SlideShare a Scribd company logo
1 of 134
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
PHẠM ĐỨC TRUNG
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ THI HÀNH HÌNH PHẠT TÙ CHO HƢỞNG ÁN TREO,
CẢI TẠO KHÔNG GIAM GIỮ
(trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Nam định)
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2014
2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
PHẠM ĐỨC TRUNG
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ THI HÀNH HÌNH PHẠT TÙ CHO HƢỞNG ÁN TREO,
CẢI TẠO KHÔNG GIAM GIỮ
(trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Nam Định)
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số : 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Khắc Hải
HÀ NỘI - 2014
3
Lêi cam ®oan
T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn
cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ
trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh
x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña
luËn v¨n ch-a tõng ®-îc ai c«ng bè trong bÊt kú
c«ng tr×nh nµo kh¸c.
T¸c gi¶ luËn v¨n
Ph¹m §øc Trung
4
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các sơ đồ
Danh mục các biểu đồ
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THI HÀNH HÌNH PHẠT TÙ
CHO HƢỞNG ÁN TREO, CẢI TẠO KHÔNG GIAM GIỮ
9
1.1. Khái niệm, đặc điểm thi hành án hình sự và thi hành hình phạt
tù cho hưởng án treo, thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ
9
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm thi hành án hình sự 9
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo 14
1.1.3. Khái niệm, đặc điểm thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ 20
1.2. Các chủ thể thi hành án treo, cải tạo không giam giữ 25
1.2.1. Tòa án 26
1.2.2. Viện kiểm sát 27
1.2.3. Hệ thống tổ chức cơ quan thi hành án treo, cải tạo không giam
giữ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự
28
1.2.4. Công an cấp xã 32
1.2.5. Gia đình, các cơ quan, tổ chức, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ở
cơ sở, cộng đồng dân cư nơi người bị kết án cư trú
33
1.2.6. Người hưởng án treo, chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ 34
1.3. Nội dung thi hành án treo, cải tạo không giam giữ 35
1.3.1. Ra quyết định thi hành hoặc ủy thác thi hành án 35
1.3.2. Trình tự, thủ tục thi hành án treo, cải tạo không giam giữ 36
5
1.3.3. Thời gian thi hành án treo, cải tạo không giam giữ 38
1.3.4. Miễn, giảm chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ và rút
ngắn thời gian thử thách của án treo
39
1.3.5. Xóa án tích đối với án treo, cải tạo không giam giữ 42
Chương 2: THỰC TRẠNG THI HÀNH HÌNH PHẠT TÙ CHO HƢỞNG
ÁN TREO, CẢI TẠO KHÔNG GIAM GIỮ TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH NAM ĐỊNH VÀ MỘT SỐ TỒN TẠI, VƢỚNG MẮC
44
2.1. Tình hình thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo
không giam giữ trên địa bàn tỉnh nam định
44
2.1.1. Đặc điểm về địa lý, dân cư, kinh tế, xã hội và hoạt động của
các loại tội phạm, vi phạm pháp luật trên địa bàn tỉnh Nam Định
44
2.1.2. Số liệu người chấp hành án treo, cải tạo không giam giữ trên
địa bàn tỉnh Nam Định từ năm 2009 đến năm 2013
48
2.1.3. Các cơ quan làm nhiệm vụ thi hành án treo, cải tạo không
giam giữ trên địa bàn tỉnh Nam Định
53
2.1.4. Thực trạng thi hành án treo, cải tạo không giam giữ của các cơ
quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trên địa bàn tỉnh Nam Định
54
2.2. Một số tồn tại, khó khăn trong công tác thi hành án treo, cải
tạo không giam giữ trên địa bàn tỉnh Nam Định
61
2.2.1. Tòa án nhân dân hai cấp trên địa bàn tỉnh Nam Định 61
2.2.2. Viện kiểm sát nhân dân hai cấp trên địa bàn tỉnh Nam Định 63
2.2.3. Cơ quan thi hành án hình sự Công an tỉnh Nam Định và Cơ
quan thi hành án hình sự Công an 10 huyện, thành phố
63
2.2.4. Ủy ban nhân dân 229 xã, phường, thị trấn 66
2.2.5. Công an cấp xã 69
2.2.6. Các cơ quan, tổ chức có liên quan đến công tác thi hành hình
phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ
72
2.2.7. Người bị kết án treo, cải tạo không giam giữ và gia đình họ 73
2.3. Nguyên nhân của những tồn tại 75
6
2.3.1. Một số quy định pháp luật về thi hành án treo, cải tạo không
giam giữ còn bất cập, chưa hoàn thiện
75
2.3.2. Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về thi
hành án treo, cải tạo không giam giữ còn hạn chế
81
2.3.3. Công tác cán bộ, cơ sở vật chất, điều kiện tổ chức thi hành án
treo, cải tạo không giam giữ còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu
cầu tình hình
82
2.3.4. Công tác phối hợp và tổ chức thi hành án của một số cấp ủy,
chính quyền, cơ quan chức năng chưa đồng bộ, chặt chẽ
84
Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THI HÀNH HÌNH
PHẠT TÙ CHO HƢỞNG ÁN TREO, CẢI TẠO KHÔNG
GIAM GIỮ
86
3.1. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả thi hành án và dự báo
những yếu tố tác động đến công tác thi hành hình phạt tù cho
hưởng án treo, cải tạo không giam giữ
86
3.1.1. Nâng cao hiệu quả thi hành án treo, cải tạo không giam giữ
bắt nguồn từ sự đòi hỏi của sự nghiệp đổi mới, xây dựng Nhà
nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa
86
3.1.2. Nâng cao hiệu quả thi hành án treo, cải tạo không giam giữ
bắt nguồn từ những đòi hỏi của thực tiễn phải khắc phục
những tồn tại trong quá trình thi hành án treo, cải tạo không
giam giữ hiện nay
89
3.1.3. Dự báo những yếu tố tác động đến công tác thi hành án treo,
cải tạo không giam giữ
91
3.2. Giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về thi hành
hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ
93
3.2.1. Sửa đổi, bổ sung một số quy định của Bộ luật Hình sự, Tố
tụng Hình sự liên quan đến công tác thi hành án treo, cải tạo
không giam giữ
93
7
3.2.2. Sửa đổi, bổ sung một số nội dung quy định của Luật Thi hành
án hình sự năm 2010
94
3.2.3. Phát huy vai trò của các cơ quan chức năng trong việc ban
hành các văn bản hướng dẫn chi tiết thi hành Luật Thi hành án
hình sự có nội dung liên quan đến thi hành án treo, cải tạo
không giam giữ
95
3.2.4. Phát huy vai trò, tính chủ động của các nhà nghiên cứu khoa
học, hoạch định chính sách quốc gia và các tổ chức, đoàn thể xã
hội trong việc tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện thể chế pháp luật
96
3.3. Giải pháp nâng nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật thi hành
hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ
97
3.3.1. Tiếp tục đổi mới về nhận thức và tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với công tác thi hành án treo, cải tạo không giam giữ
97
3.3.2. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật
thi hành án treo, cải tạo không giam giữ
101
3.3.3. Phát huy năng lực, trách nhiệm của các chủ thể thi hành án
treo, cải tạo không giam giữ
104
3.3.4. Nâng cao hiệu quả phối hợp giữa các chủ thể thi hành án treo,
cải tạo không giam giữ
110
3.3.5. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, xử lý nghiêm hành vi
vi phạm pháp luật thi hành án treo, cải tạo không giam giữ
112
3.3.6. Đảm bảo các điều kiện cần thiết và có chế độ chính sách cho
cán bộ làm công tác thi hành án treo, cải tạo không giam giữ
114
KẾT LUẬN 118
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 121
8
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS : Bộ luật Hình sự
BLTTHS : Bộ luật Tố tụng hình sự
THAHS : Thi hành án hình sự
UBND : Ủy ban nhân dân
9
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ
Số hiệu
bảng
Tên bảng Trang
2.1 Trình tự, thủ tục thi hành án treo, cải tạo không giam giữ 38
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Số hiệu
biểu đồ
Tên biểu đồ Trang
2.1 Tình hình tội phạm trên địa bàn tỉnh Nam Định từ năm
2009 - 2013
49
2.2 Tình hình thực tế thi hành án treo, cải tạo không giam giữ
trên địa bàn tỉnh Nam Định từ năm 2009 - 2013
51
10
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thi hành án hình sự (THAHS) là một trong những hoạt động quan
trọng của Nhà nước nhằm đưa các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu
lực pháp luật ra thi hành trong thực tế; liên quan trực tiếp đến bảo vệ an ninh
quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội, góp phần bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, bảo vệ pháp chế xã hội chủ
nghĩa, phục vụ yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hoạt động THAHS là khâu cuối cùng và có ý nghĩa quan trọng trong
bảo đảm hiệu quả thực hiện quyền tư pháp, hiện thực hóa công lý mà Tòa án đã
nhân danh Nhà nước ra bản án, quyết định; mặt khác, thi hành án kịp thời,
nghiêm chỉnh các phán quyết của Tòa án đối với các hành vi phạm tội chính là
biện pháp khôi phục lại các quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của tổ chức
và cá nhân bị xâm hại, bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân.
Từ trước đến nay, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản quy phạm
pháp luật làm cơ sở cho tổ chức và hoạt động THAHS, được quy định phong
phú, đa dạng, có sự kế thừa, bổ sung ngày càng hoàn thiện, phù hợp với xu
thế phát triển của đất nước và đáp ứng yêu cầu ở từng thời điểm lịch sử khác
nhau. Tuy nhiên, hầu hết mới chỉ chủ yếu tập trung vào công tác thi hành hình
phạt tù, tử hình, trục xuất mà chưa quan tâm đúng mức đến việc tổ chức thi
hành các hình phạt khác, nhất là hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không
giam giữ. Hệ thống các văn bản quy pháp pháp luật về thi hành hình phạt tù
cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ đã được ban hành ở những thời
điểm khác nhau nên còn bất cập, chưa đồng bộ, nhiều nội dung chưa được quy
định cụ thể, gặp nhiều khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn thi hành. Bên cạnh
đó, qua thực tiễn thi hành cho thấy, hệ thống các cơ quan có thẩm quyền trong
thi hành án chưa được phân công, phối hợp chặt chẽ, hiệu quả, phát huy đầy đủ
vai trò, trách nhiệm trong quản lý, chỉ đạo, tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát,
11
nhất là vai trò, trách nhiệm của Tòa án, Ủy ban nhân dân (UBND) các cấp, Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể; Cơ chế giám sát, chế tài cưỡng chế khi người bị
kết án không chấp hành hoặc chấp hành không nghiêm, có vi phạm chưa được
quy định đầy đủ, kịp thời, bảo đảm tính răn đe, giáo dục, phòng ngừa tái phạm;
Công tác đào tạo, bồi dưỡng, chế độ chính sách, nâng cao trình độ cho cán bộ
thực thi và cơ sở vật chất cho công tác thi hành án chưa đáp ứng yêu cầu thực
tiễn đặt ra... Tất cả những tồn tại và hạn chế nêu trên đã làm giảm hiệu quả
của công tác thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ
trên địa bàn tỉnh Nam Định nói riêng và ở Việt Nam nói chung.
Hiện nay, khoa học tư pháp hình sự trong và ngoài nước đã có nhiều
công trình khoa học nghiên cứu về thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo,
cải tạo không giam giữ nhưng chủ yếu chỉ đề cập một cách tổng thể và có hệ
thống chung nhất về hình phạt, THAHS hoặc chuyên sâu về hình phạt tù cho
hưởng án treo, cải tạo không giam giữ mà chưa có một công trình khoa học
nào nghiên cứu có hệ thống, toàn diện và sâu sắc riêng về thi hành hình phạt
tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ. Hơn nữa, các thông tin, số liệu
của các công trình nghiên cứu trên đã lạc hậu so với thực tiễn, nhất là trong
thời gian qua có nhiều cơ quan chức năng, các nhà nghiên cứu đã tiến hành
khảo sát, cập nhật một cách toàn diện để phục vụ tổng kết thi hành Bộ luật
Hình sự (BLHS) năm 1999, Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003 và
triển khai Luật THAHS năm 2010, Hiến pháp năm 2013 đảm bảo tính thống
nhất, toàn diện, đồng bộ trong hệ thống pháp luật. Ngoài ra, trong bối cảnh
Việt Nam đang thực hiện cải cách tư pháp theo Nghị quyết số 08-NQ/TW
ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trong tâm công tác tư
pháp trong thời gian tới; Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 25/4/2005 của Bộ
Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam
đến năm 2010, định hướng đến năm 2020; và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
02/06/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 với
nội dung:
12
Coi trọng việc hoàn thiện chính sách hình sự và thủ tục tố
tụng tư pháp, đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong
việc xử lý người phạm tội. Giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng
hình phạt tiền, hình phạt cải tạo không giam giữ đối với một số loại
tội phạm… Xác định rõ trách nhiệm của Ủy ban nhân dân xã,
phường, thị trấn và của cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân
tỉnh, thành phố trong việc thi hành các hình phạt không phải là hình
phạt tù để thực hiện nghiêm túc các bản án của Tòa án. Từng bước
thực hiện việc xã hội hóa và quy định những hình thức, thủ tục để
giao tổ chức không phải là cơ quan nhà nước thực hiện một số công
việc thi hành án... [22, tr. 3]
Việc tăng cường áp dụng các hình phạt không tước tự do, nhất là hình
phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ thể hiện rõ nét nhất chính
sách phân hóa trách nhiệm hình sự và nguyên tắc nhân đạo của luật hình sự,
tạo điều kiện cho người phạm tội có cơ hội hoàn lương mà không phải cách ly
khỏi xã hội; đồng thời còn giúp giảm bớt chi phí của Nhà nước trong việc
giam giữ người phạm tội, tăng cường tính răn đe, giáo dục trong cộng đồng,
góp phần hiệu quả phòng, chống tội phạm và các vi phạm pháp luật khác....
Do đó, việc tiếp tục nghiên cứu các quy định của pháp luật và thực tiễn để
làm sáng tỏ về mặt khoa học, đưa ra phương hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả
thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ. Điều đó không
chỉ có ý nghĩa lý luận, thực tiễn và pháp lý quan trọng mà còn là lý do luận
chứng cần thiết để tôi lựa chọn đề tài "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về thi
hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ (trên cơ sở
nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Nam Định)" làm luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Do thi hành hình phạt có vị trí, vai trò quan trọng trong chính sách
hình sự của mỗi quốc gia, thể hiện được hiệu quả đạt được của cả hệ thống tư
pháp, nên trong những năm qua đã có khá nhiều công trình nghiên cứu khoa
13
học ở những mức độ khác nhau, những khía cạnh, phương diện khác nhau về
THAHS và hệ thống các hình phạt.
Trước hết, hoạt động THAHS được phân tích trong một số giáo trình
và sách tham khảo như: Luật Thi hành án hình sự năm 2010; Tài liệu tập
huấn chuyên sâu Luật Thi hành án hình sự, Nxb Lao động, năm 2011, của
GS.TS. Nguyễn Ngọc Anh chủ biên; Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt
Nam, Nxb Công an nhân dân, tái bản lần thứ 5, năm 2009, của tập thể tác giả
do TS. Hoàng Thị Minh Sơn chủ biên; Sách chuyên khảo: Pháp luật thi hành
án hình sự Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Tư pháp, năm
2006, của tập thể tác giả do PGS.TS Võ Khánh Vinh - PGS.TS Nguyễn Mạnh
Kháng chủ biên; Sách chuyên khảo: Một số vấn đề về thi hành án hình sự,
Nxb Công an nhân dân, năm 2002, của TS. Trần Quang Tiệp...
Hoặc được đề cập trong một số báo cáo, đề tài, công trình nghiên cứu khoa
học độc lập như: Một số vấn đề về hình phạt cải tạo không giam giữ, của Trần
Văn Độ, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 5/1995; Đề tài khoa học: Cơ sở lý luận và
thực tiễn nâng cao hiệu quả của các biện pháp tư pháp và các hình phạt không
phải là tù và tử hình, của Đặng Quang Phương năm 1996; Các căn cứ thi hành
án, của Trần Văn Độ, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 6/1998; Nhu cầu hoàn thiện
pháp luật về thi hành án hình sự ở nước ta hiện nay, của Nguyễn Trọng Hách,
Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 5/2002; Thi hành án: Bất cập từ cơ quan
pháp luật, của Nguyễn Khắc Bộ, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 7/2003; Quan
niệm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công phối hợp giữa các cơ
quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lực nhà nước từ góc nhìn của hoạt
động thi hành án hình sự, của Phạm Văn Tỉnh, Tạp chí Nhà nước và pháp luật,
số 1/2003; Đề tài khoa học: Luận cứ khoa học và thực tiễn của việc đổi mới tổ
chức và hoạt động thi hành án ở Việt Nam trong giai đoạn mới, của Bộ Tư pháp,
Hà Nội, 2003; Thực trạng công tác thi hành án hình sự và những kiến nghị, của
Nguyễn Phong Hòa, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 21/2006; Kỷ yếu Hội thảo khoa
học: Về tổ chức, quản lý công tác thi hành án và báo cáo về kết quả tọa đàm về
14
mô hình quản lý công tác thi hành án một số nước trên thế giới, của Ban chỉ đạo
Cải cách tư pháp Trung ương năm 2013; Chuyên đề khoa học: Công tác thi hành
án hình sự và việc tổ chức, quản lý công tác thi hành án hình sự - thực trạng và
phương hướng hoàn thiện mô hình quản lý, của Nguyễn Ngọc Anh năm 2013 v.v...
Vấn đề thi hành hình phạt không cách ly người bị kết án ra khỏi xã
hội, bao gồm cả thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ, hình phạt tù cho
hưởng án treo còn được nhiều văn bản pháp lý quốc tế quan trọng đề cập đến
như: Công ước chống đối xử hoặc hình phạt tàn bạo, được thông qua bằng
Nghị quyết số 39/46 ngày 10/2/1984 của Đại hội đồng Liên hợp quốc; Các
quy tắc chuẩn, tối thiểu của Liên hợp quốc về các biện pháp không giam giữ
(các quy tắc Tôkyô, 1990), được thông qua bằng Nghị quyết số 45/110 ngày
14/12/1990 của Đại hội đồng Liên hợp quốc v.v...
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, khảo sát trên đây cho thấy, ở nước ta
đã có một số công trình nghiên cứu cơ bản về hệ thống hình phạt và THAHS
nói chung, hoặc các khía cạnh chuyên sâu về thi hành hình phạt tù, tử hình,
trục xuất, còn riêng đối với thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo
không giam giữ chưa được quan tâm nghiên cứu đúng mức hoặc chỉ mới
được thể hiện một phần trong kết quả của các công trình nghiên cứu khác về
hình phạt, THAHS, các quy định của pháp luật có liên quan chứ chưa được
triển khai nghiên cứu độc lập, chuyên sâu, đánh giá lý luận và tổng kết thực
tiễn. Mặt khác, từ trước đến nay chưa có một đề tài nghiên cứu nào đề cập đến
tình hình thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ trên
địa bàn tỉnh Nam Định. Do vậy, việc nghiên cứu đề tài này không trùng với
bất kì công trình nào đã được nghiên cứu trước đây.
Như vậy, tình hình nghiên cứu trên đây lại một lần nữa cho phép
khẳng định việc nghiên cứu đề tài "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về thi
hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ (trên cơ sở
nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Nam Định)" là đòi hỏi khách quan, cấp
thiết, vừa có tính lý luận, vừa có tính thực tiễn.
15
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là nghiên cứu các quy định của pháp luật và
thực tiễn thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, từ
đó luận văn đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp
luật, cũng như đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả của công tác thi
hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ trong thực tiễn.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với phạm vi nghiên cứu nêu trên, luận văn tập trung giải quyết những
nhiệm vụ chính như sau:
- Làm rõ một số nội dung cơ bản về lý luận khoa học và quy định của
pháp luật về THAHS, các hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam
giữ và nhất là thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ
về: khái niệm, đặc điểm, chủ thể, khách thể, nội dung, nguyên tắc, phương
pháp, hình thức thi hành án treo, cải tạo không giam giữ...
- Nghiên cứu, đánh giá thực tiễn thi hành hình phạt tù cho hưởng án
treo, cải tạo không giam giữ, trên cơ sở có so sánh, đối chiếu với tình hình
thực tiễn thi hành án trên địa bàn tỉnh Nam Định.
- Phân tích, làm rõ những kết quả đạt được cũng như những tồn tại,
khó khăn trong việc thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không
giam giữ trên địa bàn tỉnh Nam Định từ năm 2009 đến 2013.
- Trên cơ sở nghiên cứu để đề xuất phương hướng và giải pháp nâng
cao hiệu quả thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu, giải quyết những vấn đề xung quanh lý luận và
thực tiễn thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, thi hành hình phạt cải tạo
không giam giữ trên địa bàn tỉnh Nam Định, nguyên nhân của những tồn tại,
hạn chế để đề xuất, kiến nghị một số giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật
và nâng cao hiệu quả thi hành trong thực tiễn.
16
Về thời gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn thi hành hình phạt tù cho
hưởng án treo, cải tạo không giam giữ trong 05 năm (2009 - 2013).
4. Phƣơng pháp luận và các phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật
lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng mác-xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà
nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước
pháp quyền, về chính sách hình sự, về cải cách tư pháp được thể hiện trong các
Nghị quyết Đại hội Đảng khóa VII, VIII, IX, X, XI và các Nghị quyết số 08-NQ/TW
ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 26/5/2005 của Bộ Chính trị.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các phương
pháp cụ thể và đặc thù của khoa học luật hình sự như: phương pháp phân tích và
tổng hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp diễn dịch; phương pháp
quy nạp; phương pháp thống kê, điều tra xã hội học để tổng hợp các tri thức
khoa học và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong luận văn.
Ngoài ra, việc nghiên cứu đề tài còn dựa vào số liệu trong các báo cáo
của các ngành Công an, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân các cấp
trong những năm 2009 - 2013 và thông tin, tài liệu trên mạng Internet để phân
tích, đánh giá, tổng hợp các vấn đề lý luận và thực tiễn xung quanh hoạt động
thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ trên địa bàn
tỉnh Nam Định nói riêng và trên địa bàn cả nước nói chung.
5. Những điểm mới và đóng góp của luận văn
Đây là công trình nghiên cứu đầu tiên và có hệ thống ở cấp độ một
luận văn thạc sĩ luật học về thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo
không giam giữ. Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng, góp
phần giải quyết nhiều vấn đề về phương diện lý luận và thực tiễn thi hành
hình phạt tù cho hưởng án treo, thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ.
Những điểm mới cơ bản của luận văn là:
- Tổng hợp các quan điểm khoa học trong và ngoài nước về thi hành
hình phạt tù cho hưởng án treo, thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ để
xây dựng khái niệm thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, thi hành hình
17
phạt cải tạo không giam giữ, bảo đảm tính chính xác, khoa học, đồng thời làm
rõ quá trình phát triển, hoàn thiện pháp luật và các đặc điểm, nội dung cơ bản
của thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, thi hành hình phạt cải tạo không
giam giữ trong mối tương quan so sánh với một số chế định khác;
- Nghiên cứu, đánh giá làm sáng tỏ bức tranh về tình hình thực tiễn thi
hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ trên địa bàn cả
nước nói chung và tỉnh Nam Định nói riêng; chỉ ra những tồn tại, hạn chế
trong thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ cũng
như những nguyên nhân cơ bản của các tồn tại, hạn chế đó;
- Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn đã đề
xuất phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành hình phạt tù cho
hưởng án treo, thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ trong giai đoạn xây
dựng Nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp hiện nay.
Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích
dành cho không chỉ các nhà lập pháp, mà còn cho các nhà nghiên cứu, các cán
bộ giảng dạy pháp luật, các nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên
thuộc chuyên ngành Tư pháp hình sự tại các cơ sở đào tạo, nghiên cứu pháp
luật. Kết quả nghiên cứu của luận văn còn phục vụ trang bị những kiến thức
chuyên sâu cho các cán bộ thực tiễn đang công tác tại các cơ quan THAHS,
Viện kiểm sát, Tòa án và các cơ quan nhà nước trong quá trình quản lý, tổ
chức THAHS đảm bảo khách quan, đúng pháp luật.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về thi hành hình phạt tù cho hưởng án
treo, cải tạo không giam giữ.
Chương 2: Thực trạng thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo
không giam giữ trên địa bàn tỉnh Nam Định.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành hình phạt tù cho
hưởng án treo, cải tạo không giam giữ.
18
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THI HÀNH HÌNH PHẠT TÙ
CHO HƢỞNG ÁN TREO, CẢI TẠO KHÔNG GIAM GIỮ
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ VÀ THI HÀNH
HÌNH PHẠT TÙ CHO HƢỞNG ÁN TREO, THI HÀNH HÌNH PHẠT CẢI TẠO
KHÔNG GIAM GIỮ
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm thi hành án hình sự
Hiện nay, xung quanh khái niệm THAHS còn nhiều ý kiến khác nhau,
nhưng có hai quan điểm chính:
Quan điểm thứ nhất: cho rằng THAHS là hoạt động tư pháp và là một
giai đoạn của tố tụng hình sự, tiêu biểu là nhà luật học Liên Xô (cũ) M.A
Trenxốv và một số nhà khoa học Luật học khác như TS. Nguyễn Hữu Thư,
PGS.TS. Nguyễn Tất Viễn, trong đó: (1) Thi hành án là các hoạt động bảo vệ
pháp luật, nhằm đảm bảo cho bản án, quyết định của Tòa án được thực hiện
trên thực tế, do đó về bản chất khác với các hoạt động hành chính là tổ chức
và quản lý. Việc Tòa án tuyên bản án, quyết định chưa phải là đã kết thúc
hoạt động tư pháp, vì công lý chỉ thực sự được thực hiện khi bản án, quyết
định của tòa án được thi hành đầy đủ, nên thi hành án phải là bộ phận không
thể tách rời của hoạt động tư pháp; (2) Thi hành các bản án, quyết định của
tòa án là thực hiện một quyết định tư pháp, gắn liền và tiếp theo quá trình xét
xử, chịu sự chi phối của các cơ quan tố tụng, đặc biệt là Tòa án; không phải là
thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật hay quyết định hành chính cá biệt;
(3) Cơ quan thi hành án không phải là cơ quan tiến hành tố tụng nhưng là cơ
quan có nhiệm vụ thực hiện một số hoạt động tư pháp.
Quan điểm thứ hai: cho rằng THAHS là hoạt động hành chính - tư
pháp, tiêu biểu là GS.TSKH Đào Trí Úc, PGS.TS Trần Văn Độ, GS.TS. Võ
Khánh Vinh và một số nhà khoa học Luật học khác. Tác giả đồng tình với
quan điểm thứ hai, bởi vì: (1) Thi hành án không phải là hoạt động xét xử nên
19
