Nhận viết luận văn đại học, thạc sĩ trọn gói, chất lượng, LH ZALO=>0909232620
Tham khảo dịch vụ, bảng giá tại: https://vietbaitotnghiep.com/dich-vu-viet-thue-luan-van
Download luận văn thạc sĩ ngành luật với đề tài: Thẩm quyền của tòa án nhân dân trong xét xử sơ thẩm vụ án hành chính - Từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk, cho các bạn làm luận văn tham khảo
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
Đề tài: Thẩm quyền của tòa án trong xét xử sơ thẩm vụ án, HOT
1. 1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
……………/………… ….…./…….
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
PHẠM VĂN ĐOÀN
THẨM QUYỀN CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TRONG XÉT XỬ SƠ
THẨM VỤ ÁN HÀNH CHÍNH TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐĂK LĂK
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
ĐĂK LĂK – 2017
2. 2
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
……………/……………. ….…./…….
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
PHẠM VĂN ĐOÀN
THẨM QUYỀN CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TRONG XÉT XỬ SƠ
THẨM VỤ ÁN HÀNH CHÍNH – TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐĂK LĂK
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật hành chính
Mã số: 60.38.01.02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN BÁ CHIẾN
ĐĂK LĂK – 2017
3. 3
LỜI CAM ĐOAN
Bằng văn bản này, tác giả xin cam đoan rằng các nội dung được trình
bày trong Luận văn “Thẩm quyền của Tòa án nhân dân trong xét xử sơ thẩm
vụ án hành chính từ thực tiễn tỉnh Đăk Lăk” là công trình nghiên cứu khoa
học độc lập của tác giả..
Tác giả xin cam đoan là công trình nghiên cứu do chính tác giả thực
hiện. Các số liệu trích dẫn nêu trong luận văn là trung thực và được tác giả
chú thích rõ ràng.
Tác giả
Phạm Văn Đoàn
4. 4
MỤC LỤC
trang
Lời cam đoan................................................................................................ 3
Mục lục......................................................................................................... 4
Danh mục các chữ viết tắt........................................................................... 6
Danh mục các bảng..................................................................................... 7
MỞ ĐẦU. .......................................................................................... 8
1. Tính cấp thiết của đề tài......................................................................8
2. Tình hình nghiên cứu đề tài..............................................................10
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn..................................................12
4. Đối tượng phạm vi nghiên cứu..........................................................13
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn.......... 13
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn.........................................14
7. Kết cấu luận văn............................................................................... 15
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THẨM QUYỀN CỦA TÒA ÁN NHÂN
DÂN TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÀNH CHÍNH..................16
1.1. Những khái niệm có liên quan.......................................................16
1.2. Thẩm quyền của Tòa án nhân dân trong xét xử sơ thẩm vụ án hành
chính ...............................................................................................................21
Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN THẨM QUYỀN CỦA TÒA ÁN
NHÂN DÂN TỈNH ĐĂK LĂK TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN
HÀNH CHÍNH .............................................................................................47
2.1. Tình hình và đặc điểm của khiếu kiện hành chính trên địa bàn tỉnh
Đăk Lăk từ năm 2012 đến 2016......................................................................47
2.2. Đánh giá thực trạng thực hiện thẩm quyền của Tòa án nhân dân
tỉnh Đăk Lăk trong xét xử sơ thẩm vụ án hành chính.....................................49
5. 5
2.3. Một số kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn thực hiện thẩm quyền xét xử
sơ thẩm vụ án hành chính của Tòa án nhân dân tỉnh Đăk Lăk .......................72
Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN THẨM
QUYỀN CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ
ÁN HÀNH CHÍNH TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐĂK LĂK .........................78
3.1. Tình hình khiếu kiện hành chính trong xét xử sơ thẩm vụ án hành
chính trong những năm tới trên địa bàn tỉnh Đăk Lăk....................................78
3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện thẩm quyền của Tòa
án nhân dân trong xét xử sơ thẩm vụ án hành chính.......................................81
KẾT LUẬN.....................................................................................98
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………100
6. 6
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
PLTTGQCVAH Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính
QSDĐ Quyền sử dụng đất
TA Tòa án
TAND Tòa án nhân dân
TNHH Trách nhiệm hữu hạn
TP Thành phố
UBND Ủy ban nhân dân
VKSND Viện kiểm sát nhân dân
XHCN Xã hội chủ nghĩa
TTHC Tố tụng hành chính
7. 7
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu bảng Tên bảng Trang
2.1 Kết quả xử lý đơn khiếu kiện của Tòa án nhân dân
cấp sơ thẩm tỉnh Đăk Lăk
47
2.2 Kết quả xét xử sơ thẩm vụ án hành chính của Tòa
án nhân dân trong tỉnh Đăk Lăk
51
8. 8
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với sự ra đời của Toà Hành chính và Pháp lệnh Thủ tục giải quyết
các vụ án hành chính năm 1996, quyền khởi kiện vụ án hành chính để yêu cầu
Toà án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người dân chính thức được pháp
luật quy định. Trải qua 20 năm hình thành và phát triển với những sửa đổi, bổ
sung của hệ thống pháp luật, thẩm quyền xét xử vụ án hành chính của Toà án
nhân dân (TAND) các cấp ngày càng được mở rộng, tạo điều kiện cho Tòa
phát huy vai trò bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá
nhân, góp phần tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý hành chính nhà nước.
So với các vụ án hình sự, dân sự đã có từ lâu đời trong lịch sử tố tụng tư pháp
Việt Nam, việc giải quyết các vụ án hành chính ở nước ta vẫn được coi là mới
mẻ cả về phương diện lý luận và cả về thực tiễn áp dụng pháp luật.
Trong điều kiện phát triền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế
ngày càng sâu rộng, các khiếu kiện hành chính ngày càng gia tăng và trở nên
gay gắt. Trước tình hình đó, pháp luật Tố tụng hành chính (TTHC) ngày càng
hoàn thiện đã tạo cơ sở pháp lý thuận lợi hơn cho người dân trong việc thực
hiện quyền khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính để bảo vệ
quyền lợi chính đáng của mình, Vì lý do này, số lượng vụ án hành chính được
TAND các cấp thụ lý giải quyết hàng năm đều tăng nhiều về số lượng, tính
chất tranh chấp ngày càng phức tạp.
Mặc dù TAND các cấp đã có nhiều cố gắng trong công tác xét xử các
vụ án hành chính nhưng kết quả giải quyết còn nhiều hạn chế. Thực tiễn xét
xử của ngành Tòa án trong thời gian vừa qua cho thấy, thời hạn giải quyết các
vụ án hành chính thường bị kéo dài quá hạn pháp luật quy định, có những vụ
án giải quyết qua nhiều năm chưa kết thúc, nhiều vụ án xét xử thiếu khách
9. 9
quan, chưa chính xác đã gây tâm lý phản cảm, giảm sút niềm tin trong một bộ
phận quần chúng nhân dân.
Bên cạnh đó, ngày 8/12/2015 tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XIII,
Luật tố tụng hành chính năm 2015 được Quốc hội thông qua với nhiều quy
định đã được sửa đổi, bổ sung so với Luật TTHC năm 2010. Trong đó, có
nguyên tắc tranh tụng trong TTHC đã được quy định tại Mục 3 (Tranh tụng
trong phiên tòa) thuộc Chương XI (Phiên tòa sơ thẩm) nhằm bảo đảm tranh
tụng công khai, dân chủ giữa bên khởi kiện là cơ quan, tổ chức, cá nhân và
bên bị kiện là cơ quan quản lý hành chính nhà nước hoặc người có thẩm
quyền trong cơ quan quản lý hành chính. Những quy định này cần được
nghiên cứu, vận dụng vào thực tiễn giải quyết các vụ án hành chính (đặc biệt
là thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hành chính) để đáp ứng yêu cầu cải cách tư
pháp của đất nước.
Đắk Lắk là một tỉnh thuộc khu vực Tây Nguyên, trong những năm vừa
qua do tác động mạnh mẽ của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế đã thúc
đẩy kinh tế phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân không
ngừng được nâng lên, một số công trình, nhà máy, xí nghiệp được xây dụng,
lĩnh vực nông nghiệp, dịch vụ, du lịch, vui chơi giải trí phát triển. Tuy nhiên,
bên cạnh những mặt tích cực đó thì tình hình khiếu kiện hành chính trong lĩnh
vực quản lý đất đai, nhà ở, các lĩnh vực thuế, xây dụng, môi trường đô thị,
kinh doanh, dịch vụ du lịch... ngày càng phức tạp. Số lượng vụ án hành chính
được TAND tỉnh thụ lý giải quyết ngày càng tăng nhưng chất lượng giải
quyết các vụ án vẫn còn nhiều thiếu sót, hạn chế dẫn đến việc các đương sự
kháng cáo, cơ quan có thẩm quyền kháng nghị, gây nên bức xúc trong quần
chúng nhân dân.
Thực trạng trên cho thấy, việc nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện
cả về cơ sở lý luận và thực tiễn thực hiện thẩm quyền của TAND trong xét xử
10. 10
sơ thẩm vụ án hành chính dưới góc độ luật Hiến pháp và Hành chính nhằm
tìm ra những ưu điểm và những hạn chế, vướng mắc; rút ra những bài học
kinh nghiệm đồng thời đưa ra các giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế,
tồn tại, góp phần nâng cao hơn nữa chất lượng thực hiện thẩm quyền của
TAND trong xét xử sơ thẩm vụ án hành chính là rất cần thiết và khách quan,
đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp theo quan điểm của Đảng được thể hiện tại
các Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 “Về một số nhiệm vụ trọng
tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới”. và Nghị quyết số 49/NQ-TW
ngày 02/6/2005 “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”. Vì vậy, tác
giả chọn nghiên cứu đề tài: “Thẩm quyền của TAND trong xét xử sơ thẩm
vụ án hành chính - Từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk” để làm Luận văn tốt nghiệp
Cao học Luật, chuyên ngành Luật Hiến pháp và Hành chính là cấp thiết,
khách quan trong giai đoạn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Để vụ án hành chính được xét xử kịp thời, đúng pháp luật, bảo vệ được
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, TAND đóng vai trò quyết định. Do
đó, vấn đề thẩm quyền của TAND trong việc xét xử sơ thẩm vụ án hành chính
đã được nhiều nhà nghiên cứu lý luận và những người hoạt động thực tiễn
quan tâm. Việc nghiên cứu đề tài này được thể hiện trong nhiều công trình
khoa học được công bố trên sách, báo, tạp chí chuyên ngành và các Luận văn
Thạc sỹ, một số giáo trình giảng dạy về pháp luật. Có thể nêu ra các công
trình, bài viết sau đây:
Tác giả Nguyễn Đức Chính “Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính
theo Luật TTHC Việt Nam”, Luận văn Thạc sỹ chuyên ngành “Lý luận và
Lịch sử Nhà nước và pháp luật”- Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2014. Luận
văn đã làm rõ một cách đầy đủ về cơ sở lý luận, nhận thức chung về thẩm
quyền của Tòa hành chính quy định của pháp luật về thẩm quyền xét xử của
11. 11
Tòa hành chính trước và sau khi có Luật TTHC năm 2010 đồng thời đánh giá
thực tiễn thi hành các quy định này trong hoạt động giải quyết vụ án hành
chính của Việt Nam và đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện và bảo đảm
thực hiện những quy định về thẩm quyền của Tòa hành chính. Luận văn chưa
cập nhật quy định về thẩm quyền xét xử của Tòa án theo Luật TTHC năm
2015. Luận văn đề cập đến thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính nói chung
cho nên thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hành chính chỉ được tác giả nêu lên
ở mức độ hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu nâng cao chất lượng của hoạt
động thực hiện thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hành chính.
