Nhận viết luận văn đại học, thạc sĩ trọn gói, chất lượng, LH ZALO=>0909232620
Tham khảo dịch vụ, bảng giá tại: https://vietbaitotnghiep.com/dich-vu-viet-thue-luan-van
Luận văn thạc sĩ ngành luật: Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và việc vận dụng trong hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay, cho các bạn tham khảo
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và hoàn thiện pháp luật, HOT
1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THANH VÂN
TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁN BỘ VÀ VIỆC VẬN DỤNG
TRONG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT CÁN BỘ, CÔNG CHỨC
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Hà Nội – 2015
2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THANH VÂN
TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁN BỘ VÀ VIỆC VẬN DỤNG
TRONG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT CÁN BỘ, CÔNG CHỨC
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử Nhà nƣớc và pháp luật
Mã số : 60 38 01 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TS Hoàng Thị Kim Quế
Hà Nội – 2015
3. LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Nguyễn Thanh Vân
4. MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: NỘI DUNG CƠ BẢN TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
CÁN BỘ ........................................................................................................... 6
1.1. Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về
cán bộ................................................................................................................ 6
1.1.1. Khái niệm cán bộ.................................................................................... 6
1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ ......................................................... 8
1.1.3. Quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về vấn đề cán bộ............. 10
1.2. Vị trí, vai trò của cán bộ theo Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh....................... 13
1.3. Tiêu chuẩn của ngƣời cán bộ theo Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh............... 18
1.3.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đức của người cán bộ.............................. 18
1.3.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tài của người cán bộ................................ 26
1.3.3. Người cán bộ phải có trình độ lý luận ................................................ 34
1.3.4. Các tiêu chuẩn khác theo tư tưởng Hồ Chí Minh.............................. 35
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC
TRONG VIỆC VẬN DỤNG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VÀO HOÀN
THIỆN PHÁP LUẬT CÁN BỘ, CÔNG CHỨC Ở VIỆT NAM HIỆN
NAY ................................................................................................................ 42
2.1. Thực trạng về hệ thống pháp luật và đội ngũ cán bộ, công chức ở
Việt Nam hiện nay......................................................................................... 42
2.1.1. Thực trạng về hệ thống pháp luật cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện
nay................................................................................................................... 42
2.1. 2. Thực trạng về việc thi hành pháp luật cán bộ, công chức ở Việt Nam
hiện nay........................................................................................................... 52
2.1.3. Thực trạng về đội ngũ cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay ....... 54
5. 2.2. Nguyên nhân........................................................................................... 60
2.3. Quan điểm và phƣơng hƣớng của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ,
công chức trong sự nghiệp đổi mới hiện nay ở Việt Nam trên cơ sở vận
dụng tƣ tƣởng Hồ Chí Minh ........................................................................ 61
2.3.1. Quan điểm của Đảng về cán bộ trong thời kỳ mới............................. 62
2.3.2. Phương hướng của Đảng về cán bộ, công chức trong thời kỳ đổi mới
hiện nay ở Việt Nam....................................................................................... 64
2.4. Giải pháp cơ bản về vận dụng tƣ tƣởng Hồ Chí Minh trong việc hoàn
thiện pháp luật cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay........................... 69
2.4.1. Nhóm giải pháp thứ nhất: Hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan
đến cán bộ, công chức.................................................................................... 69
2.4.2. Nhóm giải pháp thứ hai: Xây dựng đội ngũ công chức chuyên
nghiệp, giáo dục đạo đức, pháp luật đối với cán bộ, công chức................. 73
2.4.3. Nhóm giải pháp thứ ba: Thanh tra, kiểm tra, giám sát các hoạt động
thi hành công vụ của cán bộ, công chức ...................................................... 90
KẾT LUẬN.................................................................................................... 94
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 97
6. 1
MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, ông cha ta đã ý thức rõ
việc dùng người là quốc sách. Nó không phải là nguyên nhân duy nhất nhưng
có tác dụng trực tiếp đến sự tồn vong của quốc gia, sự trường tồn và phát triển
của dân tộc. Phát huy truyền thống và phương sách dùng người của ông cha ta
để lại, từ khi ra đời đến nay, Đảng ta đặc biệt quan tâm đến vấn đề cán bộ, coi
cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng. Cán bộ luôn là gốc
của mọi công việc và là nhân tố quyể định đến sự thắng lợi của chính sách,
chiến lược cũng như nhiệm vụ. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Vì lợi ích 10 năm
thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”. Chính vì vậy,
Người và Đảng ta đã dày công đào tạo, huấn luyện xây dựng được một đội
ngũ cán bộ trung thành với Tổ quốc và dân tộc, tận tụy, kiên cường hoàn
thành xuất sắc nhiệm vụ qua các thời kỳ.
Tư tưởng Hồ Chí Minh bao quát rất nhiều lĩnh vực rộng lớn và phong
phú, trong đó vấn đề cán bộ là một trong những vấn đề được Người quan tâm
hàng đầu trong sự nghiệp cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng một khi
đã có đường lối cách mạng đúng thì cán bộ là khâu quyết định. Người coi
“cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “là dây chuyền của bộ máy” và “là
tiền vốn của Đoàn thể” do đó “muôn việc thành công hay thất bại đều do cán
bộ tốt hay kém”. Trong sự phát triển của đất nước ta hiện nay, vai trò của cán
bộ lại càng được nhấn mạnh và đề cao. Bởi cán bộ vừa là người đề xuất ra các
chủ trương, các chính sách vừa là người trực tiếp tổ chức, thực hiện, bày ra
các cách để cho nhân dân làm theo, làm cho các đường lối, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước được đi đúng hướng và hoạt động có hiệu quả.
Kế thừa tư tưởng đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước ta rất
coi trọng công tác cán bộ, luôn quan tâm xây dựng, phát triển và nâng cao
7. 2
chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức trong các cơ quan, tổ chức của mình.
Vấn đề xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, công chức theo tư tưởng Hồ
Chí Minh đã được thể hiện rõ trong nhiều văn kiện của Đảng và văn bản pháp
luật của Nhà nước như Luật cán bộ, công chức năm 2008; Nghị định số
24/2010/NĐ-CP của Chính Phủ về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức,
Nghị định số 21/2010/NĐ-CP về quản lý biên chế công chức, Nghị định
18/2010/NĐ-CP về đào tạo, bồi dưỡng công chức…Những văn bản này tạo
tiền đề cho việc hình thành đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch vững mạnh,
vừa hồng, vừa chuyên, đủ sức chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam đến
thắng lợi cuối cùng theo đúng tư tưởng Hồ Chí Minh.
Hiện nay, cùng với những nỗ lực cải cách để phát triển, dân chủ và nhân
quyền, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước cũng đã đang được ngày
càng hoàn thiện. Tuy nhiên, cũng cần phải thừa nhận rằng, bên cạnh những
mặt đã đạt được, công tác cán bộ, công chức ở nước ta hiện nay đang gặp phải
nhiều vấn đề lớn mang tính chất lực cản cho sự phát triển chung của xã hội,
quản lý nhà nước. Đó là vấn đề về năng lực, tiêu chuẩn, phẩm chất, thái độ và
văn hóa ứng xử, tính trách nhiệm và bản lĩnh chính trị. Hiện tượng tham
nhũng, hách dịch, cửa quyền, gây khó dễ, vô cảm, thiếu trách nhiệm, thiếu
tính tiên phong, liêm chính…dù không phải quá phổ biến, tràn lan nhưng
cũng gây nên những bức xúc trong dư luận, phương hại đến thể chế, giảm sút
lòng tin trong nhân dân vào Đảng, Nhà nước, cản trở quá trình hội nhập, dân
chủ, pháp quyền của đất nước. Những biểu hiện đó một phần là do cơ chế thị
trường, nhưng cũng làm lộ rõ những yếu kém, bất cập, lổ hổng trong cơ chế,
chính sách pháp luật về công tác cán bộ và việc thực thi trên thực tiễn. Do đó
việc tìm hiểu và nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ là một vấn đề có
ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Bên cạnh đó, nhìn tổng quan về hệ thống
pháp luật ở nước ta vẫn chưa đồng bộ, thiếu thống nhất, tính khả thi thấp,
8. 3
chậm đi vào cuộc sống; các văn bản quy phạm pháp luật về cán bộ, công chức
và hoạt động công vụ trong những năm qua cũng còn nhiều hạn chế, bất cập.
Do đó, cần thiết phải nghiên cứu một cách kỹ lưỡng để xây dựng, ban hành,
tiến tới hoàn thiện hơn pháp luật cán bộ, công chức, tạo cơ sở pháp lý vững
chắc cho việc hình thành đội ngũ cán bộ, công chức vừa có phẩm chất đạo
đức, vừa có trình độ năng lực, bảo đảm vừa hồng vừa chuyên, thực sự là công
bộc của nhân dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Vì những lý do trên, học viên đã tiến hành nghiên cứu đề tài “Tư tưởng
Hồ Chí Minh về cán bộ và việc vận dụng trong hoàn thiện pháp luật cán
bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ Luật học,
chuyên ngành Lí luận và lịch sử Nhà nước và Pháp luật tại Khoa Luật- Đại
học Quốc Gia Hà Nội.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1. Mục tiêu tổng quát:
Với đề tài “Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và việc vận dụng trong
hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay”, tác giả đi
sâu vào phân tích nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ với mục tiêu cuối
cùng là chỉ ra những thiếu sót về mặt luật pháp, những thực trạng cụ thể khi
thi hành pháp luật cán bộ, công chức, từ đó đưa ra những kiến nghị và giải
pháp nhằm cải thiện những thực trạng đã nêu.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể:
Với mục tiêu tổng quát như trên, luận văn của tôi muốn đạt tới một số
mục tiêu cụ thể sau:
Một là, làm rõ những nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ trong đó
có nêu ra khái niệm cán bộ; tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng cộng
9. 4
sản Việt Nam về cán bộ; vị trí, vai trò của cán bộ; về tiêu chuẩn của cán bộ và
phẩm chất cơ bản của cán bộ theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Hai là, phân tích làm rõ thực trạng quá trình vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh trong việc hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức hiện nay ở Việt Nam-
Những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân.
Ba là, đề xuất quan điểm, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật cán bộ,
công chức ở nước ta hiện nay đáp ứng yêu cầu cải cách, hiện đại hóa, chuyên
nghiệp hóa, minh bạch hóa và hiệu quả, xây dựng một đội ngũ cán bộ, công
chức vừa hồng vừa chuyên phù hợp với yêu cầu của sự nghiệp cách mạng và
thực tiễn hiện nay của Việt Nam.
1.3. Tính mới và đóng góp của luận văn
Đề tài tôi lựa chọn là đề tài có tinh mới và đóng góp của luận văn, cụ thể:
- Góp phần nghiên cứu có hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và
quá trình vận dụng tư tưởng đó trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật cán
bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay;
- Phân tích, đánh giá thực trạng của quá trình vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật cán bộ, công chức ở nước ta
hiện nay; làm rõ những ưu, nhược điểm và nguyên nhân.
