SlideShare a Scribd company logo
1 of 101
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN TIẾN DŨNG
TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRONG LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM – TRÊN CƠ SỞ NGHIÊN CỨU THỰC
TIẾN TẠI ĐỊA BÀN TỈNH NAM ĐỊNH
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN TIẾN DŨNG
TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRONG LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM – TRÊN CƠ SỞ NGHIÊN CỨU
THỰC TIẾN TẠI ĐỊA BÀN TỈNH NAM ĐỊNH
Chuyên ngành:Luật Hình sự và Luật Tố tụng Hình sự
Mã số: 60380104
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: TS. TRẦN VĂN DŨNG
HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của
riêng tôi. Nội dungcủa luận văn là trung thực và chưa từng được
công bố trong công trình khoa học nào.
Tác giả luận văn
Nguyễn Tiến Dũng
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ...............................................................................................
MỤC LỤC...........................................................................................................
DANH MỤC NHỮNG CHỮ VIẾT TĂT...........................................................
DANH MỤC CÁC BẢNG..................................................................................
MỞ ĐẦU........................................................................................................... 1
Chƣơng 1:MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT
TÀI SẢN TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM............................................ 9
1.1. LỊCH SỬ LẬP PHÁP HÌNH SỰ VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT
TÀI SẢN TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM.......................................... 9
1.1.1. Từ năm 1945 đến trước khi ra đời Bộ luật hình sự 1985.................................9
1.1.2. Từ năm 1986 đến trước khi sửa đổi toàn diện Bộ luật hình sự vào
năm 1999 .....................................................................................................................12
1.1.3. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong lần sửa đổi toàn diện vào
năm 1999 ....................................................................................................................18
1.1.4. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong lần sửa đổi, bổ sung năm 2009...........21
1.2. KHÁI NIỆM, CÁC DẤU HIỆU PHÁP LÝ CỦA TỘI LỪA ĐẢO
CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ HIỆN HÀNH .....22
1.2.1. Khái niệm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ........................................................22
1.2.2. Dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản......................................24
1.3. PHÂN BIỆT TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN VỚI MỘT SỐ
TỘI PHẠM KHÁC CÓ LIÊN QUAN............................................................36
1.3.1. Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản (Điều 140 Bộ luật hình sự)......................................................................37
1.3.2. Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tội lừa dối khách hàng (Điều
162 Bộ luật hình sự).....................................................................................................38
1.3.3. Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tội đánh bạc (Điều 248 Bộ luật
hình sự)..........................................................................................................................39
1.3.4. Phân biệt tội lừa đảo với tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông,
mạng Internet hoặc thiết bị số thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản (Điều 226b).40
Chƣơng 2:TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM
ĐOẠT TÀI SẢN TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ HIỆN HÀNH VÀ THỰC
TIỄN ĐIỀU TRA, TRUY TỐ, XÉT XỬ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT
TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TÌNH NAM ĐỊNH .........................................42
2.1. TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI
SẢN TRONG BLHS 1999 (SỬA ĐỔI NĂM 2009) ......................................42
2.1.1. Khung cơ bản (Khoản 1 Điều 139)..................................................................43
2.1.2. Khung tăng nặng thứ nhất (Khoản 2 Điều 139) .............................................43
2.1.3. Khung tăng nặng thứ hai (Khoản 3 Điều 139)................................................47
2.1.4. Khung tăng nặng thứ ba (Khoản 4 Điều 139).................................................48
2.1.5. Hình phạt bổ sung..............................................................................................50
2.1.6. Các biện pháp tư pháp.......................................................................................50
2.1.7. Trách nhiệm hình sự đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong những
trường hợp đặc biệt ......................................................................................................51
2.2. THỰC TIỄN ĐIỀU TRA, TRUY TỐ, XÉT XỬ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM
ĐOẠT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NAM ĐỊNH................................54
2.2.1. Những đặc điểm về địa lý, kinh tế, xã hội của tỉnh Nam định có ảnh hưởng
đến tình hình tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản....................................................54
2.2.2. Kết quả điều tra, truy tố, xét xử tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn
tỉnh Nam Định từ năm 2008 đến năm 2012..............................................................58
2.2.3. Một số đặc điểm của loại tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn
tỉnh Nam Định..............................................................................................................61
2.2.4. Một số đặc điểm liên quan đến chủ thể tội phạm...........................................65
2.2.5. Địa bàn hoạt động..............................................................................................67
Chƣơng 3:MỘT SỐ ĐỀ XUẤT NHẰM HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH
CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG TỘI
LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NAM
ĐỊNH ..............................................................................................................69
3.1. MỘT SỐ BẤT CẬP HẠN CHẾ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ ÁP
DỤNG TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN Ở TỈNH NAM ĐỊNH....69
3.1.1. Một số bất cập của Bộ luật hình sự..................................................................69
3.1.2 Những bất cập xuất phát từ hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật.....72
3.1.3. Những bất cập xuất phát từ việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật...............74
3.2. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT NHẰM HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG TỘI LỪA ĐẢO
CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NAM ĐỊNH..................75
3.2.1. Hoàn thiện các quy định của BLHS ................................................................75
3.2.2. Một số đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động nghiệp vụ của các cơ
quan tố tụng trên địa bàn tỉnh Nam Định về xử lý tội phạm lừa đảo chiếm đoạt
tài sản...............................................................................................................84
KẾT LUẬN....................................................................................................89
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................91
DANH MỤC NHỮNG CHỮ VIẾT TĂT
BLHS : Bộ Luật Hình sự
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
TAND : Tòa án nhân dân
TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao
VKSND : Viện kiểm sát nhân dân
VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân
HĐTP : Hội đồng thẩm phán
TNHS : Trách nhiệm hình sự
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: So sánh thực trạng tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản
với tội phạm nói chung trên địa bàn tỉnh Nam Định................................58
Bảng 2.2: Thực trạng khởi tố, truy tố, xét xử tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên
địa bàn tỉnh Nam Định.................................................................................................59
Bảng 2.3. Hình phạt được áp dụng đối với bị cáo phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản từ năm 2008 - 2012 trên địa bàn tỉnh Nam Định..............................................600
Bảng 2.4: Bảng thống kê đặc điểm chủ thể tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa
bàn tỉnh Nam Định.......................................................................................................66
Bảng 2.5: Cơ cấu độ tuổi người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản....................67
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tài sản và quyền sở hữu về tài sản là một trong những quyền quan
trọng, thân thiết nhất của con người và luôn chiếm được sự quan tâm đặc biệt
của các nhà lập pháp của bất kỳ quốc gia nào. Trong các hình thái xã hội khác
nhau, Nhà nước đều sử dụng các biện pháp để bảo vệ quyền sở hữu tài sản
hợp pháp của con người và hành vi xâm hại đến quyền sở hữu của con người
đều bị áp dụng những hình thức trách nhiệm pháp lý nhất định như: Trách
nhiệm bồi thường, trách nhiệm hoàn trả vật, tài sản trong pháp luật dân sự hay
điều tra, truy tố, xét xử một người khi họ có hành vi xâm phạm quyền sở hữu
ở mức độ nghiêm trọng. Thông qua việc đánh giá coi hành vi xâm phạm
quyền sở hữu của con người là tội phạm và áp dụng đối với người phạm tội
một hình phạt, Nhà nước luôn thể hiện thái độ đấu tranh không khoan nhượng
đối với loại hành vi này.
Ở Việt Nam, ngay sau khi Cách mạng tháng Tám năm 1945, Nhà nước
ta đã ban hành Hiến pháp và các đạo luật khác để ghi nhận, bảo vệ quyền sở
hữu hợp pháp của công dân, trong đó các quy định của pháp luật hình sự giữ
vai trò quan trọng. Theo cách hiểu hiện nay "Quyền sở hữu là một hệ thống
các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã
hội phát sinh trong lĩnh vực chiếm hữu, sử dụng và định đoạt các tư liệu sản
xuất, tư liệu tiêu dùng, những tài sản khác theo quy định của pháp luật" [37].
Như vậy sau quyền được sống, quyền được tự do thì quyền sở hữu có một vai
trò to lớn đối với đời sống con người. Tiếp theo các văn bản pháp lý trước đó,
Hiến pháp 1992 - văn bản pháp lý có giá trị pháp lý cao nhất đều ghi nhận:
Nhà nước phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ
2
cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh
đa dạng, dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân,
trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng [14].
Thể chế hóa quy định của Hiến pháp, Bộ luật hình sự đã giành hẳn
một chương quy định các tội xâm phạm sở hữu (Chương XIV Bộ luật hình
sự) gồm từ Điều 133 đến Điều 145 trong đó tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
được quy định tại Điều 139 Bộ luật hình sự. Trước đó, trong Bộ luật hình sự
1985, vì đề cao sở hữu tập thể, sở hữu Nhà nước nên các nhà lập pháp thời kỳ
này đã tách thành hai chương riêng: Chương các tội xâm phạm tài sản sở hữu
xã hội chủ nghĩa và chương các tội xâm phạm sở hữu của công dân với các
đặc điểm pháp lý hành vi không có gì khác nhau, có chăng chỉ khác nhau về
khách thể bảo vệ là quan hệ sở hữu XHCN hay quan hệ sở hữ tư nhân. Chính
sách hình sự khác nhau dẫn đến mức hình phạt áp dụng khác nhau và có một
vài tình tiết định khung tăng nặng khác nhau.
Hiến pháp 2013 tiếp tục khẳng định quyền sở hữu là một quyền thiêng
liêng và được hiến định. Điều 32 Hiến pháp năm 2013 quy định:
1. Mọi người có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành,
nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong doanh nghiệp
hoặc trong các tổ chức kinh tế khác.
2. Quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ.
3. Trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc vì lợi ích
quốc gia, tình trạng khẩn cấp, phòng chống thiên tai, Nhà nước trưng mua hoặc
trưng dụng có bồi thường tài sản của tổ chức, cá nhân theo giá thị trường [22].
Cụ thể hóa nội dung và tinh thần này của Hiến pháp, các quy định của
Bộ luật hình sự về bảo vệ quyền sở hữu của con người được nghiên cứu, bổ
sung, trong đó có tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản đáp ứng yêu cầu đấu
tranh phòng chống tội phạm trong tình hình mới.
3
Nghiên cứu diễn biến tội phạm trong những năm vừa qua, trên phạm vi
toàn quốc, có thể thấy rằng nhóm các tội xâm phạm sở hữu thuộc loại tội
phạm có diễn biến rất phức tạp. Tính chất phức tạp thể hiện ở hai điểm: số vụ
liên tục tăng và mức độ nguy hiểm cũng ngày càng nghiêm trọng. Hành vi phạm
tội xâm phạm sở hữu đã gây thiệt hại nghiêm trọng tài sản của Nhà nước, của
tổ chức và tài sản của công dân, ảnh hưởng đến trật tự chung của xã hội.
Trong đó tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là một trong những tội xâm phạm sở
hữu có mức độ xảy ra nhiều nhất, tội này diễn biến ngày một gia tăng, với
nhiều thủ đoạn tinh vi xảo quyệt.
Trên địa bàn tỉnh Nam Định, thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử các tội
phạm xâm phạm đến sở hữu trong những năm vừa qua cho thấy loại tội phạm
lừa đảo chiếm đoạt tài sản luôn chiếm một số lượng đáng kể trong tổng số các
tội phạm hàng năm. Có nhiều nguyên nhân để giải thích cho tình trạng
nghiêm trọng của tội phạm này, tuy nhiên việc nghiên cứu làm rõ các đặc
điểm của tội phạm này trên phạm vi một địa bàn cụ thể được xác định (thông
qua việc nghiên cứu đặc điểm kinh tế - xã hội, đặc điểm dân cư, tính chất địa
bàn) sẽ giúp chúng ta lý giải phần nào tính đặc thù của loại tội phạm này trên
địa bàn tỉnh Nam Định qua đó giúp chúng ta có thể đưa ra các đề xuất nhằm
hoàn thiện pháp luật hình sự và nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của
Bộ luật hình sự Việt Nam về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản đối với các cơ quan
tiến hành tố tụng.
Là một cán bộ công tác trong ngành bảo vệ pháp luật, tác giả lựa chọn
đề tài này để làm đề tài nghiên cứu cho luận văn của mình. Việc nghiên cứu
dấu hiệu pháp lý của tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói chung và các
biểu hiện cụ thể của nó tại Nam Định để từ đó đề ra những biện pháp hoàn
thiện các quy định của BLHS cũng như nâng cao hiệu quả áp dụng các quy
định của Bộ luật hình sự Việt Nam về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là rất cần
4
thiết. Vì lý do đó tác giả đã chọn đề tài "Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong
Luật hình sự Việt Nam - Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn tại địa bàn tỉnh
Nam Định"làm luận văn thạc sĩ luật học của mình.
Cũng cần nói thêm rằng, vì đặt trọng tâm nghiên cứu thực trạng tội
phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên một địa bàn cụ thể, nên tác giả không có
điều kiện nghiên cứu xuyên suốt quá trình lập pháp hình sự Việt Nam về loại
tội phạm này trong suốt quá trình phát triển của pháp luật hình sự Việt Nam,
mà chỉ cố gắng tập trung nghiên cứu quá trình phát triển pháp luật hình sự
Việt Nam từ Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến nay.
2. Tình hình nghiên cứu
Hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản đã được đề cập trong một số công
trình nghiên cứu khoa học về luật hình sự, trong các tập bình luận khoa học
về luật hình sự, các luận văn thạc sĩ, tiến sĩ của nhiều tác giả nổi tiếng như TS
Trịnh Hồng Dương, GS.TS Võ Khánh Vinh, Ths Trần Thị Phương Hiền và gần
đây là khóa luận tốt nghiệp của Lê Thị Khánh Ly tại Khoa Luật - Đại học Quốc
gia Hà Nội. Ngoài ra, có thể kể đến các bài viết nghiên cứu của tiến sỹ Lê Đăng
Doanh (Đại học Luật Hà Nội) bàn về các dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản trong BLHS, trong đó tác giả đã so sánh tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản với tội lừa dối khách hàng, cũng như phân tích sâu sắc tính chất pháp lý của
hành vi dùng thủ đoạn lừa dối, lập hồ sơ khống để chiếm đoạt tiền hoàn thuế giá
trị gia tăng…
Qua nghiên cứu cho thấy, nhìn chung các tác giả đã đề cập khá sâu sắc
và toàn diện về các dấu hiệu pháp lý của loại tội phạm này; phân biệt rõ các
trường hợp phạm tội này với một số tội phạm khác có chung đặc điểm là dấu
hiệu lừa dối, tuy nhiên chưa có công trình khoa học nào đề cập đến tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản trong mối liên hệ với một địa bàn cụ thể là tỉnh Nam Định,
nhất là trong bối cảnh là một tỉnh đan xen dân cư nông thôn và thành thị. Sự
5
đình đốn trong sản xuất công nghiệp, tình trạng thất nghiệp, tình trạng di dân
tự do, tình trạng yếu kém trong việc quản lý kinh tế của các cơ quan nhà nước
trong hoạt động tổ chức xuất khẩu lao động, trong hoạt động cho vay tín
dụng, sự lơ là thiếu cảnh giác của một bộ phận không nhỏ người dân....luôn là
vấn đề nổi cộm và là một trong những nguyên nhân làm cho loại tội phạm này
gia tăng.
Trên thực tế Nam Định tuy là một tỉnh nhỏ thuộc đồng bằng Bắc Bộ,
song cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường và xu thế hội nhập quốc tế
hiện nay, tình hình tội phạm lừa đảo có những diễn biến phức tạp và xu hướng
ngày càng gia tăng không chỉ về số vụ mà cả về tính chất, hậu quả thiệt hại về tài
sản ngày càng trầm trọng, gây ảnh hưởng xấu đến hình ảnh của tỉnh Nam Định.
Bởi vậy, luận văn nghiên cứu về: các dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản; so sánh sự khác biệt của tội phạm này và các tội phạm khác có cùng
tính chất; nghiên cứu kinh nghiệm lập pháp hình sự của một số quốc gia có
những nét tương đồng về truyền thống lập pháp với Việt Nam; nghiên cứu thực
trạng và diễn biến của loại tội phạm này ở Nam Định. Trên cơ sở đó, đề xuất
các giải pháp nhằm sửa đổi bổ sung Bộ luật hình sự đồng thời đưa ra các biện
pháp nâng cao nhận thức và hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự
của các cơ quan tiến hành tố tụng về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nhằm giảm
bớt những thiệt hại xảy ra,đem lại sự tin tưởng vào pháp luật cho mọi người
dân trên địa bàn tỉnh Nam Định.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Mục đích của đề tài: trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp
luật hình sự và thực trạng tình hình, các dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Nam Định để đưa ra các các đề xuấthoàn
thiện BLHS về loại tội phạm này, nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của
Bộ luật hình sự ViệtNam về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
6
- Để đạt được mục tiêu trên, trong quá trình thực hiện đề tài tác giả đặt
ra cho mình các nhiệm vụ sau đây:
a) Nghiên cứu lịch sử lập pháp hình sự của Việt Nam từ khi Cách
mạng tháng 8 thành công đến nay, qua đó để có một cách nhìn khái quát về
quá trình phát triển của quy định này, phục vụ cho các đề xuất sửa đổi, bổ
sung tội phạm này và các tội phạm khác có liên quan.
b) Phân tích và làm sáng tỏ các dấu hiệu pháp lý hình sự của tội "Lừa
đảo chiếm đoạt tài sản" theo Điều 139 Bộ luật hình sự năm 1999 đồng thời
phân tích và so sánh các dấu hiệu pháp lý của tội phạm này với một số tội
phạm khác có liên quan như: tội lừa dối khách hàng, tội đánh bạc…để làm rõ
thêm cách nhận biết các dấu hiệu pháp lý của tội phạm này.
c) Phân tích thực tiễn điều tra, truy tố và xét xử loại tội này tại tỉnh
Nam Định trong thời gian vừa qua để thấy được các yếu tố tác động làm ảnh
hưởng đến hiệu quả công tác này trong thời gian vừa qua.
d) Phân tích những đặc điểm đặc thù của tội phạm lừa đảo chiếm đoạt
tài sản trên cơ sở gắn với đặc điểm của tỉnh Nam Định đồng thời chỉ ra những
vướng mắc, hạn chế trong việc điều tra, truy tố, xét xử tội phạm này tại tỉnh
Nam Định.
đ) Đề xuất các giải pháp hoàn thiện các quy định của BLHS hiện hành
về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và các biện pháp nâng cao hiệu quả áp dụng
các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản,
qua đó góp phần đấu tranh có hiệu quả hơn đối với loại hành vi lừa đảo chiếm
đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Nam Định nói riêng và cả nước nói chung.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là: Các dấu hiệu pháp lý của tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản, phân tích thực trạng và diễn biến của tội phạm để
rút ra những điểm thành công cũng như thiếu sót trong việc áp dụng các quy
7
định của BLHS và BLTTHS trên địa bàn tỉnh Nam Định, phân tích nguyên
nhân, đưa ra các biện pháp nhằm hoàn thiện các quy định của BLHS và nâng
cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự ViệtNam về tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản.
