SlideShare a Scribd company logo
1 of 120
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
ĐINH HOÀNG QUANG
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NHIỆM VỤ,
QUYỀN HẠN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
TRONG KIỂM SÁT THI HÀNH ÁN PHẠT TÙ
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2013
2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
ĐINH HOÀNG QUANG
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NHIỆM VỤ,
QUYỀN HẠN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
TRONG KIỂM SÁT THI HÀNH ÁN PHẠT TÙ
Chuyên ngành : Luật hình sự
Mã số : 60 38 40
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Đỗ Ngọc Quang
HÀ NỘI - 2013
3
Lêi cam ®oan
T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn
cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ
trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh
x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña
luËn v¨n ch-a tõng ®-îc ai c«ng bè trong bÊt kú
c«ng tr×nh nµo kh¸c.
T¸c gi¶ luËn v¨n
§inh Hoµng Quang
4
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THI HÀNH ÁN PHẠT TÙ
VÀ KIỂM SÁT THI HÀNH ÁN PHẠT TÙ
7
1.1. Một số vấn đề lý luận về thi hành án phạt tù 7
1.1.1. Những khái niệm có liên quan đến thi hành án phạt tù 7
1.1.2. Mục đích và ý nghĩa của việc thi hành án phạt tù 15
1.1.3. Cơ sở pháp lý của thi hành án phạt tù 17
1.1.4. Cơ quan thi hành án phạt tù 23
1.2. Nhận thức chung về kiểm sát thi hành án phạt tù 28
1.2.1. Khái niệm, chủ thể, đối tượng, phạm vi, đặc điểm hoạt động
kiểm sát thi hành án phạt tù
28
1.2.2. Lịch sử hình thành và phát triển quy định của pháp luật về
kiểm sát thi hành án phạt tù tại Việt Nam từ khi thành lập
Viện Kiểm sát nhân dân
33
1.3. Thi hành án phạt tù và kiểm sát thi hành án phạt tù trong pháp
luật ở một số nước trên thế giới
36
1.3.1. Thi hành án phạt tù và kiểm sát thi hành án phạt tù trong pháp
luật Liên bang Nga
36
1.3.2. Thi hành án phạt tù và kiểm sát thi hành án phạt tù trong pháp
luật Vương quốc Anh
38
5
1.3.3. Thi hành án phạt tù và kiểm sát thi hành án phạt tù trong pháp
luật Cộng hòa Pháp
40
1.3.4. Thi hành án phạt tù và kiểm sát thi hành án phạt tù trong pháp
luật Nhật Bản
43
Chương 2: THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG KIỂM SÁT CỦA VIỆN KIỂM
SÁT TRONG THI HÀNH ÁN PHẠT TÙ
46
2.1. Quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm
sát nhân dân trong hoạt động kiểm sát thi hành án phạt tù
46
2.1.1. Yêu cầu Tòa án cùng cấp và cấp dưới ra quyết định thi hành
án phạt tù đúng quy định của pháp luật
46
2.1.2. Yêu cầu Tòa án, cơ quan thi hành án hình sự tự kiểm tra, cung
cấp hồ sơ, tài liệu có liên quan đến việc thi hành án phạt tù
49
2.1.3. Phát hiện và xử lý các trường hợp vi phạm pháp luật trong thi
hành án phạt tù theo thẩm quyền
50
2.1.4. Đề nghị miễn, hoãn, tạm đình chỉ chấp hành án; tham gia việc
xét giảm, miễn thời hạn chấp hành án
55
2.1.5. Giải quyết khiếu nại, tố cáo trong thi hành án phạt tù 58
2.2. Thực tiễn hoạt động của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi
hành án phạt tù
61
2.2.1. Tình hình chấp hành án phạt tù 61
2.2.2. Thực trạng công tác kiểm sát thi hành án phạt tù 68
2.2.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong hoạt động công tác
kiểm sát thi hành án phạt tù
84
Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG THI HÀNH ÁN
PHẠT TÙ
89
3.1. Hoàn thiện pháp luật liên quan đến hoạt động của Viện kiểm
sát nhân dân trong kiểm sát thi hành án phạt tù
89
6
3.1.1. Hoàn thiện pháp luật về tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 89
3.1.2. Hoàn thiện pháp luật về thi hành án phạt tù 90
3.2. Hoàn thiện tổ chức bộ máy và cán bộ của Viện kiểm sát nhân
dân trong kiểm sát thi hành án phạt tù
97
3.2.1. Hoàn thiện tổ chức bộ máy Viện kiểm sát các cấp (Trung ương,
cấp tỉnh, cấp huyện và tương đương)
97
3.2.2. Tiêu chuẩn hóa cán bộ kiểm sát thực hiện nhiệm vụ kiểm sát
thi hành án phạt tù
98
3.3. Tăng cường điều kiện hoạt động của Viện kiểm sát trong thi
hành án phạt tù
100
3.3.1. Tăng cường cơ sở vật chất, kỹ thuật bảo đảm cho hoạt động
kiểm sát thi hành án phạt tù
100
3.3.2. Cải tiến chế độ, chính sách đối với cán bộ kiểm sát trực tiếp
thực hiện nhiệm vụ kiểm sát thi hành án phạt tù
102
3.4. Xây dựng mối quan hệ phối hợp với các cơ quan có liên quan
đến thi hành án phạt tù
102
3.4.1. Quan hệ phối hợp với Tòa án nhân dân các cấp và tương đương 102
3.4.2. Quan hệ phối hợp với cơ quan Công an các cấp 103
3.4.3. Quan hệ phối hợp với chính quyền địa phương và cơ quan
hữu quan
103
KẾT LUẬN 105
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 108
7
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
bảng
Tên bảng Trang
2.1 Tình hình công tác chấp hành án phạt tù từ 2008 đến
năm 2012
61
2.2 Hoạt động công tác kiểm sát thi hành án phạt tù từ năm
2008-2012
69
8
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bản án, quyết định của Tòa án nhân danh Nhà nước khi được chấp
hành nghiêm chỉnh có tác động trực tiếp đến lòng tin của nhân dân đối với
pháp luật. Vì vậy, hoạt động thi hành án có một ý nghĩa vô cùng quan trọng
trong việc giữ vững kỷ cương phép nước, củng cố pháp chế và trật tự pháp
luật xã hội chủ nghĩa, đảm bảo cho quyền lực tư pháp được thực thi trên thực
tế. Thi hành án hình sự liên quan trực tiếp đến bảo vệ an ninh quốc gia, giữ
gìn trật tự, an toàn xã hội; góp phần bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi
ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Hiến
pháp 1992 khẳng định: "Các bản án và quyết định của Tòa án nhân dân đã có
hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức
xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân tôn trọng; những người
và đơn vị hữu quan nghiêm chỉnh chấp hành" [27].
Xác định thi hành án hình sự mà trong đó là thi hành án phạt tù là
công tác quan trọng nên Nhà nước ta đặc biệt quan tâm và đã ban hành nhiều
văn bản quy phạm pháp luật làm cơ sở cho hoạt động này như: Thông tư liên
ngành số 02/TTLN/BNV-VKSNDTC ngày 06/9/1989 về công tác giam, giữ,
cải tạo và kiểm sát giam giữ, cải tạo; Thông tư liên tịch số 07/2004/TTLT-
BCA-VKSNDTC ngày 29/4/2004 hướng dẫn một số quy định về thi hành
hình phạt tù đối với phạm nhân chấp hành hình phạt tù tại Nhà tạm giữ;
Thông tư liên tịch số 02/2006/TTLT-BCA-BQP-BYT-TANDTC-VKSNDTC
ngày 18/5/2006 hướng dẫn thi hành một số quy định của pháp luật về tạm
đình chỉ chấp hành hình phạt tù đối với người đang chấp hành hình phạt tù
đang bị bệnh nặng; Thông tư liên tịch số 04/2010/TTLT -BTC-BCA-BQP
ngày 12/02/2010 hướng dẫn thực hiện chế độ lao động và sử dụng kết quả lao
động, dạy nghề phạm nhân trong các trại giam; Thông tư 40/2011/TT-BCA
9
ngày 27/6/2011 quy định tiêu chuẩn thi đua chấp hành án phạt tù và xếp loại
chấp hành án phạt tù cho phạm nhân; Thông tư 58/2011/TT-BCA ngày
09/8/2011 quy định về đồ vật cấm đưa vào trại giam và việc thu giữ, xử lý đồ
vật cấm; Nghị định 80/2011/NĐ-CP ngày 16/9/2011 quy định các biện pháp
bảo đảm tái hòa nhập cộng đồng đối với người chấp hành xong án phạt tù;
Nghị định số 117/2011/NĐ-CP ngày 15/12/2011 quy định về tổ chức quản lý
phạm nhân và chế độ ăn, mặc, ở, sinh hoạt, chăm sóc y tế đối với phạm nhân
(thay thế Nghị định số 113/2008/NĐ-CP ngày 28/10/2008 ban hành Quy chế
trại giam); Nghị định số 77/2009/NĐ-CP ngày 15/9/2009 quy định chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Công an…và ngày
17/6/2010, tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật Thi hành
án hình sự năm 2010. Trên cơ sở pháp lý đó, trong thời gian qua hoạt động
thi hành án hình sự đã được tổ chức, thực hiện bảo đảm sự nghiêm minh,
khoan hồng, nhân đạo, góp phần đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ an
ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, phục vụ yêu cầu xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.
Trước yêu cầu mới của thực tiễn, hướng đến mục tiêu xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, công tác kiểm sát thi hành án hình sự của
ngành kiểm sát cần phải đổi mới tổ chức và hoạt động để nâng cao công tác
thi hành án hình sự nói chung và công tác thi hành án phạt tù nói riêng, đáp
ứng yêu cầu cải cách tư pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta.
Trước tình hình đó, việc tiếp tục nghiên cứu sâu sắc hơn nữa nhiệm
vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong kiểm sát việc thi hành án
phạt tù, từ đó đưa ra kiến nghị, giải pháp nhằm cao hiệu quả hoạt động này
không những có ý nghĩa lý luận - thực tiễn và pháp lý quan trọng, mà còn là
vấn đề mang tính cấp thiết. Đây cũng là lý do luận chứng cho việc chúng tôi
quyết định chọn đề tài "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về nhiệm vụ,
quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong kiểm sát thi hành án phạt tù"
làm luận văn thạc sĩ luật học.
10
2. Tình hình nghiên cứu
Những năm gần đây, trước những đòi hỏi khách quan của công tác thi hành
án phạt tù, đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học ở những mức độ khác nhau,
những khía cạnh, phương diện khác nhau về thi hành án phạt tù và nhiệm vụ,
quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong kiểm sát thi hành án phạt tù, cụ thể là:
- Trần Quang Tiệp (2002), Một số vấn đề về thi hành án hình sự,
Nxb Công an nhân dân, Hà Nội;
- Viện Khoa học kiểm sát - Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2003),
"Những giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát
các hoạt động tư pháp", Kỷ yếu đề tài cấp bộ, Hà Nội;
- Vũ Trọng Hách (2006), Hoàn thiện quản lý nhà nước trong lĩnh vực
thi hành án hình sự ở Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội;
- Võ Khánh Vinh, Nguyễn Mạnh Kháng (2006), Pháp luật thi hành án
hình sự Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Tư pháp, Hà Nội;
- Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2007), "Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện
kiểm sát trong việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án
phạt tù theo yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay, Vụ kiểm sát tạm giữ, tạm giam,
quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù", Kỷ yếu đề tài khoa học, Hà Nội.
Các công trình nêu trên nghiên cứu về thi hành phạt tù ở những khía
cạnh và mức độ khác nhau, hầu hết đề cập đến thực trạng và giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả hoạt động thi hành án phạt tù, tuy nhiên chưa có công trình
nào nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân
trong thi hành án phạt tù, đặc biệt là theo Luật Thi hành án hình sự năm 2010.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là nghiên cứu và làm rõ những vấn đề chung
về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong kiểm sát hoạt động
11
thi hành án phạt tù, phân tích kết quả thực tiễn của hoạt động này, từ đó đưa
ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác kiểm sát thi hành án phạt tù
ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ chủ
yếu sau:
- Làm rõ những căn cứ pháp lý về thi hành án phạt tù và kiểm sát thi
hành án phạt tù.
- Đánh giá đúng đắn và toàn diện về thực trạng pháp luật và thực tiễn
áp dụng các quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm
sát nhân dân trong hoạt động kiểm sát thi hành án phạt tù trong thời gian qua.
- Phân tích nguyên nhân của thực trạng đó.
- Đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật
nhằm bảo đảm thực hiện tốt nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân
trong kiểm sát thi hành án phạt tù.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn đề xung quanh "Nhiệm
vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong kiểm sát thi hành án phạt tù",
kết hợp với việc nghiên cứu những nội dung cơ bản và thực tiễn công tác
kiểm sát thi hành án phạt tù; đánh giá thực trạng hoạt động kiểm sát thi hành
phạt tù trong thời gian qua (từ năm 2009 - 2012) và từ đó rút ra những giải
pháp hoàn thiện pháp luật, đổi mới tổ chức và hoạt động của công tác này
nhằm nâng cao hiệu quả việc thi hành án phạt tù trong điều kiện mới của đất
nước ta.
Luận văn cũng có tham khảo những bài học kinh nghiệm về việc thi
hành án phạt tù và kiểm sát thi hành án phạt tù ở một số nước trên thế giới.
12
Luận văn không nghiên cứu hoạt động của Viện kiểm sát quân sự
trong kiểm sát việc thi hành án phạt tù.
4. Phƣơng pháp luận và các phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy
vật biện chứng, duy vật lịch sử và phép biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà
nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền, về chính sách hình sự, về vấn đề
cải cách tư pháp được thể hiện trong các nghị quyết Đại hội Đảng VIII, IX, X
và các Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 2/1/2002, Nghị quyết 49-NQ/TW ngày
26/5/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các
phương pháp cụ thể được sử dụng kết hợp, đó là: Phương pháp nghiên cứu
lịch sử - cụ thể, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp
thống kê, tổng hợp.
5. Những điểm mới và đóng góp của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phương
diện lý luận và thực tiễn, vì đây là công trình nghiên cứu đầu tiên ở cấp độ
một luận văn thạc sĩ luật học về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân
dân trong kiểm sát thi hành án phạt tù, mà trong đó giải quyết nhiều vấn đề
quan trọng về lý luận và thực tiễn liên quan tới thi hành án phạt tù ở Việt Nam
theo Luật Thi hành án hình sự năm 2010 (có hiệu lực từ ngày 1/7/2011).
Những điểm mới của luận văn là:
- Luận văn đã đưa ra và luận giải được một số quan điểm cơ bản về
khái niệm thi hành án phạt tù và kiểm sát thi hành án phạt tù, tìm hiểu thực
trạng của công tác kiểm sát thi hành án phạt tù làm phong phú thêm cho hoạt
động nghiên cứu khoa học về pháp luật thi hành án phạt tù.
- Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và thực trạng pháp luật kiểm
sát thi hành án phạt tù, luận văn đã đưa ra được những điểm bất cập cần sửa
13
đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật tố tụng hình sự và pháp luật
thi hành án hình sự về công tác thi hành án phạt tù và kiểm sát thi hành án
phạt tù.
- Trên cơ sở đánh giá thực tiễn công tác kiểm sát thi hành án phạt tù,
luận văn đã phân tích những nguyên nhân và đề xuất các định hướng và giải
pháp hoàn thiện nhằm nâng cao hiệu quả công tác kiểm sát thi hành án phạt tù
theo Luật Thi hành án hình sự năm 2010.
Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích
dành cho không chỉ các nhà lập pháp mà còn cho các nhà nghiên cứu, các cán
bộ giảng dạy pháp luật, các nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên
thuộc chuyên ngành Tư pháp hình sự tại các cơ sở đào tạo luật. Đặc biệt, kết
quả nghiên cứu của luận văn còn phục vụ cho việc trang bị những kiến thức
chuyên sâu cho các cán bộ thực tiễn đang công tác tại các Viện kiểm sát, Tòa
án và cơ quan Thi hành án hình sự trong quá trình thi hành án phạt tù.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về thi hành án phạt tù và kiểm sát thi
hành án phạt tù.
Chương 2: Thực tiễn hoạt động kiểm sát của Viện kiểm sát trong thi
hành án phạt tù.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của Viện kiểm sát
nhân dân trong thi hành án phạt tù.
14
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THI HÀNH ÁN PHẠT TÙ
VÀ KIỂM SÁT THI HÀNH ÁN PHẠT TÙ
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THI HÀNH ÁN PHẠT TÙ
1.1.1. Những khái niệm có liên quan đến thi hành án phạt tù
Để có thể đưa ra khái niệm thi hành hình phạt tù, trước hết cần làm
sáng tỏ khái niệm hình phạt tù.
Trong hệ thống hình phạt được quy định trong luật hình sự Việt Nam,
hình phạt tù (bao gồm: hình phạt tù có thời hạn và hình phạt tù chung thân) là
loại hình phạt nghiêm khắc, vì người bị kết án bị tước tự do, bị cách ly với
cuộc sống bình thường của xã hội, họ phải lao động, cải tạo trong một môi
trường riêng biệt dưới sự quản lý và giám sát của cơ quan có trách nhiệm.
Tuy nhiên, trong luận văn này chúng tôi không đề cập đến miễn chấp hành
hình phạt tù có điều kiện (án treo) {miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện
(án treo) là trường hợp ngoại lệ đặc biệt của việc thi hành hình phạt tù, trong
đó người bị kết án phạt tù có thời hạn không buộc phải chấp hành hình phạt tù
tại các cơ sở giam giữ; không bị cách ly khỏi xã hội mà được chấp hành hình
phạt ngoài xã hội với những điều kiện ràng buộc nhất định. Miễn chấp hành
hình phạt tù có điều kiện (án treo) được áp dụng đối với những trường hợp
người phạm tội bị Tòa án tuyên hình phạt tù có thời hạn và mức hình phạt là
không quá ba năm và không cần phải bắt người phạm tội cách ly khỏi xã hội
nhưng cũng đạt được mục đích của hình phạt}.
Điều 33 Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định: "Tù có thời hạn là việc
buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt tại trại giam trong một thời hạn
nhất định...." [28] và Điều 34 Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định: "Tù chung
thân là hình phạt tù không thời hạn được áp dụng đối với người phạm tội đặc
biệt nghiêm trọng, nhưng chưa đến mức bị xử phạt tử hình..." [28].
15
Như vậy, hình phạt tù là hình phạt buộc người bị kết án phải chấp
hành hình phạt tại trại giam. Tuy nhiên, khi nghiên cứu các văn bản luật khác
và trong thực tế, chúng tôi cho rằng việc quy định trong điều luật chưa thật sự
chính xác, bởi vì người bị kết án phạt tù có thể phải chấp hành hình phạt tại
Trại tạm giam (gồm Trại tạm giam Bộ Công An, Trại tạm giam Bộ Quốc
phòng và Trại tạm giam Công an tỉnh) và Nhà tạm giữ Công an huyện. Khoản 2
Điều 171 Luật Thi hành án hình sự năm 2010 quy định:
Bộ trưởng Bộ Công an căn cứ yêu cầu quản lý người bị tạm
giam, tạm giữ để quyết định đưa người chấp hành án phạt tù có thời
hạn từ 5 năm trở xuống không phải là người chưa thành niên, người
nước ngoài, người mắc bệnh truyền nhiễm nguy hiểm hoặc nghiện
ma túy để phục vụ việc tạm giam, tạm giữ. Số lượng người chấp
hành án phạt tù phục vụ việc tạm giam, tạm giữ được tính theo tỷ lệ
trên tổng số người bị tạm giam, tạm giữ nhưng tối đa không vượt
quá 15% [34].
Như vậy, việc thi hành hình phạt tù còn được thực hiện ở trại tạm giam,
nhà tạm giữ để thực hiện những công việc của trại tạm giam, nhà tạm giữ và
trong trường hợp này, trại tạm giam, nhà tạm giữ được coi là trại giam đối với
người phải thi hành hình phạt tù.
Mục đích của hình phạt nói chung và hình phạt tù nói riêng không chỉ
nhằm trừng trị người phạm tội mà còn giáo dục họ trở thành người có ích cho xã
hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa,
ngăn ngừa họ phạm tội mới, nhằm giáo dục người khác tôn trọng pháp luật,
đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm (Điều 27 Bộ luật Hình sự năm 1999).
Từ sự phân tích ở trên, có thể đưa ra khái niệm hình phạt tù như sau:
Hình phạt tù là hình phạt tước một số quyền tự do, giam giữ người bị kết án
phạt tù trong một môi trường riêng biệt để thực hiện các mục đích của hình
phạt là đảm bảo công lý, công bằng xã hội, cải tạo, giáo dục người phạm tội
và phòng ngừa tội phạm.
16
Vấn đề tiếp theo cần làm sáng tỏ là khái niệm thi hành án hình sự.
Theo Đại Từ điển tiếng Việt, thi hành là: "Thực hiện điều đã chính thức quyết
định" [64, tr. 1497]. Như vậy, thi hành án có thể được hiểu là thực hiện bản án,
quyết định của Tòa án trên thực tế; còn thi hành án hình sự là thực hiện các bản
án, quyết định hình sự của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật trên thực tế [37, tr. 5].
Từ sự phân tích ở trên, chúng tôi đồng ý với quan điểm cho rằng: Thi
hành án hình sự là việc các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, các cá nhân có
liên quan đưa bản án và quyết định hình sự đã có hiệu lực pháp luật của Tòa
án ra thi hành làm cho nó phát huy hiệu lực trên thực tế [22, tr. 9].
Các bản án, quyết định hình sự của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật được
thi hành bao gồm: các bản án, quyết định được quy định tại Điều 255 Bộ luật Tố
tụng hình sự năm 2003 và Điều 2 Luật Thi hành án hình sự năm 2010, nhưng
chưa quá thời hiệu thi hành bản án theo Điều 55 Bộ luật Hình sự năm 1999.
Điều 255 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy định những bản án và
quyết định được thi hành, theo đó, những bản án và quyết định được thi hành
là những bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật (bao gồm những bản
án và quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo
trình tự phúc thẩm; những bản án và quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm;
những quyết định của Tòa án giám đốc thẩm hoặc tái thẩm).
Điều 2 Luật Thi hành án hình sự năm 2010 quy định về bản án, quyết
định được thi hành, bao gồm bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật và đã có
quyết định thi hành (bản án hoặc phần bản án của Tòa án cấp sơ thẩm không
