và chưa có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng cáo kháng nghị. Trong giai đoạn xét xử NCTN, Tòa án phải chú trọng thực hiện đầy đủ các quy định về NCTN đặc biệt là các quy định về NCTN tại BLTTHS và BLHS. Trong giai đoạn này họ có có các quyền như quyền bào chữa, quyền được áp dụng các thủ tục tố tụng đặc biệt, đồng thời các Cơ quan tiến hành tố
  • 45. 37 tụng nói chung và Tòa án nói riêng phải thực hiện đúng các quy định của pháp luật nhằm đảm bảo cho bị cáo có điều kiện tốt nhất để thụ hưởng các quyền của mình. Cụ thể: Thứ nhất: Việc bắt bị cáo chưa thành niên để tạm giam. Bị cáo chưa thành niên là người mà tại thời điểm bị Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử, họ là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng; từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội nghiêm trọng do cố ý, tội rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng. Việc bắt bị cáo chưa thành niên để tạm giam là việc bắt người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử nhằm ngăn chặn bị cáo tiếp tục phạm tội, tạo điều kiện cho việc xét xử và thi hành án hình sự. Việc bắt bị cáo để tạm giam phải đảm bảo đầy đủ các quy định tương tự như việc bắt bị can để tạm giam trong giai đoạn điều tra, truy tố. Tuy nhiên, những người có thẩm quyền bắt bị cáo để tạm giam bao gồm Chánh án, Phó chánh án Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp, thẩm phán giữ chức vụ chánh tòa, Phó chánh án tòa, tòa phúc thẩm TANDTC, Hội đồng xét xử và thời hạn tạm giam cũng phải phù hợp với thời hạn chuẩn bị xét xử đối với từng loại tội danh mà NCTN thực hiện. Thứ hai: Thành phần Hội đồng xét xử. Ngoài việc thỏa mãn các quy định tại Điều 185 và 244 BLTTHS, thành phần Hội đồng xét xử phải thỏa mãn các quy định tại khoản 1, Điều 307 BLTTHS và Điều 11, Thông tư liên tịch số 01/2011/TTLT-VKSTC- TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH ngày 12/7/2011 hướng dẫn thi hành một số quy định của BLTTHS đối với người tham gia tố tụng là NCTN. Theo đó, thành phần Hội đồng xét xử phải có một Hội thẩm là giáo viên hoặc là cán bộ Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh. Trong khi tham gia phiên tòa, Kiểm sát viên phải chú ý vấn đề này bởi nếu thành phần xét xử không đúng theo quy định này, Kiểm sát viên phải yêu cầu hoãn phiên tòa.
  • 46. 38 Nhằm đảm bảo một cách tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN, BLTTHS có quy định không chỉ Điều tra viên, Kiểm sát viên mà cả Thẩm phán tiến hành tố tụng đối với NCTN cũng phải là người có những hiểu biết cần thiết về tâm lý học, khoa học giáo dục cũng như về hoạt động đấu tranh phòng chống tội phạm của NCTN. Thứ ba: Quyền bào chữa. Quyền bào chữa của người bị tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo là NCTN phạm tội không chỉ được thực hiện trong trong cả quá trình điều tra, truy tố trước đó mà phải đảm bảo nghiêm túc trong giai đoạn xét xử sơ thẩm. Vì vậy trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, nếu thẩm phán phát hiện ở các giai đoạn tố tụng trước đó, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát đã thực hiện không đúng, không đầy đủ các quy định của pháp luật nhằm đảm bảo việc thực hiện quyền bào chữa của họ thì Tòa án trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung theo quy định tại Điều 179 BLTTHS nhằm khắc phục những thiếu sót về tố tụng. Mặt khác, Toà án phải đảm bảo cho bị cáo thực hiện đầy đủ quyền bào chữa của mình Theo quy định tại Điều 306 BLTTHS, tại phiên tòa xét xử bị cáo là NCTN phải có mặt đại diện gia đình bị cáo. Trong trường hợp bị cáo là NCTN đang học ở trường hoặc đang học tập, sinh hoạt trong một tổ chức nào đó (đoàn thanh niên) thì phải có đại diện của nhà trường, tổ chức đó làm đại diện. Những người này có quyền đưa ra tài liệu, đồ vật… yêu cầu và đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, tham gia tranh luận tại phiên tòa, khiếu nại các hành vi tố tụng của những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng và các quyết định của Tòa án. Sự có mặt của đại diện hợp pháp của bị cáo tại phiên toà có ý nghĩa quan trọng. Bởi lẽ NCTN dù ở độ tuổi nào thì cũng là người còn phụ thuộc vào gia đình, nhà trường và xã hội. Xét từ bất cứ góc độ nào cũng có thể rút ra kết luận, sự sai lầm của NCTN phạm tội có một phần trách