Sách “Giáo trình Luật Hành chính và Tài phán hành chính Việt Nam”
(2008), Học việc Hành chính Quốc gia.
Tác giả Vũ Thị Hòa (2011), “ Đối tượng khởi kiện và thẩm quyền xét
xử theo Luật tố tụng hành chính 2010”. Tạp chí kiểm sát, số 8, Hà Nội.
Bài viết phân tích làm rõ quy định của Luật TTHC năm 2010 về đối
tượng khởi kiện và thẩm quyền xét xử vụ án hành chính của Tòa án nói
chung. Bài viết không đề cập đến cơ sở lý luận về thẩm quyền xét xử nói
chung và thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hành chính cũng như thực tiễn
thực hiện thẩm quyền của Tòa án.
TS. Nguyễn Văn Thuân (2016), “Thẩm quyền của Tòa án theo Luật
TTHC năm 2015”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật. Bài viết đề cập đến sự cần
thiết về việc ban hành Luật TTHC năm 2015 đồng thời nêu lên một số điểm
mới về thẩm quyền của TAND trong việc giải quyết các vụ án hành chính như
theo loại việc, thẩm quyền theo cấp Tòa án ... Bài viết không đề cập đến
những vấn đề lý luận và thực tiễn thực hiện thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án
hành chính của TAND.
Nhìn chung, những công trình, tài liệu trên đây đã tập trung nghiên cứu
các quy định chung về thẩm quyền xét xử vụ án hành chính của Tòa án theo
12. 12
quy định của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1996 và
Luật TTHC năm 2010 mà chưa đề cập đến quy định của Luật TTHC năm
2015 và chưa nghiên cứu một cách hệ thống về hoạt động thực hiện thẩm
quyền xét xử sơ thẩm vụ án hành chính của TAND. Vì vậy, việc lựa chọn đề
tài “Thẩm quyền của TAND trong xét xử sơ thẩm vụ án hành chính - Từ
thực tiễn tỉnh Đắk Lắk” của tác giả là hoàn toàn mới, chưa có một công
trình nào nghiên cứu.
Thông qua việc nghiên cứu thực hiện đề tài, tác giả mong muốn làm rõ
cơ sở lý luận và thực tiễn hoạt động thực hiện thẩm quyền của TAND trong
xét xử sơ thẩm vụ án hành chính trên địa bàn tỉnh Đăk Lăk, từ đó đưa ra
những giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về thẩm
quyền của TAND trong xét xử sơ thẩm vụ án hành chính nhằm đáp ứng yêu
cầu cải cách tư pháp của đất nước trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Từ việc phân tích làm rõ cơ sở lý luận và đánh giá thực trạng thực hiện
thẩm quyền của TAND trong xét xử sơ thẩm vụ án hành chính tại tỉnh Đăk
Lăk, luận văn đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện thẩm
quyền của TAND trong giải quyết vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm
trong thời gian tới
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu trên, luận văn đặt ra và thực hiện những nhiệm vụ
như sau:
- Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài để xác định
những nội dung cần tiếp tục nghiên cứu;
- Nghiên cứu, phân tích làm rõ các đặc điểm của thẩm quyền của
TAND trong xét xứ sơ thẩm vụ án hành chính.
13. 13
- Xây dựng một số khái niệm, nội dung của thẩm quyền của TAND
trong xét xử sơ thẩm vụ án hành chính;
- Khảo sát, thống kê, đánh giá thực trạng thực hiện Thẩm quyền của
TAND trong xét xử sơ thẩm vụ án hành chính - Từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk
giai đoạn năm 2012 đến năm 2016;
- Tổng hợp kết quả nghiên cứu, dự báo những yếu tố ảnh hưởng và đề
xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện “Thẩm quyền của TAND
trong xét xử sơ thẩm vụ án hành chính - Từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk”.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn thực hiện Thẩm quyền
của TAND trong xét xử sơ thẩm vụ án hành chính.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Các hoạt động thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn của
TAND trong giải quyết vụ án hành chính theo thủ tục xét xử sơ thẩm.
Về không gian: Trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, do TAND tỉnh Đắk Lắk
thực hiện.
Về thời gian nghiên cứu: Từ năm 2012 đến năm 2016.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được thục hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, chính sách của Đảng và pháp
luật Nhà nước về thẩm quyền của TAND trong xét xử sơ thẩm vụ án hành chính.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:
- Phương pháp thu thập và nghiên cứu các tài liệu có liên quan để làm
rõ tổng quan tình hình nghiên cứu và những vấn đề lý luận về thẩm quyền của
14. 14
TAND trong xét xử sơ thẩm vụ án hành chính. Từ đó, xác định những nội
dung nào của các công trình khoa học trước chưa đề cập đến để tiếp tục
nghiên cửu, bổ sung hoàn thiện về lý luận.
- Phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp được sử dụng để thống kê
và phân tích tài liệu, báo cáo tổng kết thực hiện thẩm quyền của TAND trong
xét xử sơ thẩm vụ án hành chính trong thực tiễn nhằm tổng hợp rút ra những
ưu điềm, hạn chế, vướng mắc.
- Phương pháp nghiên cứu điển hình được sử dụng để tiến hành nghiên
cứu, phân tích hoạt động thực hiện thẩm quyền của TAND trong xét xử sơ
thẩm vụ án hành chính từ một số vụ án cụ thể để tìm ra những ưu điểm và
khuyết điểm, thiếu sót mang tính phổ biến. Từ đó rút ra những nguyên nhân,
điều kiện dẫn đến các vi phạm của TAND khi thực hiện thẩm quyền của
TAND trong xét xử sơ thẩm vụ án hành chính để tiếp tục nghiên cứu, bổ sung
hoàn thiện về lý luận.
- Phương pháp hỏi ý kiến chuyên gia được sử dụng để tọa đàm, trao đổi
với các chuyên gia nhằm tìm hiểu các kinh nghiệm trong hoạt động thực hiện
nhiệm vụ và quyền hạn của TAND trong giải quyết vụ án hành chính theo thủ
tục xét xử sơ thẩm.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận vãn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn đã góp phần bổ sung, hoàn thiện lý luận khoa học pháp lý
chuyên ngành luật hành chính; làm rõ nội dung thẩm quyền của TAND trong
xét xử sơ thẩm vụ án hành chính, nhằm góp phần nâng cao hiệu quả hoạt
động xét xử của TAND.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận án có thể được sử dụng làm tài liệu phục vụ cho công tác đào tạo,
bồi dưỡng chuyên sâu nghiệp vụ cho Thẩm phán, Thư ký tòa án. Một số giải
15. 15
pháp của luận văn là tài liệu để các cơ quan có thẩm quyền nghiên cứu, tham
khảo khi sửa đổi, bổ sung Luật TTHC hiện hành của Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm có 03 Chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về thẩm quyền của Tòa án nhân dân trong xét
xử sơ thẩm vụ án hành chính
Chương 2: Thực trạng thực hiện thẩm quyền của Toàn án nhân dân tỉnh
Đăk Lăk trong xét xử sơ thẩm vụ án hành chính
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện thẩm quyền của Toàn
án nhân dân trong xét xử sơ thẩm vụ án hành chính từ thực tiễn tỉnh Đăk Lăk.
16. 16
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THẨM QUYỀN CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÀNH CHÍNH
1.1. Những khái niệm có liên quan
1.1.1. Khái niệm thẩm quyền
Theo Từ điển Tiếng Việt thông dụng “thẩm quyền”có nghĩa là “quyền
xem xét, quyết định” [ 21].
Theo Từ điển Luật học, “thẩm quyền” là “Quyền chính thức được xem
xét để kết luận và định đoạt, quyết định một vấn đề.
Thẩm quyền gắn liền với quyền và nhiệm vụ mà pháp luật quy định cho
cơ quan Nhà nước, người nắm giữ các chức vụ lãnh đạo, quản lý trong cơ
quan đó để thực hiện chức năng và nhiệm vụ của họ".
Từ các khái niệm trên, có thể hiểu “thẩm quyền” là quyền do pháp luật
quy định một chủ thể nhất định (cơ quan, tổ chức hoặc người có thẩm quyền
trong cơ quan, tổ chức) được xem xét, cân nhắc, quyết định một vấn đề; thẩm
quyền là khả năng được thực hiện một công việc trong một lĩnh vực, một
phạm vi theo quy định của pháp luật.
Để bảo đảm cho bộ máy nhà nước hoạt động bình thường, không chồng
chéo, dẫm đạp lên nhau, mỗi cơ quan, tổ chức trong bộ máy nhà nước có một
chức năng, nhiệm vụ và những quyền hạn riêng biệt. Thẩm quyền của mỗi cơ
quan, tổ chức, cá nhân được xác định theo lĩnh vực, ngành, khu vực hành
chính, cấp hành chính để thực hiện những chức năng, nhiệm vụ của họ. Phạm
vi hoạt động và quyền năng pháp lý của các cơ quan nhà nước được gọi là
thẩm quyền của các cơ quan nhà nước. Thẩm quyền chính là thuộc tính tất
yếu của cơ quan quyền lực Nhà nước là tổng thể quyền và nghĩa vụ và là cơ
sở để phân biệt cơ quan Nhà nước này với cơ quan Nhà nước khác.
17. 17
Như vậy, “thẩm quyền” là một thuật ngữ pháp lý dùng để chỉ phạm vi,
giới hạn chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của một chủ thể trong việc thực
thi quyền lực Nhà nước do pháp luật quy định.
1.1.2. Khái niệm thẩm quyền của Tòa án
Là một bộ phận cấu thành của bộ máy nhà nước, Tòa án có chức năng,
nhiệm vụ riêng biệt. Theo Hiến pháp năm 2013, “TAND là cơ quan xét xử của
nước Cộng hoà XHCN Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”, Tòa án “bảo vệ
công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo
vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân” [12].