bị kháng cáo, kháng nghị theo trình tự phúc thẩm; Bản án của Tòa án cấp
phúc thẩm; Quyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của Tòa án). Bản án
hoặc quyết định của Tòa án được thi hành ngay theo quy định của Bộ luật Tố
tụng hình sự; Quyết định của Tòa án Việt Nam tiếp nhận người đang chấp
hành án phạt tù ở nước ngoài về Việt Nam chấp hành án và đã có quyết định
thi hành. Quyết định chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù tại Việt
17
Nam cho nước ngoài; Bản án, quyết định về áp dụng biện pháp tư pháp bắt
buộc chữa bệnh, giáo dục tại xã, phường, thị trấn, đưa vào trường giáo dưỡng.
So sánh hai quy định trên, ta thấy được quy định về bản án, quyết
định được thi hành khác nhau, Điều 2 Luật Thi hành án hình sự năm 2010 đã
bổ sung quy định "và đã có quyết định thi hành" do Chánh án Tòa án đã xét
xử sơ thẩm ra quyết định hoặc do Chánh án Tòa án được ủy thác ra quyết
định so với khoản 1 Điều 255 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003. Nhưng
thời điểm bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật với thời điểm
Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm ra quyết định hoặc do Chánh án Tòa án
được ủy thác ra quyết định thi hành là khác nhau, nên chúng tôi cho rằng,
đối với quan hệ xã hội phát sinh trong khoảng thời gian từ khi bản án, quyết
định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng chưa có quyết định thi hành
thì không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Thi hành án hình sự năm 2010
mà thuộc phạm vi điều chỉnh của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003. Do đó,
theo chúng tôi, cần phải xác định hoạt động thi hành án được bắt đầu ngay
khi bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật, bởi vì việc thi hành
án bao gồm cả hoạt động Tòa án ra quyết định thi hành án, chứ không phải
bắt đầu từ khi Tòa án ra quyết định thi hành án; điều này hoàn toàn phù hợp
với quy định Viện kiểm sát yêu cầu Tòa án cùng cấp và cấp dưới ra quyết
định thi hành án hình sự đúng quy định của pháp luật (tại Điều 141 Luật Thi
hành án hình sự năm 2010).
Ngoài ra, Điều 2 Luật Thi hành án hình sự năm 2010 cũng đã bổ sung
các trường hợp bản án, quyết định của Tòa án được thi hành so với quy định
tại Điều 255 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, đó là: quyết định của Tòa án
Việt Nam tiếp nhận người đang chấp hành án phạt tù ở nước ngoài về Việt
Nam chấp hành án và đã có quyết định thi hành; quyết định chuyển giao
người đang chấp hành án phạt tù tại Việt Nam cho nước ngoài và bản án,
quyết định về áp dụng biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh, giáo dục tại xã,
phường, thị trấn, đưa vào trường giáo dưỡng.
18
Từ những phân tích trên, ta có thể hiểu, thi hành án phạt tù là việc
thực hiện các quyết định về hình phạt tù trong bản án, quyết định của Tòa án
đã có hiệu lực pháp luật trên thực tế; bao gồm: Bản án, quyết định về hình
phạt tù có hiệu lực pháp luật và đã có quyết định thi hành.
Về mặt lập pháp, theo khoản 3 Điều 3 Luật Thi hành án hình sự năm
2010 giải thích: "Thi hành án phạt tù là việc cơ quan, người có thẩm quyền
theo quy định của Luật này buộc phạm nhân phải chịu sự quản lý giam giữ,
giáo dục, cải tạo để họ trở thành người có ích cho xã hội" [34]; trong đó,
phạm nhân là người đang chấp hành án phạt tù có thời hạn, tù chung thân.
Như vậy, thi hành án phạt tù là việc cơ quan, người có thẩm quyền thực hiện
các quyết định hình phạt tù trong bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu
lực pháp luật trên thực tế; tức là, buộc người đang chấp hành án phạt tù có
thời hạn, tù chung thân phải chịu sự quản lý, giam giữ, giáo dục, cải tạo để
họ trở thành người có ích cho xã hội.
Tuy nhiên, xung quanh bản chất pháp lý về thi hành án nói chung và
thi hành án phạt tù nói riêng cũng có nhiều quan điểm khác nhau: Quan điểm
thứ nhất: Thi hành án là một giai đoạn của tố tụng [56, tr. 8], [62, tr. 23-24].
Quan điểm thứ hai: Thi hành án là một giai đoạn độc lập mang tính hành
chính - tư pháp [56, tr. 10-11]. Quan điểm thứ ba: Thi hành án vừa mang tính
tố tụng, vừa mang tính hành chính - tư pháp được điều chỉnh bởi pháp luật tố
tụng và pháp luật về hành chính - tư pháp [56, tr. 8].
Trước hết, về quan niệm coi thi hành án là một giai đoạn tố tụng,
chúng tôi đồng ý với quan điểm này, bởi vì theo từ điển Luật học, thi hành án
"giai đoạn kết thúc trình tự tố tụng, là khâu cuối cùng kết thúc một vụ án được
xét xử nhằm làm cho phán quyết của Tòa án nhất định có hiệu lực pháp luật.
Vì vậy, bản án sau khi đã có hiệu lực pháp luật thì phải được thi hành nghiêm
chỉnh" [43, tr. 464-465]. Thi hành bản án hình sự "giai đoạn cuối cùng của tố
tụng hình sự, là việc thi hành trên thực tế một bản án hoặc quyết định cụ thể
của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật" [43, tr. 464-465]. Như vậy, thi hành án
19
hình sự là một trình tự tiếp nối và kết thúc của quá trình giải quyết vụ án hình
sự; địa vị của thi hành án hoàn toàn độc lập và cần thiết được xem xét trong
mối liên hệ với các giai đoạn tố tụng trước. Nói cách khác việc thi hành án
được quy định trong tố tụng hình sự và không ngừng được hoàn thiện cùng
với các quy định của các giai đoạn tố tụng trước là hoàn toàn cần thiết để đảm
bảo tính đồng bộ, hệ thống của tố tụng hình sự.
Tuy nhiên, chúng tôi cũng đồng ý với quan điểm cho rằng thi hành án
cần phải được qui định ở các văn bản pháp luật khác nữa, bởi vì không phải
mọi hoạt động trong quá trình thi hành bản án và quyết định của Tòa án đều
nằm trong phạm vi điều chỉnh của luật tố tụng hình sự [18]. Điều này là hoàn
toàn đúng khi trong giai đoạn hiện nay, Quốc hội mới ban hành Luật thi hành
án dân sự năm 2008 (có hiệu lực kể từ ngày 01/07/2009) và Luật Thi hành án
hình sự năm 2010 (có hiệu lực kể từ ngày 01/07/2011), các đạo luật này quy
định khá cụ thể các quan hệ phát sinh trong quá trình thi hành án. Khi nghiên
cứu các đạo luật này, chúng tôi thấy rằng có rất nhiều quan hệ xã hội phát
sinh trong quá trình thi hành án chưa được điều chỉnh; cụ thể như: trong việc
ra quyết định thi hành án; thủ tục xem xét bản án tử hình trước khi đưa ra thi
hành; thẩm quyền Tòa án khi ra quyết định tạm đình chỉ thi hành án phạt tù;
và việc xóa án tích... Trong thực tế hiện nay, những mối quan hệ này được
điều chỉnh bởi Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003.
Về quan điểm cho rằng, thi hành án là một giai đoạn độc lập mang
tính hành chính - tư pháp. Như chúng tôi đã phân tích ở trên, thi hành án là
một giai đoạn tố tụng do đó không phải là một giai đoạn độc lập; nhưng liệu
trong hoạt động thi hành án có mang tính hành chính - tư pháp không? Để giải
thích cho quan điểm này thì cần phải hiểu hoạt động mang tính hành chính -
tư pháp là như thế nào?
Thứ nhất, về hoạt động hành chính. Hành chính được hiểu:
Thuộc phạm vi quản lí của Nhà nước theo luật định: cơ quan
hành chính - đơn vị hành chính. Thuộc những công việc giấy tờ, văn
20
thư, kế toán trong cơ quan nhà nước; cán bộ hành chính - ăn lương
hành chính. Có tính chất nghiêm minh, thẳng tay xử phạt, không nới
lỏng để giáo dục, thuyết phục: dùng biện pháp hành chính [43, tr. 675].
Thi hành bản án và quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật là
một hoạt động phức tạp, đa dạng liên quan đến nhiều lĩnh vực và trong quá
trình thi hành án, có những quan hệ phát sinh trong quá trình hình thành tổ
chức, hoạt động và cơ chế quản lý các cơ quan thi hành án hình sự (gồm hệ
thống các cơ quan thi hành án hình sự; các cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu
quan có trách nhiệm thi hành án...). Các quan hệ này liên quan đến việc hình
thành cơ cấu tổ chức; quy định thẩm quyền và quy chế hoạt động của Cơ quan
thi hành án hình sự. Những mối quan hệ này được thể hiện cụ thể trong thực
tiễn như: mối quan hệ giữa cơ quan quản lý nhà nước với Cơ quan thi hành án
hình sự; cơ cấu tổ chức, hoạt động trong hệ thống các cơ quan thi hành án
hình sự; giữa Cơ quan thi hành án hình sự và Cơ quan thi hành án dân sự;
giữa Cơ quan thi hành án cấp trên và Cơ quan thi hành án cấp dưới về mặt tổ
chức...[62, tr. 32-33]. Như vậy, hoạt động thi hành án mang tính hành chính.
Thứ hai, về hoạt động tư pháp, xung quanh khái niệm này cũng có
nhiều cách hiểu khác nhau: Loại ý kiến thứ nhất cho rằng, hoạt động tư pháp
cần được hiểu theo nghĩa rộng là hoạt động xét xử của Tòa án và các hoạt
động của các cơ quan khác của nhà nước khác và các tổ chức khác được nhà
nước cho phép thành lập, trực tiếp liên quan hoặc phục vụ cho việc xét xử của
Tòa án [13, tr. 7-11]. Loại ý kiến thứ hai cho rằng, hoạt động tư pháp là dạng
(hình thức) thực hiện những thẩm quyền tương ứng do luật định của hệ thống
Tòa án mà thông qua đó các chức năng của nhánh quyền lực thứ ba trong Nhà
nước pháp quyền được biến thành hiện thực [5, tr. 188]. Có năm dạng hoạt
động tư pháp tương ứng với năm chức năng của quyền tư pháp gồm: nhân
danh và thực hiện việc bảo vệ công lý; bảo vệ các quyền và tự do của con
người và của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp và các văn bản pháp
luật khác trên toàn bộ lãnh thổ của quốc gia; giải thích các quy phạm pháp
21
luật (mà trước hết là Hiến pháp) để đảm bảo tính thống nhất và hiệu lực của
việc áp dụng các quy phạm đó trên toàn bộ lãnh thổ của quốc gia; xét xử, tức
là hoạt động tố tụng tư pháp (tài phán) về Hiến pháp, hành chính, hình sự, dân
sự và kinh tế (trọng tài); giám sát của Tòa án đối với tính hợp pháp và có căn
cứ của việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế của Nhà nước có tính chất tố
tụng, tức là thực hiện sự kiểm tra của Tòa án đối với các cơ quan bảo vệ pháp
luật (bao gồm cả sự kiểm tra của Tòa án cấp trên đối với Tòa án cấp dưới) trong
việc áp dụng các chế tài pháp lý về hành chính, hình sự, tố tụng hình sự... và
xác nhận chính thức các sự kiện (hành vi) có ý nghĩa pháp lý trong các lĩnh
vực của đời sống xã hội hoặc hạn chế quyền chủ thể tương ứng (về mặt hiến
định, dân sự....) của các công dân trong quá trình giải quyết các mối quan hệ
xã hội [5, tr. 184]. Tác giả cho rằng: hoạt động thi hành án của các cơ quan thi
hành án là hoạt động gần với hoạt động tư pháp trong Nhà nước pháp quyền
(hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật thuộc nhánh quyền hành pháp
nhằm hỗ trợ cho việc nâng cao hiệu quả xét xử của Tòa án) [5, tr. 188]. Loại ý
kiến thứ ba cho rằng, hoạt động tư pháp là hoạt động của các tổ chức, cá nhân
tham gia vào quá trình giải quyết các tranh chấp pháp luật xảy ra trong đời
sống xã hội. Tác giả cho rằng hoạt động tư pháp là hoạt động của các cơ quan,
tổ chức và cá nhân tham gia vào việc giải quyết các tranh chấp pháp lý, các vi
phạm pháp luật thuộc thẩm quyền phán quyết của Tòa án và thi hành các phán
quyết đó theo thủ tục tố tụng mà pháp luật quy định. Hoạt động tư pháp là hoạt
động của các cơ quan tiến hành tố tụng (các cơ quan tư pháp), các cơ quan
thực hiện một số nhiệm vụ tố tụng, các cơ quan bổ trợ tư pháp (giám định tư
pháp, công chứng tư pháp, luật sư) [50, tr. 27-28]. Loại ý kiến thứ tư khẳng
định, hoạt động tư pháp trước hết phải do cơ quan tư pháp tiến hành, tuy
nhiên không bao hàm tất cả các hoạt động của các cơ quan tư pháp mà chỉ
những hoạt động gắn liền với quá trình giải quyết những vụ án cụ thể. Hoạt
động tư pháp phải có các đặc trưng như phải do cơ quan tư pháp thực hiện
trong quá trình tố tụng và phải được điều chỉnh bởi pháp luật tố tụng, phải là
những hoạt động trực tiếp liên quan tới quá trình giải quyết vụ án và có mục
22
đích nhằm giải quyết các vụ án một cách đúng đắn, khách quan [13, tr. 10-11].
Chúng tôi đồng ý với ý kiến này và cho rằng, hoạt động tư pháp là tập hợp
những việc làm cụ thể do cơ quan tư pháp thực hiện trong tố tụng, có sự liên
quan trực tiếp và hướng tới mục đích nhằm giải quyết vụ án một cách đúng
đắn, khách quan. Và như vậy, thi hành án là giai đoạn tố tụng thì trong giai
đoạn thi hành án có hoạt động tư pháp.
Như vậy, rõ ràng để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, các cơ
quan tư pháp còn tiến hành một loại hoạt động được điều chỉnh bằng pháp
luật hành chính chứ không được điều chỉnh bằng pháp luật tố tụng, vì vậy nó
cũng không được coi là hoạt động tư pháp. Trong quá trình thực hiện hoạt
động tư pháp, giữa những người ở các cơ quan tư pháp khác nhau luôn tồn tại
một loại quan hệ được gọi là quan hệ hành chính - tư pháp (ví dụ, hoạt động
báo cáo công tác của cấp dưới với cấp trên, hoạt động tổng kết công tác của
mỗi cơ quan, hoạt động thanh tra...) [13, tr. 10-11]. Do đó, hoạt động thi hành
án hình sự có mang tính hành chính - tư pháp.
Từ những phân tích trên, chúng tôi đồng ý với quan điểm cho rằng thi
hành án vừa mang tính tố tụng, vừa mang tính hành chính - tư pháp được điều
chỉnh bởi pháp luật tố tụng và pháp luật về hành chính - tư pháp, và thực tiễn hiện
nay, hoạt động thi hành án hình sự được điều chỉnh bởi Luật tố tụng hình sự và
Luật Thi hành án hình sự, Luật Thi hành án dân sự (đối với hình phạt tiền). Nói
tóm lại, xét về bản chất hoạt động thi hành án nói chung, hoạt động thi hành án
phạt tù nói riêng vừa mang tính tố tụng, vừa mang tính hành chính - tư pháp.
1.1.2. Mục đích và ý nghĩa của việc thi hành án phạt tù
Mục đích là "cái đích đặt ra để hướng tới, đạt tới" [64, tr. 1064]. Mục
đích của thi hành án phạt tù không nằm ngoài mục đích của hình phạt trong
luật hình sự Việt Nam là phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung. Ở góc độ
phòng ngừa riêng thì mục đích của thi hành án phạt tù là sự trừng trị kết hợp
với giáo dục nhằm cải tạo người bị kết án, giúp họ nhận thức được lỗi lầm để
cải tạo những thói hư, tật xấu của bản thân, cố gắng rèn luyện, cải tạo để trở
23
thành người lương thiện có ích cho gia đình và cho xã hội, không tái phạm, có
ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa,
ngăn ngừa họ phạm tội mới. Ở góc độ phòng ngừa chung thì thi hành án phạt
tù có mục đích quan trọng là: thông qua việc tổ chức thi hành án phạt tù đối
với người bị kết án tù để mọi công dân biết rõ tính nghiêm minh của pháp
luật, sự trừng phạt nghiêm khắc, kịp thời đối với người thực hiện tội phạm
đều bị đe dọa bởi khả năng bị áp dụng hình phạt tù. Việc tổ chức thi hành
hình phạt tù, buộc người bị kết án phạt tù phải chấp hành hình phạt ở cơ sở
chấp hành án là biện pháp có khả năng răn đe, cảnh tỉnh cho những người
đang có ý định thực hiện tội phạm sớm từ bỏ ý định đó nếu không sẽ bị phạt
tù và phải chấp hành bản án phạt tù, phải cách ly khỏi môi trường bình thường
có thời hạn hoặc không thời hạn.
Ý nghĩa là "nội dung được chứa đựng trong hình thức biểu đạt của
ngôn ngữ..., giá trị, tác dụng" [64, tr. 1838]. Việc tổ chức thi hành quyết định
thi hành án phạt tù đối với người bị kết án là căn cứ vào quyết định thi hành
án của Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm, sau khi cơ quan thi hành án hình
sự nhận được quyết định thi hành án có nhiệm vụ tổ chức thi hành án bằng
biện pháp buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã có
hiệu lực pháp luật, nhằm thực hiện mục đích của hình phạt là cải tạo và giáo
dục người phạm tội, bảo đảm cho hoạt động thi hành án đúng pháp luật, tránh
được tình trạng ra quyết định thi hành án và tổ chức thi hành án phạt tù thiếu
căn cứ và chậm không bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật. Việc thi
hành án phạt tù buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt tại cơ sở chấp
hành án một mặt đã thực hiện và thể hiện sự lên án của xã hội đối với người
phạm tội và được thực hiện bằng việc cách ly người đó khỏi môi trường sống
của xã hội trong một thời gian nhất định, buộc người bị kết án phải cải tạo,
giáo dục ở môi trường đặc biệt, chịu sự quản lý nghiêm ngặt tại cơ sở chấp
hành án nhằm giáo dục người phạm tội trở thành người có ích cho xã hội và
có ý nghĩa quan trọng trong việc phòng và chống tội phạm.
24
1.1.3. Cơ sở pháp lý của thi hành án phạt tù
Cơ sở được hiểu là "cái làm nền tảng để dựa vào đó hay từ đó mà phát
triển..." [64, tr. 355]. Cơ sở của thi hành án phạt tù chính là cái làm nền tảng để
dựa vào đó hay từ đó để thi hành án phạt tù. Như vậy, cơ sở của thi hành án
phạt tù cũng có thể hiểu theo nghĩa rộng là điều kiện pháp lý cần và đủ để thực
hiện hình phạt tù trong thực tế. Các điều kiện này được quy định trong Hiến pháp,
Bộ luật Hình sự năm 1999, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Luật Thi hành
án hình sự năm 2010 và các văn bản hướng dẫn thi hành... Quan hệ pháp luật
về thi hành án phạt tù được phát sinh trên cơ sở các quyết định pháp lý nhất định.
Các cơ quan, tổ chức thi hành hình phạt tù phải bắt buộc dựa trên và tuân theo
các điều kiện pháp lý đó để có thể đưa người bị kết án thi hành hình phạt tù.
Theo nghĩa này, việc thi hành án hình sự nói chung và thi hành hình phạt tù
nói riêng chỉ phát sinh từ khi một người bị coi là có tội, tức là từ khi người đó
bị kết tội bằng một bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án và tất nhiên phải
là bản án kết tội và áp dụng hình phạt (chứ không phải bản án kết tội nhưng
miễn hình phạt). Căn cứ này xuất phát trên nguyên tắc: "Không ai có thể bị coi là
có tội nếu chưa có bản án kết tội đã có hiệu lực của Tòa án" [32, Điều 9].
Ngoài ra, cơ sở thi hành hình phạt tù kể trên (hiểu theo nghĩa rộng) còn dựa trên
cơ sở nguyên tắc "Đảm bảo hiệu lực của bản án, quyết định của Tòa án" đòi
hỏi bản án và quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật phải được thi hành
và được tôn trọng (Điều 22 Bộ luật Tố tụng hình sự). Bên cạnh các quy định
trong Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 26 Bộ luật Hình sự cũng quy định: "Hình
phạt được quy định trong Bộ luật Hình sự và do Tòa án quyết định" [28],
Điều 33 Bộ luật Hình sự quy định: "Tù có thời hạn là việc buộc người bị kết
án phải chấp hành hình phạt tại trại giam trong một thời hạn nhất định" [28].
Quan hệ pháp luật tố tụng hình sự nói chung được phát sinh trên cơ sở
các sự kiện pháp lý, đó là sự kiện phạm tội và các quyết định pháp lý của các
cơ quan có thẩm quyền theo luật tố tụng hình sự quy định. Việc thi hành hình
phạt tù - nói cách khác, quan hệ pháp luật về thi hành án hình sự nói chung và
25
thi hành án phạt tù nói riêng được phát sinh trên cơ sở các quyết định pháp lý
nhất định. Theo nghĩa hẹp, cơ sở thi hành hình phạt tù là các quyết định pháp
lý cụ thể, nếu thiếu các quyết định này, chưa phát sinh việc thi hành hình phạt tù.
Để đảm bảo tính có căn cứ và hợp pháp của thi hành án phạt tù, các điều kiện
này được quy định cụ thể, rõ ràng trong Bộ luật Tố tụng hình sự [14, tr. 31-32].
Từ những phân tích trên, có thể thấy, cơ sở của việc thi hành hình phạt
tù bao gồm:
Cơ sở thứ nhất là bản án phạt tù của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
Theo Điều 2 Luật Thi hành án hình sự năm 2010 quy định những bản
án, quyết định được thi hành, bao gồm: Bản án hoặc phần bản án của Tòa án
cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo trình tự phúc thẩm; Bản án
của Tòa án cấp phúc thẩm; Quyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của Tòa
án. Bản án hoặc quyết định của Tòa án được thi hành ngay theo quy định của
Bộ luật Tố tụng hình sự. Quyết định của Tòa án Việt Nam tiếp nhận người đang
chấp hành án phạt tù ở nước ngoài về Việt Nam chấp hành án và đã có quyết
định thi hành; quyết định chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù tại
Việt Nam cho nước ngoài. Bản án, quyết định về áp dụng biện pháp tư pháp bắt
buộc chữa bệnh, giáo dục tại xã, phường, thị trấn, đưa vào trường giáo dưỡng.
Như vậy, bản án của Tòa án chỉ trở thành cơ sở thi hành hình phạt tù từ
khi bản án đó tuyên hình phạt tù và khi bản án đó phát sinh hiệu lực pháp luật.
Theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, một bản án sơ thẩm chỉ
phát sinh hiệu lực pháp luật khi nội dung của bản án đó phản ánh sự thật khách
quan một cách có căn cứ và không bị kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn do
luật định để khẳng định thời điểm phát sinh hiệu lực pháp luật của bản án. Theo
Điều 241 Bộ luật Tố tụng hình sự, Tòa án cấp phúc thẩm chỉ xét xử để kiểm tra
đối với phần bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị. Bởi vậy,
bản án phúc thẩm chỉ là điều kiện thi hành hình phạt tù khi giải quyết các vấn
đề của bản án sơ thẩm bị kháng cáo hoặc kháng nghị những vấn đề có liên quan
26
đến hình phạt tù. Trong trường hợp nếu có kháng cáo hoặc kháng nghị phúc
thẩm về các vấn đề khác thì bản án phúc thẩm, rõ ràng, không phải là cơ sở thi
hành hình phạt tù. Vấn đề là ở chỗ, các phần về hình phạt tù không bị kháng
cáo hoặc kháng nghị, chúng phải có hiệu lực pháp luật từ bản án sơ thẩm. Tuy
nhiên, theo Điều 249 Bộ luật Tố tụng hình sự thì Tòa án cấp phúc thẩm có
