SlideShare a Scribd company logo
1 of 110
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
BÙI THỊ HỒNG VÂN
§¹O §øC C¤NG Vô
TRONG NHµ N¦íC PH¸P QUYÒN ë VIÖT NAM
Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử Nhà nƣớc và pháp luật
Mã số: 60 38 01 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: GS.TSKH. ĐÀO TRÍ ÚC
HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo
tính chính xác, tin cậy và trung thực. Những kết luận khoa học của
Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
NGƯỜI CAM ĐOAN
Bùi Thị Hồng Vân
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẠO ĐỨC CÔNG VỤ TRONG NHÀ
NƢỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM................7
1.1. Công vụ, công chức và đạo đức công chức ..................................... 7
1.1.1. Công vụ ............................................................................................... 7
1.1.2. Công chức .........................................................................................10
1.1.3. Quan niệm về đạo đức công chức.....................................................11
1.2. Đạo đức công vụ ..............................................................................14
1.2.1. Khái niệm và nội dung cơ bản của đạo đức công vụ........................14
1.2.2. Quá trình hình thành đạo đức công vụ..............................................25
Kết luận chƣơng 1 .........................................................................................32
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG ĐẠO ĐỨC CÔNG VỤ Ở VIỆT NAM
VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ....................................................33
2.1. Thực trạng sự điều chỉnh của pháp luật về đạo đức công vụ ở
Việt Nam...........................................................................................33
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển chế định đạo đức công vụ
trong pháp luật Việt Nam..................................................................33
2.1.2. Đạo đức công vụ theo pháp luật Việt Nam hiện nay........................36
2.2. Thực trạng đạo đức công vụ của công chức.................................41
2.2.1. Việc thực hiện trách nhiệm, bổn phận của công chức......................41
2.2.2. Những hạn chế, yếu kém của đạo đức công vụ ................................42
2.2.3. Nguyên nhân hạn chế, yếu kém của đạo đức công vụ......................53
Kết luận chƣơng 2 .........................................................................................60
Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN
NHẰM NÂNG CAO ĐẠO ĐỨC CÔNG VỤ TRONG NHÀ
NƢỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
HIỆN NAY.......................................................................................61
3.1. Phƣơng hƣớng nâng cao đạo đức công vụ ở nƣớc ta hiện nay...61
3.1.1. Nâng cao đạo đức công vụ nhằm xây dựng nền hành chính phục
vụ nhân dân .......................................................................................61
3.1.2. Nâng cao đạo đức công vụ theo hướng xây dựng nền công vụ
chuyên nghiệp và đội ngũ công chức vừa có phẩm chất đạo đức,
vừa có trình độ chuyên môn..............................................................65
3.2.1. Pháp điển hóa các giá trị đạo đức công chức thành những cam
kết bắt buộc công chức thực hiện trong thực thi công vụ.................72
3.2.2. Xây dựng chế định tuyển dụng và sát hạch công chức thường xuyên ......81
3.2.3. Tăng cường công tác thanh tra công vụ, kiểm tra giám sát, ngăn
ngừa và xử phạt vi phạm nhằm nâng cao đạo đức công vụ..............83
3.2.4. Thực hiện trách nhiệm giải trình của công chức trong thực thi công vụ......86
3.2.5. Tăng cường giáo dục đạo đức công vụ.............................................89
3.2.6. Nâng cao đạo đức công vụ trên cơ sở xây dựng chế độ vật chất,
phúc lợi xã hội phù hợp.....................................................................94
Kết luận Chƣơng 3........................................................................................99
KẾT LUẬN..................................................................................................100
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................102
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền, cải cách hành chính đòi
hỏi xây dựng một nền hành chính chính quy, chuyên nghiệp thực sự là của dân, do
dân, vì dân, cùng với quá trình đó là “xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên
chức có phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị, có năng lực, có tính chuyên
nghiệp cao, tận tụy phục vụ nhân dân”[15]. Những phẩm chất đó như là những biểu
hiện tập trung đạo đức công vụ của cán bộ, công chức, viên chức.
Quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền và chuyển đổi từ nền hành chính
cai quản sang nền hành chính phục vụ thực hiện các dịch vụ công đòi hỏi phải nâng
cao đạo đức công vụ của tất cả mọi đối tượng cán bộ, công chức, viên chức khi thực
thi công vụ.
Trong bối cảnh như vậy, việc nghiên cứu vấn đề Đạo đức công vụ không chỉ
có giá trị về mặt khoa học mà còn có ý nghĩa thực tiễn. Sở dĩ như vậy là vì lý do chủ
yếu sau đây:
Một là: Đạo đức công vụ là vấn đề cơ bản nhất để Nhà nước thực hiện chức
năng quản lý xã hội. Có thể nói sau khi xây dựng dựng được hệ thống chính sách
đúng đắn, phù hợp với yêu cầu thực tiễn, chức năng quản lý xã hội của Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được thực hiện thế nào, hiệu quả, hiệu lực ra
sao phụ thuộc đáng kể vào việc thực thi công vụ của đội ngũ công chức nhà nước.
Nói cách khác đạo đức công chức trong việc thực thi công vụ có ảnh hưởng quyết
định. Vì vậy nâng cao đạo đức công vụ ở nước ta hiện nay là nhiệm vụ cấp bách
trong tiến trình cải cách nền hành chính.
Hai là: Nhà nước ta luôn xác định nhân tố con người đóng vai trò then chốt
trong công cuộc cải cách hành chính, xây dựng được một đội ngũ công chức giỏi
về nghiệp vụ và đáp ứng được những chuẩn mực của đạo đức công vụ là một trong
những yêu cầu cấp bách góp phần đẩy mạnh cải cách hành chính, xây dựng Nhà
nước pháp quyền đồng thời nâng cao đạo đức công vụ còn là một trong những công
cụ hữu hiệu phục vụ cho cuộc đấu tranh chống tham nhũng và tiêu cực.
2
Ba là: Trong nhà nước pháp quyền, người dân có vị trí đặc biệt. Xu hướng
chung là các chức năng của nhà nước đang hướng tới phục vụ, đáp ứng lợi ích của
người dân. Nhà nước Việt Nam là nhà nước của dân, do dân, vì dân, do đó mục
tiêu cao nhất là phục vụ nhân dân ngày một tốt hơn. Với bản chất như vậy và để
thực hiện mục tiêu đó thì đội ngũ công chức phải thực sự là người có đạo đức. Hơn
nữa trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay đòi hỏi phải nâng cao đạo
đức công vụ phù hợp với thông lệ quốc tế khi Việt Nam ngày càng hội nhập sâu
rộng với thế giới.
Bốn là: về phương diện thực tiễn, sau 28 năm tiến hành công cuộc đổi mới,
bên cạnh những thành tựu đạt được, chúng ta đang đứng trước những thách thức
không nhỏ. Tình trạng trách nhiệm và đạo đức công vụ của đội ngũ công chức
đang có nhiều vấn đề; suy thoái đạo đức ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, công
chức. Đây là vấn đề nhức nhối, gây bức xúc trong nhân dân, trong xã hội và là
thách thức lớn đối với sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Đại hội XI
của Đảng nhận định:
Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng đạo đức, lối sống của
một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tình trạng tham nhũng, lãng
phí, quan liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn đẩy
lùi mà còn tiếp tục diễn biến phức tạp cùng với sự phân hóa giàu nghèo
và sự yếu kém trong quản lý, điều hành của nhiều cấp nhiều ngành làm
giảm lòng tin của nhân dân với Đảng và nhà nước, đe dọa sự ổn định của
đất nước [15].
Như vậy việc nghiên cứu đạo đức công vụ ở nước ta hiện nay để tìm ra
phương hướng, giải pháp khắc phục tình trạng này đã trở thành một đòi hỏi bức thiết
không chỉ của nền hành chính quốc gia, mà còn là nhu cầu của toàn xã hội.
Về phương diện lý luận, mặc dù trong những năm gần đây, chúng ta đã có
những công trình, đề tài nghiên cứu về công vụ, công chức, đạo đức cán bộ, công
chức. Song từ góc độ của Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật và trong môi
trường xây dựng nhà nước pháp quyền để nghiên cứu đạo đức công vụ vẫn còn bỏ
3
ngỏ. Với mong muốn góp thêm ý kiến làm sáng tỏ thêm những vấn đề liên quan đến
đạo đức công vụ, học viên mạnh dạn chọn đề tài “Đạo đức công vụ trong nhà
nước pháp quyền ở Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học.
2. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về đạo đức công vụ
trong nhà nước pháp quyền; đánh giá thực trạng đạo đức công vụ của công chức ở
Việt Nam hiện nay; đề xuất một số phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao đạo
đức công vụ của công chức ở nước ta hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt được mục đích nêu trên: đề tài có nhiệm vụ cụ thể sau:
- Nghiên cứu các vấn đề lý luận về đạo đức công vụ và pháp luật về đạo đức
công vụ trong nhà nước pháp quyền Việt Nam.
- Phân tích thực trạng đạo đức công vụ của đội ngũ công chức thời gian qua,
từ đó thấy được những hạn chế, yếu kém của nền công vụ nước ta.
- Đề xuất một số phương hướng, giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp
luật và nâng cao đạo đức công vụ của đội ngũ công chức nước ta hiện nay.
3. Tính mới và đóng góp của đề tài
Luận văn có những đóng góp khoa học mới như sau:
- Đưa ra các luận điểm khoa học về đạo đức công vụ của công chức trong
nhà nước pháp quyền.
- Chỉ ra những hạn chế, yếu kém của đạo đức công vụ của công chức trong
quá trình thực thi công vụ và những nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém đó.
- Đề xuất được một số phương hướng, giải pháp có căn cứ khoa học, mang
tính thực tiễn nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật và nâng cao trách nhiệm công vụ,
đạo đức công vụ trong nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.
4. Phạm vi và đối tƣợng nghiên cứu
Chủ đề đạo đức công vụ trong nhà nước pháp quyền ở Việt Nam là một
chủ đề lớn, bao gồm đạo đức công vụ của cán bộ, công chức, viên chức của đối
tượng cá nhân khác khi được nhà nước trao quyền thực thi công vụ. Vì vậy,
4
trong khuôn khổ giới hạn của luận văn thạc sỹ, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu
về đạo đức công vụ của công chức hành chính nhà nước. Đây cũng là sự tự giới
hạn của việc nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là đạo đức công vụ của đội ngũ công chức
trong bộ máy hành chính nhà nước, thông qua các hoạt động thực thi công vụ của
công chức. Khi đánh giá thực trạng, luận văn nhấn mạnh hạn chế, yếu kém, nguyên
nhân của nó chủ yếu trên các lĩnh vực: thể chế, tổ chức bộ máy, xây dựng và phát
triển đội ngũ công chức và chỉ giới hạn trong hoạt động công vụ của công chức từ
năm 1986 đến nay.
5. Tổng quan tình hình nghiên cứu thuộc lĩnh vực đề tài
Ở nước ta có nhiều đề tài công trình khoa học ở nhiều giác độ, phạm vi, giới
hạn khác nhau về vấn đề đạo đức công vụ. Học viên đã tiếp cận một số công trình
khoa học về Đạo đức công vụ được công bố như:
- Đề tài khoa học cấp bộ “Xây dựng đạo đức cán bộ công chức Việt Nam trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế” của TS.
Nguyễn Ngọc Hiến - Học viện hành chính quốc gia, chủ nhiệm đề tài.Công trình này
- Tìm hiểu về nền hành chính nhà nước của tác giả Nguyễn Hữu Khiển, năm 2003.
- Đạo đức trong nền công vụ của nhóm tác giả Tô tử Hạ, Trần Anh Tuấn,
Nguyễn Thị Kim Thảo biên soạn năm 2002; Đề tài này giới thiệu các kinh nghiệm
cũng như giải pháp ở các nước trên thế giới và Việt Nam về nâng cao đạo đức trong
nền công vụ.
- Công vụ, công chức nhà nước của tác giả Phạm Hồng Thái, ấn hành năm
2004. Công trình này tập trung làm rõ những khía cạnh lý luận, pháp lý về công vụ,
công chức nhà nước, nhưng công trình không có những luận bàn về đạo đức công
vụ, đạo đức công chức trong thi hành công vụ.
- Xây dựng đạo đức cán bộ công chức Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, của tác giả Bùi Thế Vĩnh, ấn hành
năm 2003.Các tác giả đã đưa ra một số giải pháp chung để xây dựng đạo đức cán bộ
công chức trong thời kỳ CNH, HĐH và hội nhập quốc tế, sự vận dụng kinh nghiệm
nước ngoài trong việc thúc đẩy tiến trình luật hóa đạo đức công chức ở Việt Nam.
5
- Đạo đức xã hội ở nước ta hiện nay - Vấn đề và giải pháp của tác giả
Nguyễn Duy Quý, ấn hành năm 2006.
- Mấy vấn đề đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay
của hai tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn và Nguyễn Văn Phúc, ấn hành năm 2003
- Mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức công vụ (Đề tài cấp bộ 2006 –
2007) do tác giải Phạm Hồng Thái làm chủ nhiệm đề tài. Đề tài đã có những luận
bàn về mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức, pháp luật về công vụ và đạo đức
công vụ, đồng thời đã phân tích sự điều chỉnh của pháp luật về đạo đức công vụ.
- Đạo đức người cán bộ lãnh đạo chính trị trong điều kiện kinh tế thị trường
ở Việt Nam hiện nay- thực trạng và xu hướng biến động(Đề tài cấp bộ năm 2002-
2003 do Nguyễn Thế Kiệt - Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh làm chủ
nhiệm đề tài).
- Vấn đề đạo đức của cán bộ lãnh đạo quản lý trong điều kiện kinh tế thị
trường định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sỹ triết học, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2005 của Mai Xuân Hợi.
- Đạo đức công chức và xây dựng đạo đức công chức ở nước ta hiện nay,
Luận văn thạc sỹ của Lê thị Hằng - Viện triết học năm 2008.
- Trách nhiệm công chức và đạo đức công chức ở nước ta hiện nay, Luận án
tiến sỹ của Cao Minh Công - Viện khoa học xã hội Việt Nam năm 2012
- Đạo đức công vụ và vấn đề nâng cao đạo đức công vụ cho đội ngũ cán bộ
công chức ở nước ta hiện nay của tác giả Nguyễn Hữu Khiển đăng trên Tạp chí triết
học số 10/2003.
- Nghiên cứu so sánh qui định về đạo đức công vụ của một số quốc gia và
Việt Nam của tác giả Đỗ Thị Ngọc Lan, ấn hành năm 2012. Đề tài này đề cập đến
những vấn đề chung về đạo đức công vụ, so sánh đối chiếu quy định về đạo đức
công vụ của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị cho hệ thống quản lý đạo
đức công vụ của Việt Nam.
- Luật cán bộ công chức năm 2008; Luật Khiếu nại năm 2011; Luật tố cáo
năm 2011; Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.
Các công trình trên đã đề cập đến nhiều nội dung phong phú như bàn về đạo
6
đức công vụ, nội dung vai trò và ý nghĩa đạo đức công vụ trong việc thực thi công
vụ. Tuy nhiên, trong các công trình nói trên vấn đề đạo đức công vụ, đạo đức của
công chức trong thi hành công vụ đã được các tác giả xem xét, giải quyết ở một số
khía cạnh nhất định, từ phương diện đạo đức học, xã hội học, triết học, hành chính
học, hay pháp luật hành chính, nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu đạo đức
công vụ dưới góc độ của Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật và trong môi
trường xây dựng nhà nước pháp quyền.
Tuy vậy, các công trình trên là tài liệu tham khảo quan trọng giúp cho học
viên thực hiện luận văn này.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử đồng thời sử dụng các phương pháp cụ thể như:
Phương pháp lịch sử: Xem xét đạo đức công vụ và pháp luật về đạo đức
công vụ theo từng giai đoạn, từng quá trình. Từ đó tìm ra quy luật của sự phát triển
cũng như vai trò của đạo đức công vụ và pháp luật về đạo đức công vụ
Phương pháp phân tích, tổng hợp: Luận văn kế thừa, tổng kết lại những kết
quả của các công trình nghiên cứu về đạo đức công vụ. Tuy nhiên đây không phải là
sự sao chép vì đã có sự sắp xếp theo kết cấu khác theo góc nhìn của tác giả.
Phương pháp so sánh: So sách đạo đức công vụ với các loại hình đạo đức khác.
Phương pháp thống kê xã hội học: Từ những kết quả thống kê, điều tra, khảo
sát về thực trạng đạo đức công vụ để đề ra những giải pháp hợp lý.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
Luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận về đạo đức công vụ trong Nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam
Chương 2. Thực trạng đạo đức công vụ ở Việt Nam và những vấn đề đặt ra
Chương 3. Phương hướng và những giải pháp nhằm nâng cao đạo đức công
vụ trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay
7
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẠO ĐỨC CÔNG VỤ
TRONG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
1.1. Công vụ, công chức và đạo đức công chức
Để nghiên cứu, đánh giá về đạo đức công vụ trong nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam, trước hết cần thống nhất quan điểm về công vụ, công chức, đạo
đức công vụ của công chức, do đó Luận văn giành một phần để làm rõ những khái
niệm công vụ, công chức. Vì nếu không xác định rõ, thì mọi điều viết về đạo đức
công vụ cũng không có tính xác định.
1.1.1. Công vụ
Công vụ là khái niệm mang tính lịch sử được sử dụng rộng rãi trong khoa
học chính trị, nhất là trong hoạt động của nhà nước. Trong cuốn Thuật ngữ hành
chính, các tác giả viết:
Công vụ là thuật ngữ được sử dụng để chỉ một dạng hoạt động
mang tính quyền lực nhà nước (gắn với nhà nước hoặc nhân danh nhà
nước) do các công chức, viên chức nhà nước tiến hành theo qui định của
pháp luật nhằm thực hiện các chức năng nhiệm vụ của nhà nước, phục vụ
lợi ích nhà nước và xã hội [60].
Khái niệm công vụ gắn chặt với nền hành chính nhà nước, là một loại lao
động đặc thù thể hiện bộ phận quản lý nhà nước; thực thi pháp luật, đưa pháp luật
và đời sống; quản lý và sử dụng hiệu quả công sản và ngân sách nhà nước phục vụ
nhân dân, phục vụ xã hội. “Công vụ là một hoạt động mang tính quyền lực và pháp
lý được thực thi bởi đội ngũ công chức nhằm thực hiện các chức năng của nhà nước
trong quá trình quản lý các mặt của đời sống xã hội” [22]. Nói đến công vụ là nói
đến hoạt động của nhà nước, một lĩnh vực đặc thù, mang tính quyền lực công, được
thực thi bởi một đội ngũ công chức hành chính nhằm thực hiện các chính sách của
nhà nước trong quá trình quản lý các mặt, các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đề cập
đến công vụ là đề cập đến trách nhiệm của công chức thực hiện quyền và nghĩa vụ
8
nhằm mục tiêu phục vụ người dân và xã hội. Về mặt pháp lý, trách nhiệm thường
được xem xét trong mối quan hệ thống nhất giữa quyền và nghĩa vụ.
Do đó, công vụ chính là trách nhiệm của chủ thể nhân danh quyền lực công
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo qui định của pháp luật. Với ý nghĩa quan trọng
như vậy, bất kỳ nhà nước nào cũng phải xây dựng một nền công vụ có hiệu lực,
hiệu quả và nhấn mạnh đến trách nhiệm công vụ. Các quốc gia có thể chế chính trị
và tổ chức bộ máy nhà nước khác nhau thì quan niệm về hoạt động công vụ cũng có
điểm khác nhau. Tuy nhiên, bản chất và mục tiêu cuối cùng của hoạt động công vụ
đều giống nhau.
Khái niệm công vụ có thể được xem xét, hiểu và tiếp cận dưới nhiều cấp độ,
phạm vi khác nhau: Thứ nhất, công vụ được hiểu là hoạt động của công chức thực
hiện hoạt động hành chính nhà nước. Thứ hai, công vụ được hiểu là hoạt động của
công chức trong các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp của nhà nước và lực lượng
vũ trang. Cách hiểu này nhằm tách biệt những hoạt động có tính chính trị với với
hoạt động có tính chuyên môn nghề nghiệp. Thứ ba, công vụ được hiểu là các công
việc của nhà nước, có nghĩa hoạt động của mọi thiết chế, tổ chức nhà nước đều thực
hiện công vụ. Cách hiểu như vậy quá rộng, gần giống với quan niệm về dịch vụ
công của các nước Anh, Mỹ, người ta coi cả hoạt động lập pháp, quốc phòng an
ninh cũng là “dịch vụ công”. Nhưng quan niệm này cũng có yếu tố hợp lý là có thể
thấy mọi hoạt động của nhà nước trong một chừng mực nhất định đều mang tính
chất phục vụ nhân dân. Trong đó những hoạt động mạng tính chất quyền lực công
thì gọi là công vụ, còn những hoạt động của các tổ chức sự nghiệp nhằm mục đích
phục vụ công cộng thì gọi là “dịch vụ công”. Thứ tư, công vụ được hiểu là hoạt
động của bộ, công chức, viên chức hoạt động trong mọi cơ quan, đơn vị sự nghiệp
của nhà nước và cả cán bộ, chiến sỹ làm việc trong các lực lượng vũ trang. Từ đây
nảy sinh vấn đề là không nhận thấy cái đặc thù của từng loại hoạt động nhà nước:
hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Như vậy, có nhiều quan niệm và cách hiểu khác nhau, nhưng điểm chung
nhất của các quan niệm đó là tính chất phục vụ xã hội của hoạt động công vụ đều
9
gắn với nhà nước, với quyền lực công. Công vụ thể hiện ý chí và đáp ứng lợi ích
của nhân dân và của nhà nước. Xuất phát từ chỗ công vụ là phương tiện thực hiện
các chức năng và nhiệm vụ của nhà nước, nó là định chế tổ chức - pháp lý trong hệ
thống tổ chức quyền lực nhà nước và phải phục vụ ý chí của nhà nước và của nhân
dân. Công chức khi thưc thi công vụ phải phục vụ nhân dân, chịu sự kiểm tra giám
sát của nhân dân và của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Ở Việt Nam, do dặc thù riêng, các cơ quan của Đảng, Nhà nước và các tổ
chức chính trị - xã hội là một hệ thống chính trị thống nhất đặt dưới sự lãnh đạo của
Đảng. Giữa các cơ quan này luôn có sự liên thông trong sử dụng nguồn nhân lực.
Do đó công vụ không chỉ thuần túy là hoạt động của công chức nhân danh quyền
lực công, mà còn được hiểu là các hoạt động trong phạm vi rộng hơn. Để khẳng
định tính đặc thù này, Điều 2 Luật cán bộ công chức năm 2008 quy định hoạt động
công vụ “Là việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức theo qui
định của Luật này và các quy định khác có liên quan” [47].
Việt Nam đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền.
Vì vậy việc làm rõ nội hàm khái niệm công vụ có ý nghĩa quan trọng đối với việc
xây dựng nền hành chính hiệu quả, chuyên nghiệp, trong sạch và có đạo đức phục
vụ nhân dân. Chương trình sáng kiến phòng chống tham nhũng ở Việt Nam năm
2011 khẳng định:
Nền hành chính phục vụ là nền hành chính dân chủ, trong
sạch,vững mạnh chuyên nghiệp, hiện đại, trong đó đội ngũ cán bộ công
chức có đủ phẩm chất và năng lực, các cơ quan nhà nước hoạt động có
hiệu lực hiệu quả, đáp ứng tốt yêu cầu phát triển kinh tế chính trị, xã hội
của đất nước. Nền hành chính phục vụ đóng vai trò phục vụ tốt nhân dân,
chịu sự giám sát của nhân dân chứ không phải để hành dân [56]
Tóm lại, khái niệm công vụ được xem xét, hiểu ở nhiều cấp độ, phạm vi khác
nhau. Nhưng theo chúng tôi Công vụ là toàn bộ hoạt động của công chức trong
quản lý xã hội theo chức năng được qui định trong pháp luật nhằm mục đích phục
vụ nhân dân, xã hội và nhà nước.
10
1.1.2. Công chức
Công chức là bộ phận cấu thành của nền công vụ. Khái niệm công chức bao
giờ cũng song hành và gắn liền với sự hình thành, phát sinh và phát triển của nền
công vụ. Năng lực, hiệu quả hoạt động của nền công vụ được quyết định bởi trình độ,
năng lực của công chức. Công chức được hiểu một cách chung nhất là những người
thừa hành quyền lực nhà nước trong thực thi công vụ một cách chuyên nghiệp. Thuật
ngữ công chức ở Việt Nam được sử dụng qua mỗi giai đoạn lịch sử với phạm vi rộng,
hẹp khác nhau, theo khoản 2 Điều 4 Luật cán bộ công chức năm 2008:
Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào
ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam,
Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện;
trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan,
quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị
thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên
nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của
Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội (sau đây gọi
chung là đơn vị sự nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân
sách nhà nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn
vị sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự
nghiệp công lập theo quy định của pháp luật [47, Điều 4, Khoản 2].
Bên cạnh đó Luật còn quy định “công chức cấp xã là công dân Việt Nam
được tuyển dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân
cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
Khác với các nước, công chức ở Việt Nam bao gồm: công chức trong các cơ
quan Đảng cộng sản Việt Nam, công chức Nhà nước, công chức của các tổ chức
chính trị - xã hội, công chức trong đơn vị sự nghiệp công lập, công chức trong cơ
quan, đơn vị quân đội và công an. Như vậy, nghiên cứu đạo đức công vụ là nghiên
cứu đạo đức trong thi hành công vụ của cán bộ, công chức.
11
1.1.3. Quan niệm về đạo đức công chức
Thuật ngữ “đạo đức” trong tiếng Anh là morality, trong tiếng Pháp là marale
đều có gốc từ tiếng La tinh là moris, có nghĩa là những lề thói đạo nghĩa. Trong tiếng
Hy Lạp, thuật ngữ ethicos (hạnh kiểm, luân lý) cũng có nghĩa là lề thói, tập tục. Sau
này, người phương Tây cũng dùng cả thuật ngữ ethique với nghĩa là đạo đức.
Trong tiếng Việt thuật ngữ "đạo đức" được giải thích theo nhiều cách khác
nhau: Đạo đức là "Phép tắc về quan hệ giữa người với người, giữa cá nhân với tập
thể, với xã hội" "phẩm chất tốt đẹp của con người" [63]. Có người giải thích đạo
đức là từ ghép, được tạo bởi hai thành tố "đạo" và " đức"; "đạo" là "một cái đạo lý,
một cái lẽ nhất định, là ai cũng phải noi đấy mà theo"; " đức" có nghĩa là " cái đạo
để lập thân, thiện, làm thiện, cảm hóa đến người [14]. Theo cách giải thích của Đào
Duy Anh thì chữ "đạo đức" được tạo bởi hai thành tố "đạo" và "đức", “đạo” có
nghĩa là đường đi, còn “đức” có nghĩa là có nghĩa là nguyên lý tự nhiên, được vào
lòng người là đức - Cái lý - pháp người ta nên noi theo [morale,vertu 1]. Như vậy,
về mặt ngôn ngữ đạo đức được hiểu ở một số khía cạnh sau:
Thứ nhất, đạo đức là những chuẩn mực, những quy tắc trong hành vi, cách
xử sự giữa con người với con người;
Thứ hai đạo đức là công lý, lẽ phải, chuẩn mực phù hợp với quy luật của tự
nhiên và xã hội, là "cái lẽ sống, lẽ phải, đạo ở đời";
Thứ ba đạo đức phẩm chất, nét đẹp của con người.
Như vậy, về mặt ngữ, nghĩa của từ, người phương Đông và phương Tây đều
gặp nhau ở một điểm là đều coi "đạo đức" là những chuẩn mực xã hội, mang tính
hướng thiện, là công lý, lẽ phải nhằm điều chỉnh ý thức, hành vi con người.
Từ đó có thể hiểu: đạo đức là “tổng hợp những nguyên tắc, quan điểm, chuẩn mực
về điều thiện, điều ác, lương tâm, lẽ công bằng, điều vinh, điều nhục... nhằm hướng