Với chức năng xét xử, Tòa án có thẩm quyền và trách nhiệm xem xét
giải quyết các vụ án hình sự, dân sự, hành chính, nhân danh Nhà nước ra các
phán quyết nhằm bảo đảm sự công bằng xã hội. Thẩm quyền xét xử là quyền
chuyên biệt được trao riêng cho cơ quan Tòa án, không phân biệt cấp Tòa án
hay vùng lãnh thổ. Bên cạnh đó, mỗi Tòa án lại được phân định theo cấp, theo
khu vực hành chính, theo vụ việc (ví dụ: thẩm quyền xét xử của Tòa sơ thẩm).
Vậy, “thẩm quyền xét xử của Tòa án” là “quyền xem xét và quyết định
trong hoạt động xét xử của Tòa án theo quy định của pháp luật” .
Thẩm quyền của Tòa án trong việc xét xử các vụ án hành chính là phạm
vi thực hiện quyền tư pháp của Tòa án, được pháp luật TTHC quy định để
giải quyết các tranh chấp hành chính bằng thủ tục TTHC.
1.1.3. Khái niệm “vụ án hành chính” và “xét xử sơ thẩm vụ án hành chính”
1.1.3.1. Khái niệm vụ án hành chính
“Vụ án” nói chung là một thuật ngữ dùng để chỉ một vụ việc hình sự,
dân sự, hành chính được đưa ra giải quyết tại Tòa án (TA) hoặc cơ quan
Trọng tài. Theo Từ điển Luật học, “vụ án” là “Một vụ việc có dấu hiệu trái
pháp luật mang tính chất hình sự hoặc tranh chấp giữa các chủ thể pháp luật
được đưa ra TA hoặc cơ quan Trọng tài giải quyết [21].
18. 18
Theo Luật Tổ chức TAND, TA xét xử những vụ án hình sự, dân sự, hôn
nhân - gia đình, lao động, kinh doanh thương mại, hành chính và những việc
khác theo quy định của pháp luật” [ 13].
Khiếu kiện hành chính là biểu hiện của tranh chấp hành chính, phát
sinh trong quá trình thực hiện chức năng quản lý nhà nước giữa một bên là cơ
quan, tổ chức, người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức (được gọi là chủ
thể quản lý) và một bên là cơ quan, tổ chức, cá nhân (gọi là đối tượng quản lý
hành chính nhà nước) khi các chủ thể này tham gia vào quan hệ hành chính
nhà nước.
Khiếu kiện hành chính là quyền và là phương thức để bảo vệ quyền, lợi
hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức. Khi có căn cứ cho rằng quyết định
hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước, người có
thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước hoặc quyết định xử lý kỷ luật
buộc thôi việc công chức…là trái pháp luật, xâm phạm đến quyền lợi hợp
pháp của mình thì cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền lựa chọn giữa việc
khiếu nại đến cơ quan hành chính, người có thẩm quyền trong cơ quan hành
chính có thẩm quyền đề nghị xem xét lại quyết định, hành vi đó hoặc khởi
kiện yêu cầu TA giải quyết. Nói cách khác, khiếu kiện hành chính là hành vi
tự vệ và tự định đoạt của đối tượng quản lý hành chính nhà nước khi có sự
xâm phạm của việc thực thi quyền hành pháp.
Việc cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện quyết định hành chính, hành
vi hành chính đã làm phát sinh vụ án hành chính tại TA. Nếu việc khởi kiện
tuân thủ đúng điều kiện, đúng thủ tục do pháp luật TTHC quy định thì TA có
thẩm quyền phải có trách nhiệm thụ lý, giải quyết vụ án hành chính để đảm
bảo quyền, lợi hợp pháp của đương sự. Để làm phát sinh vụ án hành chính
phải hội đủ các điều kiện: (1) Có việc khởi kiện (theo quy định của Luật
TTHC) và (2) được TAND có thẩm quyền thụ lý vụ án.
19. 19
Từ những vấn đề trên, có thể khái niệm vụ án hành chính là “vụ án phát
sinh tại TA có thẩm quyền do có cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện để yêu
cầu Tòa án xem xét tính hợp pháp của quyết định hành chính, hành vi hành
chính nhằm bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho mình và được TAND thụ lý để
giải quyết”.
1.1.3.2. Khái niệm xét xử vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm
Theo Từ điển Luật học, “xét xử” là “hoạt động xem xét, đánh giá bản
chất pháp lý của vụ việc nhằm đưa ra một phán xét về tính chất, mức độ pháp
lý của vụ việc, từ đó nhân danh nhà nước đưa ra một phán quyết tương ứng
với bản chất, mức độ trái hay không trái pháp luật của vụ việc”. Xét xử sơ
thẩm” là lần đầu tiên đưa vụ án ra xét xử tại một TA có thẩm quyền” [21].
Khiến kiện hành chính mang là hành vi tự vệ và tự định đoạt của cơ
quan, tổ chức, cá nhân trước quyết định hành chính, hành vi hành chính mà họ
cho rằng trái pháp luật. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác –Lê nin, khiếu nại
hành chính là mâu thuẫn cần được giải quyết để duy trì sự ổn định xã hội và là
động lực cho sự phát triển. Giải quyết khiếu kiện hành chính giúp cho cơ quan
nhà nước nhận ra và khắc phục những thiếu sót, bất cập nhằm nâng cao năng
lực quản lý của bộ máy hành chính, thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Vì vậy,
thẩm quyền và trách nhiệm của TAND là phải giải quyết khiếu kiện hành
chính một cách khách quan, công bằng.
Trình tự giải quyết vụ án hành chính trải qua các bước: Nhận đơn khởi
kiện, thụ lý vụ án, thu thập chứng cứ, tổ chức đối thoại, giải quyết vụ án tại
Tòa án cấp sơ thẩm, kháng cáo, kháng nghị và giải quyết vụ án theo thủ tục
phúc thẩm, xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị
theo quy định của pháp luật. Quy định này nhằm bảo đảm cho các bản án,
quyết định của TA được xem xét một cách thận trọng để vụ án được giải
quyết khách quan, công bằng. Trong đó, xét xử sơ thẩm là thủ tục xét xử đầu
20. 20
tiên, không thể thiếu và có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình giải quyết vụ
án. Bản án, quyết định hành chính sơ thẩm không phải là phán quyết cuối
cùng vì đương sự có quyền kháng cáo, VKSND có quyền kháng nghị đối với
bản án, quyết định hành chính sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật. Nếu việc
giải quyết vụ án hành chính được khách quan, công bằng tại cấp sơ thẩm sẽ
củng cố lòng tin của nhân dân đối với cơ quan xét xử; việc giải quyết vụ án sẽ
không bị kéo dài do việc kháng cáo, kháng nghị, tiết kiệm được thời gian,
công sức, tiền bạc của nhà nước và của đương sự.
Vì vậy, “xét xử vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm” là thủ tục giải
quyết vụ án đầu tiên, trong đó TA áp dụng những trình tự, thủ tục do pháp
luật quy định để xem xét giải quyết các yêu cầu của đương sự bằng một bản
án hoặc quyết định về việc giải quyết vụ án.
1.1.4. Khái niệm thẩm quyền của Tòa án nhân dân trong xét xử sơ
thẩm vụ án hành chính
Khi có đơn khiếu kiện hành chính hợp pháp, TA cấp sơ thẩm có thẩm
quyền có trách nhiệm thụ lý vụ án và tiến hành các biện pháp cần thiết theo
đúng trình tự, thủ tục do pháp luật quy định để giải quyết vụ án hành chính.
Dựa trên những tài liệu, chứng cứ do đương sự cung cấp và do TA thu thập
được trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán phải xem xét, đánh giá tính
căn cứ, tính hợp pháp của các quyết định hành chính, hành vi hành chính để
ra phán quyết chấp nhận hoặc bác bỏ yêu cầu của đương sự.
Như vậy, thẩm quyền của TA trong việc xét xử các vụ án hành chính là
quyền hạn và nghĩa vụ của TA trong việc thụ lý, giải quyết các vụ án hành
chính. TA có thẩm quyền nhận đơn khởi kiện, thụ lý, lập hồ sơ để giải quyết
vụ án, ra các bản án, quyết định. Trên cơ sở thực hiện những quy định của
pháp luật TTHC và trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình, TA được
nhân danh quyền lực của nhà nước xem xét, ra các phán quyết để giải quyết
21. 21
vụ án hành chính nhằm bảo vệ lợi ích của cơ quan, tổ chức, cá nhân và nâng
cao tính hiệu lực, hiệu quả của bộ máy hành chính nhà nước.
Khi giải quyết vụ án hành chính, TA có thẩm quyền xem xét tính tính
hợp pháp của quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khởi kiện sau đây:
Theo quy định tại khoản 3 Điều 3 Luật TTHC năm 2015, quyết định
hành chính bị khởi kiện là “văn bản do cơ quan hành chính nhà nước, cơ
quan, tổ chức được giao thực hiện quản lý hành chính nhà nước ban hành
hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó ban hành; quyết định về
vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính; được áp dụng một lần đối
với một hoặc một số đối tượng cụ thể; quyết định này làm phát sinh, thay đổi,
hạn chế, chấm dứt quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân
hoặc có nội dung làm phát sinh nghĩa vụ, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp
pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân” [15].
Theo quy định tại khoản 3 Điều 3 Luật TTHC năm 2015 thì hành vi
hành chính bị khởi kiện là “hành vi của cơ quan hành chính nhà nước hoặc
của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước hoặc cơ quan,
tổ chức được giao thực hiện quản lý hành chính nhà nước thực hiện hoặc
không thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật; hành vi đó
làm ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ
chức, cá nhân” [15].
1.2. Thẩm quyền của Tòa án nhân dân trong xét xử sơ thẩm vụ án
hành chính
Nếu hệ thống pháp luật châu Âu lục địa thành lập Tòa Hành chính và
trao quyền xét xử vụ án hành chính cho Tòa Hành chính thì hệ thống pháp
luật Anh – Mỹ lại không thành lập Tòa hành chính độc lập mà việc xét xử vụ
án hành chính vẫn do TA thường (TA tư pháp giải quyết). Cùng quan điểm
với các nước theo giải pháp trung gian (Nhật Bản, Trung Quốc…), Tòa Hành
22. 22
chính của Việt Nam nằm trong hệ thống TAND các cấp, được trao quyền xét
xử các vụ án hành chính và được phân cấp từ cấp huyện, cấp tỉnh, cấp cao và
cấp tối cao. Thẩm quyền xét xử vụ án hành chính của TA Việt Nam được xem
xét với các nội dung: Thẩm quyền theo loại việc (những khiếu kiện hành
chính thuộc thẩm quyền giải quyết của TA), thẩm quyền theo cấp TA, xác
định thẩm quyền trong trường hợp vừa có đơn khiếu nại, vừa có đơn khiếu kiện.