quyền sửa bản án sơ thẩm theo hướng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị
cáo mặc dù vấn đề đó không bị kháng cáo hoặc kháng nghị. Trong trường hợp
này, bản án phúc thẩm sẽ trở thành điều kiện thi hành hình phạt tù khi Tòa án
cấp phúc thẩm sửa bản án phạt tù có thời hạn theo hướng giảm nhẹ cho những
phần không có kháng cáo, kháng nghị liên quan đến hình phạt tù [62, tr. 237].
Trong các loại bản án phạt tù kể trên, có những bản án phạt tù mặc dù
đã phát sinh hiệu lực pháp luật song không trở thành cơ sở thi hành hình phạt
tù, đó là bản án phạt tù nhưng cho hưởng án treo. Như trên chúng tôi đã phân
tích, bản án phạt tù nhưng cho hưởng án treo khi phát sinh hiệu lực pháp luật
được xem là điều kiện để người bị kết án phạt tù được hưởng án treo, chấp
hành thời gian thử thách án treo. Đối với người được hưởng án treo mà phạm
tội mới trong thời gian thử thách, thì bản án tổng hợp hình phạt của tội mới
với hình phạt tù của bản án trước, mới trở thành điều kiện thi hành, nếu nó
phát sinh hiệu lực pháp luật.
Tòa án cấp giám đốc thẩm và tái thẩm kiểm tra hoạt động xét xử của
các Tòa án cấp dưới trực tiếp có quyền ra quyết định đánh giá mặt pháp lý của
những bản án, trong đó có áp dụng hình phạt tù đã có hiệu lực pháp luật
nhưng bị kháng nghị theo trình tự, thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.
Quyết định giám đốc thẩm hoặc quyết định tái thẩm không chấp nhận kháng
nghị và giữ nguyên bản án phạt tù của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật được coi
là điều kiện thi hành hình phạt tù trong trường hợp sử dụng quyền hạn được
quy định tại Điều 276 Bộ luật Tố tụng hình sự, người đã ra kháng nghị bản án
đã có hiệu lực pháp luật đã ra quyết định tạm đình chỉ thi hành bản án đó.
27
Bên cạnh "thời điểm phát sinh hiệu lực pháp luật", bản án đã có hiệu
lực pháp luật đó chỉ trở thành điều kiện thi hành hình phạt tù khi nó còn hiệu
lực thi hành. Trong thực tiễn, có không ít những người bị kết án phạt tù không
trốn tránh nhưng vì lý do khác nhau, Tòa án không ra quyết định thi hành án
đối với họ. Với mục đích bảo đảm tính ổn định của các quan hệ pháp luật
trong lĩnh vực thi hành hình phạt nói chung, trong đó có thi hành hình phạt tù
nói riêng và nhằm thực hiện sự nhân đạo đối với người đã bị kết án tù, cũng
như tăng cường hiệu quả đấu tranh, phòng ngừa và chống tội phạm, Điều 55
Bộ luật Hình sự quy định "thời hiệu thi hành bản án", theo đó người bị kết án
không phải chấp hành bản án đã tuyên nếu tính từ ngày bản án đã có hiệu lực
pháp luật đã qua: "Năm năm đối với các trường hợp xử phạt tiền, cải tạo
không giam giữ, hoặc xử phạt tù từ ba năm trở xuống; Mười năm đối với các
trường hợp xử phạt tù từ trên ba năm đến mười lăm năm; Mười lăm năm đối
với các trường hợp xử phạt tù từ trên mười lăm năm đến ba mươi năm" [28].
Đối với trường hợp xử phạt tù chung thân, sau khi qua thời hạn mười
lăm năm, do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định theo đề nghị của
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Trong trường hợp không cho áp
dụng thời hiệu thì hình phạt tù chung thân được chuyển thành tù ba mươi năm.
Điều luật còn quy định cách tính thời hiệu trong trường hợp người bị
kết án phạm tội mới hoặc cố tính trốn tránh và đã có lệnh truy nã; các trường
hợp không áp dụng thời hiệu (Điều 56 Bộ luật Hình sự). Với quy định về
"thời hiệu thi hành bản án" nói trên, chỉ những bản án còn trong thời hiệu thi
hành bản án thì mới có đủ điều kiện là điều kiện thi hành hình phạt tù. Mức
xử phạt để làm căn cứ áp dụng thời hiệu trong các trường hợp tổng hợp hình
phạt là mức hình phạt tổng hợp và tính từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.
Nếu có nhiều người bị kết án trong cùng một bản án thì mỗi người sẽ được áp
dụng thời hiệu riêng, phù hợp với mức hình phạt mà Tòa án đã tuyên đối với
họ [14, tr. 35].
28
Như vậy, "còn thời hiệu thi hành" là một trong những yếu tố của bản
án có hiệu lực thi hành. Nói cách khác, bản án có hiệu lực pháp luật được đưa
ra thi hành khi nó còn thời hiệu thi hành.
Cơ sở thứ hai là quyết định thi hành bản án phạt tù của Tòa án đã có
hiệu lực pháp luật.
Bản án đã có hiệu lực pháp luật và đang còn thời hiệu thi hành được
đưa ra thi hành khi có quyết định thi hành án của Chánh án Tòa án đã xét xử
sơ thẩm hoặc của Chánh án Tòa án khác cùng cấp được ủy thác ra quyết định
thi hành án. Theo khoản 1 Điều 256 Bộ luật Tố tụng hình sự, thì trong thời
hạn 7 ngày, kể từ ngày bản án, quyết định sơ thẩm có hiệu lực pháp luật hoặc
kể từ ngày nhận được bản án, quyết định phúc thẩm, quyết định giám đốc
thẩm, quyết định tái thẩm, Chánh án Tòa án đã xử sơ thẩm phải ra quyết định
thi hành án hoặc ủy thác cho Chánh án Tòa án khác cùng cấp ra quyết định thi
hành án.
Ngoài ra, đối với các trường hợp Tòa án Việt Nam tiếp nhận người
đang chấp hành án phạt tù ở nước ngoài về Việt Nam chấp hành án và đã có
quyết định thi hành thì Quyết định tiếp nhận của Tòa án Việt Nam là cơ sở để
thi hành án phạt tù. Tòa án cấp sơ thẩm có thẩm quyền ra quyết định tiếp nhận
thi hành án đối với người đang chấp hành án phạt tù ở nước ngoài về Việt
Nam chấp hành án là Tòa án nhân dân cấp tỉnh nơi cư trú cuối cùng ở Việt
Nam của người đang chấp hành án phạt tù ở nước chuyển giao (khoản 4 Điều 3
Thông tư liên tịch số 01/2013/TTLT-BCA-BTP-BNG-VKSNDTC-TANDTC
ngày 22/02/2013 của Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao, Viện kiểm sát
nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn việc tiếp nhận, chuyển
giao, tiếp tục thi hành án đối với người đang chấp hành án phạt tù).
Theo khoản 10 Điều 9 Thông tư liên tịch số 01/2013/TTLT-BCA-
BTP-BNG-VKSNDTC-TANDTC ngày 22/02/2013 của Bộ Công an, Bộ Tư
pháp, Bộ Ngoại giao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao
29
hướng dẫn việc tiếp nhận, chuyển giao, tiếp tục thi hành án đối với người
đang chấp hành án phạt tù thì quyết định tiếp nhận, từ chối tiếp nhận có hiệu
lực pháp luật bao gồm: Quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm không bị kháng
cáo, kháng nghị; Quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm.
Như vậy, trong trường hợp Tòa án nhân dân cấp tỉnh nơi cư trú cuối
cùng ở Việt Nam của người đang chấp hành án phạt tù ở nước chuyển giao ra
quyết định tiếp nhận tiếp tục thi hành án đối với người đang chấp hành án
phạt tù thì cũng phát sinh việc thi hành án phạt tù nếu không bị kháng cáo,
kháng nghị hoặc phát sinh ngay việc thi hành án phạt tù đối với quyết định
tiếp nhận của Tòa án cấp phúc thẩm.
Một trường hợp khác cũng phát sinh việc thi hành án phạt tù mặc dù
không phải là thi hành bản án phạt tù của Tòa án, đó là trường hợp người bị
kết án tử hình có quyết định ân giảm xuống tù chung thân. Trường hợp này
tuy pháp luật không quy định việc Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm ra
quyết định thi hành án phạt tù nhưng chúng tôi cho rằng, về mặt logic, Chánh
án Tòa án phải ra quyết định thi hành hình phạt tù (tù chung thân) đối với bị
án. Bởi vì, đây là quyết định quan trọng đánh dấu thời điểm người bị kết án
chấp hành án phạt tù để từ đó xác định việc xét giảm thời hạn chấp hành án
khi phạm nhân được giảm thời hạn chấp hành án xuống 20 năm tù và đảm bảo
được hồ sơ đưa người bị kết án đến nơi chấp hành án theo Điều 25 Luật Thi
hành án hình sự năm 2010; ngoài ra đối với người bị kết án đã bị tạm giữ, tạm
giam thì thời gian người đó đã bị tạm giữ, tạm giam cũng được trừ vào thời
gian người đó chấp hành án trong trường hợp được xét ân giảm từ hình phạt
tử hình xuống tù chung thân.
Như vậy, bản án phạt tù mặc dù đã phát sinh hiệu lực để đưa ra thi
hành trên thực tế, nó cũng chỉ được thi hành khi có quyết định thi hành án của
người có thẩm quyền. Việc ra quyết định thi hành án không phải là quyền hạn
của Viện kiểm sát nhân dân, Cơ quan thi hành án như trong thi hành án dân sự
30
mà là trách nhiệm, quyền hạn của Tòa án mà cụ thể là trách nhiệm, quyền hạn
của Chánh án Tòa án có thẩm quyền ra quyết định thi hành án. Quyết định thi
hành án xét đến cùng là văn bản áp dụng pháp luật, có ý nghĩa bắt buộc trong
việc đưa bản án phạt tù có thời hạn ra thi hành nhằm đảm bảo hiệu lực và hiệu
quả bản án của Tòa án [62, tr. 241-242].
Tóm lại, có thể nói, trong tố tụng hình sự, cơ sở thi hành hình phạt tù
chỉ có thể là bản án và quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật và
quyết định thi hành hình phạt tù của Chánh án Tòa án có thẩm quyền ra quyết
định thi hành án. Đây là cơ sở có tính nguyên tắc được pháp luật tố tụng hình
sự quy định, buộc các cơ quan, tổ chức có nhiệm vụ thi hành hình phạt tù phải
tuân theo trong việc đưa người bị kết án phạt tù vào thi hành hình phạt tại cơ
sở chấp hành án.
1.1.4. Cơ quan thi hành án phạt tù
Hệ thống tổ chức thi hành án hình sự gồm có: Cơ quan quản lý thi
hành án hình sự, Cơ quan thi hành án hình sự và cơ quan được giao một số
nhiệm vụ thi hành án hình sự. Trước đây, pháp luật về thi hành án hình sự
chưa quy định cụ thể về hệ thống tổ chức thi hành án hình sự mà mới chỉ quy
định về cơ quan, tổ chức có nhiệm vụ thi hành bản án, quyết định của Tòa án
tại Điều 257 Bộ luật Tố tụng hình sự. Điều đó dẫn đến một trong những hạn
chế của hoạt động thi hành án hình sự trong những năm qua là hoạt động này
vừa có sự tham gia của cơ quan chuyên trách, vừa có sự tham gia của chính
quyền địa phương, của các cơ quan nhà nước khác, tổ chức xã hội nhưng lại
chưa có một cơ quan đầu mối quản lý thống nhất; quan hệ phối hợp, phân công
nhiệm vụ giữa các ngành, các cấp và giữa các cơ quan, tổ chức có liên quan
trong việc tổ chức thi hành án hình sự chưa được quy định cụ thể, rõ ràng.
Việc quy định hệ thống tổ chức thi hành án hình sự là bước phát triển
trong hoạt động lập pháp của Nhà nước ta, phân định rõ ràng, rành mạch chức
năng của cơ quan quản lý thi hành án hình sự với các cơ quan trực tiếp thi
31
hành, bảo đảm sự phân công, phối hợp đồng bộ trong tổ chức thực hiện và
phù hợp với hệ thống tổ chức bộ máy hiện hành, nhất là chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Công an, bảo đảm quản lý tập trung
thống nhất công tác thi hành hình phạt, thi hành biện pháp tư pháp vào một
đầu mối theo tinh thần Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị nhằm nâng
cao hiệu lực, hiệu quả công tác này trong thời gian tới [1, tr. 30-31].
Khoản 2 Điều 10 Luật Thi hành án hình sự năm 2010 quy định cơ
quan thi hành án hình sự, bao gồm: Trại giam thuộc Bộ Công an, trại giam
thuộc Bộ Quốc phòng, trại giam thuộc quân khu (sau đây gọi là trại giam); Cơ
quan thi hành án hình sự Công an tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau
đây gọi là cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh); Cơ quan thi hành án
hình sự Công an huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi là cơ
quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện); Cơ quan thi hành án hình sự
quân khu và tương đương (sau đây gọi là cơ quan thi hành án hình sự cấp
quân khu).
Như vậy, Cơ quan thi hành án phạt tù (không thuộc quân đội nhân
dân) là cơ quan chuyên trách được Nhà nước giao nhiệm vụ thi hành bản án
phạt tù có thời hạn của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật đó là: Trại giam thuộc
Bộ Công an, Cơ quan thi hành án hình sự Công an tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương; Cơ quan thi hành án hình sự Công an huyện, quận, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh.
Thứ nhất, về trại giam. Theo quy định tại khoản 1 Điều 16 Luật Thi
hành án hình sự thì trại giam là cơ quan thi hành án phạt tù có nhiệm vụ,
quyền hạn trong việc tiếp nhận, tổ chức quản lý giam giữ, giáo dục cải tạo
phạm nhân và thực hiện các thủ tục pháp lý trong quá trình phạm nhân chấp
hành án tại trại giam theo quy định của pháp luật. Pháp lệnh Thi hành án phạt
tù năm 1993 và Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Thi
hành án phạt tù năm 2007 chỉ quy định: "trại giam là nơi chấp hành hình phạt
32
của người bị kết án tù" thì hiện nay, khoản 1 Điều 16 Luật Thi hành án hình
sự đã xác định đúng và chính xác hơn về địa vị pháp lý của Trại giam khi quy
định "Trại giam là cơ quan thi hành án phạt tù" [1, tr. 40].
Thứ hai, về cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh. Điều 13
Luật Thi hành án hình sự năm 2010 quy định nhiệm vụ quyền hạn của cơ
quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh; Trong đó có nhiệm vụ, quyền hạn
trong thi hành án phạt tù như: giúp Giám đốc Công an cấp tỉnh quản lý, chỉ
đạo công tác thi hành án hình sự trên địa bàn cấp tỉnh; Tiếp nhận quyết định
thi hành án hình sự của Tòa án có thẩm quyền; hoàn tất thủ tục, hồ sơ và danh
sách người chấp hành án phạt tù để báo cáo, đề nghị cơ quan, người có thẩm
quyền quyết định; Đề nghị Tòa án có thẩm quyền xem xét, quyết định tạm
đình chỉ chấp hành án phạt tù, giảm thời hạn chấp hành án phạt tù; Ra quyết
định truy nã và phối hợp tổ chức lực lượng truy bắt phạm nhân bỏ trốn khỏi
trại tạm giam hoặc cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, người
được hoãn, tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù...
Trước đây, theo Quyết định số 159/QĐ-BNV ngày 02/04/1996 của Bộ
Nội vụ (nay là Bộ Công an) về việc thành lập cơ sở chấp hành hình phạt của
người bị kết án tù trong trại tạm giam thì Trại tạm giam có cơ sở chấp hành
hình phạt (gọi là phân trại quản lý phạm nhân). Theo đó, người bị kết án tù
chấp hành hình phạt ở các phân trại quản lý phạm nhân phải là người có mức
án phạt tù từ 5 năm trở xuống; không phạm các tội cướp, giết người; không
phải là loại lưu manh chuyên nghiệp, côn đồ hung hãn, tái phạm.
Theo Điều 10 Quy chế về tạm giữ, tạm giam kèm theo Nghị định
89/1998/NĐ-CP ngày 7/11/1998 của Chính phủ thì Bộ Công an, Bộ Quốc
phòng, mỗi Công an tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi là
Công an cấp tỉnh), Quân khu, Quân đoàn và cấp tương đương trong Quân đội
nhân dân được tổ chức một hoặc hai Trại tạm giam. Thực tiễn hiện nay, Trại
tạm giam của Bộ Công an gồm 4 trại tạm giam, đó là Trại tạm giam B14, Trại
33
tạm giam T16 ở thành phố Hà Nội và Trại tạm giam T17, Trại tạm giam B34
ở Thành phố Hồ Chí Minh. Công an cấp tỉnh quản lý 66 trại tạm giam trên địa
bàn toàn quốc.
Theo Thông tư liên tịch số 07/2004/TTLT/BCA-VKSNDTC ngày
29/4/2004 của Bộ Công an và Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn một
số quy định về thi hành hình phạt tù đối với phạm nhân chấp hành hình phạt
tại nhà tạm giữ thì đối với nhà tạm giữ thuộc Công an cấp huyện thường
xuyên có từ 30 người bị tạm giữ, tạm giam trở lên được bố trí phạm nhân
phục vụ việc nấu ăn, đưa cơm, vận chuyển quà và đồ dùng sinh hoạt, làm vệ
sinh, sửa chữa nhà tạm giữ, phục vụ các yêu cầu nghiệp vụ giam giữ. Phạm
nhân chấp hành hình phạt tù tại nhà tạm giữ được lấy từ số phạm nhân của
phân trại quản lý phạm nhân trong trại tạm giam thuộc Công an cấp tỉnh, là
người phạm tội lần đầu, bị xử phạt tù từ 36 tháng trở xuống; không phạm các
tội: xâm phạm an ninh quốc gia; giết người; cướp tài sản; cưỡng đoạt tài sản;
mua bán, tàng trữ vũ khí quân dụng; các tội phạm về ma túy. Giám đốc Công
an cấp tỉnh quyết định đưa phạm nhân đến chấp hành hình phạt tù tại nhà tạm
giữ thuộc Công an cấp huyện.
Hiện nay, theo qui định tại Khoản 2 Điều 171 Luật Thi hành án hình
sự thì Bộ trưởng Bộ Công an căn cứ yêu cầu quản lý người bị tạm giam, tạm
giữ để quyết định đưa người chấp hành án phạt tù có thời hạn từ 5 năm trở
xuống không phải là người chưa thành niên, người nước ngoài, người mắc
bệnh truyền nhiễm nguy hiểm hoặc nghiện ma túy để phục vụ việc tạm giam,
tạm giữ. Số lượng người chấp hành án phạt tù phục vụ việc tạm giam, tạm giữ
được tính theo tỷ lệ trên tổng số người bị tạm giam, tạm giữ nhưng tối đa
không vượt quá 15%. Mục đích để lại số phạm nhân trong trại tạm giam là
nhằm: thường xuyên phục vụ việc nấu ăn, đưa cơm, vận chuyển quà, đồ cùng
sinh hoạt, làm vệ sinh, sửa chữa, xây dựng Trại tạm giam, Nhà tạm giữ và
phục vụ yêu cầu nghiệp vụ giam, giữ.
34
Như vậy, đối với người bị kết án phạt tù chấp hành án tại phân trại
quản lý phạm nhân của Trại tạm giam Công an tỉnh sẽ do Cơ quan thi hành án
hình sự công an cấp tỉnh quản lý. Ngày 24/12/2010, Tổng cục trưởng Tổng
cục Xây dựng lực lượng Công an nhân dân đã ban hành Quyết định số
10968/QĐ-X11 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy
của Phòng Cảnh sát thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp cấp tỉnh. Xuất phát
từ quy định pháp luật về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy
Công an cấp tỉnh thì Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh được gắn
với phòng Cảnh sát thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp. Đến nay, trên toàn
quốc đã có 63/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành lập Phòng
Cảnh sát thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp cấp tỉnh để thực hiện các
nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật.
Thứ ba, về cơ quan thi hành án hình sự công an cấp huyện. Điều 13
Luật Thi hành án hình sự năm 2010 quy định nhiệm vụ quyền hạn của cơ
quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh; trong đó có nhiệm vụ, quyền hạn
trong thi hành án phạt tù như giúp Trưởng Công an cấp huyện quản lý, chỉ
đạo công tác thi hành án hình sự trên địa bàn cấp huyện; Áp giải thi hành án
đối với người bị kết án phạt tù đang được tại ngoại, được hoãn, tạm đình chỉ;
Trực tiếp quản lý số phạm nhân phục vụ tại nhà tạm giữ; Tống đạt quyết định
thi hành án cho người bị kết án phạt tù đang ở nhà tạm giữ và báo cáo cơ quan
thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh; Lập hồ sơ và báo cáo cơ quan thi hành
án hình sự Công an cấp tỉnh để đề nghị cơ quan quản lý thi hành án hình sự
thuộc Bộ Công an ra quyết định đưa người bị kết án phạt tù đang ở nhà tạm
giữ, được hoãn, tạm đình chỉ chấp hành án đi chấp hành án; đề nghị cơ quan
có thẩm quyền ra quyết định truy nã đối với người trốn thi hành án phạt tù...
Xuất phát từ quy định trên và chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ
chức bộ máy Công an cấp huyện thì Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp
huyện được gắn với Đội Cảnh sát thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp cấp
huyện. Đây là quy định mới nhằm khắc phục những tồn tại, hạn chế trong
35
việc tổ chức, theo dõi, quản lý thi hành các án phạt ngoài tù, tử hình, trục xuất
thời gian qua, góp phần thống nhất quản lý nhà nước về công tác thi hành án
hình sự trong phạm vi cả nước [1, tr. 38].
1.2. NHẬN THỨC CHUNG VỀ KIỂM SÁT THI HÀNH ÁN PHẠT TÙ
1.2.1. Khái niệm, chủ thể, đối tƣợng, phạm vi, đặc điểm hoạt động
kiểm sát thi hành án phạt tù
Theo Từ điển Tiếng Việt thì "kiểm sát" có nghĩa là "kiểm tra và giám
sát việc chấp hành pháp luật của Nhà nước". Theo qui định của pháp luật
nước ta và thực tiễn hoạt động kiểm sát cũng có nghĩa như vậy. Khi thực hiện
nhiệm vụ và quyền hạn của chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp, Viện kiểm
sát chỉ kiểm tra, giám sát các hoạt động của chủ thể bị kiểm sát. Trong quá
trình giám sát nếu phát hiện hoạt động của chủ thể bị kiểm sát có dấu hiệu vi
phạm pháp luật, Viện kiểm sát có thể áp dụng các biện pháp kiểm sát như
quyền yêu cầu chủ thể bị kiểm sát tự kiểm tra và báo cáo kết quả cho Viện
kiểm sát biết hoặc tự mình trực tiếp kiểm tra... Nếu qua hoạt động kiểm tra mà
phát hiện có căn cứ xác định chủ thể bị kiểm sát có hành vi vi phạm pháp luật
thì Viện kiểm sát chỉ có quyền kiến nghị, kháng nghị, yêu cầu chủ thể bị kiểm
sát thực hiện đúng qui định của pháp luật, khắc phục vi phạm và áp dụng các
biện pháp phòng ngừa. Viện kiểm sát không phải là cấp trên, cấp quản lý của
chủ thể bị kiểm sát nên không có quyền trực tiếp can thiệp vào hoạt động của
chủ thể bị kiểm sát. Viện kiểm sát cũng không có quyền thực hiện thay các
hoạt động của chủ thể bị kiểm sát hoặc ban hành quyết định, mệnh lệnh buộc
chủ thể bị kiểm sát phải tuân theo, ngoại trừ trường hợp đặc biệt. Đó là, trong
quá trình kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự, Viện kiểm
sát nhân dân có quyền và trách nhiệm quyết định trả tự do ngay cho người bị
tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành án phạt tù không có căn cứ và trái
pháp luật. Cơ quan có liên quan phải có trách nhiệm thi hành quyết định này
của Viện kiểm sát. Thẩm quyền trên của Viện kiểm sát không phải xuất phát
36
hay bắt nguồn từ chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp mà từ bản chất của
Nhà nước pháp quyền, từ sự bảo đảm và tôn trọng quyền con người, quyền tự
do dân chủ của công dân của Nhà nước ta [57, tr. 26-27].
Như vậy, kiểm sát hoạt động tư pháp nói chung và kiểm sát thi hành án
hình sự nói riêng là chức năng hiến định của Viện kiểm sát, một dạng giám sát
nhà nước về tư pháp, là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước. Mục đích của