con người đến cái chân, cái thiện, cái mỹ...; chống lại cái giả, cái ác, cái xấu”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhà tư tưởng, danh nhân văn hóa thế giới, đã bàn
nhiều về vấn đề đạo đức, Người đã sử dụng nhiều phạm trù, khái niệm đạo đức như:
trung, hiếu, nhân, nghĩa, cần, kiệm, liêm, chính đã có trong Nho giáo; dân chủ, công
bằng, tự do, bình đẳng, bác ái đã xuất hiện từ thời cổ đại Hylạp, La Mã.
12
Người không sử dụng thuật ngữ “đạo đức cán bộ, công chức, mà sử dụng
thuật ngữ đạo đức cách mạng, đạo đức cán bộ”. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh:
Đạo đức cách mạng không phải trên trời xa xuống. Nó do đấu
tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển củng cố. Cũng như ngọc
càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong [32]. Người căn dặn cái
gì cũ mà xấu, thì phải bỏ... cái gì cũ mà không xấu, nhưng phiền phức thì
phải sửa đổi lại cho hợp lý; cái gì cũ mà tốt, thì phải phát triển thêm; cái
gì mới mà hay, thì ta phải làm [29].
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh để trau dồi đạo đức cách mạng, người cán bộ
phải luôn rèn luyện, tu dưỡng, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa quan
liêu. Theo Hồ Chí Minh thì "Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức
thì tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân" [33].
Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng được khái quát
thành nội dung sau: nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm. Đạo đức cách mạng cũng chính là
đạo đức của người cán bộ, công chức.
Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng mới hoàn thành
được nhiệm vụ vẻ vang;
Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng
phải có đạo đức, không có đạo đức thì tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo
được nhân dân [30]. Người còn nói Đạo đức của người cách mạng không
phải là những giáo điều suông mà là đạo đức của hành động. Đạo đức
cách mạng không phải trên trời sa xuống, nó do đấu tranh rèn luyện bền
bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố, cũng như ngọc càng mài càng
sáng, vàng càng luyện càng trong [30].
Bên cạnh những chuẩn mực đạo đức đó, đạo đức cán bộ còn là" lời nói đi đôi
với việc làm (ngôn hành hợp nhất), nêu gương làm tốt, đấu tranh và khắc phục thói
hư, tật xấu. "Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách đạo đức, muốn
hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước" [30].
Như vậy, cán bộ phải là người phục vụ trung thành của nhân dân, gắn bó
13
chặt chẽ với nhân dân, hết lòng, hết sức tận tuỵ phục vụ nhân dân, lắng nghe ý kiến
của nhân dân. Đó là tư tưởng cốt lõi của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đạo đức người
cán bộ cách mạng, đó cũng chính là đạo đức cán bộ, công chức
Trên cơ sở kế thừa và phát huy tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đạo đức
cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn có những chủ trương, chính sách xây
dựng đội ngũ cán bộ, công chức vừa hồng vừa chuyên, rèn luyện đạo đức theo
gương của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Đạo đức cán bộ, công chức theo quan điểm
của Đảng ta được khái quát thành các nội dung sau:
- Có tinh thần yêu nước sâu sắc, tận tụy phục vụ nhân dân, kiên định mục tiêu
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phấn đấu thực hiện có kết quả đường lối của
Đảng và pháp luật của Nhà nước.
- Cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư. Không tham nhũng và kiên quyết đấu
tranh chống tham nhũng. Có ý thức tổ chức kỷ luật. Trung thực, không cơ hội, gắn
bó mật thiết với nhân dân, được nhân dân tín nhiệm.
- Có trình độ hiểu biết về lý luận chính trị, quan điểm, đường lối của Đảng,
chính sách và pháp luật của Nhà nước; có trình độ văn hóa, chuyên môn, đủ năng
lực và sức khoẻ để làm việc có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao. Các
tiêu chuẩn đó, có quan hệ mật thiết với nhau. Coi trọng cả đức và tài, đức là gốc.
Mặt khác các tổ chức đảng phải thường xuyên giáo dục, quản lý, kiểm tra cán
bộ, đảng viên về đạo đức, lối sống. Đảng cũng yêu cầu cán bộ, đảng viên phải tự
giác rèn luyện đạo đức, lối sống cần kiệm, liêm chính, chí công, vô tư; gương mẫu
giữ gìn phẩm chất người chiến sĩ cộng sản, đề cao tinh thần đoàn kết, chống chủ
nghĩa cá nhân; chấp hành nghiêm Điều lệ Đảng, pháp luật Nhà nước; đồng thời, chú
ý giáo dục, thuyết phục gia đình cùng thực hiện [17].
Những quan điểm chuẩn mực chung về đạo đức cán bộ, đảng viên được cụ
thể hóa trong nhiều văn bản của Đảng, đặc biệt là những quy định về những việc
đảng viên không được làm, đồng thời cũng là những chuẩn mực đạo đức của
người cán bộ, công chức không chỉ trong công vụ, mà còn trong lối sống sinh
hoạt hàng ngày của họ.
14
Trên cơ sở quan niệm về đạo đức, quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đạo đức cán bộ, có thể hiểu: Đạo đức
công chức là hệ thống các nguyên tắc, quan điểm, quy phạm về lẽ phải, sự công
bằng, về điều thiện, cái ác, cái đúng, cái sai trong đời sống xã hội, đời sống nhà
nước thể hiện ý chí, tâm tư tình cảm của công chức, nhằm điều chỉnh ý thức, hành
vi hành vi, cách xử sự của công chức trong hoạt động công vụ, nhiệm vụ, cũng như
thái độ của họ trong công vụ.
Tư tưởng, quan điểm về đạo đức công chức là cơ sở nền tảng để xây dựng một
nền đạo đức công vụ phục vụ nhân dân của công chức. Những tư tưởng, quan điểm
đó là cơ sở để thể chế hóa thành pháp luật.
1.2. Đạo đức công vụ
1.2.1. Khái niệm và nội dung cơ bản của đạo đức công vụ
Đạo đức công vụ ở Việt Nam được hình thành trên cơ sở nền tảng của quan
điểm: “Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân” [44]. Nhân dân là chủ, cán
bộ, công chức là công bộc của dân. Trong điều kiện như vậy, đạo đức công vụ trong
tình hình mới có những nội dung cơ bản sau đây:
Cán bộ, công chức phải là công bộc của dân, tận tụy phục vụ dân. Mọi hoạt
động đều lấy nhân dân làm mục đích phục vụ.
Công chức các cơ quan quản lý hành chính tham mưu xây dựng, ban hành
các chính sách, thể chế quản lý; phải quán triệt tinh thần phục vụ dân, thuận lợi cho
dân trong làm ăn, sinh sống, thực hiện các quyền con người; thuận tiện trong việc
cung cấp các dịch vụ hành chính cho dân; không sách nhiễu phiền hà, không được
cửa quyền khi giải quyết việc của dân với thái độ xin cho, ban ơn (thể hiện trong
việc giải quyết thủ tục hành chính, cấp các loại giấy phép).
Công chức làm việc ở các đơn vị sự nghiệp phải cung cấp tốt dịch vụ cho cá
nhân, tổ chức, xóa bỏ cơ chế xin cho, ban ơn thời bao cấp, đồng thời hạn chế tình
trạng thương mại hóa khi chuyển sang cơ chế thị trường (thể hiện ở các dịch vụ
chăm sóc sức khỏe, giáo dục, các dịch vụ văn hóa tinh thần, các loại dịch vụ dân
15
sinh khác). Công chức, viên chức, nhân viên (thuộc khu vực doanh nghiệp, khu vực
công) cung cấp các loại dịch vụ mang tính chất dịch vụ hàng hóa phải đảm bảo chất
lượng tốt, giá thành hợp lý, không phiền nhiễu khách hàng (các loại dịch vụ điện,
nước, bưu điện, môi trường, cơ sở hạ tầng).
Cán bộ, công chức có thái độ, tinh thần làm việc tận tụy, có trách nhiệm cao
với công việc. Sự tận tụy phải được thể hiện ở hiệu quả, chất lượng công vụ. Công
chức hành chính thể hiện ở hiệu quả tham mưu, góp phần xây dựng các chính sách,
thể chế đúng, khả thi tạo được động lực mới cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Công
chức chuyên môn sự nghiệp thể hiện ở sự tận tụy với công việc; có sản phẩm, phục
vụ có chất lượng, cung cấp dịch vụ có chất lượng cao, đảm bảo đúng là một Nhà
nước phục vụ ở các lĩnh vực y tế, giáo dục, dân sinh khác; có sức cạnh tranh tốt hơn
so với dịch vụ ngoài Nhà nước; thể hiện rõ tính ưu việt của Nhà nước.
Phẩm chất trong sạch của cán bộ, công chức: Không tham nhũng, tham ô tài
sản Nhà nước và của dân. Thực hiện công vụ vô tư, với thái độ phục vụ không đòi
hỏi, sách nhiễu, gây khó khăn cho tổ chức, nhân dân. Không vụ lợi, lợi dụng chức
vụ, vị trí công tác để mưu lợi riêng. Lành mạnh trong lối sống, sinh hoạt.Thực hiện
tiết kiệm cho Nhà nước, cơ quan. Có lối sống giản dị, phong cách làm việc, quan hệ
với đồng nghiệp, nhân dân tốt.
Tinh thần đồng đội, hợp tác trong thực hiện công vụ: Có tinh thần hợp tác,
phối hợp với đồng nghiệp trong cơ quan để cùng thực hiện công vu; biết tập hợp,
phát huy trí tuệ, sức mạnh tập thể; Nhận việc khó về mình, không tranh công, đổ
lỗi; gặp việc khó cùng hợp tác tìm cách giải quyết; luôn có tinh thần giúp đỡ đồng
nghiệp cùng hoàn thành nhiệm vụ. Tạo cơ hội để đồng nghiệp phát triển, tiến bộ;
Tinh thần vì tập thể, vì việc công; xây dựng cơ quan, tập thể thành đơn vị mạnh.
Tính kỷ luật và tinh thần sáng tạo: Đạo đức công vụ thể hiện ở tính kỷ luật,
thực hiện nhiệm vụ được giao theo quy định của pháp luật và theo sự phân công của
cấp trên. Tận tâm, tận lực hoàn thành nhiệm vụ với ý thức tổ chức kỷ luật và tính tự
giác cao của người cán bộ, công chức.Kỷ luật công vụ thể hiện ở việc chấp hành
nghiêm các quy định, nội quy, chế độ làm việc của cơ quan, tổ chức. Không tùy
16
tiện, tự do, vô kỷ luật, thiếu kỷ cương, làm việc tùy thích cá nhân… Cùng với tính
kỷ luật, đạo đức công vụ bao hàm và đòi hỏi phải có tinh thần sáng tạo, phát huy
sáng kiến của mỗi cán bộ, công chức để hoàn thành nhiệm vụ. Không thụ động,
máy móc, quan liêu. Có sự sáng tạo trong tư duy, phong cách, phương pháp làm
việc; đề xuất sáng kiến để hoàn thành nhiệm vụ với hiệu quả cao. Kết hợp đúng đắn
giữa tính kỷ luật và tinh thần sáng tạo là một phẩm chất cơ bản rất cần thiết của đạo
đức công vụ trong một nền công vụ hiện đại, phát triển.
Đạo đức công vụ khác với đạo đức thông thường nói chung:
Thứ nhất: chủ thể đặt ra các qui tắc đạo đức công vụ là cơ quan nhà nước, tổ
chức, những nhà hoạt động chính trị, hoạt động nhà nước hoặc được hình thành dần
trong đời sống nhà nước bởi công chức và xã hội; do đó một phần đạo đức công vụ
được thể chế hóa trong các văn bản của cơ quan nhà nước.
Thứ hai, việc thực hiện các qui tắc đạo đức công vụ vừa mạng tính tự
nguyện,tự giác, vừa mang tính bắt buộc. Người vi phạm quy tắc đạo đức công vụ có
thể bị cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước áp dụng các
biện pháp chế tài để xử lý kỷ luật.Việc áp dụng các biện pháp chế tài này là sự đánh
giá chính thống của xã hội đối với người vi phạm các qui tắc đạo đức công vụ.
Ngoài ra, các qui tắc đạo đức công vụ còn mang tính xã hội; do đó khi không thực
hiện các qui tắc đạo đức công vụ, người công chức còn bị cộng đồng đánh giá.
Đạo đức công vụ là một hiện tượng có cơ cấu của nó. Khi xem xét đạo đức
công vụ tức đạo đức của công chức khi thực thi công việc của nhà nước, phải dựa
trên hai yếu tố cơ bản: Công việc: tức mọi công việc đều phải hướng đến giá trị cốt
lõi của công việc đó. Công việc do công chức đảm nhận mang ý nghĩa xã hội rất cao
và do đó cần phải thực sự quan tâm đến giá trị công việc...Con người thực thi công
việc đó: Để hướng đến những giá trị cốt lõi, con người thực thi công việc đó phải là
“người có đạo đức”. Tuy nhiên, đạo đức con người trong trường hợp công chức là
sự tổng hòa của các loại đạo đức: cá nhân; công dân, xã hội và nhà nước.
Hai yếu tố trên tạo nên đạo đức công vụ. Và cả hai yếu tố đó kết hợp chặt
chẽ, hài hòa với nhau tạo nên điều kiện “cần và đủ” cho sự hình thành đạo đức
17
công vụ. Nếu thiếu một trong hai yếu tố đó, khó có thể tạo nên “môi trường công
vụ có đạo đức”.
* Đạo đức công vụ trước hết được hình thành từ đạo đức cá nhân của công
chức. Công việc của nhà nước do công chức thực hiện. Do đó, muốn xem xét khía
cạnh đạo đức nghề nghiệp của công việc này, đòi hỏi phải xem xét từ khía cạnh đạo
đức cá nhân. Đạo đức cá nhân luôn gắn liền với đạo đức xã hội - những chuẩn mực
được xã hội coi là giá trị. Nhưng phải nhận thức đúng những giá trị tích cực, những
giá trị mang tính “cổ hủ”. Và xét trên một giác độ chung, công chức phải là những
người hướng đến những giá trị tích cực và phải trở thành “ tấm gương” về đạo đức
cá nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và pháp quyền.
Trên giác độ đạo đức cá nhân, công chức cũng như mọi công dân phải là một
công dân mẫu mực. Khía cạnh mẫu mực của công dân thể hiện cao cả nhất là chấp
hành nghiêm chỉnh “pháp luật” của nhà nước ban hành.
Trước hết, công chức (xét trên nghĩa chung nhất) là người tạo ra khuôn khổ
pháp luật đó. Và họ sẽ là người am hiểu nhất những chân giá trị của các quy định
của pháp luật. Nếu một sự lơ là nào đó đối với các chân giá trị đó, sẽ có tác động
ảnh hưởng rất lớn đến xã hội.
Hai là, công chức cũng là người triển khai tổ chức thực hiện, đưa những
“chân giá trị” của pháp luật vào đời sống (với nghĩa họ là người triển khai tổ
chức thực hiện pháp luật). Sự tuân thủ pháp luật cũng chính là tấm gương cho
người khác tuân theo.
Ba là, công chức là công dân và do đó cũng phải tuân thủ các quy định chung
của pháp luật dù bất cứ vị trí nào. Pháp luật không có phân biệt, đối xử ngoại lệ với
bất cứ ai. Mọi người phải được bình đẳng trong khuôn khổ pháp luật. Đây là một
trong những thách thức về khía cạnh đạo đức cá nhân của công chức khi họ nắm
trong tay “rất nhiều quyền lực nhà nước” họ và những đồng nghiệp của họ có thể
“trao đổi cho nhau nhiều yếu tố quyền lực” và do đó, tạo cho họ dễ bị đứng “trên,
ngoài vòng pháp luật”. Tính gương mẫu của công chức khi chấp hành pháp luật cũng
là thể hiện “đạo đức cá nhân” phù hợp nhất với một xã hội trong đó sống, làm việc
18
theo pháp luật của công chức. Một công dân nếu vi phạm “những điều quy định của
pháp luật” có thể chỉ bị xem xét từ hai khía cạnh: Công dân và Công chức. Với khía
cạnh thứ hai này, phải xử lý công chức nặng hơn rất nhiều so với công dân cùng vi
phạm. Đạo đức công chức với khía cạnh công chức là một con người cụ thể trong
không ít trường hợp có thể bị mâu thuẫn về lợi ích trong quá trình thực thi công vụ.
* Đạo đức công vụ được hình thành từ khía cạnh đạo đức xã hội của công chức
Đạo đức xã hội như trên đã nêu là chuẩn mực của các giá trị của từng giai
đoạn phát triển của xã hội và gắn liền với các hình thái xã hội khác nhau.Đạo đức
xã hội và cam kết thực hiện những giá trị chuẩn mực của đạo đức xã hội sẽ tạo ra
tiền đề cho xã hội phát triển.Trong bối cảnh hiện nay, đạo đức xã hội đang có những
sự thay đổi. Sự “thay đổi của các giá trị đạo đức xã hội” đang theo hai hướng: Tích
cực và tiêu cực. Nhiều chân giá trị mới của xã hội xuất hiện. Nhưng cũng không ít
những vấn đề của “xã hội” đang quay trở lại. Những giá trị thuần phong, mỹ tục của
xã hội tốt đang bị mai một. Trong khi đó, những cổ hủ, mang tính mê tín dị đoan lại
ngày càng trở nên phổ biến(Việt Nam). Và dưới sự tác động của kinh tế thị trường
làm cho các chuẩn mực xã hội cũng thay đổi theo. Những chân giá trị “chống lãng
phí, thực hành tiết kiệm” đang bị chính công chức làm cho thay đổi.
*. Đạo đức công vụ là đạo đức nghề nghiệp đặc biệt - công vụ công chức
Đạo đức nghề nghiệp đối với công chức là đạo đức của công việc cung cấp
dịch vụ cho người đứng đầu tổ chức; cho công dân và tổ chức. Một sự không trung
thực, thiên vị của công chức trong thực thi công vụ cung cấp dịch vụ có thể để lại
hậu quả rất lớn cho xã hội. Một quyết định chính sách được đưa ra trên cơ sở phân
tích, đánh giá của ý kiến nhà quản lý và của nhóm tham mưu. Công chức có bổn
phận phải suy nghĩ đến những loại thông tin đó để tham mưu đúng.
Đạo đức xã hội của công chức thể hiện tính dân chủ của công vụ mà công
chức thực hiện với công dân. Sự không thiên vị, vô tư và trong sáng có thể làm cho
người dân cảm thấy được sự tin tưởng hơn ở chính phủ; trong khi đó một sự thiên vị
do nhiều loại tác động khác nhau có thể làm cho tính chất công vụ sẽ thay đổi. Đó
cũng chính là dấu hiệu của đạo đức nghề nghiệp công vụ.
Một trong những khía cạnh của đạo đức thực thi công vụ của công chức là sự
19
chuyển đổi rất lớn vai trò của chính phủ trong xu hướng cải cách chung. Những xu
hướng cải cách như: phân cấp quản lý nhà nước cho các loại cơ quan, cấp hành
chính; coi trọng cấp dưới; vai trò xúc tác, lái thuyền chứ không chèo thuyền; mở
rộng sự tham gia của công dân trong hoạt động quản lý; xã hội hóa nhiều hoạt động
cung cấp dịch vụ công; người sử dụng dịch vụ phải trả tiền; hợp đồng thực thi hoạt
động cung cấp dịch vụ công; kế toán hoạt động; trách nhiệm báo cáo cho các bên có
liên quan; thương mại hóa; dân chủ; chính phủ điện tử.
Cách tiếp cận lấy công dân - người nhận và sử dụng dịch vụ của nhà nước
làm trung tâm hay công dân - khách hàng là thượng đế. Đó cũng là cách tư duy
hướng đến nền hành chính phục vụ. Trong bối cảnh đó, mức độ hài lòng của công
dân phải được coi là thước đo giá trị của hành chính và là thể diện đạo đức hoạt
động thực thi công vụ của công chức (đạo đức nghề nghiệp).
Đạo đức và pháp luật trong thực thi công vụ của công chức luôn phải gắn
liền chặt chẽ với nhau. Tuy nhiên, pháp luật là ranh giới đặc biệt, trong khi đó đạo
đức và các yếu tố thuộc về hành vi lại không như pháp luật trong tiến trình cải cách
hành chính, nhưng hành vi, cách ứng xử của công chức lại chưa thay đổi theo kịp
những thách thức để xây dựng đạo đức công vụ. Một hệ thống chuẩn mực mới và
hành vi mới cần phải được hoàn thiện, bổ sung.
Đạo đức nghề nghiệp là một chuẩn mực rất quan trọng để đánh giá con
người. Trong khu vực nhà nước, phải xây dựng chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp nói
chung và chuẩn mực nghề nghiệp của các loại công việc mà công chức đảm
nhận.Về nguyên tắc nghề nghiệp, công chức không chỉ nhìn nhận tính đạo đức của
mình thông qua lăng kính của các giá trị đạo đức nghề nghiệp chung, mà còn phải
tuân theo những giá trị đạo đức nghề nghiệp riêng. Pháp luật là một trong những
chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp mà công chức phải coi đó như “là chuẩn mực đạo
đức nghề nghiệp có tính tối thiểu”, không được vi phạm và từng bước phải nâng cao
giá trị nghề nghiệp trên cả chuẩn mực pháp lý.
Sự xâm phạm những quy định mang tính đạo đức nghề nghiệp trong thực
thi công vụ của công chức được biểu hiện thông qua nhiều hoạt động khác nhau.
20
Nhưng đặc trưng chung của những sự vi phạm đạo đức đó chính là xâm phạm lợi
ích công, thay vào đó bằng lợi ích công, thay vào đó bằng lợi ích cá nhân hay
nhóm thiểu số.
*. Đạo đức thực thi công vụ là sự hài hòa của các giá trị
Trong khi thi hành công vụ, công chức phải định hướng thực hiện nhiệm vụ
của mình bảo đảm lợi ích công trong mối quan hệ của các giá trị: dân chủ, nghề
nghiệp, đạo đức và giá trị xã hội.
Giá trị dân chủ: công chức phải trung thực, không thiên vị trong việc tư vấn
và cung cấp thông tin cho lãnh đạo của họ; thực hiện các quyết định một cách trung
thành và đúng pháp luật; cung cấp cho các cơ quan quản lý nhà nước khác cũng như
công dân những thông tin liên quan đến hoạt động của đơn vị.
Đạo đức nghề nghiệp đang là một thách thức đối với công chức trong quá
trình thực thi công vụ. Tôn trọng pháp luật và trung lập về chính trị và đòi hỏi tính
trung thành chính trị đang là một thách thức. Trong khi đó, giá trị nghề nghiệp phải
gắn liền với năng lực; hoàn hảo trong thực thi; hiệu quả, khách quan và không thiên
vị. Điều này đặt ra cho công chức trong thực thi công vụ không thể nhân danh đảng
chính trị mà công chức là thành viên. Chính vì vậy, công chức có hay không được
tham gia các đảng phái chính trị là một trong những thách thức của công chức; công
chức phải bảo đảm khả năng tư duy sáng tạo để đưa ra các phương án sử dụng tiền
tiền thự thi công vụ được giao một cách hiệu quả trong bối cảnh thay đổi. Sự trì trệ,
cứng nhắc trong thực thi công vụ đang là một thách thức. Một mặt, phải tôn trọng
nguyên tắc pháp luật. Mặt khác, đòi hỏi phải sáng tạo trong thực hiện. Đòi hỏi công
chức phải dám chịu trách nhiệm với những tư duy sáng tạo đó của họ. Trong bối
cảnh môi trường hành chính đang thay đổi, tư duy sáng tạo phải được xem như một
giá trị nghề nghiệp cao của công chức trong thực thi công vụ.
Giá trị đạo đức, thực chất phải ứng xử phù hợp theo chuẩn mực quy định của
pháp luật, nhưng mặt khác phải quan tâm cả những khía cạnh đạo đức (ứng xử) xã
hội, nghề nghiệp, nhân văn. Đây là một thách thức không nhỏ đối với công chức.
Nhà nước cần phải quy định chuẩn mực hành vi ứng xử của công chức trong khi
thực thi công vụ.
21
Giá trị xã hội của công chức rất lớn. Họ không chỉ là nơi tạo niềm tin của
công dân đối với nhà nước và cũng là một tấm gương. Những biểu hiện lạm dụng
công quỹ; tài sản nhà nước, lãng phí đã làm cho cách nhìn của công dân đối với nhà
nước giảm niềm tin.
Đạo đức là phạm trù xã hội, nhưng đạo đức thực thi công vụ chính là sự chấp
hành “tuyệt đối” quy định của pháp luật đối với hoạt động đó. Chỉ khi đó, chân giá
trị của công chức - công vụ mới được thể hiện đầy đủ. Công chức thực sự trở thành
công bộc của dân và nền hành chính đích thực là nền hành chính phục vụ nhân dân.
Và trên cơ sở chấp hành nghiêm chỉnh đó, đạo đức công vụ của công chức sẽ nâng
lên ý thức đạo đức và tự giác chấp hành.
* Đạo đức công vụ là sự tổng hòa của hai nhóm đạo đức khi thực thi công
việc của công chức và tuân thủ pháp luật.
(1) Trách nhiệm đối với thực thi công vụ:
Đạo đức thực thi công việc của công chức được xem xét từ khía cạnh trách
nhiệm đối với việc làm trong khu vực nhà nước.Mỗi một công dân trong điều kiện
cụ thể của pháp luật nhà nước, đều phải chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật. Tức
phải làm được những điều mà pháp luật nhà nước quy định họ phải làm; không
được làm; họ được làm. Ba cấp độ khác nhau này đâu là thuộc trách nhiệm của họ.
Và điều này cũng giống như mọi loại trách nhiệm khác.
- Phải làm mang tính bắt buộc (nhiệm vụ);
- Được làm mang tính quy định của pháp luật trao cho công chức khá nhiều
quyền. Và họ phải sử dụng quyền đó để thực thi tốt công vụ giao cho họ.
- Nên làm: đó là những loại công việc mà pháp luật liên quan đến công vụ
không nêu ra hạn chế, nhưng công chức cảm nhận được tính hợp lý, có thể làm
những công việc đó để đem lại lợi ích cao hơn cho xã hội mà pháp luật không cấm.
Đó cũng có thể là “tầm cao hơn” của chuẩn mực pháp lý phải làm.
- Không được làm: Đó là những điều pháp luật liên quan đến công vụ cấm
hoặc hạn chế không được làm. Điều này cần nhận thức đúng với những điều cấm,
không được làm so với công dân. Nhiều công việc đối với công chức bị “cấm, hạn
chế” nhiều hơn so với công dân.
22
(2) Quy định những điều “phải làm”
Những quy định phải làm đối với từng tổ chức, cá nhân công chức trong các
cơ quan quản lý nhà nước là một đòi hỏi tất yếu để chống lại những hành vi vi phạm
đạo đức của công chức và chống tham nhũng. Mỗi một công chức, khi nhận vị trí
công việc của mình cần phải biết, hiểu và lượng hết sức mình liệu có làm hết được
những điều phải làm hay có dám chịu trách nhiệm làm các công việc phải làm đó.
Nhưng với tính cách con người, nếu không có chế tài đủ mạnh để xử lý vi phạm,
không làm được những việc “phải làm”, người nhận việc sẽ “vô tư” nhận công việc,
nhận vị trí vì họ biết rằng, không làm được những việc phải làm “cũng không sao”.
Cần quy định cụ thể cách thức xử lý những người “dám nhận làm những việc phải
làm” nhưng lại không làm được. Đây là một trong những khó khăn hiện nay của hệ
thống các cơ quan quản lý nhà nước ở nước ta trong cơ chế bầu, bổ nhiệm theo
nhiều cách.Quy chế công vụ cần quy định chi tiết vấn đề này. Trách nhiệm thường
được coi rất nhẹ nhàng, nhưng không ai bàn đến cơ chế chịu trách nhiệm.
Phải làm mang ý nghĩa bắt buộc và đó coi là nghĩa vụ pháp lý của mỗi một
người. Mỗi công dân, mỗi cơ quan nhà nước, mỗi một công chức đều có nghĩa vụ
phải làm những điều do pháp luật quy định. Và tất yếu, nếu không làm những điều
phải làm đó, công dân, các cơ quan (bao gồm các cơ quan nhà nước) và từng cá
nhân công chức đều bị những hình thức xử phạt (bị kỷ luật) theo pháp luật quy định.
Đây cũng là đòi hỏi tất yếu “cần và đủ” để những điều quy định phải làm đối với
từng thành viên trong xã hội, bao gồm từng cá nhân, tổ chức.
Trong các văn bản quản lý, chúng ta thường nói đến thuật ngữ “nhiệm vụ”.
Đứng trên giác độ quản lý và đứng trên tư duy “phải làm”, nhiệm vụ chính là những
điều phải làm. Những nhiệm vụ đó nếu đối với các cơ quan quản lý nhà nước có
tính pháp lý rất cao. Và các cơ quan đó phải thực hiện được nhiệm vụ. Nhưng muốn
làm được điều đó, những quy định bắt buộc, phải làm đó cần phải được cụ thể hóa.
Gắn liền với nhiệm vụ, một khía cạnh đủ của việc thực hiện nhiệm vụ là xử
lý các vấn đề xảy ra do không thực hiện “nhiệm vụ - điều bắt buộc phải làm”.
Thông thường, các văn bản quản lý nhà nước khi thành lập cơ quan, ít nói đến chế
tài thứ hai này. Những quy định đó nằm trong các loại văn bản khác.
23
(3) Những quy định được làm
Khái niệm “được làm” đồng nghĩa với việc Nhà nước quy định cho các tổ
chức, các cá nhân công chức được làm những điều (do pháp luật quy định) nhất
định để thực hiện các nhiệm vụ “phải làm”. Trong văn bản pháp luật, đó chính là
quyền hạn của tổ chức (thẩm quyền chung) và cá nhân (thẩm quyền riêng). Công
chức, người làm việc trong các cơ quan nhà nước (bao gồm các nhà quản lý, thừa
hành,…) đều phải nhận thức những việc được làm theo nghĩa chung và được làm
mang tính hạn chế đối với công chức.
(4) Những quy định “không được làm”
Đó là những lĩnh vực pháp luật nhà nước quy định tổ chức, công dân không
được làm. Cách quy định không được làm và được làm đã thay đổi trong tiến hành
phát triển kinh tế - xã hội; Trong cơ chế trước đây, những điều mà công dân, các tổ
chức được làm. Cái mà họ biết chỉ là những gì họ được làm. Còn cấm những lĩnh
vực gì, công dân không biết một cách cụ thể. Và điều đó cũng là cách thức để cơ
quan nhà nước, cá nhân công chức được nhà nước trao quyền lợi dụng để cho hay
không cho tổ chức và công dân được thực hiện những việc được làm của mình.
Những điều “không được làm” riêng đối với công chức nhằm bảo vệ chính
công chức để họ không lạm dụng quyền hạn được trao để đem lại những lợi ích
riêng cho cá nhân, gia đình hay lợi ích riêng cho cơ quan của họ, trong khi đó xâm
phạm lợi ích của nhà nước, công dân. Hai lĩnh vực: “phải làm”, “không được làm”
có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ lẫn nhau nhằm làm cho công chức thực
hiện tốt nhất nhiệm vụ của mình.
Trách nhiệm - là những gì mà công chức, nhà quản lý phải thực hiện một
cách nghiêm chỉnh, đúng pháp luật nhà nước quy định cho họ phải làm. Đó chính là
những nhiệm vụ được giao cho từng vị trí, từng chức vụ. Tuy nhiên, thực hiện trách
nhiệm chưa thực sự trở thành “giá trị”. Một mặt, công chức không đủ khả năng để
làm được hết nhiệm vụ theo quy định của pháp luật. Nguyên nhân của hiện tượng
này thuộc về khía cạnh quản lý nguồn nhân lực (tuyển dụng, sử dụng, đào tạo phát
triển). Mặt khác, pháp luật khi quy định trách nhiệm của công chức thiếu cụ thể, rõ
24
ràng và không ít trường hợp lại chung chung, cơ quan nào, vị trí nào cũng đúng. Có
thể thấy rất rõ trong nhiều lĩnh vực quản lý khi nói về sự buông lỏng quản lý đất
đai, nhiều nhà quản lý nói như đó là công việc của ai, phê phán yếu kém, hạn chế,
buông lỏng. Các nhà quản lý cũng sẵn sàng phê bình, chỉ trích những hạn chế yếu
kém, nhưng không thực sự nhận biết được đó thuộc về trách nhiệm của họ.
Trách nhiệm của công chức gắn liền với từng vị trí mà công chức đó đảm
nhận. Cần chú ý rằng, vị trí càng cao trách nhiệm càng lớn. Và khi không thực hiện
được những nhiệm vụ, phải chịu trách nhiệm, chịu kỷ luật. Nhưng phía thứ hai này
của trách nhiệm chưa được quan tâm vì hình như không ai chịu trách nhiệm về
những việc đã được nhà nước giao cho họ phải thực hiện (nhiệm vụ) nhưng không
thực hiện hoặc thực hiện yếu kém. Chưa thấy ai chịu trách nhiệm về những việc sai
trái của mình. Quá nhiều vấn đề xảy ra những sai phạm, nhưng không thấy ai chịu
trách nhiệm với những sai phạm đó.
Nhiệm vụ luôn gắn liền với quyền hạn. Tức nhà nước sẽ trao cho từng vị trí
và cá nhân đảm nhận các vị trí đó những quyền hạn nhất định. Đó chính là những gì
nhà nước cho phép làm để cá nhân công chức thực hiện được nhiệm vụ được giao.
Muốn quản lý tốt đất đai, nhà nước trao cho các nhà quản lý những quyền nhất định,
bao gồm cả quyền cưỡng chế; cho phép, kiểm tra. Đồng thời pháp luật cũng quy
định cách thức kiểm soát việc sử dụng quyền hạn đó nhằm thực hiện nhiệm vụ hay
nhằm mục tiêu khác. Trong trường hợp sử dụng sai quyền hạn cũng như lạm dụng
quyền hạn đó không phải để thực thi nhiệm vụ mà nhằm đem lại lợi ích riêng cho
chính những người có quyền hạn đó phải bị xử lý.
(5) Chịu trách nhiệm và xử lý vi phạm kỷ luật thực thi công việc
Trong nhiều văn bản pháp luật của các nước, khi đưa ra các chuẩn mực về
giá trị đạo đức và chuẩn mực hành vi, những chế tài để xử lý cũng được bàn đến.
Tuy nhiên, đây là một vấn đề khá nhạy cảm. Đây là một khía cạnh thứ 2 của đạo
đức mang tính pháp luật. Điều này nhằm ràng buộc công chức khi thi hành công vụ
phải luôn quan tâm, chăm lo đến những quy định của pháp luật có liên quan.
Mối quan hệ giữa nhiệm vụ và quyền hạn được sử dụng để thực hiện được
25
nhiệm vụ là một mối quan hệ rất phức tạp và nếu không có những cơ chế “chịu
trách nhiệm” cụ thể, sẽ không thể giải quyết, ngăn chặn lạm dụng quyền hạn để
mưu cầu lợi ích. Và trong các trường hợp đó, thuật ngữ “vi phạm đạo đức công vụ”
thường được sử dụng.
Những biểu hiện vi phạm những quy tắc ứng xử chung, mang tính đạo đức
của công chức đã không tạo ra môi trường lành mạnh cho sự phát triển kinh tế; tạo
ra một sự không bình đẳng làm mất, giảm lòng tin của nhân dân đối với nhà nước.
Có những trường hợp, nếu chúng ta không xử lý nghiêm, những kẻ làm mất lòng tin
đó lại tiếp tục tồn tại và mất lòng tin khác. Đó là những biểu hiện: Cẩu thả, Lãng
phí, Hối lộ, Lạm dụng quyền hạn, Tham nhũng…
Từ tất cả những vấn đề nêu trên có thể đưa ra định nghĩa sau đây về đạo đức
công vụ của công chức như sau: Đạo đức công vụ của công chức là một bộ phận đạo
đức công chức, là hệ thống các nguyên tắc, các quy tắc hành vi, xử sự trong công vụ,
nhằm điều chỉnh thái độ, hành vi, cách xử sự, chức trách, bổn phận, nghĩa vụ của cán
bộ, công chức trong hoạt động công vụ (từ khía cạnh chủ quan). Ngoài phạm vi công
vụ thì đạo đức của công chức không trở thành đạo đức công vụ. Từ góc độ khách quan,
đạo đức công vụ của công chức là thái độ, hành vi, cách xử sự, việc thực hiện chức
trách, bổn phận, nghĩa vụ của công chức khi thi hành công vụ.
1.2.2. Quá trình hình thành đạo đức công vụ
Đạo đức công vụ là một hiện tượng xã hội, cũng giống như các hiện tượng
khác, có quá trình hình thành và phát triển của nó. Quá trình hình thành đạo đức
công vụ của công chức có thể chia thành ba giai đoạn.
* Giai đoạn tự phát
Quá trình hình thành đạo đức công vụ cũng giống như quá trình hình thành
đạo đức nói chung. Đó là một quá trình từ nhận thức, ý thức đến tư duy hành động
và cuối cùng được chuẩn hóa thành quy tắc, quy chế và pháp luật của nhà nước.
Nếu đạo đức xã hội là sản phẩm của các hình thái ý thức xã hội, thì đạo đức
công vụ phải là sản phẩm tất yếu của quá trình hình thành và phát triển của các mô
hình nhà nước với những con người cụ thể làm việc cho nhà nước. Mỗi một hình
26
thái xã hội gắn liền với một hình thái nhà nước, những giá trị cốt lõi của hoạt động
bởi chính những con người của nhà nước cũng sẽ thay đổi và cùng với sự thay đổi
đó của giá trị, những hành vi, cách ứng xử và quan hệ để đạt đến chuẩn mực của các
hành giá trị đó cũng thay đổi.
Xã hội loài người trải qua nhiều cuộc cách mạng. Đó là sự thay thế một chế
độ xã hội này bằng một chế độ xã hội khác. Mỗi một chế độ tiếp theo sau vừa mang
tính kế thừa, vừa mang tính phát triển. Điều đó làm cho các giá trị của hoạt động
nhà nước thay đổi theo. Nếu trong xã hội phong kiến, với tư tưởng là “trung quân,
ái quốc”, trung với vua là trung với nước, dân chủ trong hoạt động thực thi công vụ
của nhà nước không được thể hiện qua những chuẩn mực cụ thể mà thông qua các
“khẩu dụ” của vua và cách ứng xử của vua được coi nhu là cách ứng xử “mẫu
mực”. Giai cấp tư sản giành lại chính quyền mong muốn xây dựng một nhà nước
“cộng hòa”. Và điều đó đặt ra những tư duy mới về giá trị và đạo đức. Tư tưởng
pháp quyền; tam quyền phân lập làm theo cho các giá trị hoạt động công vụ cũng
phải thay đổi theo. Giai cấp vô sản đứng lên làm cuộc cách mạng lật đổ giai cấp tư
sản ở một số nước trên thế giới và mong muốn xây dựng một xã hội mới, dựa trên
những quan hệ mới. Quan hệ sản xuất được xác lập trên cơ sở lợi ích và hạnh phúc
của nhân dân lao động; sự công bằng trong hưởng thụ và sự hài hòa giữa lợi ích cá
nhân và lợi ích xa hội; lấy chủ nghĩa nhân đạo cao cả cho việc giải quyết các quan
hệ; quan hệ giữa con người và con người mang tính bình đẳng hơn và chú trọng xây
dựng một nhà nước “của dân, do dân và vì dân đích thực”. Và từ đó tạo ra một nền
tảng mới của “đạo đức vô sản”. Và đó cũng là nền tảng để ra đời một “cơ chế tập
trung, bao cấp” như đã và đang tồn tại ở một số nước.
Những giá trị của công vụ không chỉ được nhìn nhận, xem xét bởi từ trong
các tổ chức nhà nước mà vai trò của nhân dân ngày càng gia tăng đòi hỏi phải thiết
lập và vươn đến những giá trị mới.
Một nhà nước ngày càng dân chủ trong tất cả phương diện; vai trò của nhân
dân ngày càng trở nên yếu tố quan trọng để giám sát các hành vi ứng xử của công
chức có vươn đến giá trị cốt lõi mà công dân mong muốn hay không.
27
* Giai đoạn pháp luật hóa các giá trị đạo đức công vụ
Đạo đức công vụ tức đạo đức của người làm việc cho nhà nước nói chung và
công chức nói riêng khi thực thi công việc nhà nước giao cho họ. Tùy thuộc vào pháp
luật của các nước phân loại người làm việc cho nhà nước (khu vực công nói chung)
mà phạm vi người làm việc cho nhà nước được gọi là công chức sẽ khác nhau.
Trong điều kiện cụ thể của Việt Nam, thuật ngữ công chức đã được quy định
để chỉ một nhóm người cụ thể, nhưng cũng thay đổi theo sự vận động, cải cách hoạt
động quản lý nhà nước. Do đó, khi nói về đạo đức công vụ cũng có thể đề cập đến
những khía cạnh đạo đức cho công chức khi thực thi công việc của họ (nhiệm vụ);
nhưng cũng có thể vận dụng đạo đức thực thi công vụ cho tất cả nhóm người làm
việc cho nhà nước.
Trào lưu chung của tất cả các nước trên thế giới là phải pháp luật hóa những
giá trị cốt lõi của công vụ (pháp luật về công vụ) và pháp luật hóa những quy tắc,
chuẩn mực giá trị đạo đức và hành vi ứng xử của công chức. Từ các nước phát triển
đến các nước đang và chậm phát triển đã dần dần từng bước đưa ra những giá trị
chuẩn mực cho thực thi công vụ của công chức. Đây cũng là nét khác biệt giữa đạo
đức nói chung và đạo đức mang tính chuẩn mực pháp lý đối với những người thực
thi công việc của nhà nước. Nhiều nước ban hành “chuẩn mực đạo đức công vụ”
dưới hình thức là “chuẩn mực - code”, nhưng có tính pháp lý cao của một văn bản
pháp luật. Điều đó có nghĩa là “giá trị đạo đức” mang tính cưỡng bức thực hiện hơn
là “tự nguyện, cam kết”. Đó cũng là giai đoạn cần thiết khi thực thi công việc của
nhà nước do công chức thực hiện có nhiều nét đặc trưng.
* Giai đoạn tự giác
Quá trình hình thành đạo đức công vụ là một quá trình phát triển nhận thức
từ tự phát (đạo đức cá nhân, đạo đức xã hội) đến thể chế hóa thành pháp luật của
nhà nước và cuối cùng phải nâng lên theo chuẩn mực đạo đức mang tính tự giác. Ba
giai đoạn phát triển của hình thành đạo đức công vụ có ý nghĩa khác nhau, nhưng
phải hướng đến đích cuối cùng là tự giác trong việc thực hiện các hành vi đạo đức
mang ý nghĩa đặc trưng cho công vụ. Đây cũng là điều mà nhiều nước trên thế giới
28
phấn đấu hướng đến. Khó có thể kiểm soát mọi hoạt động của công chức bằng công
cụ pháp luật, vì tính đa dạng, tính toàn diện của hoạt động công vụ. Nếu thiếu tự
giác, công chức sẽ “thiên vị, lợi ích riêng trên nền tảng công vụ” và khó có thể phát
hiện. Phải làm cho công chức thấm nhuần những tư tưởng, giá trị và chuẩn mực của
đạo đức công chức giống như “con chiên ngoan đạo”, mọi nơi mọi lúc đều tự giác
thực hiện, không cần một “phong trào”. Đạo đức công vụ phải được chuẩn hóa
thành pháp luật và phải huấn luyện, dạy công chức “ngấm sâu” vào họ những ý
niệm, những khái niệm và những cách thức xử lý. Và hy vọng sau nhiều năm, đạo
đức công vụ trở thành yếu tố tự giác.
Từ quan điểm xây dựng nhà nước pháp quyền, giai đoạn hiện nay phải là giai
đoạn ban hành và thực thi những chuẩn mực đạo đức không chỉ là những quy định
có tính “chung” mà phải là những hành vi cụ thể. Đạo đức công vụ không phải chỉ
nói về những điều cấm, những gì phải tạo ra mà phải cụ thể hóa thành những hành
vi cụ thể. Đây mới chính là những biểu hiện của đạo đức được giám sát. Không
được sử dụng giờ làm việc công cho việc riêng chỉ là kết quả. Do đó, phải thể hiện
bằng thước đo, hành động cụ thể.
Những quy định mang tính chuẩn mực cho các hành vi ứng xử của công
chức khi thực thi công việc của nhà nước giao cho họ trên các văn bản pháp luật chỉ
mới là một khía cạnh đạo đức công vụ. Vấn đề quan trọng chính là những cơ chế để
thực hiện được những giá trị chuẩn mực đó.
Trước hết, phải cho tất cả công chức hiểu rõ bản chất, nội dung và các tiêu
chuẩn của những chuẩn mực hành vi đó. Đây có thể coi là điều kiện tiên quyết của để
“chuẩn mực đạo đức công vụ” có hiệu lực. Chúng ta có nhiều điều không được làm,
nhưng chỉ có những nhà hàn lâm, giáo viên đi dạy nói về những điều đó, nhưng chính
đối với những người thực thi công việc của nhà nước giao cho họ, ít khi hiểu, thuộc
và luôn luôn nhớ khi tiến hành bất cứ hoạt động nào. Điều này xảy ra không chỉ đối
với những “chuẩn mực đạo đức” mà ngay cả không ít chuẩn mực chuyên môn, thủ
tục khác. Công chức thực thi công việc nhà nước giao cho “không nắm luật, quy định
liên quan đến công việc đó” không phải là trường hợp không phổ biến.
29
Chuẩn mực quy định về hành vi ứng xử, giao tiếp hay các giá trị cốt lõi mà
công vụ phải hướng đến phải gắn liền chặt chẽ với mọi cán bộ, công chức trong quá
trình thực thi công việc của nhà nước giao cho họ. Họ phải được đào tạo, hướng dẫn
để hiểu rõ nội hàm của những chuẩn mực đó. Một trong những giá trị cốt lõi thường
được các nước nêu ra là “liêm chính” nhưng lại không chỉ rõ nội hàm cho công
chức hiểu để đối chiếu, thực hiện. Điều này chính là sự hạn chế của những người
soạn thảo ra các “chuẩn mực đạo đức”, nhưng thiếu giải thích, hướng dẫn họ cụ thể
về nội hàm. Hiện chúng ta chỉ mới có “khung luật” chứ chưa phải “luật chi tiết, luật
giải thích”. Ví dụ, trong chuẩn mực đạo đức của công chức về kê khai tài sản, cần
phải cụ thể hóa thành nhiều điều “quy định tất cả những lợi ích hợp pháp, lợi nhuận
của mọi hoạt động trên thị trường chứng khoán, cho thuê bất động sản, góp vốn đầu
tư,… đều phải kê khai hàng năm và ngay cả lợi ích có được của những người có
liên quan như vợ, chồng, con cái và người thân cũng phải được quan tâm để đưa
vào xem xét”. Điều này sẽ tạo cho công chức biết những gì thuộc phạm trù chuẩn
mực hành vi đạo đức quy định.
Khía cạnh thứ hai của hiệu lực của chuẩn mực đạo đức thuộc về bộ phận của
những nhà quản lý các cấp trong bộ máy nhà nước. Họ có thể là những người đứng
đầu nhà nước, chính phủ đến các cấp quản lý thấp nhất trong bộ máy nhà nước. Đây
là những người theo phong cách “lãnh đạo nêu gương”, phải là những người “tuân
thủ những điều quy định của pháp luật” cũng như những chuẩn mực đạo đức của
các văn bản pháp luật về đạo đức. Đây là điều cực kỳ quan trọng. Nhưng đồng thời
đây cũng là điều đã và đang đòi hỏi phải sự nỗ lực lớn của các nhà quản lý.
Thực tế của nhiều lĩnh vực đạo đức cũng như đạo đức công vụ, vấn đề cơ
bản vẫn là “cam kết mang tự nguyện của việc tuân thủ những giá trị đạo đức” của tổ
chức, cộng đồng, xã hội và công vụ. Ý thức đạo đức trở thành nền tảng quan trọng
của hành vi, hoạt động của cá nhân. Cần phải làm cho mỗi cán bộ, công chức phải
có “năng lực đạo đức”. Đây là một trong những khía cạnh cần và đủ cho một chuẩn
mực đạo đức có hiệu lực.
Công chức khi thực thi công vụ phải trở thành một người thành thạo trong
30
công việc đưa ra những quyết định mang “giá trị đạo đức công vụ”, tư vấn, tham
mưu cho lãnh đạo phải dựa trên một chuẩn mực “vô tư, không vụ lợi”. Thực thi các
công vụ phải dựa trên nguyên tắc tự giác là tôn trọng pháp luật và hỗ trợ công dân
tôn trọng pháp luật. Đây chính là những yếu tố thể hiện công chức trong thi hành
công vụ có năng lực đạo đức hay không. Công chức khi thi hành công vụ, xét trên
một phương diện của năng lực đạo đức, phải là người “tuân thủ pháp luật” và hỗ trợ
để người dân tuân thủ pháp luật. Nhưng trên thực tế, năng lực này của công chức
khi thi hành công vụ còn hạn chế.
Đây là một trong những nội dung của nhiều cuộc cải cách hành chính trên
thế giới. Nhiều nước (trong đó có Việt Nam) mong muốn xây dựng một môi trường
hoạt động của hành chính nhà nước là nền hành chính phải được tổ chức thành một
hệ thống thống nhất ổn định, hoạt động thông suốt, trên cơ sở phân công, phân cấp và
chế độ trách nhiệm rành mạch, có kỷ cương nghiêm ngặt, cơ quan hành chính và cán
bộ, công chức nhà nước chịu sự giám sát chặt chẽ của nhân dân. Áp dụng các cơ chế,
biện pháp hữu hiệu ngăn ngừa những hành vi mất dân chủ, tự do, tùy tiện, quan liêu,
tham nhũng, sách nhiễu, gây phiền hà cho dân [7].
Trên thực tế, để bộ máy hành chính nhà nước vận hành trong môi trường đạo
đức và hướng đến các giá trị cốt lõi như luật công vụ của các nước đã ghi nhận:
- Trước hết, trong môi trường đạo đức đó, không có một lý do gì để đưa ra
các quyết định trái pháp luật và tất cả các quyết định phải được dựa theo luật. Giá trị
của công vụ chính là “tuân thủ pháp luật”.
- Hai là, công chức khi liên quan đến những vấn đề mang tính “sai lệch” về
đạo đức, tức làm cho môi trường hoạt động của hành chính nhà nước bị xấu đi,
phải giải quyết tích cực ngay. Không thể để “xem sao”, nếu không sao có thể
“nhận phong bì”.
- Ba là, phải công khai những “hành vi thiếu đạo đức” của tất cả các loại công
chức và bảo vệ một cách tích cực những ai phát hiện ra những người tố giác. Đây là
một trong những vấn đề cần được quan tâm. Luật Phòng chống tham nhũng cũng đã có
những điều khoản bảo vệ như vậy, nhưng đó chỉ mới trên khía cạnh “giấy tờ”.
31
- Bốn là, một hình thức “nhằm kiểm toán hoạt động” của công chức khi thi
hành công vụ gắn liền với những “hành vi vi phạm chuẩn mực đạo đức hay giá trị
cốt lõi”. Có khá nhiều lĩnh vực mà tính “liêm chính” có thể dễ bị vi phạm. Nhiều
hoạt động thực thi công vụ của công chức như quản lý tài chính công; đấu thầu các
dự án bằng vốn ngân sách nhà nước; các hoạt động liên quan đến quản lý nguồn
nhân lực, đều là những lĩnh vực rất đáng quan tâm về “liêm chính”. Các nước đều
có pháp luật về vấn đề này nhưng công chức và sự tuân thủ các quy định pháp luật
và đó cũng chính là “pháp luật đạo đức” thường có những hẫng hụt. Xóa bỏ những
“lỗ hổng” đó đòi hỏi phải có hoạt động “kiểm toán cũng phải rất liêm chính”.
- Năm là, quản lý nguồn nhân lực trong khu vực nhà nước hay quản lý cán
bộ, công chức thường được quy định trong văn bản pháp luật. Tuy nhiên, việc quy
định quá chung, và quá nhẹ sẽ không có tác dụng răn đe và đòi hỏi “sự chấp hành
nghiêm chỉnh”. Luật Cán bộ, công chức cũng đưa ra 5 mức độ xử lý kỷ luật công
chức, nhưng thực tế có lẽ công chức rơi vào mức độ thứ nhất, hai là chủ yếu. Nhiều
vấn đề liên quan đến vi phạm của công chức trong hoạt động đấu thầu, hoạt động
quản lý nguồn nhân lực, cũng chỉ dừng lại ở khiển trách và cảnh cáo. Mặc dù chính
sách cán bộ của Đảng và Nhà nước ta “rất khoan dung và độ lượng với cán bộ, công
chức”, nhưng muốn xây dựng một nhà nước pháp quyền, đích thực những con
người cầm pháp luật phải “tuyệt đối không được vi phạm pháp luật”. Do đó, những
vi phạm các quy định “pháp luật”, cần phải được xử lý nghiêm khắc bằng việc
“không được làm cho nhà nước”
- Sáu là, yếu tố tham gia của nhân dân trong hoạt động quản lý nhà nước là
một trong tám yếu tố của việc hướng đến xây dựng một mô hình quản trị nhà nước
tốt. Muốn pháp luật về đạo đức công vụ có hiệu lực, cần phải mở rộng cơ chế
“quyền của công dân như là một chủ thể”. Họ có quyền: kiến nghị, yêu cầu, tố cáo,
khiếu nại và khiếu kiện. Cần có một cơ chế bảo đảm tính pháp quyền của quan hệ
giữa công dân và nhà nước cũng như công chức nhà nước trong việc giải quyết các
đề xuất của công dân.
32
Kết luận chƣơng 1
Thống nhất quan điểm về công vụ, công chức, đạo đức công chức làm cơ sở
để nghiên cứu, đánh giá về đạo đức công vụ trong nhà nước pháp quyền XHCN
Việt Nam là việc làm cần thiết. Vì nếu không xác định rõ, thì mọi điều viết về đạo
đức công vụ cũng không có tính xác định. Đạo đức công vụ của công chức là một
bộ phận đạo đức công chức, là hệ thống các nguyên tắc, các quy tắc hành vi, xử sự
trong công vụ, nhằm điều chỉnh thái độ, hành vi, cách xử sự, chức trách, bổn phận,
nghĩa vụ của cán bộ, công chức trong hoạt động công vụ. Đạo đức công vụ là một
hiện tượng xã hội, cũng giống như các hiện tượng khác, có quá trình hình thành và
phát triển của nó. Đạo đức công vụ trước hết được hình thành từ đạo đức cá nhân;
hình thành từ khía cạnh đạo đức xã hội công chức; đạo đức công vụ là đạo đức nghề
nghiệp đặc biệt đồng thời đạo đức công vụ là sự tổng hòa của hai nhóm đạo đức khi
thực thi công việc của công chức và tuân thủ pháp luật.
Vấn đề đạo đức trong nền công vụ là một nội dung được quan tâm của Nhà
nước. Bởi vì, mọi quyền lực của Nhà nước được thực thi phản ánh qua nền công vụ;
và hoạt động công vụ nếu không có những tiêu chuẩn đạo đức làm chuẩn mực thì
uy tín của Nhà nước sẽ không thể có, nếu có cũng sẽ mờ nhạt. Về bản chất thì
quyền lực của Nhà nước chính là uy tín của nền công vụ, trong đó được phản ánh
qua một trong các nội dung cốt yếu của nền công vụ - đó là đội ngũ công chức. Về
mặt khách quan, đội ngũ công chức của nền công vụ là biểu hiện quyền lực của Nhà
nước, có nghĩa rằng đội ngũ công chức đang thực hiện chức năng, nhiệm vụ quyền
lực Nhà nước, đại diện quyền lực của Nhà nước. Về mặt chủ quan, đội ngũ công
chức cần phải có các chuẩn mực đạo đức để thông qua đó đội ngũ công chức mới tự
rèn luyện và khép mình vào khuôn khổ, khuôn khổ đó được phản ảnh và được thể
hiện chính là hiệu quả quản lý của quản lý Nhà nước. Chính vì vậy, Nhà nước cần
thiết phải định ra các chuẩn mực đạo đức trong nền công vụ của mình.
33
Chương 2
THỰC TRẠNG ĐẠO ĐỨC CÔNG VỤ Ở VIỆT NAM
VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
Đạo đức công vụ là nhân tố điều chỉnh hành vi, cách xử sự, thái độ của công
chức trong hoạt động công vụ, được pháp luật thể chế hóa thành các quy tắc pháp
lý. Đạo đức công vụ của công chức có ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả hoạt động
của nền công vụ nhà nước, vì vậy việc đánh giá thực trạng đạo đức công vụ của
công chức được đánh giá thông sự điều chỉnh của pháp luật về đạo đức công vụ, qua
kết quả phục vụ của của nền công vụ và những khiếm khuyết hạn chế của nó.
2.1. Thực trạng sự điều chỉnh của pháp luật về đạo đức công vụ ở Việt Nam
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển chế định đạo đức công vụ trong
pháp luật Việt Nam
Cùng với sự ra đời Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ngày nay là Nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là sự ra đời của hệ thống pháp luật mới.
Trong hệ thống pháp luật mới này xuất hiện và ngày càng hoàn thiện hệ thống các
quy phạm pháp luật về công chức, công vụ. Tất nhiên, nhiều nguyên tắc, chuẩn mực
đạo đức mới đã được thể chế hóa, chuyển hóa thành những quy phạm pháp luật,
chuẩn mực hành vi của công chức trong thi hành công vụ. Điều này đáp ứng ngày
càng tốt hơn nhu cầu xây dựng một nền công vụ mới, gắn với một Nhà nước của
dân, do dân và vì dân.
Ngay từ năm 1950, trong điều kiện khó khăn, gian khổ của công cuộc kháng
chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh 76/SL ngày 20/5/1950 ban hành Quy
chế công chức. Văn bản lịch sử này có thể nói là lần đầu tiên Nhà nước Việt Nam
Dân chủ cộng hòa ban hành một hệ thống các quy phạm pháp luật khá hoàn chỉnh
làm cơ sở pháp lý cho việc xây dựng đội ngũ công chức cách mạng Việt Nam.
Trong văn bản này, nội dung đạo đức công vụ cũng đã được thể hiện rất đậm nét:
Công chức Việt Nam phải đem tất cả sức lực và tâm trí, theo đúng
đường lối của Chính phủ và nhằm lợi ích của nhân dân mà làm việc.
Công chức Việt Nam phải phục vụ nhân dân, trung thành với
Luận văn: Đạo đức công vụ trong nhà nước pháp quyền Việt Nam
Luận văn: Đạo đức công vụ trong nhà nước pháp quyền Việt Nam
Luận văn: Đạo đức công vụ trong nhà nước pháp quyền Việt Nam
Luận văn: Đạo đức công vụ trong nhà nước pháp quyền Việt Nam
Luận văn: Đạo đức công vụ trong nhà nước pháp quyền Việt Nam
Luận văn: Đạo đức công vụ trong nhà nước pháp quyền Việt Nam
Luận văn: Đạo đức công vụ trong nhà nước pháp quyền Việt Nam
Luận văn: Đạo đức công vụ trong nhà nước pháp quyền Việt Nam
Luận văn: Đạo đức công vụ trong nhà nước pháp quyền Việt Nam
Luận văn: Đạo đức công vụ trong nhà nước pháp quyền Việt Nam
Luận văn: Đạo đức công vụ trong nhà nước pháp quyền Việt Nam
Luận văn: Đạo đức công vụ trong nhà nước pháp quyền Việt Nam
Luận văn: Đạo đức công vụ trong nhà nước pháp quyền Việt Nam
Luận văn: Đạo đức công vụ trong nhà nước pháp quyền Việt Nam
Luận văn: Đạo đức công vụ trong nhà nước pháp quyền Việt Nam
Luận văn: Đạo đức công vụ trong nhà nước pháp quyền Việt Nam
Luận văn: Đạo đức công vụ trong nhà nước pháp quyền Việt Nam
Luận văn: Đạo đức công vụ trong nhà nước pháp quyền Việt Nam
Luận văn: Đạo đức công vụ trong nhà nước pháp quyền Việt Nam
Luận văn: Đạo đức công vụ trong nhà nước pháp quyền Việt Nam
Luận văn: Đạo đức công vụ trong nhà nước pháp quyền Việt Nam
Luận văn: Đạo đức công vụ trong nhà nước pháp quyền Việt Nam
Luận văn: Đạo đức công vụ trong nhà nước pháp quyền Việt Nam
Luận văn: Đạo đức công vụ trong nhà nước pháp quyền Việt Nam
Luận văn: Đạo đức công vụ trong nhà nước pháp quyền Việt Nam
Luận văn: Đạo đức công vụ trong nhà nước pháp quyền Việt Nam
Luận văn: Đạo đức công vụ trong nhà nước pháp quyền Việt Nam
Luận văn: Đạo đức công vụ trong nhà nước pháp quyền Việt Nam
Luận văn: Đạo đức công vụ trong nhà nước pháp quyền Việt Nam
Luận văn: Đạo đức công vụ trong nhà nước pháp quyền Việt Nam
Luận văn: Đạo đức công vụ trong nhà nước pháp quyền Việt Nam
Luận văn: Đạo đức công vụ trong nhà nước pháp quyền Việt Nam
Luận văn: Đạo đức công vụ trong nhà nước pháp quyền Việt Nam
Luận văn: Đạo đức công vụ trong nhà nước pháp quyền Việt Nam
Luận văn: Đạo đức công vụ trong nhà nước pháp quyền Việt Nam
Luận văn: Đạo đức công vụ trong nhà nước pháp quyền Việt Nam
Luận văn: Đạo đức công vụ trong nhà nước pháp quyền Việt Nam
Luận văn: Đạo đức công vụ trong nhà nước pháp quyền Việt Nam
Luận văn: Đạo đức công vụ trong nhà nước pháp quyền Việt Nam
Luận văn: Đạo đức công vụ trong nhà nước pháp quyền Việt Nam
Luận văn: Đạo đức công vụ trong nhà nước pháp quyền Việt Nam
Luận văn: Đạo đức công vụ trong nhà nước pháp quyền Việt Nam
Luận văn: Đạo đức công vụ trong nhà nước pháp quyền Việt Nam
Luận văn: Đạo đức công vụ trong nhà nước pháp quyền Việt Nam
Luận văn: Đạo đức công vụ trong nhà nước pháp quyền Việt Nam
Luận văn: Đạo đức công vụ trong nhà nước pháp quyền Việt Nam
Luận văn: Đạo đức công vụ trong nhà nước pháp quyền Việt Nam
Luận văn: Đạo đức công vụ trong nhà nước pháp quyền Việt Nam
Luận văn: Đạo đức công vụ trong nhà nước pháp quyền Việt Nam
Luận văn: Đạo đức công vụ trong nhà nước pháp quyền Việt Nam
Luận văn: Đạo đức công vụ trong nhà nước pháp quyền Việt Nam
Luận văn: Đạo đức công vụ trong nhà nước pháp quyền Việt Nam
Luận văn: Đạo đức công vụ trong nhà nước pháp quyền Việt Nam
Luận văn: Đạo đức công vụ trong nhà nước pháp quyền Việt Nam
Luận văn: Đạo đức công vụ trong nhà nước pháp quyền Việt Nam
Luận văn: Đạo đức công vụ trong nhà nước pháp quyền Việt Nam
Luận văn: Đạo đức công vụ trong nhà nước pháp quyền Việt Nam
Luận văn: Đạo đức công vụ trong nhà nước pháp quyền Việt Nam
Luận văn: Đạo đức công vụ trong nhà nước pháp quyền Việt Nam
Luận văn: Đạo đức công vụ trong nhà nước pháp quyền Việt Nam
Luận văn: Đạo đức công vụ trong nhà nước pháp quyền Việt Nam
Luận văn: Đạo đức công vụ trong nhà nước pháp quyền Việt Nam
Luận văn: Đạo đức công vụ trong nhà nước pháp quyền Việt Nam
Luận văn: Đạo đức công vụ trong nhà nước pháp quyền Việt Nam
Luận văn: Đạo đức công vụ trong nhà nước pháp quyền Việt Nam
Luận văn: Đạo đức công vụ trong nhà nước pháp quyền Việt Nam
Luận văn: Đạo đức công vụ trong nhà nước pháp quyền Việt Nam
Luận văn: Đạo đức công vụ trong nhà nước pháp quyền Việt Nam
Luận văn: Đạo đức công vụ trong nhà nước pháp quyền Việt Nam
Luận văn: Đạo đức công vụ trong nhà nước pháp quyền Việt Nam
Luận văn: Đạo đức công vụ trong nhà nước pháp quyền Việt Nam
Luận văn: Đạo đức công vụ trong nhà nước pháp quyền Việt Nam
Luận văn: Đạo đức công vụ trong nhà nước pháp quyền Việt Nam

More Related Content

What's hot

Thực Trạng Và Giải Pháp Nâng Cao Công Tác Tuyển Dụng Viên Chức Tại Sở Nội Vụ ...
Thực Trạng Và Giải Pháp Nâng Cao Công Tác Tuyển Dụng Viên Chức Tại Sở Nội Vụ ...Thực Trạng Và Giải Pháp Nâng Cao Công Tác Tuyển Dụng Viên Chức Tại Sở Nội Vụ ...
Thực Trạng Và Giải Pháp Nâng Cao Công Tác Tuyển Dụng Viên Chức Tại Sở Nội Vụ ...PinkHandmade
 
Luận văn: Tăng cường quản lý nhà nước đối với cán bộ, công chức
Luận văn: Tăng cường quản lý nhà nước đối với cán bộ, công chức Luận văn: Tăng cường quản lý nhà nước đối với cán bộ, công chức
Luận văn: Tăng cường quản lý nhà nước đối với cán bộ, công chức Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 

What's hot (20)

Luận văn: Cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở địa phương, HOT
Luận văn: Cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở địa phương, HOTLuận văn: Cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở địa phương, HOT
Luận văn: Cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở địa phương, HOT
 
Luận văn: Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã, HAY!
Luận văn: Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã, HAY!Luận văn: Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã, HAY!
Luận văn: Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã, HAY!
 
Luận văn: Đánh giá cán bộ, công chức cấp huyện tại TP Đà Nẵng
Luận văn: Đánh giá cán bộ, công chức cấp huyện tại TP Đà NẵngLuận văn: Đánh giá cán bộ, công chức cấp huyện tại TP Đà Nẵng
Luận văn: Đánh giá cán bộ, công chức cấp huyện tại TP Đà Nẵng
 
Luận văn: Cơ chế bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật ở Việt Nam
Luận văn: Cơ chế bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật ở Việt NamLuận văn: Cơ chế bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật ở Việt Nam
Luận văn: Cơ chế bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật ở Việt Nam
 
Luận văn: Thực hiện chính sách cải cách hành chính tại Lai Châu
Luận văn: Thực hiện chính sách cải cách hành chính tại Lai ChâuLuận văn: Thực hiện chính sách cải cách hành chính tại Lai Châu
Luận văn: Thực hiện chính sách cải cách hành chính tại Lai Châu
 
Luận văn: Pháp luật về thanh tra trong lĩnh vực lao động, HAY
Luận văn: Pháp luật về thanh tra trong lĩnh vực lao động, HAYLuận văn: Pháp luật về thanh tra trong lĩnh vực lao động, HAY
Luận văn: Pháp luật về thanh tra trong lĩnh vực lao động, HAY
 
Luận văn: Thực hiện văn hoá công sở tại uỷ ban nhân dân Huyện Ứng Hoà, HAY
Luận văn: Thực hiện văn hoá công sở tại uỷ ban nhân dân Huyện Ứng Hoà, HAYLuận văn: Thực hiện văn hoá công sở tại uỷ ban nhân dân Huyện Ứng Hoà, HAY
Luận văn: Thực hiện văn hoá công sở tại uỷ ban nhân dân Huyện Ứng Hoà, HAY
 
Thực Trạng Và Giải Pháp Nâng Cao Công Tác Tuyển Dụng Viên Chức Tại Sở Nội Vụ ...
Thực Trạng Và Giải Pháp Nâng Cao Công Tác Tuyển Dụng Viên Chức Tại Sở Nội Vụ ...Thực Trạng Và Giải Pháp Nâng Cao Công Tác Tuyển Dụng Viên Chức Tại Sở Nội Vụ ...
Thực Trạng Và Giải Pháp Nâng Cao Công Tác Tuyển Dụng Viên Chức Tại Sở Nội Vụ ...
 
Đề tài: Năng lực thực thi công vụ của công chức cơ quan, HOT
Đề tài: Năng lực thực thi công vụ của công chức cơ quan, HOTĐề tài: Năng lực thực thi công vụ của công chức cơ quan, HOT
Đề tài: Năng lực thực thi công vụ của công chức cơ quan, HOT
 
Luận văn: Cải cách thủ tục hành chính tại tỉnh Nam Định, HAY
Luận văn: Cải cách thủ tục hành chính tại tỉnh Nam Định, HAYLuận văn: Cải cách thủ tục hành chính tại tỉnh Nam Định, HAY
Luận văn: Cải cách thủ tục hành chính tại tỉnh Nam Định, HAY
 
Luận văn: Quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước, HOT
Luận văn: Quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước, HOTLuận văn: Quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước, HOT
Luận văn: Quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước, HOT
 
Luận văn: Tổ chức hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh, HOT
Luận văn: Tổ chức hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh, HOTLuận văn: Tổ chức hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh, HOT
Luận văn: Tổ chức hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh, HOT
 
Luận văn: Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức hành chính, HOT
Luận văn: Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức hành chính, HOTLuận văn: Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức hành chính, HOT
Luận văn: Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức hành chính, HOT
 
Luận văn: Quản lý nhà nước về đào tạo bồi dưỡng cán bộ công chức
Luận văn: Quản lý nhà nước về đào tạo bồi dưỡng cán bộ công chứcLuận văn: Quản lý nhà nước về đào tạo bồi dưỡng cán bộ công chức
Luận văn: Quản lý nhà nước về đào tạo bồi dưỡng cán bộ công chức
 
Đề tài: Trách nhiệm của công chức trong hoạt động công vụ, HOT
Đề tài: Trách nhiệm của công chức trong hoạt động công vụ, HOTĐề tài: Trách nhiệm của công chức trong hoạt động công vụ, HOT
Đề tài: Trách nhiệm của công chức trong hoạt động công vụ, HOT
 
Luận văn: Tạo động lực làm việc cho công chức tại Trung tâm tin học
Luận văn: Tạo động lực làm việc cho công chức tại Trung tâm tin họcLuận văn: Tạo động lực làm việc cho công chức tại Trung tâm tin học
Luận văn: Tạo động lực làm việc cho công chức tại Trung tâm tin học
 
Luận văn thạc sĩ: Tạo động lực làm việc cho công chức cấp xã, HOT
Luận văn thạc sĩ: Tạo động lực làm việc cho công chức cấp xã, HOTLuận văn thạc sĩ: Tạo động lực làm việc cho công chức cấp xã, HOT
Luận văn thạc sĩ: Tạo động lực làm việc cho công chức cấp xã, HOT
 
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOTLuận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
 
Luận văn: Quản lý nhà nước về giáo dục nghề nghiệp tại Bình Thuận
Luận văn: Quản lý nhà nước về giáo dục nghề nghiệp tại Bình ThuậnLuận văn: Quản lý nhà nước về giáo dục nghề nghiệp tại Bình Thuận
Luận văn: Quản lý nhà nước về giáo dục nghề nghiệp tại Bình Thuận
 
Luận văn: Tăng cường quản lý nhà nước đối với cán bộ, công chức
Luận văn: Tăng cường quản lý nhà nước đối với cán bộ, công chức Luận văn: Tăng cường quản lý nhà nước đối với cán bộ, công chức
Luận văn: Tăng cường quản lý nhà nước đối với cán bộ, công chức
 

Similar to Luận văn: Đạo đức công vụ trong nhà nước pháp quyền Việt Nam

Thể chế đào tạo, bồi dưỡng công chức lãnh đạo cấp phòng.pdf
Thể chế đào tạo, bồi dưỡng công chức lãnh đạo cấp phòng.pdfThể chế đào tạo, bồi dưỡng công chức lãnh đạo cấp phòng.pdf
Thể chế đào tạo, bồi dưỡng công chức lãnh đạo cấp phòng.pdfqldnsctst
 
Tổ Chức Thực Hiện Pháp Luật Về Công Chức - Từ Thực Tiễn Huyện Thanh Oai, Thàn...
Tổ Chức Thực Hiện Pháp Luật Về Công Chức - Từ Thực Tiễn Huyện Thanh Oai, Thàn...Tổ Chức Thực Hiện Pháp Luật Về Công Chức - Từ Thực Tiễn Huyện Thanh Oai, Thàn...
Tổ Chức Thực Hiện Pháp Luật Về Công Chức - Từ Thực Tiễn Huyện Thanh Oai, Thàn...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Tổ Chức Thực Hiện Pháp Luật Về Công Chức - Từ Thực Tiễn Huyện Thanh Oai, Thàn...
Tổ Chức Thực Hiện Pháp Luật Về Công Chức - Từ Thực Tiễn Huyện Thanh Oai, Thàn...Tổ Chức Thực Hiện Pháp Luật Về Công Chức - Từ Thực Tiễn Huyện Thanh Oai, Thàn...
Tổ Chức Thực Hiện Pháp Luật Về Công Chức - Từ Thực Tiễn Huyện Thanh Oai, Thàn...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Luận văn: Đánh giá công chức theo pháp luật Việt Nam hiện nay
Luận văn: Đánh giá công chức theo pháp luật Việt Nam hiện nayLuận văn: Đánh giá công chức theo pháp luật Việt Nam hiện nay
Luận văn: Đánh giá công chức theo pháp luật Việt Nam hiện nayViết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 
Thực trạng pháp luật và thực trạng năng lực của Thẩm phán trong xét xử vụ án ...
Thực trạng pháp luật và thực trạng năng lực của Thẩm phán trong xét xử vụ án ...Thực trạng pháp luật và thực trạng năng lực của Thẩm phán trong xét xử vụ án ...
Thực trạng pháp luật và thực trạng năng lực của Thẩm phán trong xét xử vụ án ...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 

Similar to Luận văn: Đạo đức công vụ trong nhà nước pháp quyền Việt Nam (20)

Luận văn: Tổ chức hoạt động của Thanh tra Sở Giáo dục và Đào tạo
Luận văn: Tổ chức hoạt động của Thanh tra Sở Giáo dục và Đào tạoLuận văn: Tổ chức hoạt động của Thanh tra Sở Giáo dục và Đào tạo
Luận văn: Tổ chức hoạt động của Thanh tra Sở Giáo dục và Đào tạo
 
Trách nhiệm của công chức trong hoạt động công vụ theo pháp luật Việt Nam hiệ...
Trách nhiệm của công chức trong hoạt động công vụ theo pháp luật Việt Nam hiệ...Trách nhiệm của công chức trong hoạt động công vụ theo pháp luật Việt Nam hiệ...
Trách nhiệm của công chức trong hoạt động công vụ theo pháp luật Việt Nam hiệ...
 
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi của người khác gây ra
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi của người khác gây raTrách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi của người khác gây ra
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi của người khác gây ra
 
Thể chế đào tạo, bồi dưỡng công chức lãnh đạo cấp phòng.pdf
Thể chế đào tạo, bồi dưỡng công chức lãnh đạo cấp phòng.pdfThể chế đào tạo, bồi dưỡng công chức lãnh đạo cấp phòng.pdf
Thể chế đào tạo, bồi dưỡng công chức lãnh đạo cấp phòng.pdf
 
Tuyển dụng công chức cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh Đắk Nông
Tuyển dụng công chức cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh Đắk NôngTuyển dụng công chức cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh Đắk Nông
Tuyển dụng công chức cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh Đắk Nông
 
Luận văn: Thanh tra cấp huyện Buôn Đôn, tỉnh Đăk Lăk, HAY
Luận văn: Thanh tra cấp huyện Buôn Đôn, tỉnh Đăk Lăk, HAYLuận văn: Thanh tra cấp huyện Buôn Đôn, tỉnh Đăk Lăk, HAY
Luận văn: Thanh tra cấp huyện Buôn Đôn, tỉnh Đăk Lăk, HAY
 
Luận văn: Thanh tra cấp huyện tại huyện Buôn Đôn, tỉnh Đăk Lăk
Luận văn: Thanh tra cấp huyện tại huyện Buôn Đôn, tỉnh Đăk LăkLuận văn: Thanh tra cấp huyện tại huyện Buôn Đôn, tỉnh Đăk Lăk
Luận văn: Thanh tra cấp huyện tại huyện Buôn Đôn, tỉnh Đăk Lăk
 
Tổ Chức Thực Hiện Pháp Luật Về Công Chức - Từ Thực Tiễn Huyện Thanh Oai, Thàn...
Tổ Chức Thực Hiện Pháp Luật Về Công Chức - Từ Thực Tiễn Huyện Thanh Oai, Thàn...Tổ Chức Thực Hiện Pháp Luật Về Công Chức - Từ Thực Tiễn Huyện Thanh Oai, Thàn...
Tổ Chức Thực Hiện Pháp Luật Về Công Chức - Từ Thực Tiễn Huyện Thanh Oai, Thàn...
 
Tổ Chức Thực Hiện Pháp Luật Về Công Chức - Từ Thực Tiễn Huyện Thanh Oai, Thàn...
Tổ Chức Thực Hiện Pháp Luật Về Công Chức - Từ Thực Tiễn Huyện Thanh Oai, Thàn...Tổ Chức Thực Hiện Pháp Luật Về Công Chức - Từ Thực Tiễn Huyện Thanh Oai, Thàn...
Tổ Chức Thực Hiện Pháp Luật Về Công Chức - Từ Thực Tiễn Huyện Thanh Oai, Thàn...
 
Luận văn: Địa vị pháp lý của công chức cấp xã tại quận 2, HAY
Luận văn: Địa vị pháp lý của công chức cấp xã tại quận 2, HAYLuận văn: Địa vị pháp lý của công chức cấp xã tại quận 2, HAY
Luận văn: Địa vị pháp lý của công chức cấp xã tại quận 2, HAY
 
Luận văn: Thi tuyển công chức hành chính tại TPHCM, HAY, 9đ
Luận văn: Thi tuyển công chức hành chính tại TPHCM, HAY, 9đLuận văn: Thi tuyển công chức hành chính tại TPHCM, HAY, 9đ
Luận văn: Thi tuyển công chức hành chính tại TPHCM, HAY, 9đ
 
Luận văn: Pháp luật về công chức cấp xã ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Pháp luật về công chức cấp xã ở Việt Nam, HOTLuận văn: Pháp luật về công chức cấp xã ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Pháp luật về công chức cấp xã ở Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Tuyển dụng công chức cấp xã Huyện Củ Chi, TPHCM
Luận văn: Tuyển dụng công chức cấp xã Huyện Củ Chi, TPHCMLuận văn: Tuyển dụng công chức cấp xã Huyện Củ Chi, TPHCM
Luận văn: Tuyển dụng công chức cấp xã Huyện Củ Chi, TPHCM
 
Đánh giá công chức trong các cơ quan hành chính tỉnh Quảng Nam
Đánh giá công chức trong các cơ quan hành chính tỉnh Quảng NamĐánh giá công chức trong các cơ quan hành chính tỉnh Quảng Nam
Đánh giá công chức trong các cơ quan hành chính tỉnh Quảng Nam
 
Luận văn: Đánh giá công chức theo pháp luật Việt Nam hiện nay
Luận văn: Đánh giá công chức theo pháp luật Việt Nam hiện nayLuận văn: Đánh giá công chức theo pháp luật Việt Nam hiện nay
Luận văn: Đánh giá công chức theo pháp luật Việt Nam hiện nay
 
Luận văn: Pháp luật về quản lý viên chức thuộc Bộ Tư pháp, HAY
Luận văn: Pháp luật về quản lý viên chức thuộc Bộ Tư pháp, HAYLuận văn: Pháp luật về quản lý viên chức thuộc Bộ Tư pháp, HAY
Luận văn: Pháp luật về quản lý viên chức thuộc Bộ Tư pháp, HAY
 
Luận văn: Giải quyết khiếu nại ở tỉnh Quảng Ngãi, HAY
Luận văn: Giải quyết khiếu nại ở tỉnh Quảng Ngãi, HAYLuận văn: Giải quyết khiếu nại ở tỉnh Quảng Ngãi, HAY
Luận văn: Giải quyết khiếu nại ở tỉnh Quảng Ngãi, HAY
 
Luận văn thạc sĩ:Giải quyết khiếu nại ở tỉnh Quảng Ngãi, HOT
Luận văn thạc sĩ:Giải quyết khiếu nại ở tỉnh Quảng Ngãi, HOTLuận văn thạc sĩ:Giải quyết khiếu nại ở tỉnh Quảng Ngãi, HOT
Luận văn thạc sĩ:Giải quyết khiếu nại ở tỉnh Quảng Ngãi, HOT
 
Thực trạng pháp luật và thực trạng năng lực của Thẩm phán trong xét xử vụ án ...
Thực trạng pháp luật và thực trạng năng lực của Thẩm phán trong xét xử vụ án ...Thực trạng pháp luật và thực trạng năng lực của Thẩm phán trong xét xử vụ án ...
Thực trạng pháp luật và thực trạng năng lực của Thẩm phán trong xét xử vụ án ...
 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và hoàn thiện pháp luật, HOT
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và hoàn thiện pháp luật, HOTTư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và hoàn thiện pháp luật, HOT
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và hoàn thiện pháp luật, HOT
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864

Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docDịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864 (20)

Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.docYếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
 
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.docTừ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
 
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
 
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.docTác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
 
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.docSong Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
 
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.docỨng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
 
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.docVai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
 
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.docThu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
 

Recently uploaded

Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...Học viện Kstudy
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông - Sử 11
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông -  Sử 11cuộc cải cách của Lê Thánh Tông -  Sử 11
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông - Sử 11zedgaming208
 
CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx
CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptxCHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx
CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx22146042
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập PLDC.pdf
200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập  PLDC.pdf200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập  PLDC.pdf
200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập PLDC.pdfdong92356
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa2353020138
 
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxendkay31
 
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tếMa trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tếngTonH1
 
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tếHệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tếngTonH1
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdftohoanggiabao81
 
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hocBai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hocVnPhan58
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXHTư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXHThaoPhuong154017
 

Recently uploaded (20)

Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông - Sử 11
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông -  Sử 11cuộc cải cách của Lê Thánh Tông -  Sử 11
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông - Sử 11
 
CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx
CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptxCHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx
CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập PLDC.pdf
200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập  PLDC.pdf200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập  PLDC.pdf
200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập PLDC.pdf
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
 
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
 
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tếMa trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
 
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tếHệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
 
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hocBai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXHTư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
 

Luận văn: Đạo đức công vụ trong nhà nước pháp quyền Việt Nam

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT BÙI THỊ HỒNG VÂN §¹O §øC C¤NG Vô TRONG NHµ N¦íC PH¸P QUYÒN ë VIÖT NAM Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử Nhà nƣớc và pháp luật Mã số: 60 38 01 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: GS.TSKH. ĐÀO TRÍ ÚC HÀ NỘI - 2014
  • 2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Những kết luận khoa học của Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. NGƯỜI CAM ĐOAN Bùi Thị Hồng Vân
  • 3. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẠO ĐỨC CÔNG VỤ TRONG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM................7 1.1. Công vụ, công chức và đạo đức công chức ..................................... 7 1.1.1. Công vụ ............................................................................................... 7 1.1.2. Công chức .........................................................................................10 1.1.3. Quan niệm về đạo đức công chức.....................................................11 1.2. Đạo đức công vụ ..............................................................................14 1.2.1. Khái niệm và nội dung cơ bản của đạo đức công vụ........................14 1.2.2. Quá trình hình thành đạo đức công vụ..............................................25 Kết luận chƣơng 1 .........................................................................................32 Chƣơng 2: THỰC TRẠNG ĐẠO ĐỨC CÔNG VỤ Ở VIỆT NAM VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ....................................................33 2.1. Thực trạng sự điều chỉnh của pháp luật về đạo đức công vụ ở Việt Nam...........................................................................................33 2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển chế định đạo đức công vụ trong pháp luật Việt Nam..................................................................33 2.1.2. Đạo đức công vụ theo pháp luật Việt Nam hiện nay........................36 2.2. Thực trạng đạo đức công vụ của công chức.................................41 2.2.1. Việc thực hiện trách nhiệm, bổn phận của công chức......................41 2.2.2. Những hạn chế, yếu kém của đạo đức công vụ ................................42
  • 4. 2.2.3. Nguyên nhân hạn chế, yếu kém của đạo đức công vụ......................53 Kết luận chƣơng 2 .........................................................................................60 Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM NÂNG CAO ĐẠO ĐỨC CÔNG VỤ TRONG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM HIỆN NAY.......................................................................................61 3.1. Phƣơng hƣớng nâng cao đạo đức công vụ ở nƣớc ta hiện nay...61 3.1.1. Nâng cao đạo đức công vụ nhằm xây dựng nền hành chính phục vụ nhân dân .......................................................................................61 3.1.2. Nâng cao đạo đức công vụ theo hướng xây dựng nền công vụ chuyên nghiệp và đội ngũ công chức vừa có phẩm chất đạo đức, vừa có trình độ chuyên môn..............................................................65 3.2.1. Pháp điển hóa các giá trị đạo đức công chức thành những cam kết bắt buộc công chức thực hiện trong thực thi công vụ.................72 3.2.2. Xây dựng chế định tuyển dụng và sát hạch công chức thường xuyên ......81 3.2.3. Tăng cường công tác thanh tra công vụ, kiểm tra giám sát, ngăn ngừa và xử phạt vi phạm nhằm nâng cao đạo đức công vụ..............83 3.2.4. Thực hiện trách nhiệm giải trình của công chức trong thực thi công vụ......86 3.2.5. Tăng cường giáo dục đạo đức công vụ.............................................89 3.2.6. Nâng cao đạo đức công vụ trên cơ sở xây dựng chế độ vật chất, phúc lợi xã hội phù hợp.....................................................................94 Kết luận Chƣơng 3........................................................................................99 KẾT LUẬN..................................................................................................100 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................102
  • 5. 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền, cải cách hành chính đòi hỏi xây dựng một nền hành chính chính quy, chuyên nghiệp thực sự là của dân, do dân, vì dân, cùng với quá trình đó là “xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị, có năng lực, có tính chuyên nghiệp cao, tận tụy phục vụ nhân dân”[15]. Những phẩm chất đó như là những biểu hiện tập trung đạo đức công vụ của cán bộ, công chức, viên chức. Quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền và chuyển đổi từ nền hành chính cai quản sang nền hành chính phục vụ thực hiện các dịch vụ công đòi hỏi phải nâng cao đạo đức công vụ của tất cả mọi đối tượng cán bộ, công chức, viên chức khi thực thi công vụ. Trong bối cảnh như vậy, việc nghiên cứu vấn đề Đạo đức công vụ không chỉ có giá trị về mặt khoa học mà còn có ý nghĩa thực tiễn. Sở dĩ như vậy là vì lý do chủ yếu sau đây: Một là: Đạo đức công vụ là vấn đề cơ bản nhất để Nhà nước thực hiện chức năng quản lý xã hội. Có thể nói sau khi xây dựng dựng được hệ thống chính sách đúng đắn, phù hợp với yêu cầu thực tiễn, chức năng quản lý xã hội của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được thực hiện thế nào, hiệu quả, hiệu lực ra sao phụ thuộc đáng kể vào việc thực thi công vụ của đội ngũ công chức nhà nước. Nói cách khác đạo đức công chức trong việc thực thi công vụ có ảnh hưởng quyết định. Vì vậy nâng cao đạo đức công vụ ở nước ta hiện nay là nhiệm vụ cấp bách trong tiến trình cải cách nền hành chính. Hai là: Nhà nước ta luôn xác định nhân tố con người đóng vai trò then chốt trong công cuộc cải cách hành chính, xây dựng được một đội ngũ công chức giỏi về nghiệp vụ và đáp ứng được những chuẩn mực của đạo đức công vụ là một trong những yêu cầu cấp bách góp phần đẩy mạnh cải cách hành chính, xây dựng Nhà nước pháp quyền đồng thời nâng cao đạo đức công vụ còn là một trong những công cụ hữu hiệu phục vụ cho cuộc đấu tranh chống tham nhũng và tiêu cực.
  • 6. 2 Ba là: Trong nhà nước pháp quyền, người dân có vị trí đặc biệt. Xu hướng chung là các chức năng của nhà nước đang hướng tới phục vụ, đáp ứng lợi ích của người dân. Nhà nước Việt Nam là nhà nước của dân, do dân, vì dân, do đó mục tiêu cao nhất là phục vụ nhân dân ngày một tốt hơn. Với bản chất như vậy và để thực hiện mục tiêu đó thì đội ngũ công chức phải thực sự là người có đạo đức. Hơn nữa trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay đòi hỏi phải nâng cao đạo đức công vụ phù hợp với thông lệ quốc tế khi Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng với thế giới. Bốn là: về phương diện thực tiễn, sau 28 năm tiến hành công cuộc đổi mới, bên cạnh những thành tựu đạt được, chúng ta đang đứng trước những thách thức không nhỏ. Tình trạng trách nhiệm và đạo đức công vụ của đội ngũ công chức đang có nhiều vấn đề; suy thoái đạo đức ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức. Đây là vấn đề nhức nhối, gây bức xúc trong nhân dân, trong xã hội và là thách thức lớn đối với sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Đại hội XI của Đảng nhận định: Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn đẩy lùi mà còn tiếp tục diễn biến phức tạp cùng với sự phân hóa giàu nghèo và sự yếu kém trong quản lý, điều hành của nhiều cấp nhiều ngành làm giảm lòng tin của nhân dân với Đảng và nhà nước, đe dọa sự ổn định của đất nước [15]. Như vậy việc nghiên cứu đạo đức công vụ ở nước ta hiện nay để tìm ra phương hướng, giải pháp khắc phục tình trạng này đã trở thành một đòi hỏi bức thiết không chỉ của nền hành chính quốc gia, mà còn là nhu cầu của toàn xã hội. Về phương diện lý luận, mặc dù trong những năm gần đây, chúng ta đã có những công trình, đề tài nghiên cứu về công vụ, công chức, đạo đức cán bộ, công chức. Song từ góc độ của Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật và trong môi trường xây dựng nhà nước pháp quyền để nghiên cứu đạo đức công vụ vẫn còn bỏ
  • 7. 3 ngỏ. Với mong muốn góp thêm ý kiến làm sáng tỏ thêm những vấn đề liên quan đến đạo đức công vụ, học viên mạnh dạn chọn đề tài “Đạo đức công vụ trong nhà nước pháp quyền ở Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học. 2. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 2.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về đạo đức công vụ trong nhà nước pháp quyền; đánh giá thực trạng đạo đức công vụ của công chức ở Việt Nam hiện nay; đề xuất một số phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao đạo đức công vụ của công chức ở nước ta hiện nay. 2.2. Nhiệm vụ của luận văn Để đạt được mục đích nêu trên: đề tài có nhiệm vụ cụ thể sau: - Nghiên cứu các vấn đề lý luận về đạo đức công vụ và pháp luật về đạo đức công vụ trong nhà nước pháp quyền Việt Nam. - Phân tích thực trạng đạo đức công vụ của đội ngũ công chức thời gian qua, từ đó thấy được những hạn chế, yếu kém của nền công vụ nước ta. - Đề xuất một số phương hướng, giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật và nâng cao đạo đức công vụ của đội ngũ công chức nước ta hiện nay. 3. Tính mới và đóng góp của đề tài Luận văn có những đóng góp khoa học mới như sau: - Đưa ra các luận điểm khoa học về đạo đức công vụ của công chức trong nhà nước pháp quyền. - Chỉ ra những hạn chế, yếu kém của đạo đức công vụ của công chức trong quá trình thực thi công vụ và những nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém đó. - Đề xuất được một số phương hướng, giải pháp có căn cứ khoa học, mang tính thực tiễn nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật và nâng cao trách nhiệm công vụ, đạo đức công vụ trong nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. 4. Phạm vi và đối tƣợng nghiên cứu Chủ đề đạo đức công vụ trong nhà nước pháp quyền ở Việt Nam là một chủ đề lớn, bao gồm đạo đức công vụ của cán bộ, công chức, viên chức của đối tượng cá nhân khác khi được nhà nước trao quyền thực thi công vụ. Vì vậy,
  • 8. 4 trong khuôn khổ giới hạn của luận văn thạc sỹ, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu về đạo đức công vụ của công chức hành chính nhà nước. Đây cũng là sự tự giới hạn của việc nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu của đề tài là đạo đức công vụ của đội ngũ công chức trong bộ máy hành chính nhà nước, thông qua các hoạt động thực thi công vụ của công chức. Khi đánh giá thực trạng, luận văn nhấn mạnh hạn chế, yếu kém, nguyên nhân của nó chủ yếu trên các lĩnh vực: thể chế, tổ chức bộ máy, xây dựng và phát triển đội ngũ công chức và chỉ giới hạn trong hoạt động công vụ của công chức từ năm 1986 đến nay. 5. Tổng quan tình hình nghiên cứu thuộc lĩnh vực đề tài Ở nước ta có nhiều đề tài công trình khoa học ở nhiều giác độ, phạm vi, giới hạn khác nhau về vấn đề đạo đức công vụ. Học viên đã tiếp cận một số công trình khoa học về Đạo đức công vụ được công bố như: - Đề tài khoa học cấp bộ “Xây dựng đạo đức cán bộ công chức Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế” của TS. Nguyễn Ngọc Hiến - Học viện hành chính quốc gia, chủ nhiệm đề tài.Công trình này - Tìm hiểu về nền hành chính nhà nước của tác giả Nguyễn Hữu Khiển, năm 2003. - Đạo đức trong nền công vụ của nhóm tác giả Tô tử Hạ, Trần Anh Tuấn, Nguyễn Thị Kim Thảo biên soạn năm 2002; Đề tài này giới thiệu các kinh nghiệm cũng như giải pháp ở các nước trên thế giới và Việt Nam về nâng cao đạo đức trong nền công vụ. - Công vụ, công chức nhà nước của tác giả Phạm Hồng Thái, ấn hành năm 2004. Công trình này tập trung làm rõ những khía cạnh lý luận, pháp lý về công vụ, công chức nhà nước, nhưng công trình không có những luận bàn về đạo đức công vụ, đạo đức công chức trong thi hành công vụ. - Xây dựng đạo đức cán bộ công chức Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, của tác giả Bùi Thế Vĩnh, ấn hành năm 2003.Các tác giả đã đưa ra một số giải pháp chung để xây dựng đạo đức cán bộ công chức trong thời kỳ CNH, HĐH và hội nhập quốc tế, sự vận dụng kinh nghiệm nước ngoài trong việc thúc đẩy tiến trình luật hóa đạo đức công chức ở Việt Nam.
  • 9. 5 - Đạo đức xã hội ở nước ta hiện nay - Vấn đề và giải pháp của tác giả Nguyễn Duy Quý, ấn hành năm 2006. - Mấy vấn đề đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay của hai tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn và Nguyễn Văn Phúc, ấn hành năm 2003 - Mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức công vụ (Đề tài cấp bộ 2006 – 2007) do tác giải Phạm Hồng Thái làm chủ nhiệm đề tài. Đề tài đã có những luận bàn về mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức, pháp luật về công vụ và đạo đức công vụ, đồng thời đã phân tích sự điều chỉnh của pháp luật về đạo đức công vụ. - Đạo đức người cán bộ lãnh đạo chính trị trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay- thực trạng và xu hướng biến động(Đề tài cấp bộ năm 2002- 2003 do Nguyễn Thế Kiệt - Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh làm chủ nhiệm đề tài). - Vấn đề đạo đức của cán bộ lãnh đạo quản lý trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sỹ triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2005 của Mai Xuân Hợi. - Đạo đức công chức và xây dựng đạo đức công chức ở nước ta hiện nay, Luận văn thạc sỹ của Lê thị Hằng - Viện triết học năm 2008. - Trách nhiệm công chức và đạo đức công chức ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sỹ của Cao Minh Công - Viện khoa học xã hội Việt Nam năm 2012 - Đạo đức công vụ và vấn đề nâng cao đạo đức công vụ cho đội ngũ cán bộ công chức ở nước ta hiện nay của tác giả Nguyễn Hữu Khiển đăng trên Tạp chí triết học số 10/2003. - Nghiên cứu so sánh qui định về đạo đức công vụ của một số quốc gia và Việt Nam của tác giả Đỗ Thị Ngọc Lan, ấn hành năm 2012. Đề tài này đề cập đến những vấn đề chung về đạo đức công vụ, so sánh đối chiếu quy định về đạo đức công vụ của một số quốc gia trên thế giới và khuyến nghị cho hệ thống quản lý đạo đức công vụ của Việt Nam. - Luật cán bộ công chức năm 2008; Luật Khiếu nại năm 2011; Luật tố cáo năm 2011; Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Các công trình trên đã đề cập đến nhiều nội dung phong phú như bàn về đạo
  • 10. 6 đức công vụ, nội dung vai trò và ý nghĩa đạo đức công vụ trong việc thực thi công vụ. Tuy nhiên, trong các công trình nói trên vấn đề đạo đức công vụ, đạo đức của công chức trong thi hành công vụ đã được các tác giả xem xét, giải quyết ở một số khía cạnh nhất định, từ phương diện đạo đức học, xã hội học, triết học, hành chính học, hay pháp luật hành chính, nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu đạo đức công vụ dưới góc độ của Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật và trong môi trường xây dựng nhà nước pháp quyền. Tuy vậy, các công trình trên là tài liệu tham khảo quan trọng giúp cho học viên thực hiện luận văn này. 6. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử đồng thời sử dụng các phương pháp cụ thể như: Phương pháp lịch sử: Xem xét đạo đức công vụ và pháp luật về đạo đức công vụ theo từng giai đoạn, từng quá trình. Từ đó tìm ra quy luật của sự phát triển cũng như vai trò của đạo đức công vụ và pháp luật về đạo đức công vụ Phương pháp phân tích, tổng hợp: Luận văn kế thừa, tổng kết lại những kết quả của các công trình nghiên cứu về đạo đức công vụ. Tuy nhiên đây không phải là sự sao chép vì đã có sự sắp xếp theo kết cấu khác theo góc nhìn của tác giả. Phương pháp so sánh: So sách đạo đức công vụ với các loại hình đạo đức khác. Phương pháp thống kê xã hội học: Từ những kết quả thống kê, điều tra, khảo sát về thực trạng đạo đức công vụ để đề ra những giải pháp hợp lý. 7. Kết cấu của Luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của Luận văn bao gồm 3 chương: Chương 1. Cơ sở lý luận về đạo đức công vụ trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam Chương 2. Thực trạng đạo đức công vụ ở Việt Nam và những vấn đề đặt ra Chương 3. Phương hướng và những giải pháp nhằm nâng cao đạo đức công vụ trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay
  • 11. 7 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẠO ĐỨC CÔNG VỤ TRONG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM 1.1. Công vụ, công chức và đạo đức công chức Để nghiên cứu, đánh giá về đạo đức công vụ trong nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, trước hết cần thống nhất quan điểm về công vụ, công chức, đạo đức công vụ của công chức, do đó Luận văn giành một phần để làm rõ những khái niệm công vụ, công chức. Vì nếu không xác định rõ, thì mọi điều viết về đạo đức công vụ cũng không có tính xác định. 1.1.1. Công vụ Công vụ là khái niệm mang tính lịch sử được sử dụng rộng rãi trong khoa học chính trị, nhất là trong hoạt động của nhà nước. Trong cuốn Thuật ngữ hành chính, các tác giả viết: Công vụ là thuật ngữ được sử dụng để chỉ một dạng hoạt động mang tính quyền lực nhà nước (gắn với nhà nước hoặc nhân danh nhà nước) do các công chức, viên chức nhà nước tiến hành theo qui định của pháp luật nhằm thực hiện các chức năng nhiệm vụ của nhà nước, phục vụ lợi ích nhà nước và xã hội [60]. Khái niệm công vụ gắn chặt với nền hành chính nhà nước, là một loại lao động đặc thù thể hiện bộ phận quản lý nhà nước; thực thi pháp luật, đưa pháp luật và đời sống; quản lý và sử dụng hiệu quả công sản và ngân sách nhà nước phục vụ nhân dân, phục vụ xã hội. “Công vụ là một hoạt động mang tính quyền lực và pháp lý được thực thi bởi đội ngũ công chức nhằm thực hiện các chức năng của nhà nước trong quá trình quản lý các mặt của đời sống xã hội” [22]. Nói đến công vụ là nói đến hoạt động của nhà nước, một lĩnh vực đặc thù, mang tính quyền lực công, được thực thi bởi một đội ngũ công chức hành chính nhằm thực hiện các chính sách của nhà nước trong quá trình quản lý các mặt, các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đề cập đến công vụ là đề cập đến trách nhiệm của công chức thực hiện quyền và nghĩa vụ
  • 12. 8 nhằm mục tiêu phục vụ người dân và xã hội. Về mặt pháp lý, trách nhiệm thường được xem xét trong mối quan hệ thống nhất giữa quyền và nghĩa vụ. Do đó, công vụ chính là trách nhiệm của chủ thể nhân danh quyền lực công thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo qui định của pháp luật. Với ý nghĩa quan trọng như vậy, bất kỳ nhà nước nào cũng phải xây dựng một nền công vụ có hiệu lực, hiệu quả và nhấn mạnh đến trách nhiệm công vụ. Các quốc gia có thể chế chính trị và tổ chức bộ máy nhà nước khác nhau thì quan niệm về hoạt động công vụ cũng có điểm khác nhau. Tuy nhiên, bản chất và mục tiêu cuối cùng của hoạt động công vụ đều giống nhau. Khái niệm công vụ có thể được xem xét, hiểu và tiếp cận dưới nhiều cấp độ, phạm vi khác nhau: Thứ nhất, công vụ được hiểu là hoạt động của công chức thực hiện hoạt động hành chính nhà nước. Thứ hai, công vụ được hiểu là hoạt động của công chức trong các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp của nhà nước và lực lượng vũ trang. Cách hiểu này nhằm tách biệt những hoạt động có tính chính trị với với hoạt động có tính chuyên môn nghề nghiệp. Thứ ba, công vụ được hiểu là các công việc của nhà nước, có nghĩa hoạt động của mọi thiết chế, tổ chức nhà nước đều thực hiện công vụ. Cách hiểu như vậy quá rộng, gần giống với quan niệm về dịch vụ công của các nước Anh, Mỹ, người ta coi cả hoạt động lập pháp, quốc phòng an ninh cũng là “dịch vụ công”. Nhưng quan niệm này cũng có yếu tố hợp lý là có thể thấy mọi hoạt động của nhà nước trong một chừng mực nhất định đều mang tính chất phục vụ nhân dân. Trong đó những hoạt động mạng tính chất quyền lực công thì gọi là công vụ, còn những hoạt động của các tổ chức sự nghiệp nhằm mục đích phục vụ công cộng thì gọi là “dịch vụ công”. Thứ tư, công vụ được hiểu là hoạt động của bộ, công chức, viên chức hoạt động trong mọi cơ quan, đơn vị sự nghiệp của nhà nước và cả cán bộ, chiến sỹ làm việc trong các lực lượng vũ trang. Từ đây nảy sinh vấn đề là không nhận thấy cái đặc thù của từng loại hoạt động nhà nước: hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp. Như vậy, có nhiều quan niệm và cách hiểu khác nhau, nhưng điểm chung nhất của các quan niệm đó là tính chất phục vụ xã hội của hoạt động công vụ đều
  • 13. 9 gắn với nhà nước, với quyền lực công. Công vụ thể hiện ý chí và đáp ứng lợi ích của nhân dân và của nhà nước. Xuất phát từ chỗ công vụ là phương tiện thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của nhà nước, nó là định chế tổ chức - pháp lý trong hệ thống tổ chức quyền lực nhà nước và phải phục vụ ý chí của nhà nước và của nhân dân. Công chức khi thưc thi công vụ phải phục vụ nhân dân, chịu sự kiểm tra giám sát của nhân dân và của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Ở Việt Nam, do dặc thù riêng, các cơ quan của Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội là một hệ thống chính trị thống nhất đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Giữa các cơ quan này luôn có sự liên thông trong sử dụng nguồn nhân lực. Do đó công vụ không chỉ thuần túy là hoạt động của công chức nhân danh quyền lực công, mà còn được hiểu là các hoạt động trong phạm vi rộng hơn. Để khẳng định tính đặc thù này, Điều 2 Luật cán bộ công chức năm 2008 quy định hoạt động công vụ “Là việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức theo qui định của Luật này và các quy định khác có liên quan” [47]. Việt Nam đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền. Vì vậy việc làm rõ nội hàm khái niệm công vụ có ý nghĩa quan trọng đối với việc xây dựng nền hành chính hiệu quả, chuyên nghiệp, trong sạch và có đạo đức phục vụ nhân dân. Chương trình sáng kiến phòng chống tham nhũng ở Việt Nam năm 2011 khẳng định: Nền hành chính phục vụ là nền hành chính dân chủ, trong sạch,vững mạnh chuyên nghiệp, hiện đại, trong đó đội ngũ cán bộ công chức có đủ phẩm chất và năng lực, các cơ quan nhà nước hoạt động có hiệu lực hiệu quả, đáp ứng tốt yêu cầu phát triển kinh tế chính trị, xã hội của đất nước. Nền hành chính phục vụ đóng vai trò phục vụ tốt nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân chứ không phải để hành dân [56] Tóm lại, khái niệm công vụ được xem xét, hiểu ở nhiều cấp độ, phạm vi khác nhau. Nhưng theo chúng tôi Công vụ là toàn bộ hoạt động của công chức trong quản lý xã hội theo chức năng được qui định trong pháp luật nhằm mục đích phục vụ nhân dân, xã hội và nhà nước.
  • 14. 10 1.1.2. Công chức Công chức là bộ phận cấu thành của nền công vụ. Khái niệm công chức bao giờ cũng song hành và gắn liền với sự hình thành, phát sinh và phát triển của nền công vụ. Năng lực, hiệu quả hoạt động của nền công vụ được quyết định bởi trình độ, năng lực của công chức. Công chức được hiểu một cách chung nhất là những người thừa hành quyền lực nhà nước trong thực thi công vụ một cách chuyên nghiệp. Thuật ngữ công chức ở Việt Nam được sử dụng qua mỗi giai đoạn lịch sử với phạm vi rộng, hẹp khác nhau, theo khoản 2 Điều 4 Luật cán bộ công chức năm 2008: Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội (sau đây gọi chung là đơn vị sự nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật [47, Điều 4, Khoản 2]. Bên cạnh đó Luật còn quy định “công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Khác với các nước, công chức ở Việt Nam bao gồm: công chức trong các cơ quan Đảng cộng sản Việt Nam, công chức Nhà nước, công chức của các tổ chức chính trị - xã hội, công chức trong đơn vị sự nghiệp công lập, công chức trong cơ quan, đơn vị quân đội và công an. Như vậy, nghiên cứu đạo đức công vụ là nghiên cứu đạo đức trong thi hành công vụ của cán bộ, công chức.
  • 15. 11 1.1.3. Quan niệm về đạo đức công chức Thuật ngữ “đạo đức” trong tiếng Anh là morality, trong tiếng Pháp là marale đều có gốc từ tiếng La tinh là moris, có nghĩa là những lề thói đạo nghĩa. Trong tiếng Hy Lạp, thuật ngữ ethicos (hạnh kiểm, luân lý) cũng có nghĩa là lề thói, tập tục. Sau này, người phương Tây cũng dùng cả thuật ngữ ethique với nghĩa là đạo đức. Trong tiếng Việt thuật ngữ "đạo đức" được giải thích theo nhiều cách khác nhau: Đạo đức là "Phép tắc về quan hệ giữa người với người, giữa cá nhân với tập thể, với xã hội" "phẩm chất tốt đẹp của con người" [63]. Có người giải thích đạo đức là từ ghép, được tạo bởi hai thành tố "đạo" và " đức"; "đạo" là "một cái đạo lý, một cái lẽ nhất định, là ai cũng phải noi đấy mà theo"; " đức" có nghĩa là " cái đạo để lập thân, thiện, làm thiện, cảm hóa đến người [14]. Theo cách giải thích của Đào Duy Anh thì chữ "đạo đức" được tạo bởi hai thành tố "đạo" và "đức", “đạo” có nghĩa là đường đi, còn “đức” có nghĩa là có nghĩa là nguyên lý tự nhiên, được vào lòng người là đức - Cái lý - pháp người ta nên noi theo [morale,vertu 1]. Như vậy, về mặt ngôn ngữ đạo đức được hiểu ở một số khía cạnh sau: Thứ nhất, đạo đức là những chuẩn mực, những quy tắc trong hành vi, cách xử sự giữa con người với con người; Thứ hai đạo đức là công lý, lẽ phải, chuẩn mực phù hợp với quy luật của tự nhiên và xã hội, là "cái lẽ sống, lẽ phải, đạo ở đời"; Thứ ba đạo đức phẩm chất, nét đẹp của con người. Như vậy, về mặt ngữ, nghĩa của từ, người phương Đông và phương Tây đều gặp nhau ở một điểm là đều coi "đạo đức" là những chuẩn mực xã hội, mang tính hướng thiện, là công lý, lẽ phải nhằm điều chỉnh ý thức, hành vi con người. Từ đó có thể hiểu: đạo đức là “tổng hợp những nguyên tắc, quan điểm, chuẩn mực về điều thiện, điều ác, lương tâm, lẽ công bằng, điều vinh, điều nhục... nhằm hướng con người đến cái chân, cái thiện, cái mỹ...; chống lại cái giả, cái ác, cái xấu”. Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhà tư tưởng, danh nhân văn hóa thế giới, đã bàn nhiều về vấn đề đạo đức, Người đã sử dụng nhiều phạm trù, khái niệm đạo đức như: trung, hiếu, nhân, nghĩa, cần, kiệm, liêm, chính đã có trong Nho giáo; dân chủ, công bằng, tự do, bình đẳng, bác ái đã xuất hiện từ thời cổ đại Hylạp, La Mã.
  • 16. 12 Người không sử dụng thuật ngữ “đạo đức cán bộ, công chức, mà sử dụng thuật ngữ đạo đức cách mạng, đạo đức cán bộ”. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: Đạo đức cách mạng không phải trên trời xa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong [32]. Người căn dặn cái gì cũ mà xấu, thì phải bỏ... cái gì cũ mà không xấu, nhưng phiền phức thì phải sửa đổi lại cho hợp lý; cái gì cũ mà tốt, thì phải phát triển thêm; cái gì mới mà hay, thì ta phải làm [29]. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh để trau dồi đạo đức cách mạng, người cán bộ phải luôn rèn luyện, tu dưỡng, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa quan liêu. Theo Hồ Chí Minh thì "Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân" [33]. Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng được khái quát thành nội dung sau: nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm. Đạo đức cách mạng cũng chính là đạo đức của người cán bộ, công chức. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng mới hoàn thành được nhiệm vụ vẻ vang; Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân [30]. Người còn nói Đạo đức của người cách mạng không phải là những giáo điều suông mà là đạo đức của hành động. Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống, nó do đấu tranh rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố, cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong [30]. Bên cạnh những chuẩn mực đạo đức đó, đạo đức cán bộ còn là" lời nói đi đôi với việc làm (ngôn hành hợp nhất), nêu gương làm tốt, đấu tranh và khắc phục thói hư, tật xấu. "Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách đạo đức, muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước" [30]. Như vậy, cán bộ phải là người phục vụ trung thành của nhân dân, gắn bó
  • 17. 13 chặt chẽ với nhân dân, hết lòng, hết sức tận tuỵ phục vụ nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân. Đó là tư tưởng cốt lõi của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đạo đức người cán bộ cách mạng, đó cũng chính là đạo đức cán bộ, công chức Trên cơ sở kế thừa và phát huy tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn có những chủ trương, chính sách xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức vừa hồng vừa chuyên, rèn luyện đạo đức theo gương của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Đạo đức cán bộ, công chức theo quan điểm của Đảng ta được khái quát thành các nội dung sau: - Có tinh thần yêu nước sâu sắc, tận tụy phục vụ nhân dân, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phấn đấu thực hiện có kết quả đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước. - Cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư. Không tham nhũng và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng. Có ý thức tổ chức kỷ luật. Trung thực, không cơ hội, gắn bó mật thiết với nhân dân, được nhân dân tín nhiệm. - Có trình độ hiểu biết về lý luận chính trị, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; có trình độ văn hóa, chuyên môn, đủ năng lực và sức khoẻ để làm việc có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao. Các tiêu chuẩn đó, có quan hệ mật thiết với nhau. Coi trọng cả đức và tài, đức là gốc. Mặt khác các tổ chức đảng phải thường xuyên giáo dục, quản lý, kiểm tra cán bộ, đảng viên về đạo đức, lối sống. Đảng cũng yêu cầu cán bộ, đảng viên phải tự giác rèn luyện đạo đức, lối sống cần kiệm, liêm chính, chí công, vô tư; gương mẫu giữ gìn phẩm chất người chiến sĩ cộng sản, đề cao tinh thần đoàn kết, chống chủ nghĩa cá nhân; chấp hành nghiêm Điều lệ Đảng, pháp luật Nhà nước; đồng thời, chú ý giáo dục, thuyết phục gia đình cùng thực hiện [17]. Những quan điểm chuẩn mực chung về đạo đức cán bộ, đảng viên được cụ thể hóa trong nhiều văn bản của Đảng, đặc biệt là những quy định về những việc đảng viên không được làm, đồng thời cũng là những chuẩn mực đạo đức của người cán bộ, công chức không chỉ trong công vụ, mà còn trong lối sống sinh hoạt hàng ngày của họ.
  • 18. 14 Trên cơ sở quan niệm về đạo đức, quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đạo đức cán bộ, có thể hiểu: Đạo đức công chức là hệ thống các nguyên tắc, quan điểm, quy phạm về lẽ phải, sự công bằng, về điều thiện, cái ác, cái đúng, cái sai trong đời sống xã hội, đời sống nhà nước thể hiện ý chí, tâm tư tình cảm của công chức, nhằm điều chỉnh ý thức, hành vi hành vi, cách xử sự của công chức trong hoạt động công vụ, nhiệm vụ, cũng như thái độ của họ trong công vụ. Tư tưởng, quan điểm về đạo đức công chức là cơ sở nền tảng để xây dựng một nền đạo đức công vụ phục vụ nhân dân của công chức. Những tư tưởng, quan điểm đó là cơ sở để thể chế hóa thành pháp luật. 1.2. Đạo đức công vụ 1.2.1. Khái niệm và nội dung cơ bản của đạo đức công vụ Đạo đức công vụ ở Việt Nam được hình thành trên cơ sở nền tảng của quan điểm: “Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân” [44]. Nhân dân là chủ, cán bộ, công chức là công bộc của dân. Trong điều kiện như vậy, đạo đức công vụ trong tình hình mới có những nội dung cơ bản sau đây: Cán bộ, công chức phải là công bộc của dân, tận tụy phục vụ dân. Mọi hoạt động đều lấy nhân dân làm mục đích phục vụ. Công chức các cơ quan quản lý hành chính tham mưu xây dựng, ban hành các chính sách, thể chế quản lý; phải quán triệt tinh thần phục vụ dân, thuận lợi cho dân trong làm ăn, sinh sống, thực hiện các quyền con người; thuận tiện trong việc cung cấp các dịch vụ hành chính cho dân; không sách nhiễu phiền hà, không được cửa quyền khi giải quyết việc của dân với thái độ xin cho, ban ơn (thể hiện trong việc giải quyết thủ tục hành chính, cấp các loại giấy phép). Công chức làm việc ở các đơn vị sự nghiệp phải cung cấp tốt dịch vụ cho cá nhân, tổ chức, xóa bỏ cơ chế xin cho, ban ơn thời bao cấp, đồng thời hạn chế tình trạng thương mại hóa khi chuyển sang cơ chế thị trường (thể hiện ở các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, giáo dục, các dịch vụ văn hóa tinh thần, các loại dịch vụ dân
  • 19. 15 sinh khác). Công chức, viên chức, nhân viên (thuộc khu vực doanh nghiệp, khu vực công) cung cấp các loại dịch vụ mang tính chất dịch vụ hàng hóa phải đảm bảo chất lượng tốt, giá thành hợp lý, không phiền nhiễu khách hàng (các loại dịch vụ điện, nước, bưu điện, môi trường, cơ sở hạ tầng). Cán bộ, công chức có thái độ, tinh thần làm việc tận tụy, có trách nhiệm cao với công việc. Sự tận tụy phải được thể hiện ở hiệu quả, chất lượng công vụ. Công chức hành chính thể hiện ở hiệu quả tham mưu, góp phần xây dựng các chính sách, thể chế đúng, khả thi tạo được động lực mới cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Công chức chuyên môn sự nghiệp thể hiện ở sự tận tụy với công việc; có sản phẩm, phục vụ có chất lượng, cung cấp dịch vụ có chất lượng cao, đảm bảo đúng là một Nhà nước phục vụ ở các lĩnh vực y tế, giáo dục, dân sinh khác; có sức cạnh tranh tốt hơn so với dịch vụ ngoài Nhà nước; thể hiện rõ tính ưu việt của Nhà nước. Phẩm chất trong sạch của cán bộ, công chức: Không tham nhũng, tham ô tài sản Nhà nước và của dân. Thực hiện công vụ vô tư, với thái độ phục vụ không đòi hỏi, sách nhiễu, gây khó khăn cho tổ chức, nhân dân. Không vụ lợi, lợi dụng chức vụ, vị trí công tác để mưu lợi riêng. Lành mạnh trong lối sống, sinh hoạt.Thực hiện tiết kiệm cho Nhà nước, cơ quan. Có lối sống giản dị, phong cách làm việc, quan hệ với đồng nghiệp, nhân dân tốt. Tinh thần đồng đội, hợp tác trong thực hiện công vụ: Có tinh thần hợp tác, phối hợp với đồng nghiệp trong cơ quan để cùng thực hiện công vu; biết tập hợp, phát huy trí tuệ, sức mạnh tập thể; Nhận việc khó về mình, không tranh công, đổ lỗi; gặp việc khó cùng hợp tác tìm cách giải quyết; luôn có tinh thần giúp đỡ đồng nghiệp cùng hoàn thành nhiệm vụ. Tạo cơ hội để đồng nghiệp phát triển, tiến bộ; Tinh thần vì tập thể, vì việc công; xây dựng cơ quan, tập thể thành đơn vị mạnh. Tính kỷ luật và tinh thần sáng tạo: Đạo đức công vụ thể hiện ở tính kỷ luật, thực hiện nhiệm vụ được giao theo quy định của pháp luật và theo sự phân công của cấp trên. Tận tâm, tận lực hoàn thành nhiệm vụ với ý thức tổ chức kỷ luật và tính tự giác cao của người cán bộ, công chức.Kỷ luật công vụ thể hiện ở việc chấp hành nghiêm các quy định, nội quy, chế độ làm việc của cơ quan, tổ chức. Không tùy
  • 20. 16 tiện, tự do, vô kỷ luật, thiếu kỷ cương, làm việc tùy thích cá nhân… Cùng với tính kỷ luật, đạo đức công vụ bao hàm và đòi hỏi phải có tinh thần sáng tạo, phát huy sáng kiến của mỗi cán bộ, công chức để hoàn thành nhiệm vụ. Không thụ động, máy móc, quan liêu. Có sự sáng tạo trong tư duy, phong cách, phương pháp làm việc; đề xuất sáng kiến để hoàn thành nhiệm vụ với hiệu quả cao. Kết hợp đúng đắn giữa tính kỷ luật và tinh thần sáng tạo là một phẩm chất cơ bản rất cần thiết của đạo đức công vụ trong một nền công vụ hiện đại, phát triển. Đạo đức công vụ khác với đạo đức thông thường nói chung: Thứ nhất: chủ thể đặt ra các qui tắc đạo đức công vụ là cơ quan nhà nước, tổ chức, những nhà hoạt động chính trị, hoạt động nhà nước hoặc được hình thành dần trong đời sống nhà nước bởi công chức và xã hội; do đó một phần đạo đức công vụ được thể chế hóa trong các văn bản của cơ quan nhà nước. Thứ hai, việc thực hiện các qui tắc đạo đức công vụ vừa mạng tính tự nguyện,tự giác, vừa mang tính bắt buộc. Người vi phạm quy tắc đạo đức công vụ có thể bị cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước áp dụng các biện pháp chế tài để xử lý kỷ luật.Việc áp dụng các biện pháp chế tài này là sự đánh giá chính thống của xã hội đối với người vi phạm các qui tắc đạo đức công vụ. Ngoài ra, các qui tắc đạo đức công vụ còn mang tính xã hội; do đó khi không thực hiện các qui tắc đạo đức công vụ, người công chức còn bị cộng đồng đánh giá. Đạo đức công vụ là một hiện tượng có cơ cấu của nó. Khi xem xét đạo đức công vụ tức đạo đức của công chức khi thực thi công việc của nhà nước, phải dựa trên hai yếu tố cơ bản: Công việc: tức mọi công việc đều phải hướng đến giá trị cốt lõi của công việc đó. Công việc do công chức đảm nhận mang ý nghĩa xã hội rất cao và do đó cần phải thực sự quan tâm đến giá trị công việc...Con người thực thi công việc đó: Để hướng đến những giá trị cốt lõi, con người thực thi công việc đó phải là “người có đạo đức”. Tuy nhiên, đạo đức con người trong trường hợp công chức là sự tổng hòa của các loại đạo đức: cá nhân; công dân, xã hội và nhà nước. Hai yếu tố trên tạo nên đạo đức công vụ. Và cả hai yếu tố đó kết hợp chặt chẽ, hài hòa với nhau tạo nên điều kiện “cần và đủ” cho sự hình thành đạo đức
  • 21. 17 công vụ. Nếu thiếu một trong hai yếu tố đó, khó có thể tạo nên “môi trường công vụ có đạo đức”. * Đạo đức công vụ trước hết được hình thành từ đạo đức cá nhân của công chức. Công việc của nhà nước do công chức thực hiện. Do đó, muốn xem xét khía cạnh đạo đức nghề nghiệp của công việc này, đòi hỏi phải xem xét từ khía cạnh đạo đức cá nhân. Đạo đức cá nhân luôn gắn liền với đạo đức xã hội - những chuẩn mực được xã hội coi là giá trị. Nhưng phải nhận thức đúng những giá trị tích cực, những giá trị mang tính “cổ hủ”. Và xét trên một giác độ chung, công chức phải là những người hướng đến những giá trị tích cực và phải trở thành “ tấm gương” về đạo đức cá nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và pháp quyền. Trên giác độ đạo đức cá nhân, công chức cũng như mọi công dân phải là một công dân mẫu mực. Khía cạnh mẫu mực của công dân thể hiện cao cả nhất là chấp hành nghiêm chỉnh “pháp luật” của nhà nước ban hành. Trước hết, công chức (xét trên nghĩa chung nhất) là người tạo ra khuôn khổ pháp luật đó. Và họ sẽ là người am hiểu nhất những chân giá trị của các quy định của pháp luật. Nếu một sự lơ là nào đó đối với các chân giá trị đó, sẽ có tác động ảnh hưởng rất lớn đến xã hội. Hai là, công chức cũng là người triển khai tổ chức thực hiện, đưa những “chân giá trị” của pháp luật vào đời sống (với nghĩa họ là người triển khai tổ chức thực hiện pháp luật). Sự tuân thủ pháp luật cũng chính là tấm gương cho người khác tuân theo. Ba là, công chức là công dân và do đó cũng phải tuân thủ các quy định chung của pháp luật dù bất cứ vị trí nào. Pháp luật không có phân biệt, đối xử ngoại lệ với bất cứ ai. Mọi người phải được bình đẳng trong khuôn khổ pháp luật. Đây là một trong những thách thức về khía cạnh đạo đức cá nhân của công chức khi họ nắm trong tay “rất nhiều quyền lực nhà nước” họ và những đồng nghiệp của họ có thể “trao đổi cho nhau nhiều yếu tố quyền lực” và do đó, tạo cho họ dễ bị đứng “trên, ngoài vòng pháp luật”. Tính gương mẫu của công chức khi chấp hành pháp luật cũng là thể hiện “đạo đức cá nhân” phù hợp nhất với một xã hội trong đó sống, làm việc
  • 22. 18 theo pháp luật của công chức. Một công dân nếu vi phạm “những điều quy định của pháp luật” có thể chỉ bị xem xét từ hai khía cạnh: Công dân và Công chức. Với khía cạnh thứ hai này, phải xử lý công chức nặng hơn rất nhiều so với công dân cùng vi phạm. Đạo đức công chức với khía cạnh công chức là một con người cụ thể trong không ít trường hợp có thể bị mâu thuẫn về lợi ích trong quá trình thực thi công vụ. * Đạo đức công vụ được hình thành từ khía cạnh đạo đức xã hội của công chức Đạo đức xã hội như trên đã nêu là chuẩn mực của các giá trị của từng giai đoạn phát triển của xã hội và gắn liền với các hình thái xã hội khác nhau.Đạo đức xã hội và cam kết thực hiện những giá trị chuẩn mực của đạo đức xã hội sẽ tạo ra tiền đề cho xã hội phát triển.Trong bối cảnh hiện nay, đạo đức xã hội đang có những sự thay đổi. Sự “thay đổi của các giá trị đạo đức xã hội” đang theo hai hướng: Tích cực và tiêu cực. Nhiều chân giá trị mới của xã hội xuất hiện. Nhưng cũng không ít những vấn đề của “xã hội” đang quay trở lại. Những giá trị thuần phong, mỹ tục của xã hội tốt đang bị mai một. Trong khi đó, những cổ hủ, mang tính mê tín dị đoan lại ngày càng trở nên phổ biến(Việt Nam). Và dưới sự tác động của kinh tế thị trường làm cho các chuẩn mực xã hội cũng thay đổi theo. Những chân giá trị “chống lãng phí, thực hành tiết kiệm” đang bị chính công chức làm cho thay đổi. *. Đạo đức công vụ là đạo đức nghề nghiệp đặc biệt - công vụ công chức Đạo đức nghề nghiệp đối với công chức là đạo đức của công việc cung cấp dịch vụ cho người đứng đầu tổ chức; cho công dân và tổ chức. Một sự không trung thực, thiên vị của công chức trong thực thi công vụ cung cấp dịch vụ có thể để lại hậu quả rất lớn cho xã hội. Một quyết định chính sách được đưa ra trên cơ sở phân tích, đánh giá của ý kiến nhà quản lý và của nhóm tham mưu. Công chức có bổn phận phải suy nghĩ đến những loại thông tin đó để tham mưu đúng. Đạo đức xã hội của công chức thể hiện tính dân chủ của công vụ mà công chức thực hiện với công dân. Sự không thiên vị, vô tư và trong sáng có thể làm cho người dân cảm thấy được sự tin tưởng hơn ở chính phủ; trong khi đó một sự thiên vị do nhiều loại tác động khác nhau có thể làm cho tính chất công vụ sẽ thay đổi. Đó cũng chính là dấu hiệu của đạo đức nghề nghiệp công vụ. Một trong những khía cạnh của đạo đức thực thi công vụ của công chức là sự
  • 23. 19 chuyển đổi rất lớn vai trò của chính phủ trong xu hướng cải cách chung. Những xu hướng cải cách như: phân cấp quản lý nhà nước cho các loại cơ quan, cấp hành chính; coi trọng cấp dưới; vai trò xúc tác, lái thuyền chứ không chèo thuyền; mở rộng sự tham gia của công dân trong hoạt động quản lý; xã hội hóa nhiều hoạt động cung cấp dịch vụ công; người sử dụng dịch vụ phải trả tiền; hợp đồng thực thi hoạt động cung cấp dịch vụ công; kế toán hoạt động; trách nhiệm báo cáo cho các bên có liên quan; thương mại hóa; dân chủ; chính phủ điện tử. Cách tiếp cận lấy công dân - người nhận và sử dụng dịch vụ của nhà nước làm trung tâm hay công dân - khách hàng là thượng đế. Đó cũng là cách tư duy hướng đến nền hành chính phục vụ. Trong bối cảnh đó, mức độ hài lòng của công dân phải được coi là thước đo giá trị của hành chính và là thể diện đạo đức hoạt động thực thi công vụ của công chức (đạo đức nghề nghiệp). Đạo đức và pháp luật trong thực thi công vụ của công chức luôn phải gắn liền chặt chẽ với nhau. Tuy nhiên, pháp luật là ranh giới đặc biệt, trong khi đó đạo đức và các yếu tố thuộc về hành vi lại không như pháp luật trong tiến trình cải cách hành chính, nhưng hành vi, cách ứng xử của công chức lại chưa thay đổi theo kịp những thách thức để xây dựng đạo đức công vụ. Một hệ thống chuẩn mực mới và hành vi mới cần phải được hoàn thiện, bổ sung. Đạo đức nghề nghiệp là một chuẩn mực rất quan trọng để đánh giá con người. Trong khu vực nhà nước, phải xây dựng chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp nói chung và chuẩn mực nghề nghiệp của các loại công việc mà công chức đảm nhận.Về nguyên tắc nghề nghiệp, công chức không chỉ nhìn nhận tính đạo đức của mình thông qua lăng kính của các giá trị đạo đức nghề nghiệp chung, mà còn phải tuân theo những giá trị đạo đức nghề nghiệp riêng. Pháp luật là một trong những chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp mà công chức phải coi đó như “là chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp có tính tối thiểu”, không được vi phạm và từng bước phải nâng cao giá trị nghề nghiệp trên cả chuẩn mực pháp lý. Sự xâm phạm những quy định mang tính đạo đức nghề nghiệp trong thực thi công vụ của công chức được biểu hiện thông qua nhiều hoạt động khác nhau.
  • 24. 20 Nhưng đặc trưng chung của những sự vi phạm đạo đức đó chính là xâm phạm lợi ích công, thay vào đó bằng lợi ích công, thay vào đó bằng lợi ích cá nhân hay nhóm thiểu số. *. Đạo đức thực thi công vụ là sự hài hòa của các giá trị Trong khi thi hành công vụ, công chức phải định hướng thực hiện nhiệm vụ của mình bảo đảm lợi ích công trong mối quan hệ của các giá trị: dân chủ, nghề nghiệp, đạo đức và giá trị xã hội. Giá trị dân chủ: công chức phải trung thực, không thiên vị trong việc tư vấn và cung cấp thông tin cho lãnh đạo của họ; thực hiện các quyết định một cách trung thành và đúng pháp luật; cung cấp cho các cơ quan quản lý nhà nước khác cũng như công dân những thông tin liên quan đến hoạt động của đơn vị. Đạo đức nghề nghiệp đang là một thách thức đối với công chức trong quá trình thực thi công vụ. Tôn trọng pháp luật và trung lập về chính trị và đòi hỏi tính trung thành chính trị đang là một thách thức. Trong khi đó, giá trị nghề nghiệp phải gắn liền với năng lực; hoàn hảo trong thực thi; hiệu quả, khách quan và không thiên vị. Điều này đặt ra cho công chức trong thực thi công vụ không thể nhân danh đảng chính trị mà công chức là thành viên. Chính vì vậy, công chức có hay không được tham gia các đảng phái chính trị là một trong những thách thức của công chức; công chức phải bảo đảm khả năng tư duy sáng tạo để đưa ra các phương án sử dụng tiền tiền thự thi công vụ được giao một cách hiệu quả trong bối cảnh thay đổi. Sự trì trệ, cứng nhắc trong thực thi công vụ đang là một thách thức. Một mặt, phải tôn trọng nguyên tắc pháp luật. Mặt khác, đòi hỏi phải sáng tạo trong thực hiện. Đòi hỏi công chức phải dám chịu trách nhiệm với những tư duy sáng tạo đó của họ. Trong bối cảnh môi trường hành chính đang thay đổi, tư duy sáng tạo phải được xem như một giá trị nghề nghiệp cao của công chức trong thực thi công vụ. Giá trị đạo đức, thực chất phải ứng xử phù hợp theo chuẩn mực quy định của pháp luật, nhưng mặt khác phải quan tâm cả những khía cạnh đạo đức (ứng xử) xã hội, nghề nghiệp, nhân văn. Đây là một thách thức không nhỏ đối với công chức. Nhà nước cần phải quy định chuẩn mực hành vi ứng xử của công chức trong khi thực thi công vụ.
  • 25. 21 Giá trị xã hội của công chức rất lớn. Họ không chỉ là nơi tạo niềm tin của công dân đối với nhà nước và cũng là một tấm gương. Những biểu hiện lạm dụng công quỹ; tài sản nhà nước, lãng phí đã làm cho cách nhìn của công dân đối với nhà nước giảm niềm tin. Đạo đức là phạm trù xã hội, nhưng đạo đức thực thi công vụ chính là sự chấp hành “tuyệt đối” quy định của pháp luật đối với hoạt động đó. Chỉ khi đó, chân giá trị của công chức - công vụ mới được thể hiện đầy đủ. Công chức thực sự trở thành công bộc của dân và nền hành chính đích thực là nền hành chính phục vụ nhân dân. Và trên cơ sở chấp hành nghiêm chỉnh đó, đạo đức công vụ của công chức sẽ nâng lên ý thức đạo đức và tự giác chấp hành. * Đạo đức công vụ là sự tổng hòa của hai nhóm đạo đức khi thực thi công việc của công chức và tuân thủ pháp luật. (1) Trách nhiệm đối với thực thi công vụ: Đạo đức thực thi công việc của công chức được xem xét từ khía cạnh trách nhiệm đối với việc làm trong khu vực nhà nước.Mỗi một công dân trong điều kiện cụ thể của pháp luật nhà nước, đều phải chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật. Tức phải làm được những điều mà pháp luật nhà nước quy định họ phải làm; không được làm; họ được làm. Ba cấp độ khác nhau này đâu là thuộc trách nhiệm của họ. Và điều này cũng giống như mọi loại trách nhiệm khác. - Phải làm mang tính bắt buộc (nhiệm vụ); - Được làm mang tính quy định của pháp luật trao cho công chức khá nhiều quyền. Và họ phải sử dụng quyền đó để thực thi tốt công vụ giao cho họ. - Nên làm: đó là những loại công việc mà pháp luật liên quan đến công vụ không nêu ra hạn chế, nhưng công chức cảm nhận được tính hợp lý, có thể làm những công việc đó để đem lại lợi ích cao hơn cho xã hội mà pháp luật không cấm. Đó cũng có thể là “tầm cao hơn” của chuẩn mực pháp lý phải làm. - Không được làm: Đó là những điều pháp luật liên quan đến công vụ cấm hoặc hạn chế không được làm. Điều này cần nhận thức đúng với những điều cấm, không được làm so với công dân. Nhiều công việc đối với công chức bị “cấm, hạn chế” nhiều hơn so với công dân.
  • 26. 22 (2) Quy định những điều “phải làm” Những quy định phải làm đối với từng tổ chức, cá nhân công chức trong các cơ quan quản lý nhà nước là một đòi hỏi tất yếu để chống lại những hành vi vi phạm đạo đức của công chức và chống tham nhũng. Mỗi một công chức, khi nhận vị trí công việc của mình cần phải biết, hiểu và lượng hết sức mình liệu có làm hết được những điều phải làm hay có dám chịu trách nhiệm làm các công việc phải làm đó. Nhưng với tính cách con người, nếu không có chế tài đủ mạnh để xử lý vi phạm, không làm được những việc “phải làm”, người nhận việc sẽ “vô tư” nhận công việc, nhận vị trí vì họ biết rằng, không làm được những việc phải làm “cũng không sao”. Cần quy định cụ thể cách thức xử lý những người “dám nhận làm những việc phải làm” nhưng lại không làm được. Đây là một trong những khó khăn hiện nay của hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước ở nước ta trong cơ chế bầu, bổ nhiệm theo nhiều cách.Quy chế công vụ cần quy định chi tiết vấn đề này. Trách nhiệm thường được coi rất nhẹ nhàng, nhưng không ai bàn đến cơ chế chịu trách nhiệm. Phải làm mang ý nghĩa bắt buộc và đó coi là nghĩa vụ pháp lý của mỗi một người. Mỗi công dân, mỗi cơ quan nhà nước, mỗi một công chức đều có nghĩa vụ phải làm những điều do pháp luật quy định. Và tất yếu, nếu không làm những điều phải làm đó, công dân, các cơ quan (bao gồm các cơ quan nhà nước) và từng cá nhân công chức đều bị những hình thức xử phạt (bị kỷ luật) theo pháp luật quy định. Đây cũng là đòi hỏi tất yếu “cần và đủ” để những điều quy định phải làm đối với từng thành viên trong xã hội, bao gồm từng cá nhân, tổ chức. Trong các văn bản quản lý, chúng ta thường nói đến thuật ngữ “nhiệm vụ”. Đứng trên giác độ quản lý và đứng trên tư duy “phải làm”, nhiệm vụ chính là những điều phải làm. Những nhiệm vụ đó nếu đối với các cơ quan quản lý nhà nước có tính pháp lý rất cao. Và các cơ quan đó phải thực hiện được nhiệm vụ. Nhưng muốn làm được điều đó, những quy định bắt buộc, phải làm đó cần phải được cụ thể hóa. Gắn liền với nhiệm vụ, một khía cạnh đủ của việc thực hiện nhiệm vụ là xử lý các vấn đề xảy ra do không thực hiện “nhiệm vụ - điều bắt buộc phải làm”. Thông thường, các văn bản quản lý nhà nước khi thành lập cơ quan, ít nói đến chế tài thứ hai này. Những quy định đó nằm trong các loại văn bản khác.
  • 27. 23 (3) Những quy định được làm Khái niệm “được làm” đồng nghĩa với việc Nhà nước quy định cho các tổ chức, các cá nhân công chức được làm những điều (do pháp luật quy định) nhất định để thực hiện các nhiệm vụ “phải làm”. Trong văn bản pháp luật, đó chính là quyền hạn của tổ chức (thẩm quyền chung) và cá nhân (thẩm quyền riêng). Công chức, người làm việc trong các cơ quan nhà nước (bao gồm các nhà quản lý, thừa hành,…) đều phải nhận thức những việc được làm theo nghĩa chung và được làm mang tính hạn chế đối với công chức. (4) Những quy định “không được làm” Đó là những lĩnh vực pháp luật nhà nước quy định tổ chức, công dân không được làm. Cách quy định không được làm và được làm đã thay đổi trong tiến hành phát triển kinh tế - xã hội; Trong cơ chế trước đây, những điều mà công dân, các tổ chức được làm. Cái mà họ biết chỉ là những gì họ được làm. Còn cấm những lĩnh vực gì, công dân không biết một cách cụ thể. Và điều đó cũng là cách thức để cơ quan nhà nước, cá nhân công chức được nhà nước trao quyền lợi dụng để cho hay không cho tổ chức và công dân được thực hiện những việc được làm của mình. Những điều “không được làm” riêng đối với công chức nhằm bảo vệ chính công chức để họ không lạm dụng quyền hạn được trao để đem lại những lợi ích riêng cho cá nhân, gia đình hay lợi ích riêng cho cơ quan của họ, trong khi đó xâm phạm lợi ích của nhà nước, công dân. Hai lĩnh vực: “phải làm”, “không được làm” có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ lẫn nhau nhằm làm cho công chức thực hiện tốt nhất nhiệm vụ của mình. Trách nhiệm - là những gì mà công chức, nhà quản lý phải thực hiện một cách nghiêm chỉnh, đúng pháp luật nhà nước quy định cho họ phải làm. Đó chính là những nhiệm vụ được giao cho từng vị trí, từng chức vụ. Tuy nhiên, thực hiện trách nhiệm chưa thực sự trở thành “giá trị”. Một mặt, công chức không đủ khả năng để làm được hết nhiệm vụ theo quy định của pháp luật. Nguyên nhân của hiện tượng này thuộc về khía cạnh quản lý nguồn nhân lực (tuyển dụng, sử dụng, đào tạo phát triển). Mặt khác, pháp luật khi quy định trách nhiệm của công chức thiếu cụ thể, rõ
  • 28. 24 ràng và không ít trường hợp lại chung chung, cơ quan nào, vị trí nào cũng đúng. Có thể thấy rất rõ trong nhiều lĩnh vực quản lý khi nói về sự buông lỏng quản lý đất đai, nhiều nhà quản lý nói như đó là công việc của ai, phê phán yếu kém, hạn chế, buông lỏng. Các nhà quản lý cũng sẵn sàng phê bình, chỉ trích những hạn chế yếu kém, nhưng không thực sự nhận biết được đó thuộc về trách nhiệm của họ. Trách nhiệm của công chức gắn liền với từng vị trí mà công chức đó đảm nhận. Cần chú ý rằng, vị trí càng cao trách nhiệm càng lớn. Và khi không thực hiện được những nhiệm vụ, phải chịu trách nhiệm, chịu kỷ luật. Nhưng phía thứ hai này của trách nhiệm chưa được quan tâm vì hình như không ai chịu trách nhiệm về những việc đã được nhà nước giao cho họ phải thực hiện (nhiệm vụ) nhưng không thực hiện hoặc thực hiện yếu kém. Chưa thấy ai chịu trách nhiệm về những việc sai trái của mình. Quá nhiều vấn đề xảy ra những sai phạm, nhưng không thấy ai chịu trách nhiệm với những sai phạm đó. Nhiệm vụ luôn gắn liền với quyền hạn. Tức nhà nước sẽ trao cho từng vị trí và cá nhân đảm nhận các vị trí đó những quyền hạn nhất định. Đó chính là những gì nhà nước cho phép làm để cá nhân công chức thực hiện được nhiệm vụ được giao. Muốn quản lý tốt đất đai, nhà nước trao cho các nhà quản lý những quyền nhất định, bao gồm cả quyền cưỡng chế; cho phép, kiểm tra. Đồng thời pháp luật cũng quy định cách thức kiểm soát việc sử dụng quyền hạn đó nhằm thực hiện nhiệm vụ hay nhằm mục tiêu khác. Trong trường hợp sử dụng sai quyền hạn cũng như lạm dụng quyền hạn đó không phải để thực thi nhiệm vụ mà nhằm đem lại lợi ích riêng cho chính những người có quyền hạn đó phải bị xử lý. (5) Chịu trách nhiệm và xử lý vi phạm kỷ luật thực thi công việc Trong nhiều văn bản pháp luật của các nước, khi đưa ra các chuẩn mực về giá trị đạo đức và chuẩn mực hành vi, những chế tài để xử lý cũng được bàn đến. Tuy nhiên, đây là một vấn đề khá nhạy cảm. Đây là một khía cạnh thứ 2 của đạo đức mang tính pháp luật. Điều này nhằm ràng buộc công chức khi thi hành công vụ phải luôn quan tâm, chăm lo đến những quy định của pháp luật có liên quan. Mối quan hệ giữa nhiệm vụ và quyền hạn được sử dụng để thực hiện được
  • 29. 25 nhiệm vụ là một mối quan hệ rất phức tạp và nếu không có những cơ chế “chịu trách nhiệm” cụ thể, sẽ không thể giải quyết, ngăn chặn lạm dụng quyền hạn để mưu cầu lợi ích. Và trong các trường hợp đó, thuật ngữ “vi phạm đạo đức công vụ” thường được sử dụng. Những biểu hiện vi phạm những quy tắc ứng xử chung, mang tính đạo đức của công chức đã không tạo ra môi trường lành mạnh cho sự phát triển kinh tế; tạo ra một sự không bình đẳng làm mất, giảm lòng tin của nhân dân đối với nhà nước. Có những trường hợp, nếu chúng ta không xử lý nghiêm, những kẻ làm mất lòng tin đó lại tiếp tục tồn tại và mất lòng tin khác. Đó là những biểu hiện: Cẩu thả, Lãng phí, Hối lộ, Lạm dụng quyền hạn, Tham nhũng… Từ tất cả những vấn đề nêu trên có thể đưa ra định nghĩa sau đây về đạo đức công vụ của công chức như sau: Đạo đức công vụ của công chức là một bộ phận đạo đức công chức, là hệ thống các nguyên tắc, các quy tắc hành vi, xử sự trong công vụ, nhằm điều chỉnh thái độ, hành vi, cách xử sự, chức trách, bổn phận, nghĩa vụ của cán bộ, công chức trong hoạt động công vụ (từ khía cạnh chủ quan). Ngoài phạm vi công vụ thì đạo đức của công chức không trở thành đạo đức công vụ. Từ góc độ khách quan, đạo đức công vụ của công chức là thái độ, hành vi, cách xử sự, việc thực hiện chức trách, bổn phận, nghĩa vụ của công chức khi thi hành công vụ. 1.2.2. Quá trình hình thành đạo đức công vụ Đạo đức công vụ là một hiện tượng xã hội, cũng giống như các hiện tượng khác, có quá trình hình thành và phát triển của nó. Quá trình hình thành đạo đức công vụ của công chức có thể chia thành ba giai đoạn. * Giai đoạn tự phát Quá trình hình thành đạo đức công vụ cũng giống như quá trình hình thành đạo đức nói chung. Đó là một quá trình từ nhận thức, ý thức đến tư duy hành động và cuối cùng được chuẩn hóa thành quy tắc, quy chế và pháp luật của nhà nước. Nếu đạo đức xã hội là sản phẩm của các hình thái ý thức xã hội, thì đạo đức công vụ phải là sản phẩm tất yếu của quá trình hình thành và phát triển của các mô hình nhà nước với những con người cụ thể làm việc cho nhà nước. Mỗi một hình
  • 30. 26 thái xã hội gắn liền với một hình thái nhà nước, những giá trị cốt lõi của hoạt động bởi chính những con người của nhà nước cũng sẽ thay đổi và cùng với sự thay đổi đó của giá trị, những hành vi, cách ứng xử và quan hệ để đạt đến chuẩn mực của các hành giá trị đó cũng thay đổi. Xã hội loài người trải qua nhiều cuộc cách mạng. Đó là sự thay thế một chế độ xã hội này bằng một chế độ xã hội khác. Mỗi một chế độ tiếp theo sau vừa mang tính kế thừa, vừa mang tính phát triển. Điều đó làm cho các giá trị của hoạt động nhà nước thay đổi theo. Nếu trong xã hội phong kiến, với tư tưởng là “trung quân, ái quốc”, trung với vua là trung với nước, dân chủ trong hoạt động thực thi công vụ của nhà nước không được thể hiện qua những chuẩn mực cụ thể mà thông qua các “khẩu dụ” của vua và cách ứng xử của vua được coi nhu là cách ứng xử “mẫu mực”. Giai cấp tư sản giành lại chính quyền mong muốn xây dựng một nhà nước “cộng hòa”. Và điều đó đặt ra những tư duy mới về giá trị và đạo đức. Tư tưởng pháp quyền; tam quyền phân lập làm theo cho các giá trị hoạt động công vụ cũng phải thay đổi theo. Giai cấp vô sản đứng lên làm cuộc cách mạng lật đổ giai cấp tư sản ở một số nước trên thế giới và mong muốn xây dựng một xã hội mới, dựa trên những quan hệ mới. Quan hệ sản xuất được xác lập trên cơ sở lợi ích và hạnh phúc của nhân dân lao động; sự công bằng trong hưởng thụ và sự hài hòa giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xa hội; lấy chủ nghĩa nhân đạo cao cả cho việc giải quyết các quan hệ; quan hệ giữa con người và con người mang tính bình đẳng hơn và chú trọng xây dựng một nhà nước “của dân, do dân và vì dân đích thực”. Và từ đó tạo ra một nền tảng mới của “đạo đức vô sản”. Và đó cũng là nền tảng để ra đời một “cơ chế tập trung, bao cấp” như đã và đang tồn tại ở một số nước. Những giá trị của công vụ không chỉ được nhìn nhận, xem xét bởi từ trong các tổ chức nhà nước mà vai trò của nhân dân ngày càng gia tăng đòi hỏi phải thiết lập và vươn đến những giá trị mới. Một nhà nước ngày càng dân chủ trong tất cả phương diện; vai trò của nhân dân ngày càng trở nên yếu tố quan trọng để giám sát các hành vi ứng xử của công chức có vươn đến giá trị cốt lõi mà công dân mong muốn hay không.
  • 31. 27 * Giai đoạn pháp luật hóa các giá trị đạo đức công vụ Đạo đức công vụ tức đạo đức của người làm việc cho nhà nước nói chung và công chức nói riêng khi thực thi công việc nhà nước giao cho họ. Tùy thuộc vào pháp luật của các nước phân loại người làm việc cho nhà nước (khu vực công nói chung) mà phạm vi người làm việc cho nhà nước được gọi là công chức sẽ khác nhau. Trong điều kiện cụ thể của Việt Nam, thuật ngữ công chức đã được quy định để chỉ một nhóm người cụ thể, nhưng cũng thay đổi theo sự vận động, cải cách hoạt động quản lý nhà nước. Do đó, khi nói về đạo đức công vụ cũng có thể đề cập đến những khía cạnh đạo đức cho công chức khi thực thi công việc của họ (nhiệm vụ); nhưng cũng có thể vận dụng đạo đức thực thi công vụ cho tất cả nhóm người làm việc cho nhà nước. Trào lưu chung của tất cả các nước trên thế giới là phải pháp luật hóa những giá trị cốt lõi của công vụ (pháp luật về công vụ) và pháp luật hóa những quy tắc, chuẩn mực giá trị đạo đức và hành vi ứng xử của công chức. Từ các nước phát triển đến các nước đang và chậm phát triển đã dần dần từng bước đưa ra những giá trị chuẩn mực cho thực thi công vụ của công chức. Đây cũng là nét khác biệt giữa đạo đức nói chung và đạo đức mang tính chuẩn mực pháp lý đối với những người thực thi công việc của nhà nước. Nhiều nước ban hành “chuẩn mực đạo đức công vụ” dưới hình thức là “chuẩn mực - code”, nhưng có tính pháp lý cao của một văn bản pháp luật. Điều đó có nghĩa là “giá trị đạo đức” mang tính cưỡng bức thực hiện hơn là “tự nguyện, cam kết”. Đó cũng là giai đoạn cần thiết khi thực thi công việc của nhà nước do công chức thực hiện có nhiều nét đặc trưng. * Giai đoạn tự giác Quá trình hình thành đạo đức công vụ là một quá trình phát triển nhận thức từ tự phát (đạo đức cá nhân, đạo đức xã hội) đến thể chế hóa thành pháp luật của nhà nước và cuối cùng phải nâng lên theo chuẩn mực đạo đức mang tính tự giác. Ba giai đoạn phát triển của hình thành đạo đức công vụ có ý nghĩa khác nhau, nhưng phải hướng đến đích cuối cùng là tự giác trong việc thực hiện các hành vi đạo đức mang ý nghĩa đặc trưng cho công vụ. Đây cũng là điều mà nhiều nước trên thế giới
  • 32. 28 phấn đấu hướng đến. Khó có thể kiểm soát mọi hoạt động của công chức bằng công cụ pháp luật, vì tính đa dạng, tính toàn diện của hoạt động công vụ. Nếu thiếu tự giác, công chức sẽ “thiên vị, lợi ích riêng trên nền tảng công vụ” và khó có thể phát hiện. Phải làm cho công chức thấm nhuần những tư tưởng, giá trị và chuẩn mực của đạo đức công chức giống như “con chiên ngoan đạo”, mọi nơi mọi lúc đều tự giác thực hiện, không cần một “phong trào”. Đạo đức công vụ phải được chuẩn hóa thành pháp luật và phải huấn luyện, dạy công chức “ngấm sâu” vào họ những ý niệm, những khái niệm và những cách thức xử lý. Và hy vọng sau nhiều năm, đạo đức công vụ trở thành yếu tố tự giác. Từ quan điểm xây dựng nhà nước pháp quyền, giai đoạn hiện nay phải là giai đoạn ban hành và thực thi những chuẩn mực đạo đức không chỉ là những quy định có tính “chung” mà phải là những hành vi cụ thể. Đạo đức công vụ không phải chỉ nói về những điều cấm, những gì phải tạo ra mà phải cụ thể hóa thành những hành vi cụ thể. Đây mới chính là những biểu hiện của đạo đức được giám sát. Không được sử dụng giờ làm việc công cho việc riêng chỉ là kết quả. Do đó, phải thể hiện bằng thước đo, hành động cụ thể. Những quy định mang tính chuẩn mực cho các hành vi ứng xử của công chức khi thực thi công việc của nhà nước giao cho họ trên các văn bản pháp luật chỉ mới là một khía cạnh đạo đức công vụ. Vấn đề quan trọng chính là những cơ chế để thực hiện được những giá trị chuẩn mực đó. Trước hết, phải cho tất cả công chức hiểu rõ bản chất, nội dung và các tiêu chuẩn của những chuẩn mực hành vi đó. Đây có thể coi là điều kiện tiên quyết của để “chuẩn mực đạo đức công vụ” có hiệu lực. Chúng ta có nhiều điều không được làm, nhưng chỉ có những nhà hàn lâm, giáo viên đi dạy nói về những điều đó, nhưng chính đối với những người thực thi công việc của nhà nước giao cho họ, ít khi hiểu, thuộc và luôn luôn nhớ khi tiến hành bất cứ hoạt động nào. Điều này xảy ra không chỉ đối với những “chuẩn mực đạo đức” mà ngay cả không ít chuẩn mực chuyên môn, thủ tục khác. Công chức thực thi công việc nhà nước giao cho “không nắm luật, quy định liên quan đến công việc đó” không phải là trường hợp không phổ biến.
  • 33. 29 Chuẩn mực quy định về hành vi ứng xử, giao tiếp hay các giá trị cốt lõi mà công vụ phải hướng đến phải gắn liền chặt chẽ với mọi cán bộ, công chức trong quá trình thực thi công việc của nhà nước giao cho họ. Họ phải được đào tạo, hướng dẫn để hiểu rõ nội hàm của những chuẩn mực đó. Một trong những giá trị cốt lõi thường được các nước nêu ra là “liêm chính” nhưng lại không chỉ rõ nội hàm cho công chức hiểu để đối chiếu, thực hiện. Điều này chính là sự hạn chế của những người soạn thảo ra các “chuẩn mực đạo đức”, nhưng thiếu giải thích, hướng dẫn họ cụ thể về nội hàm. Hiện chúng ta chỉ mới có “khung luật” chứ chưa phải “luật chi tiết, luật giải thích”. Ví dụ, trong chuẩn mực đạo đức của công chức về kê khai tài sản, cần phải cụ thể hóa thành nhiều điều “quy định tất cả những lợi ích hợp pháp, lợi nhuận của mọi hoạt động trên thị trường chứng khoán, cho thuê bất động sản, góp vốn đầu tư,… đều phải kê khai hàng năm và ngay cả lợi ích có được của những người có liên quan như vợ, chồng, con cái và người thân cũng phải được quan tâm để đưa vào xem xét”. Điều này sẽ tạo cho công chức biết những gì thuộc phạm trù chuẩn mực hành vi đạo đức quy định. Khía cạnh thứ hai của hiệu lực của chuẩn mực đạo đức thuộc về bộ phận của những nhà quản lý các cấp trong bộ máy nhà nước. Họ có thể là những người đứng đầu nhà nước, chính phủ đến các cấp quản lý thấp nhất trong bộ máy nhà nước. Đây là những người theo phong cách “lãnh đạo nêu gương”, phải là những người “tuân thủ những điều quy định của pháp luật” cũng như những chuẩn mực đạo đức của các văn bản pháp luật về đạo đức. Đây là điều cực kỳ quan trọng. Nhưng đồng thời đây cũng là điều đã và đang đòi hỏi phải sự nỗ lực lớn của các nhà quản lý. Thực tế của nhiều lĩnh vực đạo đức cũng như đạo đức công vụ, vấn đề cơ bản vẫn là “cam kết mang tự nguyện của việc tuân thủ những giá trị đạo đức” của tổ chức, cộng đồng, xã hội và công vụ. Ý thức đạo đức trở thành nền tảng quan trọng của hành vi, hoạt động của cá nhân. Cần phải làm cho mỗi cán bộ, công chức phải có “năng lực đạo đức”. Đây là một trong những khía cạnh cần và đủ cho một chuẩn mực đạo đức có hiệu lực. Công chức khi thực thi công vụ phải trở thành một người thành thạo trong
  • 34. 30 công việc đưa ra những quyết định mang “giá trị đạo đức công vụ”, tư vấn, tham mưu cho lãnh đạo phải dựa trên một chuẩn mực “vô tư, không vụ lợi”. Thực thi các công vụ phải dựa trên nguyên tắc tự giác là tôn trọng pháp luật và hỗ trợ công dân tôn trọng pháp luật. Đây chính là những yếu tố thể hiện công chức trong thi hành công vụ có năng lực đạo đức hay không. Công chức khi thi hành công vụ, xét trên một phương diện của năng lực đạo đức, phải là người “tuân thủ pháp luật” và hỗ trợ để người dân tuân thủ pháp luật. Nhưng trên thực tế, năng lực này của công chức khi thi hành công vụ còn hạn chế. Đây là một trong những nội dung của nhiều cuộc cải cách hành chính trên thế giới. Nhiều nước (trong đó có Việt Nam) mong muốn xây dựng một môi trường hoạt động của hành chính nhà nước là nền hành chính phải được tổ chức thành một hệ thống thống nhất ổn định, hoạt động thông suốt, trên cơ sở phân công, phân cấp và chế độ trách nhiệm rành mạch, có kỷ cương nghiêm ngặt, cơ quan hành chính và cán bộ, công chức nhà nước chịu sự giám sát chặt chẽ của nhân dân. Áp dụng các cơ chế, biện pháp hữu hiệu ngăn ngừa những hành vi mất dân chủ, tự do, tùy tiện, quan liêu, tham nhũng, sách nhiễu, gây phiền hà cho dân [7]. Trên thực tế, để bộ máy hành chính nhà nước vận hành trong môi trường đạo đức và hướng đến các giá trị cốt lõi như luật công vụ của các nước đã ghi nhận: - Trước hết, trong môi trường đạo đức đó, không có một lý do gì để đưa ra các quyết định trái pháp luật và tất cả các quyết định phải được dựa theo luật. Giá trị của công vụ chính là “tuân thủ pháp luật”. - Hai là, công chức khi liên quan đến những vấn đề mang tính “sai lệch” về đạo đức, tức làm cho môi trường hoạt động của hành chính nhà nước bị xấu đi, phải giải quyết tích cực ngay. Không thể để “xem sao”, nếu không sao có thể “nhận phong bì”. - Ba là, phải công khai những “hành vi thiếu đạo đức” của tất cả các loại công chức và bảo vệ một cách tích cực những ai phát hiện ra những người tố giác. Đây là một trong những vấn đề cần được quan tâm. Luật Phòng chống tham nhũng cũng đã có những điều khoản bảo vệ như vậy, nhưng đó chỉ mới trên khía cạnh “giấy tờ”.
  • 35. 31 - Bốn là, một hình thức “nhằm kiểm toán hoạt động” của công chức khi thi hành công vụ gắn liền với những “hành vi vi phạm chuẩn mực đạo đức hay giá trị cốt lõi”. Có khá nhiều lĩnh vực mà tính “liêm chính” có thể dễ bị vi phạm. Nhiều hoạt động thực thi công vụ của công chức như quản lý tài chính công; đấu thầu các dự án bằng vốn ngân sách nhà nước; các hoạt động liên quan đến quản lý nguồn nhân lực, đều là những lĩnh vực rất đáng quan tâm về “liêm chính”. Các nước đều có pháp luật về vấn đề này nhưng công chức và sự tuân thủ các quy định pháp luật và đó cũng chính là “pháp luật đạo đức” thường có những hẫng hụt. Xóa bỏ những “lỗ hổng” đó đòi hỏi phải có hoạt động “kiểm toán cũng phải rất liêm chính”. - Năm là, quản lý nguồn nhân lực trong khu vực nhà nước hay quản lý cán bộ, công chức thường được quy định trong văn bản pháp luật. Tuy nhiên, việc quy định quá chung, và quá nhẹ sẽ không có tác dụng răn đe và đòi hỏi “sự chấp hành nghiêm chỉnh”. Luật Cán bộ, công chức cũng đưa ra 5 mức độ xử lý kỷ luật công chức, nhưng thực tế có lẽ công chức rơi vào mức độ thứ nhất, hai là chủ yếu. Nhiều vấn đề liên quan đến vi phạm của công chức trong hoạt động đấu thầu, hoạt động quản lý nguồn nhân lực, cũng chỉ dừng lại ở khiển trách và cảnh cáo. Mặc dù chính sách cán bộ của Đảng và Nhà nước ta “rất khoan dung và độ lượng với cán bộ, công chức”, nhưng muốn xây dựng một nhà nước pháp quyền, đích thực những con người cầm pháp luật phải “tuyệt đối không được vi phạm pháp luật”. Do đó, những vi phạm các quy định “pháp luật”, cần phải được xử lý nghiêm khắc bằng việc “không được làm cho nhà nước” - Sáu là, yếu tố tham gia của nhân dân trong hoạt động quản lý nhà nước là một trong tám yếu tố của việc hướng đến xây dựng một mô hình quản trị nhà nước tốt. Muốn pháp luật về đạo đức công vụ có hiệu lực, cần phải mở rộng cơ chế “quyền của công dân như là một chủ thể”. Họ có quyền: kiến nghị, yêu cầu, tố cáo, khiếu nại và khiếu kiện. Cần có một cơ chế bảo đảm tính pháp quyền của quan hệ giữa công dân và nhà nước cũng như công chức nhà nước trong việc giải quyết các đề xuất của công dân.
  • 36. 32 Kết luận chƣơng 1 Thống nhất quan điểm về công vụ, công chức, đạo đức công chức làm cơ sở để nghiên cứu, đánh giá về đạo đức công vụ trong nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là việc làm cần thiết. Vì nếu không xác định rõ, thì mọi điều viết về đạo đức công vụ cũng không có tính xác định. Đạo đức công vụ của công chức là một bộ phận đạo đức công chức, là hệ thống các nguyên tắc, các quy tắc hành vi, xử sự trong công vụ, nhằm điều chỉnh thái độ, hành vi, cách xử sự, chức trách, bổn phận, nghĩa vụ của cán bộ, công chức trong hoạt động công vụ. Đạo đức công vụ là một hiện tượng xã hội, cũng giống như các hiện tượng khác, có quá trình hình thành và phát triển của nó. Đạo đức công vụ trước hết được hình thành từ đạo đức cá nhân; hình thành từ khía cạnh đạo đức xã hội công chức; đạo đức công vụ là đạo đức nghề nghiệp đặc biệt đồng thời đạo đức công vụ là sự tổng hòa của hai nhóm đạo đức khi thực thi công việc của công chức và tuân thủ pháp luật. Vấn đề đạo đức trong nền công vụ là một nội dung được quan tâm của Nhà nước. Bởi vì, mọi quyền lực của Nhà nước được thực thi phản ánh qua nền công vụ; và hoạt động công vụ nếu không có những tiêu chuẩn đạo đức làm chuẩn mực thì uy tín của Nhà nước sẽ không thể có, nếu có cũng sẽ mờ nhạt. Về bản chất thì quyền lực của Nhà nước chính là uy tín của nền công vụ, trong đó được phản ánh qua một trong các nội dung cốt yếu của nền công vụ - đó là đội ngũ công chức. Về mặt khách quan, đội ngũ công chức của nền công vụ là biểu hiện quyền lực của Nhà nước, có nghĩa rằng đội ngũ công chức đang thực hiện chức năng, nhiệm vụ quyền lực Nhà nước, đại diện quyền lực của Nhà nước. Về mặt chủ quan, đội ngũ công chức cần phải có các chuẩn mực đạo đức để thông qua đó đội ngũ công chức mới tự rèn luyện và khép mình vào khuôn khổ, khuôn khổ đó được phản ảnh và được thể hiện chính là hiệu quả quản lý của quản lý Nhà nước. Chính vì vậy, Nhà nước cần thiết phải định ra các chuẩn mực đạo đức trong nền công vụ của mình.
  • 37. 33 Chương 2 THỰC TRẠNG ĐẠO ĐỨC CÔNG VỤ Ở VIỆT NAM VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA Đạo đức công vụ là nhân tố điều chỉnh hành vi, cách xử sự, thái độ của công chức trong hoạt động công vụ, được pháp luật thể chế hóa thành các quy tắc pháp lý. Đạo đức công vụ của công chức có ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả hoạt động của nền công vụ nhà nước, vì vậy việc đánh giá thực trạng đạo đức công vụ của công chức được đánh giá thông sự điều chỉnh của pháp luật về đạo đức công vụ, qua kết quả phục vụ của của nền công vụ và những khiếm khuyết hạn chế của nó. 2.1. Thực trạng sự điều chỉnh của pháp luật về đạo đức công vụ ở Việt Nam 2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển chế định đạo đức công vụ trong pháp luật Việt Nam Cùng với sự ra đời Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ngày nay là Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là sự ra đời của hệ thống pháp luật mới. Trong hệ thống pháp luật mới này xuất hiện và ngày càng hoàn thiện hệ thống các quy phạm pháp luật về công chức, công vụ. Tất nhiên, nhiều nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức mới đã được thể chế hóa, chuyển hóa thành những quy phạm pháp luật, chuẩn mực hành vi của công chức trong thi hành công vụ. Điều này đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu xây dựng một nền công vụ mới, gắn với một Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Ngay từ năm 1950, trong điều kiện khó khăn, gian khổ của công cuộc kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh 76/SL ngày 20/5/1950 ban hành Quy chế công chức. Văn bản lịch sử này có thể nói là lần đầu tiên Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ban hành một hệ thống các quy phạm pháp luật khá hoàn chỉnh làm cơ sở pháp lý cho việc xây dựng đội ngũ công chức cách mạng Việt Nam. Trong văn bản này, nội dung đạo đức công vụ cũng đã được thể hiện rất đậm nét: Công chức Việt Nam phải đem tất cả sức lực và tâm trí, theo đúng đường lối của Chính phủ và nhằm lợi ích của nhân dân mà làm việc. Công chức Việt Nam phải phục vụ nhân dân, trung thành với