Bởi quản lý nhà nước là nhằm duy trì trật tự xã hội để bảo đảm lợi ích
chung của xã hội và bảo vệ lợi ích của giai cấp cầm quyền. Do đó, nó được
thực hiện theo một hệ thống theo thứ bậc chặt chẽ, thông suốt từ trung ương
đến địa phương. Trong đó, cấp dưới phục tùng cấp trên, thực hiện chỉ thị,
mệnh lệnh của cấp trên và chịu sự kiểm tra thường xuyên của cấp trên. Mỗi
cư quan, cán bộ, công chức thực hiện nhiệm vụ trong phạm vi trách nhiệm,
thẩm quyền được giao. Do vậy, khiếu kiện hành chính cũng phải được thực
hiện từ dưới lên trên theo thứ bậc tương ứng nhằm bảo đảm cho TA hành
chính hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Thẩm quyền theo cấp TA được quy
định một cách hợp lý, khoa học tránh được sự chồng chéo hoặc tranh chấp
thẩm quyết giữa các TA với nhau, tạo điều kiện cho TA giải quyết nhanh
chóng và đúng đắn các vụ án hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của cơ
quan xét xử. Ngoài ra, việc xác định thẩm quyền của TA có ý nghĩa quan
trọng trong việc xác định những điều kiện về chuyên môn, nghiệp vụ cần thiết
của đội ngũ cán bộ TA. Trên cơ sở đó có kế hoạch đáp ứng nhằm bảo đảm
cho TA thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình.
1.2.1. Những khiếu kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án
Luật TTHC năm 2015 quy định những khiếu kiện hành chính thuộc
thẩm quyền giải quyết của TA là cơ sở pháp lý để TA xác định trách nhiệm
giải quyết của mỗi cấp TA đối với từng khiếu kiện hành chính cụ thể. TA có
căn cứ thụ lý, giải quyết các khiếu kiện hành chính phát sinh trong xã hội
23. 23
thuộc thẩm quyền của mình. Quy định này tránh được sự chồng chéo trong
việc thực hiện nhiệm vụ, tránh được việc chuyển đi chuyển lại giữa TA với
các cơ quan nhà nước làm kéo dài thời gian giải quyết. Quy định những khiếu
kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của TA cũng bảo đảm cho việc thực hiện
quyền tiếp cận công lý của công dân. Từ quy định của pháp luật, đương sự có
căn cứ xác định những khiếu kiện hành chính được TA giải quyết và Tòa nào
phải giải quyết khiếu kiện để gửi đơn khởi kiện. Quy định này còn giúp
đương sự được thuận lợi trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình
khi tham gia tố tụng, tiết kiệm được thời gian và chi phí không cần thiết.
Nhằm tiếp tục thực hiện chủ trương “Mở rộng thẩm quyền xét xử của
Tòa án đối với các khiếu kiện hành chính” đã được quán triệt tại Nghị quyết
số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020” và để bảo đảm sự thống nhất của pháp luật (Luật Khiếu
nại, Luật Tố cáo, Luật Trưng cầu ý dân năm 2015); đồng thời bảo đảm quyền,
lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức; đáp ứng yêu cầu cải cách tư
pháp và hội nhập kinh tế quốc tế, Luật TTHC năm 2015 quy định khiếu kiện
hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND gồm:
- “Khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc công chức giữ chức
vụ từ Tổng Cục trưởng và tương đương trở xuống.
- Khiếu kiện quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ
việc cạnh tranh.
- Khiếu kiện danh sách cử tri;
- Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính, trừ các
quyết định, hành vi sau đây:
+ Quyết định hành chính, hành vi hành chính thuộc phạm vi bí mật
nhà nước trong các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngoại giao theo
quy định của pháp luật;
24. 24
+ Quyết định, hành vi của Tòa án trong việc áp dụng biện pháp xử
lý hành chính, xử lý hành vi cản trở hoạt động tố tụng và quyết định
hành chính, hành vi hành chính mang tính nội bộ của cơ quan, tổ
chức” [15].
Quy định về các khiếu kiện hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết
của TAND theo phương pháp loại trừ như đã nêu trên đây là sự kế thừa và
phát triển các quy định của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính
(TTGQCVAHC) năm 1996 và Luật TTHC năm 2010. Quy định này tạo sự
thuận lợi cho đương sự trong việc thực hiện quyền khiếu kiện, bảo đảm cho
TAND bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự đồng thời đảm
bảo tính khả thi và tạo nên sức sống lâu bền cho Luật TTHC năm 2015.
1.2.2. Thẩm quyền theo cấp của Tòa án nhân dân trong xét xử sơ
thẩm các vụ án hành chính
1.2.2.1. Thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện
Thẩm quyền của TA cấp huyện trong việc xét xử vụ án hành chính dựa
trên dấu hiệu về thẩm quyền ban hành quyết định hành chính hoặc thực hiện
hành vi hành chính. TA có thẩm quyền là TA có cùng phạm vi địa giới hành
chính với người bị kiện. Theo quy định tại Điều 31 Luật TTHC năm 2015,
TA cấp huyện giải quyết theo thủ tục sơ thẩm, gồm:
“Những khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của
cơ quan hành chính nhà nước từ cấp huyện trở xuống trên cùng
phạm vi địa giới hành chính với TA hoặc của người có thẩm quyền
trong cơ quan hành chính nhà nước đó, trừ quyết định hành chính,
hành vi hành chính của UBND cấp huyện, Chủ tịch UBND cấp
huyện”. Các “khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc của người
đứng đầu cơ quan, tổ chức từ cấp huyện trở xuống trên cùng phạm
vi địa giới hành chính với TA đối với công chức thuộc thẩm quyền
25. 25
quản lý của cơ quan, tổ chức đó và khiếu kiện danh sách cử tri của
cơ quan lập danh sách cử tri trên cùng phạm vi địa giới hành chính
với TA"[15].
Quy định này là cần thiết bảo đảm cho Luật TTHC phù hợp với các
quy định của Luật Tổ chức TAND năm 2014 và bảo đảm hiệu quả của việc
giải quyết khiếu kiện hành chính.
1.2.2.2. Thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp tính trong việc xét xử sơ
thẩm các vụ án hành chính
Về cơ bản, Luật TTHC năm 2015 quy định TAND cấp tỉnh có thẩm
quyền xét xử hành chính sơ thẩm đối với các khiếu kiện không thuộc thẩm
quyền xét xử hành chính sơ thẩm của TA cấp huyện, đối với những khiếu
kiện có người bị kiện ở trung ương thì TA có thẩm quyền là TA có cùng
phạm vi địa giới hành chính với người khởi kiện. Ngoài ra, TA cấp tỉnh có thể
lấy một số khiếu kiện thuộc thẩm quyền xét xử hành chính sơ thẩm của TA
cấp huyện lên để giải quyết. Theo quy định tại Điều 32 Luật TTHC năm 2015
thì TAND cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm đối với
những khiếu kiện hành chính sau:
- Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của bộ, cơ
quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Văn phòng Chủ tịch
nước, Văn phòng Quốc hội, Kiểm toán nhà nước, TAND tối cao,
VKSND tối cao và quyết định hành chính, hành vi hành chính của
người có thẩm quyền trong cơ quan đó mà người khởi kiện có nơi
cư trú, nơi làm việc hoặc trụ sở trên cùng phạm vi địa giới hành
chính với TA; trường hợp người khởi kiện không có nơi cư trú, nơi
làm việc hoặc trụ sở trên lãnh thổ Việt Nam thì thẩm quyền giải
quyết thuộc TA nơi cơ quan, người có thẩm quyền ra quyết định
hành chính, có hành vi hành chính.
26. 26
- Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan
cấp tỉnh trở lên và quyết định hành chính, hành vi hành chính của
người có thẩm quyền trong cơ quan đó mà người khởi kiện có nơi
cư trú, nơi làm việc hoặc trụ sở trên cùng phạm vi địa giới hành
chính với TA; trường hợp người khởi kiện không có nơi cư trú, nơi
làm việc hoặc trụ sở trên lãnh thổ Việt Nam thì thẩm quyền giải
quyết thuộc TA nơi cơ quan, người có thẩm quyền ra quyết định
hành chính, có hành vi hành chính.
- Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của UBND
cấp huyện, Chủ tịch UBND cấp huyện trên cùng phạm vi địa giới
hành chính với TA. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành
chính của cơ quan đại diện của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam ở
nước ngoài hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan đó mà
người khởi kiện có nơi cư trú trên cùng phạm vi địa giới hành chính
với TA; trường hợp người khởi kiện không có nơi cư trú tại Việt
Nam thì TA có thẩm quyền là TAND Thành phố (TP) Hà Nội hoặc
TAND TP Hồ Chí Minh.
- Khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc của người đứng đầu
cơ quan, tổ chức cấp tỉnh, bộ, ngành Trung ương mà người khởi
kiện có nơi làm việc khi bị kỷ luật trên cùng phạm vi địa giới hành
chính với TA.
- Khiếu kiện quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ
việc cạnh tranh mà người khởi kiện có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc
trụ sở trên cùng phạm vi địa giới hành chính với TA.
- Trường hợp cần thiết, TA cấp tỉnh có thể lấy lên giải quyết vụ án
hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của TA cấp huyện [15].
27. 27
Luật TTHC năm 2015 quy định cho TAND cấp tỉnh giải quyết theo thủ
tục sơ thẩm khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của Ủy ban
nhân dân (UBND) cấp huyện, Chủ tịch UBND cấp huyện nhằm khắc phục tồn
tại, bất cập từ thực tiễn nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của Đảng, Nhà
nước và nhân dân trong việc giải quyết các khiếu kiện hành chính theo tinh
thần cải cách tư pháp, nhanh chóng lập lại trật tự trong quản lý hành chính
nhà nước, kịp thời bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá
nhân trên địa bàn hành chính cấp huyện.
Như vậy, trên cơ sở kế thừa và phát triển những quy định hợp lý về
phân cấp thẩm quyền xét xử hành chính theo thủ tục sơ thẩm của Pháp lệnh
TTGQCVAHC năm 1996 và Luật TTHC năm 2010, Luật TTHC năm 2015 đã
khắc phục một số khó khăn, bất cập cho cơ quan Tòa án trong việc giải quyết
các vụ án hành chính. Căn cứ vào dấu hiệu về địa giới hành chính của người
bị kiện và dấu hiệu về nơi ban hành quyết định hay thực hiện hành vi bị khiếu
kiện để quy định phạm vi giải quyết các khiếu kiện thuộc thẩm quyền xét xử
hành chính sơ thẩm của mỗi Tòa án trong cùng một cấp cũng tạo thuận lợi
cho đương sự thực hiện quyền và nghĩa vụ của họ khi tham gia tố tụng trong
vụ án hành chính.
1.2.2.3. Xác định thẩm quyền trong trường hợp vừa có đơn khiếu nại,
vừa có đơn khiếu kiện
“Khiếu nại hành chính” và “khởi kiện hành chính” được phát sinh trong
lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước. “Khiếu nại” và “khởi kiện hành chính”
đều là hành vi tự vệ và tự định đoạt do đối tượng quản lý hành chính nhà
nước thực hiện nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình khỏi sự xâm hại
của quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan, người có thẩm
quyền trong cơ quan quản lý hành chính nhà nước. Tuy nhiên, “khiếu nại
hành chính” và “khởi kiện hành chính” là hai vấn đề khác biệt. “Khiếu nại
28. 28
hành chính” là việc cơ quan, tổ chức, cá nhân “đề nghị” cơ quan hành chính
(hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính) xem xét lại quyết định
hành chính, hành vi hành chính làm xâm hại đến quyền lợi hợp pháp của họ.
‘Khởi kiện hành chính” là việc cơ quan, tổ chức, cá nhân đưa vụ án ra tranh
chấp tại TA, yêu cầu TA bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho mình khỏi sự xâm
hại của quyết định hành chính, hành vi hành chính bằng thủ tục TTHC.
Nhằm tôn trọng quyền của đương sự và tránh sự chồng chéo trong việc
thực hiện quyền hạn, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước, pháp luật TTHC
cho phép đối tượng quản lý hành chính nhà nước được lựa chọn “khiếu nại”
hoặc “khởi kiện”đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính làm thiệt
hại đến quyền lợi hợp pháp của họ. Trường hợp cơ quan, tổ chức, cá nhân đã
khiếu nại đến cơ quan hành chính (hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan
hành chính) mà khiếu nại không được giải quyết hoặc đã được giải quyết
nhưng người khiếu nại không đồng ý với việc giải quyết khiếu nại thì họ vẫn
có quyền khởi kiện hành chính. Trường hợp họ vừa có đơn khiếu nại đến cơ
quan hành chính có thẩm quyền, vừa có đơn khởi kiện đến TA thì thẩm quyền
giải quyết theo sự lựa chọn (bằng văn bản) của người khởi kiện. Nếu người
khởi kiện lựa chọn TA giải quyết thì TA thụ lý giải quyết vụ án đồng thời làm
văn bản thông báo, yêu cầu người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại chuyển
toàn bộ hồ sơ giải quyết khiếu nại cho TA. Nếu người khởi kiện lựa chọn
người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại giải quyết hoặc không lựa chọn cơ
quan giải quyết thì TA trả lại đơn khởi kiện và các tài liệu kèm theo cho
người khởi kiện. Quy định trên thể hiện sự tôn trọng của Nhà nước đối với
quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự đồng thời là bước đổi mới căn
bản về điều kiện, cơ chế giải quyết khiếu kiện hành chính theo tinh thần cải
cách tư pháp, tạo thuận lợi cho người dân tham gia tố tụng.
29. 29
1.2.3. Thẩm quyền của Tòa án nhân dân trong việc thụ lý xét xử sơ
thẩm chuyển, nhập và tách vụ án hành chính
1.2.3.1. Thẩm quyền của Tòa án nhân dân trong việc thụ lý vụ kiện
hành chính
Thụ lý vụ án hành chính là hoạt động của TA trong việc nhận đơn khởi
kiện, vào sổ thụ lý để chính thức xác định trách nhiệm của TA trong việc giải
quyết vụ án. Đây là công việc đầu tiên và rất cần thiết nhằm đảm bảo cho vụ
án hành chính được giải quyết kịp thời và đúng pháp luật.
1.3.1.1. Nhận và xử lý đơn khởi kiện
Nếu khởi kiện vụ án hành chính là sự bắt đầu của một quá trình tố tụng
thì đơn khởi kiện là căn cứ đầu tiên để làm phát sinh vụ án hành chính. TA
chỉ thụ lý giải quyết vụ án hành chính khi đương sự có đơn khởi kiện hợp
pháp, đáp ứng được những điều kiện cần thiết. Đơn khởi kiện hợp pháp phải
làm trong thời hiệu khởi kiện do pháp luật quy định và phải do người khởi
kiện viết (hoặc nhờ người khác viết), người khởi kiện phải ký tên, điểm chỉ.
Cá nhân là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người
bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm
chủ hành vi thì người đại diện hợp pháp của họ có thể tự mình hoặc nhờ
người khác làm hộ đơn khởi kiện vụ án. Tại mục “Tên, địa chỉ của người khởi
kiện” trong đơn phải ghi họ tên, địa chỉ của người đại diện hợp pháp của cá
nhân đó; ở phần cuối đơn, người đại diện hợp pháp đó phải ký tên hoặc điểm
chỉ1
. Đơn khởi kiện hợp pháp phải có đủ các nội dung quy định tại Điều 118
Luật TTHC năm 2015. Kèm theo đơn khởi kiện, phải có tài liệu, chứng cứ
chứng minh quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện bị xâm phạm. Nếu
30. 30
vì lý do khách quan mà người khởi kiện không thể nộp đầy đủ các tài liệu,
chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện (Trừ tài liệu, chứng cứ chứng minh quyền,
lợi ích hợp pháp bị xâm phạm), người khởi kiện phải tự mình bổ sung hoặc bổ
sung theo yêu cầu của TA trong quá trình giải quyết vụ án.
Đơn khởi kiện được nộp trực tiếp tại TA hoặc gửi qua dịch vụ bưu
chính hoặc gửi trực tuyến qua Cổng thông tin điện tử của TA. TA nhận đơn
khởi kiện phải cấp ngay giấy xác nhận đã nhận đơn cho người khởi kiện (nếu
nhận đơn nộp trực tiếp) hoặc trả lời qua thư điện tử (nếu nhận đơn trực tuyến).
Trường hợp nhận đơn qua bưu điện thì TA phải gửi thông báo nhận đơn cho
người khởi kiện trong thời hạn 02 ngày làm việc kể từ ngày nhận đơn.
Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện,
Chánh án TA phân công một Thẩm phán xem xét đơn khởi kiện. Trong thời
hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày được phân công, Thẩm phán phải xem xét
xử lý đơn kiện. Nếu đơn kiện chưa có đủ nội dung quy định tại Điều 118 Luật
TTHC, Thẩm phán ra quyết định yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện. Nếu
vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của TA khác thì Thẩm phán phải chuyển
đơn khởi kiện cho TA có thẩm quyền và thông báo cho người khởi kiện nếu
vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của TA khác. Nếu đơn khởi kiện thuộc
một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 123 Luật TTHC thì
Thẩm phán phải trả lại đơn khởi kiện. Văn bản trả lại đơn kiện phải gửi ngay
cho người khởi kiện và VKSND để đương sự thực hiện quyền khiếu nại,
VKSND thực hiện quyền kiến nghị về việc trả lại đơn khởi kiện. Trường hợp
nhận được khiếu nại, kiến nghị về việc trả lại đơn khởi kiện, Chánh án TA đã
trả lại đơn khởi kiện phải phân công một Thẩm phán xem xét, giải quyết
khiếu nại, kiến nghị.
Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày được phân công, Thẩm
phán phải mở phiên họp xem xét, giải quyết khiếu nại, kiến nghị. Phiên họp
31. 31
xem xét, giải quyết khiếu nại, kiến nghị có sự tham gia của đại diện VKSND
cùng cấp và đương sự có khiếu nại. Trường hợp người khởi kiện, Kiểm sát
viên vắng mặt thì Thẩm phán vẫn tiến hành phiên họp. Sau khi xem xét tài
liệu, chứng cứ liên quan đến việc trả lại đơn kiện, ý kiến của Kiểm sát viên và
khiếu nại của người khởi kiện tại phiên họp, Thẩm phán phải ra một trong các
quyết định: Giữ nguyên việc trả lại đơn khởi kiện hoặc nhận lại đơn khởi kiện
và tài liệu, chứng cứ kèm theo để tiến hành việc thụ lý vụ án.
1.3.1.2. Thụ lý vụ án hành chính
Việc thụ lý vụ án hành chính phải đáp ứng các điều kiện về thủ tục khởi
kiện, quyền khởi kiện, thẩm quyền giải quyết, thời hiệu khởi kiện, đối tượng
bị kiện, người bị kiện.
Về quyền khởi kiện: Theo quy định tại Điều 115 Luật TTHC năm 2015
[15], người có quyền khởi kiện hành chính là cơ quan, tổ chức, cá nhân bị ảnh
hưởng trực tiếp bởi quyết định hành chính, hành vi hành chính. Trong trường
hợp quyền và nghĩa vụ của người khởi kiện không bị ảnh hưởng trực tiếp bởi
quyết định hành chính, hành vi hành chính thì họ không có lý do để khởi kiện.
Cá nhân khởi kiện phải có đủ năng lực pháp luật TTHC và năng lực hành vi
TTHC. Cơ quan, tổ chức khởi kiện phải thông qua người đại diện theo quy
định của pháp luật. Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân
sự thực hiện quyền, nghĩa vụ của đương sự thông qua người đại diện theo
pháp luật.
Về đối tượng khởi kiện: Đối tượng khởi kiện vụ án hành chính là quyết
định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc cán bộ,
công chức; quyết định về danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội, danh
sách cử tri bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân; quyết định giải quyết khiếu nại
về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh. Hành vi hành chính bị khiếu kiện phải
là hành vi do chủ thể quản lý hành chính tiến hành khi thực hiện nhiệm vụ
32. 32
công vụ; quyết định hành chính bị khiếu kiện phải là quyết định trực tiếp gây
ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện. Những quyết
định hành chính không trực tiếp gây hậu quả bất lợi cho người khởi kiện hoặc
những quyết định người khởi kiện không được quyền khởi kiện thì Tòa án
không thể thụ lý việc khởi kiện đó.
Về người bị kiện: Để xác định bên bị kiện là cá nhân hay cơ quan, tổ
chức, Thẩm phán phải căn cứ vào quy định của pháp luật về thẩm quyền ban
hành quyết định hành chính hoặc thẩm quyền thực hiện hành vi hành chính bị
khiếu kiện. Người bị kiện là cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyết định hành
chính hoặc thực hiện hành vi hành chính. Để xác định đúng người bị kiện khi
nào là cá nhân, khi nào là cơ quan, tổ chức phải căn cứ vào quy định của pháp
luật về thẩm quyền giải quyết vụ việc đó. Trường hợp có nhiều luật cùng quy
định thẩm quyền ra quyết định hành chính hoặc thực hiện hành vi hành chính
về một lĩnh vực quản lý thì việc xác định người bị kiện khi phải căn cứ vào
quy định của pháp luật chuyên ngành;
Người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ
chức khác quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 3 Luật TTHC năm 2015 [15]
là người có chức vụ, chức danh cụ thể có thẩm quyền ra quyết định hành
chính hoặc có hành vi hành chính. Trường hợp quyết định hành chính hoặc
hành vi hành chính do một người cụ thể ký hoặc thực hiện theo ủy quyền của
một người có chức vụ, chức danh có thẩm quyền thì quyết định hành chính,
hành vi hành chính đó vẫn là của người đảm nhiệm chức vụ, chức danh.
Về thẩm quyền giải quyết của TA: Để việc thụ lý vụ án có căn cứ, đúng
pháp luật, khi nhận đơn khởi kiện, TA phải xác định được thẩm quyền giải
quyết vụ án hành chính. Việc xác định thẩm quyền giải quyết vụ án căn cứ
vào quy định tại các Điều 30, 31, 32 Luật TTHC năm 2015 như đã nêu ở
phần trên.
33. 33
Về thời hiệu khởi kiện: Thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính quy định
tại Điều 116 Luật TTHC năm 2015, được xác định theo đối tượng khởi kiện.
Nếu đối tượng khởi kiện là quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết
định kỷ luật buộc thôi việc thì thời hiệu khởi kiện là 1 năm kể từ ngày nhận
được quyết định hoặc biết được hành vi hành chính. Trường hợp đương sự
khiếu nại theo đúng quy định của pháp luật đến cơ quan nhà nước, người có
thẩm quyền giải quyết khiếu nại thì thời hiệu khởi kiện được quy định như
sau:
+ 01 năm kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định giải quyết
khiếu nại lần đầu hoặc quyết định giải quyết khiếu nại lần hai;
+ 01 năm kể từ ngày hết thời hạn giải quyết khiếu nại theo quy định
của pháp luật mà cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền không giải quyết
và không có văn bản trả lời cho người khiếu nại, [15].
Khi xác định đơn kiện đủ điều kiện thì Thẩm phán phải thụ lý vụ án
theo thủ tục thông thường hoặc theo thủ tục rút gọn. Trong thời hạn 03 ngày
làm việc kể từ khi thụ lý vụ án, Thẩm phán phải làm văn bản thông báo thụ lý
vụ án cho người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc giải
quyết vụ án và VKSND cùng cấp đồng thời công bố trên Cổng thông tin điện
tử của TA (nếu có).
1.2.3.2. Thẩm quyền của Thẩm phán trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ
án hành chính
Theo Điều 130 Luật TTHC năm 2015, thời hạn chuẩn bị xét xử các vụ
án hành chính, trừ vụ án xét xử theo thủ tục rút gọn, vụ án có yếu tố nước
ngoài và vụ án khiếu kiện về danh sách cử tri được quy định như sau:
“1. 04 tháng kể từ ngày thụ lý vụ án đối với vụ kiện quyết định hành
chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc;
34. 34
2. 02 tháng kể từ ngày thụ lý vụ án đối với vụ kiện quyết định giải
quyết khiếu nại về quyết định giải quyết vụ việc cạnh trạnh.
3. Đối với vụ án phức tạp hoặc có trở ngại khách quan thì Chánh án
TA có thể quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử một lần,
nhưng không quá 02 tháng đối với trường hợp quy định tại khoản 1
Điều này và không quá 01 tháng đối với trường hợp quy định tại
khoản 2 Điều này” [15].
Trong thời hạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán được phân công thụ lý, giải
quyết vụ án có thẩm quyền sau đây:
a) Lập hồ sơ vụ án hành chính
Hồ sơ vụ án hành chính bao gồm: Hồ sơ khởi kiện, các tài liệu chứng
cứ và tài liệu về áp dụng thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời. Trong
đó, hồ sơ khởi kiện bao gồm đơn khởi kiện và tài liệu chứng cứ kèm theo đơn,
văn bản yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn kiện; thụ lý vụ án và thông báo thụ lý
vụ án; văn bản ghi ý kiến của người bị kiện, của người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan và các tài liệu, chứng cứ kèm theo. Tài liệu, chứng cứ do đương sự
cung cấp và tài liệu chứng cứ do Thẩm phán thu thập gồm: Biên bản ghi lời
khai, Quyết định thu thập chứng cứ, biên bản về việc thu thập chứng cứ, tài
liệu về kết quả thu thập chứng cứ. Biên bản phiên họp kiểm tra việc giao
nhận, tiếp cận, công khai chứng cứ và đối thoại.
b) Thu thập chứng cứ
Chứng cứ trong TTHC được thu thập công khai. Đương sự có quyền
được biết, được tiếp cận, sao chép chứng cứ do TA và các đương sự khác thu
thập. Thủ tục thu thập chứng cứ được quy định cụ thể tại các Điều 83 đến
Điều 93 Luật TTHC. Đương sự có quyền áp dụng các biện pháp do pháp luật
quy định để thu thập chứng cứ hoặc làm đơn yêu cầu TA thu thập tài liệu,
chứng cứ nếu không thể thu thập được; yêu cầu TA ra quyết định trưng cầu
35. 35
giám định, định giá tài sản... TA có thể tiến hành áp dụng một hoặc một số
biện pháp thu thập chứng cứ sau:
- Lấy lời khai đương sự: Thẩm phán tiến hành lấy lời khai của đương sự
khi đương sự chưa có bản khai hoặc nội dung bản khai chưa rõ ràng, đầy đủ
hoặc đương sự không thể tự viết được bản khai. Thẩm phán có quyền lấy lời
khai của đương sự; có quyền tự mình hoặc để Thư ký TA giúp việc ghi lại lời
khai của đương sự vào biên bản.
- Lấy lời khai người làm chứng: Theo yêu cầu của đương sự hoặc khi
xét thấy cần thiết, Thẩm phán tiến hành lấy lời khai của người làm chứng.
Việc lấy lời khai của người làm chứng được thực hiện trong giai đoạn chuẩn
bị xét xử hoặc tại phiên tòa.
- Đối chất: Là biện pháp thu thập chứng cứ quan trọng nhằm giải quyết
các vấn đề mâu thuẫn trong hồ sơ vụ án. Chỉ khi có yêu cầu của đương sự
hoặc xét thấy có sự mâu thuẫn trong các lời khai của các đương sự, người làm
chứng thì Thẩm phán mới tiến hành đối chất giữa các đương sự với nhau,
giữa đương sự với người làm chứng hoặc giữa những người làm chứng với
nhau. Biên bản đối chất phải thể hiện đầy đủ nội dung đối chất, có đầy đủ chữ
ký của những người tham gia đối chất.
- Xem xét, thẩm định tại chỗ: Việc xem xét, thẩm định tại chỗ do Thẩm
phán tiến hành để nắm đầy đủ, rõ ràng các vấn đề mà đương sự trình bày đồng
thời kiểm tra lại các chứng cứ trong hồ sơ, từ đó đưa ra các quyết định đúng
đắn. Việc xem xét, thẩm định tại chỗ phải có mặt của đại diện UBND cấp xã
hoặc cơ quan, tổ chức nơi có đối tượng cần xem xét, thẩm định; đương sự
được báo và được chứng kiến việc xem xét, thẩm định.
- Trưng cầu giám định: Thẩm phán thực hiện quyền này khi có yêu cầu
của đương sự hoặc khi Thẩm phán thấy cần thiết. Quyết định trưng cầu giám
định phải ghi rõ tên, địa chỉ của người giám định, đối tượng cần giám định,
36. 36
những vấn đề cần giám định, các yêu cầu cụ thể cần có kết luận của người
giám định. Trường hợp xét thấy kết luận giám định chưa đầy đủ, rõ ràng hoặc
có vi phạm pháp luật thì theo yêu cầu của một hoặc các bên đương sự, Thẩm
phán ra quyết định giám định bổ sung hoặc giám định lại.
- Định giá tài sản, thẩm định giá tài sản: Thẩm phán ra quyết định định
giá, thẩm định giá tài sản khi đương sự có yêu cầu hoặc khi đương sự không
thỏa thuận được về giá hay lựa chọn tổ chức thẩm định giá; hoặc khi có căn
cứ cho rằng giá do đương sự thỏa thuận với tổ chức thẩm định giá là không
chính xác để mưu lợi bất chính đối với tài sản Nhà nước hoặc trốn tránh trách
nhiệm bồi thường. Hội đồng định giá tài sản gồm đại diện cơ quan tài chính là
Chủ tịch Hội đồng định giá và các thành viên là đại diện các cơ quan chuyên
môn có liên quan. Hội đồng định giá chỉ tiến hành định giá khi có mặt đầy đủ
các thành viên của Hội đồng. Trường hợp cần thiết, đại diện UBND cấp xã
nơi có tài sản định giá được mời chứng kiến. Các đương sự được thông báo
trước về thời gian, địa điểm tiến hành định giá, có quyền tham dự và phát biểu
ý kiến về việc định giá. Quyền quyết định về giá đối với tài sản định giá thuộc
Hội đồng định giá.
- Ủy thác thu thập chứng cứ: TA ra quyết định ủy thác cho TA khác
hoặc cơ quan có thẩm quyền thu thập chứng cứ, xác minh các tình tiết của vụ
án hành chính. TA được ủy thác phải thực hiện công việc cụ thể được ủy thác
trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định ủy thác và thông báo
kết quả bằng văn bản cho TA đã ra quyết định ủy thác; trường hợp không
thực hiện được phải thông báo bằng văn bản cho TA đã ra quyết định ủy thác
và nêu rõ lý do.
- Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp chứng cứ: Khi có yêu cầu
của TA, cơ quan, tổ chức, cá nhân đang quản lý, lưu giữ chứng cứ có trách
nhiệm cung cấp đầy đủ, chứng cứ theo yêu cầu của TA trong thời hạn 15
37. 37
ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu; trường hợp không cung cấp đầy đủ, kịp
thời chứng cứ theo yêu cầu của Toà án thì tùy theo mức độ vi phạm có thể bị
xử lý theo quy định của pháp luật.
- Về thời gian giao nộp chứng cứ: Trường hợp tài liệu, chứng cứ đã
được giao nộp chưa đủ cơ sở để giải quyết vụ án thì Thẩm phán yêu cầu
đương sự giao nộp bổ sung tài liệu, chứng cứ. Thẩm phán ấn định thời hạn
đương sự giao nộp tài liệu, chứng cứ không được quá thời hạn chuẩn bị xét xử
sơ thẩm. Nếu đương sự giao nộp tài liệu, chứng cứ mà TA yêu cầu không
đúng thời hạn quy định thì phải chứng minh lý do của việc chậm giao nộp.
Đối với tài liệu, chứng cứ mà trước đó TA không yêu cầu đương sự phải giao
nộp hoặc tài liệu, chứng cứ mà đương sự không thể biết được trong quá trình
giải quyết vụ án theo thủ tục sơ thẩm thì đương sự có quyền giao nộp và trình
bày tại phiên tòa sơ thẩm.
c) Áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời
Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời do TA thực hiện trước khi thụ lý
vụ án và trong quá trình giải quyết vụ án hành chính nhằm giải quyết yêu cầu
cấp bách của đương sự, bảo vệ chứng cứ, bảo toàn tình trạng hiện có tránh
gây thiệt hại không thể khắc phục được, bảo đảm việc giải quyết vụ án hoặc
việc thi hành án. Trước khi mở phiên tòa, thẩm quyền áp dụng, thay đổi, hủy
bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời do Thẩm phán xem xét, quyết định; tại phiên
tòa thẩm quyền này thuộc về Hội đồng xét xử.
Trong thời hạn 48 giờ, kể từ thời điểm nhận đơn yêu cầu và tài liệu,
chứng cứ chứng minh sự cần thiết phải áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời,
Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án phải ra quyết định áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời; nếu không chấp nhận yêu cầu phải có văn bản thông
báo, nêu rõ lý do không chấp nhận cho người yêu cầu biết.
38. 38
Người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải chịu trách
nhiệm về yêu cầu của mình, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy
định của pháp luật. TA không áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời mà không
có lý do chính đáng hoặc áp dụng không đúng biện pháp do đương sự yêu cầu
hoặc không đúng thời hạn pháp luật quy định mà gây thiệt hại cho người yêu
cầu áp dụng hoặc thiệt hại cho người thứ ba thì phải bồi thường.
Chánh án TA phải xem xét, giải quyết khiếu nại, kiến nghị đối với
quyết định khẩn cấp tạm thời trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận
được khiếu nại, kiến nghị.
d) Quy định về thủ tục đối thoại
Trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, TA tiến hành đối thoại để các
đương sự thống nhất với nhau về việc giải quyết vụ án, trừ những vụ án
không tiến hành đối thoại được, vụ án khiếu kiện về danh sách cử tri, vụ án
xét xử theo thủ tục rút gọn. Trường hợp vụ án hành chính không tiến hành đối
thoại được, Thẩm phán tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận,
công khai chứng cứ mà không tiến hành việc đối thoại.
Phiên họp được tiến hành dưới sự chủ trì của Thẩm phán chủ trì phiên
họp. Trường hợp qua đối thoại mà người khởi kiện tự nguyện rút đơn khởi
kiện thì Thẩm phán lập biên bản về việc người khởi kiện tự nguyện rút đơn
khởi kiện, ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án đối với yêu cầu của người
khởi kiện. Nếu các đương sự không thay đổi yêu cầu khởi kiện, hoặc ý kiến
đối với yêu cầu khởi kiện thì Thẩm phán tiến hành các thủ tục để mở phiên
tòa xét xử vụ án.
1.2.3.3 Thẩm quyền của Tòa án trong chuyển, nhập hoặc tách vụ án
hành chính
a) Chuyển vụ án cho Tòa án khác và giải quyết tranh chấp về thẩm
quyền.
39. 39
- Việc chuyển vụ án cho Tòa án khác trong trường hợp Tòa án đã thụ
lý vụ án hành chính nhưng sau đó phát hiện đây là vụ án khác hoặc thuộc
thẩm quyền của Tòa án khác đã được hướng dẫn tại Điều 6 Nghị quyết số
02/2011/NQ-HĐTP. Các nội dung này đã được luật hóa tại các khoản 1, 2, 3,
4 và 5 Điều 34 Luật Tố tụng hành chính năm 2015, cụ thể là:
+ Trong quá trình giải quyết vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm,
Tòa án xác định vụ án đó không phải là vụ án hành chính mà là vụ án dân sự
và việc giải quyết vụ án này thuộc thẩm quyền của mình, thì Tòa án giải quyết
vụ án đó theo thủ tục chung do pháp luật tố tụng dân sự quy định, đồng thời
thông báo cho đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp.
+ Trước khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục sơ thẩm mà
có căn cứ xác định việc giải quyết vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án khác
thì thẩm phán được phân công giải quyết vụ án hành chính ra quyết định
chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án có thẩm quyền và xóa sổ thụ lý, đồng thời
thông báo cho đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp.
+ Sau khi đã có quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục sơ thẩm mà
có căn cứ xác định việc giải quyết vụ án hành chính thuộc thẩm quyền của
Tòa án khác thì Tòa án phải mở phiên tòa để Hội đồng xét xử ra quyết định
đình chỉ việc xét xử, chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án có thẩm quyền.
+ Khi xét xử phúc thẩm vụ án hành chính mà xác định vụ án thuộc
trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 34 Luật Tố tụng hành chính
năm 2015 thì Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án, quyết định sơ thẩm và giao
hồ sơ vụ án cho Tòa án có thẩm quyền xét xử sơ thẩm để giải quyết sơ thẩm
lại vụ án theo quy định của pháp luật.
+ Khi xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm vụ án hành chính mà xác định vụ
án thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 34 Luật Tố tụng
hành chính năm 2015 thì Tòa án xét xử giám đốc thẩm hoặc tái thẩm hủy bản
40. 40
án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và giao hồ sơ vụ án cho Tòa án có
thẩm quyền xét xử sơ thẩm để giải quyết sơ thẩm lại vụ án theo quy định của
pháp luật.
- Để thống nhất với các quy định của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân
năm 2014 về cơ cấu, tổ chức và thẩm quyền của các Tòa án, khoản 7 Điều 34
Luật Tố tụng hành chính năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung việc giải quyết tranh
chấp về thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính giữa các Tòa án, cụ thể là:
+ Chánh án Tòa án cấp tỉnh giải quyết tranh chấp về thẩm quyền giải
quyết vụ án hành chính giữa các Tòa án cấp huyện trong cùng một tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương;
+ Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao giải quyết tranh chấp về thẩm
quyền giải quyết vụ án hành chính giữa các Tòa án cấp huyện thuộc các tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương khác nhau; giữa các Tòa án cấp tỉnh thuộc
phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ của Tòa án nhân dân cấp cao;
+ Chánh án Tòa án nhân dân tối cao giải quyết tranh chấp về thẩm
quyền giữa các Tòa án cấp huyện thuộc các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương khác nhau, Tòa án cấp tỉnh thuộc thẩm quyền giải quyết theo lãnh thổ
của các Tòa án nhân dân cấp cao khác nhau.
b) Nhập hoặc tách vụ án hành chính
Để tránh việc áp dụng tùy tiện và phù hợp với thực tiễn, trên cơ sở
hướng dẫn tại Điều 7 Nghị quyết số 02/2011/NQ-HĐTP, Điều 35 Luật Tố
tụng hành chính năm 2015 [15] đã quy định cụ thể việc nhập hoặc tách vụ án
hành chính là:
- Tòa án nhập hai hoặc nhiều vụ án mà Tòa án đã thụ lý riêng biệt thành
một vụ án để giải quyết bằng một vụ án hành chính khi có đủ các điều kiện
sau đây:
41. 41
+ Các vụ án thụ lý riêng biệt chỉ có một người khởi kiện đối với nhiều
quyết định hành chính, hành vi hành chính đều do một cơ quan, tổ chức hoặc
một người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức ban hành, thực hiện và có
mối liên hệ mật thiết với nhau hoặc các vụ án thụ lý riêng biệt có nhiều người
khởi kiện đối với cùng một quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính;
+ Việc nhập hai hay nhiều vụ án hành chính thành một vụ án hành
chính phải bảo đảm việc xét xử được nhanh chóng, hiệu quả, triệt để và không
vi phạm thời hạn chuẩn bị xét xử.
- Tòa án tách một vụ án có các yêu cầu khác nhau thành hai hoặc nhiều
vụ án hành chính khác nhau để giải quyết trong trường hợp quyết định hành
chính bị khởi kiện liên quan đến nhiều người khởi kiện và quyền lợi, nghĩa vụ
của những người khởi kiện đó không liên quan với nhau.
Tóm lại, so với Luật Tố tụng hành chính năm 2010, Luật Tố tụng hành
chính năm 2015 đã có nhiều sửa đổi, bổ sung liên quan đến thẩm quyền của
Tòa án trong việc giải quyết các khiếu kiện hành chính. Những sửa đổi, bổ
sung này đã cụ thể hóa được các quy định của Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ
chức Tòa án nhân dân năm 2014, tháo gỡ những khó khăn, bất cập trong công
tác giải quyết, xét xử các khiếu kiện hành chính, bảo đảm cho Tòa án thực
hiện có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ được giao, bảo đảm trình tự và thủ tục
tố tụng hành chính có tính khả thi, minh bạch, công khai, công bằng và thuận
lợi cho người tham gia tố tụng thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình, bảo
đảm tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật.
1.2.3.4. Thẩm quyền của Hội đồng xét xử tại phiên tòa xét xử sơ thẩm
Xét xử sơ thẩm vụ án hành chính là giai đoạn tố tụng tiếp theo sau khi
kết thúc giai đoạn chuẩn bị xét xử nếu vụ án không thuộc trường hợp bị tạm
hoãn, tạm đình chỉ, đỉnh chỉ. Mọi hành vi tố tụng trước đó đều nhằm phục vụ
cho hoạt động xét xử nếu vụ án được đưa ra xét xử tại phiên tòa sơ thẩm.
42. 42
Thẩm phán phải bảo đảm cho phiên tòa sơ thẩm được tiến hành đúng
thời gian, địa điểm ghi trong quyết định đưa vụ án ra xét xử. Người tiến hành tố
tụng, người tham gia tố tụng phải có mặt đầy đủ trừ trường hợp được vắng mặt
do pháp luật quy định. Sau khi giải quyết việc rút, thay đổi, bổ sung yêu càu
khởi kiện, thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc tiếp cận, công khai chứng
cứ và đối thoại, việc hỏi tại phiên toa sẽ được bắt đầu theo thứ tự: Đương sự,
người bảo vệ quyền, lợi hợp pháp của đương sự, Hội đồng xét xử. Kiểm sát
viên. Nội dung hỏi và tranh luận tại phiên tòa nhằm làm rõ tính hợp pháp, tính
căn cứ của quyết định hành chính, hành vi hành chính. Trên cớ sở đó, Hội
đồng xét xử xem xét để ra phán quyết chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu
cầu khởi kiện, bác yêu cầu khởi kiện, tuyên hủy một phần hoặc toàn bộ quyết
định hành chính trái pháp luật; tuyên bố hành vi hành chính là đúng (hoặc trái
pháp luật), buộc cơ quan nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan
nhà nước thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật; buộc cơ
quan, tổ chức bồi thường thiệt hại, khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp của cơ
quan, tổ chức, cá nhân bị xâm phạm do quyết định hành chính, hành vi hành
chính trái pháp luật gây ra…Hội đồng xét xử cũng có quyền tuyên hủy quyết
định giải quyết khiếu nại có liên quan (nếu có) và kiến nghị cách thức xử lý
đối với quyết định hành chính trái pháp luật đã bị hủy. Việc bác yêu cầu khởi
kiện đồng nghĩa với việc Tòa công nhận tính hợp pháp của quyết định hành
chính (hành vi hành chính) của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Nếu xác
định quyết định hành chính (hành vi hành chính) là trái pháp luật, Hội đồng
xét xử sẽ tuyên chấp nhận toàn bộ hoặc một phần yêu cầu khởi kiện. Nếu
không có kháng cáo, kháng nghị đối với bản án, quyết định sơ thẩm, kết quả
phiên tòa sơ thẩm sẽ làm kết thúc việc giải quyết vụ án.
43. 43
Quy định trên bảo đảm việc thi hành bản án, quyết định hành chính của
TA được thuận lợi, việc xác định trách nhiệm đối với người không chấp hành
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TA cũng được dễ dàng hơn.
1.3. Các điều kiện đảm bảo thực hiện thẩm quyền của Tòa án nhân
dân trong xét xử sơ thẩm vụ án hành chính
Xét xử vụ án hành chính có ý nghĩa quan trọng nhằm khôi phục và ổn
định trật tự xã hội và nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý hành chính nhà
nước trên các lĩnh vực. Để vụ án hành chính được xét xử khách quan, công
bằng, Luật TTHC năm 2015 và Luật Tổ chức TAND năm 2014 (khoản 1
Điều 9) quy định các nguyên tắc như “TA xét xử kịp thời, công bằng, công
khai”, “Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật,
nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm
phán, Hội thẩm dưới bất kỳ hình thức nào”.
Trên thực tế, hoạt động xét xử của TA còn chịu sự tác động, ảnh hưởng
của các yếu tố như: Sự hoàn thiện của pháp luật; năng lực, trình độ, ý thức
của Hội đồng xét xử; ý thức của các chủ thể có liên quan và cơ sở vật chất cần
thiết đến hoạt động xét xử.
Thứ nhất, sự hoàn thiện của pháp luật
Đây là yếu tố cơ bản, quan trọng, mang tỉnh chỉ đạo, định hướng trong
hoạt động xét xử vụ án hành chính. Hệ thống pháp luật ngày càng hoàn thiện
sẽ là chỗ dựa tin cậy cho hoạt động xét xử, là sự bảo đảm quan trọng cho việc
áp dụng thống nhất pháp luật; việc xét xử được khách quan, công bằng, hạn
chế được tình trạng giải quyết án kéo dài, qua nhiều cấp hoặc án bị hủy, sửa
nhiều lần. Nếu quy định của pháp luật chưa rõ ràng, đầy đủ dẫn tới việc hiểu
và áp dụng pháp luật không thống nhất, ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án.
Thứ hai, năng lực, trình độ, ý thức của Hội đồng xét xử
44. 44
Việc giải quyết vụ án hành chính cũng chịu tác động rất lớn về năng
lực, trình độ và ý thức của Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký TA. Nếu trong quá
trình xét xử vụ án, Hội đồng xét xử thực sự có trình độ, năng lực và đạo đức
nghề nghiệp thì phán quyết của Tòa sẽ thực sự khách quan, vô tư. Trường hợp
Hội đồng xét xử vì năng lực hạn chế, không làm rõ được sự thật khách quan
của vụ án, áp dụng pháp luật không chính xác, cẩu thả trong thao tác nghiệp
vụ hoặc thiên vị cho một bên đương sự dẫn tới sự sai lệch trong việc lập hồ
sơ, giải quyết vụ án không chính xác, ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của
đương sự, làm mất lòng tin của nhân dân.
Thứ ba, ý thức của các chủ thể có liên quan
Các chủ thể như đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
đương sự, người làm chứng, người giám định, phiên dịch… cũng có tác động
không nhỏ đến hoạt động xét xử vụ án hành chính. Nếu các chủ thể này thực
sự phối hợp với TA, thực hiện đầy đủ, kịp thời quyền và nghĩa vụ tố tụng theo
quy định của pháp luật, cung cấp đầy đủ tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của
Thẩm phán… thì việc giải quyết vụ án được thuận lợi góp phần bảo đảm cho
vụ án được giải quyết chính xác.
Trường hợp các chủ thể này thiếu sự phối hợp với TA trong việc giải
quyết vụ án như cố tình giấu địa chỉ, không cung cấp chứng cứ, không có mặt
theo giấy triệu tập; làm chứng gian dối, giám định không đúng sự thật hoặc
không cung cấp tài liệu vật chứng liên quan đến việc giải quyết vụ án…sẽ gây
khó khăn cho Thẩm phán trong việc xác định sự thật khách quan của vụ án,
làm kéo dài thời gian giải quyết, ảnh hưởng đến sự khách quan của bản án.
Kiểm sát viên cũng là một chủ thể trong TTHC, tiến hành kiểm sát hoạt
động xét xử vụ án hành chính theo sự phân công, chỉ đạo của Viện trưởng
VKSND. Năng lực phát hiện vi phạm của Kiểm sát viên khi kiểm sát việc xét
xử vụ án hành chính là yếu tố quan trọng tác động và ảnh hưởng đến hiệu quả
45. 45
của hoạt động xét xử. Nếu Kiểm sát viên có năng lực và kinh nghiệm công tác
thì sẽ phát hiện kịp thời, đầy đủ những vi phạm của Thẩm phán, Thư ký TA
trong việc xét xử vụ án hành chính để yêu cầu khắc phục sữa chữa, góp phần
bảo đảm cho vụ án được giải quyết công bằng, minh bạch, đúng pháp luật.
Thứ tư, cơ sở vật chất
Cơ sơ vật chất, phương tiện, kỹ thuật tuy chỉ là những yếu tố hỗ trợ
nhưng lại có tác dụng rất lớn trong hoạt động xét xử. Hội trường xét xử khang
trang bảo đảm tính trang trọng, nghiêm minh và tạo điều kiện thuận lợi cho
nhân dân đến dự phiên toà; điều kiện làm việc được trang bị khoa học công
nghệ tiên tiến, hiện đại giúp cho việc nhận đơn, quản lý án, tra cứu văn bản
pháp luật, án lệ được thuận lợi, giảm bớt thời gian, sai sót cho Thẩm phán.
Lương và các chế độ đãi ngộ bảo đảm cho Thẩm phán chuyên tâm làm việc
không bị ảnh hưởng bởi “cơm áo, gạo tiền”, không bị cảm dỗ bởi những lợi
ích vật chất từ phía đương sự, “cò chạy án” là những bảo đảm cho việc xét xử
khách quan công bằng và đúng pháp luật.
Tiễn kết Chương 1
Thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hành chính là phạm vi, giới hạn thực
hiện chức năng xét xử của TAND. TAND các cấp nhân danh quyền lực của
nhà nước để thụ lý, lập hồ sơ và ra các bản án, quyết định sơ thẩm hành chính
nhằm bảo vệ lợi ích của đương sự (là cơ quan, tổ chức, cá nhân) và nâng cao
tính hiệu lực, hiệu quả của bộ máy quản lý hành chính nhà nước. Thẩm quyền
xét xử sơ thẩm vụ án hành chính cũng chịu sự tác động của các yếu tố mang
tính chủ quan và khách quan.
Trong Chương 1 của Luận văn, tác giả đã cố gắng làm rõ một số vấn đề
về cơ sở lý luận, làm rõ các khái niệm cũng như một số quy định của pháp
46. 46
luật TTHC liên quan đến nội dung thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hành
chính. Tác giả cũng phân tích một số yếu tố cơ bản tác động đến thẩm quyền
xét xử vụ án hành chính. Những nội dung của Chương 1 là cơ sở để tác giả
nghiên cứu, phân tích và làm rõ nội dụng Chương 2 và Chương 3 tiếp theo
của Luận văn.
47. 47
Chương 2
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN THẨM QUYỀN
CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐĂK LĂK TRONG XÉT XỬ
SƠ THẨM VỤ ÁN HÀNH CHÍNH
2.1. Tình hình và đặc điểm của khiếu kiện hành chính trên địa bản
tỉnh Đăk Lăk từ năm 2012 đến năm 2016
Là một tỉnh nằm ở trung tâm vùng Tây Nguyên của đất nước Việt Nam,
cách Thủ đô Hà Nội trên 1.410 km, cách Thành phố Hồ Chí Minh 350 km.
Đăk Lăk có dân số trên 1.800.000 người với 47 dân tộc anh em cùng sinh
sống trên diện tích 1.312.537 ha, trong đó dân tộc Kinh chiếm gần 70 %, dân
số, phần lớn là di cư từ các tỉnh phía Bắc và miền Trung đến Đắk Lắk sinh cơ
lập nghiệp; các dân tộc bản địa sinh sống lâu đời và các dân tộc khác chiếm
trên 30 % dân số trong toàn tỉnh.
Trong những năm gần đây, dân số của Đắk Lắk có biến động do tăng
cơ học, chủ yếu là di dân tự do. Điều này đã gây nên sức ép lớn cho UBND
các cấp trong toàn tỉnh về việc giải quyết đất ở, đất sản xuất và các vấn đề đời
sống xã hội, an ninh - trật tự và môi trường sinh thái. Để bảo đảm cho sự phát
triển ổn định trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội của Đắk Lắk, Tỉnh ủy,
UBND tỉnh, và cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp chính quyền tỉnh đã đề ra
nhiều quyết sách nhằm cụ thể hóa đường lối, chính sách của Đảng và pháp
luật của Nhà nước cho phù hợp điều kiện thực tế ở địa phương. Tuy nhiên,
những quyết định hành chính, hành vi hành chính của các cơ quan quản lý
hành chính nhà nước thuộc tỉnh Đắk Lắk không tránh khỏi những khiếu kiện,
thậm chí là khiếu kiện gay gắt. Trong thời gian từ năm 2012 đến năm 2016,
tình hình khiếu kiện hành chính ở địa phương tỉnh Đắk Lắk xảy ra khá phổ