kiểm sát các hoạt động tư pháp là nhằm bảo đảm cho pháp luật được chấp hành
nghiêm chỉnh và thống nhất trong quá trình hoạt động tư pháp của các chủ thể.
Thi hành án phạt tù là một dạng hoạt động thi hành bản án và quyết
định hình sự của Tòa án (thi hành án hình sự), theo đó, Viện kiểm sát có trách
nhiệm áp dụng những biện pháp do Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Thi hành án
hình sự và các văn bản hướng dẫn thi hành quy định để loại trừ việc làm vi
phạm pháp luật của bất kỳ cơ quan, đơn vị, cá nhân nào tham gia vào quá
trình thi hành án phạt tù. Đối tượng của kiểm sát thi hành án phạt tù không
những là các hoạt động thi hành án của các cơ quan thi hành án phạt tù và của
các cá nhân thuộc cơ quan này mà còn là các hoạt động của Tòa án trong việc
ra quyết định thi hành án phạt tù, cơ quan quản lý thi hành án hình sự, cá nhân,
cơ quan, tổ chức tham gia hoạt động khác ở giai đoạn thi hành án phạt tù.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 10 Luật Thi hành án hình sự, các chủ
thể với tư cách là Cơ quan thi hành án hình sự thì việc tuân theo pháp luật của
các chủ thể này trong hoạt động thi hành án hình sự là đối tượng của hoạt
động kiểm sát thi hành án hình sự, trong đó có thi hành án phạt tù bao gồm:
Trại giam thuộc Bộ Công an; Cơ quan thi hành án hình sự Công an tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi là cơ quan thi hành án hình sự Công an
cấp tỉnh); Cơ quan thi hành án hình sự Công an huyện, quận, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh (sau đây gọi là cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện).
Phạm vi của hoạt động kiểm sát thi hành án phạt tù là chỉ thời điểm
bắt đầu và kết thúc các hoạt động của hoạt động kiểm sát này. Khi tiến hành
37
hoạt động kiểm sát thi hành án phạt tù, Viện kiểm sát nhân dân thực hiện các
hoạt động trong phạm vi đã xác định. Nếu vượt quá giới hạn của phạm vi sẽ
dẫn đến sự chồng chéo, trùng lặp lên công việc của hoạt động khác, của bộ
phận khác và của cơ quan khác... làm giảm hiệu quả và tác dụng của hoạt
động kiểm sát. Việc xác định đúng phạm vi của từng hoạt động kiểm sát là để
đảm bảo tính liên tục, tính thống nhất trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm
vụ của Viện kiểm sát nhân dân, vì thế việc xác định phạm vi của hoạt động kiểm
sát thi hành án phạt tù là hết sức cần thiết, không chỉ đảm bảo cho hoạt động
này không chồng chéo, nhầm lẫn sang hoạt động kiểm sát khác mà còn đảm
bảo không bỏ trống, bỏ sót phạm vi xem xét của hoạt động kiểm sát thi hành
án phạt tù. Việc xác định đúng phạm vi của hoạt động là một trong những yếu tố
để nâng cao hiệu quả của hoạt động kiểm sát thi hành án phạt tù [41, tr. 8-9].
Căn cứ vào chương V, VI Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm
2002 và quy chế công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình
sự ban hành kèm theo Quyết định số 35/QĐ-VKSTC-V4 ngày 29/01/2013
của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao thì phạm vi hoạt động kiểm
sát thi hành án phạt tù được xác định từ khi bản án, quyết định thi hành án
phạt tù được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án hình sự năm 2010 (chưa
có quyết định thi hành án) cho đến khi chấm dứt việc thi hành án phạt tù theo
quy định của pháp luật.
Như vậy, việc xác định thời điểm chấm dứt việc thi hành án phạt tù
theo quy định của pháp luật có ý nghĩa rất quan trọng. Như trên chúng tôi đã
phân tích thì thi hành án phạt tù là việc cơ quan, người có thẩm quyền thực
hiện các quyết định hình phạt tù trong bản án, quyết định của Tòa án đã có
hiệu lực pháp luật trên thực tế...; và tất nhiên, việc thi hành án phạt tù chấm
dứt khi hình phạt tù chấm dứt. Tuy nhiên, không phải mọi trường hợp đều
chấm dứt việc thi hành án phạt tù khi người bị kết án chấp hành xong hình
phạt tù trong bản án mà có thể kết thúc trước thời điểm này hoặc ngay cả khi
38
người bị kết án chưa chấp hành hình phạt tù. Điều này xảy ra trong một số
trường hợp sau:
Thứ nhất, người bị kết án được miễn chấp hành hình phạt tù. Theo quy
định các khoản 1, 2, 3 và 4 Điều 57 Bộ luật Hình sự năm 1999 về miễn chấp
hành hình phạt thì: Đối với người bị kết án cải tạo không giam giữ, tù có thời
hạn, chưa chấp hành hình phạt mà lập công lớn hoặc mắc bệnh hiểm nghèo và
nếu người đó không còn nguy hiểm cho xã hội nữa, thì theo đề nghị của Viện
trưởng Viện Kiểm sát, Tòa án có thể quyết định miễn chấp hành toàn bộ hình
phạt. Người bị kết án được miễn chấp hành hình phạt khi được đặc xá hoặc
đại xá. Đối với người bị kết án về tội ít nghiêm trọng đã được hoãn chấp hành
hình phạt theo quy định tại Điều 61 của Bộ luật này, nếu trong thời gian được
hoãn đã lập công, thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện Kiểm sát, Tòa án có
thể quyết định miễn chấp hành hình phạt. Đối với người bị kết án phạt tù về
tội ít nghiêm trọng đã được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt theo quy định
tại Điều 62 của Bộ luật này, nếu trong thời gian được tạm đình chỉ mà đã lập
công, thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện Kiểm sát, Tòa án có thể quyết
định miễn chấp hành phần hình phạt còn lại.
Như vậy, đối với người bị kết án phạt tù có thể được miễn chấp hành
toàn bộ hoặc một phần hình phạt tù. Người bị kết án phạt tù có thể được miễn
chấp hành toàn bộ hình phạt tù trong trường hợp bị kết án phạt tù có thời hạn
chưa chấp hành hình phạt mà lập công lớn hoặc mắc bệnh hiểm nghèo và nếu
không còn nguy hiểm cho xã hội nữa; ngoài ra đối với trường hợp người bị
kết án về tội ít nghiêm trọng đã được hoãn chấp hành hình phạt mà trong thời
gian hoãn đã lập công thì có thể được miễn chấp hành hình phạt tù. Người bị
kết án phạt tù có thể được miễn một phần hình phạt tù trong trường hợp khi
được đặc xá, đại xá hoặc đối với trường hợp người bị kết án phạt tù về tội ít
nghiêm trọng đã được tạm đình chỉ, nếu trong thời gian được tạm đình chỉ mà
đã lập công thì có thể được miễn chấp hành hình phạt còn lại. Các điều kiện
về lập công, lập công lớn hoặc bệnh hiểm nghèo được giải thích tại mục 2
39
Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP ngày 02/10/2007 của Hội đồng Thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Hình
sự về thời hiệu thi hành bản án, miễn chấp hành hình phạt, giảm thời hạn chấp
hành hình phạt.
Thứ hai, có quyết định đình chỉ chấp hành hình phạt tù. Theo quy định
tại khoản 2 Điều 49 Luật Thi hành án hình sự năm 2010 thì trong trường hợp
phạm nhân chết, Tòa án đã ra quyết định thi hành án phải ra quyết định đình
chỉ việc chấp hành hình phạt tù và đương nhiên trong trường hợp này bản án
và quyết định phạt tù hết hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, nếu xem xét trong
trường hợp bản án đã có hiệu lực pháp luật, Tòa án có thẩm quyền chưa ra
quyết định thi hành án phạt tù hoặc đã ra quyết định thi hành án phạt tù nhưng
chưa đưa người bị kết án phạt tù đến cơ sở chấp hành án phạt tù để chấp hành
án mà người bị kết án chết thì pháp luật tố tụng hình sự chưa điều chỉnh. Theo
quan điểm của chúng tôi, đối với trường hợp này, Chánh án Tòa án có thẩm
quyền phải ra quyết định thi hành án (nếu chưa ra quyết định thi hành án) và
phải ra quyết định đình chỉ chấp hành hình phạt tù.
Thứ ba, người bị kết án chấp hành xong hình phạt tù. Theo quy định
tại khoản 2 Điều 40 Luật Thi hành án hình sự năm 2010 thì vào ngày cuối
cùng của thời hạn chấp hành án phạt tù, trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi
hành án hình sự Công an cấp tỉnh hoàn chỉnh thủ tục theo quy định của pháp
luật để trả tự do cho phạm nhân.... Như vậy, trong trường hợp người bị kết án
chấp hành xong hình phạt tù trong bản án thì việc thi hành án phạt tù kết thúc.
Trên cơ sở các phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm:
Kiểm sát thi hành án phạt tù là hoạt động của Viện kiểm sát
nhân dân trong việc áp dụng các biện pháp do pháp luật quy định để
kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án, cơ quan thi hành án
hình sự, cơ quan, tổ chức có trách nhiệm trong việc thi hành án phạt
tù, nhằm bảo đảm việc thi hành án phạt tù được thực hiện đúng
pháp luật, đầy đủ, kịp thời [42, tr. 3].
40
1.2.2. Lịch sử hình thành và phát triển quy định của pháp luật về
kiểm sát thi hành án phạt tù tại Việt Nam từ khi thành lập Viện Kiểm sát
nhân dân
Công tác kiểm sát thi hành án hình sự nói chung và kiểm sát thi hành
án phạt tù nói riêng được Nhà nước rất quan tâm ngay từ khi mới được thành
lập. Trước khi Viện kiểm sát nhân dân ra đời (năm 1960) ở nước ta đã có
Viện công tố. Năm 1946, căn cứ vào Hiến pháp đầu tiên của nhà nước ta, tổ
chức Viện công tố được thành lập trong hệ thống Tòa án từ cấp tỉnh trở lên và
trực thuộc Bộ Tư pháp. Ngày 12/6/1951, Liên bộ Nội vụ - Tư pháp ban hành
Nghị định số 131 quy định chi tiết thi hành Sắc lệnh số 150-SL ngày
7/11/1950; trong đó giao cho công tố viện quyền kiểm soát ban giám thị trại
giam. Nghị định quy định đặt ra chế độ giám sát của công tố viện đối với việc
giam giữ của ban giám thị trại giam. Về phương diện giam giữ, ban giám thị
trại giam đặt dưới quyền kiểm soát của công tố viện tỉnh hoặc công tố ủy viên
liên khu; đồng thời ban hành quy tắc trại giam. Theo đó, hoạt động của ban
giám thị trại giam phải báo cáo công tố ủy viên cùng cấp về quá trình quản lý
giáo dục phạm nhân trong trại giam. Các công tố ủy viên phải thường kỳ đi
kiểm tra trại giam mỗi tháng một lần hoặc kiểm tra bất thường để phát hiện,
xử lý những vi phạm của ban giám thị trại giam trong việc giam giữ và cải tạo.
Ngày 05/12/1957, Bộ Tư pháp ra Thông tư số 141-HCTP quy định về
phân công trong nội bộ các tòa án. Theo đó, tòa án có chánh án và công tố
ủy viên, ở những nơi nhiều việc có thể có phó chánh án, phó công tố ủy viên
và thẩm phán. Công tố ủy viên thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn độc lập,
không chịu sự lãnh đạo của chánh án mà dưới sự lãnh đạo của Bộ Tư pháp
và trong đó, công tố ủy viên dưới sự lãnh đạo của Bộ Tư pháp có nhiệm vụ
thi hành và đôn đốc việc thi hành các bản án, quyết định của tòa án về hình
sự, dân sự và kiểm sát chế độ giam giữ ở các trại giam, trại cải tạo có hợp
pháp không... [59, tr. 73-74].
41
Khoản d, e Điều 3 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960
quy định: Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân địa phương
các cấp thi hành nhiệm vụ trên bằng cách: ... Kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong việc xét xử của tòa án nhân dân và trong việc chấp hành các bản án;
Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giam giữ của các trại giam;....
Để thực hiện công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc
giam giữ của các trại giam, Pháp lệnh quy định cụ thể về tổ chức của Viện
kiểm sát nhân dân tối cao ngày 16/04/1962 quy định bộ máy làm việc của
Viện kiểm sát nhân dân tối cao; trong đó quy định về chức năng Phòng kiểm
sát giam giữ (nay là Vụ kiểm sát tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự)
trực thuộc Viện trưởng.
Tuy nhiên, trước năm 1994, trong ngành kiểm sát nhân dân chưa có hệ
thống tổ chức bộ máy riêng để thực hiện công tác kiểm sát thi hành án nói
chung và kiểm sát thi hành án hình sự nói riêng. Thời kỳ này, công tác kiểm
sát thi hành án hình sự ở Viện kiểm sát nhân dân tối cao được giao cho Vụ
kiểm sát xét xử hình sự (Vụ 3) đảm nhiệm và ở Viện kiểm sát nhân dân cấp
tỉnh thì giao cho Phòng kiểm sát việc giam, giữ, cải tạo hoặc Phòng kiểm sát
xét xử hình sự thực hiện. Còn ở các Viện kiểm sát cấp huyện thì chưa có
Kiểm sát viên chuyên trách thực hiện công tác kiểm sát thi hành án. Ngày
15/3/1994, Vụ kiểm sát thi hành án được thành lập, là một đơn vị nghiệp vụ
thuộc tổ chức bộ máy của Viện kiểm sát nhân dân tối cao từ đó, ở các Viện
kiểm sát nhân dân cấp tỉnh bắt đầu thành lập các Phòng kiểm sát thi hành án.
Phạm vi giữa công tác kiểm sát việc thi hành án với công tác kiểm sát việc
tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù được phân
định theo Quyết định số 12/QĐ ngày 08/03/1995 của Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân tối cao.
Sau khi Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 được ban
hành thì hai công tác này được tách ra thành công tác kiểm sát tạm giữ, tạm
42
giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù và công tác kiểm sát thi
hành án. Tuy nhiên, trong lĩnh vực kiểm sát việc thi hành án phạt tù (bao gồm
phạt tù có thời hạn và tù chung thân) thì hai công tác kiểm sát này đều có đối
tượng kiểm sát liên quan đến việc thi hành án phạt tù, nên để tránh chồng
chéo, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao cũng đã ban hành hướng
dẫn riêng về phân định phạm vi giữa hai công tác kiểm sát này. Theo quy định
tại Điều 4 Quy chế công tác Kiểm sát thi hành án (ban hành kèm theo Quyết
định số 807/2007/QĐ-VKSTC ngày 25/07/2007 của Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân tối cao) thì công tác kiểm sát thi hành án phạt tù bắt đầu từ khi
bản án phạt tù của Tòa án có hiệu lực pháp luật cho đến khi đưa người bị kết
án vào trại giam và kết thúc khi người bị kết án chấp hành xong hình phạt, ra
khỏi trại giam và cho đến khi họ được xóa án tích. Những hoạt động thi hành
án phạt tù trong thời gian từ khi người bị kết án vào trại giam cho đến khi họ
ra khỏi trại là đối tượng kiểm sát của công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm
giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù. Tuy nhiên, quá trình
chấp hành án trong trại, có việc được giao cho công tác kiểm sát thi hành án,
có việc giao cho công tác kiểm sát việc quản lý, giáo dục người chấp hành án
phạt tù theo Chỉ thị số 03/2004/CT-VKSTC-V10 [59, tr. 10].
Hiện nay, theo Quyết định số 01/QĐ-VKSTC-V9 ngày 10/12/2010
của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao thì kể từ ngày 01/01/2011 thì
Vụ kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án
phạt tù Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Phòng Kiểm sát việc tạm giữ, tạm
giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù Viện kiểm sát nhân dân
cấp tỉnh thực hiện chức năng, nhiệm vụ kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam và
kiểm sát thi hành án hình sự; bộ phận Kiểm sát thi hành án Viện kiểm sát
nhân dân cấp huyện thực hiện chức năng, nhiệm vụ kiểm sát việc tạm giữ,
tạm giam và thi hành án dân sự, thi hành án hình sự ở địa phương. Như vậy,
khâu công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người
chấp hành án phạt tù đảm nhiệm toàn bộ việc kiểm sát thi hành án hình sự.
43
Nghị quyết số 522d/NQ-UBTVQH13 ngày 16/8/2012 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội về việc phê chuẩn việc điều chỉnh, bổ sung nhiệm vụ và đổi tên một
số đơn vị thuộc bộ máy làm việc của Viện kiểm sát nhân dân tối cao phê
chuẩn Quyết định số 202/QĐ-VKSTC-V9 ngày 02/8/2012 của Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao về việc điều chỉnh, bổ sung nhiệm vụ và đổi
tên một số đơn vị thuộc bộ máy làm việc của Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
theo đó bổ sung nhiệm vụ kiểm sát thi hành án hình sự cho Vụ kiểm sát việc
tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù và đổi tên
thành Vụ kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự.
Như vậy, nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc chấp
hành các bản án trong đó có việc chấp hành các bản án phạt tù và kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong việc giam giữ của các trại giam (trại cải tạo)
được quy định ngay khi Viện kiểm sát nhân dân được thành lập và được kế
thừa cho đến hiện nay.
1.3. THI HÀNH ÁN PHẠT TÙ VÀ KIỂM SÁT THI HÀNH ÁN PHẠT TÙ
TRONG PHÁP LUẬT Ở MỘT SỐ NƢỚC TRÊN THẾ GIỚI
1.3.1. Thi hành án phạt tù và kiểm sát thi hành án phạt tù trong
pháp luật Liên bang Nga
Bộ luật Tố tụng hình sự Liên bang Nga được Đuma Quốc gia thông
qua ngày 22/11/2001; sau đó được sửa đổi, bổ sung nhiều lần và lần sửa gần
đây nhất là ngày 18/10/2011. Bộ luật Tố tụng hình sự Liên bang Nga gồm 6
phần lớn với 475 điều gồm: Phần thứ nhất quy định những quy định chung;
Phần thứ hai quy định về thủ tục tố tụng trước khi xét xử; Phần thứ ba quy
định về thủ tục xét xử; Phần thứ tư quy định về thủ tục tố tụng đặc biệt; Phần
thứ năm quy định về hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự và Phần thứ sáu
quy định về mẫu các văn bản tố tụng. Trong đó phần thứ ba quy định về thủ
tục xét xử, gồm 7 chương (từ chương IX đến chương V) với 193 Điều quy
định tất cả các nội dung liên quan đến xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc,
Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù
Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù
Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù
Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù
Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù
Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù
Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù
Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù
Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù
Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù
Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù
Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù
Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù
Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù
Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù
Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù
Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù
Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù
Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù
Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù
Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù
Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù
Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù
Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù
Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù
Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù
Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù
Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù
Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù
Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù
Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù
Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù
Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù
Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù
Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù
Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù
Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù
Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù
Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù
Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù
Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù
Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù
Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù
Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù
Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù
Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù
Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù
Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù
Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù
Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù
Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù
Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù
Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù
Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù
Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù
Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù
Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù
Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù
Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù
Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù
Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù
Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù
Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù
Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù
Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù
Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù
Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù
Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù
Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù
Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù
Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù
Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù
Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù
Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù
Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù
Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù
Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù

More Related Content

What's hot

What's hot (18)

Luận văn: Thi hành án treo từ thực tiễn tỉnh Lâm Đồng, HAY, 9đ
Luận văn: Thi hành án treo từ thực tiễn tỉnh Lâm Đồng, HAY, 9đLuận văn: Thi hành án treo từ thực tiễn tỉnh Lâm Đồng, HAY, 9đ
Luận văn: Thi hành án treo từ thực tiễn tỉnh Lâm Đồng, HAY, 9đ
 
Luận văn: Chế định án treo theo pháp luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Chế định án treo theo pháp luật hình sự Việt Nam, HAYLuận văn: Chế định án treo theo pháp luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Chế định án treo theo pháp luật hình sự Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Hình phạt cải tạo không giam giữ theo pháp luật hình sự
Luận văn: Hình phạt cải tạo không giam giữ theo pháp luật hình sựLuận văn: Hình phạt cải tạo không giam giữ theo pháp luật hình sự
Luận văn: Hình phạt cải tạo không giam giữ theo pháp luật hình sự
 
Đề tài: Thời hạn tố tụng trước xét xử trong luật tố tụng, HAY
Đề tài: Thời hạn tố tụng trước xét xử trong luật tố tụng, HAYĐề tài: Thời hạn tố tụng trước xét xử trong luật tố tụng, HAY
Đề tài: Thời hạn tố tụng trước xét xử trong luật tố tụng, HAY
 
Luận văn: Chế định án treo theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Chế định án treo theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Chế định án treo theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Chế định án treo theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
 
Luận văn: Pháp luật về hoãn thi hành án hình sự ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Pháp luật về hoãn thi hành án hình sự ở Việt Nam, HOTLuận văn: Pháp luật về hoãn thi hành án hình sự ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Pháp luật về hoãn thi hành án hình sự ở Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự Việt NamLuận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự Việt Nam
 
Tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm tại Tòa án quân sự, 9đ
Tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm tại Tòa án quân sự, 9đTranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm tại Tòa án quân sự, 9đ
Tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm tại Tòa án quân sự, 9đ
 
Đề tài: Quyết định hình phạt tù có thời hạn theo luật hình sự, HAY
Đề tài: Quyết định hình phạt tù có thời hạn theo luật hình sự, HAYĐề tài: Quyết định hình phạt tù có thời hạn theo luật hình sự, HAY
Đề tài: Quyết định hình phạt tù có thời hạn theo luật hình sự, HAY
 
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sự
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sựLuận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sự
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sự
 
Luận văn: Giám đốc thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng
Luận văn: Giám đốc thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụngLuận văn: Giám đốc thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng
Luận văn: Giám đốc thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng
 
Luận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại tỉnh Bắc Ninh
Luận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại tỉnh Bắc NinhLuận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại tỉnh Bắc Ninh
Luận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại tỉnh Bắc Ninh
 
Luận văn: Vấn đề lý luận thực tiễn về thi hành hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề lý luận thực tiễn về thi hành hình phạt tử hìnhLuận văn: Vấn đề lý luận thực tiễn về thi hành hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề lý luận thực tiễn về thi hành hình phạt tử hình
 
Luận văn: Bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự tại TP Đà Nẵng
Luận văn: Bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự tại TP Đà NẵngLuận văn: Bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự tại TP Đà Nẵng
Luận văn: Bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự tại TP Đà Nẵng
 
Luận văn: Tội cản trở việc thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cản trở việc thi hành án theo Luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội cản trở việc thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cản trở việc thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam, HOTLuận văn: Giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
Luận văn: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sựLuận văn: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
Luận văn: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
 

Similar to Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù

Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông NôLuận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông NôViết Thuê Luận Văn Luanvanpanda.com
 
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông NôLuận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông NôViết Thuê Luận Văn Luanvanpanda.com
 
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông NôLuận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông NôNhận Viết Đề Tài Thuê trangluanvan.com
 
ưỡng chế thi hành án dân sự trên địa bàn huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông
ưỡng chế thi hành án dân sự trên địa bàn huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nôngưỡng chế thi hành án dân sự trên địa bàn huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông
ưỡng chế thi hành án dân sự trên địa bàn huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nônghieu anh
 

Similar to Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù (20)

Đề tài: Kiểm sát tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự, HAY
Đề tài: Kiểm sát tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự, HAYĐề tài: Kiểm sát tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự, HAY
Đề tài: Kiểm sát tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự, HAY
 
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOTThi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT
 
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông NôLuận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
 
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông NôLuận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
 
Luận văn: Xác minh điều kiện thi hành án theo pháp luật, HOT
Luận văn: Xác minh điều kiện thi hành án theo pháp luật, HOTLuận văn: Xác minh điều kiện thi hành án theo pháp luật, HOT
Luận văn: Xác minh điều kiện thi hành án theo pháp luật, HOT
 
Luận án: Thời hạn tố tụng trong luật tố tụng hình sự tại Việt Nam
Luận án: Thời hạn tố tụng trong luật tố tụng hình sự tại Việt NamLuận án: Thời hạn tố tụng trong luật tố tụng hình sự tại Việt Nam
Luận án: Thời hạn tố tụng trong luật tố tụng hình sự tại Việt Nam
 
Luận án: Thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự
Luận án: Thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sựLuận án: Thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự
Luận án: Thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự
 
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt NamLuận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
 
Luận văn: Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hình sự theo luật
Luận văn: Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hình sự theo luật Luận văn: Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hình sự theo luật
Luận văn: Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hình sự theo luật
 
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông NôLuận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
 
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAYLuận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
 
Luận văn: Kiểm soát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm soát, HOT
Luận văn: Kiểm soát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm soát, HOTLuận văn: Kiểm soát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm soát, HOT
Luận văn: Kiểm soát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm soát, HOT
 
ưỡng chế thi hành án dân sự trên địa bàn huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông
ưỡng chế thi hành án dân sự trên địa bàn huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nôngưỡng chế thi hành án dân sự trên địa bàn huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông
ưỡng chế thi hành án dân sự trên địa bàn huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông
 
Luan van cuong che thi hanh an dan su tai tinh Dak Nong, HOT
Luan van cuong che thi hanh an dan su tai tinh Dak Nong, HOTLuan van cuong che thi hanh an dan su tai tinh Dak Nong, HOT
Luan van cuong che thi hanh an dan su tai tinh Dak Nong, HOT
 
Luận văn: Cưỡng chế thi hành án dân sự tại tỉnh Đắk Nông
Luận văn: Cưỡng chế thi hành án dân sự tại tỉnh Đắk NôngLuận văn: Cưỡng chế thi hành án dân sự tại tỉnh Đắk Nông
Luận văn: Cưỡng chế thi hành án dân sự tại tỉnh Đắk Nông
 
Luận văn: Cưỡng chế thi hành án dân sự tỉnh Đắk Nông, HAY
Luận văn: Cưỡng chế thi hành án dân sự tỉnh Đắk Nông, HAYLuận văn: Cưỡng chế thi hành án dân sự tỉnh Đắk Nông, HAY
Luận văn: Cưỡng chế thi hành án dân sự tỉnh Đắk Nông, HAY
 
Đề tài: Pháp luật về quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán
Đề tài: Pháp luật về quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phánĐề tài: Pháp luật về quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán
Đề tài: Pháp luật về quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán
 
Luận văn: Pháp luật về hoãn thi hành án hình sự, HAY
Luận văn: Pháp luật về hoãn thi hành án hình sự, HAYLuận văn: Pháp luật về hoãn thi hành án hình sự, HAY
Luận văn: Pháp luật về hoãn thi hành án hình sự, HAY
 
Luận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAYLuận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
 
Luận văn: Tội cản trở việc thi hành án theo Luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội cản trở việc thi hành án theo Luật hình sự, HAYLuận văn: Tội cản trở việc thi hành án theo Luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội cản trở việc thi hành án theo Luật hình sự, HAY
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864

Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docDịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864 (20)

Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.docYếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
 
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.docTừ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
 
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
 
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.docTác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
 
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.docSong Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
 
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.docỨng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
 
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.docVai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
 
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.docThu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
 

Recently uploaded

Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfTrnHoa46
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxpowerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxAnAn97022
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoámyvh40253
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfVyTng986513
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 

Recently uploaded (20)

Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxpowerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 

Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù

  • 1. 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐINH HOÀNG QUANG MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG KIỂM SÁT THI HÀNH ÁN PHẠT TÙ LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2013
  • 2. 2 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐINH HOÀNG QUANG MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG KIỂM SÁT THI HÀNH ÁN PHẠT TÙ Chuyên ngành : Luật hình sự Mã số : 60 38 40 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Đỗ Ngọc Quang HÀ NỘI - 2013
  • 3. 3 Lêi cam ®oan T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña luËn v¨n ch-a tõng ®-îc ai c«ng bè trong bÊt kú c«ng tr×nh nµo kh¸c. T¸c gi¶ luËn v¨n §inh Hoµng Quang
  • 4. 4 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bảng MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THI HÀNH ÁN PHẠT TÙ VÀ KIỂM SÁT THI HÀNH ÁN PHẠT TÙ 7 1.1. Một số vấn đề lý luận về thi hành án phạt tù 7 1.1.1. Những khái niệm có liên quan đến thi hành án phạt tù 7 1.1.2. Mục đích và ý nghĩa của việc thi hành án phạt tù 15 1.1.3. Cơ sở pháp lý của thi hành án phạt tù 17 1.1.4. Cơ quan thi hành án phạt tù 23 1.2. Nhận thức chung về kiểm sát thi hành án phạt tù 28 1.2.1. Khái niệm, chủ thể, đối tượng, phạm vi, đặc điểm hoạt động kiểm sát thi hành án phạt tù 28 1.2.2. Lịch sử hình thành và phát triển quy định của pháp luật về kiểm sát thi hành án phạt tù tại Việt Nam từ khi thành lập Viện Kiểm sát nhân dân 33 1.3. Thi hành án phạt tù và kiểm sát thi hành án phạt tù trong pháp luật ở một số nước trên thế giới 36 1.3.1. Thi hành án phạt tù và kiểm sát thi hành án phạt tù trong pháp luật Liên bang Nga 36 1.3.2. Thi hành án phạt tù và kiểm sát thi hành án phạt tù trong pháp luật Vương quốc Anh 38
  • 5. 5 1.3.3. Thi hành án phạt tù và kiểm sát thi hành án phạt tù trong pháp luật Cộng hòa Pháp 40 1.3.4. Thi hành án phạt tù và kiểm sát thi hành án phạt tù trong pháp luật Nhật Bản 43 Chương 2: THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG KIỂM SÁT CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG THI HÀNH ÁN PHẠT TÙ 46 2.1. Quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động kiểm sát thi hành án phạt tù 46 2.1.1. Yêu cầu Tòa án cùng cấp và cấp dưới ra quyết định thi hành án phạt tù đúng quy định của pháp luật 46 2.1.2. Yêu cầu Tòa án, cơ quan thi hành án hình sự tự kiểm tra, cung cấp hồ sơ, tài liệu có liên quan đến việc thi hành án phạt tù 49 2.1.3. Phát hiện và xử lý các trường hợp vi phạm pháp luật trong thi hành án phạt tù theo thẩm quyền 50 2.1.4. Đề nghị miễn, hoãn, tạm đình chỉ chấp hành án; tham gia việc xét giảm, miễn thời hạn chấp hành án 55 2.1.5. Giải quyết khiếu nại, tố cáo trong thi hành án phạt tù 58 2.2. Thực tiễn hoạt động của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù 61 2.2.1. Tình hình chấp hành án phạt tù 61 2.2.2. Thực trạng công tác kiểm sát thi hành án phạt tù 68 2.2.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong hoạt động công tác kiểm sát thi hành án phạt tù 84 Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG THI HÀNH ÁN PHẠT TÙ 89 3.1. Hoàn thiện pháp luật liên quan đến hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong kiểm sát thi hành án phạt tù 89
  • 6. 6 3.1.1. Hoàn thiện pháp luật về tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 89 3.1.2. Hoàn thiện pháp luật về thi hành án phạt tù 90 3.2. Hoàn thiện tổ chức bộ máy và cán bộ của Viện kiểm sát nhân dân trong kiểm sát thi hành án phạt tù 97 3.2.1. Hoàn thiện tổ chức bộ máy Viện kiểm sát các cấp (Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện và tương đương) 97 3.2.2. Tiêu chuẩn hóa cán bộ kiểm sát thực hiện nhiệm vụ kiểm sát thi hành án phạt tù 98 3.3. Tăng cường điều kiện hoạt động của Viện kiểm sát trong thi hành án phạt tù 100 3.3.1. Tăng cường cơ sở vật chất, kỹ thuật bảo đảm cho hoạt động kiểm sát thi hành án phạt tù 100 3.3.2. Cải tiến chế độ, chính sách đối với cán bộ kiểm sát trực tiếp thực hiện nhiệm vụ kiểm sát thi hành án phạt tù 102 3.4. Xây dựng mối quan hệ phối hợp với các cơ quan có liên quan đến thi hành án phạt tù 102 3.4.1. Quan hệ phối hợp với Tòa án nhân dân các cấp và tương đương 102 3.4.2. Quan hệ phối hợp với cơ quan Công an các cấp 103 3.4.3. Quan hệ phối hợp với chính quyền địa phương và cơ quan hữu quan 103 KẾT LUẬN 105 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 108
  • 7. 7 DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang 2.1 Tình hình công tác chấp hành án phạt tù từ 2008 đến năm 2012 61 2.2 Hoạt động công tác kiểm sát thi hành án phạt tù từ năm 2008-2012 69
  • 8. 8 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Bản án, quyết định của Tòa án nhân danh Nhà nước khi được chấp hành nghiêm chỉnh có tác động trực tiếp đến lòng tin của nhân dân đối với pháp luật. Vì vậy, hoạt động thi hành án có một ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc giữ vững kỷ cương phép nước, củng cố pháp chế và trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, đảm bảo cho quyền lực tư pháp được thực thi trên thực tế. Thi hành án hình sự liên quan trực tiếp đến bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội; góp phần bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Hiến pháp 1992 khẳng định: "Các bản án và quyết định của Tòa án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân tôn trọng; những người và đơn vị hữu quan nghiêm chỉnh chấp hành" [27]. Xác định thi hành án hình sự mà trong đó là thi hành án phạt tù là công tác quan trọng nên Nhà nước ta đặc biệt quan tâm và đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật làm cơ sở cho hoạt động này như: Thông tư liên ngành số 02/TTLN/BNV-VKSNDTC ngày 06/9/1989 về công tác giam, giữ, cải tạo và kiểm sát giam giữ, cải tạo; Thông tư liên tịch số 07/2004/TTLT- BCA-VKSNDTC ngày 29/4/2004 hướng dẫn một số quy định về thi hành hình phạt tù đối với phạm nhân chấp hành hình phạt tù tại Nhà tạm giữ; Thông tư liên tịch số 02/2006/TTLT-BCA-BQP-BYT-TANDTC-VKSNDTC ngày 18/5/2006 hướng dẫn thi hành một số quy định của pháp luật về tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù đối với người đang chấp hành hình phạt tù đang bị bệnh nặng; Thông tư liên tịch số 04/2010/TTLT -BTC-BCA-BQP ngày 12/02/2010 hướng dẫn thực hiện chế độ lao động và sử dụng kết quả lao động, dạy nghề phạm nhân trong các trại giam; Thông tư 40/2011/TT-BCA
  • 9. 9 ngày 27/6/2011 quy định tiêu chuẩn thi đua chấp hành án phạt tù và xếp loại chấp hành án phạt tù cho phạm nhân; Thông tư 58/2011/TT-BCA ngày 09/8/2011 quy định về đồ vật cấm đưa vào trại giam và việc thu giữ, xử lý đồ vật cấm; Nghị định 80/2011/NĐ-CP ngày 16/9/2011 quy định các biện pháp bảo đảm tái hòa nhập cộng đồng đối với người chấp hành xong án phạt tù; Nghị định số 117/2011/NĐ-CP ngày 15/12/2011 quy định về tổ chức quản lý phạm nhân và chế độ ăn, mặc, ở, sinh hoạt, chăm sóc y tế đối với phạm nhân (thay thế Nghị định số 113/2008/NĐ-CP ngày 28/10/2008 ban hành Quy chế trại giam); Nghị định số 77/2009/NĐ-CP ngày 15/9/2009 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Công an…và ngày 17/6/2010, tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật Thi hành án hình sự năm 2010. Trên cơ sở pháp lý đó, trong thời gian qua hoạt động thi hành án hình sự đã được tổ chức, thực hiện bảo đảm sự nghiêm minh, khoan hồng, nhân đạo, góp phần đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, phục vụ yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trước yêu cầu mới của thực tiễn, hướng đến mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, công tác kiểm sát thi hành án hình sự của ngành kiểm sát cần phải đổi mới tổ chức và hoạt động để nâng cao công tác thi hành án hình sự nói chung và công tác thi hành án phạt tù nói riêng, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta. Trước tình hình đó, việc tiếp tục nghiên cứu sâu sắc hơn nữa nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong kiểm sát việc thi hành án phạt tù, từ đó đưa ra kiến nghị, giải pháp nhằm cao hiệu quả hoạt động này không những có ý nghĩa lý luận - thực tiễn và pháp lý quan trọng, mà còn là vấn đề mang tính cấp thiết. Đây cũng là lý do luận chứng cho việc chúng tôi quyết định chọn đề tài "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong kiểm sát thi hành án phạt tù" làm luận văn thạc sĩ luật học.
  • 10. 10 2. Tình hình nghiên cứu Những năm gần đây, trước những đòi hỏi khách quan của công tác thi hành án phạt tù, đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học ở những mức độ khác nhau, những khía cạnh, phương diện khác nhau về thi hành án phạt tù và nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong kiểm sát thi hành án phạt tù, cụ thể là: - Trần Quang Tiệp (2002), Một số vấn đề về thi hành án hình sự, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; - Viện Khoa học kiểm sát - Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2003), "Những giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp", Kỷ yếu đề tài cấp bộ, Hà Nội; - Vũ Trọng Hách (2006), Hoàn thiện quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi hành án hình sự ở Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội; - Võ Khánh Vinh, Nguyễn Mạnh Kháng (2006), Pháp luật thi hành án hình sự Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Tư pháp, Hà Nội; - Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2007), "Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù theo yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay, Vụ kiểm sát tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù", Kỷ yếu đề tài khoa học, Hà Nội. Các công trình nêu trên nghiên cứu về thi hành phạt tù ở những khía cạnh và mức độ khác nhau, hầu hết đề cập đến thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động thi hành án phạt tù, tuy nhiên chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong thi hành án phạt tù, đặc biệt là theo Luật Thi hành án hình sự năm 2010. 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của luận văn là nghiên cứu và làm rõ những vấn đề chung về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong kiểm sát hoạt động
  • 11. 11 thi hành án phạt tù, phân tích kết quả thực tiễn của hoạt động này, từ đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác kiểm sát thi hành án phạt tù ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ chủ yếu sau: - Làm rõ những căn cứ pháp lý về thi hành án phạt tù và kiểm sát thi hành án phạt tù. - Đánh giá đúng đắn và toàn diện về thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động kiểm sát thi hành án phạt tù trong thời gian qua. - Phân tích nguyên nhân của thực trạng đó. - Đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật nhằm bảo đảm thực hiện tốt nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong kiểm sát thi hành án phạt tù. 3.3. Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn đề xung quanh "Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong kiểm sát thi hành án phạt tù", kết hợp với việc nghiên cứu những nội dung cơ bản và thực tiễn công tác kiểm sát thi hành án phạt tù; đánh giá thực trạng hoạt động kiểm sát thi hành phạt tù trong thời gian qua (từ năm 2009 - 2012) và từ đó rút ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật, đổi mới tổ chức và hoạt động của công tác này nhằm nâng cao hiệu quả việc thi hành án phạt tù trong điều kiện mới của đất nước ta. Luận văn cũng có tham khảo những bài học kinh nghiệm về việc thi hành án phạt tù và kiểm sát thi hành án phạt tù ở một số nước trên thế giới.
  • 12. 12 Luận văn không nghiên cứu hoạt động của Viện kiểm sát quân sự trong kiểm sát việc thi hành án phạt tù. 4. Phƣơng pháp luận và các phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và phép biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền, về chính sách hình sự, về vấn đề cải cách tư pháp được thể hiện trong các nghị quyết Đại hội Đảng VIII, IX, X và các Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 2/1/2002, Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 26/5/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị. Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các phương pháp cụ thể được sử dụng kết hợp, đó là: Phương pháp nghiên cứu lịch sử - cụ thể, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê, tổng hợp. 5. Những điểm mới và đóng góp của luận văn Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phương diện lý luận và thực tiễn, vì đây là công trình nghiên cứu đầu tiên ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong kiểm sát thi hành án phạt tù, mà trong đó giải quyết nhiều vấn đề quan trọng về lý luận và thực tiễn liên quan tới thi hành án phạt tù ở Việt Nam theo Luật Thi hành án hình sự năm 2010 (có hiệu lực từ ngày 1/7/2011). Những điểm mới của luận văn là: - Luận văn đã đưa ra và luận giải được một số quan điểm cơ bản về khái niệm thi hành án phạt tù và kiểm sát thi hành án phạt tù, tìm hiểu thực trạng của công tác kiểm sát thi hành án phạt tù làm phong phú thêm cho hoạt động nghiên cứu khoa học về pháp luật thi hành án phạt tù. - Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và thực trạng pháp luật kiểm sát thi hành án phạt tù, luận văn đã đưa ra được những điểm bất cập cần sửa
  • 13. 13 đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật tố tụng hình sự và pháp luật thi hành án hình sự về công tác thi hành án phạt tù và kiểm sát thi hành án phạt tù. - Trên cơ sở đánh giá thực tiễn công tác kiểm sát thi hành án phạt tù, luận văn đã phân tích những nguyên nhân và đề xuất các định hướng và giải pháp hoàn thiện nhằm nâng cao hiệu quả công tác kiểm sát thi hành án phạt tù theo Luật Thi hành án hình sự năm 2010. Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích dành cho không chỉ các nhà lập pháp mà còn cho các nhà nghiên cứu, các cán bộ giảng dạy pháp luật, các nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên thuộc chuyên ngành Tư pháp hình sự tại các cơ sở đào tạo luật. Đặc biệt, kết quả nghiên cứu của luận văn còn phục vụ cho việc trang bị những kiến thức chuyên sâu cho các cán bộ thực tiễn đang công tác tại các Viện kiểm sát, Tòa án và cơ quan Thi hành án hình sự trong quá trình thi hành án phạt tù. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề chung về thi hành án phạt tù và kiểm sát thi hành án phạt tù. Chương 2: Thực tiễn hoạt động kiểm sát của Viện kiểm sát trong thi hành án phạt tù. Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong thi hành án phạt tù.
  • 14. 14 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THI HÀNH ÁN PHẠT TÙ VÀ KIỂM SÁT THI HÀNH ÁN PHẠT TÙ 1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THI HÀNH ÁN PHẠT TÙ 1.1.1. Những khái niệm có liên quan đến thi hành án phạt tù Để có thể đưa ra khái niệm thi hành hình phạt tù, trước hết cần làm sáng tỏ khái niệm hình phạt tù. Trong hệ thống hình phạt được quy định trong luật hình sự Việt Nam, hình phạt tù (bao gồm: hình phạt tù có thời hạn và hình phạt tù chung thân) là loại hình phạt nghiêm khắc, vì người bị kết án bị tước tự do, bị cách ly với cuộc sống bình thường của xã hội, họ phải lao động, cải tạo trong một môi trường riêng biệt dưới sự quản lý và giám sát của cơ quan có trách nhiệm. Tuy nhiên, trong luận văn này chúng tôi không đề cập đến miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện (án treo) {miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện (án treo) là trường hợp ngoại lệ đặc biệt của việc thi hành hình phạt tù, trong đó người bị kết án phạt tù có thời hạn không buộc phải chấp hành hình phạt tù tại các cơ sở giam giữ; không bị cách ly khỏi xã hội mà được chấp hành hình phạt ngoài xã hội với những điều kiện ràng buộc nhất định. Miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện (án treo) được áp dụng đối với những trường hợp người phạm tội bị Tòa án tuyên hình phạt tù có thời hạn và mức hình phạt là không quá ba năm và không cần phải bắt người phạm tội cách ly khỏi xã hội nhưng cũng đạt được mục đích của hình phạt}. Điều 33 Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định: "Tù có thời hạn là việc buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt tại trại giam trong một thời hạn nhất định...." [28] và Điều 34 Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định: "Tù chung thân là hình phạt tù không thời hạn được áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, nhưng chưa đến mức bị xử phạt tử hình..." [28].
  • 15. 15 Như vậy, hình phạt tù là hình phạt buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt tại trại giam. Tuy nhiên, khi nghiên cứu các văn bản luật khác và trong thực tế, chúng tôi cho rằng việc quy định trong điều luật chưa thật sự chính xác, bởi vì người bị kết án phạt tù có thể phải chấp hành hình phạt tại Trại tạm giam (gồm Trại tạm giam Bộ Công An, Trại tạm giam Bộ Quốc phòng và Trại tạm giam Công an tỉnh) và Nhà tạm giữ Công an huyện. Khoản 2 Điều 171 Luật Thi hành án hình sự năm 2010 quy định: Bộ trưởng Bộ Công an căn cứ yêu cầu quản lý người bị tạm giam, tạm giữ để quyết định đưa người chấp hành án phạt tù có thời hạn từ 5 năm trở xuống không phải là người chưa thành niên, người nước ngoài, người mắc bệnh truyền nhiễm nguy hiểm hoặc nghiện ma túy để phục vụ việc tạm giam, tạm giữ. Số lượng người chấp hành án phạt tù phục vụ việc tạm giam, tạm giữ được tính theo tỷ lệ trên tổng số người bị tạm giam, tạm giữ nhưng tối đa không vượt quá 15% [34]. Như vậy, việc thi hành hình phạt tù còn được thực hiện ở trại tạm giam, nhà tạm giữ để thực hiện những công việc của trại tạm giam, nhà tạm giữ và trong trường hợp này, trại tạm giam, nhà tạm giữ được coi là trại giam đối với người phải thi hành hình phạt tù. Mục đích của hình phạt nói chung và hình phạt tù nói riêng không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà còn giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội mới, nhằm giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm (Điều 27 Bộ luật Hình sự năm 1999). Từ sự phân tích ở trên, có thể đưa ra khái niệm hình phạt tù như sau: Hình phạt tù là hình phạt tước một số quyền tự do, giam giữ người bị kết án phạt tù trong một môi trường riêng biệt để thực hiện các mục đích của hình phạt là đảm bảo công lý, công bằng xã hội, cải tạo, giáo dục người phạm tội và phòng ngừa tội phạm.
  • 16. 16 Vấn đề tiếp theo cần làm sáng tỏ là khái niệm thi hành án hình sự. Theo Đại Từ điển tiếng Việt, thi hành là: "Thực hiện điều đã chính thức quyết định" [64, tr. 1497]. Như vậy, thi hành án có thể được hiểu là thực hiện bản án, quyết định của Tòa án trên thực tế; còn thi hành án hình sự là thực hiện các bản án, quyết định hình sự của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật trên thực tế [37, tr. 5]. Từ sự phân tích ở trên, chúng tôi đồng ý với quan điểm cho rằng: Thi hành án hình sự là việc các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, các cá nhân có liên quan đưa bản án và quyết định hình sự đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án ra thi hành làm cho nó phát huy hiệu lực trên thực tế [22, tr. 9]. Các bản án, quyết định hình sự của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật được thi hành bao gồm: các bản án, quyết định được quy định tại Điều 255 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 và Điều 2 Luật Thi hành án hình sự năm 2010, nhưng chưa quá thời hiệu thi hành bản án theo Điều 55 Bộ luật Hình sự năm 1999. Điều 255 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy định những bản án và quyết định được thi hành, theo đó, những bản án và quyết định được thi hành là những bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật (bao gồm những bản án và quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo trình tự phúc thẩm; những bản án và quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm; những quyết định của Tòa án giám đốc thẩm hoặc tái thẩm). Điều 2 Luật Thi hành án hình sự năm 2010 quy định về bản án, quyết định được thi hành, bao gồm bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật và đã có quyết định thi hành (bản án hoặc phần bản án của Tòa án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo trình tự phúc thẩm; Bản án của Tòa án cấp phúc thẩm; Quyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của Tòa án). Bản án hoặc quyết định của Tòa án được thi hành ngay theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự; Quyết định của Tòa án Việt Nam tiếp nhận người đang chấp hành án phạt tù ở nước ngoài về Việt Nam chấp hành án và đã có quyết định thi hành. Quyết định chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù tại Việt
  • 17. 17 Nam cho nước ngoài; Bản án, quyết định về áp dụng biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh, giáo dục tại xã, phường, thị trấn, đưa vào trường giáo dưỡng. So sánh hai quy định trên, ta thấy được quy định về bản án, quyết định được thi hành khác nhau, Điều 2 Luật Thi hành án hình sự năm 2010 đã bổ sung quy định "và đã có quyết định thi hành" do Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm ra quyết định hoặc do Chánh án Tòa án được ủy thác ra quyết định so với khoản 1 Điều 255 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003. Nhưng thời điểm bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật với thời điểm Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm ra quyết định hoặc do Chánh án Tòa án được ủy thác ra quyết định thi hành là khác nhau, nên chúng tôi cho rằng, đối với quan hệ xã hội phát sinh trong khoảng thời gian từ khi bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng chưa có quyết định thi hành thì không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Thi hành án hình sự năm 2010 mà thuộc phạm vi điều chỉnh của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003. Do đó, theo chúng tôi, cần phải xác định hoạt động thi hành án được bắt đầu ngay khi bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật, bởi vì việc thi hành án bao gồm cả hoạt động Tòa án ra quyết định thi hành án, chứ không phải bắt đầu từ khi Tòa án ra quyết định thi hành án; điều này hoàn toàn phù hợp với quy định Viện kiểm sát yêu cầu Tòa án cùng cấp và cấp dưới ra quyết định thi hành án hình sự đúng quy định của pháp luật (tại Điều 141 Luật Thi hành án hình sự năm 2010). Ngoài ra, Điều 2 Luật Thi hành án hình sự năm 2010 cũng đã bổ sung các trường hợp bản án, quyết định của Tòa án được thi hành so với quy định tại Điều 255 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, đó là: quyết định của Tòa án Việt Nam tiếp nhận người đang chấp hành án phạt tù ở nước ngoài về Việt Nam chấp hành án và đã có quyết định thi hành; quyết định chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù tại Việt Nam cho nước ngoài và bản án, quyết định về áp dụng biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh, giáo dục tại xã, phường, thị trấn, đưa vào trường giáo dưỡng.
  • 18. 18 Từ những phân tích trên, ta có thể hiểu, thi hành án phạt tù là việc thực hiện các quyết định về hình phạt tù trong bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật trên thực tế; bao gồm: Bản án, quyết định về hình phạt tù có hiệu lực pháp luật và đã có quyết định thi hành. Về mặt lập pháp, theo khoản 3 Điều 3 Luật Thi hành án hình sự năm 2010 giải thích: "Thi hành án phạt tù là việc cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định của Luật này buộc phạm nhân phải chịu sự quản lý giam giữ, giáo dục, cải tạo để họ trở thành người có ích cho xã hội" [34]; trong đó, phạm nhân là người đang chấp hành án phạt tù có thời hạn, tù chung thân. Như vậy, thi hành án phạt tù là việc cơ quan, người có thẩm quyền thực hiện các quyết định hình phạt tù trong bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật trên thực tế; tức là, buộc người đang chấp hành án phạt tù có thời hạn, tù chung thân phải chịu sự quản lý, giam giữ, giáo dục, cải tạo để họ trở thành người có ích cho xã hội. Tuy nhiên, xung quanh bản chất pháp lý về thi hành án nói chung và thi hành án phạt tù nói riêng cũng có nhiều quan điểm khác nhau: Quan điểm thứ nhất: Thi hành án là một giai đoạn của tố tụng [56, tr. 8], [62, tr. 23-24]. Quan điểm thứ hai: Thi hành án là một giai đoạn độc lập mang tính hành chính - tư pháp [56, tr. 10-11]. Quan điểm thứ ba: Thi hành án vừa mang tính tố tụng, vừa mang tính hành chính - tư pháp được điều chỉnh bởi pháp luật tố tụng và pháp luật về hành chính - tư pháp [56, tr. 8]. Trước hết, về quan niệm coi thi hành án là một giai đoạn tố tụng, chúng tôi đồng ý với quan điểm này, bởi vì theo từ điển Luật học, thi hành án "giai đoạn kết thúc trình tự tố tụng, là khâu cuối cùng kết thúc một vụ án được xét xử nhằm làm cho phán quyết của Tòa án nhất định có hiệu lực pháp luật. Vì vậy, bản án sau khi đã có hiệu lực pháp luật thì phải được thi hành nghiêm chỉnh" [43, tr. 464-465]. Thi hành bản án hình sự "giai đoạn cuối cùng của tố tụng hình sự, là việc thi hành trên thực tế một bản án hoặc quyết định cụ thể của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật" [43, tr. 464-465]. Như vậy, thi hành án