- Phạm vi nghiên cứu: đề tài nghiên cứu trong phạm vi những vấn đề
liên quan đến tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản dưới góc độ luật hình sự trên địa
bàn tỉnh Nam Định
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu của khoa học luật hình
sự và tội phạm học như: phương pháp thống kê hình sự, phương pháp phân tích
và so sánh, phương pháp tổng hợp. Ngoài ra, còn một số phương pháp khác cũng
được áp dụng như: phương pháp phân tích hệ thống, phương pháp chuyên gia...
6. Kết quả nghiên cứu và những đóng góp mới của đề tài
Trong phạm vi của đề tài là một công trình nghiên cứu vừa có ý nghĩa
về mặt lý luận, vừa có ý nghĩa về mặt thực tiễn đối với cuộc đấu tranh phòng,
chống tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Nam Định.
- Về mặt lý luận: đề tài góp phần hoàn thiện nội dung quy định của
Điều 139 Bộ luật hình sự năm 1999, đồng thời có thể sử dụng làm tài liệu
tham khảo trong công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học pháp lý hình sự.
- Về mặt thực tiễn: những đề xuất giải pháp nêu trong luận văn sẽ góp
phần nâng cao hiệu quả hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự
Việt Nam về tội phạm nói chung và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng.
Ngoài ra, đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các lực lượng
tham gia phòng, chống loại tội phạm này không những ở tỉnh Nam Định mà
còn có thể áp dụng trên địa bàn tỉnh, thành phố khác có điều kiện tương tự.
- Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách tương đối có hệ
thống và toàn diện về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, đồng thời đã đưa ra các
8
giải pháp nâng cao hiệu quả công tác điều tra, truy tố và xét xử đối với tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Nam Định.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
trong luật hình sự Việt Nam
Chương 2:Trách nhiệm hình sự của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
trong BLHS hiện hành và thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Nam Định.
Chương 3: Một số đề xuất nhằm hoàn thiện các quy định của Bộ luật
hình sự và nâng cao hiệu quả áp dụng tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa
bàn tỉnh Nam Định.
9
Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
Bảo vệ quyền sở hữu của các nhân, tổ chức chống lại các hành vi xâm
hại là mối quan tâm hàng đầu của Chính phủ Việt Nam kể từ khi giành được
Chính quyền. Do đó, chỉ sau một thời gian ngắn, mặc dù bận nhiều công việc
nhưng Chính phủ dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành
nhiều văn bản quy phạm pháp luật để nghiêm trị các hành vi này.
1.1. LỊCH SỬ LẬP PHÁP HÌNH SỰ VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI
SẢN TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1.1. Từ năm 1945 đến trƣớc khi ra đời Bộ luật hình sự 1985
Sau thành công của Cách mạng tháng 8 năm 1945, nước ta đã ban
hành những văn bản pháp luật hình sự quy định việc trừng trị các tội xâm
phạm tài sản xã hội chủ nghĩa như:
Sắc lệnh số 26-SL ngày 25/2/1946 về các tội phá hoại công sản;
Sắc lệnh số 223-SL ngày 27/11/1946 về tội biển thủ công quỹ;
Sắc lệnh số 12-SL ngày 12/3/1949 về tội trộm cắp tài sản quốc phòng
trong thời chiến;
Sắc lệnh số 68-SL ngày 18/6/1949 về bảo vệ các công trình thủy nông;
Sắc lệnh 267-SL ngày 15/6/1956 về các âm mưu và hành động phá
hoại tài sản của Nhà nước, của Hợp tác xã và của nhân dân làm cản trở việc
chính sách, kế hoạch Nhà nước…
Bên cạnh đó, Nhà nước ta cũng quan tâm tới việc bảo vệ các tài sản
riêng của công dân bằng việc ban hành Thông tư 442-TTg ngày 19/1/1955
của Thủ tướng Chính phủ về một số tội phạm. Trong đó có đề cập tới tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản, tuy nhiên mới nêu tội danh mà chưa mô tả được cụ thể
hành vi phạm tội [31]. Do yêu cầu khách quan và nhằm tăng cường pháp chế
10
xã hội chủ nghĩa, đấu tranh bảo vệ có hiệu quả tài sản xã hội chủ nghĩa và
công dân. Tòa án nhân dân tối cao cũng đã có nhiều văn bản hướng dẫn việc
vận dụng các quy phạm pháp luật vào công tác xét xử, ngày 21/10/1970 Nhà
nước ta đã thông qua hai pháp lệnh mới.
- Pháp lệnh thứ nhất là: Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản
xã hội chủ nghĩa do Lệnh số 149-LCT ngày 23/10/1970 của Chủ tịch nước
công bố.
- Pháp lệnh thứ hai là: Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản
riêng của công dân do Lệnh số 150 - LCT ngày 23/10/1970 của Chủ tịch nước
công bố.
Hai pháp lệnh trên đã thay thế các luật lệ cũ về các tội phạm xâm
phạm sở hữu. Trong cả hai pháp lệnh này hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản
cũng được quy định với hai tội danh cụ thể tương ứng với hai hình thức sở
hữu được quy định lúc đó là sở hữu tài sản xã hội chủ nghĩa và sở hữu tài sản
riêng của công dân.
Về cơ bản hai tội trên đều có hành vi giống nhau đó là hành vi gian
dối chiếm đoạt tài sản đang do người khác quản lý. Thủ đoạn gian dối có thể
bằng cách dùng mọi mánh khóe, bịp bợm, bằng lời nói, giả mạo giấy tờ, giả
danh cán bộ, giả mạo tổ chức,... Làm cho người quản lý tài sản tin mà giao
nhầm tài sản đó cho người phạm tội
Với những hành vi có cùng tính chất nhưng lại tác động lên đối tượng
là hai loại tài sản khác nhau đó là tài sản xã hội chủ nghĩa và tài sản của công
dân nên được quy định thành hai tội khác nhau trong hai pháp lệnh. Tuy nhiên
ở pháp lệnh thứ nhất, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa coi lừa
đảo là một số hành vi gian dối cụ thể của những người trong khi giao dịch,
mua bán với cơ quan nhà nước hay hợp tác xã đã cố ý dùng mánh khóe gian
lận thông thường như cân, đo, đong, đếm, tính sai hoặc bằng cách khác để
11
chiếm đoạt tài sản của cơ quan nhà nước hoặc hợp tác xã mà mình giao dịch.
Còn ở pháp lệnh thứ hai, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản riêng của công dân chỉ
quy định tôi phạm một cách chung chung: "kẻ nào dùng thủ đoạn gian dối để
chiếm đoạt tài sản riêng của công dân…" trong khi những hành vi gian lận
bằng cách: cân, đo, đong, đếm, tính gian, không chấp hành chính sách giá cả
đã quy định, đánh tráo hàng…" được tách ra khỏi tội lừa đảo để quy định
thành một tội riêng tại Điều 10 Pháp lệnh là "Tội gian lận để chiếm đoạt tài
sản riêng của khách hàng".
Sau ngày 30/4/1975 thống nhất đất nước, Nhà nước ta đã ban hành
thêm một số văn bản pháp luật hình sự mới trừng trị các tội xâm phạm sở
hữu. Cụ thể ở miền Nam, Hội đồng Chính phủ cách mạng lâm thời ban hành
Sắc lệnh số 03-SL/76 ngày 15/3/1976 quy định về tội phạm và hình phạt.
Tại Điểm b, Điều 4 Sắc luật số 03-SL/76 quy định như sau: Phạm các
tội chiếm đoạt tài sản khác như trộm cắp, tham ô, lừa đảo, bội tín, cướp giật,
cưỡng đoạt, chiếm giữ trái phép thì bị phạt tù từ 6 tháng đến 7 năm. Trường
hợp nghiêm trọng thì thì bị phạt tù đến 15 năm. Phạm tội trộm cắp, tham ô,
lừa đảo mà số tài sản chiếm đoạt rất lớn hoặc có nhiều tình tiết nghiêm trọng,
hoặc gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù đến 20 năm, tù chung
thân hoặc tử hình.
Điều 8 Sắc luật 03-Sl/76 quy định về tội xâm phạm đến tài sản riêng
của công dân như sau:
Phạm tội cướp tài sản riêng của công dân thì bị phạt tù từ 2 năm đến
12 năm. Trường hợp nghiêm trọng thì bị phạt tù đến 20 năm, từ chung thân
hoặc tử hình.
Phạm các tội chiếm đoạt khác như trộm cắp, lừa đảo, bội tín, cướp
giật, chiếm giữ trái phép thì bị phạt tù từ 3 tháng đến 3 năm. Trường hợp
nghiêm trọng thì bị phạt tù đến 10 năm.
12
Như vậy, ở thời điểm này trên hai miền Nam , Bắc tồn tại hai loại văn
bản pháp luật khác nhau cùng xử lý về một tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản đó
là: Hai pháp lệnh ngày 21/10/1970 và Sắc luật số 03-SL/76 ngày 15/3/1976.
Nội dung cơ bản của các văn bản này đều thống nhất về tội danh và đường lối
xử lý. Tuy nhiên so với các pháp lệnh, thì các quy định của Sắc luật chỉ nêu
tên tội danh mà không quy định cụ thể dấu hiệu pháp lý của tội phạm.
Để áp dụng thống nhất các văn bản pháp luật này, Tòa án nhân dân tối
cao đã ban hành Chỉ thị số 54/TATC ngày 6/7/1977 của Tòa án nhân dân tối
cao hướng dẫn việc thi hành pháp luật thống nhất thì việc áp dụng pháp luật
đối với hành vi phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được thống nhất như sau:
Ở miền Bắc vẫn áp dụng hai pháp lệnh ngày 21/10/1970. Ở miền Nam thì áp
dụng Sắc luật số 03 là chính, có tham khảo điều khoản tương ứng của Pháp
lệnh ngày 21/10/1970 để nắm rõ hơn dấu hiệu các tội phạm và áp dụng các
hình phạt hợp lý hơn.
Như vậy, trong giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi Bộ luật hình sự
năm 1985 có hiệu lực, pháp luật hình sự đã có quy định về loại tội phạm có
hành vi lừa đảo để chiếm đoạt tài sản, tuy nhiên do có nhiều loại văn bản
được ban hành và áp dụng ở hai miền Nam, Bắc khác nhau nên không tránh
khỏi những bất cập nhất định, nguyên tắc pháp chế khó được thực hiện. Vì
vậy cần phải pháp điển hóa các quy định trong các văn bản pháp luật này để
đảm bảo tính thống nhất [24]. Bộ luật hình sự 1985, có hiệu lực từ ngày
01/1/1986 đã ra đời đáp ứng yêu cầu đó.
1.1.2. Từ năm 1986 đến trƣớc khi sửa đổi toàn diện Bộ luật hình sự
vào năm 1999
Ngày 27/6/1985 Bộ luật hình sự đã được Quốc hội khóa VI ban hành
và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/1/1986 đã khắc phục được tình trạng các
văn bản pháp luật chồng chéo, không thống nhất trước đó. Tăng cường được
13
tính pháp chế, đồng thời bảo vệ được quyền tài sản của công dân. Sự ra đời
của Bộ luật hình sự là sự pháp điển hóa các quy định về tội phạm và hình phạt
từ năm 1945 đến năm 1985.
Qua nghiên cứu các quy định của Bộ luật hình sự thời kỳ này về tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản, chúng tôi nhận thấy, loại tội phạm này được phát
triển theo hướng: tiếp tục có sự ghi nhận và có sự phân biệt giữa quan hệ sở
hữu xã hội chủ nghĩa và sở hữu riêng của công dân; mức hình phạt ngày càng
được tăng nặng cho phù hợp với tình hình tội phạm và các dấu hiệu pháp lý
và các tình tiết định khung tăng nặng ngày càng được hoàn thiện hơn.
* Tiếp tục đề cao chính sách hình sự bảo vệ tốt hơn quan hệ sở hữu xã
hội chủ nghĩa
Theo quy định của Bộ luật hình sự 1985 thì tội xâm phạm sở hữu có
kế thừa và phát triển các văn bản pháp luật trước đó. Do đề cao sở hữu nhà
Nước và tập thể, chưa thật sự coi trọng đến sở hữu tư nhân nên trong giai
đoạn này hành vi xâm phạm tài sản Nhà nước luôn được coi là nghiêm trọng hơn
xâm hại sở hữu tư nhân nên được các nhà lập pháp lúc bấy giờ quy định ở hai
chương khác nhau. Cụ thể: Chương IV là các tội xâm phạm sở hữu xã hội chủ
nghĩa và chương V là các tội xâm phạm sở hữu công dân. Có sự quy định như
vậy là vì Bộ luật hình sự 1985 ra đời trong bối cảnh nền kinh tế nước ta lúc đó
chỉ có hai thành phần kinh tế chủ yếu là kinh tế quốc doanh và hợp tác xã. Được
quản lý và điều hành theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung, thống nhất từ trung
ương đến cơ sở. Trên cơ sở kế thừa quy định của hai pháp lệnh ngày 21/10/1970
thì vẫn được quy định là hai tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa"
và tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản riêng của công dân" cụ thể như sau:
Điều 134: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa:
1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa
thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 05 năm.
14
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 03
năm đến 12 năm:
a. Có tổ chức
b. Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm
c. Chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn
d. Tái phạm nguy hiểm
3. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nguy hiểm thì bị phạt tù từ 10 năm
đến 20 năm hoặc tù chung thân [15].
Điều 157: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản công dân:
1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác
thì bị phạt tù từ 03 tháng đến 03 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 02
năm đến 10 năm:
a. Có tổ chức
b. Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm
c. Chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn
d. Tái phạm nguy hiểm
3. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nguy hiểm thì bị phạt tù từ 7 năm
đến 15 năm [15].
* Các dấu hiệu pháp lý của tội phạm ngày càng được bổ sung hoàn
thiện hơn
So với các điều luật tương ứng của các văn bản pháp luật trước năm
1985, Điều 134 Bộ luật hình sự 1985 đã có hai thay đổi quan trọng đó là Bộ
luật hình sự quy định rõ ràng hơn dấu hiệu khách quan của hành vi phạm tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa. Trên thực tế, có thể nói sự sơ hở
trong công tác quản lý kinh tế cũng như một số khuyết điểm về kỹ thuật lập
pháp, đã tạo điều kiện thuận lợi cho các tội phạm kinh tế và các tội xâm phạm
15
sở hữu nảy sinh và phát triển. Để đáp ứng yêu cầu của công cuộc đấu tranh
phòng chống tội phạm nói chung và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng,
liên tiếp trong 04 năm, 1990, 1991, 1993 và 1997, Bộ luật hình sự 1985 đã
được sửa đổi bổ sung, trong đó có 02 lần sửa đổi bổ sung nhằm hoàn thiện
một bước các dấu hiệu pháp lý của loại tội phạm này khi đất nước đang bắt
đầu chuyển mình từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường. Cụ thể:
Lần sửa đổi thứ nhất năm 1990 có bổ sung vào Điểm a khoản 2 Điều 134
và Điều 157 ngoài quy định "có tổ chức" còn thêm tình tiết "hoặc có tính chất
chuyên nghiệp". Do đó Điểm a Khoản 2 Điều 134 và Điều 157 được quy định
như sau: "Có tổ chức hoặc có tính chất chuyên nghiệp".
Lần sửa đổi thứ hai, năm 1993. Xuất phát từ thực tiễn đấu tranh phòng
chống tội phạm cho thấy, nhiều tội phạm đã thực hiện hành vi phạm tội thông
qua việc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức để dễ dàng tạo được niềm tin
đối với nạn nhân, đồng thời trong nền kinh tế thị trường, nhiều trường hợp
hành vi phạm tội đã gây ra hậu quả đặc biệt nghiêm trọng (lớn hơn rất nhiều
lần so với những dự liệu ban đầu của các nhà lập pháp, do đó năm 1993 có sự
sửa đổi, bổ sung vào khoản 2 Điều 134 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản xã
hội chủ nghĩa thêm tình tiết định khung tăng nặng là: Lợi dụng danh nghĩa
cơ quan, tổ chức;gây hậu quả nghiêm trọng.cụ thể như sau:
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 03
năm đến 12 năm:
a. Có tổ chức
b. Có tính chất chuyên nghiệp
c. Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm
d. Chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn
e. Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức
f. Gây hậu quả nghiêm trọng
16
g. Tái phạm nguy hiểm [17].
Trong lần sửa đổi năm 1997, Bộ luật hình sự đã bổ sung thêm một
điều (Điều 134 a) quy định tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn lừa đảo chiếm
đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa cụ thể như sau:
1. Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn dùng thủ đoạn gian dối
chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa có giá trị từ năm triệu đồng đến dưới một
trăm triệu đồng hoặc dưới năm triệu đồng nhưng gây hậu qủa nghiêm trọng, vi
phạm nhiều lần hoặc đã bị xử lý kỷ luật mà còn vi phạm, thì bị phạt tù từ hai
năm đến bảy năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy
năm đến mười lăm năm:
a. Có tổ chức
b. Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm
c. Tài sản có giá trị từ một trăm triệu đồng đến dưới ba trăm triệu đồng
d. Phạm tội nhiều lần
e. Gây hậu quả nghiêm trọng
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ
mười lăm năm đến hai mươi năm:
a. Tài sản có giá trị từ ba trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng.
b. Có nhiều tình tiết quy định tại khoản 2 Điều này.
c. Gây hậu quả rất nghiêm trọng
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù chung
thân hoặc tử hình:
a. Tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên.
b. Có nhiều tình tiết quy định tại khoản 3 Điều này.
c. Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng [18].
* Mức hình phạt áp dụng ngày càng có xu hướng nghiêm khắc hơn
17
Qua nghiên cứu cho thấy, so với các điều luật tương ứng của các văn
bản pháp luật trước năm 1985 mặc dù Điều 134 Bộ luật hình sự bỏ hình phạt
tử hình áp dụng đối với người phạm tội ngay cả trong những trường hợp đặc
biệt nguy hiểm. Tuy nhiên, giai đoạn giữa những năm 80 của thế kỷ trước,
nướcta có những bước phát triển lớn trong lĩnh vực kinh tế. Quá trình chuyển đổi
từ kinh tế quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường đặt ra yêu cầu đảm
bảo sự bình đẳng tham gia của các thành phần kinh tế. Ngoài kinh tế nhà nước
vẫn giữ vai trò chủ đạo, các thành phần kinh tế khác như: kinh tế tư nhân, hợp
tác xã, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng dần được thừa nhận
và ngày càng chiếm một vị trí quan trọng hơn trong đời sống kinh tế, do đó,
ngay lần sửa đổi đầu tiên vào năm 1991, các nhà lập pháp hình sự Việt Nam
đã nâng mức hình phạt tối đa lên tử hình. Cụ thể: Khoản 3 Điều 134 tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa: "Phạm tội trong trường hợp đặc biệt
nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử
hình" [16].
Đối với tội tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản công dân (Điều 157) trong
lần sửa đổi đầu tiên, các nhà lập pháp hình sự đã tăng mức hình phạt cao nhất
đối với tội này từ 10 năm đến 15 năm áp dụng trong trường hợp đặc biệt
nghiêm trọng. Tuy vậy, chỉ trong một thời gian ngắn, năm 1991 hình phạt tử
hình lại được áp dụng. Khoản 3 Điều 157 như sau:
1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác
thì bị phạt tù từ 03 tháng đến 05 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 03
năm đến 12 năm:
a. Có tổ chức hoặc có tính chất chuyên nghiệp
b. Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm
c. Chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn
18
d. Tái phạm nguy hiểm
3. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nguy hiểm thì bị phạt tù từ 10
năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình [16].
Như vậy Bộ luật hình sự sửa đổi, bổ sung năm 1991 khi quy định hình
phạt cho hai tội trên đều cùng quy định hình phạt cao nhất là tử hình.
1.1.3. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong lần sửa đổi toàn diện vào
năm 1999
Do chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong thời kỳ đổi mới là xây
dựng nền kinh tế nhiều thành phần dựa trên cơ sở nhiều hình thức sở hữu
khác nhau, vận hành theo cơ chế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa
trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Để làm được điều này, Nhà
nước chủ trường, thông qua hệ thống pháp luật bảo đảm là các thành phần
kinh tế được đối xử và bảo vệ ngang bằng trước pháp luật. Do đó, việc chia
hai nhóm tội xâm hại quan hệ sở hữu tỏ ra không còn phù hợp vì điều này
không phù hợp với bản chất của kinh tế thị trường - đòi hỏi một sự đối sử
bình đẳng của các thành phần kinh tế cùng tham gia vào quá trình kinh tế.
Trước tình hình đó, Bộ luật hình sự 1985 mặc dù đã qua 4 lần sửa đổi, bổ
sung vẫn duy trì hai chương về các tội xâm phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa và
các tội xâm phạm tài sản của công dân. Mặt khác, sự quy định hai nhóm tội
xâm phạm đến hai loại quan hệ sở hữu khác nhau đã nảy sinh ra những bất
cập. Trong nhiều trường hợp, người phạm tội chỉ quan tâm đến tài sản và giá
trị tài sản mà không quan tâm đến nguồn gốc tài sản thuộc sở hữu nào, nên
gây khó khăn cho các cơ quan tố tụng khi xác định tội danh cho đối với người
phạm tội. Quan niệm về định tội danh theo ý thức chủ quan của người phạm
tội, tuy giải quyết được một phần các vấn đề trước mắt là đáp ứng yêu cầu coi
trọng bảo vệ sở hữu xã hội chủ nghĩa, nhưng rõ ràng không đảm bảo tính
khoa học, nhất là trong trường hợp không xác định được rõ ý thức chủ quan
19
của người phạm tội hoặc trong trường hợp người phạm tội có sự lẫn lộn giữa
sở hữu xã hội chủ nghĩa và sở hữu riêng của công dân (cùng một hành vi xâm
hại đến hai loại tài sản thuộc hai nhóm quan hệ sở hữu khác nhau). Để phù
hợp với chính sách kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước ta trong thời kỳ đổi
mới, Bộ luật hình sự 1999 đã ra đời và đã nhập hai chương của Bộ luật hình
sự 1985 thành một chương với tên gọi "Các tội xâm phạm sở hữu". Có thể
nói, việc nhập hai chương này làm một là một cuộc đấu tranh giữa hai luồng
tư tưởng cũ và mới ngay trong chính các nhà lập pháp Việt Nam thời bấy giờ.
* Tư tưởng phân biệt hai loại quan hệ sở hữu tuy đã được khắc phục
nhưng những ảnh hưởng của nó vẫn còn tồn tại trong một vài quy định của
BLHS
Mặc dù được coi là lần sửa đổi toàn diện, nhưng các nhà lập pháp hình sự
thời kỳ này vẫn muốn duy trì hai loại tội lừa đảo đó là: Tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản được quy định tại Điều 139 Bộ luật hình sự 1999 (là tội được nhập từ tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa tại Điều 134 và Tội lừa đảo chiếm
đoạttài sản công dân quy định tại Điều 157) và tội lợi dụng chức vụ quyền hạn