không phải là hoạt động tư pháp mà chỉ là hoạt động thi hành các bản án,
quyết định của Tòa án; hoạt động THAHS có mục đích, nhiệm vụ khác với
hoạt động tố tụng hình sự mặc dù có mối liên hệ chặt chẽ với tố tụng hình sự;
(2) Hoạt động thi hành án phản ánh mối liên hệ giữa quyền hành pháp và
quyền tư pháp trong thi hành án. Thủ tục thi hành án không hoàn toàn là thủ
tục tố tụng mà là quy trình của hoạt động chấp hành, điều hành. Các nguyên
tắc, phương pháp của hoạt động thi hành án không giống với hoạt động tố
tụng; mà nó bao gồm kết hợp giữa phương pháp giáo dục thuyết phục với
mệnh lệnh hành chính; (3) Trong giai đoạn thi hành án không chỉ Tòa án mà
còn nhiều cơ quan hành chính Nhà nước cùng tham gia như đã phân tích ở các
đặc điểm của THAHS. Do đó, không thể coi thi hành án là hoạt động tư pháp
đơn thuần mà có đan xen, gắn bó chặt chẽ với hoạt động hành chính. Pháp
luật được áp dụng không phải chỉ riêng luật tố tụng mà còn bao gồm các qui
định pháp luật hành chính - tư pháp.
Để làm rõ vấn đề trên, tác giả thấy cần thiết phải đi sâu tìm hiểu, phân
tích về các đặc điểm, bản chất của THAHS như sau:
Theo Từ điển tiếng Việt, thi hành là: "Thực hiện điều đã chính thức quyết
định" [35, tr. 1599]. Như vậy, thi hành án có thể được hiểu là thực hiện bản
án, quyết định của Tòa án trên thực tế; còn THAHS là thực hiện các bản án,
quyết định hình sự của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật trên thực tế. Những
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật là căn cứ để các cơ quan nhà nước,
người phải thi hành án, người được thi hành án, người có quyền và lợi ích liên
quan thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo đúng nội dung bản án, quyết định của
Tòa án. Điều đó có nghĩa là chỉ các bản án, quyết định hình sự của Tòa án đã
có hiệu lực pháp luật mới được đem thi hành. Đó là các bản án, quyết định
hình sự của Tòa án quy định tại khoản 1 Điều 255 BLTTHS gồm: (1) Những
bản án và quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị
theo trình tự phúc thẩm; (2) Những bản án và quyết định của Tòa án cấp phúc
thẩm; (3) Những quyết định của Tòa án cấp giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.
20
Mục đích, nhiệm vụ của hoạt động THAHS khác biệt so với mục đích,
nhiệm vụ của hoạt động tố tụng hình sự là quá trình làm rõ sự thật khách quan
của vụ án hình sự, xác định rõ có hay không có tội phạm xảy ra, qua đó quyết
định việc áp dụng hay không áp dụng hình phạt, biện pháp tư pháp tại bản án,
quyết định của Tòa án. THAHS là công đoạn cuối cùng của việc thực thi
quyền lực tư pháp, hiện thực hóa công lý đã được Tòa án tuyên trong các bản
án, quyết định; là quá trình tiến hành các hoạt động cần thiết nhằm thực hiện
nghiêm các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật; một mặt
bảo đảm thực hiện quyền tư pháp của Nhà nước, thể hiện sự tôn trọng của xã
hội và công dân đối với phán quyết của cơ quan nhân danh Nhà nước là Tòa
án, mặt khác nó là biện pháp hữu hiệu để khôi phục các quyền, lợi ích hợp
pháp của Nhà nước, tổ chức và công dân bị xâm hại. Điều đó không chỉ là
ước muốn của mọi người dân, mọi nhà nước dân chủ tiến bộ mà đã trở thành
những cam kết, nguyên tắc, chuẩn mực thực thi quyền tư pháp trên toàn thế
giới, thể hiện rõ ràng thông qua các Công ước quốc tế.
Để đạt được mục đích trên, đòi hỏi hoạt động THAHS phải thực hiện
tốt ba chức năng cơ bản là: (1) Chức năng bảo đảm, thực thi công lý. Công lý
được thực thi đầy đủ hay không là một phần phụ thuộc vào quá trình tổ chức
thi hành của các cơ quan, tổ chức thi hành án; (2) Chức năng cưỡng chế, được
thực hiện thông qua những biện pháp cưỡng chế của cơ quan, tổ chức thi hành
án; (3) Chức năng giáo dục, được thực hiện bằng các biện pháp động viên,
thuyết phục hoặc cưỡng chế người có nghĩa vụ thi hành án, thông qua đó giáo
dục thái độ tôn trọng pháp luật, quyền của người khác.
Thi hành án hình sự có mối quan hệ chặt chẽ với pháp luật hình sự,
nhất là mối quan hệ hữu cơ, tác động qua lại, chặt chẽ với các quy định của
pháp luật hình sự về hình phạt và biện pháp tư pháp. Trong mối quan hệ này,
hình phạt và biện pháp tư pháp giữ vai trò quyết định, quy định nội dung,
phương pháp, hình thức, thời hạn THAHS. Căn cứ vào tính chất và mức độ
nguy hiểm của từng loại tội phạm được thực hiện thì mỗi người bị kết án sẽ bị
21
áp dụng một loại hình phạt hoặc biện pháp tư pháp cụ thể. Theo đó, việc thi
hành các loại hình phạt, biện pháp tư pháp trong thực tế cũng được thực hiện
theo những trình tự, thủ tục khác biệt phụ thuộc vào mục đích và đặc điểm
của từng loại hình phạt, biện pháp tư pháp. Ngược lại, THAHS có tác động
trở lại nhất định đối với hình phạt, biện pháp tư pháp, làm cho mục đích của
hình phạt, biện pháp tư pháp được thực hiện trên thực tế. Lợi ích của Nhà
nước, tổ chức và công dân, trật tự pháp luật chỉ thực sự được đảm bảo khi
công tác THAHS được thực hiện triệt để.
Hoạt động THAHS có các quan hệ pháp luật, đối tượng điều chỉnh
khác với hoạt động tố tụng hình sự. Quá trình thi hành bản án và quyết định
hình sự của Tòa án đã có hiệu lực là một hoạt động phức tạp, đa dạng, có liên
quan đến nhiều chủ thể như: Tòa án nhân dân, Tòa án quân sự các cấp,
UBND xã, phường, thị trấn, trại tạm giam, cơ quan THAHS, cơ quan quản lý
THAHS đến UBND cấp huyện, cấp tỉnh, các bộ, ngành hoặc cơ quan, tổ
chức, đoàn thể xã hội và các cá nhân có liên quan.
Vai trò của từng loại chủ thể khi tham gia vào quá trình THAHS khác
nhau và phụ thuộc vào từng loại thi hành án. Các chủ thể THAHS phải tuân
thủ những quy định rất chặt chẽ về thi hành án. Những quy định rất chi tiết, cụ
thể như: trình tự, thủ tục ra quyết định thi hành án; cách thức tổ chức việc thi
hành án; giải quyết khiếu nại hoặc trả lời kháng nghị việc thi hành án...
Những quy định này được thực hiện một cách độc lập, do người có thẩm
quyền tiến hành mà không phụ thuộc vào các hoạt động tố tụng khác như
trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử.
Do có nhiều loại chủ thể khác nhau và liên quan đến nhiều lĩnh vực
khác nhau, lại thường diễn ra trong một khoảng thời gian khá dài nên các
quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình THAHS cũng hết sức phức tạp; có
thể phân loại thành các nhóm quan hệ như sau: (1) Các quan hệ xã hội phát
sinh phát sinh sau sau khi bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp
luật, phản ánh nội dung của việc thi hành và chấp hành các bản án, quyết định
22
của Tòa án, xác định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong việc thi hành
bản án, quyết định của Tòa án; (2) Quan hệ liên quan đến việc hình thành cơ
cấu tổ chức, quy định thẩm quyền và quy chế hoạt động của Cơ quan
THAHS; (3) Quan hệ phát sinh trong quá trình giáo dục, cải tạo người bị kết
án; quan hệ của các cơ quan khác của Nhà nước và các tổ chức xã hội khi
tham gia vào quá trình giáo dục, cải tạo người bị kết án.
Phương pháp THAHS có sự kết hợp chặt chẽ giữa phương pháp giáo
dục, thuyết phục và cưỡng chế. Như vậy, phương pháp điều chỉnh của
THAHS khác với tố tụng hình sự - sử dụng phương pháp quyền uy, phương
pháp phối hợp và chế ước. Sự tự nguyện thi hành án là một trong yếu tố quan
trọng tạo điều kiện cho hoạt động THAHS diễn ra thuận lợi, đạt được hiệu
quả cao nhất. Sự tự nguyện đối với người phải thi hành án xuất phát từ bản
chất, mục đích tốt đẹp nhân đạo trong việc hướng người thi hành án hòa nhập
với cộng đồng, tạo cho họ môi trường thân thiện, ổn định để họ được học tập,
lao động và có cơ hội quyết tâm cải tạo trở thành người có ích trong xã hội.
Để các chủ thể tự nguyện thi hành án, nhà nước phải áp dụng biện pháp
thuyết phục và cưỡng chế, lấy thuyết phục, giáo dục là chính, làm cho người
thi hành án hiểu được các quyền lợi của họ khi thực hiện tốt nghĩa vụ của
mình; song, cũng phải xử lý nghiêm minh các chủ thể khi không chấp hành
nghiêm các quy định của pháp luật thi hành án nhằm mục đích đảm bảo hiệu
lực tối đa của các bản án đã tuyên. Việc kết hợp giữa giáo dục, thuyết phục và
cưỡng chế trong quá trình THAHS đòi hỏi phải đảm bảo vận dụng linh hoạt,
phù hợp tùy theo mỗi hoàn cảnh và điều kiện cụ thể, trong đó chỉ áp dụng
cưỡng chế trong trường hợp thật cần thiết khi không có cách nào khác.
Thi hành án hình sự là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước, các
quy phạm pháp luật trong hoạt động THAHS là các quy tắc xử sự mang tính
bắt buộc chung do Nhà nước ban hành và đảm bảo thực hiện bằng các biện
pháp giáo dục, thuyết phục, cưỡng chế của nhà nước. Tuy nhiên, để hoạt động
THAHS đạt hiệu quả cao nhất thì không chỉ phụ thuộc vào sự nỗ lực của các
23
cơ quan nhà nước mà cần có sự chấp hành, phối hợp của nhiều chủ thể, sự
quan tâm tham gia của cả cộng đồng xã hội, do vậy hoạt động này còn mang
tính xã hội rộng lớn.
Từ những phân tích trên, tác giả có thể tổng hợp và đưa ra khái niệm
THAHS là hoạt động hành chính - tư pháp, do các cơ quan, tổ chức, người có
thẩm quyền tiến hành theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định, kết hợp chặt
chẽ giữa phương pháp giáo dục, thuyết phục và cưỡng chế để đưa bản án,
quyết định của Tòa án ra thực hiện trên thực tế nhằm bảo đảm lợi ích của Nhà
nước, tổ chức và công dân, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm thi hành hình phạt tù cho hƣởng án treo
Trên thế giới, mỗi quốc gia có quy định khác nhau về chế định này,
chẳng hạn luật hình sự của Anh và Mỹ coi án treo là trường hợp hoãn tuyên
án kèm theo biện pháp bảo lĩnh hoặc biện pháp bảo đảm bằng tiền. Luật hình
sự của Pháp, Bỉ và một số nước coi án treo là việc hoãn hoặc miễn chấp hành
hình phạt. Các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa trước đây coi án treo là
biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, nhưng cũng có nước coi
án treo là hình phạt chính như Cộng hòa dân chủ Đức.
Ở nước ta, chế định án treo được qui định ngay từ những năm đầu của
Nhà nước dân chủ nhân dân và tồn tại cho đến ngày nay, mặc dù chưa có văn
bản luật nào đưa ra định nghĩa chính thức án treo là gì, song nhìn chung các
văn bản đều đưa ra những qui định về án treo, điều kiện được hưởng án treo.
Trải theo dòng lịch sử lập pháp Việt Nam, các quy định về án treo có một số
thay đổi và ngày càng hoàn thiện nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh và phòng
ngừa tội phạm. Văn bản đầu tiên quy định về án treo là Sắc lệnh số 21 ngày
14/2/1946 của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa quy định về tổ chức
của Tòa án quân sự thiết lập tại Bắc, Trung và Nam Bộ, trong đó:
Khi phạt tù, Tòa án có thể cho tội nhân được hưởng án treo
nếu có những lý do đáng khoan hồng. Bản án xử treo sẽ tạm đình
chỉ việc thi hành án. Nếu trong năm năm bắt đầu từ ngay tuyên án,
24
tội nhân không bị tòa án làm tội một lần nữa về một tội mới thì bản
án đã tuyên sẽ bị hủy đi, coi như không có. Nếu trong năm năm ấy,
tội nhân lại bị kết án một lần nữa trước một tòa án thì bản án treo sẽ
đem ra thi hành [131, tr. 2].
Bộ luật hình sự 1985, BLHS 1999, được sửa đổi, bổ sung năm 2009
xác định án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện.
Khoản 1 Điều 60 BLHS 1999 quy định: "Khi xử phạt tù không quá ba năm,
căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét
thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì tòa án cho hưởng án treo
và ấn định thời gian thử thách từ một năm đến năm năm" [41]. So với BLHS
năm 1985, chế định án treo trong BLHS năm 1999 có nhiều thay đổi, trong đó
mức hình phạt tù xem xét cho hưởng án treo từ 5 năm xuống còn 3 năm tù;
điều kiện thử thách không phạm tội mới thay thế cho điều kiện không phạm
tội mới do cố ý hoặc không phạm tội mới do vô ý và bị phạt tù.
Thời gian qua, đã có nhiều nhà nghiên cứu đưa ra các quan điểm về án
treo và mặc dù có khác nhau trong cách đặt vấn đề nhưng nhìn chung các tác
giả đều thống nhất với sự hướng dẫn, giải thích của Hội đồng thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao tại Nghị quyết số 01/1990/NQ-HĐTP ngày 18/10/1990 và
mới đây nhất là Nghị quyết số 01/2013/NQ-HĐTP ngày 06/11/2013, có thể
thống nhất xác định: án treo là một biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có
điều kiện, được Tòa án áp dụng đối với người phạm tội bị phạt tù không quá 3
năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, xét
thấy không cần buộc phải chấp hành hình phạt tù. Trên cơ sở đó, tác giả rút ra
nhận xét về đặc điểm hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo:
Thứ nhất: Án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều
kiện, không phải là hình phạt tù, đây là điểm cần phân biệt. Pháp luật Hình sự
Việt Nam quy định bảy hình phạt chính trong đó có hình phạt tù, còn án treo
là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù khi người phạm tội có đủ các điều
kiện theo quy định của pháp luật hình sự hiện hành;
25
Thứ hai: Người được hưởng án treo sẽ phải chịu một thời gian thử
thách bằng lần mức hình phạt tù, nhưng không được dưới một năm và không
quá năm năm; phương pháp thử thách là thông qua việc phải chịu sự giám sát,
giáo dục của cơ quan tổ chức được Tòa án giao trách nhiệm giám sát, giáo
dục để chứng tỏ sự cải tạo tích cực, trở thành người có ích cho xã hội;
Thứ ba: Trong thời gian thử thách, nếu người đó phạm tội mới thì
biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù bị xóa bỏ, người được hưởng án treo
buộc phải chấp hành hình phạt tù trong bản án mà Hội đồng xét xử đã cho hưởng
án treo trước đó cộng với hình phạt của bản án về tội phạm mới thực hiện.
Theo Nghị định số 61/2000/NĐ-CP ngày 30/10/2000 của Chính phủ
về thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, thì việc thi hành hình phạt tù cho
hưởng án treo nhằm tạo điều kiện cho người được hưởng án treo làm ăn, sinh
sống và chứng tỏ sự hối cải, hoàn lương của mình ngay trong môi trường xã
hội bình thường, dưới sự giám sát, giáo dục của cơ quan, tổ chức, đơn vị quân
đội, cơ sở giáo dục, đào tạo hoặc UBND xã, phường, thị trấn nơi người được
hưởng án treo làm việc, công tác, học tập hoặc cư trú và gia đình của người
đó. Người được hưởng án treo phải chịu thử thách dưới sự giám sát, giáo dục
của cơ quan, tổ chức giám sát, giáo dục và gia đình của người đó. Theo Luật
THAHS năm 2010, thi hành án treo là việc cơ quan, người có thẩm quyền theo
quy định của Luật này giám sát, giáo dục người bị phạt tù được hưởng án treo
trong thời gian thử thách. Từ hai quy định trên tác giả nhận thấy, khái niệm thi
hành hình phạt tù cho hưởng án treo và thi hành án treo là một, cách giải thích,
đặt vấn đề trong Luật THAHS có cô đọng, ngắn gọn hơn nhưng về bản chất
không thay đổi so với quy định tại Nghị định số 61/2000/NĐ-CP của Chính phủ.
Bên cạnh những đặc điểm chung của THAHS, thi hành án treo có một
số đặc điểm cơ bản:
Thứ nhất: Thi hành án treo là một bộ phận cấu thành của công tác
THAHS, là hoạt động hành chính - tư pháp của cơ quan, tổ chức, người có
thẩm quyền tiến hành theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định để đưa bản
26
án, quyết định của Tòa án ra thực hiện trên thực tế, bảo đảm lợi ích của Nhà
nước, tổ chức và công dân, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai: Thi hành án treo là một trong những hoạt động thi hành án
phạt không giam giữ, có tính nhân đạo sâu sắc, xuất phát từ bản chất của chế
định án treo trong pháp luật hình sự Việt Nam, kết hợp giữa trừng trị và giáo
dục; người chấp hành án treo không bị cách ly hoàn toàn khỏi đời sống xã
hội, quyền tự do thân thể của bị án vẫn được đảm bảo, họ chỉ bị hạn chế một
số quyền nhất định do pháp luật quy định và nhận được sự quan tâm tạo điều
kiện tối đa để làm ăn, sinh sống và chứng tỏ sự hối cải, hoàn lương của mình
ngay trong môi trường xã hội bình thường, dưới sự giám sát, giáo dục của gia
đình, UBND cấp xã và các cơ quan, tổ chức, đoàn thể xã hội nơi người được
hưởng án treo công tác, cư trú. Tính nhân đạo trong thi hành án treo còn thể
hiện ở phương pháp thi hành án là lấy giáo dục thuyết phục, cảm hóa, động
viên, khuyến khích là chính, hạn chế việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế
hoặc mệnh lệnh hành chính, giúp người bị kết án nhận ra lỗi lầm, tự nguyện
sửa chữa, cải tạo thành người có ích cho xã hội và được thể hiện rất rõ tại
Điều 65 Luật THAHS.
Thứ ba: Thi hành án treo có ý nghĩa xã hội to lớn, thể hiện chính sách
nhân đạo của Đảng, Nhà nước, phù hợp với xu thế chung của thế giới. Tại
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020 đề ra: "Coi trọng việc hoàn thiện chính sách hình
sự và thủ tục tố tụng tư pháp, đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện
trong việc xử lý người phạm tội" [22, tr. 3]. Tại bộ Các quy tắc chuẩn, tối
thiểu của Liên hợp quốc về các biện pháp không giam giữ, còn gọi là các quy
tắc Tôkyô năm 1990, được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua bằng Nghị
quyết số 45/110 ngày 14/12/1990 khẳng định:
Các quốc gia thành viên phải xây dựng những biện pháp
không giam giữ trong hệ thống pháp luật của nước mình nhằm đưa
ra các cách lựa chọn khác, từ đó giảm sử dụng biện pháp cầm tù và
27
nhằm tạo cơ sở hợp lý cho những chính sách tư pháp hình sự, thông
qua việc giám sát các quyền con người, các yêu cầu công bằng xã
hội cũng như nhu cầu phục hồi của người phạm tội [30, tr. 759].
Thứ tư: Khác với các hình phạt tù, việc thi hành án treo không giao cho
một cơ quan chuyên trách thực hiện, thể hiện rất rõ chính sách xã hội hóa công
tác thi hành án của Đảng và Nhà nước ta trong những năm gần đây. Trong đó,
UBND cấp xã hoặc đơn vị quân đội giữ vai trò quan trọng, là cơ quan trực tiếp
được giao nhiệm vụ giám sát, giáo dục người chấp hành án. Sự phối hợp đồng
bộ giữa cơ quan, đơn vị, tổ chức xã hội, Mặt trận Tổ quốc ở cơ sở và gia đình
người bị kết án là điều cần thiết để nâng cao hiệu quả của việc thi hành án treo.
Thứ năm: Quá trình thi hành án treo diễn ra trong thời gian thử thách
nhất định do Tòa án ấn định bằng hai lần mức hình phạt tù nhưng không được
dưới 1 năm và không quá 5 năm, thời điểm bắt đầu ngay từ sau khi Tòa án
tuyên bản án, quyết định sơ thẩm cho hưởng án treo. Trong thời gian thử
thách, nếu người được hưởng án treo lại phạm tội mới thì biện pháp miễn
chấp hành hình phạt tù bị xóa bỏ, người được hưởng án treo buộc phải chấp
hành hình phạt tù trong bản án đã cho hưởng án treo trước đó cộng với hình
phạt của bản án về tội phạm mới thực hiện.
Thứ sáu: So thi hành án phạt tù có thời hạn, tù chung thân, rõ ràng quá
trình thi hành án treo đã góp phần làm giảm bớt chi phí cho xã hội nhưng vẫn
đạt được hiệu quả xã hội cao. Đối với thi hành hình phạt tù thì người chấp
hành án sẽ bị mất các khoản thu nhập từ các công việc mà họ có trước khi
phạm tội và mất đi nguồn thu nhập cũng như cơ hội tìm kiếm việc làm trong
thời gian bị cách ly khỏi xã hội; ngoài ra, chi phí hàng năm của Nhà nước cho
công tác tổ chức thi hành án phạt tù cũng rất lớn, bao gồm đầu tư cho hệ
thống cơ sở nhà giam, bộ máy cán bộ làm công tác quản lý, bảo vệ, y tế, thực
hiện chế độ chính sách, đảm bảo điều kiện ăn, mặc, sinh hoạt, y tế, giáo dục
cho phạm nhân... Mặc dù ở Việt Nam hiện nay chưa có một công bố chính
thức dành cho việc thi hành án phạt tù nhưng dễ nhận thấy là gánh nặng rất
28
lớn cho đất nước, trong điều kiện chúng ta còn đang khó khăn. Còn thi hành
hình phạt tù cho hưởng án treo, Nhà nước chỉ mất chi phí phát sinh liên quan
đến việc quản lý, giáo dục người chấp hành án ở địa phương, một phần chi
phí hỗ trợ đào tạo, học nghề, hướng nghiệp, khắc phục khó khăn... do đó sẽ
giảm bớt được rất nhiều chi phí so với thi hành án phạt tù; mặt khác, người
chấp hành án treo có điều kiện thuận lợi để tìm kiếm việc làm và gia tăng thu
nhập, đặc biệt có ý nghĩa đối với bị án là lao động duy nhất trong gia đình.
Thứ bảy: Có quan điểm cho rằng tái hòa nhập cộng đồng chỉ liên quan
tới người chấp hành án phạt tù, nhưng theo quan điểm của tác giả cần hết sức
quan tâm đến công tác tái hòa nhập cộng đồng đối với người chấp hành án treo,
cải tạo không giam giữ. Bởi lẽ, về bản chất, ý nghĩa thì án treo, hình phạt cải tạo
không giam giữ đã hàm chứa nội dung nhằm tạo điều kiện tối đa cho người bị
kết án có điều kiện thuận lợi nhất để sớm tái hòa nhập cộng đồng ngay từ sau khi
tuyên án, chứ không chỉ là nằm trong giai đoạn sau khi chấp hành xong án, như
thi hành án phạt tù. Do đó, việc thi hành án treo đòi hỏi phải gắn bó, lồng ghép
hết sức chặt chẽ giữa công tác giám sát, quản lý, giáo dục với tạo điều kiện cho
người bị kết án được tái hòa nhập cộng đồng. Đây là hai vấn đề có mối quan
hệ hữu cơ với nhau, tái hòa nhập cộng đồng tốt sẽ tạo điều kiện, làm giảm áp
lực, khó khăn cho việc quản lý, giáo dục người hưởng án treo, phòng ngừa họ
tái trở lại con đường phạm tội và ngược lại, giám sát, quản lý, giáo dục tốt sẽ
tạo điều kiện cho việc tái hòa nhập cộng đồng những người đó được thuận lợi
hơn. Người bị kết án treo có thể nhanh chóng tái hòa nhập xã hội trong điều
kiện cuộc sống bình thường ngay sau khi bị kết án, có được điều kiện tốt nhất
để cải tạo trở thành người lương thiện, có ích cho xã hội, có như vậy thì bản án,
quyết định của Tòa án và công sức THAHS mới đạt được đến đích cuối cùng.
Từ khái niệm, bản chất của án treo và kết quả phân tích những đặc
điểm trên, tác giả rút ra khái niệm của thi hành án treo là một bộ phận của
THAHS, có tính nhân đạo sâu sắc, do cơ quan không chuyên trách, tổ chức xã
hội, người có thẩm quyền thực hiện theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định,
29
kết hợp chặt chẽ giữa trừng trị và giáo dục, khuyến khích, tạo điều kiện để
người chấp hành án treo tự lao động, học tập, cải tạo trở thành người lương
thiện và nhanh chóng tái hòa nhập xã hội trong môi trường cuộc sống bình
thường, nhằm đưa bản án, quyết định của Tòa án ra thực hiện trên thực tế và
đạt được hiệu quả xã hội cao, bảo đảm được lợi ích của Nhà nước, tổ chức và
công dân, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.
1.1.3. Khái niệm, đặc điểm thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ
Theo Từ điển Luật học, cải tạo không giam giữ là việc buộc người
phạm tội phải tự cải tạo dưới sự giám sát của cơ quan nhà nước hoặc tổ chức
xã hội nơi họ làm việc hoặc cư trú qua việc phải thực hiện những nghĩa vụ
nhất định. Từ sau năm 1945, cải tạo không giam giữ được đề cập đầu tiên
trong Luật nghĩa vụ quân sự được Quốc hội thông qua ngày 30/12/1981:
Người nào đang ở lứa tuổi làm nghĩa vụ quân sự mà không
chấp hành đúng những quy định về đăng ký nghĩa vụ quân sự,
không chấp hành lệnh gọi nhập ngũ, lệnh gọi tập trung huấn luyện
thì tùy mức độ nhẹ hoặc nặng mà bị xử lý bằng biện pháp hành
chính, bị phạt cải tạo không giam giữ từ ba tháng đến hai năm, hoặc
bị phạt tù từ ba tháng đến hai năm [39].
Tại Điều 6 Pháp lệnh Trừng trị các tội đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả,
kinh doanh trái phép năm 1982:
Người nào kinh doanh không có giấy phép hoặc không đúng
với nội dung được phép, trốn thuế, không niêm yết giá, nâng giá
cao hơn giá niêm yết, không đăng ký nhãn hiệu hàng hóa, sử dụng
trái phép nhãn hiệu hàng hóa hoặc dùng thủ đoạn khác để lừa dối cơ
quan nhà nước và người tiêu dùng thì bị phạt cải tạo không giam
giữ từ ba tháng đến hai năm, hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến hai
năm, và bị phạt tiền gấp ba lần trị giá hàng phạm pháp [28].
Bộ luật Hình sự năm 1985 ghi nhận hình phạt cải tạo không giam giữ
là một trong những hình phạt chính. Tại Điều 24 BLHS 1985 và điểm 1, điểm
30
2 Nghị quyết 02/1986/NQ-HĐTP ngày 05/01/1986 của Hội đồng thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao quy định hình phạt này được áp dụng với người phạm
tội ít nghiêm trọng và những trường hợp phạm tội ít nghiêm trọng mà BLHS
năm 1985 quy định phạt giam nhưng có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự nên được chuyển sang loại hình phạt nhẹ hơn. Hình phạt cải tạo
không giam giữ không áp dụng đối với những tội phạm nghiêm trọng, kể cả
trường hợp có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. So với quy định
trong BLHS năm 1985, quy định về cải tạo không giam giữ theo BLHS năm
1999 mở rộng diện áp dụng và tăng cường nghĩa vụ, trách nhiệm của người
chấp hành án, phù hợp định hướng cải cách tư pháp và xu thế chung hiện nay:
(1) Mở rộng diện đối tượng được áp dụng: BLHS năm 1999 quy định
có thể áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm
trọng, còn BLHS năm 1985 cải tạo không giam giữ chỉ được áp dụng đối với
người phạm tội ít nghiêm trọng;
(2) Tăng mức giới hạn thời gian cải tạo không giam giữ: BLHS năm
1999 quy định từ sáu tháng đến ba năm, trong khi đó BLHS năm 1985 quy
định từ sáu tháng đến hai năm;
(3) Quy định bắt buộc việc khấu trừ phần trăm thu nhập: BLHS năm
1985 đây là chế tài tùy nghi do Tòa án quyết định, nhưng BLHS năm 1999
quy định là chế tài bắt buộc, chỉ tùy nghi mức độ khấu trừ căn cứ vào tính
chất, mức độ hành vi phạm tội, thiệt hại gây ra cho xã hội và điều kiện, khả
năng của người bị khấu trừ; Tòa án có thể cho miễn việc khấu trừ thu nhập
nhưng phải ghi rõ lý do trong bản án.
Cải tạo không giam giữ là loại hình phạt không tước tự do, không
buộc người phạm tội cách ly khỏi gia đình, nơi làm việc cũng như xã hội nói
chung. Nội dung chính của hình phạt là việc buộc một người bị kết án phải
chịu sự giám sát, giáo dục của các cơ quan, tổ chức. Người bị kết án phải thực
hiện nghĩa vụ báo cáo, tự kiểm điểm định kỳ và có thể phải nộp 5% đến 20%
thu nhập để sung quỹ nhà nước. Thời hạn cải tạo không giam giữ từ 6 tháng
31
đến 3 năm. Hình phạt áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng hoặc
nghiêm trọng, có nơi làm việc hoặc nơi thường trú rõ ràng và khi các điều
kiện khác cho thấy họ có thể tự cải tạo, giáo dục mà không cần thiết phải cách
ly ra khỏi xã hội. Việc thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ và thi hành
hình phạt tù cho hưởng án treo có chung đặc điểm là không cách ly người bị
kết án khỏi xã hội, tuy nhiên cần phân biệt hình phạt cải tạo không giam giữ
với hình phạt tù cho hưởng án treo và giữa thi hành án treo với thi hành án
phạt cải tạo không giam giữ. Trên cơ sở nội dung đã phân tích, tác giả rút ra
nhận xét về đặc điểm của hình phạt cải tạo không giam giữ như sau:
Thứ nhất: Cải tạo không giam giữ là hình phạt chính, nghiêm khắc
nhất trong số các hình phạt không phải tù, nhẹ hơn hình phạt tù, nặng hơn
phạt tiền và cảnh cáo. Tòa án có thể lựa chọn và áp dụng đối với các trường
hợp phạm tội mà nếu áp dụng hình phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền thì chưa đủ
để trừng trị và giáo dục răn đe người phạm tội, răn đe người khác nhưng cũng
không cần thiết phải sử dụng hình phạt tù - hình phạt mà tính trừng trị nghiêm
khắc được đảm bảo rõ nét. Là hình phạt chính nên khi Tòa án tuyên áp dụng
cải tạo không giam giữ cho người phạm tội có thể đồng thời tuyên một hoặc
nhiều hình phạt bổ sung kèm theo;
Thứ hai: Bản chất của hình phạt vẫn là sự hạn chế tự do thể hiện ở
việc người bị kết án dù được cải tạo, giáo dục tại địa phương nhưng tự bản
thân họ luôn biết rằng mọi việc làm của họ đều bị theo dõi, giám sát, hoàn
toàn không được tự do như bình thường.
Thứ ba: Cải tạo không giam giữ có nội dung, điều kiện và giới hạn áp
dụng cụ thể riêng so với các hình phạt khác. Người bị kết án phải thực hiện
một số nghĩa vụ theo các quy định về cải tạo không giam giữ và bị khấu trừ
một phần thu nhập từ 5% đến 20% để sung quỹ nhà nước.
Trên cơ sở phân tích quy định của pháp luật về hình phạt cải tạo
không giam giữ, xuất phát từ bản chất của loại hình phạt cải tạo không giam
giữ, có thể đưa ra khái niệm cải tạo không giam giữ là hình phạt chính trong
32
hệ thống hình phạt tù, tạo điều kiện cho người bị phạt tù được cải tạo, học tập
trong môi trường xã hội bình thường, khuyến khích họ cải tạo thành người có
ích, được áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội
nghiêm trọng đang có nơi làm việc ổn định hoặc nơi thường trú rõ ràng và xét
thấy không cần phải cách ly họ ra khỏi xã hội.
Hiện nay đang có quan điểm cho rằng nên bỏ loại hình phạt này vì cho
rằng các điều kiện áp dụng, tổ chức thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ
và hình phạt tù cho hưởng án có nhiều điểm giống nhau, dễ dẫn đến trùng lặp,
nhầm lẫn như sau: (1) Về điều kiện cho hưởng án treo và áp dụng hình phạt
cải tạo không giam giữ: Người phạm tội nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng,
phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng và xét
thấy không cần phải cách ly họ ra khỏi xã hội thì tòa án cho họ được hưởng
án treo; (2) Về thi hành án treo và thi hành án phạt cải tạo không giam giữ đều
cho người bị kết án được cải tạo, giáo dục ở ngoài xã hội, ở cộng đồng dân cư
nơi sinh sống, làm việc mà không bị bắt buộc tập trung cải tạo ở các trại giam.
Tuy nhiên, tác giả cho rằng không thể bỏ hình phạt cải tạo không giam
giữ, bởi lẽ về bản chất người bị phạt tù cho hưởng án treo là người bị phạt tù
có thời hạn và nghiêm khắc hơn so với hình phạt cải tạo không giam giữ. Sự
nghiêm khắc hơn thể hiện trước hết ở điều kiện cho hưởng án treo chặt chẽ:
căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ; còn hình
phạt cải tạo không giam giữ không quy định bắt buộc căn cứ vào nhân thân,
các tình tiết giảm nhẹ, chỉ cần có điều kiện: đang có nơi làm việc ổn định
hoặc có nơi thường trú rõ ràng và xét thấy không cần thiết phải cách ly người
phạm tội khỏi xã hội. Ngoài ra, mặc dù án treo không phải là hình phạt theo
BLHS năm 1999, song về bản chất là quá trình tạm thời miễn chấp hành hình
phạt tù có điều kiện, tức là trong thời gian thử thách hình phạt tù do Tòa án đã
tuyên trong bản án đó vẫn đang tồn tại và sẵn sàng áp dụng ngay nếu các điều
kiện tạm miễn chấp hành hình phạt tù bị mất đi. Hơn nữa, thi hành hình phạt
cải tạo không giam giữ phù hợp với đường lối xử lý tội phạm trong quá trình
33
xây dựng nhà nước pháp quyền và chủ trương của Bộ chính trị tại Nghị quyết
49-NQ/TW ngày 2/6/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020:
"Giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối
với một số loại tội phạm" [22, tr. 3].
Như vậy, cải tạo không giam giữ là một chế định pháp lý được quy định
trong BLHS và BLTTHS, được thể hiện cụ thể bằng bản án hoặc quyết định
của Tòa án, việc thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ là một bộ phận của
THAHS và phải được cơ quan có thẩm quyền tổ chức thực hiện nghiêm túc
theo đúng trình tự, thủ tục quy định. Việc thi hành hình phạt cải tạo không
giam giữ nhằm tạo điều kiện cho người kết án phạt cải tạo không giam giữ lao
động, học tập và chứng tỏ sự hối cải, hoàn lương của mình ngay trong môi
trường xã hội bình thường, dưới sự giám sát, giáo dục của cơ quan, tổ chức,
đơn vị quân đội, cơ sở giáo dục, đào tạo hoặc UBND xã, phường, thị trấn
nơi người bị kết án cư trú và gia đình người đó. Người bị kết án phải chấp
hành hình phạt dưới sự giám sát, giáo dục của cơ quan, tổ chức giám sát, giáo
dục và gia đình người đó. Theo quy định tại Điều 3 Luật THAHS năm 2010:
"Thi hành án phạt cải tạo không giam giữ là việc cơ quan, người có thẩm
quyền theo quy định của Luật này giám sát, giáo dục người chấp hành án tại
xã, phường, thị trấn và khấu trừ thu nhập sung quỹ nhà nước theo bản án đã
có hiệu lực pháp luật" [45].
Ngoài đặc điểm chung của THAHS, thi hành án phạt cải tạo không
giam giữ còn có một số đặc điểm khác:
Một là: So với thi hành án treo, thi hành án phạt cải tạo không giam
giữ có thêm thủ tục miễn chấp hành án. Sự khác biệt đó là do xuất phát từ bản
chất của cải tạo không giam giữ là một trong những hình phạt chính, còn án
treo nằm trong chế định miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện.
Hai là: Do thi hành án phạt cải tạo không giam giữ là quá trình thi
hành hình phạt chính nên đồng thời còn bao gồm cả việc cơ quan có thẩm
quyền sẽ thực hiện khấu trừ một phần thu nhập của người chấp hành án (từ
34
5% đến 20% thu nhập) mà Tòa án đã ấn định để sung quỹ nhà nước, bên cạnh
đó còn có thể diễn ra quá trình thi hành hình phạt bổ sung kèm theo bản án,
quyết định của Tòa án có thẩm quyền nếu có.
Ba là: Quá trình thi hành án phạt cải tạo không giam giữ không
nghiêm khắc hơn thi hành án treo, thể hiện rõ nét ở chỗ thời gian đã chấp
hành án phạt cải tạo không giam giữ sẽ được xem xét để giảm trừ khi tổng
hợp hình phạt, tức là trường hợp khi người chấp hành án cải tạo không tốt, có
hành vi phạm tội mới và bị Tòa án tuyên phạt về tội mới, thì thời gian đã chấp
hành hình phạt cải tạo không giam giữ trước đó được trừ vào thời hạn chấp
hành hình phạt chung khi tổng hợp hình phạt.
Từ những phân tích như trên, tác giả có thể rút ra được khái niệm của
thi hành án phạt cải tạo không giam giữ là một bộ phận của THAHS, hiện
thực hóa một trong những hình phạt chính nhưng không nghiêm khắc hơn thi
hành án treo và có tính nhân đạo sâu sắc, do cơ quan không chuyên trách, tổ
chức xã hội, người có thẩm quyền thực hiện theo trình tự, thủ tục pháp luật
quy định, kết hợp chặt chẽ giữa trừng trị và giáo dục, khuyến khích, tạo điều
kiện để người chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ tự lao động, học tập,
cải tạo trở thành người lương thiện và nhanh chóng tái hòa nhập xã hội trong
môi trường cuộc sống bình thường, nhằm đưa bản án, quyết định của Tòa án ra
thực hiện trên thực tế và đạt được hiệu quả xã hội cao, bảo đảm được lợi ích
của Nhà nước, tổ chức và công dân, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.
1.2. CÁC CHỦ THỂ THI HÀNH ÁN TREO, CẢI TẠO KHÔNG GIAM GIỮ
Xuất phát từ bản chất tư pháp - hành chính và tính xã hội rộng lớn của
hoạt động thi hành án treo, cải tạo không giam giữ nên có nhiều chủ thể tham
gia trong quá trình thi hành án. Mỗi chủ thể có quyền hạn, trách nhiệm khác
nhau, song các chủ thể đều cùng chung mục đích là cảm hóa, giám sát, giáo
dục và giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi nhất để người bị kết án cải tạo tốt, trở
thành người lương thiện trong điều kiện cuộc sống bình thường ở nơi cư trú,
lao động, học tập. Có 06 loại chủ thể như sau:
35
1.2.1. Tòa án
Theo Điều 102 Hiến pháp năm 2013, Tòa án nhân dân tối cao, các Tòa
án nhân dân địa phương, các Tòa án khác do luật định là cơ quan xét xử thực
hiện quyền tư pháp. Căn cứ quy định của pháp luật, Tòa án yêu cầu mọi cơ
quan, tổ chức, cá nhân có liên quan phải thực hiện đầy đủ, nghiêm túc và
chính xác nhằm đảm bảo các bản án, quyết định phải đưa ra thi hành nghiêm
chỉnh, được quy định tại các điều 31, 57, 58, 59, 60, 63, 64, 66, 67, 73, 76, 77
BLHS; các điều 22, 38, 227, 229, 237, 254, 255, 256, 257, 264, 268, 269,
270, 271, 275, 276, 288, 293, 294, 299 BLTTHS; các điều 20, 61, 62, 66, 69,
72, 73, 77, 78 Luật THAHS; trong đó có các quyền, trách nhiệm:
(1) Trong thời hạn bảy ngày kể từ ngày bản án, quyết định sơ thẩm có
hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày nhận được bản án, quyết định phúc thẩm,
quyết định giám đốc thẩm, quyết định tái thẩm, Chánh án Tòa án đã xử sơ
thẩm phải ra quyết định thi hành án hoặc ủy thác cho Tòa án khác cùng cấp ra
quyết định thi hành án.
(2) Gửi trích lục bản án, quyết định thi hành án cho người được hưởng
án treo hoặc người chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ; Viện kiểm sát
cùng cấp; Cơ quan THAHS Công an cấp huyện hoặc Cơ quan THAHS cấp
quân khu nơi người được hưởng án treo, người chấp hành án phạt cải tạo
không giam giữ đang cư trú, làm việc; Sở Tư pháp nơi Tòa án đã ra quyết
định thi hành án có trụ sở.
(3) Quyết định miễn, giảm thời hạn chấp hành hình phạt cải tạo không
giam giữ hoặc rút ngắn thời gian thử thách án treo và gửi cho Viện kiểm sát
cùng cấp, Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp, Tòa án đã ra quyết định thi hành
án, Sở Tư pháp nơi Tòa án đã ra quyết định thi hành án có trụ sở;
(4) Cấp giấy chứng nhận xóa án tích cho người đã chấp hành xong án
treo, cải tạo không giam giữ thuộc trường hợp đương nhiên xóa án tích.
(5) Chuyển tài liệu xin xóa án tích cho Viện kiểm sát cùng cấp đối với
những trường hợp xóa án tích do Tòa án quyết định.
36
(6) Được Cơ quan THAHS Công an cấp huyện, Cơ quan THAHS cấp
quân khu gửi giấy chứng nhận đã chấp hành xong thời gian thử thách án treo,
chấp hành xong án phạt cải tạo không giam giữ.
(7) Được Cơ quan THAHS Công an cấp huyện, Cơ quan THAHS cấp
quân khu thông báo bằng văn bản về việc người chấp hành án treo, phạt cải
tạo không giam giữ chuyển đến nơi cư trú mới.
(8) Các cơ quan thi hành án phải báo cho Chánh án Tòa án đã ra quyết
định thi hành án về việc bản án hoặc quyết định đã được thi hành,.
(9) Giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền của Tòa án;
(10) Thực hiện chế độ thống kê, báo cáo về THAHS theo thẩm quyền
và các nhiệm vụ, quyền hạn khác.
1.2.2. Viện kiểm sát
Viện kiểm sát là cơ quan thực hành quyền công tố và kiểm sát các
hoạt động tư pháp, bao gồm cả hoạt động thi hành án; được pháp luật giao
trách nhiệm, quyền hạn cụ thể để kiểm sát chặt chẽ việc tuân theo pháp luật
của Tòa án, tổ chức, đơn vị, cá nhân có liên quan trong việc thi hành án treo,
cải tạo không giam giữ nhằm đảm bảo các bản án, quyết định đó thi hành
đúng pháp luật, đầy đủ, kịp thời, quy định tại các điều 31, 57, 58, 59, 60, 63, 64,
66, 67, 73, 76, 77 BLHS; các điều 23, 36, 37, 229, 232, 239, 254, 255, 256,
257, 264, 268, 269, 271, 274, 275, 276, 288, 293, 294, 299 BLTTHS; các điều
61, 66, 69, 72, 77, 78 Luật THAHS; trong đó có các quyền, trách nhiệm:
(1) Được nhận quyết định thi hành án, trích lục bản án; quyết định
miễn, giảm thời hạn chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ hoặc quyết
định rút ngắn thời gian thử thách án treo của Tòa án.
(2) Được Tòa án cùng cấp thông báo bằng văn bản về việc mở phiên
họp xét rút ngắn thời gian thử thách, xét giảm thời hạn chấp hành án hoặc xét
miễn chấp hành án và được cử Kiểm sát viên tham gia phiên họp.
(3) Được Cơ quan THAHS Công an cấp huyện, Cơ quan THAHS cấp
quân khu thông báo bằng văn bản về việc người chấp hành án treo, cải tạo
không giam giữ chuyển đến nơi cư trú mới.
37
(4) Xem xét, lập hồ sơ đề nghị Tòa án cùng cấp xét miễn chấp hành án.
(5) Được Tòa án chuyển tài liệu xin xóa án tích để phát biểu ý kiến
bằng văn bản đối với những trường hợp xóa án tích do Tòa án quyết định.
(6) Yêu cầu Tòa án cùng cấp và cấp dưới ra quyết định thi hành án
treo, cải tạo không giam giữ đúng quy định; yêu cầu Tòa án cung cấp hồ sơ,
tài liệu có liên quan đến việc thi hành án treo và cải tạo không giam giữ;
(7) Trực tiếp kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc thi hành án
của cơ quan thi hành án, các cơ quan, tổ chức, đơn vị và cá nhân có liên quan
và việc giải quyết kháng cáo, khiếu nại, tố cáo đối với việc thi hành án;
(8) Kháng nghị với Tòa án, Cơ quan THAHS cùng cấp và cấp dưới,
cơ quan, tổ chức, đơn vị có vi phạm pháp luật trong việc thi hành án, yêu cầu
chấm dứt việc làm vi phạm pháp luật trong thi hành án nếu có.
1.2.3. Hệ thống tổ chức cơ quan thi hành án treo, cải tạo không giam
giữ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự
Luật THAHS năm 2010 quy định tương đối đầy đủ về hệ thống tổ chức
cơ quan thi hành án treo, cải tạo không giam giữ, gồm 3 loại: (1) Cơ quan
quản lý THAHS; (2) Cơ quan THAHS; (3) Cơ quan được giao một số nhiệm
vụ THAHS, bao gồm UBND cấp xã và đơn vị quân đội cấp trung đoàn hoặc
tương đương.
Hiện nay, hệ thống cơ quan làm nhiệm vụ THAHS thuộc Bộ Công an
được tổ chức ở 3 cấp, gồm: (1) Tổng cục THAHS và hỗ trợ tư pháp thuộc Bộ
Công an; (2) Phòng Cảnh sát THAHS và hỗ trợ tư pháp, Trại tạm giam thuộc
Công an cấp tỉnh; (3) Đội THAHS và hỗ trợ tư pháp thuộc Công an cấp huyện.
Hệ thống cơ quan làm nhiệm vụ THAHS thuộc Bộ Quốc phòng được
tổ chức ở 2 cấp, gồm: (1) Cục Điều tra hình sự thuộc Bộ Quốc phòng; (2)
Phòng Điều tra hình sự thuộc quân khu, quân đoàn. Ngoài ra, các đơn vị quân
đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương đang làm nhiệm vụ thi hành án
treo, cải tạo không giam giữ với tư cách là cơ quan được giao một số nhiệm
vụ thi hành án theo quy định của Luật THAHS.
38
- Cơ quan quản lý THAHS: Bao gồm cơ quan quản lý THAHS thuộc
Bộ Công an và cơ quan quản lý THAHS thuộc Bộ Quốc phòng, là đầu mối ở
trung ương giúp Chính phủ quản lý về công tác THAHS nói chung và thi
hành thi hành án án treo, cải tạo không giam giữ nói riêng. Theo quy định tại
Điều 11, 171 Luật THAHS và Quyết định số 3057/QĐ-BCA ngày 12/6/2014
của Bộ trưởng Bộ Công an ban hành quy định về Cơ quan quản lý THAHS và
Cơ quan THAHS trong Công an nhân dân, thì Tổng cục Cảnh sát THAHS và
hỗ trợ tư pháp là cơ quan quản lý THAHS thuộc Bộ Công an. Theo quy định
tại điều 12, 172 Luật THAHS và Quyết định số 139/2004/QĐ-BQP ngày
08/10/2004 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quy định về tổ chức và nhiệm vụ
của Cơ quan điều tra hình sự trong Quân đội nhân dân, thì Cục Điều tra hình sự
đang thực hiện nhiệm vụ của cơ quan quản lý THAHS thuộc Bộ Quốc phòng.
Cơ quan quản lý THAHS có một số nhiệm vụ, quyền hạn như sau: (1) Tổ
chức triển khai thi hành pháp luật về THAHS; Chỉ đạo nghiệp vụ, hướng dẫn
việc áp dụng thống nhất các quy định của pháp luật về THAHS; Tổng kết
công tác THAHS; (2) Kiểm tra công tác THAHS; (3) Quyết định đưa người
chấp hành án phạt tù đến nơi chấp hành án; (4) Trực tiếp quản lý các trại
giam; (5) Thực hiện chế độ thống kê, báo cáo; (6) Giải quyết khiếu nại, tố cáo
về THAHS theo quy định của Luật THAHS; (7) Thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn khác do Bộ trưởng giao.
- Cơ quan THAHS: gồm Cơ quan THAHS Công an cấp tỉnh; Cơ quan
THAHS cấp quân khu và Cơ quan THAHS Công an cấp huyện. Đây là những
cơ quan có liên quan trực tiếp đến công tác thi hành án treo, án phạt cải tạo
không giam giữ, được thành lập và chính thức đi vào hoạt động sau khi Luật
THAHS ra đời, góp phần tạo sự thống nhất trong chỉ đạo, quản lý và tăng
cường hiệu lực, hiệu quả của công tác THAHS.
Cơ quan THAHS Công an cấp tỉnh: có 5 nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể
trong thi hành án treo, cải tạo không giam giữ theo Điều 13 Luật THAHS,
gồm: Giúp Giám đốc Công an cấp tỉnh quản lý, chỉ đạo công tác thi hành án
39
treo, cải tạo không giam giữ trên địa bàn cấp tỉnh, bao gồm: chỉ đạo nghiệp vụ
và kiểm tra công tác THAHS đối với Công an cấp huyện; tổng kết công tác
THAHS và thực hiện chế độ thống kê, báo cáo theo hướng dẫn của cơ quan
quản lý THAHS thuộc Bộ Công an; Giải quyết khiếu nại, tố cáo về THAHS
và thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của Luật THAHS.
Cơ quan THAHS Công an cấp huyện, Cơ quan THAHS cấp quân khu:
Theo quy định tại các điều 13, 14, 62, 66, 68, 69, 73, 77, 78, 80 Luật THAHS,
Cơ quan THAHS cấp quân khu có nhiệm vụ giúp Tư lệnh quân khu chỉ đạo
nghiệp vụ, kiểm tra công tác THAHS thuộc quân khu. Cơ quan THAHS Công
an cấp huyện có nhiệm vụ: (1) Giúp Trưởng Công an cấp huyện quản lý, chỉ
đạo công tác THAHS trên địa bàn; (2) Hướng dẫn nghiệp vụ THAHS theo
thẩm quyền đối với UBND cấp xã; (3) Chỉ đạo, kiểm tra Công an cấp xã trong
việc giúp UBND cấp xã thực hiện nhiệm vụ THAHS.
Đối với công tác quản lý, giáo dục người chấp hành án treo, cải tạo
không giam giữ, 02 cơ quan trên có 10 nhiệm vụ cụ thể: (1) Tiếp nhận bản án,
quyết định thi hành án, các tài liệu có liên quan do Tòa án chuyển giao; (2)
Triệu tập người chấp hành án, người đại diện hợp pháp của người chấp hành
án là người chưa thành niên đến trụ sở cơ quan thi hành án để ấn định thời
gian người được hưởng án treo phải có mặt tại UBND cấp xã nơi người đó cư
trú hoặc đơn vị quân đội nơi người đó làm việc để cam kết việc chấp hành án
và lập hồ sơ thi hành án; (3) Chuyển giao hồ sơ cho UBND cấp xã, đơn vị
quân đội để thi hành án phạt cải tạo không giam giữ, án treo; (4) Cấp giấy
chứng nhận đã chấp hành xong hình phạt cải tạo không giam giữ, đã chấp
hành xong thời gian thử thách và gửi cho người chấp hành án, UBND cấp xã,
đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục, Tòa án đã ra quyết định thi
hành án, Sở Tư pháp nơi Tòa án đã ra quyết định thi hành án có trụ sở; (5)
Lập hồ sơ và đề nghị Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án quân sự khu vực nơi
người chấp hành án đang cư trú, làm việc xem xét, quyết định khi có đủ điều
kiện để giảm thời hạn chấp hành án, rút ngắn thời gian thử thách; (6) Đề nghị
40
Viện kiểm sát nơi người chấp hành án đang cư trú, làm việc xem xét, lập hồ
sơ đề nghị Tòa án cùng cấp xét miễn chấp hành án và được Tòa án chuyển
giao quyết định miễn chấp hành án; (7) Tiếp nhận, lập biên bản và lưu hồ sơ
thi hành án treo, cải tạo không giam giữ sau khi hết thời gian thử thách, hết
thời gian chấp hành án; (8) Làm thủ tục chuyển giao hồ sơ thi hành án treo để
giám sát, giáo dục; (9) Giải quyết khiếu nại, tố cáo về THAHS và thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của Luật THAHS; (10) Thực hiện
thống kê, báo cáo theo hướng dẫn của cơ quan quản lý THAHS.
- Cơ quan được giao một số nhiệm vụ THAHS, gồm UBND cấp xã và
đơn vị quân đội cấp trung đoàn hoặc tương đương; theo quy định Điều 63, 74
Luật THAHS có 12 nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể như sau: (1) Tiếp nhận hồ sơ
và tổ chức giám sát, giáo dục người được hưởng án treo, người chấp hành án
phạt cải tạo không giam giữ; (2) Phân công người trực tiếp giám sát, giáo dục
người được hưởng án treo, người chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ;
(3) Yêu cầu người được hưởng án treo, người chấp hành án phạt cải tạo không
giam giữ thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình và có biện pháp giáo dục, phòng
ngừa khi người đó có dấu hiệu vi phạm pháp luật; (4) Biểu dương người được
hưởng án treo, người chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ có nhiều tiến
bộ hoặc lập công; (5) Giải quyết cho người được hưởng án treo, người chấp
hành án phạt cải tạo không giam giữ được vắng mặt ở nơi cư trú; (6) Phối hợp
với cơ quan thi hành án dân sự thực hiện khấu trừ một phần thu nhập của
người chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ theo quyết định của Tòa án
để sung quỹ nhà nước; (7) Phối hợp với gia đình và cơ quan, tổ chức nơi
người được hưởng án treo, người chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ
làm việc, học tập trong việc giám sát, giáo dục người đó; (8) Lập hồ sơ đề
nghị xem xét việc rút ngắn thời gian thử thách, giảm thời hạn chấp hành án,
miễn chấp hành án gửi cơ quan có thẩm quyền; (9) Nhận xét bằng văn bản và
lưu vào sổ theo dõi về quá trình chấp hành án của người được hưởng án treo,
người chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ khi người đó chuyển đi nơi
41
khác; (10) Thực hiện thống kê, báo cáo cơ quan THAHS có thẩm quyền về
kết quả thi hành án treo, cải tạo không giam giữ; (11) Xử phạt vi phạm hành
chính theo thẩm quyền hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền xử phạt vi phạm
hành chính đối với người được hưởng án treo, người chấp hành án phạt cải
tạo không giam giữ; (12) Giải quyết khiếu nại, tố cáo về thi hành án treo, cải
tạo không giam giữ theo quy định của Luật THAHS.
Như vậy, so với Nghị định số 60, 61/2000/NĐ-CP của Chính phủ
giao cho nhiều cơ quan, tổ chức có nhiệm vụ, quyền hạn trong thi hành án
treo, cải tạo không giam giữ như: Cơ quan, tổ chức trực tiếp quản lý người
bị kết án nếu người đó là cán bộ, công chức, người đang học tập tại cơ sở
giáo dục, đào tạo; Doanh nghiệp, hợp tác xã, nếu người bị kết án là người
làm công ăn lương. Đến nay, Luật THAHS rút gọn còn 2 cơ quan có trách
nhiệm giám sát, giáo dục người bị kết án là UBND cấp xã và đơn vị quân
đội cấp trung đoàn hoặc tương đương. Luật THAHS quy định đơn vị quân
đội cấp trung đoàn hoặc tương đương thay cho đơn vị quân đội cấp đại đội
như quy định tại Nghị định 60, 61/2000/NĐ-CP của Chính phủ để đảm bảo
tính thống nhất, nâng cao hiệu quả, đáp ứng yêu cầu của tình hình hiện nay.
Luật Thi hành án cũng bãi bỏ nhiệm vụ cấp giấy chứng nhận đã chấp hành
xong thời hạn cải tạo không giam giữ hoặc thời gian thử thách cho người bị
kết án đối với UBND cấp xã, đơn vị quân đội, đồng thời chuyển giao nhiệm
vụ trên cho Cơ quan THAHS Công an cấp huyện hoặc Cơ quan THAHS cấp
quân khu, phù hợp với vai trò quản lý và tính chất chuyên trách đặc thù của
các cơ quan trên.
1.2.4. Công an cấp xã
Thực tế trong một thời gian khá dài UBND cấp xã ở nhiều địa phương
đã rất lúng túng, không thống nhất trong việc phân công người chịu trách
nhiệm giám sát, giáo dục người chấp hành án treo, cải tạo không giam giữ và
không rõ bộ phận, cá nhân nào thuộc UBND cấp xã chịu trách nhiệm chính
trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ trên, có địa phương thì giao cho Tư pháp, có
42
địa phương thì giao cho Công an xã chịu trách nhiệm giám sát, giáo dục
người chấp hành án treo. Nguyên nhân do Nghị định số 60, 61/2000/NĐ-CP
của Chính phủ không quy định rõ bộ phận, cá nhân nào chịu trách nhiệm
trong việc tham mưu, giúp UBND cấp xã tổ chức thực hiện các nhiệm vụ,
quyền hạn về thi hành án treo, cải tạo không giam giữ.
Ủy ban nhân dân cấp xã là đơn vị hành chính cấp xã, chịu trách nhiệm
quản lý, điều hành mọi hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội của chính quyền tại
địa bàn cấp xã, trong điều kiện biên chế, khả năng còn hạn chế nhưng thường
xuyên phải giải quyết một khối lượng công việc rất lớn, trực tiếp liên quan
đến quyền, lợi ích của nhân dân. Do đó, để đảm bảo cho công tác tổ chức thi
hành án treo, cải tạo không giam giữ tại các xã, phường, thị trấn thực sự có
hiệu quả, mang tính khả thi cao trong điều kiện hiện nay, tại Điều 18, 63, 74
Luật THAHS đã giao cho Công an cấp xã, mà cụ thể là Trưởng Công an cấp
xã có nhiệm vụ tham mưu, giúp UBND cấp xã tổ chức thực hiện 12 nhiệm vụ,
quyền hạn về thi hành án treo, cải tạo không giam giữ.
Qua nghiên cứu tham khảo Nghị định số 60, 61/2000/NĐ-CP của
Chính phủ đã từng quy định trách nhiệm của người trực tiếp giám sát, giáo
dục, Công an xã cần áp dụng đầy đủ các biện pháp như sau: Chủ động gặp gỡ,
động viên người kết án chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, ba tháng một lần
báo cáo với thủ trưởng cơ quan tổ chức giám sát, giáo dục về tình hình chấp
hành án, báo cáo cơ quan tổ chức giám sát, giáo dục khi người bị kết án có đủ
điều kiện được xét giảm thời gian thử thách...; đồng thời, kiến nghị cơ quan,
tổ chức giám sát, giáo dục có trách nhiệm tạo điều kiện để người bị kết án
giáo dục tốt, đề nghị rút ngắn thời gian thử thách cho người bị kết án.
1.2.5. Gia đình, các cơ quan, tổ chức, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
ở cơ sở, cộng đồng dân cƣ nơi ngƣời bị kết án cƣ trú
Có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan, tổ chức quản lý giám sát
tiến hành tác động, giáo dục, giúp đỡ người bị kết án, tạo thuận lợi cho họ sửa
chữa lỗi lầm, trở thành người có ích cho xã hội, không tái phạm. Tại Điều 6
43
Luật THAHS quy định: "Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giám sát hoạt động của
các cơ quan, tổ chức trong thi hành án hình sự và các cơ quan, tổ chức khác
liên quan đến hoạt động thi hành án hình sự nói chung và thi hành án treo, cải
tạo không giam giữ theo quy định của pháp luật" [45].
Ngoài ra, Mặt trận Tổ quốc và các cơ quan, tổ chức ở cơ sở có trách
nhiệm phối hợp với UBND cấp xã trong việc tổ chức họp tại cộng đồng dân
cư nơi người được hưởng án treo, chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ
cư trú, làm việc để kiểm điểm người đó trong trường hợp họ vi phạm nghĩa vụ
quy định tại Điều 64, 75 Luật THAHS và bị nhắc nhở từ hai lần trở lên mà
tiếp tục vi phạm nhưng chưa đến mức phải chịu trách nhiệm hình sự.
Gia đình người được hưởng án treo, chấp hành án phạt cải tạo không
giam giữ là chủ thể có vai trò rất quan trọng trong việc giúp cho người bị kết
án cải tạo, tích cực phấn đấu vươn lên trở thành người có ích cho xã hội. Xuất
phát từ mối quan hệ thân thiết, gần gũi, gắn bó trực tiếp, hàng ngày tạo nên
môi trường sống ảnh hưởng lớn đến tâm tư, tình cảm, nhận thức và khuynh
hướng xử sự của người bị kết án. Điều 70, 81 Luật THAHS quy định gia đình
người được hưởng án treo, chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ có
những trách nhiệm: (1) Phối hợp với UBND cấp xã và người được phân công
trong việc giám sát, giáo dục; (2) Thông báo kết quả chấp hành án với UBND
cấp xã được giao giám sát, giáo dục khi có yêu cầu; (3) Bồi thường thiệt hại
và thực hiện các nghĩa vụ dân sự khác do người chấp hành án là người chưa
thành niên gây ra; (4) Phải có mặt tại cuộc họp kiểm điểm người được hưởng
án theo yêu cầu.
1.2.6. Ngƣời hƣởng án treo, chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ
Điều 64, 75 Luật THAHS quy định người được hưởng án treo, chấp
hành án phạt cải tạo không giam giữ có 04 nghĩa vụ: (1) Chấp hành nghiêm
chỉnh cam kết của mình trong việc tuân thủ pháp luật, thực hiện đầy đủ nghĩa
vụ công dân, nội quy, quy chế của nơi cư trú, làm việc; tích cực tham gia lao
động, học tập; chấp hành đầy đủ các hình phạt bổ sung, nghĩa vụ bồi thường
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT

More Related Content

What's hot

What's hot (20)

Luận văn: Pháp luật về hoãn thi hành án hình sự ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Pháp luật về hoãn thi hành án hình sự ở Việt Nam, HOTLuận văn: Pháp luật về hoãn thi hành án hình sự ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Pháp luật về hoãn thi hành án hình sự ở Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Chế định án treo theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Chế định án treo theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Chế định án treo theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Chế định án treo theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Áp dụng án treo theo pháp luật hình sự tại Quảng Bình
Luận văn: Áp dụng án treo theo pháp luật hình sự tại Quảng BìnhLuận văn: Áp dụng án treo theo pháp luật hình sự tại Quảng Bình
Luận văn: Áp dụng án treo theo pháp luật hình sự tại Quảng Bình
 
Luận văn: Hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Vấn đề lý luận thực tiễn về thi hành hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề lý luận thực tiễn về thi hành hình phạt tử hìnhLuận văn: Vấn đề lý luận thực tiễn về thi hành hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề lý luận thực tiễn về thi hành hình phạt tử hình
 
Thi hành án phạt tù ở Việt Nam trước yêu cầu cải cách tư pháp
Thi hành án phạt tù ở Việt Nam trước yêu cầu cải cách tư phápThi hành án phạt tù ở Việt Nam trước yêu cầu cải cách tư pháp
Thi hành án phạt tù ở Việt Nam trước yêu cầu cải cách tư pháp
 
Luận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAY
Luận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAYLuận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAY
Luận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAY
 
Luận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại tỉnh Bắc Ninh
Luận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại tỉnh Bắc NinhLuận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại tỉnh Bắc Ninh
Luận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại tỉnh Bắc Ninh
 
Đề tài: Tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù trong Luật hình sự
Đề tài: Tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù trong Luật hình sựĐề tài: Tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù trong Luật hình sự
Đề tài: Tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù trong Luật hình sự
 
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sự
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sựLuận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sự
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sự
 
Luận văn: Quyết định hình phạt tù có thời hạn tại TP Đà Nẵng, 9đ - Gửi miễn p...
Luận văn: Quyết định hình phạt tù có thời hạn tại TP Đà Nẵng, 9đ - Gửi miễn p...Luận văn: Quyết định hình phạt tù có thời hạn tại TP Đà Nẵng, 9đ - Gửi miễn p...
Luận văn: Quyết định hình phạt tù có thời hạn tại TP Đà Nẵng, 9đ - Gửi miễn p...
 
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Giới hạn xét xử sơ thẩm theo pháp luật Tố tụng hình sự
Luận văn: Giới hạn xét xử sơ thẩm theo pháp luật Tố tụng hình sựLuận văn: Giới hạn xét xử sơ thẩm theo pháp luật Tố tụng hình sự
Luận văn: Giới hạn xét xử sơ thẩm theo pháp luật Tố tụng hình sự
 
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
 
Luận văn: Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật, HOT
Luận văn: Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật, HOTLuận văn: Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật, HOT
Luận văn: Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật, HOT
 
Hình phạt tù có thời hạn và tái hòa nhập đối với người mãn hạn tù
Hình phạt tù có thời hạn và tái hòa nhập đối với người mãn hạn tùHình phạt tù có thời hạn và tái hòa nhập đối với người mãn hạn tù
Hình phạt tù có thời hạn và tái hòa nhập đối với người mãn hạn tù
 
Luận văn: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
Luận văn: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sựLuận văn: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
Luận văn: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
 
Luận văn: Hình phạt cảnh cáo theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt cảnh cáo theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Hình phạt cảnh cáo theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt cảnh cáo theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sựHoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự
 
Luận văn: Quyết định hình phạt và tổng hợp hình phạt theo pháp luật - Gửi miễ...
Luận văn: Quyết định hình phạt và tổng hợp hình phạt theo pháp luật - Gửi miễ...Luận văn: Quyết định hình phạt và tổng hợp hình phạt theo pháp luật - Gửi miễ...
Luận văn: Quyết định hình phạt và tổng hợp hình phạt theo pháp luật - Gửi miễ...
 

Similar to Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT

Similar to Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT (20)

Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù
Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tùQuyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù
Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù
 
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụngLuận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụng
 
Luận văn: Pháp luật về hoãn thi hành án hình sự, HAY
Luận văn: Pháp luật về hoãn thi hành án hình sự, HAYLuận văn: Pháp luật về hoãn thi hành án hình sự, HAY
Luận văn: Pháp luật về hoãn thi hành án hình sự, HAY
 
Thi hành án phạt tù ở Việt Nam trước yêu cầu cải cách tư pháp, HAY
Thi hành án phạt tù ở Việt Nam trước yêu cầu cải cách tư pháp, HAYThi hành án phạt tù ở Việt Nam trước yêu cầu cải cách tư pháp, HAY
Thi hành án phạt tù ở Việt Nam trước yêu cầu cải cách tư pháp, HAY
 
Đề tài: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam trước cải cách tư pháp, HAY
Đề tài: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam trước cải cách tư pháp, HAYĐề tài: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam trước cải cách tư pháp, HAY
Đề tài: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam trước cải cách tư pháp, HAY
 
Bài mẫu Luận văn: Thời hạn tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự, 9 ĐIỂM
Bài mẫu Luận văn: Thời hạn tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự, 9 ĐIỂMBài mẫu Luận văn: Thời hạn tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự, 9 ĐIỂM
Bài mẫu Luận văn: Thời hạn tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự, 9 ĐIỂM
 
Luận văn: Thời hạn tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Thời hạn tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Thời hạn tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Thời hạn tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự, HOT
 
Luận án: Thời hạn tố tụng trong luật tố tụng hình sự tại Việt Nam
Luận án: Thời hạn tố tụng trong luật tố tụng hình sự tại Việt NamLuận án: Thời hạn tố tụng trong luật tố tụng hình sự tại Việt Nam
Luận án: Thời hạn tố tụng trong luật tố tụng hình sự tại Việt Nam
 
Luận văn: Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Tố tụng hình sự và vấn đề áp dụng tố tụng tranh tụng
Luận văn: Tố tụng hình sự và vấn đề áp dụng tố tụng tranh tụngLuận văn: Tố tụng hình sự và vấn đề áp dụng tố tụng tranh tụng
Luận văn: Tố tụng hình sự và vấn đề áp dụng tố tụng tranh tụng
 
Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam và áp dụng tố tụng tranh tụng
Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam và áp dụng tố tụng tranh tụngMô hình tố tụng hình sự Việt Nam và áp dụng tố tụng tranh tụng
Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam và áp dụng tố tụng tranh tụng
 
Luận văn: Tội cản trở việc thi hành án theo Luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội cản trở việc thi hành án theo Luật hình sự, HAYLuận văn: Tội cản trở việc thi hành án theo Luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội cản trở việc thi hành án theo Luật hình sự, HAY
 
Luận văn: Tội cản trở việc thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cản trở việc thi hành án theo Luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội cản trở việc thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cản trở việc thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam
 
Đề tài: Thời hạn tố tụng trước xét xử trong luật tố tụng, HAY
Đề tài: Thời hạn tố tụng trước xét xử trong luật tố tụng, HAYĐề tài: Thời hạn tố tụng trước xét xử trong luật tố tụng, HAY
Đề tài: Thời hạn tố tụng trước xét xử trong luật tố tụng, HAY
 
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sựBiện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
 
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông NôLuận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
 
Luận văn: Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong thi hành công vụ
Luận văn: Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong thi hành công vụLuận văn: Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong thi hành công vụ
Luận văn: Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong thi hành công vụ
 
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông NôLuận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
 
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông NôLuận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
 
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAYLuận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
ChuThNgnFEFPLHN
 
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
ltbdieu
 

Recently uploaded (20)

xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdfxemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
 
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
 
Giới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vn
Giới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vnGiới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vn
Giới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vn
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
 
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhàBài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
 
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiệnBài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
 
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
 
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docxbài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
 
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng TạoĐề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
 
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
 
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdfGiáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf
 
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
 
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiTrắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Kiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net Viet
Kiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net VietKiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net Viet
Kiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net Viet
 
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình PhươngGiáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
 

Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT

  • 1. 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT PHẠM ĐỨC TRUNG MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ THI HÀNH HÌNH PHẠT TÙ CHO HƢỞNG ÁN TREO, CẢI TẠO KHÔNG GIAM GIỮ (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Nam định) LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2014
  • 2. 2 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT PHẠM ĐỨC TRUNG MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ THI HÀNH HÌNH PHẠT TÙ CHO HƢỞNG ÁN TREO, CẢI TẠO KHÔNG GIAM GIỮ (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Nam Định) Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số : 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Khắc Hải HÀ NỘI - 2014
  • 3. 3 Lêi cam ®oan T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña luËn v¨n ch-a tõng ®-îc ai c«ng bè trong bÊt kú c«ng tr×nh nµo kh¸c. T¸c gi¶ luËn v¨n Ph¹m §øc Trung
  • 4. 4 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục các sơ đồ Danh mục các biểu đồ MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THI HÀNH HÌNH PHẠT TÙ CHO HƢỞNG ÁN TREO, CẢI TẠO KHÔNG GIAM GIỮ 9 1.1. Khái niệm, đặc điểm thi hành án hình sự và thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ 9 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm thi hành án hình sự 9 1.1.2. Khái niệm, đặc điểm thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo 14 1.1.3. Khái niệm, đặc điểm thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ 20 1.2. Các chủ thể thi hành án treo, cải tạo không giam giữ 25 1.2.1. Tòa án 26 1.2.2. Viện kiểm sát 27 1.2.3. Hệ thống tổ chức cơ quan thi hành án treo, cải tạo không giam giữ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 28 1.2.4. Công an cấp xã 32 1.2.5. Gia đình, các cơ quan, tổ chức, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ở cơ sở, cộng đồng dân cư nơi người bị kết án cư trú 33 1.2.6. Người hưởng án treo, chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ 34 1.3. Nội dung thi hành án treo, cải tạo không giam giữ 35 1.3.1. Ra quyết định thi hành hoặc ủy thác thi hành án 35 1.3.2. Trình tự, thủ tục thi hành án treo, cải tạo không giam giữ 36
  • 5. 5 1.3.3. Thời gian thi hành án treo, cải tạo không giam giữ 38 1.3.4. Miễn, giảm chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ và rút ngắn thời gian thử thách của án treo 39 1.3.5. Xóa án tích đối với án treo, cải tạo không giam giữ 42 Chương 2: THỰC TRẠNG THI HÀNH HÌNH PHẠT TÙ CHO HƢỞNG ÁN TREO, CẢI TẠO KHÔNG GIAM GIỮ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NAM ĐỊNH VÀ MỘT SỐ TỒN TẠI, VƢỚNG MẮC 44 2.1. Tình hình thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ trên địa bàn tỉnh nam định 44 2.1.1. Đặc điểm về địa lý, dân cư, kinh tế, xã hội và hoạt động của các loại tội phạm, vi phạm pháp luật trên địa bàn tỉnh Nam Định 44 2.1.2. Số liệu người chấp hành án treo, cải tạo không giam giữ trên địa bàn tỉnh Nam Định từ năm 2009 đến năm 2013 48 2.1.3. Các cơ quan làm nhiệm vụ thi hành án treo, cải tạo không giam giữ trên địa bàn tỉnh Nam Định 53 2.1.4. Thực trạng thi hành án treo, cải tạo không giam giữ của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trên địa bàn tỉnh Nam Định 54 2.2. Một số tồn tại, khó khăn trong công tác thi hành án treo, cải tạo không giam giữ trên địa bàn tỉnh Nam Định 61 2.2.1. Tòa án nhân dân hai cấp trên địa bàn tỉnh Nam Định 61 2.2.2. Viện kiểm sát nhân dân hai cấp trên địa bàn tỉnh Nam Định 63 2.2.3. Cơ quan thi hành án hình sự Công an tỉnh Nam Định và Cơ quan thi hành án hình sự Công an 10 huyện, thành phố 63 2.2.4. Ủy ban nhân dân 229 xã, phường, thị trấn 66 2.2.5. Công an cấp xã 69 2.2.6. Các cơ quan, tổ chức có liên quan đến công tác thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ 72 2.2.7. Người bị kết án treo, cải tạo không giam giữ và gia đình họ 73 2.3. Nguyên nhân của những tồn tại 75
  • 6. 6 2.3.1. Một số quy định pháp luật về thi hành án treo, cải tạo không giam giữ còn bất cập, chưa hoàn thiện 75 2.3.2. Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về thi hành án treo, cải tạo không giam giữ còn hạn chế 81 2.3.3. Công tác cán bộ, cơ sở vật chất, điều kiện tổ chức thi hành án treo, cải tạo không giam giữ còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu tình hình 82 2.3.4. Công tác phối hợp và tổ chức thi hành án của một số cấp ủy, chính quyền, cơ quan chức năng chưa đồng bộ, chặt chẽ 84 Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THI HÀNH HÌNH PHẠT TÙ CHO HƢỞNG ÁN TREO, CẢI TẠO KHÔNG GIAM GIỮ 86 3.1. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả thi hành án và dự báo những yếu tố tác động đến công tác thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ 86 3.1.1. Nâng cao hiệu quả thi hành án treo, cải tạo không giam giữ bắt nguồn từ sự đòi hỏi của sự nghiệp đổi mới, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa 86 3.1.2. Nâng cao hiệu quả thi hành án treo, cải tạo không giam giữ bắt nguồn từ những đòi hỏi của thực tiễn phải khắc phục những tồn tại trong quá trình thi hành án treo, cải tạo không giam giữ hiện nay 89 3.1.3. Dự báo những yếu tố tác động đến công tác thi hành án treo, cải tạo không giam giữ 91 3.2. Giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ 93 3.2.1. Sửa đổi, bổ sung một số quy định của Bộ luật Hình sự, Tố tụng Hình sự liên quan đến công tác thi hành án treo, cải tạo không giam giữ 93
  • 7. 7 3.2.2. Sửa đổi, bổ sung một số nội dung quy định của Luật Thi hành án hình sự năm 2010 94 3.2.3. Phát huy vai trò của các cơ quan chức năng trong việc ban hành các văn bản hướng dẫn chi tiết thi hành Luật Thi hành án hình sự có nội dung liên quan đến thi hành án treo, cải tạo không giam giữ 95 3.2.4. Phát huy vai trò, tính chủ động của các nhà nghiên cứu khoa học, hoạch định chính sách quốc gia và các tổ chức, đoàn thể xã hội trong việc tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện thể chế pháp luật 96 3.3. Giải pháp nâng nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ 97 3.3.1. Tiếp tục đổi mới về nhận thức và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thi hành án treo, cải tạo không giam giữ 97 3.3.2. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật thi hành án treo, cải tạo không giam giữ 101 3.3.3. Phát huy năng lực, trách nhiệm của các chủ thể thi hành án treo, cải tạo không giam giữ 104 3.3.4. Nâng cao hiệu quả phối hợp giữa các chủ thể thi hành án treo, cải tạo không giam giữ 110 3.3.5. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, xử lý nghiêm hành vi vi phạm pháp luật thi hành án treo, cải tạo không giam giữ 112 3.3.6. Đảm bảo các điều kiện cần thiết và có chế độ chính sách cho cán bộ làm công tác thi hành án treo, cải tạo không giam giữ 114 KẾT LUẬN 118 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 121
  • 8. 8 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS : Bộ luật Hình sự BLTTHS : Bộ luật Tố tụng hình sự THAHS : Thi hành án hình sự UBND : Ủy ban nhân dân
  • 9. 9 DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ Số hiệu bảng Tên bảng Trang 2.1 Trình tự, thủ tục thi hành án treo, cải tạo không giam giữ 38 DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ Số hiệu biểu đồ Tên biểu đồ Trang 2.1 Tình hình tội phạm trên địa bàn tỉnh Nam Định từ năm 2009 - 2013 49 2.2 Tình hình thực tế thi hành án treo, cải tạo không giam giữ trên địa bàn tỉnh Nam Định từ năm 2009 - 2013 51
  • 10. 10 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thi hành án hình sự (THAHS) là một trong những hoạt động quan trọng của Nhà nước nhằm đưa các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật ra thi hành trong thực tế; liên quan trực tiếp đến bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội, góp phần bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, phục vụ yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hoạt động THAHS là khâu cuối cùng và có ý nghĩa quan trọng trong bảo đảm hiệu quả thực hiện quyền tư pháp, hiện thực hóa công lý mà Tòa án đã nhân danh Nhà nước ra bản án, quyết định; mặt khác, thi hành án kịp thời, nghiêm chỉnh các phán quyết của Tòa án đối với các hành vi phạm tội chính là biện pháp khôi phục lại các quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của tổ chức và cá nhân bị xâm hại, bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. Từ trước đến nay, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật làm cơ sở cho tổ chức và hoạt động THAHS, được quy định phong phú, đa dạng, có sự kế thừa, bổ sung ngày càng hoàn thiện, phù hợp với xu thế phát triển của đất nước và đáp ứng yêu cầu ở từng thời điểm lịch sử khác nhau. Tuy nhiên, hầu hết mới chỉ chủ yếu tập trung vào công tác thi hành hình phạt tù, tử hình, trục xuất mà chưa quan tâm đúng mức đến việc tổ chức thi hành các hình phạt khác, nhất là hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ. Hệ thống các văn bản quy pháp pháp luật về thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ đã được ban hành ở những thời điểm khác nhau nên còn bất cập, chưa đồng bộ, nhiều nội dung chưa được quy định cụ thể, gặp nhiều khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn thi hành. Bên cạnh đó, qua thực tiễn thi hành cho thấy, hệ thống các cơ quan có thẩm quyền trong thi hành án chưa được phân công, phối hợp chặt chẽ, hiệu quả, phát huy đầy đủ vai trò, trách nhiệm trong quản lý, chỉ đạo, tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát,
  • 11. 11 nhất là vai trò, trách nhiệm của Tòa án, Ủy ban nhân dân (UBND) các cấp, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể; Cơ chế giám sát, chế tài cưỡng chế khi người bị kết án không chấp hành hoặc chấp hành không nghiêm, có vi phạm chưa được quy định đầy đủ, kịp thời, bảo đảm tính răn đe, giáo dục, phòng ngừa tái phạm; Công tác đào tạo, bồi dưỡng, chế độ chính sách, nâng cao trình độ cho cán bộ thực thi và cơ sở vật chất cho công tác thi hành án chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra... Tất cả những tồn tại và hạn chế nêu trên đã làm giảm hiệu quả của công tác thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ trên địa bàn tỉnh Nam Định nói riêng và ở Việt Nam nói chung. Hiện nay, khoa học tư pháp hình sự trong và ngoài nước đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ nhưng chủ yếu chỉ đề cập một cách tổng thể và có hệ thống chung nhất về hình phạt, THAHS hoặc chuyên sâu về hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ mà chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu có hệ thống, toàn diện và sâu sắc riêng về thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ. Hơn nữa, các thông tin, số liệu của các công trình nghiên cứu trên đã lạc hậu so với thực tiễn, nhất là trong thời gian qua có nhiều cơ quan chức năng, các nhà nghiên cứu đã tiến hành khảo sát, cập nhật một cách toàn diện để phục vụ tổng kết thi hành Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 1999, Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003 và triển khai Luật THAHS năm 2010, Hiến pháp năm 2013 đảm bảo tính thống nhất, toàn diện, đồng bộ trong hệ thống pháp luật. Ngoài ra, trong bối cảnh Việt Nam đang thực hiện cải cách tư pháp theo Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trong tâm công tác tư pháp trong thời gian tới; Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 25/4/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020; và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 với nội dung:
  • 12. 12 Coi trọng việc hoàn thiện chính sách hình sự và thủ tục tố tụng tư pháp, đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội. Giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền, hình phạt cải tạo không giam giữ đối với một số loại tội phạm… Xác định rõ trách nhiệm của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn và của cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trong việc thi hành các hình phạt không phải là hình phạt tù để thực hiện nghiêm túc các bản án của Tòa án. Từng bước thực hiện việc xã hội hóa và quy định những hình thức, thủ tục để giao tổ chức không phải là cơ quan nhà nước thực hiện một số công việc thi hành án... [22, tr. 3] Việc tăng cường áp dụng các hình phạt không tước tự do, nhất là hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ thể hiện rõ nét nhất chính sách phân hóa trách nhiệm hình sự và nguyên tắc nhân đạo của luật hình sự, tạo điều kiện cho người phạm tội có cơ hội hoàn lương mà không phải cách ly khỏi xã hội; đồng thời còn giúp giảm bớt chi phí của Nhà nước trong việc giam giữ người phạm tội, tăng cường tính răn đe, giáo dục trong cộng đồng, góp phần hiệu quả phòng, chống tội phạm và các vi phạm pháp luật khác.... Do đó, việc tiếp tục nghiên cứu các quy định của pháp luật và thực tiễn để làm sáng tỏ về mặt khoa học, đưa ra phương hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ. Điều đó không chỉ có ý nghĩa lý luận, thực tiễn và pháp lý quan trọng mà còn là lý do luận chứng cần thiết để tôi lựa chọn đề tài "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Nam Định)" làm luận văn thạc sĩ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Do thi hành hình phạt có vị trí, vai trò quan trọng trong chính sách hình sự của mỗi quốc gia, thể hiện được hiệu quả đạt được của cả hệ thống tư pháp, nên trong những năm qua đã có khá nhiều công trình nghiên cứu khoa
  • 13. 13 học ở những mức độ khác nhau, những khía cạnh, phương diện khác nhau về THAHS và hệ thống các hình phạt. Trước hết, hoạt động THAHS được phân tích trong một số giáo trình và sách tham khảo như: Luật Thi hành án hình sự năm 2010; Tài liệu tập huấn chuyên sâu Luật Thi hành án hình sự, Nxb Lao động, năm 2011, của GS.TS. Nguyễn Ngọc Anh chủ biên; Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, tái bản lần thứ 5, năm 2009, của tập thể tác giả do TS. Hoàng Thị Minh Sơn chủ biên; Sách chuyên khảo: Pháp luật thi hành án hình sự Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Tư pháp, năm 2006, của tập thể tác giả do PGS.TS Võ Khánh Vinh - PGS.TS Nguyễn Mạnh Kháng chủ biên; Sách chuyên khảo: Một số vấn đề về thi hành án hình sự, Nxb Công an nhân dân, năm 2002, của TS. Trần Quang Tiệp... Hoặc được đề cập trong một số báo cáo, đề tài, công trình nghiên cứu khoa học độc lập như: Một số vấn đề về hình phạt cải tạo không giam giữ, của Trần Văn Độ, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 5/1995; Đề tài khoa học: Cơ sở lý luận và thực tiễn nâng cao hiệu quả của các biện pháp tư pháp và các hình phạt không phải là tù và tử hình, của Đặng Quang Phương năm 1996; Các căn cứ thi hành án, của Trần Văn Độ, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 6/1998; Nhu cầu hoàn thiện pháp luật về thi hành án hình sự ở nước ta hiện nay, của Nguyễn Trọng Hách, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 5/2002; Thi hành án: Bất cập từ cơ quan pháp luật, của Nguyễn Khắc Bộ, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 7/2003; Quan niệm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lực nhà nước từ góc nhìn của hoạt động thi hành án hình sự, của Phạm Văn Tỉnh, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 1/2003; Đề tài khoa học: Luận cứ khoa học và thực tiễn của việc đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án ở Việt Nam trong giai đoạn mới, của Bộ Tư pháp, Hà Nội, 2003; Thực trạng công tác thi hành án hình sự và những kiến nghị, của Nguyễn Phong Hòa, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 21/2006; Kỷ yếu Hội thảo khoa học: Về tổ chức, quản lý công tác thi hành án và báo cáo về kết quả tọa đàm về
  • 14. 14 mô hình quản lý công tác thi hành án một số nước trên thế giới, của Ban chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương năm 2013; Chuyên đề khoa học: Công tác thi hành án hình sự và việc tổ chức, quản lý công tác thi hành án hình sự - thực trạng và phương hướng hoàn thiện mô hình quản lý, của Nguyễn Ngọc Anh năm 2013 v.v... Vấn đề thi hành hình phạt không cách ly người bị kết án ra khỏi xã hội, bao gồm cả thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ, hình phạt tù cho hưởng án treo còn được nhiều văn bản pháp lý quốc tế quan trọng đề cập đến như: Công ước chống đối xử hoặc hình phạt tàn bạo, được thông qua bằng Nghị quyết số 39/46 ngày 10/2/1984 của Đại hội đồng Liên hợp quốc; Các quy tắc chuẩn, tối thiểu của Liên hợp quốc về các biện pháp không giam giữ (các quy tắc Tôkyô, 1990), được thông qua bằng Nghị quyết số 45/110 ngày 14/12/1990 của Đại hội đồng Liên hợp quốc v.v... Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, khảo sát trên đây cho thấy, ở nước ta đã có một số công trình nghiên cứu cơ bản về hệ thống hình phạt và THAHS nói chung, hoặc các khía cạnh chuyên sâu về thi hành hình phạt tù, tử hình, trục xuất, còn riêng đối với thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ chưa được quan tâm nghiên cứu đúng mức hoặc chỉ mới được thể hiện một phần trong kết quả của các công trình nghiên cứu khác về hình phạt, THAHS, các quy định của pháp luật có liên quan chứ chưa được triển khai nghiên cứu độc lập, chuyên sâu, đánh giá lý luận và tổng kết thực tiễn. Mặt khác, từ trước đến nay chưa có một đề tài nghiên cứu nào đề cập đến tình hình thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ trên địa bàn tỉnh Nam Định. Do vậy, việc nghiên cứu đề tài này không trùng với bất kì công trình nào đã được nghiên cứu trước đây. Như vậy, tình hình nghiên cứu trên đây lại một lần nữa cho phép khẳng định việc nghiên cứu đề tài "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Nam Định)" là đòi hỏi khách quan, cấp thiết, vừa có tính lý luận, vừa có tính thực tiễn.
  • 15. 15 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của luận văn là nghiên cứu các quy định của pháp luật và thực tiễn thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, từ đó luận văn đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật, cũng như đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả của công tác thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ trong thực tiễn. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Với phạm vi nghiên cứu nêu trên, luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ chính như sau: - Làm rõ một số nội dung cơ bản về lý luận khoa học và quy định của pháp luật về THAHS, các hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ và nhất là thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ về: khái niệm, đặc điểm, chủ thể, khách thể, nội dung, nguyên tắc, phương pháp, hình thức thi hành án treo, cải tạo không giam giữ... - Nghiên cứu, đánh giá thực tiễn thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, trên cơ sở có so sánh, đối chiếu với tình hình thực tiễn thi hành án trên địa bàn tỉnh Nam Định. - Phân tích, làm rõ những kết quả đạt được cũng như những tồn tại, khó khăn trong việc thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ trên địa bàn tỉnh Nam Định từ năm 2009 đến 2013. - Trên cơ sở nghiên cứu để đề xuất phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ. 3.3. Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu, giải quyết những vấn đề xung quanh lý luận và thực tiễn thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ trên địa bàn tỉnh Nam Định, nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế để đề xuất, kiến nghị một số giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thi hành trong thực tiễn.
  • 16. 16 Về thời gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ trong 05 năm (2009 - 2013). 4. Phƣơng pháp luận và các phƣơng pháp nghiên cứu Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng mác-xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền, về chính sách hình sự, về cải cách tư pháp được thể hiện trong các Nghị quyết Đại hội Đảng khóa VII, VIII, IX, X, XI và các Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 26/5/2005 của Bộ Chính trị. Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các phương pháp cụ thể và đặc thù của khoa học luật hình sự như: phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp diễn dịch; phương pháp quy nạp; phương pháp thống kê, điều tra xã hội học để tổng hợp các tri thức khoa học và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong luận văn. Ngoài ra, việc nghiên cứu đề tài còn dựa vào số liệu trong các báo cáo của các ngành Công an, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân các cấp trong những năm 2009 - 2013 và thông tin, tài liệu trên mạng Internet để phân tích, đánh giá, tổng hợp các vấn đề lý luận và thực tiễn xung quanh hoạt động thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ trên địa bàn tỉnh Nam Định nói riêng và trên địa bàn cả nước nói chung. 5. Những điểm mới và đóng góp của luận văn Đây là công trình nghiên cứu đầu tiên và có hệ thống ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học về thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ. Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng, góp phần giải quyết nhiều vấn đề về phương diện lý luận và thực tiễn thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ. Những điểm mới cơ bản của luận văn là: - Tổng hợp các quan điểm khoa học trong và ngoài nước về thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ để xây dựng khái niệm thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, thi hành hình
  • 17. 17 phạt cải tạo không giam giữ, bảo đảm tính chính xác, khoa học, đồng thời làm rõ quá trình phát triển, hoàn thiện pháp luật và các đặc điểm, nội dung cơ bản của thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ trong mối tương quan so sánh với một số chế định khác; - Nghiên cứu, đánh giá làm sáng tỏ bức tranh về tình hình thực tiễn thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ trên địa bàn cả nước nói chung và tỉnh Nam Định nói riêng; chỉ ra những tồn tại, hạn chế trong thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ cũng như những nguyên nhân cơ bản của các tồn tại, hạn chế đó; - Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn đã đề xuất phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp hiện nay. Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích dành cho không chỉ các nhà lập pháp, mà còn cho các nhà nghiên cứu, các cán bộ giảng dạy pháp luật, các nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên thuộc chuyên ngành Tư pháp hình sự tại các cơ sở đào tạo, nghiên cứu pháp luật. Kết quả nghiên cứu của luận văn còn phục vụ trang bị những kiến thức chuyên sâu cho các cán bộ thực tiễn đang công tác tại các cơ quan THAHS, Viện kiểm sát, Tòa án và các cơ quan nhà nước trong quá trình quản lý, tổ chức THAHS đảm bảo khách quan, đúng pháp luật. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề chung về thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ. Chương 2: Thực trạng thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ trên địa bàn tỉnh Nam Định. Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ.
  • 18. 18 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THI HÀNH HÌNH PHẠT TÙ CHO HƢỞNG ÁN TREO, CẢI TẠO KHÔNG GIAM GIỮ 1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ VÀ THI HÀNH HÌNH PHẠT TÙ CHO HƢỞNG ÁN TREO, THI HÀNH HÌNH PHẠT CẢI TẠO KHÔNG GIAM GIỮ 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm thi hành án hình sự Hiện nay, xung quanh khái niệm THAHS còn nhiều ý kiến khác nhau, nhưng có hai quan điểm chính: Quan điểm thứ nhất: cho rằng THAHS là hoạt động tư pháp và là một giai đoạn của tố tụng hình sự, tiêu biểu là nhà luật học Liên Xô (cũ) M.A Trenxốv và một số nhà khoa học Luật học khác như TS. Nguyễn Hữu Thư, PGS.TS. Nguyễn Tất Viễn, trong đó: (1) Thi hành án là các hoạt động bảo vệ pháp luật, nhằm đảm bảo cho bản án, quyết định của Tòa án được thực hiện trên thực tế, do đó về bản chất khác với các hoạt động hành chính là tổ chức và quản lý. Việc Tòa án tuyên bản án, quyết định chưa phải là đã kết thúc hoạt động tư pháp, vì công lý chỉ thực sự được thực hiện khi bản án, quyết định của tòa án được thi hành đầy đủ, nên thi hành án phải là bộ phận không thể tách rời của hoạt động tư pháp; (2) Thi hành các bản án, quyết định của tòa án là thực hiện một quyết định tư pháp, gắn liền và tiếp theo quá trình xét xử, chịu sự chi phối của các cơ quan tố tụng, đặc biệt là Tòa án; không phải là thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật hay quyết định hành chính cá biệt; (3) Cơ quan thi hành án không phải là cơ quan tiến hành tố tụng nhưng là cơ quan có nhiệm vụ thực hiện một số hoạt động tư pháp. Quan điểm thứ hai: cho rằng THAHS là hoạt động hành chính - tư pháp, tiêu biểu là GS.TSKH Đào Trí Úc, PGS.TS Trần Văn Độ, GS.TS. Võ Khánh Vinh và một số nhà khoa học Luật học khác. Tác giả đồng tình với quan điểm thứ hai, bởi vì: (1) Thi hành án không phải là hoạt động xét xử nên
  • 19. 19 không phải là hoạt động tư pháp mà chỉ là hoạt động thi hành các bản án, quyết định của Tòa án; hoạt động THAHS có mục đích, nhiệm vụ khác với hoạt động tố tụng hình sự mặc dù có mối liên hệ chặt chẽ với tố tụng hình sự; (2) Hoạt động thi hành án phản ánh mối liên hệ giữa quyền hành pháp và quyền tư pháp trong thi hành án. Thủ tục thi hành án không hoàn toàn là thủ tục tố tụng mà là quy trình của hoạt động chấp hành, điều hành. Các nguyên tắc, phương pháp của hoạt động thi hành án không giống với hoạt động tố tụng; mà nó bao gồm kết hợp giữa phương pháp giáo dục thuyết phục với mệnh lệnh hành chính; (3) Trong giai đoạn thi hành án không chỉ Tòa án mà còn nhiều cơ quan hành chính Nhà nước cùng tham gia như đã phân tích ở các đặc điểm của THAHS. Do đó, không thể coi thi hành án là hoạt động tư pháp đơn thuần mà có đan xen, gắn bó chặt chẽ với hoạt động hành chính. Pháp luật được áp dụng không phải chỉ riêng luật tố tụng mà còn bao gồm các qui định pháp luật hành chính - tư pháp. Để làm rõ vấn đề trên, tác giả thấy cần thiết phải đi sâu tìm hiểu, phân tích về các đặc điểm, bản chất của THAHS như sau: Theo Từ điển tiếng Việt, thi hành là: "Thực hiện điều đã chính thức quyết định" [35, tr. 1599]. Như vậy, thi hành án có thể được hiểu là thực hiện bản án, quyết định của Tòa án trên thực tế; còn THAHS là thực hiện các bản án, quyết định hình sự của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật trên thực tế. Những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật là căn cứ để các cơ quan nhà nước, người phải thi hành án, người được thi hành án, người có quyền và lợi ích liên quan thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo đúng nội dung bản án, quyết định của Tòa án. Điều đó có nghĩa là chỉ các bản án, quyết định hình sự của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật mới được đem thi hành. Đó là các bản án, quyết định hình sự của Tòa án quy định tại khoản 1 Điều 255 BLTTHS gồm: (1) Những bản án và quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo trình tự phúc thẩm; (2) Những bản án và quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm; (3) Những quyết định của Tòa án cấp giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.
  • 20. 20 Mục đích, nhiệm vụ của hoạt động THAHS khác biệt so với mục đích, nhiệm vụ của hoạt động tố tụng hình sự là quá trình làm rõ sự thật khách quan của vụ án hình sự, xác định rõ có hay không có tội phạm xảy ra, qua đó quyết định việc áp dụng hay không áp dụng hình phạt, biện pháp tư pháp tại bản án, quyết định của Tòa án. THAHS là công đoạn cuối cùng của việc thực thi quyền lực tư pháp, hiện thực hóa công lý đã được Tòa án tuyên trong các bản án, quyết định; là quá trình tiến hành các hoạt động cần thiết nhằm thực hiện nghiêm các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật; một mặt bảo đảm thực hiện quyền tư pháp của Nhà nước, thể hiện sự tôn trọng của xã hội và công dân đối với phán quyết của cơ quan nhân danh Nhà nước là Tòa án, mặt khác nó là biện pháp hữu hiệu để khôi phục các quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức và công dân bị xâm hại. Điều đó không chỉ là ước muốn của mọi người dân, mọi nhà nước dân chủ tiến bộ mà đã trở thành những cam kết, nguyên tắc, chuẩn mực thực thi quyền tư pháp trên toàn thế giới, thể hiện rõ ràng thông qua các Công ước quốc tế. Để đạt được mục đích trên, đòi hỏi hoạt động THAHS phải thực hiện tốt ba chức năng cơ bản là: (1) Chức năng bảo đảm, thực thi công lý. Công lý được thực thi đầy đủ hay không là một phần phụ thuộc vào quá trình tổ chức thi hành của các cơ quan, tổ chức thi hành án; (2) Chức năng cưỡng chế, được thực hiện thông qua những biện pháp cưỡng chế của cơ quan, tổ chức thi hành án; (3) Chức năng giáo dục, được thực hiện bằng các biện pháp động viên, thuyết phục hoặc cưỡng chế người có nghĩa vụ thi hành án, thông qua đó giáo dục thái độ tôn trọng pháp luật, quyền của người khác. Thi hành án hình sự có mối quan hệ chặt chẽ với pháp luật hình sự, nhất là mối quan hệ hữu cơ, tác động qua lại, chặt chẽ với các quy định của pháp luật hình sự về hình phạt và biện pháp tư pháp. Trong mối quan hệ này, hình phạt và biện pháp tư pháp giữ vai trò quyết định, quy định nội dung, phương pháp, hình thức, thời hạn THAHS. Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của từng loại tội phạm được thực hiện thì mỗi người bị kết án sẽ bị
  • 21. 21 áp dụng một loại hình phạt hoặc biện pháp tư pháp cụ thể. Theo đó, việc thi hành các loại hình phạt, biện pháp tư pháp trong thực tế cũng được thực hiện theo những trình tự, thủ tục khác biệt phụ thuộc vào mục đích và đặc điểm của từng loại hình phạt, biện pháp tư pháp. Ngược lại, THAHS có tác động trở lại nhất định đối với hình phạt, biện pháp tư pháp, làm cho mục đích của hình phạt, biện pháp tư pháp được thực hiện trên thực tế. Lợi ích của Nhà nước, tổ chức và công dân, trật tự pháp luật chỉ thực sự được đảm bảo khi công tác THAHS được thực hiện triệt để. Hoạt động THAHS có các quan hệ pháp luật, đối tượng điều chỉnh khác với hoạt động tố tụng hình sự. Quá trình thi hành bản án và quyết định hình sự của Tòa án đã có hiệu lực là một hoạt động phức tạp, đa dạng, có liên quan đến nhiều chủ thể như: Tòa án nhân dân, Tòa án quân sự các cấp, UBND xã, phường, thị trấn, trại tạm giam, cơ quan THAHS, cơ quan quản lý THAHS đến UBND cấp huyện, cấp tỉnh, các bộ, ngành hoặc cơ quan, tổ chức, đoàn thể xã hội và các cá nhân có liên quan. Vai trò của từng loại chủ thể khi tham gia vào quá trình THAHS khác nhau và phụ thuộc vào từng loại thi hành án. Các chủ thể THAHS phải tuân thủ những quy định rất chặt chẽ về thi hành án. Những quy định rất chi tiết, cụ thể như: trình tự, thủ tục ra quyết định thi hành án; cách thức tổ chức việc thi hành án; giải quyết khiếu nại hoặc trả lời kháng nghị việc thi hành án... Những quy định này được thực hiện một cách độc lập, do người có thẩm quyền tiến hành mà không phụ thuộc vào các hoạt động tố tụng khác như trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử. Do có nhiều loại chủ thể khác nhau và liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau, lại thường diễn ra trong một khoảng thời gian khá dài nên các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình THAHS cũng hết sức phức tạp; có thể phân loại thành các nhóm quan hệ như sau: (1) Các quan hệ xã hội phát sinh phát sinh sau sau khi bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật, phản ánh nội dung của việc thi hành và chấp hành các bản án, quyết định
  • 22. 22 của Tòa án, xác định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án; (2) Quan hệ liên quan đến việc hình thành cơ cấu tổ chức, quy định thẩm quyền và quy chế hoạt động của Cơ quan THAHS; (3) Quan hệ phát sinh trong quá trình giáo dục, cải tạo người bị kết án; quan hệ của các cơ quan khác của Nhà nước và các tổ chức xã hội khi tham gia vào quá trình giáo dục, cải tạo người bị kết án. Phương pháp THAHS có sự kết hợp chặt chẽ giữa phương pháp giáo dục, thuyết phục và cưỡng chế. Như vậy, phương pháp điều chỉnh của THAHS khác với tố tụng hình sự - sử dụng phương pháp quyền uy, phương pháp phối hợp và chế ước. Sự tự nguyện thi hành án là một trong yếu tố quan trọng tạo điều kiện cho hoạt động THAHS diễn ra thuận lợi, đạt được hiệu quả cao nhất. Sự tự nguyện đối với người phải thi hành án xuất phát từ bản chất, mục đích tốt đẹp nhân đạo trong việc hướng người thi hành án hòa nhập với cộng đồng, tạo cho họ môi trường thân thiện, ổn định để họ được học tập, lao động và có cơ hội quyết tâm cải tạo trở thành người có ích trong xã hội. Để các chủ thể tự nguyện thi hành án, nhà nước phải áp dụng biện pháp thuyết phục và cưỡng chế, lấy thuyết phục, giáo dục là chính, làm cho người thi hành án hiểu được các quyền lợi của họ khi thực hiện tốt nghĩa vụ của mình; song, cũng phải xử lý nghiêm minh các chủ thể khi không chấp hành nghiêm các quy định của pháp luật thi hành án nhằm mục đích đảm bảo hiệu lực tối đa của các bản án đã tuyên. Việc kết hợp giữa giáo dục, thuyết phục và cưỡng chế trong quá trình THAHS đòi hỏi phải đảm bảo vận dụng linh hoạt, phù hợp tùy theo mỗi hoàn cảnh và điều kiện cụ thể, trong đó chỉ áp dụng cưỡng chế trong trường hợp thật cần thiết khi không có cách nào khác. Thi hành án hình sự là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước, các quy phạm pháp luật trong hoạt động THAHS là các quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do Nhà nước ban hành và đảm bảo thực hiện bằng các biện pháp giáo dục, thuyết phục, cưỡng chế của nhà nước. Tuy nhiên, để hoạt động THAHS đạt hiệu quả cao nhất thì không chỉ phụ thuộc vào sự nỗ lực của các
  • 23. 23 cơ quan nhà nước mà cần có sự chấp hành, phối hợp của nhiều chủ thể, sự quan tâm tham gia của cả cộng đồng xã hội, do vậy hoạt động này còn mang tính xã hội rộng lớn. Từ những phân tích trên, tác giả có thể tổng hợp và đưa ra khái niệm THAHS là hoạt động hành chính - tư pháp, do các cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền tiến hành theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định, kết hợp chặt chẽ giữa phương pháp giáo dục, thuyết phục và cưỡng chế để đưa bản án, quyết định của Tòa án ra thực hiện trên thực tế nhằm bảo đảm lợi ích của Nhà nước, tổ chức và công dân, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa. 1.1.2. Khái niệm, đặc điểm thi hành hình phạt tù cho hƣởng án treo Trên thế giới, mỗi quốc gia có quy định khác nhau về chế định này, chẳng hạn luật hình sự của Anh và Mỹ coi án treo là trường hợp hoãn tuyên án kèm theo biện pháp bảo lĩnh hoặc biện pháp bảo đảm bằng tiền. Luật hình sự của Pháp, Bỉ và một số nước coi án treo là việc hoãn hoặc miễn chấp hành hình phạt. Các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa trước đây coi án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, nhưng cũng có nước coi án treo là hình phạt chính như Cộng hòa dân chủ Đức. Ở nước ta, chế định án treo được qui định ngay từ những năm đầu của Nhà nước dân chủ nhân dân và tồn tại cho đến ngày nay, mặc dù chưa có văn bản luật nào đưa ra định nghĩa chính thức án treo là gì, song nhìn chung các văn bản đều đưa ra những qui định về án treo, điều kiện được hưởng án treo. Trải theo dòng lịch sử lập pháp Việt Nam, các quy định về án treo có một số thay đổi và ngày càng hoàn thiện nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh và phòng ngừa tội phạm. Văn bản đầu tiên quy định về án treo là Sắc lệnh số 21 ngày 14/2/1946 của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa quy định về tổ chức của Tòa án quân sự thiết lập tại Bắc, Trung và Nam Bộ, trong đó: Khi phạt tù, Tòa án có thể cho tội nhân được hưởng án treo nếu có những lý do đáng khoan hồng. Bản án xử treo sẽ tạm đình chỉ việc thi hành án. Nếu trong năm năm bắt đầu từ ngay tuyên án,
  • 24. 24 tội nhân không bị tòa án làm tội một lần nữa về một tội mới thì bản án đã tuyên sẽ bị hủy đi, coi như không có. Nếu trong năm năm ấy, tội nhân lại bị kết án một lần nữa trước một tòa án thì bản án treo sẽ đem ra thi hành [131, tr. 2]. Bộ luật hình sự 1985, BLHS 1999, được sửa đổi, bổ sung năm 2009 xác định án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện. Khoản 1 Điều 60 BLHS 1999 quy định: "Khi xử phạt tù không quá ba năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ một năm đến năm năm" [41]. So với BLHS năm 1985, chế định án treo trong BLHS năm 1999 có nhiều thay đổi, trong đó mức hình phạt tù xem xét cho hưởng án treo từ 5 năm xuống còn 3 năm tù; điều kiện thử thách không phạm tội mới thay thế cho điều kiện không phạm tội mới do cố ý hoặc không phạm tội mới do vô ý và bị phạt tù. Thời gian qua, đã có nhiều nhà nghiên cứu đưa ra các quan điểm về án treo và mặc dù có khác nhau trong cách đặt vấn đề nhưng nhìn chung các tác giả đều thống nhất với sự hướng dẫn, giải thích của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao tại Nghị quyết số 01/1990/NQ-HĐTP ngày 18/10/1990 và mới đây nhất là Nghị quyết số 01/2013/NQ-HĐTP ngày 06/11/2013, có thể thống nhất xác định: án treo là một biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, được Tòa án áp dụng đối với người phạm tội bị phạt tù không quá 3 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, xét thấy không cần buộc phải chấp hành hình phạt tù. Trên cơ sở đó, tác giả rút ra nhận xét về đặc điểm hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo: Thứ nhất: Án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, không phải là hình phạt tù, đây là điểm cần phân biệt. Pháp luật Hình sự Việt Nam quy định bảy hình phạt chính trong đó có hình phạt tù, còn án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù khi người phạm tội có đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật hình sự hiện hành;
  • 25. 25 Thứ hai: Người được hưởng án treo sẽ phải chịu một thời gian thử thách bằng lần mức hình phạt tù, nhưng không được dưới một năm và không quá năm năm; phương pháp thử thách là thông qua việc phải chịu sự giám sát, giáo dục của cơ quan tổ chức được Tòa án giao trách nhiệm giám sát, giáo dục để chứng tỏ sự cải tạo tích cực, trở thành người có ích cho xã hội; Thứ ba: Trong thời gian thử thách, nếu người đó phạm tội mới thì biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù bị xóa bỏ, người được hưởng án treo buộc phải chấp hành hình phạt tù trong bản án mà Hội đồng xét xử đã cho hưởng án treo trước đó cộng với hình phạt của bản án về tội phạm mới thực hiện. Theo Nghị định số 61/2000/NĐ-CP ngày 30/10/2000 của Chính phủ về thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, thì việc thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo nhằm tạo điều kiện cho người được hưởng án treo làm ăn, sinh sống và chứng tỏ sự hối cải, hoàn lương của mình ngay trong môi trường xã hội bình thường, dưới sự giám sát, giáo dục của cơ quan, tổ chức, đơn vị quân đội, cơ sở giáo dục, đào tạo hoặc UBND xã, phường, thị trấn nơi người được hưởng án treo làm việc, công tác, học tập hoặc cư trú và gia đình của người đó. Người được hưởng án treo phải chịu thử thách dưới sự giám sát, giáo dục của cơ quan, tổ chức giám sát, giáo dục và gia đình của người đó. Theo Luật THAHS năm 2010, thi hành án treo là việc cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định của Luật này giám sát, giáo dục người bị phạt tù được hưởng án treo trong thời gian thử thách. Từ hai quy định trên tác giả nhận thấy, khái niệm thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo và thi hành án treo là một, cách giải thích, đặt vấn đề trong Luật THAHS có cô đọng, ngắn gọn hơn nhưng về bản chất không thay đổi so với quy định tại Nghị định số 61/2000/NĐ-CP của Chính phủ. Bên cạnh những đặc điểm chung của THAHS, thi hành án treo có một số đặc điểm cơ bản: Thứ nhất: Thi hành án treo là một bộ phận cấu thành của công tác THAHS, là hoạt động hành chính - tư pháp của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền tiến hành theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định để đưa bản
  • 26. 26 án, quyết định của Tòa án ra thực hiện trên thực tế, bảo đảm lợi ích của Nhà nước, tổ chức và công dân, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa. Thứ hai: Thi hành án treo là một trong những hoạt động thi hành án phạt không giam giữ, có tính nhân đạo sâu sắc, xuất phát từ bản chất của chế định án treo trong pháp luật hình sự Việt Nam, kết hợp giữa trừng trị và giáo dục; người chấp hành án treo không bị cách ly hoàn toàn khỏi đời sống xã hội, quyền tự do thân thể của bị án vẫn được đảm bảo, họ chỉ bị hạn chế một số quyền nhất định do pháp luật quy định và nhận được sự quan tâm tạo điều kiện tối đa để làm ăn, sinh sống và chứng tỏ sự hối cải, hoàn lương của mình ngay trong môi trường xã hội bình thường, dưới sự giám sát, giáo dục của gia đình, UBND cấp xã và các cơ quan, tổ chức, đoàn thể xã hội nơi người được hưởng án treo công tác, cư trú. Tính nhân đạo trong thi hành án treo còn thể hiện ở phương pháp thi hành án là lấy giáo dục thuyết phục, cảm hóa, động viên, khuyến khích là chính, hạn chế việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế hoặc mệnh lệnh hành chính, giúp người bị kết án nhận ra lỗi lầm, tự nguyện sửa chữa, cải tạo thành người có ích cho xã hội và được thể hiện rất rõ tại Điều 65 Luật THAHS. Thứ ba: Thi hành án treo có ý nghĩa xã hội to lớn, thể hiện chính sách nhân đạo của Đảng, Nhà nước, phù hợp với xu thế chung của thế giới. Tại Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đề ra: "Coi trọng việc hoàn thiện chính sách hình sự và thủ tục tố tụng tư pháp, đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội" [22, tr. 3]. Tại bộ Các quy tắc chuẩn, tối thiểu của Liên hợp quốc về các biện pháp không giam giữ, còn gọi là các quy tắc Tôkyô năm 1990, được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua bằng Nghị quyết số 45/110 ngày 14/12/1990 khẳng định: Các quốc gia thành viên phải xây dựng những biện pháp không giam giữ trong hệ thống pháp luật của nước mình nhằm đưa ra các cách lựa chọn khác, từ đó giảm sử dụng biện pháp cầm tù và
  • 27. 27 nhằm tạo cơ sở hợp lý cho những chính sách tư pháp hình sự, thông qua việc giám sát các quyền con người, các yêu cầu công bằng xã hội cũng như nhu cầu phục hồi của người phạm tội [30, tr. 759]. Thứ tư: Khác với các hình phạt tù, việc thi hành án treo không giao cho một cơ quan chuyên trách thực hiện, thể hiện rất rõ chính sách xã hội hóa công tác thi hành án của Đảng và Nhà nước ta trong những năm gần đây. Trong đó, UBND cấp xã hoặc đơn vị quân đội giữ vai trò quan trọng, là cơ quan trực tiếp được giao nhiệm vụ giám sát, giáo dục người chấp hành án. Sự phối hợp đồng bộ giữa cơ quan, đơn vị, tổ chức xã hội, Mặt trận Tổ quốc ở cơ sở và gia đình người bị kết án là điều cần thiết để nâng cao hiệu quả của việc thi hành án treo. Thứ năm: Quá trình thi hành án treo diễn ra trong thời gian thử thách nhất định do Tòa án ấn định bằng hai lần mức hình phạt tù nhưng không được dưới 1 năm và không quá 5 năm, thời điểm bắt đầu ngay từ sau khi Tòa án tuyên bản án, quyết định sơ thẩm cho hưởng án treo. Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo lại phạm tội mới thì biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù bị xóa bỏ, người được hưởng án treo buộc phải chấp hành hình phạt tù trong bản án đã cho hưởng án treo trước đó cộng với hình phạt của bản án về tội phạm mới thực hiện. Thứ sáu: So thi hành án phạt tù có thời hạn, tù chung thân, rõ ràng quá trình thi hành án treo đã góp phần làm giảm bớt chi phí cho xã hội nhưng vẫn đạt được hiệu quả xã hội cao. Đối với thi hành hình phạt tù thì người chấp hành án sẽ bị mất các khoản thu nhập từ các công việc mà họ có trước khi phạm tội và mất đi nguồn thu nhập cũng như cơ hội tìm kiếm việc làm trong thời gian bị cách ly khỏi xã hội; ngoài ra, chi phí hàng năm của Nhà nước cho công tác tổ chức thi hành án phạt tù cũng rất lớn, bao gồm đầu tư cho hệ thống cơ sở nhà giam, bộ máy cán bộ làm công tác quản lý, bảo vệ, y tế, thực hiện chế độ chính sách, đảm bảo điều kiện ăn, mặc, sinh hoạt, y tế, giáo dục cho phạm nhân... Mặc dù ở Việt Nam hiện nay chưa có một công bố chính thức dành cho việc thi hành án phạt tù nhưng dễ nhận thấy là gánh nặng rất
  • 28. 28 lớn cho đất nước, trong điều kiện chúng ta còn đang khó khăn. Còn thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, Nhà nước chỉ mất chi phí phát sinh liên quan đến việc quản lý, giáo dục người chấp hành án ở địa phương, một phần chi phí hỗ trợ đào tạo, học nghề, hướng nghiệp, khắc phục khó khăn... do đó sẽ giảm bớt được rất nhiều chi phí so với thi hành án phạt tù; mặt khác, người chấp hành án treo có điều kiện thuận lợi để tìm kiếm việc làm và gia tăng thu nhập, đặc biệt có ý nghĩa đối với bị án là lao động duy nhất trong gia đình. Thứ bảy: Có quan điểm cho rằng tái hòa nhập cộng đồng chỉ liên quan tới người chấp hành án phạt tù, nhưng theo quan điểm của tác giả cần hết sức quan tâm đến công tác tái hòa nhập cộng đồng đối với người chấp hành án treo, cải tạo không giam giữ. Bởi lẽ, về bản chất, ý nghĩa thì án treo, hình phạt cải tạo không giam giữ đã hàm chứa nội dung nhằm tạo điều kiện tối đa cho người bị kết án có điều kiện thuận lợi nhất để sớm tái hòa nhập cộng đồng ngay từ sau khi tuyên án, chứ không chỉ là nằm trong giai đoạn sau khi chấp hành xong án, như thi hành án phạt tù. Do đó, việc thi hành án treo đòi hỏi phải gắn bó, lồng ghép hết sức chặt chẽ giữa công tác giám sát, quản lý, giáo dục với tạo điều kiện cho người bị kết án được tái hòa nhập cộng đồng. Đây là hai vấn đề có mối quan hệ hữu cơ với nhau, tái hòa nhập cộng đồng tốt sẽ tạo điều kiện, làm giảm áp lực, khó khăn cho việc quản lý, giáo dục người hưởng án treo, phòng ngừa họ tái trở lại con đường phạm tội và ngược lại, giám sát, quản lý, giáo dục tốt sẽ tạo điều kiện cho việc tái hòa nhập cộng đồng những người đó được thuận lợi hơn. Người bị kết án treo có thể nhanh chóng tái hòa nhập xã hội trong điều kiện cuộc sống bình thường ngay sau khi bị kết án, có được điều kiện tốt nhất để cải tạo trở thành người lương thiện, có ích cho xã hội, có như vậy thì bản án, quyết định của Tòa án và công sức THAHS mới đạt được đến đích cuối cùng. Từ khái niệm, bản chất của án treo và kết quả phân tích những đặc điểm trên, tác giả rút ra khái niệm của thi hành án treo là một bộ phận của THAHS, có tính nhân đạo sâu sắc, do cơ quan không chuyên trách, tổ chức xã hội, người có thẩm quyền thực hiện theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định,
  • 29. 29 kết hợp chặt chẽ giữa trừng trị và giáo dục, khuyến khích, tạo điều kiện để người chấp hành án treo tự lao động, học tập, cải tạo trở thành người lương thiện và nhanh chóng tái hòa nhập xã hội trong môi trường cuộc sống bình thường, nhằm đưa bản án, quyết định của Tòa án ra thực hiện trên thực tế và đạt được hiệu quả xã hội cao, bảo đảm được lợi ích của Nhà nước, tổ chức và công dân, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa. 1.1.3. Khái niệm, đặc điểm thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ Theo Từ điển Luật học, cải tạo không giam giữ là việc buộc người phạm tội phải tự cải tạo dưới sự giám sát của cơ quan nhà nước hoặc tổ chức xã hội nơi họ làm việc hoặc cư trú qua việc phải thực hiện những nghĩa vụ nhất định. Từ sau năm 1945, cải tạo không giam giữ được đề cập đầu tiên trong Luật nghĩa vụ quân sự được Quốc hội thông qua ngày 30/12/1981: Người nào đang ở lứa tuổi làm nghĩa vụ quân sự mà không chấp hành đúng những quy định về đăng ký nghĩa vụ quân sự, không chấp hành lệnh gọi nhập ngũ, lệnh gọi tập trung huấn luyện thì tùy mức độ nhẹ hoặc nặng mà bị xử lý bằng biện pháp hành chính, bị phạt cải tạo không giam giữ từ ba tháng đến hai năm, hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến hai năm [39]. Tại Điều 6 Pháp lệnh Trừng trị các tội đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép năm 1982: Người nào kinh doanh không có giấy phép hoặc không đúng với nội dung được phép, trốn thuế, không niêm yết giá, nâng giá cao hơn giá niêm yết, không đăng ký nhãn hiệu hàng hóa, sử dụng trái phép nhãn hiệu hàng hóa hoặc dùng thủ đoạn khác để lừa dối cơ quan nhà nước và người tiêu dùng thì bị phạt cải tạo không giam giữ từ ba tháng đến hai năm, hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến hai năm, và bị phạt tiền gấp ba lần trị giá hàng phạm pháp [28]. Bộ luật Hình sự năm 1985 ghi nhận hình phạt cải tạo không giam giữ là một trong những hình phạt chính. Tại Điều 24 BLHS 1985 và điểm 1, điểm
  • 30. 30 2 Nghị quyết 02/1986/NQ-HĐTP ngày 05/01/1986 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao quy định hình phạt này được áp dụng với người phạm tội ít nghiêm trọng và những trường hợp phạm tội ít nghiêm trọng mà BLHS năm 1985 quy định phạt giam nhưng có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nên được chuyển sang loại hình phạt nhẹ hơn. Hình phạt cải tạo không giam giữ không áp dụng đối với những tội phạm nghiêm trọng, kể cả trường hợp có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. So với quy định trong BLHS năm 1985, quy định về cải tạo không giam giữ theo BLHS năm 1999 mở rộng diện áp dụng và tăng cường nghĩa vụ, trách nhiệm của người chấp hành án, phù hợp định hướng cải cách tư pháp và xu thế chung hiện nay: (1) Mở rộng diện đối tượng được áp dụng: BLHS năm 1999 quy định có thể áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng, còn BLHS năm 1985 cải tạo không giam giữ chỉ được áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng; (2) Tăng mức giới hạn thời gian cải tạo không giam giữ: BLHS năm 1999 quy định từ sáu tháng đến ba năm, trong khi đó BLHS năm 1985 quy định từ sáu tháng đến hai năm; (3) Quy định bắt buộc việc khấu trừ phần trăm thu nhập: BLHS năm 1985 đây là chế tài tùy nghi do Tòa án quyết định, nhưng BLHS năm 1999 quy định là chế tài bắt buộc, chỉ tùy nghi mức độ khấu trừ căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội, thiệt hại gây ra cho xã hội và điều kiện, khả năng của người bị khấu trừ; Tòa án có thể cho miễn việc khấu trừ thu nhập nhưng phải ghi rõ lý do trong bản án. Cải tạo không giam giữ là loại hình phạt không tước tự do, không buộc người phạm tội cách ly khỏi gia đình, nơi làm việc cũng như xã hội nói chung. Nội dung chính của hình phạt là việc buộc một người bị kết án phải chịu sự giám sát, giáo dục của các cơ quan, tổ chức. Người bị kết án phải thực hiện nghĩa vụ báo cáo, tự kiểm điểm định kỳ và có thể phải nộp 5% đến 20% thu nhập để sung quỹ nhà nước. Thời hạn cải tạo không giam giữ từ 6 tháng
  • 31. 31 đến 3 năm. Hình phạt áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng, có nơi làm việc hoặc nơi thường trú rõ ràng và khi các điều kiện khác cho thấy họ có thể tự cải tạo, giáo dục mà không cần thiết phải cách ly ra khỏi xã hội. Việc thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ và thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo có chung đặc điểm là không cách ly người bị kết án khỏi xã hội, tuy nhiên cần phân biệt hình phạt cải tạo không giam giữ với hình phạt tù cho hưởng án treo và giữa thi hành án treo với thi hành án phạt cải tạo không giam giữ. Trên cơ sở nội dung đã phân tích, tác giả rút ra nhận xét về đặc điểm của hình phạt cải tạo không giam giữ như sau: Thứ nhất: Cải tạo không giam giữ là hình phạt chính, nghiêm khắc nhất trong số các hình phạt không phải tù, nhẹ hơn hình phạt tù, nặng hơn phạt tiền và cảnh cáo. Tòa án có thể lựa chọn và áp dụng đối với các trường hợp phạm tội mà nếu áp dụng hình phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền thì chưa đủ để trừng trị và giáo dục răn đe người phạm tội, răn đe người khác nhưng cũng không cần thiết phải sử dụng hình phạt tù - hình phạt mà tính trừng trị nghiêm khắc được đảm bảo rõ nét. Là hình phạt chính nên khi Tòa án tuyên áp dụng cải tạo không giam giữ cho người phạm tội có thể đồng thời tuyên một hoặc nhiều hình phạt bổ sung kèm theo; Thứ hai: Bản chất của hình phạt vẫn là sự hạn chế tự do thể hiện ở việc người bị kết án dù được cải tạo, giáo dục tại địa phương nhưng tự bản thân họ luôn biết rằng mọi việc làm của họ đều bị theo dõi, giám sát, hoàn toàn không được tự do như bình thường. Thứ ba: Cải tạo không giam giữ có nội dung, điều kiện và giới hạn áp dụng cụ thể riêng so với các hình phạt khác. Người bị kết án phải thực hiện một số nghĩa vụ theo các quy định về cải tạo không giam giữ và bị khấu trừ một phần thu nhập từ 5% đến 20% để sung quỹ nhà nước. Trên cơ sở phân tích quy định của pháp luật về hình phạt cải tạo không giam giữ, xuất phát từ bản chất của loại hình phạt cải tạo không giam giữ, có thể đưa ra khái niệm cải tạo không giam giữ là hình phạt chính trong
  • 32. 32 hệ thống hình phạt tù, tạo điều kiện cho người bị phạt tù được cải tạo, học tập trong môi trường xã hội bình thường, khuyến khích họ cải tạo thành người có ích, được áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng đang có nơi làm việc ổn định hoặc nơi thường trú rõ ràng và xét thấy không cần phải cách ly họ ra khỏi xã hội. Hiện nay đang có quan điểm cho rằng nên bỏ loại hình phạt này vì cho rằng các điều kiện áp dụng, tổ chức thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ và hình phạt tù cho hưởng án có nhiều điểm giống nhau, dễ dẫn đến trùng lặp, nhầm lẫn như sau: (1) Về điều kiện cho hưởng án treo và áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ: Người phạm tội nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng và xét thấy không cần phải cách ly họ ra khỏi xã hội thì tòa án cho họ được hưởng án treo; (2) Về thi hành án treo và thi hành án phạt cải tạo không giam giữ đều cho người bị kết án được cải tạo, giáo dục ở ngoài xã hội, ở cộng đồng dân cư nơi sinh sống, làm việc mà không bị bắt buộc tập trung cải tạo ở các trại giam. Tuy nhiên, tác giả cho rằng không thể bỏ hình phạt cải tạo không giam giữ, bởi lẽ về bản chất người bị phạt tù cho hưởng án treo là người bị phạt tù có thời hạn và nghiêm khắc hơn so với hình phạt cải tạo không giam giữ. Sự nghiêm khắc hơn thể hiện trước hết ở điều kiện cho hưởng án treo chặt chẽ: căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ; còn hình phạt cải tạo không giam giữ không quy định bắt buộc căn cứ vào nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ, chỉ cần có điều kiện: đang có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi thường trú rõ ràng và xét thấy không cần thiết phải cách ly người phạm tội khỏi xã hội. Ngoài ra, mặc dù án treo không phải là hình phạt theo BLHS năm 1999, song về bản chất là quá trình tạm thời miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, tức là trong thời gian thử thách hình phạt tù do Tòa án đã tuyên trong bản án đó vẫn đang tồn tại và sẵn sàng áp dụng ngay nếu các điều kiện tạm miễn chấp hành hình phạt tù bị mất đi. Hơn nữa, thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ phù hợp với đường lối xử lý tội phạm trong quá trình
  • 33. 33 xây dựng nhà nước pháp quyền và chủ trương của Bộ chính trị tại Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020: "Giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với một số loại tội phạm" [22, tr. 3]. Như vậy, cải tạo không giam giữ là một chế định pháp lý được quy định trong BLHS và BLTTHS, được thể hiện cụ thể bằng bản án hoặc quyết định của Tòa án, việc thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ là một bộ phận của THAHS và phải được cơ quan có thẩm quyền tổ chức thực hiện nghiêm túc theo đúng trình tự, thủ tục quy định. Việc thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ nhằm tạo điều kiện cho người kết án phạt cải tạo không giam giữ lao động, học tập và chứng tỏ sự hối cải, hoàn lương của mình ngay trong môi trường xã hội bình thường, dưới sự giám sát, giáo dục của cơ quan, tổ chức, đơn vị quân đội, cơ sở giáo dục, đào tạo hoặc UBND xã, phường, thị trấn nơi người bị kết án cư trú và gia đình người đó. Người bị kết án phải chấp hành hình phạt dưới sự giám sát, giáo dục của cơ quan, tổ chức giám sát, giáo dục và gia đình người đó. Theo quy định tại Điều 3 Luật THAHS năm 2010: "Thi hành án phạt cải tạo không giam giữ là việc cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định của Luật này giám sát, giáo dục người chấp hành án tại xã, phường, thị trấn và khấu trừ thu nhập sung quỹ nhà nước theo bản án đã có hiệu lực pháp luật" [45]. Ngoài đặc điểm chung của THAHS, thi hành án phạt cải tạo không giam giữ còn có một số đặc điểm khác: Một là: So với thi hành án treo, thi hành án phạt cải tạo không giam giữ có thêm thủ tục miễn chấp hành án. Sự khác biệt đó là do xuất phát từ bản chất của cải tạo không giam giữ là một trong những hình phạt chính, còn án treo nằm trong chế định miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện. Hai là: Do thi hành án phạt cải tạo không giam giữ là quá trình thi hành hình phạt chính nên đồng thời còn bao gồm cả việc cơ quan có thẩm quyền sẽ thực hiện khấu trừ một phần thu nhập của người chấp hành án (từ
  • 34. 34 5% đến 20% thu nhập) mà Tòa án đã ấn định để sung quỹ nhà nước, bên cạnh đó còn có thể diễn ra quá trình thi hành hình phạt bổ sung kèm theo bản án, quyết định của Tòa án có thẩm quyền nếu có. Ba là: Quá trình thi hành án phạt cải tạo không giam giữ không nghiêm khắc hơn thi hành án treo, thể hiện rõ nét ở chỗ thời gian đã chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ sẽ được xem xét để giảm trừ khi tổng hợp hình phạt, tức là trường hợp khi người chấp hành án cải tạo không tốt, có hành vi phạm tội mới và bị Tòa án tuyên phạt về tội mới, thì thời gian đã chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ trước đó được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt chung khi tổng hợp hình phạt. Từ những phân tích như trên, tác giả có thể rút ra được khái niệm của thi hành án phạt cải tạo không giam giữ là một bộ phận của THAHS, hiện thực hóa một trong những hình phạt chính nhưng không nghiêm khắc hơn thi hành án treo và có tính nhân đạo sâu sắc, do cơ quan không chuyên trách, tổ chức xã hội, người có thẩm quyền thực hiện theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định, kết hợp chặt chẽ giữa trừng trị và giáo dục, khuyến khích, tạo điều kiện để người chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ tự lao động, học tập, cải tạo trở thành người lương thiện và nhanh chóng tái hòa nhập xã hội trong môi trường cuộc sống bình thường, nhằm đưa bản án, quyết định của Tòa án ra thực hiện trên thực tế và đạt được hiệu quả xã hội cao, bảo đảm được lợi ích của Nhà nước, tổ chức và công dân, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa. 1.2. CÁC CHỦ THỂ THI HÀNH ÁN TREO, CẢI TẠO KHÔNG GIAM GIỮ Xuất phát từ bản chất tư pháp - hành chính và tính xã hội rộng lớn của hoạt động thi hành án treo, cải tạo không giam giữ nên có nhiều chủ thể tham gia trong quá trình thi hành án. Mỗi chủ thể có quyền hạn, trách nhiệm khác nhau, song các chủ thể đều cùng chung mục đích là cảm hóa, giám sát, giáo dục và giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi nhất để người bị kết án cải tạo tốt, trở thành người lương thiện trong điều kiện cuộc sống bình thường ở nơi cư trú, lao động, học tập. Có 06 loại chủ thể như sau:
  • 35. 35 1.2.1. Tòa án Theo Điều 102 Hiến pháp năm 2013, Tòa án nhân dân tối cao, các Tòa án nhân dân địa phương, các Tòa án khác do luật định là cơ quan xét xử thực hiện quyền tư pháp. Căn cứ quy định của pháp luật, Tòa án yêu cầu mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan phải thực hiện đầy đủ, nghiêm túc và chính xác nhằm đảm bảo các bản án, quyết định phải đưa ra thi hành nghiêm chỉnh, được quy định tại các điều 31, 57, 58, 59, 60, 63, 64, 66, 67, 73, 76, 77 BLHS; các điều 22, 38, 227, 229, 237, 254, 255, 256, 257, 264, 268, 269, 270, 271, 275, 276, 288, 293, 294, 299 BLTTHS; các điều 20, 61, 62, 66, 69, 72, 73, 77, 78 Luật THAHS; trong đó có các quyền, trách nhiệm: (1) Trong thời hạn bảy ngày kể từ ngày bản án, quyết định sơ thẩm có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày nhận được bản án, quyết định phúc thẩm, quyết định giám đốc thẩm, quyết định tái thẩm, Chánh án Tòa án đã xử sơ thẩm phải ra quyết định thi hành án hoặc ủy thác cho Tòa án khác cùng cấp ra quyết định thi hành án. (2) Gửi trích lục bản án, quyết định thi hành án cho người được hưởng án treo hoặc người chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ; Viện kiểm sát cùng cấp; Cơ quan THAHS Công an cấp huyện hoặc Cơ quan THAHS cấp quân khu nơi người được hưởng án treo, người chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ đang cư trú, làm việc; Sở Tư pháp nơi Tòa án đã ra quyết định thi hành án có trụ sở. (3) Quyết định miễn, giảm thời hạn chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ hoặc rút ngắn thời gian thử thách án treo và gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp, Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp, Tòa án đã ra quyết định thi hành án, Sở Tư pháp nơi Tòa án đã ra quyết định thi hành án có trụ sở; (4) Cấp giấy chứng nhận xóa án tích cho người đã chấp hành xong án treo, cải tạo không giam giữ thuộc trường hợp đương nhiên xóa án tích. (5) Chuyển tài liệu xin xóa án tích cho Viện kiểm sát cùng cấp đối với những trường hợp xóa án tích do Tòa án quyết định.
  • 36. 36 (6) Được Cơ quan THAHS Công an cấp huyện, Cơ quan THAHS cấp quân khu gửi giấy chứng nhận đã chấp hành xong thời gian thử thách án treo, chấp hành xong án phạt cải tạo không giam giữ. (7) Được Cơ quan THAHS Công an cấp huyện, Cơ quan THAHS cấp quân khu thông báo bằng văn bản về việc người chấp hành án treo, phạt cải tạo không giam giữ chuyển đến nơi cư trú mới. (8) Các cơ quan thi hành án phải báo cho Chánh án Tòa án đã ra quyết định thi hành án về việc bản án hoặc quyết định đã được thi hành,. (9) Giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền của Tòa án; (10) Thực hiện chế độ thống kê, báo cáo về THAHS theo thẩm quyền và các nhiệm vụ, quyền hạn khác. 1.2.2. Viện kiểm sát Viện kiểm sát là cơ quan thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, bao gồm cả hoạt động thi hành án; được pháp luật giao trách nhiệm, quyền hạn cụ thể để kiểm sát chặt chẽ việc tuân theo pháp luật của Tòa án, tổ chức, đơn vị, cá nhân có liên quan trong việc thi hành án treo, cải tạo không giam giữ nhằm đảm bảo các bản án, quyết định đó thi hành đúng pháp luật, đầy đủ, kịp thời, quy định tại các điều 31, 57, 58, 59, 60, 63, 64, 66, 67, 73, 76, 77 BLHS; các điều 23, 36, 37, 229, 232, 239, 254, 255, 256, 257, 264, 268, 269, 271, 274, 275, 276, 288, 293, 294, 299 BLTTHS; các điều 61, 66, 69, 72, 77, 78 Luật THAHS; trong đó có các quyền, trách nhiệm: (1) Được nhận quyết định thi hành án, trích lục bản án; quyết định miễn, giảm thời hạn chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ hoặc quyết định rút ngắn thời gian thử thách án treo của Tòa án. (2) Được Tòa án cùng cấp thông báo bằng văn bản về việc mở phiên họp xét rút ngắn thời gian thử thách, xét giảm thời hạn chấp hành án hoặc xét miễn chấp hành án và được cử Kiểm sát viên tham gia phiên họp. (3) Được Cơ quan THAHS Công an cấp huyện, Cơ quan THAHS cấp quân khu thông báo bằng văn bản về việc người chấp hành án treo, cải tạo không giam giữ chuyển đến nơi cư trú mới.
  • 37. 37 (4) Xem xét, lập hồ sơ đề nghị Tòa án cùng cấp xét miễn chấp hành án. (5) Được Tòa án chuyển tài liệu xin xóa án tích để phát biểu ý kiến bằng văn bản đối với những trường hợp xóa án tích do Tòa án quyết định. (6) Yêu cầu Tòa án cùng cấp và cấp dưới ra quyết định thi hành án treo, cải tạo không giam giữ đúng quy định; yêu cầu Tòa án cung cấp hồ sơ, tài liệu có liên quan đến việc thi hành án treo và cải tạo không giam giữ; (7) Trực tiếp kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc thi hành án của cơ quan thi hành án, các cơ quan, tổ chức, đơn vị và cá nhân có liên quan và việc giải quyết kháng cáo, khiếu nại, tố cáo đối với việc thi hành án; (8) Kháng nghị với Tòa án, Cơ quan THAHS cùng cấp và cấp dưới, cơ quan, tổ chức, đơn vị có vi phạm pháp luật trong việc thi hành án, yêu cầu chấm dứt việc làm vi phạm pháp luật trong thi hành án nếu có. 1.2.3. Hệ thống tổ chức cơ quan thi hành án treo, cải tạo không giam giữ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự Luật THAHS năm 2010 quy định tương đối đầy đủ về hệ thống tổ chức cơ quan thi hành án treo, cải tạo không giam giữ, gồm 3 loại: (1) Cơ quan quản lý THAHS; (2) Cơ quan THAHS; (3) Cơ quan được giao một số nhiệm vụ THAHS, bao gồm UBND cấp xã và đơn vị quân đội cấp trung đoàn hoặc tương đương. Hiện nay, hệ thống cơ quan làm nhiệm vụ THAHS thuộc Bộ Công an được tổ chức ở 3 cấp, gồm: (1) Tổng cục THAHS và hỗ trợ tư pháp thuộc Bộ Công an; (2) Phòng Cảnh sát THAHS và hỗ trợ tư pháp, Trại tạm giam thuộc Công an cấp tỉnh; (3) Đội THAHS và hỗ trợ tư pháp thuộc Công an cấp huyện. Hệ thống cơ quan làm nhiệm vụ THAHS thuộc Bộ Quốc phòng được tổ chức ở 2 cấp, gồm: (1) Cục Điều tra hình sự thuộc Bộ Quốc phòng; (2) Phòng Điều tra hình sự thuộc quân khu, quân đoàn. Ngoài ra, các đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương đang làm nhiệm vụ thi hành án treo, cải tạo không giam giữ với tư cách là cơ quan được giao một số nhiệm vụ thi hành án theo quy định của Luật THAHS.
  • 38. 38 - Cơ quan quản lý THAHS: Bao gồm cơ quan quản lý THAHS thuộc Bộ Công an và cơ quan quản lý THAHS thuộc Bộ Quốc phòng, là đầu mối ở trung ương giúp Chính phủ quản lý về công tác THAHS nói chung và thi hành thi hành án án treo, cải tạo không giam giữ nói riêng. Theo quy định tại Điều 11, 171 Luật THAHS và Quyết định số 3057/QĐ-BCA ngày 12/6/2014 của Bộ trưởng Bộ Công an ban hành quy định về Cơ quan quản lý THAHS và Cơ quan THAHS trong Công an nhân dân, thì Tổng cục Cảnh sát THAHS và hỗ trợ tư pháp là cơ quan quản lý THAHS thuộc Bộ Công an. Theo quy định tại điều 12, 172 Luật THAHS và Quyết định số 139/2004/QĐ-BQP ngày 08/10/2004 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quy định về tổ chức và nhiệm vụ của Cơ quan điều tra hình sự trong Quân đội nhân dân, thì Cục Điều tra hình sự đang thực hiện nhiệm vụ của cơ quan quản lý THAHS thuộc Bộ Quốc phòng. Cơ quan quản lý THAHS có một số nhiệm vụ, quyền hạn như sau: (1) Tổ chức triển khai thi hành pháp luật về THAHS; Chỉ đạo nghiệp vụ, hướng dẫn việc áp dụng thống nhất các quy định của pháp luật về THAHS; Tổng kết công tác THAHS; (2) Kiểm tra công tác THAHS; (3) Quyết định đưa người chấp hành án phạt tù đến nơi chấp hành án; (4) Trực tiếp quản lý các trại giam; (5) Thực hiện chế độ thống kê, báo cáo; (6) Giải quyết khiếu nại, tố cáo về THAHS theo quy định của Luật THAHS; (7) Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác do Bộ trưởng giao. - Cơ quan THAHS: gồm Cơ quan THAHS Công an cấp tỉnh; Cơ quan THAHS cấp quân khu và Cơ quan THAHS Công an cấp huyện. Đây là những cơ quan có liên quan trực tiếp đến công tác thi hành án treo, án phạt cải tạo không giam giữ, được thành lập và chính thức đi vào hoạt động sau khi Luật THAHS ra đời, góp phần tạo sự thống nhất trong chỉ đạo, quản lý và tăng cường hiệu lực, hiệu quả của công tác THAHS. Cơ quan THAHS Công an cấp tỉnh: có 5 nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể trong thi hành án treo, cải tạo không giam giữ theo Điều 13 Luật THAHS, gồm: Giúp Giám đốc Công an cấp tỉnh quản lý, chỉ đạo công tác thi hành án
  • 39. 39 treo, cải tạo không giam giữ trên địa bàn cấp tỉnh, bao gồm: chỉ đạo nghiệp vụ và kiểm tra công tác THAHS đối với Công an cấp huyện; tổng kết công tác THAHS và thực hiện chế độ thống kê, báo cáo theo hướng dẫn của cơ quan quản lý THAHS thuộc Bộ Công an; Giải quyết khiếu nại, tố cáo về THAHS và thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của Luật THAHS. Cơ quan THAHS Công an cấp huyện, Cơ quan THAHS cấp quân khu: Theo quy định tại các điều 13, 14, 62, 66, 68, 69, 73, 77, 78, 80 Luật THAHS, Cơ quan THAHS cấp quân khu có nhiệm vụ giúp Tư lệnh quân khu chỉ đạo nghiệp vụ, kiểm tra công tác THAHS thuộc quân khu. Cơ quan THAHS Công an cấp huyện có nhiệm vụ: (1) Giúp Trưởng Công an cấp huyện quản lý, chỉ đạo công tác THAHS trên địa bàn; (2) Hướng dẫn nghiệp vụ THAHS theo thẩm quyền đối với UBND cấp xã; (3) Chỉ đạo, kiểm tra Công an cấp xã trong việc giúp UBND cấp xã thực hiện nhiệm vụ THAHS. Đối với công tác quản lý, giáo dục người chấp hành án treo, cải tạo không giam giữ, 02 cơ quan trên có 10 nhiệm vụ cụ thể: (1) Tiếp nhận bản án, quyết định thi hành án, các tài liệu có liên quan do Tòa án chuyển giao; (2) Triệu tập người chấp hành án, người đại diện hợp pháp của người chấp hành án là người chưa thành niên đến trụ sở cơ quan thi hành án để ấn định thời gian người được hưởng án treo phải có mặt tại UBND cấp xã nơi người đó cư trú hoặc đơn vị quân đội nơi người đó làm việc để cam kết việc chấp hành án và lập hồ sơ thi hành án; (3) Chuyển giao hồ sơ cho UBND cấp xã, đơn vị quân đội để thi hành án phạt cải tạo không giam giữ, án treo; (4) Cấp giấy chứng nhận đã chấp hành xong hình phạt cải tạo không giam giữ, đã chấp hành xong thời gian thử thách và gửi cho người chấp hành án, UBND cấp xã, đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục, Tòa án đã ra quyết định thi hành án, Sở Tư pháp nơi Tòa án đã ra quyết định thi hành án có trụ sở; (5) Lập hồ sơ và đề nghị Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án quân sự khu vực nơi người chấp hành án đang cư trú, làm việc xem xét, quyết định khi có đủ điều kiện để giảm thời hạn chấp hành án, rút ngắn thời gian thử thách; (6) Đề nghị
  • 40. 40 Viện kiểm sát nơi người chấp hành án đang cư trú, làm việc xem xét, lập hồ sơ đề nghị Tòa án cùng cấp xét miễn chấp hành án và được Tòa án chuyển giao quyết định miễn chấp hành án; (7) Tiếp nhận, lập biên bản và lưu hồ sơ thi hành án treo, cải tạo không giam giữ sau khi hết thời gian thử thách, hết thời gian chấp hành án; (8) Làm thủ tục chuyển giao hồ sơ thi hành án treo để giám sát, giáo dục; (9) Giải quyết khiếu nại, tố cáo về THAHS và thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của Luật THAHS; (10) Thực hiện thống kê, báo cáo theo hướng dẫn của cơ quan quản lý THAHS. - Cơ quan được giao một số nhiệm vụ THAHS, gồm UBND cấp xã và đơn vị quân đội cấp trung đoàn hoặc tương đương; theo quy định Điều 63, 74 Luật THAHS có 12 nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể như sau: (1) Tiếp nhận hồ sơ và tổ chức giám sát, giáo dục người được hưởng án treo, người chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ; (2) Phân công người trực tiếp giám sát, giáo dục người được hưởng án treo, người chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ; (3) Yêu cầu người được hưởng án treo, người chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình và có biện pháp giáo dục, phòng ngừa khi người đó có dấu hiệu vi phạm pháp luật; (4) Biểu dương người được hưởng án treo, người chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ có nhiều tiến bộ hoặc lập công; (5) Giải quyết cho người được hưởng án treo, người chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ được vắng mặt ở nơi cư trú; (6) Phối hợp với cơ quan thi hành án dân sự thực hiện khấu trừ một phần thu nhập của người chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ theo quyết định của Tòa án để sung quỹ nhà nước; (7) Phối hợp với gia đình và cơ quan, tổ chức nơi người được hưởng án treo, người chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ làm việc, học tập trong việc giám sát, giáo dục người đó; (8) Lập hồ sơ đề nghị xem xét việc rút ngắn thời gian thử thách, giảm thời hạn chấp hành án, miễn chấp hành án gửi cơ quan có thẩm quyền; (9) Nhận xét bằng văn bản và lưu vào sổ theo dõi về quá trình chấp hành án của người được hưởng án treo, người chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ khi người đó chuyển đi nơi
  • 41. 41 khác; (10) Thực hiện thống kê, báo cáo cơ quan THAHS có thẩm quyền về kết quả thi hành án treo, cải tạo không giam giữ; (11) Xử phạt vi phạm hành chính theo thẩm quyền hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính đối với người được hưởng án treo, người chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ; (12) Giải quyết khiếu nại, tố cáo về thi hành án treo, cải tạo không giam giữ theo quy định của Luật THAHS. Như vậy, so với Nghị định số 60, 61/2000/NĐ-CP của Chính phủ giao cho nhiều cơ quan, tổ chức có nhiệm vụ, quyền hạn trong thi hành án treo, cải tạo không giam giữ như: Cơ quan, tổ chức trực tiếp quản lý người bị kết án nếu người đó là cán bộ, công chức, người đang học tập tại cơ sở giáo dục, đào tạo; Doanh nghiệp, hợp tác xã, nếu người bị kết án là người làm công ăn lương. Đến nay, Luật THAHS rút gọn còn 2 cơ quan có trách nhiệm giám sát, giáo dục người bị kết án là UBND cấp xã và đơn vị quân đội cấp trung đoàn hoặc tương đương. Luật THAHS quy định đơn vị quân đội cấp trung đoàn hoặc tương đương thay cho đơn vị quân đội cấp đại đội như quy định tại Nghị định 60, 61/2000/NĐ-CP của Chính phủ để đảm bảo tính thống nhất, nâng cao hiệu quả, đáp ứng yêu cầu của tình hình hiện nay. Luật Thi hành án cũng bãi bỏ nhiệm vụ cấp giấy chứng nhận đã chấp hành xong thời hạn cải tạo không giam giữ hoặc thời gian thử thách cho người bị kết án đối với UBND cấp xã, đơn vị quân đội, đồng thời chuyển giao nhiệm vụ trên cho Cơ quan THAHS Công an cấp huyện hoặc Cơ quan THAHS cấp quân khu, phù hợp với vai trò quản lý và tính chất chuyên trách đặc thù của các cơ quan trên. 1.2.4. Công an cấp xã Thực tế trong một thời gian khá dài UBND cấp xã ở nhiều địa phương đã rất lúng túng, không thống nhất trong việc phân công người chịu trách nhiệm giám sát, giáo dục người chấp hành án treo, cải tạo không giam giữ và không rõ bộ phận, cá nhân nào thuộc UBND cấp xã chịu trách nhiệm chính trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ trên, có địa phương thì giao cho Tư pháp, có
  • 42. 42 địa phương thì giao cho Công an xã chịu trách nhiệm giám sát, giáo dục người chấp hành án treo. Nguyên nhân do Nghị định số 60, 61/2000/NĐ-CP của Chính phủ không quy định rõ bộ phận, cá nhân nào chịu trách nhiệm trong việc tham mưu, giúp UBND cấp xã tổ chức thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn về thi hành án treo, cải tạo không giam giữ. Ủy ban nhân dân cấp xã là đơn vị hành chính cấp xã, chịu trách nhiệm quản lý, điều hành mọi hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội của chính quyền tại địa bàn cấp xã, trong điều kiện biên chế, khả năng còn hạn chế nhưng thường xuyên phải giải quyết một khối lượng công việc rất lớn, trực tiếp liên quan đến quyền, lợi ích của nhân dân. Do đó, để đảm bảo cho công tác tổ chức thi hành án treo, cải tạo không giam giữ tại các xã, phường, thị trấn thực sự có hiệu quả, mang tính khả thi cao trong điều kiện hiện nay, tại Điều 18, 63, 74 Luật THAHS đã giao cho Công an cấp xã, mà cụ thể là Trưởng Công an cấp xã có nhiệm vụ tham mưu, giúp UBND cấp xã tổ chức thực hiện 12 nhiệm vụ, quyền hạn về thi hành án treo, cải tạo không giam giữ. Qua nghiên cứu tham khảo Nghị định số 60, 61/2000/NĐ-CP của Chính phủ đã từng quy định trách nhiệm của người trực tiếp giám sát, giáo dục, Công an xã cần áp dụng đầy đủ các biện pháp như sau: Chủ động gặp gỡ, động viên người kết án chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, ba tháng một lần báo cáo với thủ trưởng cơ quan tổ chức giám sát, giáo dục về tình hình chấp hành án, báo cáo cơ quan tổ chức giám sát, giáo dục khi người bị kết án có đủ điều kiện được xét giảm thời gian thử thách...; đồng thời, kiến nghị cơ quan, tổ chức giám sát, giáo dục có trách nhiệm tạo điều kiện để người bị kết án giáo dục tốt, đề nghị rút ngắn thời gian thử thách cho người bị kết án. 1.2.5. Gia đình, các cơ quan, tổ chức, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ở cơ sở, cộng đồng dân cƣ nơi ngƣời bị kết án cƣ trú Có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan, tổ chức quản lý giám sát tiến hành tác động, giáo dục, giúp đỡ người bị kết án, tạo thuận lợi cho họ sửa chữa lỗi lầm, trở thành người có ích cho xã hội, không tái phạm. Tại Điều 6
  • 43. 43 Luật THAHS quy định: "Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giám sát hoạt động của các cơ quan, tổ chức trong thi hành án hình sự và các cơ quan, tổ chức khác liên quan đến hoạt động thi hành án hình sự nói chung và thi hành án treo, cải tạo không giam giữ theo quy định của pháp luật" [45]. Ngoài ra, Mặt trận Tổ quốc và các cơ quan, tổ chức ở cơ sở có trách nhiệm phối hợp với UBND cấp xã trong việc tổ chức họp tại cộng đồng dân cư nơi người được hưởng án treo, chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ cư trú, làm việc để kiểm điểm người đó trong trường hợp họ vi phạm nghĩa vụ quy định tại Điều 64, 75 Luật THAHS và bị nhắc nhở từ hai lần trở lên mà tiếp tục vi phạm nhưng chưa đến mức phải chịu trách nhiệm hình sự. Gia đình người được hưởng án treo, chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ là chủ thể có vai trò rất quan trọng trong việc giúp cho người bị kết án cải tạo, tích cực phấn đấu vươn lên trở thành người có ích cho xã hội. Xuất phát từ mối quan hệ thân thiết, gần gũi, gắn bó trực tiếp, hàng ngày tạo nên môi trường sống ảnh hưởng lớn đến tâm tư, tình cảm, nhận thức và khuynh hướng xử sự của người bị kết án. Điều 70, 81 Luật THAHS quy định gia đình người được hưởng án treo, chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ có những trách nhiệm: (1) Phối hợp với UBND cấp xã và người được phân công trong việc giám sát, giáo dục; (2) Thông báo kết quả chấp hành án với UBND cấp xã được giao giám sát, giáo dục khi có yêu cầu; (3) Bồi thường thiệt hại và thực hiện các nghĩa vụ dân sự khác do người chấp hành án là người chưa thành niên gây ra; (4) Phải có mặt tại cuộc họp kiểm điểm người được hưởng án theo yêu cầu. 1.2.6. Ngƣời hƣởng án treo, chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ Điều 64, 75 Luật THAHS quy định người được hưởng án treo, chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ có 04 nghĩa vụ: (1) Chấp hành nghiêm chỉnh cam kết của mình trong việc tuân thủ pháp luật, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ công dân, nội quy, quy chế của nơi cư trú, làm việc; tích cực tham gia lao động, học tập; chấp hành đầy đủ các hình phạt bổ sung, nghĩa vụ bồi thường