  • 19. 19 hình sự là một trình tự tiếp nối và kết thúc của quá trình giải quyết vụ án hình sự; địa vị của thi hành án hoàn toàn độc lập và cần thiết được xem xét trong mối liên hệ với các giai đoạn tố tụng trước. Nói cách khác việc thi hành án được quy định trong tố tụng hình sự và không ngừng được hoàn thiện cùng với các quy định của các giai đoạn tố tụng trước là hoàn toàn cần thiết để đảm bảo tính đồng bộ, hệ thống của tố tụng hình sự. Tuy nhiên, chúng tôi cũng đồng ý với quan điểm cho rằng thi hành án cần phải được qui định ở các văn bản pháp luật khác nữa, bởi vì không phải mọi hoạt động trong quá trình thi hành bản án và quyết định của Tòa án đều nằm trong phạm vi điều chỉnh của luật tố tụng hình sự [18]. Điều này là hoàn toàn đúng khi trong giai đoạn hiện nay, Quốc hội mới ban hành Luật thi hành án dân sự năm 2008 (có hiệu lực kể từ ngày 01/07/2009) và Luật Thi hành án hình sự năm 2010 (có hiệu lực kể từ ngày 01/07/2011), các đạo luật này quy định khá cụ thể các quan hệ phát sinh trong quá trình thi hành án. Khi nghiên cứu các đạo luật này, chúng tôi thấy rằng có rất nhiều quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thi hành án chưa được điều chỉnh; cụ thể như: trong việc ra quyết định thi hành án; thủ tục xem xét bản án tử hình trước khi đưa ra thi hành; thẩm quyền Tòa án khi ra quyết định tạm đình chỉ thi hành án phạt tù; và việc xóa án tích... Trong thực tế hiện nay, những mối quan hệ này được điều chỉnh bởi Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003. Về quan điểm cho rằng, thi hành án là một giai đoạn độc lập mang tính hành chính - tư pháp. Như chúng tôi đã phân tích ở trên, thi hành án là một giai đoạn tố tụng do đó không phải là một giai đoạn độc lập; nhưng liệu trong hoạt động thi hành án có mang tính hành chính - tư pháp không? Để giải thích cho quan điểm này thì cần phải hiểu hoạt động mang tính hành chính - tư pháp là như thế nào? Thứ nhất, về hoạt động hành chính. Hành chính được hiểu: Thuộc phạm vi quản lí của Nhà nước theo luật định: cơ quan hành chính - đơn vị hành chính. Thuộc những công việc giấy tờ, văn
  • 20. 20 thư, kế toán trong cơ quan nhà nước; cán bộ hành chính - ăn lương hành chính. Có tính chất nghiêm minh, thẳng tay xử phạt, không nới lỏng để giáo dục, thuyết phục: dùng biện pháp hành chính [43, tr. 675]. Thi hành bản án và quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật là một hoạt động phức tạp, đa dạng liên quan đến nhiều lĩnh vực và trong quá trình thi hành án, có những quan hệ phát sinh trong quá trình hình thành tổ chức, hoạt động và cơ chế quản lý các cơ quan thi hành án hình sự (gồm hệ thống các cơ quan thi hành án hình sự; các cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan có trách nhiệm thi hành án...). Các quan hệ này liên quan đến việc hình thành cơ cấu tổ chức; quy định thẩm quyền và quy chế hoạt động của Cơ quan thi hành án hình sự. Những mối quan hệ này được thể hiện cụ thể trong thực tiễn như: mối quan hệ giữa cơ quan quản lý nhà nước với Cơ quan thi hành án hình sự; cơ cấu tổ chức, hoạt động trong hệ thống các cơ quan thi hành án hình sự; giữa Cơ quan thi hành án hình sự và Cơ quan thi hành án dân sự; giữa Cơ quan thi hành án cấp trên và Cơ quan thi hành án cấp dưới về mặt tổ chức...[62, tr. 32-33]. Như vậy, hoạt động thi hành án mang tính hành chính. Thứ hai, về hoạt động tư pháp, xung quanh khái niệm này cũng có nhiều cách hiểu khác nhau: Loại ý kiến thứ nhất cho rằng, hoạt động tư pháp cần được hiểu theo nghĩa rộng là hoạt động xét xử của Tòa án và các hoạt động của các cơ quan khác của nhà nước khác và các tổ chức khác được nhà nước cho phép thành lập, trực tiếp liên quan hoặc phục vụ cho việc xét xử của Tòa án [13, tr. 7-11]. Loại ý kiến thứ hai cho rằng, hoạt động tư pháp là dạng (hình thức) thực hiện những thẩm quyền tương ứng do luật định của hệ thống Tòa án mà thông qua đó các chức năng của nhánh quyền lực thứ ba trong Nhà nước pháp quyền được biến thành hiện thực [5, tr. 188]. Có năm dạng hoạt động tư pháp tương ứng với năm chức năng của quyền tư pháp gồm: nhân danh và thực hiện việc bảo vệ công lý; bảo vệ các quyền và tự do của con người và của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác trên toàn bộ lãnh thổ của quốc gia; giải thích các quy phạm pháp
  • 21. 21 luật (mà trước hết là Hiến pháp) để đảm bảo tính thống nhất và hiệu lực của việc áp dụng các quy phạm đó trên toàn bộ lãnh thổ của quốc gia; xét xử, tức là hoạt động tố tụng tư pháp (tài phán) về Hiến pháp, hành chính, hình sự, dân sự và kinh tế (trọng tài); giám sát của Tòa án đối với tính hợp pháp và có căn cứ của việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế của Nhà nước có tính chất tố tụng, tức là thực hiện sự kiểm tra của Tòa án đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật (bao gồm cả sự kiểm tra của Tòa án cấp trên đối với Tòa án cấp dưới) trong việc áp dụng các chế tài pháp lý về hành chính, hình sự, tố tụng hình sự... và xác nhận chính thức các sự kiện (hành vi) có ý nghĩa pháp lý trong các lĩnh vực của đời sống xã hội hoặc hạn chế quyền chủ thể tương ứng (về mặt hiến định, dân sự....) của các công dân trong quá trình giải quyết các mối quan hệ xã hội [5, tr. 184]. Tác giả cho rằng: hoạt động thi hành án của các cơ quan thi hành án là hoạt động gần với hoạt động tư pháp trong Nhà nước pháp quyền (hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật thuộc nhánh quyền hành pháp nhằm hỗ trợ cho việc nâng cao hiệu quả xét xử của Tòa án) [5, tr. 188]. Loại ý kiến thứ ba cho rằng, hoạt động tư pháp là hoạt động của các tổ chức, cá nhân tham gia vào quá trình giải quyết các tranh chấp pháp luật xảy ra trong đời sống xã hội. Tác giả cho rằng hoạt động tư pháp là hoạt động của các cơ quan, tổ chức và cá nhân tham gia vào việc giải quyết các tranh chấp pháp lý, các vi phạm pháp luật thuộc thẩm quyền phán quyết của Tòa án và thi hành các phán quyết đó theo thủ tục tố tụng mà pháp luật quy định. Hoạt động tư pháp là hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng (các cơ quan tư pháp), các cơ quan thực hiện một số nhiệm vụ tố tụng, các cơ quan bổ trợ tư pháp (giám định tư pháp, công chứng tư pháp, luật sư) [50, tr. 27-28]. Loại ý kiến thứ tư khẳng định, hoạt động tư pháp trước hết phải do cơ quan tư pháp tiến hành, tuy nhiên không bao hàm tất cả các hoạt động của các cơ quan tư pháp mà chỉ những hoạt động gắn liền với quá trình giải quyết những vụ án cụ thể. Hoạt động tư pháp phải có các đặc trưng như phải do cơ quan tư pháp thực hiện trong quá trình tố tụng và phải được điều chỉnh bởi pháp luật tố tụng, phải là những hoạt động trực tiếp liên quan tới quá trình giải quyết vụ án và có mục
  • 22. 22 đích nhằm giải quyết các vụ án một cách đúng đắn, khách quan [13, tr. 10-11]. Chúng tôi đồng ý với ý kiến này và cho rằng, hoạt động tư pháp là tập hợp những việc làm cụ thể do cơ quan tư pháp thực hiện trong tố tụng, có sự liên quan trực tiếp và hướng tới mục đích nhằm giải quyết vụ án một cách đúng đắn, khách quan. Và như vậy, thi hành án là giai đoạn tố tụng thì trong giai đoạn thi hành án có hoạt động tư pháp. Như vậy, rõ ràng để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, các cơ quan tư pháp còn tiến hành một loại hoạt động được điều chỉnh bằng pháp luật hành chính chứ không được điều chỉnh bằng pháp luật tố tụng, vì vậy nó cũng không được coi là hoạt động tư pháp. Trong quá trình thực hiện hoạt động tư pháp, giữa những người ở các cơ quan tư pháp khác nhau luôn tồn tại một loại quan hệ được gọi là quan hệ hành chính - tư pháp (ví dụ, hoạt động báo cáo công tác của cấp dưới với cấp trên, hoạt động tổng kết công tác của mỗi cơ quan, hoạt động thanh tra...) [13, tr. 10-11]. Do đó, hoạt động thi hành án hình sự có mang tính hành chính - tư pháp. Từ những phân tích trên, chúng tôi đồng ý với quan điểm cho rằng thi hành án vừa mang tính tố tụng, vừa mang tính hành chính - tư pháp được điều chỉnh bởi pháp luật tố tụng và pháp luật về hành chính - tư pháp, và thực tiễn hiện nay, hoạt động thi hành án hình sự được điều chỉnh bởi Luật tố tụng hình sự và Luật Thi hành án hình sự, Luật Thi hành án dân sự (đối với hình phạt tiền). Nói tóm lại, xét về bản chất hoạt động thi hành án nói chung, hoạt động thi hành án phạt tù nói riêng vừa mang tính tố tụng, vừa mang tính hành chính - tư pháp. 1.1.2. Mục đích và ý nghĩa của việc thi hành án phạt tù Mục đích là "cái đích đặt ra để hướng tới, đạt tới" [64, tr. 1064]. Mục đích của thi hành án phạt tù không nằm ngoài mục đích của hình phạt trong luật hình sự Việt Nam là phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung. Ở góc độ phòng ngừa riêng thì mục đích của thi hành án phạt tù là sự trừng trị kết hợp với giáo dục nhằm cải tạo người bị kết án, giúp họ nhận thức được lỗi lầm để cải tạo những thói hư, tật xấu của bản thân, cố gắng rèn luyện, cải tạo để trở
  • 23. 23 thành người lương thiện có ích cho gia đình và cho xã hội, không tái phạm, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Ở góc độ phòng ngừa chung thì thi hành án phạt tù có mục đích quan trọng là: thông qua việc tổ chức thi hành án phạt tù đối với người bị kết án tù để mọi công dân biết rõ tính nghiêm minh của pháp luật, sự trừng phạt nghiêm khắc, kịp thời đối với người thực hiện tội phạm đều bị đe dọa bởi khả năng bị áp dụng hình phạt tù. Việc tổ chức thi hành hình phạt tù, buộc người bị kết án phạt tù phải chấp hành hình phạt ở cơ sở chấp hành án là biện pháp có khả năng răn đe, cảnh tỉnh cho những người đang có ý định thực hiện tội phạm sớm từ bỏ ý định đó nếu không sẽ bị phạt tù và phải chấp hành bản án phạt tù, phải cách ly khỏi môi trường bình thường có thời hạn hoặc không thời hạn. Ý nghĩa là "nội dung được chứa đựng trong hình thức biểu đạt của ngôn ngữ..., giá trị, tác dụng" [64, tr. 1838]. Việc tổ chức thi hành quyết định thi hành án phạt tù đối với người bị kết án là căn cứ vào quyết định thi hành án của Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm, sau khi cơ quan thi hành án hình sự nhận được quyết định thi hành án có nhiệm vụ tổ chức thi hành án bằng biện pháp buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã có hiệu lực pháp luật, nhằm thực hiện mục đích của hình phạt là cải tạo và giáo dục người phạm tội, bảo đảm cho hoạt động thi hành án đúng pháp luật, tránh được tình trạng ra quyết định thi hành án và tổ chức thi hành án phạt tù thiếu căn cứ và chậm không bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật. Việc thi hành án phạt tù buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt tại cơ sở chấp hành án một mặt đã thực hiện và thể hiện sự lên án của xã hội đối với người phạm tội và được thực hiện bằng việc cách ly người đó khỏi môi trường sống của xã hội trong một thời gian nhất định, buộc người bị kết án phải cải tạo, giáo dục ở môi trường đặc biệt, chịu sự quản lý nghiêm ngặt tại cơ sở chấp hành án nhằm giáo dục người phạm tội trở thành người có ích cho xã hội và có ý nghĩa quan trọng trong việc phòng và chống tội phạm.
  • 24. 24 1.1.3. Cơ sở pháp lý của thi hành án phạt tù Cơ sở được hiểu là "cái làm nền tảng để dựa vào đó hay từ đó mà phát triển..." [64, tr. 355]. Cơ sở của thi hành án phạt tù chính là cái làm nền tảng để dựa vào đó hay từ đó để thi hành án phạt tù. Như vậy, cơ sở của thi hành án phạt tù cũng có thể hiểu theo nghĩa rộng là điều kiện pháp lý cần và đủ để thực hiện hình phạt tù trong thực tế. Các điều kiện này được quy định trong Hiến pháp, Bộ luật Hình sự năm 1999, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Luật Thi hành án hình sự năm 2010 và các văn bản hướng dẫn thi hành... Quan hệ pháp luật về thi hành án phạt tù được phát sinh trên cơ sở các quyết định pháp lý nhất định. Các cơ quan, tổ chức thi hành hình phạt tù phải bắt buộc dựa trên và tuân theo các điều kiện pháp lý đó để có thể đưa người bị kết án thi hành hình phạt tù. Theo nghĩa này, việc thi hành án hình sự nói chung và thi hành hình phạt tù nói riêng chỉ phát sinh từ khi một người bị coi là có tội, tức là từ khi người đó bị kết tội bằng một bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án và tất nhiên phải là bản án kết tội và áp dụng hình phạt (chứ không phải bản án kết tội nhưng miễn hình phạt). Căn cứ này xuất phát trên nguyên tắc: "Không ai có thể bị coi là có tội nếu chưa có bản án kết tội đã có hiệu lực của Tòa án" [32, Điều 9]. Ngoài ra, cơ sở thi hành hình phạt tù kể trên (hiểu theo nghĩa rộng) còn dựa trên cơ sở nguyên tắc "Đảm bảo hiệu lực của bản án, quyết định của Tòa án" đòi hỏi bản án và quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật phải được thi hành và được tôn trọng (Điều 22 Bộ luật Tố tụng hình sự). Bên cạnh các quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 26 Bộ luật Hình sự cũng quy định: "Hình phạt được quy định trong Bộ luật Hình sự và do Tòa án quyết định" [28], Điều 33 Bộ luật Hình sự quy định: "Tù có thời hạn là việc buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt tại trại giam trong một thời hạn nhất định" [28]. Quan hệ pháp luật tố tụng hình sự nói chung được phát sinh trên cơ sở các sự kiện pháp lý, đó là sự kiện phạm tội và các quyết định pháp lý của các cơ quan có thẩm quyền theo luật tố tụng hình sự quy định. Việc thi hành hình phạt tù - nói cách khác, quan hệ pháp luật về thi hành án hình sự nói chung và
  • 25. 25 thi hành án phạt tù nói riêng được phát sinh trên cơ sở các quyết định pháp lý nhất định. Theo nghĩa hẹp, cơ sở thi hành hình phạt tù là các quyết định pháp lý cụ thể, nếu thiếu các quyết định này, chưa phát sinh việc thi hành hình phạt tù. Để đảm bảo tính có căn cứ và hợp pháp của thi hành án phạt tù, các điều kiện này được quy định cụ thể, rõ ràng trong Bộ luật Tố tụng hình sự [14, tr. 31-32]. Từ những phân tích trên, có thể thấy, cơ sở của việc thi hành hình phạt tù bao gồm: Cơ sở thứ nhất là bản án phạt tù của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Theo Điều 2 Luật Thi hành án hình sự năm 2010 quy định những bản án, quyết định được thi hành, bao gồm: Bản án hoặc phần bản án của Tòa án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo trình tự phúc thẩm; Bản án của Tòa án cấp phúc thẩm; Quyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của Tòa án. Bản án hoặc quyết định của Tòa án được thi hành ngay theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quyết định của Tòa án Việt Nam tiếp nhận người đang chấp hành án phạt tù ở nước ngoài về Việt Nam chấp hành án và đã có quyết định thi hành; quyết định chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù tại Việt Nam cho nước ngoài. Bản án, quyết định về áp dụng biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh, giáo dục tại xã, phường, thị trấn, đưa vào trường giáo dưỡng. Như vậy, bản án của Tòa án chỉ trở thành cơ sở thi hành hình phạt tù từ khi bản án đó tuyên hình phạt tù và khi bản án đó phát sinh hiệu lực pháp luật. Theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, một bản án sơ thẩm chỉ phát sinh hiệu lực pháp luật khi nội dung của bản án đó phản ánh sự thật khách quan một cách có căn cứ và không bị kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn do luật định để khẳng định thời điểm phát sinh hiệu lực pháp luật của bản án. Theo Điều 241 Bộ luật Tố tụng hình sự, Tòa án cấp phúc thẩm chỉ xét xử để kiểm tra đối với phần bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị. Bởi vậy, bản án phúc thẩm chỉ là điều kiện thi hành hình phạt tù khi giải quyết các vấn đề của bản án sơ thẩm bị kháng cáo hoặc kháng nghị những vấn đề có liên quan
  • 26. 26 đến hình phạt tù. Trong trường hợp nếu có kháng cáo hoặc kháng nghị phúc thẩm về các vấn đề khác thì bản án phúc thẩm, rõ ràng, không phải là cơ sở thi hành hình phạt tù. Vấn đề là ở chỗ, các phần về hình phạt tù không bị kháng cáo hoặc kháng nghị, chúng phải có hiệu lực pháp luật từ bản án sơ thẩm. Tuy nhiên, theo Điều 249 Bộ luật Tố tụng hình sự thì Tòa án cấp phúc thẩm có quyền sửa bản án sơ thẩm theo hướng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo mặc dù vấn đề đó không bị kháng cáo hoặc kháng nghị. Trong trường hợp này, bản án phúc thẩm sẽ trở thành điều kiện thi hành hình phạt tù khi Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án phạt tù có thời hạn theo hướng giảm nhẹ cho những phần không có kháng cáo, kháng nghị liên quan đến hình phạt tù [62, tr. 237]. Trong các loại bản án phạt tù kể trên, có những bản án phạt tù mặc dù đã phát sinh hiệu lực pháp luật song không trở thành cơ sở thi hành hình phạt tù, đó là bản án phạt tù nhưng cho hưởng án treo. Như trên chúng tôi đã phân tích, bản án phạt tù nhưng cho hưởng án treo khi phát sinh hiệu lực pháp luật được xem là điều kiện để người bị kết án phạt tù được hưởng án treo, chấp hành thời gian thử thách án treo. Đối với người được hưởng án treo mà phạm tội mới trong thời gian thử thách, thì bản án tổng hợp hình phạt của tội mới với hình phạt tù của bản án trước, mới trở thành điều kiện thi hành, nếu nó phát sinh hiệu lực pháp luật. Tòa án cấp giám đốc thẩm và tái thẩm kiểm tra hoạt động xét xử của các Tòa án cấp dưới trực tiếp có quyền ra quyết định đánh giá mặt pháp lý của những bản án, trong đó có áp dụng hình phạt tù đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị theo trình tự, thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Quyết định giám đốc thẩm hoặc quyết định tái thẩm không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án phạt tù của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật được coi là điều kiện thi hành hình phạt tù trong trường hợp sử dụng quyền hạn được quy định tại Điều 276 Bộ luật Tố tụng hình sự, người đã ra kháng nghị bản án đã có hiệu lực pháp luật đã ra quyết định tạm đình chỉ thi hành bản án đó.
  • 27. 27 Bên cạnh "thời điểm phát sinh hiệu lực pháp luật", bản án đã có hiệu lực pháp luật đó chỉ trở thành điều kiện thi hành hình phạt tù khi nó còn hiệu lực thi hành. Trong thực tiễn, có không ít những người bị kết án phạt tù không trốn tránh nhưng vì lý do khác nhau, Tòa án không ra quyết định thi hành án đối với họ. Với mục đích bảo đảm tính ổn định của các quan hệ pháp luật trong lĩnh vực thi hành hình phạt nói chung, trong đó có thi hành hình phạt tù nói riêng và nhằm thực hiện sự nhân đạo đối với người đã bị kết án tù, cũng như tăng cường hiệu quả đấu tranh, phòng ngừa và chống tội phạm, Điều 55 Bộ luật Hình sự quy định "thời hiệu thi hành bản án", theo đó người bị kết án không phải chấp hành bản án đã tuyên nếu tính từ ngày bản án đã có hiệu lực pháp luật đã qua: "Năm năm đối với các trường hợp xử phạt tiền, cải tạo không giam giữ, hoặc xử phạt tù từ ba năm trở xuống; Mười năm đối với các trường hợp xử phạt tù từ trên ba năm đến mười lăm năm; Mười lăm năm đối với các trường hợp xử phạt tù từ trên mười lăm năm đến ba mươi năm" [28]. Đối với trường hợp xử phạt tù chung thân, sau khi qua thời hạn mười lăm năm, do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Trong trường hợp không cho áp dụng thời hiệu thì hình phạt tù chung thân được chuyển thành tù ba mươi năm. Điều luật còn quy định cách tính thời hiệu trong trường hợp người bị kết án phạm tội mới hoặc cố tính trốn tránh và đã có lệnh truy nã; các trường hợp không áp dụng thời hiệu (Điều 56 Bộ luật Hình sự). Với quy định về "thời hiệu thi hành bản án" nói trên, chỉ những bản án còn trong thời hiệu thi hành bản án thì mới có đủ điều kiện là điều kiện thi hành hình phạt tù. Mức xử phạt để làm căn cứ áp dụng thời hiệu trong các trường hợp tổng hợp hình phạt là mức hình phạt tổng hợp và tính từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật. Nếu có nhiều người bị kết án trong cùng một bản án thì mỗi người sẽ được áp dụng thời hiệu riêng, phù hợp với mức hình phạt mà Tòa án đã tuyên đối với họ [14, tr. 35].
  • 28. 28 Như vậy, "còn thời hiệu thi hành" là một trong những yếu tố của bản án có hiệu lực thi hành. Nói cách khác, bản án có hiệu lực pháp luật được đưa ra thi hành khi nó còn thời hiệu thi hành. Cơ sở thứ hai là quyết định thi hành bản án phạt tù của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Bản án đã có hiệu lực pháp luật và đang còn thời hiệu thi hành được đưa ra thi hành khi có quyết định thi hành án của Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm hoặc của Chánh án Tòa án khác cùng cấp được ủy thác ra quyết định thi hành án. Theo khoản 1 Điều 256 Bộ luật Tố tụng hình sự, thì trong thời hạn 7 ngày, kể từ ngày bản án, quyết định sơ thẩm có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày nhận được bản án, quyết định phúc thẩm, quyết định giám đốc thẩm, quyết định tái thẩm, Chánh án Tòa án đã xử sơ thẩm phải ra quyết định thi hành án hoặc ủy thác cho Chánh án Tòa án khác cùng cấp ra quyết định thi hành án. Ngoài ra, đối với các trường hợp Tòa án Việt Nam tiếp nhận người đang chấp hành án phạt tù ở nước ngoài về Việt Nam chấp hành án và đã có quyết định thi hành thì Quyết định tiếp nhận của Tòa án Việt Nam là cơ sở để thi hành án phạt tù. Tòa án cấp sơ thẩm có thẩm quyền ra quyết định tiếp nhận thi hành án đối với người đang chấp hành án phạt tù ở nước ngoài về Việt Nam chấp hành án là Tòa án nhân dân cấp tỉnh nơi cư trú cuối cùng ở Việt Nam của người đang chấp hành án phạt tù ở nước chuyển giao (khoản 4 Điều 3 Thông tư liên tịch số 01/2013/TTLT-BCA-BTP-BNG-VKSNDTC-TANDTC ngày 22/02/2013 của Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn việc tiếp nhận, chuyển giao, tiếp tục thi hành án đối với người đang chấp hành án phạt tù). Theo khoản 10 Điều 9 Thông tư liên tịch số 01/2013/TTLT-BCA- BTP-BNG-VKSNDTC-TANDTC ngày 22/02/2013 của Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao
  • 29. 29 hướng dẫn việc tiếp nhận, chuyển giao, tiếp tục thi hành án đối với người đang chấp hành án phạt tù thì quyết định tiếp nhận, từ chối tiếp nhận có hiệu lực pháp luật bao gồm: Quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị; Quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm. Như vậy, trong trường hợp Tòa án nhân dân cấp tỉnh nơi cư trú cuối cùng ở Việt Nam của người đang chấp hành án phạt tù ở nước chuyển giao ra quyết định tiếp nhận tiếp tục thi hành án đối với người đang chấp hành án phạt tù thì cũng phát sinh việc thi hành án phạt tù nếu không bị kháng cáo, kháng nghị hoặc phát sinh ngay việc thi hành án phạt tù đối với quyết định tiếp nhận của Tòa án cấp phúc thẩm. Một trường hợp khác cũng phát sinh việc thi hành án phạt tù mặc dù không phải là thi hành bản án phạt tù của Tòa án, đó là trường hợp người bị kết án tử hình có quyết định ân giảm xuống tù chung thân. Trường hợp này tuy pháp luật không quy định việc Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm ra quyết định thi hành án phạt tù nhưng chúng tôi cho rằng, về mặt logic, Chánh án Tòa án phải ra quyết định thi hành hình phạt tù (tù chung thân) đối với bị án. Bởi vì, đây là quyết định quan trọng đánh dấu thời điểm người bị kết án chấp hành án phạt tù để từ đó xác định việc xét giảm thời hạn chấp hành án khi phạm nhân được giảm thời hạn chấp hành án xuống 20 năm tù và đảm bảo được hồ sơ đưa người bị kết án đến nơi chấp hành án theo Điều 25 Luật Thi hành án hình sự năm 2010; ngoài ra đối với người bị kết án đã bị tạm giữ, tạm giam thì thời gian người đó đã bị tạm giữ, tạm giam cũng được trừ vào thời gian người đó chấp hành án trong trường hợp được xét ân giảm từ hình phạt tử hình xuống tù chung thân. Như vậy, bản án phạt tù mặc dù đã phát sinh hiệu lực để đưa ra thi hành trên thực tế, nó cũng chỉ được thi hành khi có quyết định thi hành án của người có thẩm quyền. Việc ra quyết định thi hành án không phải là quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, Cơ quan thi hành án như trong thi hành án dân sự
  • 30. 30 mà là trách nhiệm, quyền hạn của Tòa án mà cụ thể là trách nhiệm, quyền hạn của Chánh án Tòa án có thẩm quyền ra quyết định thi hành án. Quyết định thi hành án xét đến cùng là văn bản áp dụng pháp luật, có ý nghĩa bắt buộc trong việc đưa bản án phạt tù có thời hạn ra thi hành nhằm đảm bảo hiệu lực và hiệu quả bản án của Tòa án [62, tr. 241-242]. Tóm lại, có thể nói, trong tố tụng hình sự, cơ sở thi hành hình phạt tù chỉ có thể là bản án và quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật và quyết định thi hành hình phạt tù của Chánh án Tòa án có thẩm quyền ra quyết định thi hành án. Đây là cơ sở có tính nguyên tắc được pháp luật tố tụng hình sự quy định, buộc các cơ quan, tổ chức có nhiệm vụ thi hành hình phạt tù phải tuân theo trong việc đưa người bị kết án phạt tù vào thi hành hình phạt tại cơ sở chấp hành án. 1.1.4. Cơ quan thi hành án phạt tù Hệ thống tổ chức thi hành án hình sự gồm có: Cơ quan quản lý thi hành án hình sự, Cơ quan thi hành án hình sự và cơ quan được giao một số nhiệm vụ thi hành án hình sự. Trước đây, pháp luật về thi hành án hình sự chưa quy định cụ thể về hệ thống tổ chức thi hành án hình sự mà mới chỉ quy định về cơ quan, tổ chức có nhiệm vụ thi hành bản án, quyết định của Tòa án tại Điều 257 Bộ luật Tố tụng hình sự. Điều đó dẫn đến một trong những hạn chế của hoạt động thi hành án hình sự trong những năm qua là hoạt động này vừa có sự tham gia của cơ quan chuyên trách, vừa có sự tham gia của chính quyền địa phương, của các cơ quan nhà nước khác, tổ chức xã hội nhưng lại chưa có một cơ quan đầu mối quản lý thống nhất; quan hệ phối hợp, phân công nhiệm vụ giữa các ngành, các cấp và giữa các cơ quan, tổ chức có liên quan trong việc tổ chức thi hành án hình sự chưa được quy định cụ thể, rõ ràng. Việc quy định hệ thống tổ chức thi hành án hình sự là bước phát triển trong hoạt động lập pháp của Nhà nước ta, phân định rõ ràng, rành mạch chức năng của cơ quan quản lý thi hành án hình sự với các cơ quan trực tiếp thi
  • 31. 31 hành, bảo đảm sự phân công, phối hợp đồng bộ trong tổ chức thực hiện và phù hợp với hệ thống tổ chức bộ máy hiện hành, nhất là chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Công an, bảo đảm quản lý tập trung thống nhất công tác thi hành hình phạt, thi hành biện pháp tư pháp vào một đầu mối theo tinh thần Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác này trong thời gian tới [1, tr. 30-31]. Khoản 2 Điều 10 Luật Thi hành án hình sự năm 2010 quy định cơ quan thi hành án hình sự, bao gồm: Trại giam thuộc Bộ Công an, trại giam thuộc Bộ Quốc phòng, trại giam thuộc quân khu (sau đây gọi là trại giam); Cơ quan thi hành án hình sự Công an tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi là cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh); Cơ quan thi hành án hình sự Công an huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi là cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện); Cơ quan thi hành án hình sự quân khu và tương đương (sau đây gọi là cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu). Như vậy, Cơ quan thi hành án phạt tù (không thuộc quân đội nhân dân) là cơ quan chuyên trách được Nhà nước giao nhiệm vụ thi hành bản án phạt tù có thời hạn của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật đó là: Trại giam thuộc Bộ Công an, Cơ quan thi hành án hình sự Công an tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Cơ quan thi hành án hình sự Công an huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Thứ nhất, về trại giam. Theo quy định tại khoản 1 Điều 16 Luật Thi hành án hình sự thì trại giam là cơ quan thi hành án phạt tù có nhiệm vụ, quyền hạn trong việc tiếp nhận, tổ chức quản lý giam giữ, giáo dục cải tạo phạm nhân và thực hiện các thủ tục pháp lý trong quá trình phạm nhân chấp hành án tại trại giam theo quy định của pháp luật. Pháp lệnh Thi hành án phạt tù năm 1993 và Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Thi hành án phạt tù năm 2007 chỉ quy định: "trại giam là nơi chấp hành hình phạt