lừa đảo chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa quy định tại Điều 134a Bộ luật
hình sự.
Theo đó, Điều 139 Bộ luật hình sự 1999 quy định về tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản quy định:
Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có
giá trị từ năm trăm nghìn đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới năm
trăm nghìn đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành
chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa
được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba
năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm [19].
20
Như vậy so với Bộ luật hình sự 1985 thì Điều 139 Bộ luật hình sự
1999 quy đình về hình phạt vẫn nghiêm khắc, vì mức cao nhất khung hình
phạt của tội này là tử hình, còn các mức hình phạt khác có thể tăng lên hoặc
giảm xuống so với quy định của Bộ luật hình sự 1985.
* Yếu tố định lượng đã được sử dụng để phân biệt giữa hành vi phạm
tội là đảo và hành vi lừa đảo nhưng chỉ được coi là vi phạm hành chính và bị
xử phạt hành chính
Đây là vấn đề đã và đang gây nhiều tranh cãi trong giới chuyên gia
luật hình sự hiện nay, tuy nhiên, quan điểm coi dấu hiệu định lượng là một
căn cứ để phân biệt giữa tội phạm và vi phạm hành chính đáp ứng được yêu
cầu chính trị là chống sự lạm dụng của cơ quan tố tụng.
Theo đó, các tội xâm phạm sở hữu hầu hết được lấy mức khởi điểm là
từ 500 000 đồng trở lên để làm căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự. Cũng
theo đó, tùy theo giá trị tài sản mà mức hình phạt có thể thay đổi theo các
khung hình phạt khác nhau. Như vậy, trong lần sửa đổi toàn diện BLHS lần
này, nếu giá trị tài sản chiếm đoạt từ 500 000đ trở lên thì được coi là tội
phạm. Dưới 500 000đ được xem là vi phạm hành chính. Tuy nhiên, gianh giới
này không phải là tuyệt đối khi mà giá trị tài sản mặc dù dưới 500 000đ
nhưng người phạm tội lại thuộc một trong những trường hợp “có nhân thân
xấu” thì cũng có thể bị coi là tội phạm.
* Coi đặc điểm xấu về nhân thân là dấu hiệu cấu thành tội phạm
Đây cũng là vấn đề còn gây nhiều tranh cãi cho đến ngày nay. Theo ý
kiến của nhiều chuyên gia, việc lấy đặc điểm xấu về nhân thân người phạm
tội để là dấu hiệu định tội là không phù hợp. Theo GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa:
Trong Luâ ̣t hình sự , nguyên tắc vẫn được thừ a nhâ ̣n là : Mô ̣t người
không thể bi ̣xử pha ̣t hình sự về nhân thân xấu của họ . Theo nguyên tắc này ,
Luâ ̣t hình sự không thể quy đi ̣nh đă ̣c điểm xấu về nhân thân là dấu hiê ̣u đi ̣nh
21
tội. Đặc điểm này chỉ có thể được quy định là dấu hiệu định khung hình phạt
hoă ̣c là tình tiết tăng nă ̣ng trách nhiệm hình sự [11].
Theo đó, không chỉ riêng tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà nhiều tội
phạm khác đã được thiết kế theo mô tuýp: trong trường hợp giá trị tài sản
chưa đến 500. 000 đồng những trước đó "đã bị xử phạt hành chính về hành vi
chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích
mà còn vi phạm" thì vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự (nghĩa là vẫn bị coi
là tội phạm).
1.1.4. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong lần sửa đổi, bổ sung
năm 2009
Sau nhiều năm thi hành, Bộ luật hình sự 1999 đã góp phần quan trọng
vào việc giữ vững an ninh, chính trị, đấu tranh phòng chống tội phạm, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Tuy nhiên cho đến nay, Bộ luật hình
sự 1999 đã bộc lộ nhiều bất cập, trong đó điểm đáng lưu ý là Bộ luật hình sự
1999 chưa thể chế hóa được những quan điểm, chủ trương mới của Đảng và
Nhà nước ta về cải cách tư pháp được thể hiện trong Nghị quyết số 08-NQ/TW
và Nghị quyết số 49/NQ-TW của Bộ Chính trị. Trong khi sự phát triển mạnh
mẽ của nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đã đặt ra cho hệ thống pháp
luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng phải là công cụ pháp lý nhằm
thúc đẩy và bảo vệ cho các nền kinh tế phát triển.
Mặt khác, bên cạnh xu hướng chung hội nhập quốc tế, có lẽ đã đến lúc
cần nghiên cứu lại chính sách hình sự đối với một số loại tội phạm cụ thể,
nhất là khi chúng ta đã áp dụng một thời gian khá dài chính sách hình sự khá
nghiêm khắc (hình phạt tử hình) nhưng tình hình tội phạm không hề giảm mà
người lại, loại tội phạm này còn có tính chất gia tăng và quy mô ngày càng
nghiêm trọng. Điều này cho phép chúng ta nhận thấy rằng: dường như biện
pháp trừng trị hà khắc không phải là liều thuốc hữu hiệu để có thể làm giảm
22
loại tội phạm này mà cần hướng đến một biện pháp khác làm triệt tiêu động
lực và điều kiện phạm tội. Bộ luật hình sự 1999 đã được sửa đổi, bổ sung
nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm trong tình hình mới.
Ngoài ra, mặt trái của nền kinh tế thị trường cùng với những yếu kém
trong quản lý kinh tế của nhà nước là cơ hội để tội phạm lừa đảo phát triển.
Thực tiễn đã chứng minh các hành vi lừa đảo chiếm đoạt thuế giá trị gia tăng
đặc biệt lớn. Gần đây là hành vi lừa đảo để chiếm đoạt tiền vay trong hoạt
động tín dụng, ngân hàng lên đến hàng ngàn tỷ đồng. Đây là những hồi
chuông cảnh tỉnh cho các cơ quan Nhà nước trong việc kịp thời hoàn thiện thể
chế, nhất là thể chế kinh tế để nhằm ngăn chặn các hành vi nguy hiểm này.
Theo đó, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được sửa đổi hai nội dung cơ
bản: một là, sửa đổi mức định lượng tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự
đối với tội này là tăng mức từ "năm trăm nghìn đồng" lên mức "hai triệu
đồng", và hai là, bỏ hình phạt tử hình, và thay vào đó mức cao nhất của khung
hình phạt là "tù chung thân". Sự thay đổi này cho chúng ta thấy chính sách
hình sự của Nhà nước về loại tội phạm này một lần nữa lại có sự thay đổi cho
phù hợp với công tác đấu tranh phòng chống tội phạm trong tình hình mới,
thể hiện rõ quan điểm giảm nhẹ hình phạt có tính hà khắc đối với người phạm
tội. Tuy nhiên, trước diễn biến tình hình tội phạm lừa đảo ngày càng nghiêm
trọng như đã nói ở trên, nhiều ý kiến đề xuất cần quy định lại hình phạt tử
hình tại khoản 4 điều này để tạo nên sự răn đe cần thiết trong quá trình xử lý.
1.2. KHÁI NIỆM, CÁC DẤU HIỆU PHÁP LÝ CỦA TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM
ĐOẠT TÀI SẢN TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ HIỆN HÀNH
1.2.1. Khái niệm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Đến nay, Bộ luật hình sự 1999 đã thi hành được hơn 10 năm và được
sửa đổi, bổ sung lần gầy đây nhất vào năm 2009. Theo đó các tội xâm phạm
sở hữu được quy định từ Điều 133 đến Điều 145. Bộ luật hình sự không có
23
khái niệm cụ thể thế nào là các tội xâm phạm sở hữu. Khái niệm này chỉ thể
hiện trong các tài liệu khoa học. Theo một số chuyên gia, các tội xâm phạm
sở hữu như sau: "Các tội xâm phạm sở hữu là hành vi của người có năng lực
trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm hại đến quyền sở
hữu tài sản của Nhà nước, tổ chức và cá nhân" [1].
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là một trong các tội xâm phạm sở hữu,
vì vậy khái niệm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản phải thỏa mãn khái niệm
chung của các tội xâm phạm sở hữu, đồng thời phải thỏa mãn các các dấu
hiệu đặc thù nói riêng. Căn cứ vào quy định tại Khoản 1 Điều 139 của Bộ luật
hình sự 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009:
Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có
giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu
đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành
vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án
tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt
tù từ sáu tháng đến ba năm [21].
Như vậy, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là một trong những tội xâm
phạm sở hữu, với mục đích chiếm đoạt tài sản của người khác, người phạm
tội đã dùng những thủ đoạn gian dối, đưa ra những thông tin sai sự thật, có thể
bằng lời nói hoặc hành động khiến có tài sản hoặc người có trách nhiệm trông
giữ tài sản vì tin nhầm, tưởng giả là thật, tưởng kẻ gian là người ngay, tự
nguyện giao tài sản cho người phạm tội.
Từ đó có thể hiểu khái niệm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi
gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến
dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả
nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị
kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, do
24
người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý, xâm phạm
đến quan hệ sở hữu về tài sản.
1.2.2. Dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
1.2.2.1. Khách thể của tội phạm
Khách thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là quan hệ sở hữu về tài
sản, đây là quan hệ xã hội chủ yếu mà hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản xâm
hại. Do đặc điểm của hành vi nên tội này chỉ xâm hại đến một khách thể là
quan hệ sở hữu tài sản. Đây là điểm khác giữa tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
với một số tội xâm phạm sở hữu khác xâm hại đồng thời nhiều khách thể khác
nhau như tội cướp tài sản, cướp giật tài sản, bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài
sản… vì các tội phạm này ngoài khách thể là quan hệ sở hữu, người phạm tội
còn nhằm đến khách thể quan trọng khác đó là quyền được bảo vệ về tính
mạng, sức khỏe của người bị hại.
Quan hệ sở hữu là quan hệ trong đó quyền chiếm hữu, sử dụng và định
đoạt tài sản được tôn trọng và bảo vệ. Quan hệ này bị tội phạm gây thiệt hại
hoặc đe dọa gây thiệt hại thông qua việc làm biến đổi tình trạng bình thường
của những đối tượng vật chất (tài sản) là một bộ phận của quan hệ sở hữu.
Như mọi hành vi phạm tội khác, hành vi xâm phạm sở hữu cũng có
đối tượng tác động cụ thể đó là tài sản. "Tài sản gồm: vật, tiền, giấy tờ có giá
và các quyền tài sản" [20, Điều 163]. Tài sản là đối tượng của tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản có thể thuộc bất cứ hình thức sở hữu nào được pháp luật
thừa nhận và phải được thể hiện dưới dạng vật chất, vì những gì không thuộc
về vật chất thì không thể là đối tượng của hành vi chiếm đoạt. Vì thế, không
phải mọi trường hợp của quyền tài sản đều là đối tượng tác động của tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản.
Ví dụ: Bản di chúc về quyền thừa kế tài sản của một người thì không
phải là đối tượng tác động của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, còn những giấy
25
tờ thể hiện về quyền tài sản như hóa đơn lĩnh hàng… vẫn có thể là đối tượng
của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong những trường hợp nhất định.
Tuy nhiên cần phải lưu ý rằng, xuất phát từ tính năng, công dụng đặc
biệt của tài sản mà một số tài sản không thể được coi là đối tượng của tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản, mà là đối tượng của hành vi phạm tội khác: Ví dụ: tài
nguyên rừng, công trình, phương tiện giao thông vận tải, thông tin liên lạc,
các chất ma túy, các loại vũ khí quân dụng….
Như vậy pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng luôn bảo
vệ quyền sở hữu hợp pháp và chỉ bảo vệ quyền sở hữu hợp pháp nên về
nguyên tắc tài sản được luật hình sự bảo vệ phải là tài sản hợp pháp. Nhưng
điều đó không có nghĩa những hành vi xâm phạm tài sản bất hợp pháp khác
của công dân không bị coi là tội phạm và vẫn bị coi là trái pháp luật và có thể
cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
1.2.2.2. Mặt khách quan của tội phạm
Mặt khách quan của tội phạm là một trong bốn yếu tố của tội phạm,
không có mặt khách quan thì cũng không có các yếu tố khác của tội phạm, do
vậy cũng không có tội phạm.
Mặt khách quan của tội phạm là biểu hiện ra bên ngoài của tội phạm,
trong đó hành vi khách quan là biểu hiện cơ bản nhất, các biểu hiện khác như
hậu quả của tội phạm, công cụ, phương tiện… cũng chỉ thể hiện khi có hành
vi khách quan. Vì vậy việc nghiện cứu những yếu tố thuộc mặt khách quan
của tội phạm có ý nghĩa thực tiễn rất lớn. Cụ thể có các dấu hiệu đặc trưng sau:
* Dấu hiệu hành vi khách quan
Trong mặt khách quan của tội phạm, hành vi nguy hiểm cho xã hội là
nội dung cơ bản nhất. Theo quy định của Bộ luật hình sự hiện nay, hành vi
nguy hiểm cho xã hội của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thể hiện dưới hai
hành vi thực tế là hành vi lừa dối và hành vi chiếm đoạt tài sản.
26
- Hành vi lừa dối: Là hành vi cố ý đưa ra thông tin không đúng sự thật
nhằm để người khác tin đó là sự thật, tự nguyện trao tài sản cho người phạm
tội. Trên thực tế hành vi gian dối trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được
hợp thành bởi hai yếu tố:
Thứ nhất, đó là hành vi đưa ra những thông tin gian dối. Hành vi này
thể hiện là hành động có chủ đích của người phạm tội. Hành vi này có thể
được thực hiện bằng lời nói, hành động hoặc những biểu hiện khác nhằm
cung cấp những thông tin sai lệch về sự việc như nói có thành không, ít thành
nhiều, xấu thành tốt, giả thành thật...
Thứ hai, chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản đã nhầm lẫn, tin tưởng
vào những thông tin không đúng sự thật ấy mà trao tài sản cho người phạm
tội. Khi giao tài sản, chủ tài sản không biết mình bị lừa dối. Họ có thể phát
hiện ra ngay sau khi trao tài sản nhưng bản chất của hành vi chiếm đoạt vẫn
dựa trên thủ đoạn lừa dối thì vẫn xử lý về tội này. Cũng cần lưu ý thêm rằng,
nếu ngay sau khi trao tài sản, người quản lý tài sản phát hiện và đã thực hiện
một số hành động để bắt giữ mà người phạm tội lại sử dụng các thủ đoạn khác
(như dùng vũ lực) để chiếm đoạt tài sản cho bằng được thì sẽ xử lý về tội
phạm khác. Đây là trường hợp mà khoa học luật hình sự Việt Nam thường gọi
là các trường hợp chuyển hóa từ một số tội có tính chất chiếm đoạt sang tội
cướp tài sản.
Ví dụ: Lê Văn K 35 tuổi là đối tượng nghiện ma túy có quen biết với
cháu Phạm Đình P 16 tuổi ở cùng khu phố. Do có ý định muốn chiếm đoạt
chiếc xe đạp điện của cháu P để lấy tiền sử dụng ma túy nên vào chiều ngày
10/4/2012 chờ lúc cháu P đi học về K đón ở đầu đường xin đi nhờ xe, thấy K
là người quen nên P cho K đi nhờ. Khi đi đến ngõ 102 Trần Đăng Ninh -
Thành phố Nam Định K nói dối P là đứng ngoài chờ để K mượn xe đi vào
nhà người quen trong ngõ có việc và hẹn 10 phút quay ra, P tin tưởng nên đã
27
cho K mượn xe. Mượn được xe K đi vào ngõ 102 rồi vòng ra ngõ 103 đến
hiệu cầm đồ Tuấn A đặt vấn đề cầm cố chiếc xe đạp điện nhưng anh C là chủ
hiệu nghi ngờ là xe trộm cắp nên không cầm, K lại đi tìm hiệu cầm đồ khác.
Quá 30 phút không thấy K quay lại nên P đi tìm nhưng không thấy nên biết
mình bị K lừa, P điện thoại cho người nhà đến đón và chở đi tìm K. Khi đi
đến đường Lương Thế Vinh - Thành phố Nam Định P nhìn thấy K đang đi
chiếc xe của mình nên nhẩy xuống giữ lại và hô mọi người bắt giữ. Thấy vậy
K giật tay P ra nhưng không được, K tiếp tục dùng chân đạp mạnh vào bụng P
làm P ngã ra đường, K nhảy lên xe chạy vào trong ngõ. Sau đó K bị quần
chúng nhân dân bắt giữ. Như vậy hành vi của K đã chuyển hóa từ lừa đảo
chiếm đoạt tài sản sang cướp tài sản.
Trong trường hợp người phạm tội có hành vi gian dối nhưng chủ sở
hữu hoặc người quản lý tài sản không bị nhầm lẫn, không tự nguyện trao tài
sản, mà người phạm tội phải dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác để chiếm đoạt
tài sản thì không cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà sẽ cấu thành tội
chiếm đoạt có hành vi tương ứng. Nếu chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản
không bị nhầm lẫn, không tự nguyện trao tài sản và người phạm tội cũng
không có hành động chiếm đoạt nào khác thì có thể người phạm tội bị truy
cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ở giai đoạn phạm
tội chưa đạt [1,tr. 271].
Xét về mặt khách quan hành vi gian dối là hành vi đưa ra những thông
tin giả. Về mặt chủ quan, người phạm tội biết đó là thông tin giả nhưng mong
muốn người khác tin đó là sự thật. Thủ đoạn để thực hiện rất đa dạng có thể
qua lời nói, sử dụng giấy tờ giả, hoặc qua những việc làm cụ thể… Những thủ
đoạn thể hiện hành vi này không có ý nghĩa về mặt định tội, bởi đã là hành vi
gian dối thì dù được thực hiện bằng thủ đoạn nào cũng đều có thể là hành vi
28
phạm tội của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên việc xem xét hình thức
thực hiện có giá trị trong công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm này.
Cần lưu ý, thủ đoạn gian dối không phải chỉ có ở tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản mà còn được quy định ở một số tội phạm, điều khác biệt ở đây là hành
vi gian dối trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được thực hiện là nhằm chiếm
đoạt tài sản, còn những hành vi lừa dối không hướng tới việc chiếm đoạt tài sản
mà nhằm mục đích khác, dù mục đích này có tính tư lợi cũng không cấu thành
tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Ví dụ: hành vi gian dối khi cân, đo, đong, đếm…
cấu thành tội lừa dối khách hàng được quy định tại Điều 162 Bộ luật hình sự
- Hành vi chiếm đoạt: là hành vi cố ý dịch chuyển một cách trái pháp
luật tài sản của người khác thành tài sản của mình.Tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản được coi là hoàn thành khi có hậu quả xảy ra, kẻ phạm tội chiếm đoạt
được tài sản. Hành vi chiếm đoạt trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có hai
hình thức cụ thể:
Thứ nhất: Nếu tài sản bị chiếm đoạt đang trong sự chiếm hữu của chủ
tài sản thì hình thức thể hiện cụ thể của hành vi chiếm đoạt là hành vi nhận tài
sản từ người bị lừa dối vì đã tin vào thông tin của người phạm tội nên bị lừa
dối đã giao nhầm tài sản. Khi nhận được tài sản cũng là lúc người phạm tội
lừa đảo đã làm chủ được tài sản đó trên thực tế và đó cũng là lúc tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản được coi là hoàn thành.
Ví dụ: Hàng năm chợ Viềng Xuân ở Nam Định họp từ ngày mồng 7
đến hết ngày mồng 8 tháng giêng âm lịch. Vào đêm ngày mồng 7 tháng giêng
năm 2012 âm lịch, Trần Văn A thấy có những bãi giữ xe tự phát mở ra ở gần
khu vực chợ, ánh sáng tại chỗ soát vé không được sáng rõ, nên A nghĩ cách
làm vé xe giả để lấy xe trong bãi giữ xe do Vũ Quang C quản lý. A đã quan
sát kỹ đặc điểm vé xe của C giao cho khách và làm vé xe giả số 11 gần giống
với vé thật. Sau đó A mang theo một cục phấn trắng đi vào bãi gửi xe, đến
29
cuối bãi xe A xóa số ghi ở yên chiếc xe Dream và viết số 11 vào rồi dắt chiếc
xe này ra ngoài và đưa chiếc vé giả cho C, C không biết đó là vé giả nên cho
A dắt xe ra bình thường. Lấy được xe A mang đi bán được 3.000.000đ ăn
tiêu. Khi có khách đến lấy xe, C kiểm tra lại mới biết bị A dùng vé giả lừa lấy
xe. Như vậy A đã phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, hành vi chiếm đoạt tài
sản hoàn thành từ khi A dắt xe ra khỏi bãi gửi xe.
Thứ hai: Nếu tài sản bị chiếm đoạt đang ở trong sự chiếm hữu của
người phạm tội thì hình thức thể hiện của hành vi chiếm đoạt là hành vi giữ
lại tài sản đáng nhẽ phải giao cho người bị lừa dối vì đã tin vào thông tin của
người phạm tội nên người bị lừa dối đã nhận nhầm tài sản hoặc không nhận.
Khi người bị lừa dối nhận nhầm hoặc không nhận tài sản cũng là lúc người
phạm tội lừa đảo đã làm chủ được tài sản bị chiếm đoạt và người bị lừa dối đã
mất tài sản đó và đó cũng là thời điểm hoàn thành của tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản.
Ví dụ: Lê Quốc N là chủ cửa hàng buôn bán đồ gỗ ở Nam Định, N thường
xuyên thuê Hoàng Đình H lái xe chở hàng cho khách. Ngày 12/2/ 2012 Q
là khách mua hàng nhờ H chuyển cho chị T (là vợ N) 35 triệu đồng tiền
hàng, lúc giao nhận tiền giữa H và T, H đã dùng thủ đoạn gian dối khiến T
tưởng mình đã nhận đủ 35 triệu đồng và đã ký vào giấy nhận tiền rồi đi về.
Khi về nhà T kiểm tra lại tiền thì thấy thiếu 10 triệu đồng và số tiền mà T
nhận từ H chỉ có 25 triệu đồng. Như vậy H đã phạm tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản, hành vi chiếm đoạt tài sản là hành vi giữ lại số tiền 10 triệu đồng
đáng lẽ phải giao cho T.
Hành vi gian dối và hành vi chiếm đoạt trong tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Hành vi gian dối tạo điều kiện cho
hành vi chiếm đoạt được thực hiện một cách công khai, dễ dàng. Trong thực
30
tế có những biểu hiện gian dối nhằm mục đích khác không phải là hành vi
khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, thủ đoạn gian dối của người
phạm tội bao giờ cũng phải có trước, sau đó mới diễn ra việc bàn giao tài sản
giữa người bị hại và người phạm tội, nếu thủ đoạn gian dối lại có sau khi
người phạm tội nhận được tài sản thì không phaỉ là lừa đảo chiếm đoạt tài sản,
mà tùy từng trường hợp cụ thể thủ đoạn gian dối đó có thể là hành vi che giấu
tội phạm hoặc là hành vi phạm tội khác như tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản. Thông thường hành vi chiếm đoạt tài sản xảy ra kế tiếp ngay sau
hành vi gian dối, nhưng cũng có trường hợp giữa hai hành vi này lại có
khoảng cách nhất định về thời gian. Ở đây cần chú ý tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản chỉ coi là hoàn thành khi hành vi chiếm đoạt xảy ra.
Như vậy hành vi khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản tương
tự với hành vi khách quan của nhiều tội khác. Vì vậy để định tội danh chính
xác phải đặt hành vi khách quan trong mối liên hệ với các yếu tố khác, nghiên
cứu một cách toàn diện các yếu tố của cấu thành tội phạm [10].
* Dấu hiệu hậu quả của tội phạm
Hậu quả của tội phạm là thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra cho quan
hệ xã hội là khách thể bảo vệ của luật hình sự. Thiệt hại gây ra cho khách thể
được thể hiện thông qua sự biến đổi tình trạng bình thường của các bộ phận
cấu thành quan hệ xã hội là khách thể của tội phạm.
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là tội có cấu thành vật chất, nghĩa là
trong cấu thành tội phạm có phản ánh dấu hiệu hậu quả nguy hiểm cho xã hội,
nhưng hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc, vì có những trường hợp hậu
quả chưa xảy ra vẫn có thể cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, ví dụ như
trường hợp chuẩn bị phạm tội hoặc phạm tội chưa đạt. Hậu quả của tội phạm
được phản ánh trong cấu thành tội phạm thông qua thiệt hại về tài sản mà cụ
31
thể là giá trị tài sản bị chiếm đoạt, chính vì vậy việc xác định tài sản là đối
tượng của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là dấu hiệu bắt buộc, đây là dấu hiệu
định lượng để xác định cấu thành cơ bản hoặc cấu thành định khung tăng
nặng của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Trong cấu thành tội phạm cơ bản của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
được quy định ở Khoản 1 Điều 139 Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi bổ sung năm
2009 thì giá trị tài sản bị chiếm đoạt ở mức 2 triệu đồng là mức nguy hiểm
đáng kể làm căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự. Cụ thể nếu tài sản bị chiếm
đoạt có giá trị từ 2 triệu đồng trở lên luôn cấu thành tội phạm, còn nếu tài sản
bị chiếm đoạt có giá trị dưới 2 triệu đồng thì phải kèm theo là gây hậu quả
nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị
kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà vi phạm mới cấu
thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Việc xác định giá trị tài sản bị chiếm đoạt đối với hành vi lừa đảo
chiếm đoạt tài sản có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xác định trường hợp
nào bị truy cứu trách nhiệm hình sự, trường hợp nào chưa đến mức truy cứu
trách nhiệm hình sự, cũng như việc áp dụng đúng khung hình phạt. Do đó cần
lưu ý một số điểm sau đây trong việc xác định giá trị tài sản đối với tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản:
Giá trị tài sản bị chiếm đoạt được xác định căn cứ vào kết luận của
Hội đồng định giá do cơ quan tố tụng tiến hành kết luận về giá trị tài sản bị
chiếm đoạt. Trong trường hợp tài sản bị xâm phạm không còn nữa, cơ quan
điều tra cần lấy lời khai của những người biết về tài sản này để xác định đó là
tài sản gì, nhãn mác của tài sản đó, giá trị tài sản đó theo thời giá vào thời
điểm tài sản bị xâm phạm, tài sản đó còn bao nhiêu phần trăm giá trị sử
dụng… để có kết luận cuối cùng về giá trị tài sản bị xâm phạm.
32
Trong trường hợp có đầy đủ căn cứ chứng minh rằng người có hành
vi phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có ý định xâm phạm đến tài sản có giá
trị cụ thể theo ý thức chủ quan của họ, thì lấy giá trị tài sản đó để xem xét việc
truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi xâm phạm. Nếu người
phạm tội có ý định lừa đảo chiếm đoạt tài sản nhưng không quan tâm đến giá
trị của tài sản bị chiếm đoạt thì căn cứ vào giá trị thực của tài sản bị xâm
phạm để xem xét việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội.
Trong trường hợp một người thực hiện nhiều lần cùng loại hành vi lừa
đảo chiếm đoạt tài sản nhưng mỗi lần giá trị tài sản bị chiếm đoạt dưới mức
tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự và
không thuộc một trong các trường hợp khác để truy cứu trách nhiệm hình sự
như: gây hậu quả nghiêm trọng, đã bị xử phạt hành chính, đã bị kết án nhưng
chưa xóa án tích…, đồng thời trong các hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản đó
chưa có lần nào bị xử phạt hành chính và chưa hết thời hiệu xử phạt hành chính.
Nếu tổng giá trị tài sản của các lần chiếm đoạt bằng hoặc trên mức 2 triệu
đồng thì người thực hiện hành vi phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự đối
với tổng giá trị tài sản của các lần bị xâm phạm, nếu: (i) Các hành vi lừa đảo
chiếm đoạt tài sản được thực hiện một cách liên tục, kế tiếp nhau về mặt thời
gian; (ii) Việc thực hiện các hành vi chiếm đoạt tài sản có tính chất chuyên
nghiệp, lấy tài sản chiếm đoạt được làm nguồn sống chính và (iii) Với mục
đích chiếm đoạt, nhưng do điều kiện khách quan nên việc lừa đảo chiếm đoạt
tài sản phải được thực hiện nhiều lần cho nên giá trị tài sản bị chiếm đoạt mỗi
lần dưới 2 triệu đồng.
Ngoài hậu quả là giá trị tài sản bị chiếm đoạt là dấu hiệu định tội được
phân tích ở trên thì thức tế hành vi phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản còn
gây hậu quả nguy hiểm khác, đó là những thiệt hại về tài sản, về thể chất hoặc
những hậu quả phi vật chất khác diễn ra ở những cấp độ khác nhau thể hiện
33
mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản. Những hậu qủa này thường phát sinh do việc tài sản bị chiếm đoạt (có
mối quan hệ nhân quả giữa việc tài sản bị chiếm đoạt và hậu quả). Do đó việc
xác định hậu quả là thiệt hại về tài sản thì phải xảy ra ngoài giá trị tài sản bị
chiếm đoạt. Hậu quả phi vật chất ở đây được biểu hiện là những ảnh hưởng
xấu đến việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, gây ảnh
hưởng lớn đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Những hậu quả phát sinh này,
tùy từng vụ án, tình hình cụ thể mà các cơ quan tiến hành tố tụng xác định đã
gây hậu quả nghiêm trọng, gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc gây hậu quả
đặc biệt nghiêm trọng để làm căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự theo Khoản 1
Điều 139 Bộ luật hình sự hay để làm căn cứ quyết định hình phạt theo Điểm g
Khoản 2, Điểm b Khoản 3 và 4 Điều 139 Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi bổ
sung năm 2009.
* Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả của tội phạm
Việc định tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản không chỉ xác định hậu quả là
giá trị tài sản bị chiếm đoạt mà còn đòi hỏi làm rõ mối quan hệ nhân quả giữa
hành vi lừa đảo với hậu quả đó. Vì con người chỉ phải chịu trách nhiệm hình
sự về hậu quả nguy hiểm cho xã hội khi hậu quả đó do chính hành vi của
mình gây ra. Mối quan hệ giữa hành vi vi phạm và hậu qủa tội phạm được
biểu hiện như sau:
- Hành vi gian dối phải diễn ra trước hành vi chiếm đoạt
- Hành vi gian dối là cơ sở chủ yếu để quyết định việc chiếm đoạt
được tài sản của người phạm tội.
Vì vậy việc chiếm đoạt được tài sản của người phạm tội có thể gây ra
những hậu quả nguy hiểm khác cho xã hội nên việc xác định mối quan hệ
nhân quả giữa hành vi và hậu quả trên không chỉ có ý nghĩa về mặt định tội
mà còn có ý nghĩa trong quyết định hình phạt.
34
1.2.2.3. Chủ thể của tội phạm
"Chủ thể của tội phạm là người có năng lực trách nhiệm hình sự, đạt
độ tuổi luật định và đã thực hiện hành vi phạm tội cụ thể" [2].
Người có năng lực trách nhiệm hình sự là người khi thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội có khả năng nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã
hội của hành vi của mình và có khả năng điều khiển được hành vi ấy. Theo
quy định của luật hình sự Việt Nam, người có năng lực trách nhiệm hình sự là
người đã đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và không thuộc trường hợp ở
trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự được quy định tại
Điều 13, Bộ luật hình sự. Về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự được quy định
tại Điều 12 Bộ luật hình sự cụ thể như sau:
1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi
tội phạm.
2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách
nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng [19].
Vì vậy, theo quy định của Điều 12 Bộ luật hình sự chủ thể của tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản phải:
Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự trong mọi
trường hợp lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định từ khoản 1 đến khoản 4
Điều 139 Bộ luật hình sự.
Người từ đủ 14 tuổi trở lên đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm
hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nếu có hành vi thuộc khoản 3, khoản 4
Điều 139 Bộ luật hình sự.
Do chủ thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là chủ thể thường nên
không có ngoại lệ đối với người nước ngoài, người không quốc tịch khi thực
hiện hành vi lừa đảo trên lãnh thổ Việt Nam. Trừ một số người được hưởng
35
quyền miễn trừ tư pháp, trách nhiệm hình sự của họ được giải quyết bằng con
đường ngoại giao.
Ngoài ra khi nghiên cứu về chủ thể của tội phạm này cũng cần chú ý
tới đặc điểm nhân thân của người phạm tội như: nghề nghiệp, hoàn cảnh gia
đình, trình độ văn hóa, kinh tế, ý thức pháp luật, tiền án, tiền sự… Điều này
có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc xác định trách nhiệm hình sự của
người phạm tội cũng như các biện pháp đấu tranh phòng người tội phạm lừa
đảo chiếm đoạt tài sản.
1.2.2.4. Mặt chủ quan của tội phạm
"Tội phạm là một thể thống nhất giữa mặt khách quan và mặt chủ
quan. Nếu mặt khách quan là biểu hiện bên ngoài của tội phạm thì mặt chủ
quan là hoạt động tâm lý bên trong của tội phạm, bao gồm: lỗi, động cơ và
mục đích phạm tội" [2].
* Dấu hiệu lỗi
Trong luật hình sự Việt Nam, nguyên tắc lỗi được coi là nguyên tắc cơ
bản. Theo nguyên tắc này, luật hình sự Việt Nam không chấp nhận việc truy
cứu trách nhiệm hình sự con người chỉ trên cơ sở hành vi khách quan mà
không xét đến lỗi của họ.
Điều 139 Bộ luật hình sự quy định về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
nhưng không nêu dấu hiệu lỗi của người phạm tội. Tuy nhiên xét theo bản
chất và tính chất của hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì về mặt chủ quan của
tội phạm được thể hiện do lỗi cố ý trực tiếp với mục đích chiếm đoạt tài sản.
Lỗi cố ý trực tiếp trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được biểu hiện:
Về lý trí: Người phạm tội nhận thức rõ tính chất nguy hiểm cho xã hội
của hành vi mà mình thực hiện là xâm phạm sở hữu của người khác, nhận
thức rõ thủ đoạn đưa ra là hoàn toàn không có thật, nhằm làm cho người khác
36
tin đó là sự thật. Người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trước khi thực
hiện hành vi lừa dối đã có ý thức chiếm đoạt được tài sản của người khác.
Về ý chí: Người phạm tội mong muốn hành vi lừa dối đưa đến kết quả
là chiếm đoạt được tài sản của người khác.
* Dấu hiệu động cơ, mục đích phạm tội
Mục đích phạm tội là kết quả trong ý thức chủ quan mà người phạm
tội đặt ra phải đạt được khi thực hiện hành vi phạm tội. Mục đích của người
phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là mong muốn chiếm đoạt được tài sản.
Mục đích này bao giờ cũng có trước khi thực hiện hành vi phạm tội. Có thể
nói mục đích chiếm đoạt tài sản là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên, người phạm tội có thể có những mục đích khác
cùng với mục đích chiếm đoạt hay chấp nhận mục đích chiếm đoạt của người
đồng phạm khác thì người phạm tội cũng bị truy cứu trách nhiệm hình sự về
tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Động cơ phạm tội được hiểu là động lực bên trong thúc đẩy người
phạm tội thực hiện hành vi phạm tội. Người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản có thể có nhiều động cơ khác nhau khi thực hiện hành vi phạm tội, có thể
để thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng cá nhân, do tham lam… và đó là động cơ tư
lợi. Đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản dấu hiệu động cơ phạm tội không
có ý nghĩa đối với việc định tội danh, chúng chỉ có ý nghĩa trong quyết định
hình phạt.
1.3. PHÂN BIỆT TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN VỚI MỘT SỐ TỘI
PHẠM KHÁC CÓ LIÊN QUAN
Qua phân tích các dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
chúng ta thấy đặc trưng nổi bật của tội phạm này là bằng thủ đoạn gian dối để
chiếm đoạt tài sản. Song trong thực tế, nhận thức thủ đoạn gian dối để chiếm
đoạt tài sản không phải trường hợp nào cũng rõ ràng và thống nhất. Nhiều tội
37
cũng có hành vi gian dối như tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, Tội
lừa dối khách hàng, tội đánh bạc... Vì vậy cần phải phân biệt tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản với một số tội khác để nâng cao hiệu quả áp dụng trong
thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm này.
1.3.1. Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 140 Bộ luật hình sự)
Ở hai tội này về cơ bản là có các yếu tố khách thể, mặt chủ quan, chủ
thể của tội phạm là giống nhau, chỉ khác nhau ở mặt khách quan. Do vậy chỉ
cần phân biệt ở mặt khách quan mà chủ yếu là thông qua hình thức hợp đồng
mà có sự gian dối.
Ở tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản người phạm tội có mục đích chiếm
đoạt tài sản trước khi thực hiện việc giao kết hợp đồng. Việc giao kết hợp
đồng chẳng qua là phương thức để chiếm đoạt tài sản. Hợp đồng này hoàn
toàn là giả mạo nhằm tạo lòng tin để người bị hại giao tài sản. Khi người
phạm tội nhận được tài sản từ hợp đồng cũng là thời điểm tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản hoàn thành. Hành vi giao kết hợp đồng giả tạo là hành vi lừa dối
và hành vi nhận tài sản là hành vi chiếm đoạt được tài sản. Hành vi gian dối
của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là cơ sở quyết định việc chiếm đoạt được tài
sản của người phạm tội nên hành vi gian dối là dấu hiệu bắt buộc trong cấu
thành tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Ở tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, ban đầu người phạm tội
chưa có ý định chiếm đoạt tài sản, việc giao kết hợp đồng chỉ nhằm mục đích
vay, mượn, thuê… được tài sản. Người phạm tội nhận tài sản một cách ngay
thẳng, hợp pháp thông qua hợp đồng đã giao kết trước và trong khi nhận tài
sản không có ý thức chiếm đoạt tài sản. Do đó việc giao kết hợp đồng hay
nhận tài sản từ hợp đồng đã giao kết không bị coi là hành vi phạm tội. Chỉ sau
đó, khi đến thời hạn nhất định hoặc thời hạn phải trả tài sản mới có ý định
38
không trả lại hoặc sử dụng tài sản vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến mất khả
năng chi trả hoặc bỏ trốn… nhằm chiếm đoạt tài sản. Như vậy mục đích
chiếm đoạt nảy sinh sau khi đã nhận được tài sản trên cơ sở hợp đồng. Để
thực hiện ý định chiếm đoạt, người phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt
tài sản có thể có hành vi gian dối như giả đánh mất, đánh tráo tài sản, rút bớt
tài sản. Những hành vi gian dối này chỉ là để che giấu hành vi chiếm đoạt.
Hành vi gian dối không phải là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Như vậy, việc xem xét người phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt
tài sản hay tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản phải xem xét đến những căn cứ
chứng minh người phạm tội ban đầu trước khi giao kết hợp đồng đã có ý định
chiếm đoạt tài sản hay chưa. Người phạm tội lạm dụng chiếm đoạt tài sản dựa
vào lòng tin sẵn có của người có tài sản. Còn người phạm tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản dựa vào lòng tin do hành vi gian dối tạo ra.
1.3.2. Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tội lừa dối khách
hàng (Điều 162 Bộ luật hình sự)
Có thể nói, về bản chất của tội lừa dối khách hàng là lừa đảo chiếm
đoạt tài sản. Tội lừa dối khách hàng vẫn tồn tại trong Bộ luật hình sự hiện
hành là biểu hiện của sự rơi rớt của tư tưởng và quan điểm lập pháp trong thời
kỳ duy trì nền kinh tế kế hoạch hóa, khi mà chế độ tem phiếu, phân phối hàng
hóa chỉ được thực hiện thông qua hệ thống các cửa hàng thương nghiệp hoặc
cửa hàng thực phẩm của Nhà nước. Hành vi này không phù hợp trong nền
kinh tế thị trường và nếu xảy ra hành vi này thì phải bị xét xử về hành vi lừa
đảo chiếm doạt tài sản. Tuy nhiên, trong Bộ luật hình sự, chúng ta vẫn có thể
phân biệt hai tội này với các dấu hiệu sau:
- Về chủ thể của tội phạm
Đè tài: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Luật hình sự Việt Nam
Đè tài: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Luật hình sự Việt Nam
Đè tài: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Luật hình sự Việt Nam
Đè tài: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Luật hình sự Việt Nam
Đè tài: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Luật hình sự Việt Nam
Đè tài: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Luật hình sự Việt Nam
Đè tài: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Luật hình sự Việt Nam
Đè tài: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Luật hình sự Việt Nam
Đè tài: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Luật hình sự Việt Nam
Đè tài: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Luật hình sự Việt Nam
Đè tài: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Luật hình sự Việt Nam
Đè tài: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Luật hình sự Việt Nam
Đè tài: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Luật hình sự Việt Nam
Đè tài: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Luật hình sự Việt Nam
Đè tài: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Luật hình sự Việt Nam
Đè tài: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Luật hình sự Việt Nam
Đè tài: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Luật hình sự Việt Nam
Đè tài: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Luật hình sự Việt Nam
Đè tài: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Luật hình sự Việt Nam
Đè tài: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Luật hình sự Việt Nam
Đè tài: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Luật hình sự Việt Nam
Đè tài: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Luật hình sự Việt Nam
Đè tài: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Luật hình sự Việt Nam
Đè tài: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Luật hình sự Việt Nam
Đè tài: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Luật hình sự Việt Nam
Đè tài: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Luật hình sự Việt Nam
Đè tài: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Luật hình sự Việt Nam
Đè tài: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Luật hình sự Việt Nam
Đè tài: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Luật hình sự Việt Nam
Đè tài: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Luật hình sự Việt Nam
Đè tài: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Luật hình sự Việt Nam
Đè tài: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Luật hình sự Việt Nam
Đè tài: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Luật hình sự Việt Nam
Đè tài: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Luật hình sự Việt Nam
Đè tài: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Luật hình sự Việt Nam
Đè tài: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Luật hình sự Việt Nam
Đè tài: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Luật hình sự Việt Nam
Đè tài: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Luật hình sự Việt Nam
Đè tài: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Luật hình sự Việt Nam
Đè tài: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Luật hình sự Việt Nam
Đè tài: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Luật hình sự Việt Nam
Đè tài: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Luật hình sự Việt Nam
Đè tài: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Luật hình sự Việt Nam
Đè tài: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Luật hình sự Việt Nam
Đè tài: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Luật hình sự Việt Nam
Đè tài: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Luật hình sự Việt Nam
Đè tài: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Luật hình sự Việt Nam
Đè tài: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Luật hình sự Việt Nam
Đè tài: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Luật hình sự Việt Nam
Đè tài: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Luật hình sự Việt Nam
Đè tài: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Luật hình sự Việt Nam
Đè tài: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Luật hình sự Việt Nam
Đè tài: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Luật hình sự Việt Nam
Đè tài: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Luật hình sự Việt Nam
Đè tài: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Luật hình sự Việt Nam
Đè tài: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Luật hình sự Việt Nam

More Related Content

What's hot

What's hot (20)

Luận văn: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên, HOT
Luận văn: Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên, HOTLuận văn: Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên, HOT
Luận văn: Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên, HOT
 
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
 
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAYLuận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAY
 
Luận văn: Phòng vệ chính đáng theo pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Phòng vệ chính đáng theo pháp luật hình sự, HAYLuận văn: Phòng vệ chính đáng theo pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Phòng vệ chính đáng theo pháp luật hình sự, HAY
 
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOTLuận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
 
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án trong Luật Tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án trong Luật Tố tụng Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án trong Luật Tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án trong Luật Tố tụng
 
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam Định
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam ĐịnhLuận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam Định
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam Định
 
Đề tài: Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, 9đ
Đề tài: Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, 9đĐề tài: Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, 9đ
Đề tài: Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, 9đ
 
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAYLuận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
 
Luận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội
Luận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tộiLuận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội
Luận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội
 
Đề tài: Thế chấp tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, HOT
Đề tài: Thế chấp tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, HOTĐề tài: Thế chấp tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, HOT
Đề tài: Thế chấp tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, HOT
 
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn tạm giữ trong luật tố tụng hình sự
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn tạm giữ trong luật tố tụng hình sựLuận văn: Biện pháp ngăn chặn tạm giữ trong luật tố tụng hình sự
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn tạm giữ trong luật tố tụng hình sự
 
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Điện Biên
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Điện BiênLuận văn: Các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Điện Biên
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Điện Biên
 
Luận văn: Định tội danh Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, HAY
Luận văn: Định tội danh Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, HAYLuận văn: Định tội danh Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, HAY
Luận văn: Định tội danh Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, HAY
 

Similar to Đè tài: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Luật hình sự Việt Nam

Similar to Đè tài: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Luật hình sự Việt Nam (20)

Đề tài: Tổng hợp hình phạt trong các trường hợp đặc biệt, HOT
Đề tài: Tổng hợp hình phạt trong các trường hợp đặc biệt, HOTĐề tài: Tổng hợp hình phạt trong các trường hợp đặc biệt, HOT
Đề tài: Tổng hợp hình phạt trong các trường hợp đặc biệt, HOT
 
Luận văn: Cơ chế bồi thường nhà nước cho người bị oan, HOT
Luận văn: Cơ chế bồi thường nhà nước cho người bị oan, HOTLuận văn: Cơ chế bồi thường nhà nước cho người bị oan, HOT
Luận văn: Cơ chế bồi thường nhà nước cho người bị oan, HOT
 
Quyền con người thông qua cơ chế bồi thường cho người bị oan
Quyền con người thông qua cơ chế bồi thường cho người bị oanQuyền con người thông qua cơ chế bồi thường cho người bị oan
Quyền con người thông qua cơ chế bồi thường cho người bị oan
 
Luận văn: Tái phạm, tái phạm nguy hiểm theo Bộ luật hình sự, HAY
Luận văn: Tái phạm, tái phạm nguy hiểm theo Bộ luật hình sự, HAY Luận văn: Tái phạm, tái phạm nguy hiểm theo Bộ luật hình sự, HAY
Luận văn: Tái phạm, tái phạm nguy hiểm theo Bộ luật hình sự, HAY
 
Luận văn: Tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại đến tài sản Nhà nước
Luận văn: Tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại đến tài sản Nhà nướcLuận văn: Tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại đến tài sản Nhà nước
Luận văn: Tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại đến tài sản Nhà nước
 
Luận văn: Tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng, HAY
Luận văn: Tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng, HAYLuận văn: Tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng, HAY
Luận văn: Tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng, HAY
 
Luận văn: Pháp luật về kiểm soát thu nhập của người có chức vụ
Luận văn: Pháp luật về kiểm soát thu nhập của người có chức vụLuận văn: Pháp luật về kiểm soát thu nhập của người có chức vụ
Luận văn: Pháp luật về kiểm soát thu nhập của người có chức vụ
 
Luận văn: Quyền được thông tin của công dân ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Quyền được thông tin của công dân ở Việt Nam, HOTLuận văn: Quyền được thông tin của công dân ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Quyền được thông tin của công dân ở Việt Nam, HOT
 
Luận án: Quyền được thông tin của công dân ở Việt Nam, HAY
Luận án: Quyền được thông tin của công dân ở Việt Nam, HAYLuận án: Quyền được thông tin của công dân ở Việt Nam, HAY
Luận án: Quyền được thông tin của công dân ở Việt Nam, HAY
 
Luận án: Quyền được thông tin của công dân ở Việt Nam, HAY
Luận án: Quyền được thông tin của công dân ở Việt Nam, HAYLuận án: Quyền được thông tin của công dân ở Việt Nam, HAY
Luận án: Quyền được thông tin của công dân ở Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận án: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt Nam, HAY
Luận án: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt Nam, HAYLuận án: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt Nam, HAY
Luận án: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt NamLuận văn: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự, HOT
Luận văn: Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự, HOTLuận văn: Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự, HOT
Luận văn: Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật hình sự
Luận văn: Bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật hình sựLuận văn: Bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật hình sự
Luận văn: Bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật hình sự
 
Luận văn: Xử phạt vi phạm hành chính về buôn bán hàng giả, HOT
Luận văn: Xử phạt vi phạm hành chính về buôn bán hàng giả, HOTLuận văn: Xử phạt vi phạm hành chính về buôn bán hàng giả, HOT
Luận văn: Xử phạt vi phạm hành chính về buôn bán hàng giả, HOT
 
Xử phạt vi phạm hành chính về buôn bán hàng giả tại quận Hoàn Kiếm
Xử phạt vi phạm hành chính về buôn bán hàng giả tại quận Hoàn KiếmXử phạt vi phạm hành chính về buôn bán hàng giả tại quận Hoàn Kiếm
Xử phạt vi phạm hành chính về buôn bán hàng giả tại quận Hoàn Kiếm
 
Đề tài: Xử phạt vi phạm hành chính về buôn bán hàng giả, HOT
Đề tài: Xử phạt vi phạm hành chính về buôn bán hàng giả, HOTĐề tài: Xử phạt vi phạm hành chính về buôn bán hàng giả, HOT
Đề tài: Xử phạt vi phạm hành chính về buôn bán hàng giả, HOT
 
Xử phạt vi phạm hành chính về buôn bán hàng giả ở Hà Nội, HAY
Xử phạt vi phạm hành chính về buôn bán hàng giả ở Hà Nội, HAYXử phạt vi phạm hành chính về buôn bán hàng giả ở Hà Nội, HAY
Xử phạt vi phạm hành chính về buôn bán hàng giả ở Hà Nội, HAY
 
Luận văn: Biện pháp khẩn cấp tạm thời tiền tố tụng, HOT, HAY
Luận văn: Biện pháp khẩn cấp tạm thời tiền tố tụng, HOT, HAYLuận văn: Biện pháp khẩn cấp tạm thời tiền tố tụng, HOT, HAY
Luận văn: Biện pháp khẩn cấp tạm thời tiền tố tụng, HOT, HAY
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢImyvh40253
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgsNmmeomeo
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoámyvh40253
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfNguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docxTHAO316680
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanmyvh40253
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfTrnHoa46
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngYhoccongdong.com
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...hoangtuansinh1
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhkinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhdtlnnm
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdfTrnHoa46
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (20)

PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhkinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
 

Đè tài: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Luật hình sự Việt Nam

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN TIẾN DŨNG TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM – TRÊN CƠ SỞ NGHIÊN CỨU THỰC TIẾN TẠI ĐỊA BÀN TỈNH NAM ĐỊNH LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2014 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN TIẾN DŨNG TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM – TRÊN CƠ SỞ NGHIÊN CỨU THỰC TIẾN TẠI ĐỊA BÀN TỈNH NAM ĐỊNH Chuyên ngành:Luật Hình sự và Luật Tố tụng Hình sự Mã số: 60380104 LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: TS. TRẦN VĂN DŨNG HÀ NỘI - 2014
  • 2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Nội dungcủa luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong công trình khoa học nào. Tác giả luận văn Nguyễn Tiến Dũng
  • 3. MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................... MỤC LỤC........................................................................................................... DANH MỤC NHỮNG CHỮ VIẾT TĂT........................................................... DANH MỤC CÁC BẢNG.................................................................................. MỞ ĐẦU........................................................................................................... 1 Chƣơng 1:MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM............................................ 9 1.1. LỊCH SỬ LẬP PHÁP HÌNH SỰ VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM.......................................... 9 1.1.1. Từ năm 1945 đến trước khi ra đời Bộ luật hình sự 1985.................................9 1.1.2. Từ năm 1986 đến trước khi sửa đổi toàn diện Bộ luật hình sự vào năm 1999 .....................................................................................................................12 1.1.3. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong lần sửa đổi toàn diện vào năm 1999 ....................................................................................................................18 1.1.4. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong lần sửa đổi, bổ sung năm 2009...........21 1.2. KHÁI NIỆM, CÁC DẤU HIỆU PHÁP LÝ CỦA TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ HIỆN HÀNH .....22 1.2.1. Khái niệm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ........................................................22 1.2.2. Dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản......................................24 1.3. PHÂN BIỆT TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN VỚI MỘT SỐ TỘI PHẠM KHÁC CÓ LIÊN QUAN............................................................36 1.3.1. Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 140 Bộ luật hình sự)......................................................................37 1.3.2. Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tội lừa dối khách hàng (Điều 162 Bộ luật hình sự).....................................................................................................38
  • 4. 1.3.3. Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tội đánh bạc (Điều 248 Bộ luật hình sự)..........................................................................................................................39 1.3.4. Phân biệt tội lừa đảo với tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng Internet hoặc thiết bị số thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản (Điều 226b).40 Chƣơng 2:TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ HIỆN HÀNH VÀ THỰC TIỄN ĐIỀU TRA, TRUY TỐ, XÉT XỬ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TÌNH NAM ĐỊNH .........................................42 2.1. TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRONG BLHS 1999 (SỬA ĐỔI NĂM 2009) ......................................42 2.1.1. Khung cơ bản (Khoản 1 Điều 139)..................................................................43 2.1.2. Khung tăng nặng thứ nhất (Khoản 2 Điều 139) .............................................43 2.1.3. Khung tăng nặng thứ hai (Khoản 3 Điều 139)................................................47 2.1.4. Khung tăng nặng thứ ba (Khoản 4 Điều 139).................................................48 2.1.5. Hình phạt bổ sung..............................................................................................50 2.1.6. Các biện pháp tư pháp.......................................................................................50 2.1.7. Trách nhiệm hình sự đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong những trường hợp đặc biệt ......................................................................................................51 2.2. THỰC TIỄN ĐIỀU TRA, TRUY TỐ, XÉT XỬ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NAM ĐỊNH................................54 2.2.1. Những đặc điểm về địa lý, kinh tế, xã hội của tỉnh Nam định có ảnh hưởng đến tình hình tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản....................................................54 2.2.2. Kết quả điều tra, truy tố, xét xử tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Nam Định từ năm 2008 đến năm 2012..............................................................58 2.2.3. Một số đặc điểm của loại tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Nam Định..............................................................................................................61 2.2.4. Một số đặc điểm liên quan đến chủ thể tội phạm...........................................65
  • 5. 2.2.5. Địa bàn hoạt động..............................................................................................67 Chƣơng 3:MỘT SỐ ĐỀ XUẤT NHẰM HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NAM ĐỊNH ..............................................................................................................69 3.1. MỘT SỐ BẤT CẬP HẠN CHẾ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ ÁP DỤNG TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN Ở TỈNH NAM ĐỊNH....69 3.1.1. Một số bất cập của Bộ luật hình sự..................................................................69 3.1.2 Những bất cập xuất phát từ hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật.....72 3.1.3. Những bất cập xuất phát từ việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật...............74 3.2. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT NHẰM HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NAM ĐỊNH..................75 3.2.1. Hoàn thiện các quy định của BLHS ................................................................75 3.2.2. Một số đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động nghiệp vụ của các cơ quan tố tụng trên địa bàn tỉnh Nam Định về xử lý tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản...............................................................................................................84 KẾT LUẬN....................................................................................................89 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................91
  • 6. DANH MỤC NHỮNG CHỮ VIẾT TĂT BLHS : Bộ Luật Hình sự XHCN : Xã hội chủ nghĩa TAND : Tòa án nhân dân TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao VKSND : Viện kiểm sát nhân dân VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân HĐTP : Hội đồng thẩm phán TNHS : Trách nhiệm hình sự
  • 7. DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 2.1: So sánh thực trạng tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tội phạm nói chung trên địa bàn tỉnh Nam Định................................58 Bảng 2.2: Thực trạng khởi tố, truy tố, xét xử tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Nam Định.................................................................................................59 Bảng 2.3. Hình phạt được áp dụng đối với bị cáo phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ năm 2008 - 2012 trên địa bàn tỉnh Nam Định..............................................600 Bảng 2.4: Bảng thống kê đặc điểm chủ thể tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Nam Định.......................................................................................................66 Bảng 2.5: Cơ cấu độ tuổi người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản....................67
  • 8. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Tài sản và quyền sở hữu về tài sản là một trong những quyền quan trọng, thân thiết nhất của con người và luôn chiếm được sự quan tâm đặc biệt của các nhà lập pháp của bất kỳ quốc gia nào. Trong các hình thái xã hội khác nhau, Nhà nước đều sử dụng các biện pháp để bảo vệ quyền sở hữu tài sản hợp pháp của con người và hành vi xâm hại đến quyền sở hữu của con người đều bị áp dụng những hình thức trách nhiệm pháp lý nhất định như: Trách nhiệm bồi thường, trách nhiệm hoàn trả vật, tài sản trong pháp luật dân sự hay điều tra, truy tố, xét xử một người khi họ có hành vi xâm phạm quyền sở hữu ở mức độ nghiêm trọng. Thông qua việc đánh giá coi hành vi xâm phạm quyền sở hữu của con người là tội phạm và áp dụng đối với người phạm tội một hình phạt, Nhà nước luôn thể hiện thái độ đấu tranh không khoan nhượng đối với loại hành vi này. Ở Việt Nam, ngay sau khi Cách mạng tháng Tám năm 1945, Nhà nước ta đã ban hành Hiến pháp và các đạo luật khác để ghi nhận, bảo vệ quyền sở hữu hợp pháp của công dân, trong đó các quy định của pháp luật hình sự giữ vai trò quan trọng. Theo cách hiểu hiện nay "Quyền sở hữu là một hệ thống các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực chiếm hữu, sử dụng và định đoạt các tư liệu sản xuất, tư liệu tiêu dùng, những tài sản khác theo quy định của pháp luật" [37]. Như vậy sau quyền được sống, quyền được tự do thì quyền sở hữu có một vai trò to lớn đối với đời sống con người. Tiếp theo các văn bản pháp lý trước đó, Hiến pháp 1992 - văn bản pháp lý có giá trị pháp lý cao nhất đều ghi nhận: Nhà nước phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ
  • 9. 2 cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng, dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng [14]. Thể chế hóa quy định của Hiến pháp, Bộ luật hình sự đã giành hẳn một chương quy định các tội xâm phạm sở hữu (Chương XIV Bộ luật hình sự) gồm từ Điều 133 đến Điều 145 trong đó tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 139 Bộ luật hình sự. Trước đó, trong Bộ luật hình sự 1985, vì đề cao sở hữu tập thể, sở hữu Nhà nước nên các nhà lập pháp thời kỳ này đã tách thành hai chương riêng: Chương các tội xâm phạm tài sản sở hữu xã hội chủ nghĩa và chương các tội xâm phạm sở hữu của công dân với các đặc điểm pháp lý hành vi không có gì khác nhau, có chăng chỉ khác nhau về khách thể bảo vệ là quan hệ sở hữu XHCN hay quan hệ sở hữ tư nhân. Chính sách hình sự khác nhau dẫn đến mức hình phạt áp dụng khác nhau và có một vài tình tiết định khung tăng nặng khác nhau. Hiến pháp 2013 tiếp tục khẳng định quyền sở hữu là một quyền thiêng liêng và được hiến định. Điều 32 Hiến pháp năm 2013 quy định: 1. Mọi người có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác. 2. Quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ. 3. Trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc vì lợi ích quốc gia, tình trạng khẩn cấp, phòng chống thiên tai, Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng có bồi thường tài sản của tổ chức, cá nhân theo giá thị trường [22]. Cụ thể hóa nội dung và tinh thần này của Hiến pháp, các quy định của Bộ luật hình sự về bảo vệ quyền sở hữu của con người được nghiên cứu, bổ sung, trong đó có tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm trong tình hình mới.
  • 10. 3 Nghiên cứu diễn biến tội phạm trong những năm vừa qua, trên phạm vi toàn quốc, có thể thấy rằng nhóm các tội xâm phạm sở hữu thuộc loại tội phạm có diễn biến rất phức tạp. Tính chất phức tạp thể hiện ở hai điểm: số vụ liên tục tăng và mức độ nguy hiểm cũng ngày càng nghiêm trọng. Hành vi phạm tội xâm phạm sở hữu đã gây thiệt hại nghiêm trọng tài sản của Nhà nước, của tổ chức và tài sản của công dân, ảnh hưởng đến trật tự chung của xã hội. Trong đó tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là một trong những tội xâm phạm sở hữu có mức độ xảy ra nhiều nhất, tội này diễn biến ngày một gia tăng, với nhiều thủ đoạn tinh vi xảo quyệt. Trên địa bàn tỉnh Nam Định, thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử các tội phạm xâm phạm đến sở hữu trong những năm vừa qua cho thấy loại tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản luôn chiếm một số lượng đáng kể trong tổng số các tội phạm hàng năm. Có nhiều nguyên nhân để giải thích cho tình trạng nghiêm trọng của tội phạm này, tuy nhiên việc nghiên cứu làm rõ các đặc điểm của tội phạm này trên phạm vi một địa bàn cụ thể được xác định (thông qua việc nghiên cứu đặc điểm kinh tế - xã hội, đặc điểm dân cư, tính chất địa bàn) sẽ giúp chúng ta lý giải phần nào tính đặc thù của loại tội phạm này trên địa bàn tỉnh Nam Định qua đó giúp chúng ta có thể đưa ra các đề xuất nhằm hoàn thiện pháp luật hình sự và nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản đối với các cơ quan tiến hành tố tụng. Là một cán bộ công tác trong ngành bảo vệ pháp luật, tác giả lựa chọn đề tài này để làm đề tài nghiên cứu cho luận văn của mình. Việc nghiên cứu dấu hiệu pháp lý của tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói chung và các biểu hiện cụ thể của nó tại Nam Định để từ đó đề ra những biện pháp hoàn thiện các quy định của BLHS cũng như nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là rất cần
  • 11. 4 thiết. Vì lý do đó tác giả đã chọn đề tài "Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Luật hình sự Việt Nam - Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn tại địa bàn tỉnh Nam Định"làm luận văn thạc sĩ luật học của mình. Cũng cần nói thêm rằng, vì đặt trọng tâm nghiên cứu thực trạng tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên một địa bàn cụ thể, nên tác giả không có điều kiện nghiên cứu xuyên suốt quá trình lập pháp hình sự Việt Nam về loại tội phạm này trong suốt quá trình phát triển của pháp luật hình sự Việt Nam, mà chỉ cố gắng tập trung nghiên cứu quá trình phát triển pháp luật hình sự Việt Nam từ Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến nay. 2. Tình hình nghiên cứu Hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản đã được đề cập trong một số công trình nghiên cứu khoa học về luật hình sự, trong các tập bình luận khoa học về luật hình sự, các luận văn thạc sĩ, tiến sĩ của nhiều tác giả nổi tiếng như TS Trịnh Hồng Dương, GS.TS Võ Khánh Vinh, Ths Trần Thị Phương Hiền và gần đây là khóa luận tốt nghiệp của Lê Thị Khánh Ly tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội. Ngoài ra, có thể kể đến các bài viết nghiên cứu của tiến sỹ Lê Đăng Doanh (Đại học Luật Hà Nội) bàn về các dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong BLHS, trong đó tác giả đã so sánh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tội lừa dối khách hàng, cũng như phân tích sâu sắc tính chất pháp lý của hành vi dùng thủ đoạn lừa dối, lập hồ sơ khống để chiếm đoạt tiền hoàn thuế giá trị gia tăng… Qua nghiên cứu cho thấy, nhìn chung các tác giả đã đề cập khá sâu sắc và toàn diện về các dấu hiệu pháp lý của loại tội phạm này; phân biệt rõ các trường hợp phạm tội này với một số tội phạm khác có chung đặc điểm là dấu hiệu lừa dối, tuy nhiên chưa có công trình khoa học nào đề cập đến tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong mối liên hệ với một địa bàn cụ thể là tỉnh Nam Định, nhất là trong bối cảnh là một tỉnh đan xen dân cư nông thôn và thành thị. Sự
  • 12. 5 đình đốn trong sản xuất công nghiệp, tình trạng thất nghiệp, tình trạng di dân tự do, tình trạng yếu kém trong việc quản lý kinh tế của các cơ quan nhà nước trong hoạt động tổ chức xuất khẩu lao động, trong hoạt động cho vay tín dụng, sự lơ là thiếu cảnh giác của một bộ phận không nhỏ người dân....luôn là vấn đề nổi cộm và là một trong những nguyên nhân làm cho loại tội phạm này gia tăng. Trên thực tế Nam Định tuy là một tỉnh nhỏ thuộc đồng bằng Bắc Bộ, song cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường và xu thế hội nhập quốc tế hiện nay, tình hình tội phạm lừa đảo có những diễn biến phức tạp và xu hướng ngày càng gia tăng không chỉ về số vụ mà cả về tính chất, hậu quả thiệt hại về tài sản ngày càng trầm trọng, gây ảnh hưởng xấu đến hình ảnh của tỉnh Nam Định. Bởi vậy, luận văn nghiên cứu về: các dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản; so sánh sự khác biệt của tội phạm này và các tội phạm khác có cùng tính chất; nghiên cứu kinh nghiệm lập pháp hình sự của một số quốc gia có những nét tương đồng về truyền thống lập pháp với Việt Nam; nghiên cứu thực trạng và diễn biến của loại tội phạm này ở Nam Định. Trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp nhằm sửa đổi bổ sung Bộ luật hình sự đồng thời đưa ra các biện pháp nâng cao nhận thức và hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nhằm giảm bớt những thiệt hại xảy ra,đem lại sự tin tưởng vào pháp luật cho mọi người dân trên địa bàn tỉnh Nam Định. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài - Mục đích của đề tài: trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự và thực trạng tình hình, các dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Nam Định để đưa ra các các đề xuấthoàn thiện BLHS về loại tội phạm này, nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự ViệtNam về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
  • 13. 6 - Để đạt được mục tiêu trên, trong quá trình thực hiện đề tài tác giả đặt ra cho mình các nhiệm vụ sau đây: a) Nghiên cứu lịch sử lập pháp hình sự của Việt Nam từ khi Cách mạng tháng 8 thành công đến nay, qua đó để có một cách nhìn khái quát về quá trình phát triển của quy định này, phục vụ cho các đề xuất sửa đổi, bổ sung tội phạm này và các tội phạm khác có liên quan. b) Phân tích và làm sáng tỏ các dấu hiệu pháp lý hình sự của tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" theo Điều 139 Bộ luật hình sự năm 1999 đồng thời phân tích và so sánh các dấu hiệu pháp lý của tội phạm này với một số tội phạm khác có liên quan như: tội lừa dối khách hàng, tội đánh bạc…để làm rõ thêm cách nhận biết các dấu hiệu pháp lý của tội phạm này. c) Phân tích thực tiễn điều tra, truy tố và xét xử loại tội này tại tỉnh Nam Định trong thời gian vừa qua để thấy được các yếu tố tác động làm ảnh hưởng đến hiệu quả công tác này trong thời gian vừa qua. d) Phân tích những đặc điểm đặc thù của tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên cơ sở gắn với đặc điểm của tỉnh Nam Định đồng thời chỉ ra những vướng mắc, hạn chế trong việc điều tra, truy tố, xét xử tội phạm này tại tỉnh Nam Định. đ) Đề xuất các giải pháp hoàn thiện các quy định của BLHS hiện hành về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và các biện pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, qua đó góp phần đấu tranh có hiệu quả hơn đối với loại hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Nam Định nói riêng và cả nước nói chung. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài - Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là: Các dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, phân tích thực trạng và diễn biến của tội phạm để rút ra những điểm thành công cũng như thiếu sót trong việc áp dụng các quy
  • 14. 7 định của BLHS và BLTTHS trên địa bàn tỉnh Nam Định, phân tích nguyên nhân, đưa ra các biện pháp nhằm hoàn thiện các quy định của BLHS và nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự ViệtNam về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. - Phạm vi nghiên cứu: đề tài nghiên cứu trong phạm vi những vấn đề liên quan đến tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản dưới góc độ luật hình sự trên địa bàn tỉnh Nam Định 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Đề tài đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu của khoa học luật hình sự và tội phạm học như: phương pháp thống kê hình sự, phương pháp phân tích và so sánh, phương pháp tổng hợp. Ngoài ra, còn một số phương pháp khác cũng được áp dụng như: phương pháp phân tích hệ thống, phương pháp chuyên gia... 6. Kết quả nghiên cứu và những đóng góp mới của đề tài Trong phạm vi của đề tài là một công trình nghiên cứu vừa có ý nghĩa về mặt lý luận, vừa có ý nghĩa về mặt thực tiễn đối với cuộc đấu tranh phòng, chống tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Nam Định. - Về mặt lý luận: đề tài góp phần hoàn thiện nội dung quy định của Điều 139 Bộ luật hình sự năm 1999, đồng thời có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học pháp lý hình sự. - Về mặt thực tiễn: những đề xuất giải pháp nêu trong luận văn sẽ góp phần nâng cao hiệu quả hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về tội phạm nói chung và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng. Ngoài ra, đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các lực lượng tham gia phòng, chống loại tội phạm này không những ở tỉnh Nam Định mà còn có thể áp dụng trên địa bàn tỉnh, thành phố khác có điều kiện tương tự. - Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách tương đối có hệ thống và toàn diện về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, đồng thời đã đưa ra các
  • 15. 8 giải pháp nâng cao hiệu quả công tác điều tra, truy tố và xét xử đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Nam Định. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề chung về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam Chương 2:Trách nhiệm hình sự của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong BLHS hiện hành và thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Nam Định. Chương 3: Một số đề xuất nhằm hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự và nâng cao hiệu quả áp dụng tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Nam Định.
  • 16. 9 Chƣơng 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM Bảo vệ quyền sở hữu của các nhân, tổ chức chống lại các hành vi xâm hại là mối quan tâm hàng đầu của Chính phủ Việt Nam kể từ khi giành được Chính quyền. Do đó, chỉ sau một thời gian ngắn, mặc dù bận nhiều công việc nhưng Chính phủ dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật để nghiêm trị các hành vi này. 1.1. LỊCH SỬ LẬP PHÁP HÌNH SỰ VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1.1. Từ năm 1945 đến trƣớc khi ra đời Bộ luật hình sự 1985 Sau thành công của Cách mạng tháng 8 năm 1945, nước ta đã ban hành những văn bản pháp luật hình sự quy định việc trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa như: Sắc lệnh số 26-SL ngày 25/2/1946 về các tội phá hoại công sản; Sắc lệnh số 223-SL ngày 27/11/1946 về tội biển thủ công quỹ; Sắc lệnh số 12-SL ngày 12/3/1949 về tội trộm cắp tài sản quốc phòng trong thời chiến; Sắc lệnh số 68-SL ngày 18/6/1949 về bảo vệ các công trình thủy nông; Sắc lệnh 267-SL ngày 15/6/1956 về các âm mưu và hành động phá hoại tài sản của Nhà nước, của Hợp tác xã và của nhân dân làm cản trở việc chính sách, kế hoạch Nhà nước… Bên cạnh đó, Nhà nước ta cũng quan tâm tới việc bảo vệ các tài sản riêng của công dân bằng việc ban hành Thông tư 442-TTg ngày 19/1/1955 của Thủ tướng Chính phủ về một số tội phạm. Trong đó có đề cập tới tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tuy nhiên mới nêu tội danh mà chưa mô tả được cụ thể hành vi phạm tội [31]. Do yêu cầu khách quan và nhằm tăng cường pháp chế
  • 17. 10 xã hội chủ nghĩa, đấu tranh bảo vệ có hiệu quả tài sản xã hội chủ nghĩa và công dân. Tòa án nhân dân tối cao cũng đã có nhiều văn bản hướng dẫn việc vận dụng các quy phạm pháp luật vào công tác xét xử, ngày 21/10/1970 Nhà nước ta đã thông qua hai pháp lệnh mới. - Pháp lệnh thứ nhất là: Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa do Lệnh số 149-LCT ngày 23/10/1970 của Chủ tịch nước công bố. - Pháp lệnh thứ hai là: Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân do Lệnh số 150 - LCT ngày 23/10/1970 của Chủ tịch nước công bố. Hai pháp lệnh trên đã thay thế các luật lệ cũ về các tội phạm xâm phạm sở hữu. Trong cả hai pháp lệnh này hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản cũng được quy định với hai tội danh cụ thể tương ứng với hai hình thức sở hữu được quy định lúc đó là sở hữu tài sản xã hội chủ nghĩa và sở hữu tài sản riêng của công dân. Về cơ bản hai tội trên đều có hành vi giống nhau đó là hành vi gian dối chiếm đoạt tài sản đang do người khác quản lý. Thủ đoạn gian dối có thể bằng cách dùng mọi mánh khóe, bịp bợm, bằng lời nói, giả mạo giấy tờ, giả danh cán bộ, giả mạo tổ chức,... Làm cho người quản lý tài sản tin mà giao nhầm tài sản đó cho người phạm tội Với những hành vi có cùng tính chất nhưng lại tác động lên đối tượng là hai loại tài sản khác nhau đó là tài sản xã hội chủ nghĩa và tài sản của công dân nên được quy định thành hai tội khác nhau trong hai pháp lệnh. Tuy nhiên ở pháp lệnh thứ nhất, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa coi lừa đảo là một số hành vi gian dối cụ thể của những người trong khi giao dịch, mua bán với cơ quan nhà nước hay hợp tác xã đã cố ý dùng mánh khóe gian lận thông thường như cân, đo, đong, đếm, tính sai hoặc bằng cách khác để
  • 18. 11 chiếm đoạt tài sản của cơ quan nhà nước hoặc hợp tác xã mà mình giao dịch. Còn ở pháp lệnh thứ hai, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản riêng của công dân chỉ quy định tôi phạm một cách chung chung: "kẻ nào dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản riêng của công dân…" trong khi những hành vi gian lận bằng cách: cân, đo, đong, đếm, tính gian, không chấp hành chính sách giá cả đã quy định, đánh tráo hàng…" được tách ra khỏi tội lừa đảo để quy định thành một tội riêng tại Điều 10 Pháp lệnh là "Tội gian lận để chiếm đoạt tài sản riêng của khách hàng". Sau ngày 30/4/1975 thống nhất đất nước, Nhà nước ta đã ban hành thêm một số văn bản pháp luật hình sự mới trừng trị các tội xâm phạm sở hữu. Cụ thể ở miền Nam, Hội đồng Chính phủ cách mạng lâm thời ban hành Sắc lệnh số 03-SL/76 ngày 15/3/1976 quy định về tội phạm và hình phạt. Tại Điểm b, Điều 4 Sắc luật số 03-SL/76 quy định như sau: Phạm các tội chiếm đoạt tài sản khác như trộm cắp, tham ô, lừa đảo, bội tín, cướp giật, cưỡng đoạt, chiếm giữ trái phép thì bị phạt tù từ 6 tháng đến 7 năm. Trường hợp nghiêm trọng thì thì bị phạt tù đến 15 năm. Phạm tội trộm cắp, tham ô, lừa đảo mà số tài sản chiếm đoạt rất lớn hoặc có nhiều tình tiết nghiêm trọng, hoặc gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình. Điều 8 Sắc luật 03-Sl/76 quy định về tội xâm phạm đến tài sản riêng của công dân như sau: Phạm tội cướp tài sản riêng của công dân thì bị phạt tù từ 2 năm đến 12 năm. Trường hợp nghiêm trọng thì bị phạt tù đến 20 năm, từ chung thân hoặc tử hình. Phạm các tội chiếm đoạt khác như trộm cắp, lừa đảo, bội tín, cướp giật, chiếm giữ trái phép thì bị phạt tù từ 3 tháng đến 3 năm. Trường hợp nghiêm trọng thì bị phạt tù đến 10 năm.
  • 19. 12 Như vậy, ở thời điểm này trên hai miền Nam , Bắc tồn tại hai loại văn bản pháp luật khác nhau cùng xử lý về một tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản đó là: Hai pháp lệnh ngày 21/10/1970 và Sắc luật số 03-SL/76 ngày 15/3/1976. Nội dung cơ bản của các văn bản này đều thống nhất về tội danh và đường lối xử lý. Tuy nhiên so với các pháp lệnh, thì các quy định của Sắc luật chỉ nêu tên tội danh mà không quy định cụ thể dấu hiệu pháp lý của tội phạm. Để áp dụng thống nhất các văn bản pháp luật này, Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Chỉ thị số 54/TATC ngày 6/7/1977 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn việc thi hành pháp luật thống nhất thì việc áp dụng pháp luật đối với hành vi phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được thống nhất như sau: Ở miền Bắc vẫn áp dụng hai pháp lệnh ngày 21/10/1970. Ở miền Nam thì áp dụng Sắc luật số 03 là chính, có tham khảo điều khoản tương ứng của Pháp lệnh ngày 21/10/1970 để nắm rõ hơn dấu hiệu các tội phạm và áp dụng các hình phạt hợp lý hơn. Như vậy, trong giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi Bộ luật hình sự năm 1985 có hiệu lực, pháp luật hình sự đã có quy định về loại tội phạm có hành vi lừa đảo để chiếm đoạt tài sản, tuy nhiên do có nhiều loại văn bản được ban hành và áp dụng ở hai miền Nam, Bắc khác nhau nên không tránh khỏi những bất cập nhất định, nguyên tắc pháp chế khó được thực hiện. Vì vậy cần phải pháp điển hóa các quy định trong các văn bản pháp luật này để đảm bảo tính thống nhất [24]. Bộ luật hình sự 1985, có hiệu lực từ ngày 01/1/1986 đã ra đời đáp ứng yêu cầu đó. 1.1.2. Từ năm 1986 đến trƣớc khi sửa đổi toàn diện Bộ luật hình sự vào năm 1999 Ngày 27/6/1985 Bộ luật hình sự đã được Quốc hội khóa VI ban hành và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/1/1986 đã khắc phục được tình trạng các văn bản pháp luật chồng chéo, không thống nhất trước đó. Tăng cường được
  • 20. 13 tính pháp chế, đồng thời bảo vệ được quyền tài sản của công dân. Sự ra đời của Bộ luật hình sự là sự pháp điển hóa các quy định về tội phạm và hình phạt từ năm 1945 đến năm 1985. Qua nghiên cứu các quy định của Bộ luật hình sự thời kỳ này về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, chúng tôi nhận thấy, loại tội phạm này được phát triển theo hướng: tiếp tục có sự ghi nhận và có sự phân biệt giữa quan hệ sở hữu xã hội chủ nghĩa và sở hữu riêng của công dân; mức hình phạt ngày càng được tăng nặng cho phù hợp với tình hình tội phạm và các dấu hiệu pháp lý và các tình tiết định khung tăng nặng ngày càng được hoàn thiện hơn. * Tiếp tục đề cao chính sách hình sự bảo vệ tốt hơn quan hệ sở hữu xã hội chủ nghĩa Theo quy định của Bộ luật hình sự 1985 thì tội xâm phạm sở hữu có kế thừa và phát triển các văn bản pháp luật trước đó. Do đề cao sở hữu nhà Nước và tập thể, chưa thật sự coi trọng đến sở hữu tư nhân nên trong giai đoạn này hành vi xâm phạm tài sản Nhà nước luôn được coi là nghiêm trọng hơn xâm hại sở hữu tư nhân nên được các nhà lập pháp lúc bấy giờ quy định ở hai chương khác nhau. Cụ thể: Chương IV là các tội xâm phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa và chương V là các tội xâm phạm sở hữu công dân. Có sự quy định như vậy là vì Bộ luật hình sự 1985 ra đời trong bối cảnh nền kinh tế nước ta lúc đó chỉ có hai thành phần kinh tế chủ yếu là kinh tế quốc doanh và hợp tác xã. Được quản lý và điều hành theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung, thống nhất từ trung ương đến cơ sở. Trên cơ sở kế thừa quy định của hai pháp lệnh ngày 21/10/1970 thì vẫn được quy định là hai tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa" và tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản riêng của công dân" cụ thể như sau: Điều 134: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa: 1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 05 năm.
  • 21. 14 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 03 năm đến 12 năm: a. Có tổ chức b. Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm c. Chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn d. Tái phạm nguy hiểm 3. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nguy hiểm thì bị phạt tù từ 10 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân [15]. Điều 157: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản công dân: 1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác thì bị phạt tù từ 03 tháng đến 03 năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 02 năm đến 10 năm: a. Có tổ chức b. Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm c. Chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn d. Tái phạm nguy hiểm 3. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nguy hiểm thì bị phạt tù từ 7 năm đến 15 năm [15]. * Các dấu hiệu pháp lý của tội phạm ngày càng được bổ sung hoàn thiện hơn So với các điều luật tương ứng của các văn bản pháp luật trước năm 1985, Điều 134 Bộ luật hình sự 1985 đã có hai thay đổi quan trọng đó là Bộ luật hình sự quy định rõ ràng hơn dấu hiệu khách quan của hành vi phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa. Trên thực tế, có thể nói sự sơ hở trong công tác quản lý kinh tế cũng như một số khuyết điểm về kỹ thuật lập pháp, đã tạo điều kiện thuận lợi cho các tội phạm kinh tế và các tội xâm phạm
  • 22. 15 sở hữu nảy sinh và phát triển. Để đáp ứng yêu cầu của công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng, liên tiếp trong 04 năm, 1990, 1991, 1993 và 1997, Bộ luật hình sự 1985 đã được sửa đổi bổ sung, trong đó có 02 lần sửa đổi bổ sung nhằm hoàn thiện một bước các dấu hiệu pháp lý của loại tội phạm này khi đất nước đang bắt đầu chuyển mình từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường. Cụ thể: Lần sửa đổi thứ nhất năm 1990 có bổ sung vào Điểm a khoản 2 Điều 134 và Điều 157 ngoài quy định "có tổ chức" còn thêm tình tiết "hoặc có tính chất chuyên nghiệp". Do đó Điểm a Khoản 2 Điều 134 và Điều 157 được quy định như sau: "Có tổ chức hoặc có tính chất chuyên nghiệp". Lần sửa đổi thứ hai, năm 1993. Xuất phát từ thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm cho thấy, nhiều tội phạm đã thực hiện hành vi phạm tội thông qua việc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức để dễ dàng tạo được niềm tin đối với nạn nhân, đồng thời trong nền kinh tế thị trường, nhiều trường hợp hành vi phạm tội đã gây ra hậu quả đặc biệt nghiêm trọng (lớn hơn rất nhiều lần so với những dự liệu ban đầu của các nhà lập pháp, do đó năm 1993 có sự sửa đổi, bổ sung vào khoản 2 Điều 134 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa thêm tình tiết định khung tăng nặng là: Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;gây hậu quả nghiêm trọng.cụ thể như sau: 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 03 năm đến 12 năm: a. Có tổ chức b. Có tính chất chuyên nghiệp c. Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm d. Chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn e. Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức f. Gây hậu quả nghiêm trọng
  • 23. 16 g. Tái phạm nguy hiểm [17]. Trong lần sửa đổi năm 1997, Bộ luật hình sự đã bổ sung thêm một điều (Điều 134 a) quy định tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn lừa đảo chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa cụ thể như sau: 1. Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa có giá trị từ năm triệu đồng đến dưới một trăm triệu đồng hoặc dưới năm triệu đồng nhưng gây hậu qủa nghiêm trọng, vi phạm nhiều lần hoặc đã bị xử lý kỷ luật mà còn vi phạm, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm: a. Có tổ chức b. Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm c. Tài sản có giá trị từ một trăm triệu đồng đến dưới ba trăm triệu đồng d. Phạm tội nhiều lần e. Gây hậu quả nghiêm trọng 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười lăm năm đến hai mươi năm: a. Tài sản có giá trị từ ba trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng. b. Có nhiều tình tiết quy định tại khoản 2 Điều này. c. Gây hậu quả rất nghiêm trọng 4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù chung thân hoặc tử hình: a. Tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên. b. Có nhiều tình tiết quy định tại khoản 3 Điều này. c. Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng [18]. * Mức hình phạt áp dụng ngày càng có xu hướng nghiêm khắc hơn
  • 24. 17 Qua nghiên cứu cho thấy, so với các điều luật tương ứng của các văn bản pháp luật trước năm 1985 mặc dù Điều 134 Bộ luật hình sự bỏ hình phạt tử hình áp dụng đối với người phạm tội ngay cả trong những trường hợp đặc biệt nguy hiểm. Tuy nhiên, giai đoạn giữa những năm 80 của thế kỷ trước, nướcta có những bước phát triển lớn trong lĩnh vực kinh tế. Quá trình chuyển đổi từ kinh tế quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường đặt ra yêu cầu đảm bảo sự bình đẳng tham gia của các thành phần kinh tế. Ngoài kinh tế nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo, các thành phần kinh tế khác như: kinh tế tư nhân, hợp tác xã, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng dần được thừa nhận và ngày càng chiếm một vị trí quan trọng hơn trong đời sống kinh tế, do đó, ngay lần sửa đổi đầu tiên vào năm 1991, các nhà lập pháp hình sự Việt Nam đã nâng mức hình phạt tối đa lên tử hình. Cụ thể: Khoản 3 Điều 134 tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa: "Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình" [16]. Đối với tội tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản công dân (Điều 157) trong lần sửa đổi đầu tiên, các nhà lập pháp hình sự đã tăng mức hình phạt cao nhất đối với tội này từ 10 năm đến 15 năm áp dụng trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng. Tuy vậy, chỉ trong một thời gian ngắn, năm 1991 hình phạt tử hình lại được áp dụng. Khoản 3 Điều 157 như sau: 1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác thì bị phạt tù từ 03 tháng đến 05 năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 03 năm đến 12 năm: a. Có tổ chức hoặc có tính chất chuyên nghiệp b. Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm c. Chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn
  • 25. 18 d. Tái phạm nguy hiểm 3. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nguy hiểm thì bị phạt tù từ 10 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình [16]. Như vậy Bộ luật hình sự sửa đổi, bổ sung năm 1991 khi quy định hình phạt cho hai tội trên đều cùng quy định hình phạt cao nhất là tử hình. 1.1.3. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong lần sửa đổi toàn diện vào năm 1999 Do chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong thời kỳ đổi mới là xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần dựa trên cơ sở nhiều hình thức sở hữu khác nhau, vận hành theo cơ chế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Để làm được điều này, Nhà nước chủ trường, thông qua hệ thống pháp luật bảo đảm là các thành phần kinh tế được đối xử và bảo vệ ngang bằng trước pháp luật. Do đó, việc chia hai nhóm tội xâm hại quan hệ sở hữu tỏ ra không còn phù hợp vì điều này không phù hợp với bản chất của kinh tế thị trường - đòi hỏi một sự đối sử bình đẳng của các thành phần kinh tế cùng tham gia vào quá trình kinh tế. Trước tình hình đó, Bộ luật hình sự 1985 mặc dù đã qua 4 lần sửa đổi, bổ sung vẫn duy trì hai chương về các tội xâm phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa và các tội xâm phạm tài sản của công dân. Mặt khác, sự quy định hai nhóm tội xâm phạm đến hai loại quan hệ sở hữu khác nhau đã nảy sinh ra những bất cập. Trong nhiều trường hợp, người phạm tội chỉ quan tâm đến tài sản và giá trị tài sản mà không quan tâm đến nguồn gốc tài sản thuộc sở hữu nào, nên gây khó khăn cho các cơ quan tố tụng khi xác định tội danh cho đối với người phạm tội. Quan niệm về định tội danh theo ý thức chủ quan của người phạm tội, tuy giải quyết được một phần các vấn đề trước mắt là đáp ứng yêu cầu coi trọng bảo vệ sở hữu xã hội chủ nghĩa, nhưng rõ ràng không đảm bảo tính khoa học, nhất là trong trường hợp không xác định được rõ ý thức chủ quan
  • 26. 19 của người phạm tội hoặc trong trường hợp người phạm tội có sự lẫn lộn giữa sở hữu xã hội chủ nghĩa và sở hữu riêng của công dân (cùng một hành vi xâm hại đến hai loại tài sản thuộc hai nhóm quan hệ sở hữu khác nhau). Để phù hợp với chính sách kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước ta trong thời kỳ đổi mới, Bộ luật hình sự 1999 đã ra đời và đã nhập hai chương của Bộ luật hình sự 1985 thành một chương với tên gọi "Các tội xâm phạm sở hữu". Có thể nói, việc nhập hai chương này làm một là một cuộc đấu tranh giữa hai luồng tư tưởng cũ và mới ngay trong chính các nhà lập pháp Việt Nam thời bấy giờ. * Tư tưởng phân biệt hai loại quan hệ sở hữu tuy đã được khắc phục nhưng những ảnh hưởng của nó vẫn còn tồn tại trong một vài quy định của BLHS Mặc dù được coi là lần sửa đổi toàn diện, nhưng các nhà lập pháp hình sự thời kỳ này vẫn muốn duy trì hai loại tội lừa đảo đó là: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 139 Bộ luật hình sự 1999 (là tội được nhập từ tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa tại Điều 134 và Tội lừa đảo chiếm đoạttài sản công dân quy định tại Điều 157) và tội lợi dụng chức vụ quyền hạn lừa đảo chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa quy định tại Điều 134a Bộ luật hình sự. Theo đó, Điều 139 Bộ luật hình sự 1999 quy định về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản quy định: Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ năm trăm nghìn đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm [19].
  • 27. 20 Như vậy so với Bộ luật hình sự 1985 thì Điều 139 Bộ luật hình sự 1999 quy đình về hình phạt vẫn nghiêm khắc, vì mức cao nhất khung hình phạt của tội này là tử hình, còn các mức hình phạt khác có thể tăng lên hoặc giảm xuống so với quy định của Bộ luật hình sự 1985. * Yếu tố định lượng đã được sử dụng để phân biệt giữa hành vi phạm tội là đảo và hành vi lừa đảo nhưng chỉ được coi là vi phạm hành chính và bị xử phạt hành chính Đây là vấn đề đã và đang gây nhiều tranh cãi trong giới chuyên gia luật hình sự hiện nay, tuy nhiên, quan điểm coi dấu hiệu định lượng là một căn cứ để phân biệt giữa tội phạm và vi phạm hành chính đáp ứng được yêu cầu chính trị là chống sự lạm dụng của cơ quan tố tụng. Theo đó, các tội xâm phạm sở hữu hầu hết được lấy mức khởi điểm là từ 500 000 đồng trở lên để làm căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự. Cũng theo đó, tùy theo giá trị tài sản mà mức hình phạt có thể thay đổi theo các khung hình phạt khác nhau. Như vậy, trong lần sửa đổi toàn diện BLHS lần này, nếu giá trị tài sản chiếm đoạt từ 500 000đ trở lên thì được coi là tội phạm. Dưới 500 000đ được xem là vi phạm hành chính. Tuy nhiên, gianh giới này không phải là tuyệt đối khi mà giá trị tài sản mặc dù dưới 500 000đ nhưng người phạm tội lại thuộc một trong những trường hợp “có nhân thân xấu” thì cũng có thể bị coi là tội phạm. * Coi đặc điểm xấu về nhân thân là dấu hiệu cấu thành tội phạm Đây cũng là vấn đề còn gây nhiều tranh cãi cho đến ngày nay. Theo ý kiến của nhiều chuyên gia, việc lấy đặc điểm xấu về nhân thân người phạm tội để là dấu hiệu định tội là không phù hợp. Theo GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa: Trong Luâ ̣t hình sự , nguyên tắc vẫn được thừ a nhâ ̣n là : Mô ̣t người không thể bi ̣xử pha ̣t hình sự về nhân thân xấu của họ . Theo nguyên tắc này , Luâ ̣t hình sự không thể quy đi ̣nh đă ̣c điểm xấu về nhân thân là dấu hiê ̣u đi ̣nh
  • 28. 21 tội. Đặc điểm này chỉ có thể được quy định là dấu hiệu định khung hình phạt hoă ̣c là tình tiết tăng nă ̣ng trách nhiệm hình sự [11]. Theo đó, không chỉ riêng tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà nhiều tội phạm khác đã được thiết kế theo mô tuýp: trong trường hợp giá trị tài sản chưa đến 500. 000 đồng những trước đó "đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm" thì vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự (nghĩa là vẫn bị coi là tội phạm). 1.1.4. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong lần sửa đổi, bổ sung năm 2009 Sau nhiều năm thi hành, Bộ luật hình sự 1999 đã góp phần quan trọng vào việc giữ vững an ninh, chính trị, đấu tranh phòng chống tội phạm, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Tuy nhiên cho đến nay, Bộ luật hình sự 1999 đã bộc lộ nhiều bất cập, trong đó điểm đáng lưu ý là Bộ luật hình sự 1999 chưa thể chế hóa được những quan điểm, chủ trương mới của Đảng và Nhà nước ta về cải cách tư pháp được thể hiện trong Nghị quyết số 08-NQ/TW và Nghị quyết số 49/NQ-TW của Bộ Chính trị. Trong khi sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đã đặt ra cho hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng phải là công cụ pháp lý nhằm thúc đẩy và bảo vệ cho các nền kinh tế phát triển. Mặt khác, bên cạnh xu hướng chung hội nhập quốc tế, có lẽ đã đến lúc cần nghiên cứu lại chính sách hình sự đối với một số loại tội phạm cụ thể, nhất là khi chúng ta đã áp dụng một thời gian khá dài chính sách hình sự khá nghiêm khắc (hình phạt tử hình) nhưng tình hình tội phạm không hề giảm mà người lại, loại tội phạm này còn có tính chất gia tăng và quy mô ngày càng nghiêm trọng. Điều này cho phép chúng ta nhận thấy rằng: dường như biện pháp trừng trị hà khắc không phải là liều thuốc hữu hiệu để có thể làm giảm
  • 29. 22 loại tội phạm này mà cần hướng đến một biện pháp khác làm triệt tiêu động lực và điều kiện phạm tội. Bộ luật hình sự 1999 đã được sửa đổi, bổ sung nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm trong tình hình mới. Ngoài ra, mặt trái của nền kinh tế thị trường cùng với những yếu kém trong quản lý kinh tế của nhà nước là cơ hội để tội phạm lừa đảo phát triển. Thực tiễn đã chứng minh các hành vi lừa đảo chiếm đoạt thuế giá trị gia tăng đặc biệt lớn. Gần đây là hành vi lừa đảo để chiếm đoạt tiền vay trong hoạt động tín dụng, ngân hàng lên đến hàng ngàn tỷ đồng. Đây là những hồi chuông cảnh tỉnh cho các cơ quan Nhà nước trong việc kịp thời hoàn thiện thể chế, nhất là thể chế kinh tế để nhằm ngăn chặn các hành vi nguy hiểm này. Theo đó, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được sửa đổi hai nội dung cơ bản: một là, sửa đổi mức định lượng tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội này là tăng mức từ "năm trăm nghìn đồng" lên mức "hai triệu đồng", và hai là, bỏ hình phạt tử hình, và thay vào đó mức cao nhất của khung hình phạt là "tù chung thân". Sự thay đổi này cho chúng ta thấy chính sách hình sự của Nhà nước về loại tội phạm này một lần nữa lại có sự thay đổi cho phù hợp với công tác đấu tranh phòng chống tội phạm trong tình hình mới, thể hiện rõ quan điểm giảm nhẹ hình phạt có tính hà khắc đối với người phạm tội. Tuy nhiên, trước diễn biến tình hình tội phạm lừa đảo ngày càng nghiêm trọng như đã nói ở trên, nhiều ý kiến đề xuất cần quy định lại hình phạt tử hình tại khoản 4 điều này để tạo nên sự răn đe cần thiết trong quá trình xử lý. 1.2. KHÁI NIỆM, CÁC DẤU HIỆU PHÁP LÝ CỦA TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ HIỆN HÀNH 1.2.1. Khái niệm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản Đến nay, Bộ luật hình sự 1999 đã thi hành được hơn 10 năm và được sửa đổi, bổ sung lần gầy đây nhất vào năm 2009. Theo đó các tội xâm phạm sở hữu được quy định từ Điều 133 đến Điều 145. Bộ luật hình sự không có
  • 30. 23 khái niệm cụ thể thế nào là các tội xâm phạm sở hữu. Khái niệm này chỉ thể hiện trong các tài liệu khoa học. Theo một số chuyên gia, các tội xâm phạm sở hữu như sau: "Các tội xâm phạm sở hữu là hành vi của người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của Nhà nước, tổ chức và cá nhân" [1]. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là một trong các tội xâm phạm sở hữu, vì vậy khái niệm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản phải thỏa mãn khái niệm chung của các tội xâm phạm sở hữu, đồng thời phải thỏa mãn các các dấu hiệu đặc thù nói riêng. Căn cứ vào quy định tại Khoản 1 Điều 139 của Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009: Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm [21]. Như vậy, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là một trong những tội xâm phạm sở hữu, với mục đích chiếm đoạt tài sản của người khác, người phạm tội đã dùng những thủ đoạn gian dối, đưa ra những thông tin sai sự thật, có thể bằng lời nói hoặc hành động khiến có tài sản hoặc người có trách nhiệm trông giữ tài sản vì tin nhầm, tưởng giả là thật, tưởng kẻ gian là người ngay, tự nguyện giao tài sản cho người phạm tội. Từ đó có thể hiểu khái niệm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, do
  • 31. 24 người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý, xâm phạm đến quan hệ sở hữu về tài sản. 1.2.2. Dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản 1.2.2.1. Khách thể của tội phạm Khách thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là quan hệ sở hữu về tài sản, đây là quan hệ xã hội chủ yếu mà hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản xâm hại. Do đặc điểm của hành vi nên tội này chỉ xâm hại đến một khách thể là quan hệ sở hữu tài sản. Đây là điểm khác giữa tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với một số tội xâm phạm sở hữu khác xâm hại đồng thời nhiều khách thể khác nhau như tội cướp tài sản, cướp giật tài sản, bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản… vì các tội phạm này ngoài khách thể là quan hệ sở hữu, người phạm tội còn nhằm đến khách thể quan trọng khác đó là quyền được bảo vệ về tính mạng, sức khỏe của người bị hại. Quan hệ sở hữu là quan hệ trong đó quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản được tôn trọng và bảo vệ. Quan hệ này bị tội phạm gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại thông qua việc làm biến đổi tình trạng bình thường của những đối tượng vật chất (tài sản) là một bộ phận của quan hệ sở hữu. Như mọi hành vi phạm tội khác, hành vi xâm phạm sở hữu cũng có đối tượng tác động cụ thể đó là tài sản. "Tài sản gồm: vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản" [20, Điều 163]. Tài sản là đối tượng của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có thể thuộc bất cứ hình thức sở hữu nào được pháp luật thừa nhận và phải được thể hiện dưới dạng vật chất, vì những gì không thuộc về vật chất thì không thể là đối tượng của hành vi chiếm đoạt. Vì thế, không phải mọi trường hợp của quyền tài sản đều là đối tượng tác động của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Ví dụ: Bản di chúc về quyền thừa kế tài sản của một người thì không phải là đối tượng tác động của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, còn những giấy
  • 32. 25 tờ thể hiện về quyền tài sản như hóa đơn lĩnh hàng… vẫn có thể là đối tượng của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong những trường hợp nhất định. Tuy nhiên cần phải lưu ý rằng, xuất phát từ tính năng, công dụng đặc biệt của tài sản mà một số tài sản không thể được coi là đối tượng của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, mà là đối tượng của hành vi phạm tội khác: Ví dụ: tài nguyên rừng, công trình, phương tiện giao thông vận tải, thông tin liên lạc, các chất ma túy, các loại vũ khí quân dụng…. Như vậy pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng luôn bảo vệ quyền sở hữu hợp pháp và chỉ bảo vệ quyền sở hữu hợp pháp nên về nguyên tắc tài sản được luật hình sự bảo vệ phải là tài sản hợp pháp. Nhưng điều đó không có nghĩa những hành vi xâm phạm tài sản bất hợp pháp khác của công dân không bị coi là tội phạm và vẫn bị coi là trái pháp luật và có thể cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. 1.2.2.2. Mặt khách quan của tội phạm Mặt khách quan của tội phạm là một trong bốn yếu tố của tội phạm, không có mặt khách quan thì cũng không có các yếu tố khác của tội phạm, do vậy cũng không có tội phạm. Mặt khách quan của tội phạm là biểu hiện ra bên ngoài của tội phạm, trong đó hành vi khách quan là biểu hiện cơ bản nhất, các biểu hiện khác như hậu quả của tội phạm, công cụ, phương tiện… cũng chỉ thể hiện khi có hành vi khách quan. Vì vậy việc nghiện cứu những yếu tố thuộc mặt khách quan của tội phạm có ý nghĩa thực tiễn rất lớn. Cụ thể có các dấu hiệu đặc trưng sau: * Dấu hiệu hành vi khách quan Trong mặt khách quan của tội phạm, hành vi nguy hiểm cho xã hội là nội dung cơ bản nhất. Theo quy định của Bộ luật hình sự hiện nay, hành vi nguy hiểm cho xã hội của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thể hiện dưới hai hành vi thực tế là hành vi lừa dối và hành vi chiếm đoạt tài sản.
  • 33. 26 - Hành vi lừa dối: Là hành vi cố ý đưa ra thông tin không đúng sự thật nhằm để người khác tin đó là sự thật, tự nguyện trao tài sản cho người phạm tội. Trên thực tế hành vi gian dối trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được hợp thành bởi hai yếu tố: Thứ nhất, đó là hành vi đưa ra những thông tin gian dối. Hành vi này thể hiện là hành động có chủ đích của người phạm tội. Hành vi này có thể được thực hiện bằng lời nói, hành động hoặc những biểu hiện khác nhằm cung cấp những thông tin sai lệch về sự việc như nói có thành không, ít thành nhiều, xấu thành tốt, giả thành thật... Thứ hai, chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản đã nhầm lẫn, tin tưởng vào những thông tin không đúng sự thật ấy mà trao tài sản cho người phạm tội. Khi giao tài sản, chủ tài sản không biết mình bị lừa dối. Họ có thể phát hiện ra ngay sau khi trao tài sản nhưng bản chất của hành vi chiếm đoạt vẫn dựa trên thủ đoạn lừa dối thì vẫn xử lý về tội này. Cũng cần lưu ý thêm rằng, nếu ngay sau khi trao tài sản, người quản lý tài sản phát hiện và đã thực hiện một số hành động để bắt giữ mà người phạm tội lại sử dụng các thủ đoạn khác (như dùng vũ lực) để chiếm đoạt tài sản cho bằng được thì sẽ xử lý về tội phạm khác. Đây là trường hợp mà khoa học luật hình sự Việt Nam thường gọi là các trường hợp chuyển hóa từ một số tội có tính chất chiếm đoạt sang tội cướp tài sản. Ví dụ: Lê Văn K 35 tuổi là đối tượng nghiện ma túy có quen biết với cháu Phạm Đình P 16 tuổi ở cùng khu phố. Do có ý định muốn chiếm đoạt chiếc xe đạp điện của cháu P để lấy tiền sử dụng ma túy nên vào chiều ngày 10/4/2012 chờ lúc cháu P đi học về K đón ở đầu đường xin đi nhờ xe, thấy K là người quen nên P cho K đi nhờ. Khi đi đến ngõ 102 Trần Đăng Ninh - Thành phố Nam Định K nói dối P là đứng ngoài chờ để K mượn xe đi vào nhà người quen trong ngõ có việc và hẹn 10 phút quay ra, P tin tưởng nên đã
  • 34. 27 cho K mượn xe. Mượn được xe K đi vào ngõ 102 rồi vòng ra ngõ 103 đến hiệu cầm đồ Tuấn A đặt vấn đề cầm cố chiếc xe đạp điện nhưng anh C là chủ hiệu nghi ngờ là xe trộm cắp nên không cầm, K lại đi tìm hiệu cầm đồ khác. Quá 30 phút không thấy K quay lại nên P đi tìm nhưng không thấy nên biết mình bị K lừa, P điện thoại cho người nhà đến đón và chở đi tìm K. Khi đi đến đường Lương Thế Vinh - Thành phố Nam Định P nhìn thấy K đang đi chiếc xe của mình nên nhẩy xuống giữ lại và hô mọi người bắt giữ. Thấy vậy K giật tay P ra nhưng không được, K tiếp tục dùng chân đạp mạnh vào bụng P làm P ngã ra đường, K nhảy lên xe chạy vào trong ngõ. Sau đó K bị quần chúng nhân dân bắt giữ. Như vậy hành vi của K đã chuyển hóa từ lừa đảo chiếm đoạt tài sản sang cướp tài sản. Trong trường hợp người phạm tội có hành vi gian dối nhưng chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản không bị nhầm lẫn, không tự nguyện trao tài sản, mà người phạm tội phải dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác để chiếm đoạt tài sản thì không cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà sẽ cấu thành tội chiếm đoạt có hành vi tương ứng. Nếu chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản không bị nhầm lẫn, không tự nguyện trao tài sản và người phạm tội cũng không có hành động chiếm đoạt nào khác thì có thể người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ở giai đoạn phạm tội chưa đạt [1,tr. 271]. Xét về mặt khách quan hành vi gian dối là hành vi đưa ra những thông tin giả. Về mặt chủ quan, người phạm tội biết đó là thông tin giả nhưng mong muốn người khác tin đó là sự thật. Thủ đoạn để thực hiện rất đa dạng có thể qua lời nói, sử dụng giấy tờ giả, hoặc qua những việc làm cụ thể… Những thủ đoạn thể hiện hành vi này không có ý nghĩa về mặt định tội, bởi đã là hành vi gian dối thì dù được thực hiện bằng thủ đoạn nào cũng đều có thể là hành vi
  • 35. 28 phạm tội của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên việc xem xét hình thức thực hiện có giá trị trong công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm này. Cần lưu ý, thủ đoạn gian dối không phải chỉ có ở tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà còn được quy định ở một số tội phạm, điều khác biệt ở đây là hành vi gian dối trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được thực hiện là nhằm chiếm đoạt tài sản, còn những hành vi lừa dối không hướng tới việc chiếm đoạt tài sản mà nhằm mục đích khác, dù mục đích này có tính tư lợi cũng không cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Ví dụ: hành vi gian dối khi cân, đo, đong, đếm… cấu thành tội lừa dối khách hàng được quy định tại Điều 162 Bộ luật hình sự - Hành vi chiếm đoạt: là hành vi cố ý dịch chuyển một cách trái pháp luật tài sản của người khác thành tài sản của mình.Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được coi là hoàn thành khi có hậu quả xảy ra, kẻ phạm tội chiếm đoạt được tài sản. Hành vi chiếm đoạt trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có hai hình thức cụ thể: Thứ nhất: Nếu tài sản bị chiếm đoạt đang trong sự chiếm hữu của chủ tài sản thì hình thức thể hiện cụ thể của hành vi chiếm đoạt là hành vi nhận tài sản từ người bị lừa dối vì đã tin vào thông tin của người phạm tội nên bị lừa dối đã giao nhầm tài sản. Khi nhận được tài sản cũng là lúc người phạm tội lừa đảo đã làm chủ được tài sản đó trên thực tế và đó cũng là lúc tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được coi là hoàn thành. Ví dụ: Hàng năm chợ Viềng Xuân ở Nam Định họp từ ngày mồng 7 đến hết ngày mồng 8 tháng giêng âm lịch. Vào đêm ngày mồng 7 tháng giêng năm 2012 âm lịch, Trần Văn A thấy có những bãi giữ xe tự phát mở ra ở gần khu vực chợ, ánh sáng tại chỗ soát vé không được sáng rõ, nên A nghĩ cách làm vé xe giả để lấy xe trong bãi giữ xe do Vũ Quang C quản lý. A đã quan sát kỹ đặc điểm vé xe của C giao cho khách và làm vé xe giả số 11 gần giống với vé thật. Sau đó A mang theo một cục phấn trắng đi vào bãi gửi xe, đến
  • 36. 29 cuối bãi xe A xóa số ghi ở yên chiếc xe Dream và viết số 11 vào rồi dắt chiếc xe này ra ngoài và đưa chiếc vé giả cho C, C không biết đó là vé giả nên cho A dắt xe ra bình thường. Lấy được xe A mang đi bán được 3.000.000đ ăn tiêu. Khi có khách đến lấy xe, C kiểm tra lại mới biết bị A dùng vé giả lừa lấy xe. Như vậy A đã phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, hành vi chiếm đoạt tài sản hoàn thành từ khi A dắt xe ra khỏi bãi gửi xe. Thứ hai: Nếu tài sản bị chiếm đoạt đang ở trong sự chiếm hữu của người phạm tội thì hình thức thể hiện của hành vi chiếm đoạt là hành vi giữ lại tài sản đáng nhẽ phải giao cho người bị lừa dối vì đã tin vào thông tin của người phạm tội nên người bị lừa dối đã nhận nhầm tài sản hoặc không nhận. Khi người bị lừa dối nhận nhầm hoặc không nhận tài sản cũng là lúc người phạm tội lừa đảo đã làm chủ được tài sản bị chiếm đoạt và người bị lừa dối đã mất tài sản đó và đó cũng là thời điểm hoàn thành của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Ví dụ: Lê Quốc N là chủ cửa hàng buôn bán đồ gỗ ở Nam Định, N thường xuyên thuê Hoàng Đình H lái xe chở hàng cho khách. Ngày 12/2/ 2012 Q là khách mua hàng nhờ H chuyển cho chị T (là vợ N) 35 triệu đồng tiền hàng, lúc giao nhận tiền giữa H và T, H đã dùng thủ đoạn gian dối khiến T tưởng mình đã nhận đủ 35 triệu đồng và đã ký vào giấy nhận tiền rồi đi về. Khi về nhà T kiểm tra lại tiền thì thấy thiếu 10 triệu đồng và số tiền mà T nhận từ H chỉ có 25 triệu đồng. Như vậy H đã phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, hành vi chiếm đoạt tài sản là hành vi giữ lại số tiền 10 triệu đồng đáng lẽ phải giao cho T. Hành vi gian dối và hành vi chiếm đoạt trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Hành vi gian dối tạo điều kiện cho hành vi chiếm đoạt được thực hiện một cách công khai, dễ dàng. Trong thực
  • 37. 30 tế có những biểu hiện gian dối nhằm mục đích khác không phải là hành vi khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, thủ đoạn gian dối của người phạm tội bao giờ cũng phải có trước, sau đó mới diễn ra việc bàn giao tài sản giữa người bị hại và người phạm tội, nếu thủ đoạn gian dối lại có sau khi người phạm tội nhận được tài sản thì không phaỉ là lừa đảo chiếm đoạt tài sản, mà tùy từng trường hợp cụ thể thủ đoạn gian dối đó có thể là hành vi che giấu tội phạm hoặc là hành vi phạm tội khác như tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Thông thường hành vi chiếm đoạt tài sản xảy ra kế tiếp ngay sau hành vi gian dối, nhưng cũng có trường hợp giữa hai hành vi này lại có khoảng cách nhất định về thời gian. Ở đây cần chú ý tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản chỉ coi là hoàn thành khi hành vi chiếm đoạt xảy ra. Như vậy hành vi khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản tương tự với hành vi khách quan của nhiều tội khác. Vì vậy để định tội danh chính xác phải đặt hành vi khách quan trong mối liên hệ với các yếu tố khác, nghiên cứu một cách toàn diện các yếu tố của cấu thành tội phạm [10]. * Dấu hiệu hậu quả của tội phạm Hậu quả của tội phạm là thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra cho quan hệ xã hội là khách thể bảo vệ của luật hình sự. Thiệt hại gây ra cho khách thể được thể hiện thông qua sự biến đổi tình trạng bình thường của các bộ phận cấu thành quan hệ xã hội là khách thể của tội phạm. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là tội có cấu thành vật chất, nghĩa là trong cấu thành tội phạm có phản ánh dấu hiệu hậu quả nguy hiểm cho xã hội, nhưng hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc, vì có những trường hợp hậu quả chưa xảy ra vẫn có thể cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, ví dụ như trường hợp chuẩn bị phạm tội hoặc phạm tội chưa đạt. Hậu quả của tội phạm được phản ánh trong cấu thành tội phạm thông qua thiệt hại về tài sản mà cụ
  • 38. 31 thể là giá trị tài sản bị chiếm đoạt, chính vì vậy việc xác định tài sản là đối tượng của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là dấu hiệu bắt buộc, đây là dấu hiệu định lượng để xác định cấu thành cơ bản hoặc cấu thành định khung tăng nặng của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Trong cấu thành tội phạm cơ bản của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định ở Khoản 1 Điều 139 Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 thì giá trị tài sản bị chiếm đoạt ở mức 2 triệu đồng là mức nguy hiểm đáng kể làm căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự. Cụ thể nếu tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ 2 triệu đồng trở lên luôn cấu thành tội phạm, còn nếu tài sản bị chiếm đoạt có giá trị dưới 2 triệu đồng thì phải kèm theo là gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà vi phạm mới cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Việc xác định giá trị tài sản bị chiếm đoạt đối với hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xác định trường hợp nào bị truy cứu trách nhiệm hình sự, trường hợp nào chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, cũng như việc áp dụng đúng khung hình phạt. Do đó cần lưu ý một số điểm sau đây trong việc xác định giá trị tài sản đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản: Giá trị tài sản bị chiếm đoạt được xác định căn cứ vào kết luận của Hội đồng định giá do cơ quan tố tụng tiến hành kết luận về giá trị tài sản bị chiếm đoạt. Trong trường hợp tài sản bị xâm phạm không còn nữa, cơ quan điều tra cần lấy lời khai của những người biết về tài sản này để xác định đó là tài sản gì, nhãn mác của tài sản đó, giá trị tài sản đó theo thời giá vào thời điểm tài sản bị xâm phạm, tài sản đó còn bao nhiêu phần trăm giá trị sử dụng… để có kết luận cuối cùng về giá trị tài sản bị xâm phạm.
  • 39. 32 Trong trường hợp có đầy đủ căn cứ chứng minh rằng người có hành vi phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có ý định xâm phạm đến tài sản có giá trị cụ thể theo ý thức chủ quan của họ, thì lấy giá trị tài sản đó để xem xét việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi xâm phạm. Nếu người phạm tội có ý định lừa đảo chiếm đoạt tài sản nhưng không quan tâm đến giá trị của tài sản bị chiếm đoạt thì căn cứ vào giá trị thực của tài sản bị xâm phạm để xem xét việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Trong trường hợp một người thực hiện nhiều lần cùng loại hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản nhưng mỗi lần giá trị tài sản bị chiếm đoạt dưới mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự và không thuộc một trong các trường hợp khác để truy cứu trách nhiệm hình sự như: gây hậu quả nghiêm trọng, đã bị xử phạt hành chính, đã bị kết án nhưng chưa xóa án tích…, đồng thời trong các hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản đó chưa có lần nào bị xử phạt hành chính và chưa hết thời hiệu xử phạt hành chính. Nếu tổng giá trị tài sản của các lần chiếm đoạt bằng hoặc trên mức 2 triệu đồng thì người thực hiện hành vi phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự đối với tổng giá trị tài sản của các lần bị xâm phạm, nếu: (i) Các hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản được thực hiện một cách liên tục, kế tiếp nhau về mặt thời gian; (ii) Việc thực hiện các hành vi chiếm đoạt tài sản có tính chất chuyên nghiệp, lấy tài sản chiếm đoạt được làm nguồn sống chính và (iii) Với mục đích chiếm đoạt, nhưng do điều kiện khách quan nên việc lừa đảo chiếm đoạt tài sản phải được thực hiện nhiều lần cho nên giá trị tài sản bị chiếm đoạt mỗi lần dưới 2 triệu đồng. Ngoài hậu quả là giá trị tài sản bị chiếm đoạt là dấu hiệu định tội được phân tích ở trên thì thức tế hành vi phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản còn gây hậu quả nguy hiểm khác, đó là những thiệt hại về tài sản, về thể chất hoặc những hậu quả phi vật chất khác diễn ra ở những cấp độ khác nhau thể hiện
  • 40. 33 mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Những hậu qủa này thường phát sinh do việc tài sản bị chiếm đoạt (có mối quan hệ nhân quả giữa việc tài sản bị chiếm đoạt và hậu quả). Do đó việc xác định hậu quả là thiệt hại về tài sản thì phải xảy ra ngoài giá trị tài sản bị chiếm đoạt. Hậu quả phi vật chất ở đây được biểu hiện là những ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, gây ảnh hưởng lớn đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Những hậu quả phát sinh này, tùy từng vụ án, tình hình cụ thể mà các cơ quan tiến hành tố tụng xác định đã gây hậu quả nghiêm trọng, gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng để làm căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự theo Khoản 1 Điều 139 Bộ luật hình sự hay để làm căn cứ quyết định hình phạt theo Điểm g Khoản 2, Điểm b Khoản 3 và 4 Điều 139 Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009. * Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả của tội phạm Việc định tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản không chỉ xác định hậu quả là giá trị tài sản bị chiếm đoạt mà còn đòi hỏi làm rõ mối quan hệ nhân quả giữa hành vi lừa đảo với hậu quả đó. Vì con người chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về hậu quả nguy hiểm cho xã hội khi hậu quả đó do chính hành vi của mình gây ra. Mối quan hệ giữa hành vi vi phạm và hậu qủa tội phạm được biểu hiện như sau: - Hành vi gian dối phải diễn ra trước hành vi chiếm đoạt - Hành vi gian dối là cơ sở chủ yếu để quyết định việc chiếm đoạt được tài sản của người phạm tội. Vì vậy việc chiếm đoạt được tài sản của người phạm tội có thể gây ra những hậu quả nguy hiểm khác cho xã hội nên việc xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả trên không chỉ có ý nghĩa về mặt định tội mà còn có ý nghĩa trong quyết định hình phạt.
  • 41. 34 1.2.2.3. Chủ thể của tội phạm "Chủ thể của tội phạm là người có năng lực trách nhiệm hình sự, đạt độ tuổi luật định và đã thực hiện hành vi phạm tội cụ thể" [2]. Người có năng lực trách nhiệm hình sự là người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có khả năng nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình và có khả năng điều khiển được hành vi ấy. Theo quy định của luật hình sự Việt Nam, người có năng lực trách nhiệm hình sự là người đã đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và không thuộc trường hợp ở trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 13, Bộ luật hình sự. Về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 12 Bộ luật hình sự cụ thể như sau: 1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm. 2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng [19]. Vì vậy, theo quy định của Điều 12 Bộ luật hình sự chủ thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản phải: Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự trong mọi trường hợp lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định từ khoản 1 đến khoản 4 Điều 139 Bộ luật hình sự. Người từ đủ 14 tuổi trở lên đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nếu có hành vi thuộc khoản 3, khoản 4 Điều 139 Bộ luật hình sự. Do chủ thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là chủ thể thường nên không có ngoại lệ đối với người nước ngoài, người không quốc tịch khi thực hiện hành vi lừa đảo trên lãnh thổ Việt Nam. Trừ một số người được hưởng
  • 42. 35 quyền miễn trừ tư pháp, trách nhiệm hình sự của họ được giải quyết bằng con đường ngoại giao. Ngoài ra khi nghiên cứu về chủ thể của tội phạm này cũng cần chú ý tới đặc điểm nhân thân của người phạm tội như: nghề nghiệp, hoàn cảnh gia đình, trình độ văn hóa, kinh tế, ý thức pháp luật, tiền án, tiền sự… Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc xác định trách nhiệm hình sự của người phạm tội cũng như các biện pháp đấu tranh phòng người tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản. 1.2.2.4. Mặt chủ quan của tội phạm "Tội phạm là một thể thống nhất giữa mặt khách quan và mặt chủ quan. Nếu mặt khách quan là biểu hiện bên ngoài của tội phạm thì mặt chủ quan là hoạt động tâm lý bên trong của tội phạm, bao gồm: lỗi, động cơ và mục đích phạm tội" [2]. * Dấu hiệu lỗi Trong luật hình sự Việt Nam, nguyên tắc lỗi được coi là nguyên tắc cơ bản. Theo nguyên tắc này, luật hình sự Việt Nam không chấp nhận việc truy cứu trách nhiệm hình sự con người chỉ trên cơ sở hành vi khách quan mà không xét đến lỗi của họ. Điều 139 Bộ luật hình sự quy định về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nhưng không nêu dấu hiệu lỗi của người phạm tội. Tuy nhiên xét theo bản chất và tính chất của hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì về mặt chủ quan của tội phạm được thể hiện do lỗi cố ý trực tiếp với mục đích chiếm đoạt tài sản. Lỗi cố ý trực tiếp trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được biểu hiện: Về lý trí: Người phạm tội nhận thức rõ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà mình thực hiện là xâm phạm sở hữu của người khác, nhận thức rõ thủ đoạn đưa ra là hoàn toàn không có thật, nhằm làm cho người khác
  • 43. 36 tin đó là sự thật. Người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trước khi thực hiện hành vi lừa dối đã có ý thức chiếm đoạt được tài sản của người khác. Về ý chí: Người phạm tội mong muốn hành vi lừa dối đưa đến kết quả là chiếm đoạt được tài sản của người khác. * Dấu hiệu động cơ, mục đích phạm tội Mục đích phạm tội là kết quả trong ý thức chủ quan mà người phạm tội đặt ra phải đạt được khi thực hiện hành vi phạm tội. Mục đích của người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là mong muốn chiếm đoạt được tài sản. Mục đích này bao giờ cũng có trước khi thực hiện hành vi phạm tội. Có thể nói mục đích chiếm đoạt tài sản là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên, người phạm tội có thể có những mục đích khác cùng với mục đích chiếm đoạt hay chấp nhận mục đích chiếm đoạt của người đồng phạm khác thì người phạm tội cũng bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Động cơ phạm tội được hiểu là động lực bên trong thúc đẩy người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội. Người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có thể có nhiều động cơ khác nhau khi thực hiện hành vi phạm tội, có thể để thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng cá nhân, do tham lam… và đó là động cơ tư lợi. Đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản dấu hiệu động cơ phạm tội không có ý nghĩa đối với việc định tội danh, chúng chỉ có ý nghĩa trong quyết định hình phạt. 1.3. PHÂN BIỆT TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN VỚI MỘT SỐ TỘI PHẠM KHÁC CÓ LIÊN QUAN Qua phân tích các dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản chúng ta thấy đặc trưng nổi bật của tội phạm này là bằng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản. Song trong thực tế, nhận thức thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản không phải trường hợp nào cũng rõ ràng và thống nhất. Nhiều tội
  • 44. 37 cũng có hành vi gian dối như tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, Tội lừa dối khách hàng, tội đánh bạc... Vì vậy cần phải phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với một số tội khác để nâng cao hiệu quả áp dụng trong thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm này. 1.3.1. Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 140 Bộ luật hình sự) Ở hai tội này về cơ bản là có các yếu tố khách thể, mặt chủ quan, chủ thể của tội phạm là giống nhau, chỉ khác nhau ở mặt khách quan. Do vậy chỉ cần phân biệt ở mặt khách quan mà chủ yếu là thông qua hình thức hợp đồng mà có sự gian dối. Ở tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản người phạm tội có mục đích chiếm đoạt tài sản trước khi thực hiện việc giao kết hợp đồng. Việc giao kết hợp đồng chẳng qua là phương thức để chiếm đoạt tài sản. Hợp đồng này hoàn toàn là giả mạo nhằm tạo lòng tin để người bị hại giao tài sản. Khi người phạm tội nhận được tài sản từ hợp đồng cũng là thời điểm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản hoàn thành. Hành vi giao kết hợp đồng giả tạo là hành vi lừa dối và hành vi nhận tài sản là hành vi chiếm đoạt được tài sản. Hành vi gian dối của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là cơ sở quyết định việc chiếm đoạt được tài sản của người phạm tội nên hành vi gian dối là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Ở tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, ban đầu người phạm tội chưa có ý định chiếm đoạt tài sản, việc giao kết hợp đồng chỉ nhằm mục đích vay, mượn, thuê… được tài sản. Người phạm tội nhận tài sản một cách ngay thẳng, hợp pháp thông qua hợp đồng đã giao kết trước và trong khi nhận tài sản không có ý thức chiếm đoạt tài sản. Do đó việc giao kết hợp đồng hay nhận tài sản từ hợp đồng đã giao kết không bị coi là hành vi phạm tội. Chỉ sau đó, khi đến thời hạn nhất định hoặc thời hạn phải trả tài sản mới có ý định
  • 45. 38 không trả lại hoặc sử dụng tài sản vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến mất khả năng chi trả hoặc bỏ trốn… nhằm chiếm đoạt tài sản. Như vậy mục đích chiếm đoạt nảy sinh sau khi đã nhận được tài sản trên cơ sở hợp đồng. Để thực hiện ý định chiếm đoạt, người phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có thể có hành vi gian dối như giả đánh mất, đánh tráo tài sản, rút bớt tài sản. Những hành vi gian dối này chỉ là để che giấu hành vi chiếm đoạt. Hành vi gian dối không phải là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Như vậy, việc xem xét người phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản hay tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản phải xem xét đến những căn cứ chứng minh người phạm tội ban đầu trước khi giao kết hợp đồng đã có ý định chiếm đoạt tài sản hay chưa. Người phạm tội lạm dụng chiếm đoạt tài sản dựa vào lòng tin sẵn có của người có tài sản. Còn người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản dựa vào lòng tin do hành vi gian dối tạo ra. 1.3.2. Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tội lừa dối khách hàng (Điều 162 Bộ luật hình sự) Có thể nói, về bản chất của tội lừa dối khách hàng là lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Tội lừa dối khách hàng vẫn tồn tại trong Bộ luật hình sự hiện hành là biểu hiện của sự rơi rớt của tư tưởng và quan điểm lập pháp trong thời kỳ duy trì nền kinh tế kế hoạch hóa, khi mà chế độ tem phiếu, phân phối hàng hóa chỉ được thực hiện thông qua hệ thống các cửa hàng thương nghiệp hoặc cửa hàng thực phẩm của Nhà nước. Hành vi này không phù hợp trong nền kinh tế thị trường và nếu xảy ra hành vi này thì phải bị xét xử về hành vi lừa đảo chiếm doạt tài sản. Tuy nhiên, trong Bộ luật hình sự, chúng ta vẫn có thể phân biệt hai tội này với các dấu hiệu sau: - Về chủ thể của tội phạm