- Luận văn đề xuất quan điểm và giải pháp vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh trong hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức ở nước ta hiện nay.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn là tài liệu tham khảo hữu ích cho cấp
ủy Đảng, chính quyền địa phương nhằm đáp ứng những yêu cầu to lớn trong
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay.
1.4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu đề tài đó là tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ,
trong đó làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của cán bộ, về tiêu
10. 5
chuẩn cán bộ, về lựa chọn, huấn luyện và sử dụng cán bộ, về chính sách đối
với cán bộ. Bên cạnh đó, luận văn cũng nghiên cứu lý luận chung về cán bộ
và tư tưởng cán bộ để làm cơ sở cho việc tiếp cận tư tưởng Hồ Chí Minh về
cán bộ.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài là những nội dung cơ bản của tư tưởng
Hồ Chí Minh về cán bộ và hệ thống pháp luật cán bộ, công chức ở Việt Nam
hiện nay.
1.5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn là Chủ nghĩa Mác- Lênin, Tư tưởng Hồ Chí
Minh và những quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về cán bọ, đồng thời
tác giả có tham khảo thêm các công trình nghiên cứu của một số tác giả có
liên quan đến luận văn.
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đồng thời sử dụng các biện pháp phân
tích, tổng hợp, phương pháp logic- lịch sử, phương pháp so sánh, đối chiều,
phương pháp chuyên gia để luận giải các vấn đề.
1.6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu,kết luận, danh mục các chữ viết tắt, danh mục tài
liệu tham khảo, để giải quyết vấn đề trên, luận văn gồm 02 chương, cụ thể:
Chƣơng 1: Nội dung cơ bản Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ
Chƣơng 2: Thực trạng đội ngũ cán bộ, công chức và việc vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh vào hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức ở Việt Nam
hiện nay.
11. 6
CHƢƠNG 1: NỘI DUNG CƠ BẢN TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ CÁN BỘ
1.1. Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt
Nam về cán bộ
1.1.1. Khái niệm cán bộ
Mặc dù chưa đưa ra một định nghĩa nào thật đầy đủ về cán bộ nhưng qua
các bài nói, bài viết, Hồ Chí Minh luôn khẳng định “cán bộ là cái dây chuyền
của bộ máy. Nếu dây chuyền không tốt, không chạy thì động cơ dù tốt, dù
chạy toàn bộ máy cũng tê liệt. Cán bộ là những người đem chính sách của
Chính phủ, của Đoàn thể thi hành trong nhân dân, nếu cán bộ dở thì chính
sách hay cũng không thực hiện được” [12, 8]. Theo Người, cán bộ là người
có trách nhiệm phục vụ nhân dân, phục vụ Đảng, Nhà nước chứ không phải là
người đứng trên hoặc đứng ngoài nhân dân. Họ có trách nhiệm đưa đường lối,
chủ trưởng của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến với nhân dân
để nhân dân hiểu rõ và tổ chức, vận động nhân dân thi hành. Đồng thời, cán
bộ cũng là người có trọng trách phải gần gũi nhân dân, nắm được tâm tư
nguyện vọng, những bức xúc của quần chúng nhân dân phản ánh với Đảng,
Nhà nước để đề ra chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật cho phù hợp
với quy luật vận động, phát triển của xã hội và đáp ứng được yêu cầu, nguyện
vọng chính đáng của quần chúng nhân dân.
Ngày nay, ở nước ta khái niệm cán bộ được hiểu theo nghĩa rộng hơn,
bao gồm: Tất cả những người được bầu cử vào các cơ quan Nhà nước, Đảng,
đoàn thể; những người được bổ nhiệm đảm nhiệm một công tác quản lý hoặc
được giao một công tác chuyên môn nào đó (cán bộ giảng dạy, cán bộ khoa
học kỹ thuật…) trong các cơ quan, tổ chức của hệ thống chính trị, biên chế và
hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
Theo từ điển Tiếng Việt, cán bộ được định nghĩa là:
12. 7
1. Người làm công tác có nghiệp vụ chuyên môn trong cơ quan nhà nước
(như cán bộ nhà nước, cán bộ khoa học, cán bộ chính trị).
2. Người làm công tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức, phân
biệt với người thường không có chức vụ. [41,5]
Theo từ điển Hành chính “Cán bộ là người có đủ các điều kiện được
tuyển dụng vào làm việc ở các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị- xã hội, tổ chức kinh tế do Nhà nước thành lập, tổ chức lực lượng vũ
trang; trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách Nhà nước, có trình độ
chuyên môn từ trung cấp trở lên. Từ cán bộ được sử dụng rộng rãi trong các
nước Xã hội chủ nghĩa trước đây (cán bộ, công nhân). Cán bộ, công chức khi
thi hành nhiệm vụ, công vụ được pháp luật và nhân dân bảo vệ”. [ 39,46]
Theo Khoản 1 và khoản 3 Điều 4 Luật cán bộ, công chức năm 2008 có
hiệu lực từ ngày 01/01/2010 quy định:
“1. Cán bộ là công dân Việt Nam được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm, giữ
chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng cộng sản Việt
Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị- xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện) trong biên chế và
hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
2. Cán bộ xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) là công dân
Việt Nam được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội
đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó bí thư Đảng ủy, người đứng
đầy tổ chức chính trị- xã hội….”
Như vậy, quan niệm về cán bộ có rất nhiều ý kiến khác nhau. Các ý kiến
đó, thông thường được hình thành từ cách nhìn trực tiếp đối với từng loại cán
bộ, theo phương pháp liệt kê các tiêu chí hoặc theo cảm tính, nên chưa phản
13. 8
ánh được một cách đầy đủ về khái niệm cán bộ. Song cơ bản các khái niệm
trên về cán bộ đều đã khái quát rõ những đặc trưng của cán bộ đó là:
- Cán bộ phải là những người được bầu hoặc được chỉ định hay bổ nhiệm
để đảm nhận cương vị nhất định trong một tổ chức nào đó (đặc trưng này
phân biệt người cán bộ với người không có chức vụ, không có cương vị).
- Chức vụ, cương vị của người cán bộ liên quan đến lãnh đạo, quản lý,
điều hành hoạt động của một tổ chức nhất định (đặc trưng này để phân biệt
giữa cán bộ với những người có cũng chức vụ, cương vị nhưng không coi là
cán bộ như trưởng tộc, trưởng hội đồng môn….).
Cán bộ phải là người có uy tín, có vai trò nòng cốt, có tác động ảnh
hưởng tích cực đến hoạt động của tổ chức, điều chỉnh mối quan hệ liên quan
đến lãnh đạo, quản lý, điều hành hoạt động, duy trì, thúc đẩy và định hướng sự
phát triển của tổ chức.
Những đặc trưng trên là cơ sở để chúng ta phân biệt người cán bộ với những
đối tượng khác. Nếu thiếu một trong ba đặc trưng trên đều đưa đến nhận thức
phiến diện về cán bộ. Từ những đặc trưng trên, cán bộ được phân chia trên nhiều
lĩnh vực, nhiều chức danh, cấp độ khác nhau. Trong từng loại cán bộ đều cần phải
quy định tiêu chuẩn, tiêu chí, chức năng, nhiệm vụ khác nhau.
1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ
Ngay từ khi bắt gặp ánh sáng cách mạng của Chủ nghĩa Mác- Lênin, Hồ
Chí Minh đã sớm nhận thức được vị trí, vai trò của người cán bộ trong sự
nghiệp cách mạng. Tháng 6 năm 1923, Người rời nước Pháp đi đến Liên Xô
dự Đại hội V Quốc tế cộng sản. Chuyến đi này Người mang theo một khát
vọng muốn hiểu biết thực tiễn chủ nghĩa xã hội như thế nào để truyền bá nó
vào Việt Nam, đồng thời Người cũng muốn thông qua một đại hội của Quốc
tế Cộng sản để trình bày thực tế của sự đàn áp của chủ nghĩa đế quốc ở thuộc
14. 9
địa với mong muốn giúp cho những người cộng sản trên thế giới hiểu được tình
trạng khổ cực của nhân dân lao động các nước này.
Ngay từ những năm đầu đến với chủ nghĩa Mác- Lênin, Người đã có một
suy nghĩ là “trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh hộ, tổ chức họ, đoàn
kết hộ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập” [20,192]
Trong một thời gian ngắn sống ở nước Nga Xô viết, được chứng kiến
những thay đổi to lớn của nhân dân Liên Xô do cách mạng xã hội chủ nghĩa
đem lại, Người đã có một dự định cho công tác tuyên truyền, tổ chức lực
lượng cho cách mạng Việt Nam:
“1. Xuất bản một tờ báo nhỏ Tiếng Việt
2. Tập hợp những phần tử dân tộc cách mạng.
3. Cố gắng đưa những thanh niên người bản xứ đi Matxcova
4. Xây dựng dây liên lạc Matxcova- Đông Dương- Pari” [20,204]
Qua những bức thư Nguyễn Ái Quốc gửi cho Quốc tế Cộng sản, qua
những bài viết của Người, chúng ta thấy, Người đã có một tầm nhìn chiến
lược, muốn cho cách mạng đi tới thắng lợi, trước hết phải chăm lo tới công
việc lựa chọn, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ.
Bằng những lời nói giản dị, nhưng chứa đựng một triết lý sâu sắc “cán
bộ là cái gốc của công việc” Người đã nêu bật được vị trí, tầm quan trọng của
cán bộ trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
Song Người cũng chỉ cho chúng ta thấy, cán bộ phải là người như thế nào
mới đưa cách mạng tới thắng lợi. “ Muôn việc thành công hay thất bại đều do cán
bộ tốt hoặc kém” [14,240] vì cũng như “gốc có vững thì cây mới bền”.
Theo tư tưởng của Người, cán bộ còn được hiểu là “cái dây chuyền của
bộ máy”. Nếu dây chuyền không tốt, không chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy
thì bộ máy cũng tê liệt. Trong đời sống kinh tế- xã hội, sự chuyển động của xã
15. 10
hội được coi như một “cỗ máy” khổng lồ. Trong “cỗ máy” đó, cán bộ là dây
chuyền là “cầu nối” giữa Đảng, Chính phủ với nhân dân. Đây là một dây
chuyền đặc biệt vì: Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, cán bộ là người xây dựng
nên đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước sao cho phản
ánh đúng lợi ích của các tầng lớp nhân dân, phù hợp với thực tiễn đời sống
của cán bộ. Cán bộ cũng là người tuyên truyền đường lối, chính sách của
Đảng với nhân dân, là người thực thi pháp luật của Nhà nước, “Cán bộ là
những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân
chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo
cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho phù hợp”[14,269].
Bác Hồ trong suốt cuộc đời cách mạng của mình rất mực quan tâm đến
cán bộ. Cán bộ mà chúng ta bàn tới đây theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí
Minh là những người làm trong các cơ quan, đoàn thể, công sở, lực lượng vũ
trang. Họ có thể giữ chức vụ chỉ huy, phụ trách, quản lý, lãnh đạo hoặc làm
công tác nghiệp vụ chuyên môn đơn thuần.
Tóm lại, cán bộ là những người hoạt động trong những thời kỳ cách
mạng, thoát ly, có hưởng lương hoặc phụ cấp để phân biệt nhân dân và là đầy
tớ của nhân dân. Tuy nhiên, trong các bài viết của mình, Hồ Chí Minh nhấn
mạnh nhiều đến cán bộ, đảng viên có chức, có quyền, những người chịu trách
nhiệm trực tiếp và to lớn, nặng nề trước nhân dân và toàn dân tộc.
1.1.3. Quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về vấn đề cán bộ
“Cán bộ là nhận tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với
vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ”. [44,66] Trong quá trình lãnh
đạo cách mạng, Đảng ta luôn coi trọng công tác cán bộ và coi đây là một
trong những vấn đề có vai trò quyết định đối với toàn sự nghiệp cách mạng.
Trong Nghị quyết hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành trung ương Đảng khóa
16. 11
VIII đã khẳng định: “Trong công cuộc đổi mới đất nước, cán bộ cũng có vai
trò cực kỳ quan trọng hoặc thúc đẩy hoặc kìm hãm tiến trình đất nước….”
[44,24] Trong lãnh đạo, quản lý Nhà nước, cán bộ có ý nghĩa nghĩa quan
trọng và là khâu then chốt. Nhận thức sâu sắc về vai trò, vị trí của cán bộ,
Đảng ta đã đề ra cương lĩnh chính trị, đường lối đúng đắn và tổ chức thực
hiện thắng lợi đường lối chính trị đó. Đây là vấn đề quyết định bảo đảm cho
giai cấp vô sản giành chính quyền, xây dựng và bảo vệ chính quyền. Có
đường lối đúng đắn, có phương pháp tổ chức thực hiện đường lối có hiệu quả
vẫn chưa đủ mà Đảng và giai cấp vô sản phải có đội ngũ cán bộ có đủ phẩm
chất và năng lực, trí tuệ đáp ứng được đòi hỏi của mỗi thời kỳ phát triển đất
nước, vì cán bộ chính là người xây dựng đường lối của Đảng và cũng là người
tổ chức thực hiện đường lối đó.
Nói về cán bộ, Đảng và Nhà nước ta đã xác định: cán bộ là khâu quyết
định thành công trong đổi mới nền hành chính. Đội ngũ cán bộ yếu sẽ cản trở
sự phát triển chung của đất nước. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của
Đảng đã nghiêm túc đánh giá một cách khách quan: “Những sai lầm, khuyết
điểm trong lãnh đạo kinh tế, xã hội, bắt nguồn từ những khuyết điểm trong
hoạt động tư tưởng tổ chức và cán bộ của Đảng. Đây là nguyên nhân của mọi
nguyên nhân”. [44,140]
Xây dựng đội ngũ cán bộ có phẩm chất và năng lực là yếu tố quyết định
của bộ máy Nhà nước. Khi xây dựng đội ngũ cán bộ, Đảng ta đã quán triệt
các quan điểm có tính nguyên tắc trong cán bộ. Đồng thời Đảng cũng đề ra
những tiêu chuẩn cán bộ đó là hai mặt đức và tài, phẩm chất, năng lực, không
coi nhẹ mặt nào. Song đức là gốc, tài là quan trọng. Đó là nội dung căn bản
nhất, chung cho mọi thời kỳ cách mạng, cho mọi cán bộ. Trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, tiêu chuẩn đối với người cán bộ lãnh đạo quản lý là
17. 12
“có phẩm chất chính trị vững vàng, trung thành với lý tưởng cách mạng, kiên
định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, trình độ chuyên môn và
năng lực thực tiễn cao, có ý thức tổ chức kỷ luật, gương mẫu trong đạo đức
lối sống. Nói tóm lại là phải có đầy đủ cả đức và tài, trong đó đức là gốc”.
Như vậy, người cán bộ có phẩm chất chính trị là người vững vàng, kiên
định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, trung thành với Đảng, với
chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Người cán bộ có đạo đức
cách mạng là người có lối sống trung thực, không tham vọng cá nhân, không
kèn cựa địa vị, không cơ hội, không tham nhũng, có lối sống giản dị trong
sáng, kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng và những biểu hiện tiêu cực
khác, khắc phục chủ nghĩa cá nhân.
Thực hiện quan điểm, đường lối chính sách của Đảng, đồng thời thấy
được tầm quan trọng của công tác cán bộ, vai trò của cán bộ, ngày 26/02/2008
Quốc Hội đã ban hành Luật Cán bộ, công chức có hiệu lực thi hành ngày
01/01/2010 mà trước đó là Pháp lệnh cán bộ, công chức sửa đổi bổ sung năm
2003. Việc ban hành Luật này đã thể hiện sự quan tâm thích đáng của Nhà
nước tới công tác cán bộ, góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bọ, công
chức từ việc thể chế hóa những tiêu chuẩn, quy định về công việc, hành vi,
trách nhiệm…của từng cán bộ, công chức trong hoạt động công tác.
Tại Điều 4 Luật Cán bộ, công chức năm 2008 đã xác định những đối
tượng được công nhận là cán bộ, công chức như sau:
“1. Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ
chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và
hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
18. 13
2. Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào
ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà
nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ
quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân
chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an
nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ
máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội (sau đây gọi chung là đơn vị sự
nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối
với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập
thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy
định của pháp luật.
3. Cán bộ xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) là công dân
Việt Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội
đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng
đầu tổ chức chính trị - xã hội; công chức cấp xã là công dân Việt Nam được
tuyển dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân
cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước. ”
Như vậy, có thể xem cán bộ là những người làm việc trong cơ quan của
Đảng, Nhà nước hoặc đoàn thể, có hưởng lương hoặc phụ cấp. họ cần có đủ
tài năng và đạo đức để phục vụ nhân dân.
1.2. Vị trí, vai trò của cán bộ theo Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh
Xuất phát từ lý luận của Chủ nghĩa Mác- Lênin về cán bộ, rằng “ Không
một phong trào cách mạng nào vững chắc được nếu không có một tổ chức ổn
định và duy trù được tính liên tục gồm những người lãnh đạo” [47,58], và
“Người cộng sản lãnh đạo chỉ có một cách duy nhất để chứng minh quyền
lãnh đạo của mình, đó là tìm cho mình được nhiều, ngày càng nhiều những
19. 14
người phụ tá….biết giúp đỡ họ làm việc, đề bạt họ, biết giới thiệt và chú ý đến
kinh nghiệm của họ” [50, 407], Hồ Chí Minh xác định việc xem xét vị trí, vai
trò của cán bộ phải đặt trong tổng hòa các mối quan hệ đa chiều. Từ thực tiễn
hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh đã khẳng định cán bộ là nhân tố quyết
định sự thành hay bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của
đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng, Người
nói “Muôn việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”
[11,240], nghĩa là khi đã có chính sách đúng thì sự thành công hay thất bại
của chính sách đó là do nơi cách tổ chức công việc, nơi lựa chọn cán bộ và
nơi kiểm tra…cả ba điều ấy đều rất quan trọng và quyết định ở người cán bộ.
Hồ Chí Minh cho rằng “cán bộ là gốc của mọi công việc” [11,269] nên
người cán bộ không phải là “ông quan cách mạng”, càng không phải là người
có “quyền sinh, quyền sát” như vua chúa thời phong kiến, mà chỉ là người đầy
tớ của nhân dân, người đại diện, đại biểu cho lợi ích, nguyện vọng của nhân
dân, có trách nhiệm thi hành nhiệm vị mà nhân dân giao phó. Người cán bộ
không được cho mình đứng ở vị trí lãnh đạo, chỉ tay năm ngón điều hành
công việc mà phải sâu sát cơ sở, bám sát quần chúng nhân dân, xây dựng mối
quan hệ gắn bó mật thiết với quần chúng nhân dân.
Đối với Hồ Chí Minh, cán bộ các cấp đều có vị trí quan trọng và có liên
hệ chặt chẽ với nhau trong tổ chức của Đảng. Nếu cán bộ lãnh đạo ở cấp
Trung ương là những cán bộ cấp chiến lược có trách nhiệm hoạch định hoặc
gắn với việc hoạch định chủ trương, đường lối chính sách của Đảng, thì cán
bộ lãnh đạo cấp cơ sở lại có trách nhiệm lãnh đạo xây dựng tổ chức Đảng và
hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh, trực tiếp lãnh đạo các tầng lớp nhân dân
thực hiện đường lối, chính sách của Đảng. Họ là những người hội tụ đầy đủ
các yếu tố: gần dân nhất, trực tiếp nhất, công việc nhiều nhất nên sự nghiệp
20. 15
cách mạng có thành công hay không phụ thuộc vào đội ngũ cán bộ này.
Người khẳng định “Cấp xã là người gần gũi dân nhất, là nền tảng của hành
chính. Cấp xã làm được việc thì mọi công việc đều xong xuôi” [11,371].
Mở rộng quan điểm về vị trí, vai trò của người cán bộ, Hồ Chí Minh
đồng thời cũng khẳng định vai trò, vị trí của người Đảng viên. Theo quan
điểm của Hồ Chí Minh thì mỗi đảng viên của Đảng cũng là cán bộ, họ vẫn là
những người lãnh đạo, mặc dù họ chỉ là những đảng viên bình thường, không
đảm nhiệm những cương vị trong bộ máy lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, nên
khi nói về người cán bộ thì Người vẫn thường dùng cụm từ “cán bộ đảng
viên”.
Như vậy, có thể xem xét việc vị trí, vai trò của người cán bộ theo quan
điểm của Hồ Chí Minh phải được xác định trong mối quan hệ biện chứng, đa
chiều giữa chủ thể và đối tượng, đặt người cán bộ trong mối quan hệ với quần
chúng nhân dân, trong sự tương quan về nhiệm vụ. Trong đó, người cán bộ
vừa là chủ thể lãnh đạo, điều hành, vừa là đối tượng và là lực lượng tổ chức
thực hiện.
Vai trò của ngƣời cán bộ đƣợc thể hiện ở những điểm cụ thể nhƣ
sau:
1. Cán bộ là người xây dựng đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà
nước. Muốn cho đường lối đúng đắn, pháp luật phù hợp với thực tiễn của
cuộc sống đòi hỏi cán bộ phải là những người có phẩm chất đạo đức trung
thực, có kiến thức khoa học phải sát với thực tiễn cuộc sống của xã hội. Việt
Nam là một nước trải qua đấu tranh giành độc lập dân tộc đi lên Chủ nghĩa xã
hội, do vậy đòi hỏi một sự sáng tạo lớn khi vận dụng Chủ nghĩa Mác- Lênin
để tìm ra con đường xây dựng Chủ nghĩa xã hội phù hợp với điều kiện của đất
nước.
21. 16
Do đó, nếu “cán bộ dở” thì một mặt chính sách không thể thực hiện
được, mặt khác việc hoạch định, xây dựng chính sách mới sẽ sai lầm hoặc
không phù hợp. Do đó đòi hỏi cán bộ phải đi sâu, đi sát vào quần chúng nhân,
nắm được tâm tư nguyện vọng của họ. Hồ Chí Minh đã viết “Mỗi công việc
của Đảng phải giữ nguyên tắc và phải liên hệ chặt chẽ với nhân dân” và “khi
đặt ra khẩu hiện và chỉ thị luôn luôn phải dựa vào điều kiện thiết thực và kinh
nghiệm cách mạng ở các nước, ở trong nước và địa phương”.
2. Cán bộ là người đưa đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước vào
trong cuộc sống. Muốn để người dân tiếp nhận những đường lối chính sách
của Đảng cũng như chính sách pháp luật của Nhà nước, đòi hỏi người cán bộ
phải có phẩm chất đạo đức sao cho để cho dân tin, dân mến, dân làm theo.
Nếu dân không tin thì cán bộ không thể tiếp cận được với dân để tìm hiểu về
dân. Muốn dân hiểu, dân làm thì người tuyên truyền phải biết cách tuyên
truyền, do đó người cán bộ tuyên truyền phải hiểu đường lối đó một cách thấu
đáo, phải có tài trong tuyên truyền, thuyết phục nhân dân một cách có lý, có
tình, làm cho họ hiểu rõ “thì việc gì khó mấy họ cũng làm được, hy sinh mấy
họ cũng không sợ” [14,241]
3. Cán bộ là người tổ chức thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của
Nhà nước và là người bày cách cho dân làm. Cán bộ không chỉ là người tổ
chức thực hiện đường lối cho nhân dân trong thời kỳ đấu tranh giành chính
quyền mà ngay cả trong quá trình xây dựng Chủ nghĩa xã hội, Vì: đấu tranh
giành chính quyền đã khó nhưng xây dựng thành công xã hội chủ nghĩa trên
các lĩnh vực lại không hề đơn giản. Quá trình xây dựng xã hội mới là một quá
trình khó khăn, phức tạp, lâu dài, gian khổ bởi: Việt Nam từ một nước sản
xuất nhỏ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa lại
càng khó khăn hơn các nước khác, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn,
22. 17
năng suất lao động thấp, trình độ dân trí còn hạn chế. Vì vậy, trong các lĩnh
vực xây dựng chính quyền kinh tế- xã hội đòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ có
năng lực để đảm nhiệm được những nhiệm vụ của cách mạng. Do đó, cán bộ
phải thật sự “nhúng tay” vào việc, cùng với nhân dân bàn bạc và tìm ra cách
giải quyết có hiệu quả nhất “việc gì cũng phải hỏi ý kiến dân chúng và giải
thích cho dân dân chúng” [14,295]
4. Cán bộ là người tổng kết thực tiễn, từ thực tiễn cuộc sống phải tiếp tục
bổ sung lý luận và phát triển lý luận, vì thực tiễn thay đổi nhanh hơn so với lý
luận cũng như thực tiễn thì rất phong phú và phức tạp, do đó đòi hỏi cán bộ
không chỉ có phẩm chất tốt mà còn phải có năng lực, trình độ cao để đáp ứng
được yêu cầu, nhiệm vụ của công việc, để có thể bổ sung và hoàn thiện đường
lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Do đó, nói đến cán bộ là nói đến “tiền vốn của Đoàn thể”. [15, 46] Có
vốn mới làm ra lãi. Bất cứ chính sách, công tác gì nếu có cán bộ tốt thì sẽ
thành công, tức là có lãi. Không có cán bộ tốt thì sẽ hỏng việc, tức là lỗ vốn.
Vì vậy, để thực hiện được những nhiệm vụ nặng nề của cách mạng, chúng ta
cần có một đội ngũ cán bộ biết “Đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lao
động lên trên, lên trước lợi ích riêng của cá nhân mình, hết lòng hết sức phục
vụ nhân dân. Vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong công
việc”. [18, 285] Như vậy, khi bàn đến vai trò của người cán bộ, Hồ Chí Minh
đã không đề cập cán bộ một cách chung chung mà Người đã sử dụng cán bộ
“có tính từ”. Đó là “cán bộ tốt”, “cán bộ kém”, “cán bộ dở”. Mà “muôn việc
thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém” hay nói cụ thể hơn là
nếu có cán bộ tốt thì mọi việc mới thành công.
Khẳng định vai trò của người cán bộ cần phải hiểu rằng không phải đã là
cán bộ thì chỉ có tính tốt. Mà cán bộ cũng là người, ai cũng có tính tốt và tính
23. 18
xấu. Song đã là người cán bộ cách mạng thì phải cố gắng phát triển những
tính tốt và sửa bỏ những tính xấu. Vì “tính xấu của một người thường chỉ có
hại cho người đó, còn tính xấu của một đảng viên, một cán bộ thì sẽ có hại
đến Đảng, có hại đến nhân dân” [14,254]
Nhấn mạnh vai trò của cán bộ trong sự nghiệp cách mạng, song Người
không cho rằng “cán bộ quyết định tất cả” mà “cách mạng là sự nghiệp của
quân chúng nhân dân, chứ không phải là sự nghiệp của cá nhân anh hùng
nào. Thành công của Đảng ta là ở nơi Đảng ta đã có tổ chức và phát huy lực
lượng cách mạng vô tận của nhân dân, đã lãnh đạo nhân dân phấn đấu dưới
lá cờ tất thắng của Chủ nghĩa Mác- Lênin” [19,197]. Do đó, Người luôn đề
cao vai trò của quần chúng nhân dân và đặt người cán bộ trong mối quan hệ
với nhân dân “dân như nước, cán bộ như cá. Lực lượng bao nhiêu là nhở ở
dân hết”. Người khẳng định “nước lấy dân làm gốc” còn “cán bộ quyết định
mọi việc” [18,480]. Sự “quyết định” ở đây là cán bộ phải đi trước, làm gương
về tư tưởng đạo đức, thái độ, lề lối làm việc. Muốn phát huy được đầy đủ tính
sáng tạo của hàng triệu quần chúng nhân dân xây dựng chủ nghĩa xã hội, vì
Chủ nghĩa xã hội chỉ có thể xây dựng được với sự giác ngộ đầy đủ và lao
động sáng tạo của hàng chục triệu người, thì cán bộ phải đi trước, tự cải tạo
mình, tự nâng cao mình. Cán bộ phải có lập trường giai cấp vô sản vững chắc,
giác ngộ về Chủ nghĩa xã hội cao; phải rửa sạch ảnh hưởng của những tư
tưởng của giai cấp bóc lột, rửa sạch chủ nghĩa cá nhân, rèn luyện tinh thần và
ý thức tập thể.
1.3. Tiêu chuẩn của ngƣời cán bộ theo Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh
1.3.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đức của người cán bộ
1.3.1.1. Người cán bộ phải có phẩm chất đạo đức cách mạng
Đây là một trong những phẩm chất hàng đầu và quan trọng bậc nhất đối
với người cán bộ làm cách mạng. Trong thời đại Hồ Chí Minh, đất nước ra,
24. 19
dân tộc đang trải qua một giai đoạn gay go khốc liệt, vừa phải đâu tranh giành
độc lập dân tộc, vừa phải thực hiện cuộc cách mạng dân chủ nhân dân, xây
dựng một xã hội mới xã hội xã hội chủ nghĩa. Đó là một quá trình cải tạo xã
hội cũ, đã lỗi thời thành xã hội mới tiến bộ hơn, một cuộc đấu tranh giữa cái
mới và cái cũ, giữa cái tiến bộ và cái lạc hậu…đan xen, chuyển hóa lẫn nhau.
Vì vậy để hoàn thành được sự nghiệp cách mạng dân tộc trước hết phải có
những người cách mạng chân chính, đủ bản lĩnh, trí tuệ, tâm hồn và nghị lực
để vượt qua. Người cán bộ cách mạng ấy phải lấy đạo đức cách mạng làm nền
tảng. Bởi “cũng như sống thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông
cạn. Cây thì phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng thì phải
có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi đến mấy cũng không lãnh đạo
được nhân dân” [11, 252-253], có như vậy mới hoàn thành được nhiệm vụ
cách mạng vẻ vang.
Phẩm chất đạo đức cách mạng theo Người trước hết là trung với nước,
hiếu với dân. Trung với nước, hiếu với dân là phẩm chất hàng đầu của đạo
đức cách mạng của người cán bộ, đảng viên. Người dạy, đối với cán bộ đảng
viên, phải “tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân” và hơn nữa phải
“tận trung với nước, tận hiếu với dân” xứng đáng vừa là người lãnh đạo,
người đầy tớ trung thành của nhân dân.
Trung với nước, hiếu với dân là phải gắn bó với dân, gần dân, dựa vào
dân, lấy dân làm gốc. Phải nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, quan tâm cải
thiện dân sinh, nâng cao dân trí, làm cho dân hiểu rõ nghĩa vụ và quyền lợi
của người làm chủ đất nước. “Làm sao cho dân biết hưởng quyền dân chủ,
biết quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm” [13,223]
Hai là phải biết yêu thương con người. Yêu thương con người trong tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh xuất phát từ truyền thống nhân nghĩa của dân
tộc, kết hợp với chủ nghĩa nhân văn của nhân loại, chủ nghĩa nhân đạo cộng
25. 20
sản. Người coi yêu thương con người là phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất. Yêu
thương con người thể hiện mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân trong quan
hệ xã hội. Cũng có lẽ vì tình yêu bao la rộng lớn ấy, mà Người đã dành cả
cuộc đời của mình để thực hiện “một ham muốn, ham muốn tột bậc làm sao
cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng
có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Một thứ ham muốn khác lạ,
không dành cho mình, không phải cho gia đình, anh em, họ hàng mình mà là
cho quê hương, dân tộc và cả nhân loại. Đó là thứ tình yêu, sự khát vọng về
một thế giới đại đồng. Vì thế, với Hồ Chí Minh người cán bộ, đảng viên để
hoàn thành tốt sự nghiệp mà nhân dân giao phó, thực sự xứng đáng là người
đầy tớ trung thành của nhân dân thì yêu cầu mà Người đặt ra là tinh thần hy
sinh, phục vụ nhân dân, tin tưởng và yêu mến nhân dân, quan hệ mật thiết với
nhân dân, yêu thương đồng bào, nhân loại. Người cán bộ đảng viên phải biến
tình yêu ấy thành lẽ sống: sống có tình, có nghĩa, sống có trước có sau. Người
luôn căn dặn cán bộ, đảng viên phải có tình đồng chí, yêu thương lẫn nhau,
không bao che, bảo vệ nhau điều sai, điều không đúng, kéo bè, kết cánh mà
nên tôn trọng nguyên tắc tự phê bình và phê bình để góp ý, sửa chữa cho nhau
một cách chân thành. Người nói “Nhân dân ta từ lâu đã sống với nhau có tình
có nghĩa như thế. Từ khi có Đảng ta lãnh đạo và giáo dục, tình nghĩa ấy càng
cao đẹp hơn, trở thành tình nghĩa đồng bào đồng chí, tình nghĩa năm châu
bốn biển một nhà. Biết chủ nghĩa Mác- Leenin là phải sống với nhau có tình
có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có tình có nghĩa thì sao
gọi là hiểu chủ nghĩa Mác- Lênin” [13,554]. Tình yêu thương con người
trong tư tưởng Hồ Chí mInh được thể hiện trên nhiều phương diện, nhưng
trước hết là tình yêu với đại đa số nhân dân, những người lao động hết sức
bình thường trong xã hội, những người nghèo khổ, bị áp bức bóc lột. Yêu
26. 21
thương con người phải làm mọi việc để phát huy sức mạnh của mỗi người,
đoàn kết để phấn đấu cho đạt được mục tiêu “ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai
cũng được học hành”.
Ba là, phải có tinh thần Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí công vô tư. Chủ
tịch Hồ Chí Minh quan niệm Cần, Kiệm, Liêm, Chính là bốn đức tính của con
người, “Cũng như trời có bốn mùa, đất có bốn phương, người có bốn đức
tính” và Người cũng giải thích rõ:
Cần là lao động cần cù, siêng năng; lao động có kế hoạch, sáng tạo, có
năng suất cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng,
không ỷ lại, không dựa dẫm. Phải thấy rõ “lao động là nghĩa vụ thiêng liêng,
là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của mỗi chúng ta”. Cần là luôn cố gắng, luôn
chăm chỉ, cả năm cả đời”[12, 632-633]. Lười biếng là kẻ địch của chữ cần và
cũng là kẻ địch của cả dân tộc.
Kiệm tức là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của
dân, của nước, của bản thân mình; tiết kiệm từ cái to cho đến cái nhỏ, nhiều
cái nhỏ cộng lại thành cái to; không phô trương, hình thức, không liên hoan,
chè chén lu bù “không xa xủ, không hoang phí, không bừa bãi” [12, 636]. Cần
và kiệm phải đi đôi với nhau như hai chân của con người, có cần mà không có
kiệm như thùng không đáy.
Liêm là trong sạch, là luôn tôn trọng, giữ gìn của công và của cải của
nhân dân, không xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của nhà nước, của nhân
dân. Phải “trong sạch, không tham lam”, “không tham địa vị, không tham tiền
tài, không tham sung sướng, không ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà
quang minh chính đại, không bao giờ hủ hóa. Chỉ có một thứ ham là ham học,
ham làm, ham tiến bộ” [12, 252]. Những hành vi trái với liêm như: cậy đục
khoét dân, ăn của đút hoặc trộm của công làm của tư; Dìm người học giỏi để
27. 22
giữ địa vị của mình là đạo vị; gặp việc phải mà sợ khó nhọc, nguy hiểm,
không dám làm là tham vật úy lao; gặp giặc mà khong dám đánh là tham sinh
úy tử.
Chính là ngay thẳng, không tà phái, là đúng đắn, chính trực. Đối với
mình không tự cao, tự đại; đối với người không nịnh trên, khinh dưới, không
dối trá, lừa lọc, luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết. Đối với việc
thì để công việc lên trên, lên trước việc tư, việc nhà. Được giao nhiệm vụ gì
thì quyết làm cho kỳ được, “việc thiện dù nhỉ mấy cũng làm; việc ác thì dù
nhỏ mấy cũng tránh”. Mỗi ngày làm một việc có lợi cho nước, cho dân, cho
cán bộ đảng viên dù to hay nhỏ thì đều là người lãnh đạo nhân dân, muốn
nhân dân thực hiện thì tất yếu người cán bộ phải gương mẫu. Người nói mình
không chính mà muốn người khác chính là điều không thể và yêu cầu mỗi cán
bộ, đảng viên phải cần, kiệm, liêm, chính là vô cùng cần thiết.
Chí công vô tư: về thực chất là nối tiếp cần, kiệm, liêm, chính; cần,
kiệm, liêm, chính sẽ dẫn đến chí công vô tư; ngược lại đã chí công, vô tư một
lòng vì nước, vì dân, vì Đảng thì nhất định sẽ thực hiện cần, kiệm, liêm, chính
và có nhiều tính tốt khác. Chí công là rất mực công bằng, công tâm; vô tư là
không được có lòng riêng, thiên vị, thiên tư “tư ân, tư huệ hoặc tư thù, tư
oán”, đem lòng chí công, vô tư đối với người, với việc. “Khi làm bất cứ việc
gì thì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau”, “lo
trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”. Muốn “chí công, vô tư” phải chiến thắng
được chủ nghĩa cá nhân. Đây là chuẩn mục của người lãnh đạo, người “giữ
cán cân công lý”, không được vì lòng riêng mà chà đạp lên pháp luật. Ngược
lại với chí công vô tư là dĩ công vi tư, tư lợi, vun vén lợi ích cho cá nhân, đặt
lợi ích của mình lên tất thảy, đây là điều mà người cán bộ không được làm và
có trách nhiệm chống lại.
28. 23
Bốn là có tinh thần quốc tế trong sáng. Từ thực tiễn cách mạng trong
nước và từ chính mục tiêu cao cả của cách mạng xã hội trên thế giới là đấu
tranh để xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn, tiến bộ hơn. Hồ Chí Minh đã mở
rộng tình yêu quê hương, đất nước lên thành tình yêu quốc tế cao cả. Người
yêu cầu mỗi cán bộ, đảng biên bên cạnh niềm khát vọng yêu nước thì cũng
phải nêu cao tinh thần quốc tế vô sản thủy chung trong sáng. Người nói “ Bốn
phương vô sản đều là anh em”. Cán bộ, đảng viên thể hiện tình yêu thương
trong sáng của mình đối với Tổ quốc, nhân dân mình thì đồng thời cũng trung
thành với mục tiêu, lý tưởng cao cả của giai cấp vô sản trên toàn thế giới.
Quan niệm đạo đức về tình đoàn kết quốc tế trong sáng của Hồ Chí Minh
thể hiện trong các điểm sau: Đoàn kết với nhân dân lao động các nước vì mục
tiêu chung đấu tranh giải phóng con người khỏi áp bức bóc lột; Đoàn kết quốc
tế giữ những người vô sản toàn thế giới vì một mục tiêu chung “bốn phương
vô sản đều là anh em”; Đoàn kết với nhân loại tiến bộ vì hòa bình, công lý và
tiến bộ xã hội; Đoàn kết quốc tế gắn liền với chủ nghĩa yêu nước; Chủ nghĩa
yêu nước chân chính sẽ dẫn đến chủ nghĩa quốc tế trong sáng, chống lại mọi
biểu hiện của chủ nghĩa sô-vanh, vị kỷ, hẹp hòi, kỳ thị dân tộc…
Người cán bộ phải liêm khiết trong công việc, không tham nhũng, cửa
quyền, sách nhiễu nhân dân. Nếu như trong công việc không liêm khiết mà
tham nhũng hay cửa quyền sách nhiễu nhân dân thì chẳng những không giúp
được nhân dân, cho đất nước, không phải là công bộc của dân mà khi đó trở
thành một ông tham quan, đục khoét của dân, là kẻ hại nước, hại dân. Những
điều đó sẽ là những nguy cơ cho cách mạng, làm giảm lòng tin của nhân dân
vào cán bộ, do đó “ người cách mạng phải tiêu diệt nó” [18, 292]
Cán bộ, đảng viên phải là người sống có tình, có nghĩa, trước sau như
một đối với nhân dân, với bạn bè đồng nghiệp, vì đó là một trong những đạo
29. 24
lý sống tốt đẹp của người Việt Nam. Bởi vì có được ngày hôm nay thì người
cán bộ đó cũng phải trải quan những ngày tháng khó khăn, gian khổ với sự
giúp đỡ, che chở và cả sự hy sinh của đồng bào, đồng chí…
1.3.1.2. Đức là gốc của người cách mạng
Hồ Chí Minh đã lấy những ví dụ đơn giản trong cuộc sống để so sánh và
làm nổi bật vai trò của đạo đức người cách mạng: “Đức là gốc của cách
mạng” vì theo Người: cây thì phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người
cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù có tài giỏi đến mấy cũng
không lãnh đạo được nhân dân. Việc giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho
nhân loại là một công việc to tát tự mỗi người không thể làm nổi mà cần có sự
giúp sức của nhiều người. Do vậy người cách mạng nếu khong có đạo đức thì
không được người dân ủng hộ, sẽ không làm nổi việc gì. Do đó, đã là cán bộ
thì phải có đạo đức cách mạng, giữ được đạo đức cách mạng mới là người cán
bộ chân chính.
Chính việc tu dưỡng đạo đức của người cán bộ là tấm gương sáng cho
quần chúng noi theo bởi “cán bộ, đảng viên đi trước, làng nước theo sau”.
Cũng vì “vấn đề cán bộ quyết định mọi việc” nên “mọi việc thành hay bại,
chủ chốt là do cán bộ có thấm nhuần đạo đức cách mạng hay không”. Tuy
nhiên một vấn đề khác cũng rất thông thường, hiển nhiên như Hồ Chí Minh
đã giải thích là khi con người đã có chút quyền hành- quyền to, quyền nhỏ-
mà thiếu lương tâm, thì dễ trở nên hủ bại, sâu mọt của dân. Vì vậy, hơn ai hết,
cán bộ phải luôn luôn là đội tiên phong trong việc thấm nhuần “tri” và “hành”
về đạo đức cách mạng.
Người cán bộ có đạo đức cách mạng mới luôn gần gũi với nhân dân, mới
được dân tín nhiệm và cử vào các cơ quan lãnh đạo, cơ quan chính quyền và
khi đó mới có điều kiện để cống hiến trí và lực của mình cho cách mạng
30. 25
thông qua trường học quần chúng mà bồi dưỡng phẩm chất đạo đức, phát
triển tài năng của mình.
Người cán bộ có đạo đức cách mạng mới dám chấp nhận những hy sinh
mất mát, đặt quyền lợi của cá nhân dưới lợi ích của dân tộc, của đất nước.
Thông qua uy tín của người cán bộ mà tập hợp nhân dân, động viên quần
chúng nhân dân tham gia vào các phong trào cách mạng. Đạo đức cách mạng
do những đặc tính của nó, nên có sức mạnh cảm hóa, thuyết phục và lôi cuốn
lòng người, từ đó mà tập hợp được lực lượng quần chúng tích cực góp phần
vào sự nghiệp cách mạng. Nếu người cán bộ, đảng viên có chút tài năng mà
không có đạo đức cách mạng, không dám hy sinh lợi ích cá nhân của mình vì
lợi ích quốc gia, dân tộc thì người cán bộ đó không thể tập hợp, lôi cuốn được
quần chúng vào mọi hoạt động cách mạng.
Có đạo đức cách mạng thì khi làm việc mới trung thực, thẳng thắn, do
vậy mọi việc mới phát triển được, cách mạng mới tiến lên được. Vì người cán
bộ, đảng viên không chỉ rèn luyện tu dưỡng tính tốt như: Nhân, Nghĩa, Trí,
Tín, Dũng, Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí công vô tư mà còn phải đấu tranh
phê phán những hiện tượng phi đạo đức và những tàn dư đạo đức cũ. Bên
cạnh đó, Người cũng chỉ ra kẻ thù nguy hiểm nhất của đạo đức cách mạng là
chủ nghĩa cá nhân- nó là gốc rễ nảy sinh ra một loạt các căn bệnh nguy hiểm
khác. Chủ nghĩa cá nhân là một thứ vi trùng rất độc, nó là mọt thứ giặc nội
xâm và là bạn đồng minh với các kẻ địch khác. Nói tóm lại, cái gì trái với đạo
đức cách mạng đều là chủ nghĩa cá nhân. Do đó, muốn trở thành người cách
mạng, người cộng sản, người cán bộ chân chính phải quét sạch chủ nghĩa cá
nhân, nâng cao đạo đức cách mạng.
Có đạo đức cách mạng mới có quyết tâm phấn đấu vươn lên trong học
tập, trong cuộc sống và vượt qua những khó khăn thử thách. Theo Người, có
31. 26
đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn, gian khổ, thất bại người cán bộ cũng
không sợ sệt, rụt rè, lùi bước và không ngần ngại hy sinh tất cả lợi ích riêng
của cá nhân mình cũng như khi gặp thuận lợi và thành công cũng không kiêu
căng tự mãn vẫn khiêm tốn và tiếp tục phấn đầu vươn lên hoàn thành tốt
nhiệm vụ tiếp theo. Người cán bộ cách mạng phải “lo trước thiên hạ, vui sau
thiên hạ” [18, 311] mà “không kèn cựa về mặt hưởng thụ, không công thần,
không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hóa” [17, 284]. Với tinh thần đó,
đạo đức cách mạng là một nguồn động lực giúp cán bộ vượt qua mọi khó
khăn cám dỗ trên con đường cách mạng không ít chông gai, thử thách. Như
vậy, đạo đức cách mạng là cái quyết định sự vững vàng, kiên trì, nghị lực của
người cách mạng để hoàn thành nhiệm vụ, giúp cách mạng vượt qua mọi khó
khăn thử thách trong những tình huống hiểm nghèo.
1.3.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tài của người cán bộ
Hồ Chí Minh vừa quan tâm xây dựng đạo đức cách mạng vừa coi trọng
tài năng của người cách mạng. Theo Hồ Chí Minh, người có đức mà không có
tài thì vô dụng. Song có tài mà không có đức thì càng vô dụng hơn. Người
yêu cầu người cán bộ phải vừa có đức, vừa có tài. Tài năng đó là năng lực
lãnh đạo và thực hành công việc, được thể hiện thông qua những việc làm cụ
thể, luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Trong thời kỳ phong kiến Việt Nam, mẫu hình những người tài là văn
hay chữ tốt, giỏi cai quản. Trong xã hội tư bản, khi mà đồng tiền giữ vai trò
thống trị thì tài của những người làm ăn kinh tế là giỏi kiếm tiền. Tài của
những người làm chính trị tư sản là giỏi ru ngủ, lừa bịp nhân dân, giỏi cai trị
nhằm bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản. Cách mạng xã hội chủ nghĩa là một
cuộc cách mạng nhằm bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản. Cách mạng xã hội
chủ nghĩa là một cuộc cách mạng khó khăn, gian khổ nhằm thay thế chế độ áp
32. 27
bức bóc lột bằng một chế độ do nhân dân lao động làm chủ…và không ngừng
nâng cao mức sống của quần chúng nhân dân lao động. Tư tưởng sử dụng và
quý trọng hiền tài của Hồ Chí Minh được thể hiện từ rất sớm, ngay từ những
ngày mới bắt đầu hoạt động cách mạng ở nước ngoài cho đến khi thành lập
nhà nước cách mạng, Người nói “Nước nhà cần phải kiến thiết. Kiến thiết cần
phải có nhân tài. Trong số hai mươi triệu đồng bào chắc không thiếu người có
tài, có đức”; “nay muốn sửa đổi điều đó, trọng dụng những kẻ hiền năng, các
địa phương phải lập tức điều tra nơi nào có người tài, có thể làm được những
việc ích nước lợi dân, thì phải báo cáo ngay cho Chính phủ biết” [11,451]. Và
Đảng, Chính phủ phải có chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đặc biệt là đội
ngũ cán bộ trẻ. Trước lúc đi xa, trong Di chúc thiêng liêng của mình, Người
đã căn dặn “Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào
tạo họ thành những người thừa kế xây dựng xã hội chủ nghĩa vừa “hồng” vừa
“chuyên”. Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng
và cần thiết” [13,498]
Vậy tài của người cán bộ trong quá trình cách mạng và xây dựng chủ
nghĩa xã hội là gì?
Trước hết, đó phải là người cán bộ có khả năng nắm vững những nguyên
lý của chủ nghĩa Mác- Lênin để vận dụng một cách sáng tạo, linh hoạt hoàn
cảnh của cách mạng Việt Nam. Là một lãnh tụ của Đảng, hơn ai hết, Hồ Chí
Minh sớm thấy rõ để đưa cách mạng đến với thắng lợi, mà trước hết Đảng
phải hoạch định đường lối đúng đắn. Nghị quyết của Đảng là nhận tố có ý
nghĩa quyết định hàng đầu. Nhưng điều có ý nghĩa nhất là phải làm cho nghị
quyết, đường lối, chính sách của Đảng thấm sâu vào tâm lý quốc dân, đi vào
cuộc sống, biến nghị quyết của Đảng thành hành động của quần chúng, tạo ra
các đột phá trong các lĩnh vực cách mạng. Muốn cho công việc thành công
33. 28
phải có cán bộ tốt, có năng lực và điều quan trọng nhất là phải có phương
pháp lãnh đạo đúng. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ những chức năng cơ bản
của hoạt động lãnh đạo là xác định đường lối, tổ chức lựa chọn và bố trí cán
bộ; vận động, tuyên truyền, tổ chức cho quần chúng nhân dân thực hiện và
kiểm soát việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng…Để làm tốt chức
năng trên, Người đã chỉ ra phương pháp lãnh đạo đúng phải tuân thủ ba khâu
lớn:
Thứ nhất, phải quyết định mọi vấn đề cho đúng: muốn quyết định mọi
vấn đề cho đúng thì “bất cứ việc to, việc nhỏ, chúng ta phải xem xét và làm
cho hợp trình độ văn hóa, thói quen sinh hoạt, trình độ giác ngộ, kinh nghiệm
đấu tranh, lòng ham muốn, tình hình thiết thực của quần chúng. Nếu không
như vậy, cứ làm theo ý muốn, theo tư tưởng, theo chủ quan của mình rồi đem
cột vào cho quần chúng thì khác nào “khoét chân cho vừa giày”; “ai cũng
đóng giầy theo chân, không ai đóng chân theo giầy”. Điều đó đòi hỏi muốn có
nghị quyết đúng người lãnh đạo phải sâu sát, lắng nghe ý kiến của cơ sở, của
quần chúng, chú trọng nghiên cứu những sáng tạo của địa phương, đơn
vị…hết sức tránh việc tùy tiện, phiến diện, chủ quan trong việc định ra những
chủ trương lãnh đạo: “vì vậy muốn giải quyết vấn đề cho đúng, ắt phải họp
kinh nghiệm hai bên lại” [11,268]
Thứ hai, phải tổ chức thi hành cho đúng, đây được coi là khâu có ý nghĩa
quyết định. Nhưng điều này lại phụ thuộc ở việc lựa chọn, bố trí cán bộ phù
hợp với yêu cầu, nội dung, tính chất quan trọng của công việc. Hồ Chí Minh
căn dặn khi giao công việc cho cán bộ, cần phải chỉ rõ ràng, sắp đặt đầy đủ,
vạch rõ những điểm chính và những khó khăn có thể xảy ra, những vấn đề
quyết định rồi thả cho họ làm, khuyên họ cứ cả gan mà làm. Việc gì cấp trên
cũng nhúng vào thì cán bộ sẽ như cái máy, việc gì cũng chờ lệnh cấp trên,
34. 29
sinh ra ỷ lại, mất hết sáng kiến. Và Người cũng dạy rằng, trước khi giao công
tác cũng phải bàn kỹ với cán bộ. Nếu họ gánh vác không nổi, chớ miễn cưỡng
giao việc đó cho họ, khi đã trao cho họ phải hoàn toàn tin họ. Không nên sớm
ra lệnh này, trưa ra lệnh khác. Nếu không tin cán bộ, sợ họ làm không được,
rồi việc gì mình cũng nhúng vào, kết quả thành chứng bao biện, công việc vẫn
không xong, cán bộ thì vớ vẩn cả ngày, buồn rầu, nản chí. Vì vậy, Bác chỉ rõ
“Phải đào tạo một mớ cán bộ phụ trách, có gan làm việc, ham làm việc. Có
thế Đảng mới thành công. Nếu đào tạo một mớ cán bộ nhát gan, dễ bảo “đập
đi, hò đứng”, không dám phụ trách. Như thế là một việc thất bại cho Đảng”
[11,281]. Người kịch liệt phê phán tệ quan liêu, mệnh lệnh, xa rời quần
chúng. Người coi chủ nghĩa cá nhân là thứ “ giặc nội xâm trong lòng” rằng,
chủ nghĩa cá nhân là “kẻ thù nguy hiểm, nó không mang gươm, không mang
súng, nó nằm ngay trong tổ chức để làm hỏng việc của chúng ta”. Người yêu
cầu phải chống giặc này như giặc ngoại xâm vì chủ nghĩa cá nhân, tham ô,
lãng phí đã làm tha hóa mất bao nhiêu cán bộ, đảng viên.
Cuối cùng, lãnh đạo phải gắn với công tác kiểm tra. Muốn kiểm tra có
hieuejq ủa phải coi trọng hai vấn đề “Một là, việc kiểm soát phải có hệ thống,
phải thường làm. Hai là, người đi kiểm soát phải là người rất có uy tín”
[11,287]. Công tác kiểm tra phải tiến hành ở mọi cấp, từ trung ương tới cơ sở,
phải có một hệ thống cơ quan chuyên trách, việc kiểm tra phải tiến hành
thường xuyên và người được chọn làm cán bộ kiểm tra phải có phẩm chất,
năng lực tốt và có uy tín. Đồng thời phải “khéo” kiểm tra theo hai cách: Từ
trên xuống và từ dưới lên: “tức là người lãnh đạo kiểm soát kết quả những
công việc của cán bộ mình, từ dưới lên. Tức là quần chúng là cán bộ kiểm
soát sự sai lầm của người cán bộ và bày tỏ cái cách sửa chữa sự sai lầm đó.
Cách này là cách tốt nhất để kiểm soát các nhân viên” [11,288].
35. 30
Thứ hai, người cán bộ phải nắm vững thực tiễn tình hình đất nước để đề
ra đường lối đúng đắn, phù hợp với hoàn cảnh đất nước. Các cán bộ ở địa
phương phải nắm vững tình hình kinh tế- xã hội của địa phương mình để xây
dựng những kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội ở địa phương hay triển khai
các chủ trương chính sách của Trung ương phù hợp với điều kiện của địa
phương.
Thứ ba, người cán bộ phải hiểu được tâm tư, nguyện vọng, những nhu
cầu lợi ích của quần chúng nhân dân. Có thể hiểu được tâm tư nguyện vọng
của nhân dân thì người cán bộ mới thương dân, gần dân và mới đề xuất được
những kế hoạch, biện pháp giúp nhân dân phát triển kinh tế- xã hội. Nếu
“cách xa dân chúng, không liên hệ chặt chẽ với nhân dân, cũng như đứng lơ
lửng giữa trời, nhất định thất bại.” [14,286]
Thứ tư, người cán bộ có khả năng tổ chức quần chúng nhân dân, đưa
đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống, biến chúng thành
hành động của hàng triệu quần chúng. Trong quá trình lãnh đạo, người cán bộ
phải liên hợp lãnh đạo với quần chúng. Phải tiếp thu ý kiến, tập hợp các ý
kiến đóng góp của quần chúng nhân dân để phân tích, tìm hiểu, sắp đặt các ý
kiến thành một hệ thống. Rồi đem nó tuyên truyền giải thích cho quần chúng
hiểu và thực hành ý kiến đó, trong lúc quần chúng thực hành ý kiến, ta xem
xét lại coi ý kiến đó có đúng hay không. Rồi tập trung ý kiến của quần chúng,
phát triển những ưu điểm, sửa chữa những khuyết điểm, tuyên truyền, giải
thích, làm cho quần chúng giữ vững và thực hành. Theo Hồ Chí Minh, đó là
cách lãnh đạo cực kỳ tốt. Cách lãnh đạo đúng còn là học hỏi quần chúng
nhưng không được theo đuôi quần chúng.
Thứ năm, người cán bộ có năng lực chuyên môn, có khả năng sáng tạo
kịp thời giải quyết những vấn đề mới nảy sinh. Đó chính là sự hiểu biết về
36. 31
khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nắm vững các quy luật vận động, phát
triển của lịch sử.
Thứ sáu, người cán bộ có khả năng thuyết phục quần chúng một cách
khéo léo, lôi kéo được mọi tầng lớp trong xã hội tham gia có khả năng giáo
dục, giác ngộ, tập hợp lôi kéo quần chúng để xây dựng lực lượng cách mạng
và năng lực tổ chức cho quần chúng hành động theo đúng quy luật. Rõ ràng
tài ở đây không chỉ dừng lại ở sự hiểu biết lý thuyết khoa học mà điều quan
trọng hơn là kết quả hoạt động thực tiễn làm thước đo của tài năng.
Thứ bảy, người cán bộ phải có khả năng tổng kết thực tiễn để góp phần
bổ sung phát triển lý luận, làm phong phú lý luận, từng bước làm sáng tỏ
đường lối cách mạng, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, cụ thể
hóa thành những biện pháp giải quyết phù hợp với đặc điểm, truyền thống ở
địa phương.
Như vậy, Hồ Chí Minh đòi hỏi cán bộ, đảng biên phải có trình độ nhận
thức khoa học nhất định, tinh thông nghiệp vụ. Người công nhân phải có ý
thức giác ngộ giai cấp, sống có lý tưởng cách mạng nhưng phải giỏi tay nghề
cũng như người giám đốc phải giỏi quản lý, người nấu ăn phải nấu ăn ngon,
thầy thuốc phải giỏi trị bệnh cứu người. Ai nấy đều phải có khả năng hoàn
thành tốt nhiệm vụ được giao.
Muốn thành công được thì trước hết Đảng phải hoạch định được đường
lối đúng. Nhưng điều có ý nghĩa nhất là phải làm cho nghị quyết, đường lối,
chính sách của Đảng thấm sâu vào quần chúng nhân dân, đi vào cuộc sống
thành hành động cho nhân dân, tạo ra được những đột phá trong các lĩnh vực.
Muốn cho công việc thành công thì phải có cán bộ tốt. Ở đây đòi hỏi năng lực
lãnh đạo của cán bộ, thực chất là bàn đến khả năng tổ chức va động viên quần
chúng thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Đây là một
37. 32
trong những “nội hàm” của cán bộ là người đem đường lối, chính sách của
Đảng đến với nhân dân, là “cầu nối” giữa Đảng với nhân dân. Hồ Chí Minh
cho rằng, một người cán bộ, một lãnh đạo phải luôn nhận thức được rằng
“chẳng những lãnh đạo quần chúng mà lại phải học hỏi quần chúng” bởi vì
“không học hỏi dân thì không lãnh đạo được dân. Có biết làm học trò dân
mới làm được thầy học dân” [15,88]
Tóm lại, tài năng của cán bộ thể hiện trong mọi hoạt động của người cán
bộ từ khâu tuyên truyền đường lối, xây dựng đường lối chính sách, pháp luật
đến việc tổ chức cho nhân dân thực hiện và cả khâu tổng kết thực hiện.
* Quan hệ giữa đức và tài của ngƣời cán bọ trong Tƣ tƣởng Hồ Chí
Minh
Đạo đức là cơ sở, nền tảng và là điều kiện để phát huy tài năng của
người cán bộ cách mạng
Trước hết, người cán bộ phải có tấm lòng yêu nước thương dân thì mới
có một quan niệm sống đúng đắn, mới có quyết tâm để vươn lên trong công
tác và trong học tập cũng như trong việc hoàn thành nhiệm vụ được giao vì
“có tài mà không có đức ví như một anh làm kinh tế tài chính rất giỏi nhưung
lại đi đến thụt két thì chẳng những không làm được gì ích lợi cho xã hội, mà
còn có hại cho xã hội nữa. Nếu có đức mà không có tài ví như ông Bụt không
làm hại gì, nhưng cũng không lợi gì cho loài người” [18,172]
Thứ hai, người cán bộ phải có phẩm chất đạo đức tốt thì mới “ hòa mình
với quần chúng, hiểu quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng” [18,290]
và như vậy, người cán bộ mới nắm được tâm tư nguyện vọng của nhân dân,
hiểu được thực tiễn để từ đó mới có khả năng bổ sung cho lý luận của Đảng
và có khả năng vận dụng đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước vào
cuộc sống.
38. 33
Thứ ba, người cán bộ có trung thực mới cung cấp những cơ sở khoa học
chính xác cho Đảng để Đảng đề ra được những đường lối chính xác, Nhà
nước mới xây dựng được luật pháp đúng và như vậy thì giá trị thực tiễn của
chúng mới cao.
Thứ tư, người cán bộ phải có phẩm chất đạo đức tốt thì dân mới tin, mới
làm theo. Khi dân đã tin Đảng, tin Nhà nước, tin cán bộ thì dân mới sẵn sàng
hy sinh phấn đấu vì lợi ích chung của tập thể, của đất nước…Lúc đó cách
mạng mới có sức mạnh, mới thành công.
Thứ năm, người cán bộ khi có phẩm chất đạo đức sẽ thắng không kiêu,
bại không nản và có một “quyết tâm đấu tranh, chống mọi kẻ địch, luôn luôn
cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, quyết không chịu khuất phục, không chịu cúi
đầu” để hoàn thành những nhiệm vụ cách mạng, thực hiện tốt những nhiệm
vụ tổ chức đã phân công.
Thứ sáu, người cán bộ có phẩm chất đạo đức mới có ý thức giữ gìn, bảo
quản tài sản của Nhà nước, mới quan tâm tới lợi ích của nhân dân và nhanh
chóng giải quyết những mong muốn, nguyện vọng của người dân. Có như vậy
mới nhanh chóng tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong nhân dân tạo
điều kiện cho nhân dân phát triển trong cuộc sống.
Tài năng một mặt là biểu hiện đạo đức của người cách mạng, mặt
khác góp phần nâng cao uy tín, phẩm chất đạo đức của người cách mạng
- Tài năng là biểu hiện cụ thể của đạo đức cách mạng. Chính sự đóng góp
công sức của mỗi cán bộ cho xã hội, cho nhân dân là sự biểu hiện cụ thể của
tinh thần yêu nước, của đạo đức cách mạng. Sự quan tâm giải quyết những
nhu cầu cấp thiết cho nhân dân, giải quyết một cách đúng đắn, nhanh chóng
của người cán bộ chính là biểu hiện cụ thể của sự kính trọng đối với nhân dân.
Việc phối hợp với bạn bè, đồng nghiệp, để cùng nhau hoàn thành trách nhiệm
được giao chính là biểu hiện của phẩm chất đạo đức của mỗi người cán bộ.
39. 34
- Tài năng góp phần nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng. Một khi
hiểu sâu, có đầu óc phân tích những sự kiện đa dạng, phức tạp trong cuộc
sống, tìm ra bản chất quy luật của sự vận động của sự vật, hiện tượng góp
phần củng cố niềm tin, tạo ra niềm tin có cơ sở khoa học. Do vậy, con người
sẽ có sự kiên định mục tiêu đã lựa chọn.
Khi có sự hiểu biết sâu sắc trong các lĩnh vực sẽ giúp cho mỗi cá nhân
nhìn nhận bản thân một cách đúng đắn, biết sống vì mọi người, có nhân sinh
quan đúng đắn “mình vì mọi người, mọi người vì mình”.
1.3.3. Ngƣời cán bộ phải có trình độ lý luận
Vận dung tư tưởng của Lênin “ không có lý luận cách mạng thì không có
phong trào cách mạng”, chính vì vậy, Người yêu cầu: mỗi cán bộ, đảng viên
phải không ngừng ra sức học tập lý luận. Học lý luận sẽ giúp cho cán bộ, đảng
viên sửa chữa tư tưởng; Hăng hái theo cách mạng, tư tưởng đúng, mới khỏi
sai lạc và làm tròn nhiệm vụ cách mạng được. Học lý luận là để tu dưỡng đạo
đức cách mạng. Có đạo đức cách mạng mới hy sinh tận tụy với cách mạng,
mới lãnh đạo được quần chúng, đưa cách mạng thắng lợi hoàn toàn. Học lý
luận là để tin tưởng: Tin tưởng vào đoàn thể, tin tưởng vào nhân dân, tin
tưởng vào tương lai của dân tộc, tin tưởng vào cách mạng. Có tin tưởng thì
lúc thực hành mới vững chắc, hăng hái, lúc gặp khó khăn mới cương quyết hi
sinh. Học lý luận là để làm việc, làm người làm cán bộ. Học là để phụng sự
đoàn thể giai cấp và nhân dân, tổ quốc và nhân loại. Theo Hồ Chí Minh,
người biết lý luận không phải chỉ có biết lý thuyết mà phải biết vận dụng vào
thực tiễn công tác, không chỉ ở nhận thức mà còn biểu hiện ở tác phong công
tác, lối làm việc khoa học.
Không chỉ dừng lại ở các yêu cầu về học tập, bồi dưỡng lý luận mà Hồ
Chí Minh còn chỉ ra các căn bệnh của người cán bộ cần phải sửa, đó là: kém
lý luận, khinh lý luận, lý luận suông. Cả ba căn bệnh trên đều cần phải sửa,
40. 35
nhưng để sửa cho tốt trước hết cần có sự nhận thức đúng đắn về lý luận, và
vai trò của lý luận. Theo Hồ Chí Minh, cách tốt nhất để sửa chữa đó là phải
học tập. Đương nhiên, đối với mỗi loại bệnh thì cách thức học tập có sự khác
nhau. Để sửa chữa cho cán bộ, đảng viên kém lý luận, theo Người, biện pháp
cơ bản là học tập, nâng cao trình độ; học bằng con đường tổ chức, bằng con
đường tự học: tự học trong sách vở, tự học trong thực tiễn đấu tranh cách
mạng, trong cuộc sống, học ở mọi người, học ở nhân dân. Đối với những
người mắc bệnh khinh lý luận phải vừa học, vừa được cải tạo trong thực tiễn;
vừa phải sửa đổi thái độ, vừa phải nâng cao trình độ; vừa phải củng cố kinh
nghiệm, vừa phải trau dồi kiến thức. Còn đối với những người mắc bệnh lý
thuyết suông thì phải cải tạo thái độ của họ, khắc phục bệnh chủ quan, “kiêu
ngạo”, hợm đời; đồng thời bồi dưỡng cho họ thêm lý luận chân chính, buộc
họ “phải ra sức làm việc thực tế”, làm cho lý luận của họ trở nên “có ích”.
1.3.4. Các tiêu chuẩn khác theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh
1.3.4.1. Tiêu chuẩn về lựa chọn cán bộ
Lựa chọn cán bộ phải dựa trên cơ sở những tiêu chí về chất lượng, lấy
những người có đức, có tài năng, cả người ở trong Đảng lẫn ngoài Đảng và
cần tuân thủ cá tiêu chí cơ bản như “Những người đã tỏ ra rất trung thành và
hăng hái trong công việc, trong đấu tranh; Những người liên lạc mật thiết với
nhân dân, hiểu biết dân chúng. Luôn luôn chú ý đến lợi ích của quần chúng.
Như thế thì dân chúng mới tin cậy cán bộ và nhận cán bộ là người lãnh đạo
họ; Những người có thể phụ trách, giải quyết các vấn đề trong hoàn cảnh khó
khăn. Ai sợ phụ trách và không có sáng kiến thì không phải là người lãnh đạo.
Người lãnh đạo đúng đắn cần phải: Khi thất bại không hoang mang, khi thắng
lợi thì không kiêu ngạo. Khi thi hành cá nghị quyết kiên quyết gan góc không
sợ khó khăn; Những người luôn giữ đúng kỷ luật. Đó là những khuôn khổ để
41. 36
lựa chọn cán bộ, chúng ta phải theo đúng.”. Hồ Chí Minh dạy “ trong các
ngành hoạt động của chúng ta, nào chính trị, nào kinh tế, nào quân sự, văn
hóa, không thiếu những người có năng lực, có sáng kiến. Nhưng vì cách lãnh
đạo của ta còn kém, thói quan liêu còn nồng cho nên có những người như thế
cũng bị dìm xuống, không được cất nhắc. Muốn tránh khỏi sự hao phí nhân
tài, chúng ta cần phải sửa chữa cách lãnh đạo”. Đó là cách sửa chữa về mặt
nhận thức, quan điểm của Đảng, Nhà nước đối với những người đảm nhận
trọng trách tìm kiếm, phát hiện, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước.
Muốn lựa chọn được ngày càng nhiều những người tài vào phục vụ Đảng,
phục vụ đất nước thì Đảng và Nhà nước phải tạo mọi điều kiện để họ phát
triển, đồng thời phải tuyệt đối chống thói quan liêu, hách dịch, chủ nghĩa bè
phái, cá nhân. Trong các tiêu chuẩn đánh giá, lựa chọn cán bộ, Hồ Chí Minh
đặc biệt quan tâm đến tiêu chuẩn về đạo đức cách mạng của người được lựa
chọn “Người cán bộ phải có đạo đức cách mạng. Phải giữ vững đạo đức cách
mạng mới là người cán bộ cách mạng chân chính”.
Để lựa chọn được cán bộ có phẩm chất đạo đức, có năng lực việc đưa ra
tiêu chí là cần thiết và quan trọng, nhưng một trong những yếu tố không thể
thiếu được đó chính là phương pháp, cách thức lựa chọn cán bộ. Theo Hồ Chí
Minh phương pháp tối ưu nhát để lựa chọn được cán bộ là lựa chọn từ trong
quần chúng, thông qua các phong trào của quần chúng nhân dân để phát hiện,
bồi dưỡng cán bộ. Đây là một cách làm hay, thiết thực, thể hiện cách nhìn sâu
sa của Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ. Hồ Chí Minh cho rằng,
người cán bộ trưởng thành từ phong trào quần chúng họ có rất nhiều ưu điểm:
họ là những con người thiết thực nhất, sâu sát nhất, gắn bó và am hiểu quần
chúng nhân dân nhất. Những người này tuy có thể làm việc chưa có hệ thống,
chưa có khoa học nhưng nếu được đào tạo, bồi dưỡng họ sẽ sớm được trưởng
42. 37
thành và trở thành những người cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong bộ máy nhà
nước. Vì vậy, Hồ Chí Minh yêu cầu Đảng và Nhà nước phải sâu sát với thực
tiễn, kịp thời phát hiện cán bộ có đức, có tài.
1.3.4.2.. Tiêu chuẩn về huấn luyện cán bộ
Trong công tác cán bộ, Hồ Chí Minh rất coi trọng việc huấn luyện cán
bộ, Người nói “ cán bộ là cái gốc của mọi công việc” và vì vậy “ huấn luyện
cán bộ là công việc gốc của Đảng”. Huấn luyện cán bộ là việc hết sức quan
trọng nên trong suốt quá trình hoạt động của mình Hồ Chí Minh không chỉ
quan tâm, bàn, viết về công tác huấn luyện, đào tạo cán bộ mà đích thân
Người đã chuẩn bị bài giảng, lựa chọn người đi học, mở lớp và trực tiếp giảng
dạy.
Về chủ thể của công tác huấn luyện cán bộ: thành phần quan trọng nhất
là người dạy và người học; chất kết dính người dạy và người học là nột dung,
phương pháp và tài liệu huấn luyện. Theo chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng là
người lãnh đạo toàn diện, tập hợp nhân dân làm cách mạng nên nhiệm vụ của
Đảng là huấn luyện, giáo dục toàn nhân dân về những nhiệm vụ cách mạng,
nhưng trong đó, nhiệm vụ huấn luyện cán bộ được Người đặt lên trước hết.
Người lấy công tác huấn luyện cán bộ làm nhiệm vụ trọng tâm để tạo ra một
đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân. Cùng với việc chú trọng lựa chọn cẩn
thận những người cần được đào tạo, huấn luyện, chủ tịch Hồ Chí Minh còn
đặc biệt lưu ý đối với đội ngũ những người huấn luyện và những người “phụ
trách” việc huấn luyện. Người yêu cầu những người lãnh đạo cũng phải tham
gia vào công tác này, bởi người lãnh đạo thường được đào tạo quy củ lại có
nhiều kinh nghiệm thực tiễn nên khả năng kết hợp giữa lý luận và thực tiễn
thường rất tốt. Như vậy, hoạt động huấn luyện sẽ thiết thực hơn, hiệu quả hơn
và sát với yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng.
43. 38
Về mặt tư tưởng: Người huấn luyện trước hết phải kiên định với mục tiêu
lý tưởng, con đường cách mạng. Nắm vững những nguyên lý của chủ nghĩa
Mác- Lênin, nắm vững đường lối cách mạng của Đảng, từ đó truyenf cho
người học niềm tin vào sự tất thắng của cách mạng.
Về đạo đức cách mạng: Người huấn luyện luôn phải là tấm gương sáng
ngời về đạo đức cách mạng, luôn cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư…sẵn
sàng chiến đấu hi sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội.
Về lối làm việc: phải có tác phong làm việc nghiêm túc,khoa học, phải
luôn học tập nâng cao trình độ. Biết học những điều hay và thu hái những
hiểu biết quý báu của các đời trước để lại mới có thể làm được công việc huấn
luyện của mình. Muốn thế “người huấn luyện phải học thêm mãi”, vì nếu
người huấn luyện không tích cực học tập, trau dồi kiến thức, nâng cao trình
độ thì “năng lực kém, nói sai, có hại cho học sinh, nghĩa là có hại cho Đoàn
thể”.
Về đối tượng huấn luyện: Hồ Chí Minh yêu cầu người học phải biết “lấy
tự học làm cốt”, “phải biết tự động học tập”. Điều quan trọng nhất của sự tự
học là xác định tư tưởng cho đúng, người học phải xác định được mục đích
“học để làm gì”, học để phục vụ lợi ích của Tổ quốc, của dân tộc, của nhân
dân. Người học phải luôn luôn tu dưỡng phẩm chất đạo đức cách mạng và
luôn giữ vững niềm tin đối với sự nghiệp cách mạng.
Về nội dung huấn luyện: Cán bộ vừa là công bộc của nhân dân vừa là
người lãnh đạo, tập hợp nhân dân làm cách mạng nên phải là người có kiến
thức trên nhiều lĩnh vực. Bên cạnh đó, cán bộ cũng có nhiều loại: cán bộ
Đảng, cán bộ Nhà nước, đoàn thể, cán bộ ở trung ương, địa phương, cơ
sở…Bởi vậy, để đáp ứng yêu cầu thực tiễn cách mạng, công tác đào tạo, huấn
luyện cán bộ cần phải có nội dung phù hợp cụ thể.
44. 39
Về phương pháp huấn luyện: điểm sáng tạo nhất trong phương pháp
huấn luyện của Người là chuyển những tri thức có tính chất bác học, trừu
tượng, những nguyên lý kinh điển của Chủ nghĩa Mác- Lênin và các lĩnh vực
khoa học khác thành những tri thức gần gũi trong cuộc sống mà không tầm
thường hóa những khoa học đó, giúp cho người học dễ hiểu và dễ vận dụng.
Về hình thức đào tạo, huấn luyện cán bộ: kết hợp đào tạo chính quy với
đào tạo không chính quy, kết hợp học ở trường lớp với tự học. Theo Người,
cần phải coi kết quả học tập và công tác là những tiêu chí đánh giá cán bộ, từ
đó có kế hoạch sử dụng phù hợp “khi cất nhắc cán bộ, phải xem xét kết quả
học tập cũng như kết quả công tác khác mà định”.
Về tài liệu huấn luyện: tài liệu là yếu tố không thể thiếu trong huấn luyện
cán bộ, Nhưng sử dụng tài liệu đến mức nào còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố
như thời gian, đối tượng, địa bàn…và tài liệu chỉ là một yếu tố, trong quá
trình huấn luyện phải kết hợp tài liệu với các yếu tố khác như tổ chức, phương
pháp…
Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác huấn luyện cán bộ là kim chỉ nam soi
đường cho công tác đào tạo, huấn luyện cán bộ, để đội ngũ cán bộ xứng đáng
là lương tâm, trí tuệ và danh dự của dân tộc, của Đảng , đáp ứng yêu cầu của
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
1.3.4.3.Tiêu chuẩn về đánh giá, sử dụng cán bộ
Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nói “dụng nhân như dụng mộc” và triết lý
đó đã được Người sử dụng thành nghệ thuật “dùng người”. Theo Người,
muốn “dụng nhân” theo đúng người, đúng việc thì các cấp ủy Đảng, các cán
bộ tổ chức phải công tâm, phải biết đánh giá, nhìn nhận con người, nhìn thấy
sở trường, sở đoản của họ, và phải có gan dám cất nhắc cán bộ, sử dụng
những người thật sự có năng lực, chứ không phải vì than quen.