  • 32. 32 của người bị kết án tù" thì hiện nay, khoản 1 Điều 16 Luật Thi hành án hình sự đã xác định đúng và chính xác hơn về địa vị pháp lý của Trại giam khi quy định "Trại giam là cơ quan thi hành án phạt tù" [1, tr. 40]. Thứ hai, về cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh. Điều 13 Luật Thi hành án hình sự năm 2010 quy định nhiệm vụ quyền hạn của cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh; Trong đó có nhiệm vụ, quyền hạn trong thi hành án phạt tù như: giúp Giám đốc Công an cấp tỉnh quản lý, chỉ đạo công tác thi hành án hình sự trên địa bàn cấp tỉnh; Tiếp nhận quyết định thi hành án hình sự của Tòa án có thẩm quyền; hoàn tất thủ tục, hồ sơ và danh sách người chấp hành án phạt tù để báo cáo, đề nghị cơ quan, người có thẩm quyền quyết định; Đề nghị Tòa án có thẩm quyền xem xét, quyết định tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù, giảm thời hạn chấp hành án phạt tù; Ra quyết định truy nã và phối hợp tổ chức lực lượng truy bắt phạm nhân bỏ trốn khỏi trại tạm giam hoặc cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, người được hoãn, tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù... Trước đây, theo Quyết định số 159/QĐ-BNV ngày 02/04/1996 của Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) về việc thành lập cơ sở chấp hành hình phạt của người bị kết án tù trong trại tạm giam thì Trại tạm giam có cơ sở chấp hành hình phạt (gọi là phân trại quản lý phạm nhân). Theo đó, người bị kết án tù chấp hành hình phạt ở các phân trại quản lý phạm nhân phải là người có mức án phạt tù từ 5 năm trở xuống; không phạm các tội cướp, giết người; không phải là loại lưu manh chuyên nghiệp, côn đồ hung hãn, tái phạm. Theo Điều 10 Quy chế về tạm giữ, tạm giam kèm theo Nghị định 89/1998/NĐ-CP ngày 7/11/1998 của Chính phủ thì Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, mỗi Công an tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi là Công an cấp tỉnh), Quân khu, Quân đoàn và cấp tương đương trong Quân đội nhân dân được tổ chức một hoặc hai Trại tạm giam. Thực tiễn hiện nay, Trại tạm giam của Bộ Công an gồm 4 trại tạm giam, đó là Trại tạm giam B14, Trại
  • 33. 33 tạm giam T16 ở thành phố Hà Nội và Trại tạm giam T17, Trại tạm giam B34 ở Thành phố Hồ Chí Minh. Công an cấp tỉnh quản lý 66 trại tạm giam trên địa bàn toàn quốc. Theo Thông tư liên tịch số 07/2004/TTLT/BCA-VKSNDTC ngày 29/4/2004 của Bộ Công an và Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn một số quy định về thi hành hình phạt tù đối với phạm nhân chấp hành hình phạt tại nhà tạm giữ thì đối với nhà tạm giữ thuộc Công an cấp huyện thường xuyên có từ 30 người bị tạm giữ, tạm giam trở lên được bố trí phạm nhân phục vụ việc nấu ăn, đưa cơm, vận chuyển quà và đồ dùng sinh hoạt, làm vệ sinh, sửa chữa nhà tạm giữ, phục vụ các yêu cầu nghiệp vụ giam giữ. Phạm nhân chấp hành hình phạt tù tại nhà tạm giữ được lấy từ số phạm nhân của phân trại quản lý phạm nhân trong trại tạm giam thuộc Công an cấp tỉnh, là người phạm tội lần đầu, bị xử phạt tù từ 36 tháng trở xuống; không phạm các tội: xâm phạm an ninh quốc gia; giết người; cướp tài sản; cưỡng đoạt tài sản; mua bán, tàng trữ vũ khí quân dụng; các tội phạm về ma túy. Giám đốc Công an cấp tỉnh quyết định đưa phạm nhân đến chấp hành hình phạt tù tại nhà tạm giữ thuộc Công an cấp huyện. Hiện nay, theo qui định tại Khoản 2 Điều 171 Luật Thi hành án hình sự thì Bộ trưởng Bộ Công an căn cứ yêu cầu quản lý người bị tạm giam, tạm giữ để quyết định đưa người chấp hành án phạt tù có thời hạn từ 5 năm trở xuống không phải là người chưa thành niên, người nước ngoài, người mắc bệnh truyền nhiễm nguy hiểm hoặc nghiện ma túy để phục vụ việc tạm giam, tạm giữ. Số lượng người chấp hành án phạt tù phục vụ việc tạm giam, tạm giữ được tính theo tỷ lệ trên tổng số người bị tạm giam, tạm giữ nhưng tối đa không vượt quá 15%. Mục đích để lại số phạm nhân trong trại tạm giam là nhằm: thường xuyên phục vụ việc nấu ăn, đưa cơm, vận chuyển quà, đồ cùng sinh hoạt, làm vệ sinh, sửa chữa, xây dựng Trại tạm giam, Nhà tạm giữ và phục vụ yêu cầu nghiệp vụ giam, giữ.
  • 34. 34 Như vậy, đối với người bị kết án phạt tù chấp hành án tại phân trại quản lý phạm nhân của Trại tạm giam Công an tỉnh sẽ do Cơ quan thi hành án hình sự công an cấp tỉnh quản lý. Ngày 24/12/2010, Tổng cục trưởng Tổng cục Xây dựng lực lượng Công an nhân dân đã ban hành Quyết định số 10968/QĐ-X11 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Phòng Cảnh sát thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp cấp tỉnh. Xuất phát từ quy định pháp luật về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy Công an cấp tỉnh thì Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh được gắn với phòng Cảnh sát thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp. Đến nay, trên toàn quốc đã có 63/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành lập Phòng Cảnh sát thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp cấp tỉnh để thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật. Thứ ba, về cơ quan thi hành án hình sự công an cấp huyện. Điều 13 Luật Thi hành án hình sự năm 2010 quy định nhiệm vụ quyền hạn của cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh; trong đó có nhiệm vụ, quyền hạn trong thi hành án phạt tù như giúp Trưởng Công an cấp huyện quản lý, chỉ đạo công tác thi hành án hình sự trên địa bàn cấp huyện; Áp giải thi hành án đối với người bị kết án phạt tù đang được tại ngoại, được hoãn, tạm đình chỉ; Trực tiếp quản lý số phạm nhân phục vụ tại nhà tạm giữ; Tống đạt quyết định thi hành án cho người bị kết án phạt tù đang ở nhà tạm giữ và báo cáo cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh; Lập hồ sơ và báo cáo cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh để đề nghị cơ quan quản lý thi hành án hình sự thuộc Bộ Công an ra quyết định đưa người bị kết án phạt tù đang ở nhà tạm giữ, được hoãn, tạm đình chỉ chấp hành án đi chấp hành án; đề nghị cơ quan có thẩm quyền ra quyết định truy nã đối với người trốn thi hành án phạt tù... Xuất phát từ quy định trên và chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy Công an cấp huyện thì Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện được gắn với Đội Cảnh sát thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp cấp huyện. Đây là quy định mới nhằm khắc phục những tồn tại, hạn chế trong
  • 35. 35 việc tổ chức, theo dõi, quản lý thi hành các án phạt ngoài tù, tử hình, trục xuất thời gian qua, góp phần thống nhất quản lý nhà nước về công tác thi hành án hình sự trong phạm vi cả nước [1, tr. 38]. 1.2. NHẬN THỨC CHUNG VỀ KIỂM SÁT THI HÀNH ÁN PHẠT TÙ 1.2.1. Khái niệm, chủ thể, đối tƣợng, phạm vi, đặc điểm hoạt động kiểm sát thi hành án phạt tù Theo Từ điển Tiếng Việt thì "kiểm sát" có nghĩa là "kiểm tra và giám sát việc chấp hành pháp luật của Nhà nước". Theo qui định của pháp luật nước ta và thực tiễn hoạt động kiểm sát cũng có nghĩa như vậy. Khi thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn của chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp, Viện kiểm sát chỉ kiểm tra, giám sát các hoạt động của chủ thể bị kiểm sát. Trong quá trình giám sát nếu phát hiện hoạt động của chủ thể bị kiểm sát có dấu hiệu vi phạm pháp luật, Viện kiểm sát có thể áp dụng các biện pháp kiểm sát như quyền yêu cầu chủ thể bị kiểm sát tự kiểm tra và báo cáo kết quả cho Viện kiểm sát biết hoặc tự mình trực tiếp kiểm tra... Nếu qua hoạt động kiểm tra mà phát hiện có căn cứ xác định chủ thể bị kiểm sát có hành vi vi phạm pháp luật thì Viện kiểm sát chỉ có quyền kiến nghị, kháng nghị, yêu cầu chủ thể bị kiểm sát thực hiện đúng qui định của pháp luật, khắc phục vi phạm và áp dụng các biện pháp phòng ngừa. Viện kiểm sát không phải là cấp trên, cấp quản lý của chủ thể bị kiểm sát nên không có quyền trực tiếp can thiệp vào hoạt động của chủ thể bị kiểm sát. Viện kiểm sát cũng không có quyền thực hiện thay các hoạt động của chủ thể bị kiểm sát hoặc ban hành quyết định, mệnh lệnh buộc chủ thể bị kiểm sát phải tuân theo, ngoại trừ trường hợp đặc biệt. Đó là, trong quá trình kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự, Viện kiểm sát nhân dân có quyền và trách nhiệm quyết định trả tự do ngay cho người bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành án phạt tù không có căn cứ và trái pháp luật. Cơ quan có liên quan phải có trách nhiệm thi hành quyết định này của Viện kiểm sát. Thẩm quyền trên của Viện kiểm sát không phải xuất phát
  • 36. 36 hay bắt nguồn từ chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp mà từ bản chất của Nhà nước pháp quyền, từ sự bảo đảm và tôn trọng quyền con người, quyền tự do dân chủ của công dân của Nhà nước ta [57, tr. 26-27]. Như vậy, kiểm sát hoạt động tư pháp nói chung và kiểm sát thi hành án hình sự nói riêng là chức năng hiến định của Viện kiểm sát, một dạng giám sát nhà nước về tư pháp, là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước. Mục đích của kiểm sát các hoạt động tư pháp là nhằm bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất trong quá trình hoạt động tư pháp của các chủ thể. Thi hành án phạt tù là một dạng hoạt động thi hành bản án và quyết định hình sự của Tòa án (thi hành án hình sự), theo đó, Viện kiểm sát có trách nhiệm áp dụng những biện pháp do Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Thi hành án hình sự và các văn bản hướng dẫn thi hành quy định để loại trừ việc làm vi phạm pháp luật của bất kỳ cơ quan, đơn vị, cá nhân nào tham gia vào quá trình thi hành án phạt tù. Đối tượng của kiểm sát thi hành án phạt tù không những là các hoạt động thi hành án của các cơ quan thi hành án phạt tù và của các cá nhân thuộc cơ quan này mà còn là các hoạt động của Tòa án trong việc ra quyết định thi hành án phạt tù, cơ quan quản lý thi hành án hình sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức tham gia hoạt động khác ở giai đoạn thi hành án phạt tù. Theo quy định tại khoản 2 Điều 10 Luật Thi hành án hình sự, các chủ thể với tư cách là Cơ quan thi hành án hình sự thì việc tuân theo pháp luật của các chủ thể này trong hoạt động thi hành án hình sự là đối tượng của hoạt động kiểm sát thi hành án hình sự, trong đó có thi hành án phạt tù bao gồm: Trại giam thuộc Bộ Công an; Cơ quan thi hành án hình sự Công an tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi là cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh); Cơ quan thi hành án hình sự Công an huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi là cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện). Phạm vi của hoạt động kiểm sát thi hành án phạt tù là chỉ thời điểm bắt đầu và kết thúc các hoạt động của hoạt động kiểm sát này. Khi tiến hành
  • 37. 37 hoạt động kiểm sát thi hành án phạt tù, Viện kiểm sát nhân dân thực hiện các hoạt động trong phạm vi đã xác định. Nếu vượt quá giới hạn của phạm vi sẽ dẫn đến sự chồng chéo, trùng lặp lên công việc của hoạt động khác, của bộ phận khác và của cơ quan khác... làm giảm hiệu quả và tác dụng của hoạt động kiểm sát. Việc xác định đúng phạm vi của từng hoạt động kiểm sát là để đảm bảo tính liên tục, tính thống nhất trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân, vì thế việc xác định phạm vi của hoạt động kiểm sát thi hành án phạt tù là hết sức cần thiết, không chỉ đảm bảo cho hoạt động này không chồng chéo, nhầm lẫn sang hoạt động kiểm sát khác mà còn đảm bảo không bỏ trống, bỏ sót phạm vi xem xét của hoạt động kiểm sát thi hành án phạt tù. Việc xác định đúng phạm vi của hoạt động là một trong những yếu tố để nâng cao hiệu quả của hoạt động kiểm sát thi hành án phạt tù [41, tr. 8-9]. Căn cứ vào chương V, VI Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 và quy chế công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự ban hành kèm theo Quyết định số 35/QĐ-VKSTC-V4 ngày 29/01/2013 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao thì phạm vi hoạt động kiểm sát thi hành án phạt tù được xác định từ khi bản án, quyết định thi hành án phạt tù được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án hình sự năm 2010 (chưa có quyết định thi hành án) cho đến khi chấm dứt việc thi hành án phạt tù theo quy định của pháp luật. Như vậy, việc xác định thời điểm chấm dứt việc thi hành án phạt tù theo quy định của pháp luật có ý nghĩa rất quan trọng. Như trên chúng tôi đã phân tích thì thi hành án phạt tù là việc cơ quan, người có thẩm quyền thực hiện các quyết định hình phạt tù trong bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật trên thực tế...; và tất nhiên, việc thi hành án phạt tù chấm dứt khi hình phạt tù chấm dứt. Tuy nhiên, không phải mọi trường hợp đều chấm dứt việc thi hành án phạt tù khi người bị kết án chấp hành xong hình phạt tù trong bản án mà có thể kết thúc trước thời điểm này hoặc ngay cả khi
  • 38. 38 người bị kết án chưa chấp hành hình phạt tù. Điều này xảy ra trong một số trường hợp sau: Thứ nhất, người bị kết án được miễn chấp hành hình phạt tù. Theo quy định các khoản 1, 2, 3 và 4 Điều 57 Bộ luật Hình sự năm 1999 về miễn chấp hành hình phạt thì: Đối với người bị kết án cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn, chưa chấp hành hình phạt mà lập công lớn hoặc mắc bệnh hiểm nghèo và nếu người đó không còn nguy hiểm cho xã hội nữa, thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện Kiểm sát, Tòa án có thể quyết định miễn chấp hành toàn bộ hình phạt. Người bị kết án được miễn chấp hành hình phạt khi được đặc xá hoặc đại xá. Đối với người bị kết án về tội ít nghiêm trọng đã được hoãn chấp hành hình phạt theo quy định tại Điều 61 của Bộ luật này, nếu trong thời gian được hoãn đã lập công, thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện Kiểm sát, Tòa án có thể quyết định miễn chấp hành hình phạt. Đối với người bị kết án phạt tù về tội ít nghiêm trọng đã được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt theo quy định tại Điều 62 của Bộ luật này, nếu trong thời gian được tạm đình chỉ mà đã lập công, thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện Kiểm sát, Tòa án có thể quyết định miễn chấp hành phần hình phạt còn lại. Như vậy, đối với người bị kết án phạt tù có thể được miễn chấp hành toàn bộ hoặc một phần hình phạt tù. Người bị kết án phạt tù có thể được miễn chấp hành toàn bộ hình phạt tù trong trường hợp bị kết án phạt tù có thời hạn chưa chấp hành hình phạt mà lập công lớn hoặc mắc bệnh hiểm nghèo và nếu không còn nguy hiểm cho xã hội nữa; ngoài ra đối với trường hợp người bị kết án về tội ít nghiêm trọng đã được hoãn chấp hành hình phạt mà trong thời gian hoãn đã lập công thì có thể được miễn chấp hành hình phạt tù. Người bị kết án phạt tù có thể được miễn một phần hình phạt tù trong trường hợp khi được đặc xá, đại xá hoặc đối với trường hợp người bị kết án phạt tù về tội ít nghiêm trọng đã được tạm đình chỉ, nếu trong thời gian được tạm đình chỉ mà đã lập công thì có thể được miễn chấp hành hình phạt còn lại. Các điều kiện về lập công, lập công lớn hoặc bệnh hiểm nghèo được giải thích tại mục 2
  • 39. 39 Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP ngày 02/10/2007 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Hình sự về thời hiệu thi hành bản án, miễn chấp hành hình phạt, giảm thời hạn chấp hành hình phạt. Thứ hai, có quyết định đình chỉ chấp hành hình phạt tù. Theo quy định tại khoản 2 Điều 49 Luật Thi hành án hình sự năm 2010 thì trong trường hợp phạm nhân chết, Tòa án đã ra quyết định thi hành án phải ra quyết định đình chỉ việc chấp hành hình phạt tù và đương nhiên trong trường hợp này bản án và quyết định phạt tù hết hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, nếu xem xét trong trường hợp bản án đã có hiệu lực pháp luật, Tòa án có thẩm quyền chưa ra quyết định thi hành án phạt tù hoặc đã ra quyết định thi hành án phạt tù nhưng chưa đưa người bị kết án phạt tù đến cơ sở chấp hành án phạt tù để chấp hành án mà người bị kết án chết thì pháp luật tố tụng hình sự chưa điều chỉnh. Theo quan điểm của chúng tôi, đối với trường hợp này, Chánh án Tòa án có thẩm quyền phải ra quyết định thi hành án (nếu chưa ra quyết định thi hành án) và phải ra quyết định đình chỉ chấp hành hình phạt tù. Thứ ba, người bị kết án chấp hành xong hình phạt tù. Theo quy định tại khoản 2 Điều 40 Luật Thi hành án hình sự năm 2010 thì vào ngày cuối cùng của thời hạn chấp hành án phạt tù, trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh hoàn chỉnh thủ tục theo quy định của pháp luật để trả tự do cho phạm nhân.... Như vậy, trong trường hợp người bị kết án chấp hành xong hình phạt tù trong bản án thì việc thi hành án phạt tù kết thúc. Trên cơ sở các phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm: Kiểm sát thi hành án phạt tù là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong việc áp dụng các biện pháp do pháp luật quy định để kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án, cơ quan thi hành án hình sự, cơ quan, tổ chức có trách nhiệm trong việc thi hành án phạt tù, nhằm bảo đảm việc thi hành án phạt tù được thực hiện đúng pháp luật, đầy đủ, kịp thời [42, tr. 3].
  • 40. 40 1.2.2. Lịch sử hình thành và phát triển quy định của pháp luật về kiểm sát thi hành án phạt tù tại Việt Nam từ khi thành lập Viện Kiểm sát nhân dân Công tác kiểm sát thi hành án hình sự nói chung và kiểm sát thi hành án phạt tù nói riêng được Nhà nước rất quan tâm ngay từ khi mới được thành lập. Trước khi Viện kiểm sát nhân dân ra đời (năm 1960) ở nước ta đã có Viện công tố. Năm 1946, căn cứ vào Hiến pháp đầu tiên của nhà nước ta, tổ chức Viện công tố được thành lập trong hệ thống Tòa án từ cấp tỉnh trở lên và trực thuộc Bộ Tư pháp. Ngày 12/6/1951, Liên bộ Nội vụ - Tư pháp ban hành Nghị định số 131 quy định chi tiết thi hành Sắc lệnh số 150-SL ngày 7/11/1950; trong đó giao cho công tố viện quyền kiểm soát ban giám thị trại giam. Nghị định quy định đặt ra chế độ giám sát của công tố viện đối với việc giam giữ của ban giám thị trại giam. Về phương diện giam giữ, ban giám thị trại giam đặt dưới quyền kiểm soát của công tố viện tỉnh hoặc công tố ủy viên liên khu; đồng thời ban hành quy tắc trại giam. Theo đó, hoạt động của ban giám thị trại giam phải báo cáo công tố ủy viên cùng cấp về quá trình quản lý giáo dục phạm nhân trong trại giam. Các công tố ủy viên phải thường kỳ đi kiểm tra trại giam mỗi tháng một lần hoặc kiểm tra bất thường để phát hiện, xử lý những vi phạm của ban giám thị trại giam trong việc giam giữ và cải tạo. Ngày 05/12/1957, Bộ Tư pháp ra Thông tư số 141-HCTP quy định về phân công trong nội bộ các tòa án. Theo đó, tòa án có chánh án và công tố ủy viên, ở những nơi nhiều việc có thể có phó chánh án, phó công tố ủy viên và thẩm phán. Công tố ủy viên thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn độc lập, không chịu sự lãnh đạo của chánh án mà dưới sự lãnh đạo của Bộ Tư pháp và trong đó, công tố ủy viên dưới sự lãnh đạo của Bộ Tư pháp có nhiệm vụ thi hành và đôn đốc việc thi hành các bản án, quyết định của tòa án về hình sự, dân sự và kiểm sát chế độ giam giữ ở các trại giam, trại cải tạo có hợp pháp không... [59, tr. 73-74].
  • 41. 41 Khoản d, e Điều 3 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960 quy định: Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân địa phương các cấp thi hành nhiệm vụ trên bằng cách: ... Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc xét xử của tòa án nhân dân và trong việc chấp hành các bản án; Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giam giữ của các trại giam;.... Để thực hiện công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giam giữ của các trại giam, Pháp lệnh quy định cụ thể về tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân tối cao ngày 16/04/1962 quy định bộ máy làm việc của Viện kiểm sát nhân dân tối cao; trong đó quy định về chức năng Phòng kiểm sát giam giữ (nay là Vụ kiểm sát tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự) trực thuộc Viện trưởng. Tuy nhiên, trước năm 1994, trong ngành kiểm sát nhân dân chưa có hệ thống tổ chức bộ máy riêng để thực hiện công tác kiểm sát thi hành án nói chung và kiểm sát thi hành án hình sự nói riêng. Thời kỳ này, công tác kiểm sát thi hành án hình sự ở Viện kiểm sát nhân dân tối cao được giao cho Vụ kiểm sát xét xử hình sự (Vụ 3) đảm nhiệm và ở Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh thì giao cho Phòng kiểm sát việc giam, giữ, cải tạo hoặc Phòng kiểm sát xét xử hình sự thực hiện. Còn ở các Viện kiểm sát cấp huyện thì chưa có Kiểm sát viên chuyên trách thực hiện công tác kiểm sát thi hành án. Ngày 15/3/1994, Vụ kiểm sát thi hành án được thành lập, là một đơn vị nghiệp vụ thuộc tổ chức bộ máy của Viện kiểm sát nhân dân tối cao từ đó, ở các Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh bắt đầu thành lập các Phòng kiểm sát thi hành án. Phạm vi giữa công tác kiểm sát việc thi hành án với công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù được phân định theo Quyết định số 12/QĐ ngày 08/03/1995 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Sau khi Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 được ban hành thì hai công tác này được tách ra thành công tác kiểm sát tạm giữ, tạm
  • 42. 42 giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù và công tác kiểm sát thi hành án. Tuy nhiên, trong lĩnh vực kiểm sát việc thi hành án phạt tù (bao gồm phạt tù có thời hạn và tù chung thân) thì hai công tác kiểm sát này đều có đối tượng kiểm sát liên quan đến việc thi hành án phạt tù, nên để tránh chồng chéo, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao cũng đã ban hành hướng dẫn riêng về phân định phạm vi giữa hai công tác kiểm sát này. Theo quy định tại Điều 4 Quy chế công tác Kiểm sát thi hành án (ban hành kèm theo Quyết định số 807/2007/QĐ-VKSTC ngày 25/07/2007 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao) thì công tác kiểm sát thi hành án phạt tù bắt đầu từ khi bản án phạt tù của Tòa án có hiệu lực pháp luật cho đến khi đưa người bị kết án vào trại giam và kết thúc khi người bị kết án chấp hành xong hình phạt, ra khỏi trại giam và cho đến khi họ được xóa án tích. Những hoạt động thi hành án phạt tù trong thời gian từ khi người bị kết án vào trại giam cho đến khi họ ra khỏi trại là đối tượng kiểm sát của công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù. Tuy nhiên, quá trình chấp hành án trong trại, có việc được giao cho công tác kiểm sát thi hành án, có việc giao cho công tác kiểm sát việc quản lý, giáo dục người chấp hành án phạt tù theo Chỉ thị số 03/2004/CT-VKSTC-V10 [59, tr. 10]. Hiện nay, theo Quyết định số 01/QĐ-VKSTC-V9 ngày 10/12/2010 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao thì kể từ ngày 01/01/2011 thì Vụ kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Phòng Kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh thực hiện chức năng, nhiệm vụ kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam và kiểm sát thi hành án hình sự; bộ phận Kiểm sát thi hành án Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện thực hiện chức năng, nhiệm vụ kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam và thi hành án dân sự, thi hành án hình sự ở địa phương. Như vậy, khâu công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù đảm nhiệm toàn bộ việc kiểm sát thi hành án hình sự.
  • 43. 43 Nghị quyết số 522d/NQ-UBTVQH13 ngày 16/8/2012 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc phê chuẩn việc điều chỉnh, bổ sung nhiệm vụ và đổi tên một số đơn vị thuộc bộ máy làm việc của Viện kiểm sát nhân dân tối cao phê chuẩn Quyết định số 202/QĐ-VKSTC-V9 ngày 02/8/2012 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về việc điều chỉnh, bổ sung nhiệm vụ và đổi tên một số đơn vị thuộc bộ máy làm việc của Viện kiểm sát nhân dân tối cao; theo đó bổ sung nhiệm vụ kiểm sát thi hành án hình sự cho Vụ kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù và đổi tên thành Vụ kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự. Như vậy, nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc chấp hành các bản án trong đó có việc chấp hành các bản án phạt tù và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giam giữ của các trại giam (trại cải tạo) được quy định ngay khi Viện kiểm sát nhân dân được thành lập và được kế thừa cho đến hiện nay. 1.3. THI HÀNH ÁN PHẠT TÙ VÀ KIỂM SÁT THI HÀNH ÁN PHẠT TÙ TRONG PHÁP LUẬT Ở MỘT SỐ NƢỚC TRÊN THẾ GIỚI 1.3.1. Thi hành án phạt tù và kiểm sát thi hành án phạt tù trong pháp luật Liên bang Nga Bộ luật Tố tụng hình sự Liên bang Nga được Đuma Quốc gia thông qua ngày 22/11/2001; sau đó được sửa đổi, bổ sung nhiều lần và lần sửa gần đây nhất là ngày 18/10/2011. Bộ luật Tố tụng hình sự Liên bang Nga gồm 6 phần lớn với 475 điều gồm: Phần thứ nhất quy định những quy định chung; Phần thứ hai quy định về thủ tục tố tụng trước khi xét xử; Phần thứ ba quy định về thủ tục xét xử; Phần thứ tư quy định về thủ tục tố tụng đặc biệt; Phần thứ năm quy định về hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự và Phần thứ sáu quy định về mẫu các văn bản tố tụng. Trong đó phần thứ ba quy định về thủ tục xét xử, gồm 7 chương (từ chương IX đến chương V) với 193 Điều quy định tất cả các nội dung liên quan đến xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc,