SlideShare a Scribd company logo
1 of 117
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TRẦN QUỲNH NGA
Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền và
thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam
hiện nay
luËn v¨n th¹c sÜ LUẬT
Hµ néi - 2007
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TRẦN QUỲNH NGA
Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền và
thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam
hiện nay
Mã số : 60 38 01
luËn v¨n th¹c sÜ LUẬT
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Hoàng Thị Kim Quế
Hµ néi - 2007
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đại hội Đảng VIII đã khẳng định nhiệm vụ của nhà nước ta là tiếp tục
cải cách bộ máy nhà nước, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước theo hướng nhà
nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa: “tăng cường pháp chế xã hội
chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, quản lý xã hội bằng
pháp luật đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức”. Và Điều 2 Hiến
pháp 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001) một lần nữa khẳng định rõ
hơn vấn đề này“Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp
công nhân với nông dân và tầng lớp trí thức”. Đó là cơ sở pháp lý và cũng là
văn bản pháp luật quan trọng nhất để xây dựng đất nước, xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đồng thời cũng thể chế hoá đường lối
của Đảng đề ra trong “cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội” và “chiến lược ổn định phát triển kinh tế - xã hội”. Theo đó,
Nhà nước pháp quyền Việt Nam là Nhà nước của giai cấp công nhân với nông
dân và tầng lớp trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Nhà nước
pháp quyền Việt Nam là Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, tôn trọng và
thực sự bảo vệ quyền con người. Do vậy việc xây dựng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa trở thành một nguyên tắc bắt buộc trong hoạt động của Nhà
nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam để tạo cơ sở thực thi nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa, đảm bảo vai trò của nhân dân trong công cuộc xây dựng và
quản lí đất nước và là giải pháp cho các vấn đề về tổ chức quyền lực Nhà
nước, mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân...
Xây dựng nhà nước pháp quyền vừa tạo nên thiết chế phục vụ cho công
cuộc đổi mới đất nước toàn diện vừa tạo ra các cơ cấu tổ chức, pháp luật phù
2
hợp, cơ chế tuân thủ nghiêm chỉnh pháp luật để đảm bảo cho việc thực hiện
đầy đủ các quyền, lợi ích của công dân, tổ chức và xã hội; đảm bảo cho các cơ
quan nhà nước trở về với xã hội công dân, chấm dứt tình trạng Nhà nước
đứng trên xã hội.
Như vậy, việc xây dựng và từng bước hoàn thiện nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa đã trở thành nhiệm vụ cấp thiết của công cuộc đổi mới toàn
diện đất nước nói chung cũng như đổi mới hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa
nói riêng. Tuy nhiên cho đến nay, vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam là một vấn đề có nội dung lớn, đòi hỏi phải có sự
nghiên cứu toàn diện cả về lý luận và thực tiễn. Chính vì vậy, chúng tôi đã
mạnh dạn chọn đề tài “Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp
quyền và thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay”
nhằm góp phần vào quá trình nghiên cứu về nhà nước pháp quyền hiện nay ở
nước ta.
2. Mục đích của Luận văn và phạm vi nghiên cứu
Mục đích của luận văn là từ lịch sử hình thành và phát triển của tư
tưởng nhà nước pháp quyền tìm ra những phương hướng để xây dựng và ngày
càng hoàn thiện nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Với mục đích đó, nhiệm vụ chính của luận văn là:
- Khái quát chung những tư tưởng, lý luận về nhà nước pháp quyền của
thế giới trong các thời kỳ phát triển lịch sử.
- Phân tích và đánh giá những quan điểm chủ đạo của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam. Từ đó khẳng định rằng nhà nước cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam trong nửa thế kỷ qua đang được xây dựng thành một nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
3
- Đưa ra một số kiến nghị về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa phù hợp với đặc điểm, tình hình chính trị, kinh tế và xã hội nước ta
trong giai đoạn phát triển hiện nay.
3. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, phương pháp nghiên cứu cơ bản mà luận văn sử
dụng là phương pháp qui nạp trên cơ sở thống kê, tổng hợp, nghiên cứu và
phân tích các văn kiện của Đảng và Nhà nước ta để làm rõ những quan điểm
về việc xây dựng nhà nước pháp quyền.
Luận văn cũng sử dụng các tác phẩm của Mác, Ăngghen, Lênin và các
công trình nghiên cứu khoa học của các tác giả trong và ngoài nước về nhà
nước và pháp luật làm tài liệu tham khảo.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương pháp duy vật biện chứng,
duy vật lịch sử, phương pháp lôgic và phương pháp so sánh đối chiếu để làm
sáng tỏ những nội dung của luận văn.
4. Tình hình nghiên cứu đề tài
Những năm qua, các văn kiện của Đảng và Nhà nước, các bài phát biểu
của các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước tại các diễn đàn đã đề cập nhiều
đến vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền. Đây là định hướng cơ bản và
quan trọng nhằm hoàn thiện nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Trên thực tế hiện nay cũng đã có không ít những công trình khoa học,
bài viết liên quan đến vấn đề này song mỗi công trình, mỗi bài viết lại đề cập
đến những khía cạnh khác nhau của việc xây dựng nhà nước pháp quyền như
vấn đế pháp luật, tổ chức bộ máy nhà nước... Bên cạnh đó, cũng có thể thấy
với mỗi giai đoạn khác nhau của quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền,
yêu cầu và phương hướng hoàn thiện sẽ có những điểm khác biệt nhất định.
Một số công trình nghiên cứu đề cập đến vấn đề xây dựng nhà nước pháp
quyền như: Về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Viện nghiên
4
cứu khoa học pháp lý, Nxb.Tư pháp, 2000; Cải cách tư pháp ở Việt Nam
trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền, TSKH.Lê Cảm-TS.Nguyễn
Ngọc Chí, Nxb.Chính trị quốc gia, 2004; Quyền con người, quyền công dân
trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, GS.TS.Trần Ngọc
Đường, Nxb.Chính trị quốc gia, 2004; Mô hình tổ chức và hoạt động của nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, GS.TSKH. Đào Trí Úc, Nxb.Tư pháp,
2006; Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong thời
kỳ đổi mới, Nguyễn Văn Yểu- GS.TS. Lê Hữu Nghĩa, Nxb.Chính trị quốc gia,
2006; Tư tưởng Đông, Tây về nhà nước và pháp luật-Những nhân tố nhà
nước pháp quyền, PGS.TS. Hoàng Thị Kim Quế, Tạp chí Nghiên cứu lập
pháp số 3/2002 Góp phần nghiên cứu Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
pháp chế trong xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam, TS. Trịnh Đức
Thảo & ThS. Tào Thị Quyên, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 5/2006…
Vì vậy, việc nghiên cứu một cách tổng thể cơ sở lý luận cũng như thực
tiễn 20 năm xây dựng đất nước Việt Nam, từ đó tìm ra phương hướng, giải
pháp xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là vô cùng cần thiết.
5. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung của Luận văn gồm có 3 chương
được bố cục như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận của việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt
Nam
Chương 2: Thực trạng xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện
nay
Chương 3: Phương hướng xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam
Chương 1
5
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
Ở VIỆT NAM
1.1. Tư tưởng và học thuyết về nhà nước pháp quyền qua các thời
kỳ
1.1.1. Tư tưởng về nhà nước pháp quyền thời cổ đại
Những ý niệm đầu tiên về nhà nước pháp quyền xuất hiện ngay từ thời
kỳ đầu tiên của nền văn minh nhân loại. Ngay từ thời cổ đại xa xưa, loài
người đã bắt đầu tìm kiếm những hình thức xã hội công bằng, tốt đẹp. Cùng
với tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại, những ý niệm ban đầu này đã
được các nhà tư tưởng phát triển và hình thành nên tư tưởng về hình thức tổ
chức quyền lực xã hội mà trong đó pháp luật trở thành quy phạm bắt buộc đối
với mọi người, là sức mạnh mang tính nhà nước và quyền lực xã hội được
pháp luật thừa nhận trở thành quyền lực nhà nước. Những tư tưởng này được
hình thành qua nhiều giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất (thế kỷ VIII-V tr. CN) gắn
sự hình thành của các Nhà nước và pháp luật. Giai đoạn thứ hai (thế kỷ V-nửa
đầu thế kỷ IV tr. CN) gắn liền sự phát triển cao của các thể chế Nhà nước.
Giai đoạn thứ ba (nửa sau thế kỷ IV - thế kỷ II tr. CN) gắn liền với sự suy
vong của Nhà nước thành bang Hy Lạp cổ đại. Có thể thấy những tư tưởng
này đã có mầm mống ở nhiều nơi trên thế giới, cả phương Đông lẫn phương
Tây.
 Ở phương Tây
Tư tưởng Nhà nước pháp quyền ở phương Tây cổ đại chủ yếu gắn liền
với sự phát triển của nền dân chủ Hy Lạp và La Mã, có phần sâu sắc hơn vì
được dựa trên cơ sở tư duy triết học. Các nhà tư tưởng chú ý tới tính tối cao
của đạo luật và sự tổ chức hợp lý của bộ máy nhà nước. Họ cho rằng pháp
luật là pháp luật tự nhiên, pháp luật xuất phát từ bản chất lý trí của con người
6
và của thế giới xung quanh con người, pháp luật của Nhà nước phải đáp ứng
yêu cầu của luật tự nhiên [29].
Trong thế kỷ thứ VI tr. CN, Xôlông (Solon, 638-559 tr. CN) khi chủ
trương cải cách triệt để Nhà nước thành bang Hy Lạp đã cho rằng, quyền lực
cần đặt ngang hàng với pháp luật và cả hai đều là phương tiện để đạt tới tự do
và công bằng. Xôlông xác định sẽ "giải phóng tất cả mọi người bằng quyền
lực của pháp luật, bằng sự kết hợp sức mạnh với pháp luật".
Giữa thế kỷ này, Pitago (580-500 tr. CN) đòi phải thực hiện mệnh lệnh
của Nhà nước, tức là phải tuân thủ pháp luật. Pháp luật phải được đặt cao hơn
các phong tục, tập quán truyền thống không thành văn.
Cuối thế kỷ VI - đầu thế kỷ V tr. CN, Hêracơlit (Heraclite, 530-470 tr.
CN) hết sức coi trọng pháp luật và quan niệm rằng, pháp luật là phương thức
để thực hiện cái phổ biến. Do đó, "nhân dân phải đấu tranh để bảo vệ pháp
luật như bảo vệ chốn nương thân của mình".
Thế kỷ V tr. CN, Hêrôđôt (Herodote, 480-425 tr. CN) khi so sánh ba
chính thể quân chủ, quý tộc và cộng hoà, đã gợi ý về một thể chế chính trị hỗn
hợp giữa các giá trị của ba loại chính thể trên. Ông khẳng định, quyền lực
trong xã hội là thuộc về dân, xã hội phải được quản lý theo nguyên tắc công
bằng trước pháp luật.
Đemôcơrít (Democrite, 460-370 tr. CN) cho rằng Nhà nước và pháp
luật là sản phẩm của cuộc đấu tranh lâu dài của con người nhằm liên kết với
nhau thành cộng đồng. Nhà nước là sự thể hiện quyền lực chung của công
dân. Tự do của công dân nằm trong sự tuân thủ pháp luật.
Cuối thế kỷ V tr. CN, khi nền dân chủ A-ten lâm vào khủng hoảng,
Xôcơrat (Socrate, 469, 399 tr. CN) cho rằng dân chủ không thể tồn tại được vì
thiếu pháp luật hay pháp luật bất lực thì công bằng và công lý sẽ bị vi phạm.
7
Cuối thế kỷ V đầu thế kỷ IV tr. CN, Platôn (Platon, 427 - 347 tr. CN)
xác định rằng, người cầm quyền phải gạt sang một bên ý chí cá nhân để tuân
thủ và nhân danh ý chí của pháp luật. Platôn nhìn thấy “sự sụp đổ nhanh
chóng của Nhà nước ở nơi nào mà pháp luật không được đề cao và nằm dưới
quyền lực của một ai đó. Còn ở nơi nào pháp luật đứng trên các nhà cầm
quyền và các nhà cầm quyền chỉ là nô lệ của pháp luật, thì tôi thấy ở đó có sự
cứu thoát Nhà nước và những lợi ích mà chỉ có Thượng đế mới có thể tặng
cho các Nhà nước''.
Arixtot (384 - 322 TCN) - nhà tư tưởng vĩ đại nhất của thời cổ đại cho
rằng pháp luật cần thống trị trên tất cả. Theo ông thì yếu tố cấu thành cơ bản
của phẩm chất chính trị trong luật pháp là sự phù hợp của tính đúng đắn về
chính trị của nó với tính pháp quyền; không thể có pháp luật nếu như việc
cầm quyền không tuân theo pháp luật, chà đạp lên pháp luật, mưu toan thống
trị bằng bạo lực.
Pôlybi (Polybe, 201-120 tr. CN) là người La Mã đầu tiên nêu lên những
tư tưởng quan trọng về Nhà nước pháp quyền. Theo ông, ''không phải lý trí
mà kinh nghiệm đã dạy chúng ta rằng hình thức chính phủ hoàn hảo nhất là
hình thức được tạo nên từ ba chính thể quân chủ, quý tộc và cộng hoà". Trong
đó cơ quan chấp chính tối cao thuộc về vua, nguyên lão viện (nghị viện) thuộc
về quý tộc và các cơ quan dân biểu (hội đồng) thuộc về nhân dân (chủ nô).
Phân bố và giám sát quyền lực hợp lý, chặt chẽ là hai yếu tố cơ bản bảo đảm
một Nhà nước vững mạnh và phát triển quốc gia La Mã thành một đế quốc
hùng mạnh.
Xixêrôn (Ceceron, 106 - 43 tr. CN) cho rằng, Nhà nước là ''một cộng
đồng pháp lý''. Nhà nước là của chung nhân dân và là trật tự chung. ''Nhân
dân không phải là một tập hợp bất kỳ, mà là một tập hợp liên kết với nhau
bằng sự thoả thuận về pháp luật và bằng tính cộng đồng của các lợi ích
8
chung''. Nhà nước chỉ có ở nơi nào không có bạo lực và chuyên quyền. Sự cần
thiết của Nhà nước bắt nguồn từ bản chất trốn chạy sự cô đơn và khao khát
đời sống cộng đồng của con người. Công bằng là mệnh lệnh từ lý trí của con
người mà Nhà nước phải tuân theo. Pháp luật là ''lẽ phải chính trực phù hợp
với bản chất có trong tất cả mọi sinh vật''. Pháp luật là công pháp giữ vai trò
điều chỉnh các mối quan hệ xã hội. ''Phục tùng pháp luật là bắt buộc đối với
tất cả mọi người”. Xixêrôn đã xác định được pháp quyền tự nhiên, nhưng
pháp quyền đó vẫn còn ''treo lơ lửng trong không khí'' và chưa tìm thấy điểm
tựa trong hiện thực.
Như vậy có thể thấy, ngay từ thời cổ đại đã có những tư tưởng đề cao
vấn đề dân chủ như một hình thức Nhà nước. Theo đó, Nhà nước chỉ là sự thể
hiện quyền lợi chung của công dân và lấy việc phục vụ con người cá nhân và
xã hội làm mục đích. ý tưởng về sự kết hợp giữa Nhà nước và pháp luật là
cách tốt nhất để khách quan hoá Nhà nước, hạn chế ý muốn chủ quan của nhà
cầm quyền. Nhà nước tuân theo pháp luật là tuân theo ý chí chung của xã hội.
Xuất hiện yêu cầu về Nhà nước pháp quyền nhằm bảo đảm sự phát triển của
kinh tế - xã hội, vừa bảo đảm sự tồn tại của bản thân Nhà nước. Bên cạnh đó,
quyền lực Nhà nước dù của vua, của quý tộc hay của dân đều thông qua các
cá nhân cầm quyền và có xu hướng bị lạm dụng. Quyền lực Nhà nước luôn
luôn cũng có xu hướng bành trướng và hạn chế quyền tự do của con người.
Để khắc phục tình trạng này cần phân biệt quyền lực Nhà nước thành các
quyền khác nhau theo chức năng, nhiệm vụ của nó. Cùng với tư tưởng quản lý
xã hội bằng pháp luật, tư tưởng phân chia, kiểm soát quyền lực trong một Nhà
nước đã phôi thai.
Như vậy, tư tưởng Nhà nước pháp quyền thời cổ đại nhằm chống lại sự
chuyên quyền, độc đoán, vô chính phủ, đấu tranh xác lập và phát triển nền
dân chủ. Theo các nhà triết học phương Tây, pháp luật không chỉ là công cụ
cai trị của Nhà nước mà còn là phương thức điều chỉnh quan trọng nhất đối
9
với các quan hệ xã hội, bản thân Nhà nước cũng phải phục tùng pháp luật.
 Ở phương Đông
Trong xã hội chiếm hữu nô lệ ở Trung Quốc cổ đại diễn ra cuộc đấu
tranh quyết liệt xung quanh vấn đề trị nước, an dân bằng cách thức nào, dùng
pháp luật hay đạo đức, lễ nhạc...
Nho giáo do Khổng Tử sáng lập lúc đầu chủ trương “nhân trị”, “lễ trị”
hoàn toàn nhưng về sau đã phải tìm kiếm đến những yếu tố thích hợp của tư
tưởng pháp trị. “Lễ trị” của Khổng Tử có tác dụng rất sâu sắc và bao quát,
vừa là sự cụ thể hoá, vừa là công cụ, biện pháp để thực hiện đức trị và “chính
danh” nhằm tạo ra một trật tự trong các quan hệ gia đình và xã hội.
Theo Mạnh Tử, vua vâng mệnh trời để trị dân, nhưng mệnh trời phải
hợp với lòng dân, vai trò chủ chốt là của dân và sự phụ thuộc của nhà cầm
quyền vào nhân dân.
Tuân Tử đã kết hợp “lễ trị với luật” để trị nước. Có thể coi đây là chiếc
cầu nối giữa tư tưởng nhân - lễ trị của Khổng - Mạnh và tư tưởng pháp trị sau
này.
Hàn Phi Tử đã phát triển tư tưởng pháp trị lên đến đỉnh cao, coi pháp
luật là cơ sở duy nhất để quản lý xã hội, pháp luật phải thay đổi theo thời
cuộc, “thời biến, pháp biến”. Nho giáo mà tiêu biểu là Khổng Tử cũng không
phủ nhận hoàn toàn vai trò của pháp luật nhưng quan niệm và cách thức vận
dụng pháp luật khác nhiều so với Hàn Phi Tử. Cùng là dùng hình luật để cai
trị nhưng Pháp gia khác với Nho gia. Pháp gia thì xem việc dùng hình phạt dù
nặng hay nhẹ đều là việc hiển nhiên, còn Nho gia khi dùng đến hình phạt cho
rằng đó là phương tiện mà không phải là mục đích.
10
Có thể thấy các nhà tư tưởng phương Đông ít bàn luận về Nhà nước,
pháp luật hơn mà chủ yếu quan tâm đến đường lối, phương thức cai trị con
người và xã hội. Tuy nhiên, cũng như các nhà triết học phương Tây, các nhà
tư tưởng phương Đông đều coi trọng nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật.
Hàn Phi Tử cho rằng, ý muốn cá nhân của các bậc quân vương là cội nguồn
của tình trạng vô pháp luật; luật pháp đối với người quý tộc và kẻ hèn mọn
phải như nhau. Đồng thời Nhà nước pháp quyền cũng không loại trừ đạo đức,
thiếu đạo đức xã hội sẽ hỗn loạn. Tư tưởng này đã được kế thừa, phát triển
qua nhiều thời đại và đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
1.1.2. Học thuyết nhà nước pháp quyền tư sản
Theo Ph.Ăngghen, học thuyết nhà nước pháp quyền tư sản từng bước
được hình thành trên cơ sở thế giới quan của giai cấp tư sản đang lên- thế giới
quan pháp lý. Trong thời kỳ của các cuộc cách mạng tư sản đầu tiên, đóng
góp đáng kể vào quan điểm chế độ nhà nước pháp quyền thuộc về các nhà tư
tưởng tiến bộ thuộc các trường phái lý thuyết pháp quyền khác nhau như
Xpinôda, Hốpxơ, Lốccơ, Môngtexkiơ…
Từ thế kỷ XVI-XVII, lý thuyết pháp quyền tự nhiên do các nhà triết
học Hà Lan là Xpinôda và Grôtxki sáng lập dựa trên cơ sở lý luận pháp quyền
tự nhiên thời cổ đại. Tư tưởng chủ đạo của lý thuyết pháp quyền tự nhiên là
tuyên ngôn cho tính độc lập của pháp quyền tự nhiên. Nhà nước và pháp luật
không phải do Chúa trời tạo ra mà do thoả thuận giữa con người với nhau phù
hợp với quyền tự nhiên vốn có của mình và với quy luật tự nhiên. Vì vậy,
pháp luật do nhà nước sáng tạo ra phải phù hợp với pháp luật tự nhiên; cần
phải giải phóng nhà nước và pháp luật khỏi thần quyền và thần giáo. Hình
thức nhà nước tốt nhất theo tư tưởng pháp quyền tự nhiên là chế độ dân chủ,
đối lập với chế độ quân chủ. Trong nhà nước dân chủ đó, con người sống tự
do, bình đẳng và giao tiếp tự nhiên với nhau mà sinh ra pháp quyền tự nhiên.
11
Tóm lại, lý thuyết pháp quyền tự nhiên đã góp phần giải phóng lý luận về nhà
nước và pháp luật khỏi sự bảo hộ của thần học và chủ nghĩa kinh viện trung
đại. C.Mác nhận xét, lý thuyết pháp quyền tự nhiên “đã bắt đầu xem xét nhà
nước bằng đôi mắt người và rút ra những quy luật tự nhiên của nhà nước từ lý
trí và kinh nghiệm, chứ không phải từ khoa thần học”[12, tr.165].
Các nhà triết học duy vật Anh thế kỷ XVII đã tiếp tục phát triển lý luận
về pháp quyền tự nhiên thành lý thuyết về tự do, phân quyền và chủ quyền
nhân dân. Dựa trên tư tưởng chủ quyền nhân dân và khế ước xã hội, tạo nên
cơ sở pháp luật và nguồn gốc của chế độ nhà nước, Lốccơ luận giải “học
thuyết về nền pháp chế chống lại mọi biểu hiện phi luật pháp của chính
quyền”. Ông có nhiều luận điểm tự do mang tính kinh điển về quyền và tự do
của cá nhân trong điều kiện chế độ nhà nước pháp quyền. Ông nhận xét: “Tự
do của những người nằm dưới quyền lực của chính phủ là ở chỗ, cần có một
quy tắc cố định cho cuộc sống, chung cho mọi cá nhân trong xã hội và được
quy định bởi quyền lập pháp được thiết lập ở đó. Đó là quyền tự do được làm
theo ý muốn riêng trong mọi trường hợp, nếu như ý muốn đó không bị luật
pháp ngăn cấm và không phụ thuộc vào ý chí độc đoán thường xuyên, không
xác định và không rõ ràng của người khác”[16, tr.16-17].
Đến thế kỷ XVIII, các nhà triết học khai sáng Pháp như Môngtecxkiơ,
Rutxô, Vônte, Hônbách… đã đưa ra lý thuyết về phân quyền, chủ quyền nhân
dân và khế ước xã hội. Môngtecxkiơ quan niệm nhà nước ra đời từ sự vận
động và phát triển của xã hội loài người đến một trình độ nhất định. ý tưởng
về sự phân chia quyền lực được ông nghiên cứu một cách hệ thống, ông phân
chia quyền lực thành quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Vì vậy, muốn
ngăn chặn được nạn lạm dụng quyền lực thì phải có một trật tự, trong đó các
thế lực khác nhau có thể kìm hãm được nhau. Ông nhấn mạnh: “Không một
cơ quan nào vượt lên những cơ quan kia và không một cơ quan nào có thể
tước đoạt quyền cá nhân của công dân” [17, tr.505].
12
Vônte (1694-1778) cũng cho rằng, tất cả mọi người trong xã hội đều
bình đẳng; các quyền lợi và nghĩa vụ của mọi thành viên trong xã hội được
pháp luật thừa nhận. Đó là các đạo luật tự nhiên, đạo luật của lý trí.
Hônbách (1723-1789) khẳng định, tự do là quyền bất khả xâm phạm
của con người. Trong xã hội các đạo luật phải được hình thành trên cơ sở các
khế ước xã hội. Pháp luật quy định trách nhiệm qua lại giữa các nhà nước và
cá nhân, đặc biệt là trách nhiệm của nhà cầm quyền đối với xã hội.
Lý thuyết về nhà nước pháp quyền đã được các nhà triết học cổ điển
Đức đưa ra từ thế kỷ XIX. Cantơ (1724-1804) đã đề ra và nghiên cứu một
cách chi tiết nền tảng triết học của học thuyết nhà nước pháp quyền mà vị trí
trung tâm ở đó thuộc về con người. Theo ông, trong nhà nước pháp quyền,
người công dân cần phải có khả năng cưỡng ép người cầm quyền thi hành
chuẩn xác luật pháp, giống như thái độ của người cầm quyền đối với họ vậy.
Nhà nước pháp quyền theo Cantơ không phải như một hiện thực có tính kinh
nghiệm, mà như một mô hình lý thuyết lý tưởng, cần được quản lý trong tổ
chức thực tiễn của sinh hoạt nhà nước-pháp luật.
Nếu như ở Cantơ pháp luật pháp quyền và nhà nước pháp quyền là cái
cần phải đạt tới thì ở F.Hêghen chúng là hiện thực, có nghĩa là hiện thực hoá
lý trí và thực tiễn trong các hình thức tồn tại hàng ngày của con người. Theo
Hêghen, nhà nước là một tổ chức hoàn thiện nhất của đời sống xã hội, trong
đó tất cả mọi thức đều được xây dựng trên nền tảng pháp luật, thể hiện sự
thống trị của tự do thực sự. Xã hội công dân nhờ có các thể chế pháp luật mà
bảo đảm cho lợi ích của các cá nhân và bảo vệ cho sở hữu của họ, giữ vững
trật tự xã hội.
Phíchtơ (1762-1814) quan niệm nhà nước và pháp luật là những
phương tiện để nhân loại thực hiện sứ mệnh lịch sử tối cao của mình là tiến
tới tự do tuyệt đối, cái tôi tuyệt đối. Nhà nước và pháp luật có nhiệm vụ quản
13
lý và điều hoà sự phát triển xã hội và vì lợi ích chung là hướng tới tự do. Nhà
nước pháp quyền là công cụ để xây dựng một xã hội lý tưởng, bảo đảm các
nhu cầu cơ bản của công dân.
Xu hướng ảnh hưởng lớn cả về mặt lý luận và thực tiễn xây dựng nhà
nước pháp quyền tư sản là hệ thống quan điểm pháp lý thực định. Lý thuyết
về nhà nước pháp quyền tư sản ra đời vào thế kỷ XIX-XX, nhằm thay thế lý
thuyết pháp quyền tự nhiên. Iêring cho rằng, chế độ nhà nước pháp quyền chỉ
có thể tồn tại ở nơi mà chính quyền nhà nước cũng lệ thuộc vào trật tự mà nó
đặt ra, nơi mà nó đạt được sự vững chắc về pháp lý. R.F.Môn và K.T.Vancơ
là những người đầu tiên sử dụng thuật ngữ nhà nước pháp quyền. Nhà nước
pháp quyền có mục tiêu là phát huy tự do và năng lực sáng tạo của mọi công
dân. Nhà nước pháp quyền phải bảo đảm các nguyên tắc cơ bản như tính tối
cao của pháp luật; chủ quyền của nhân dân thông qua nghị viện; mọi công dân
đều bình đẳng trước pháp luật. Tư tưởng nhà nước pháp quyền thực chứng
được hình hành và phát triển trên cơ sở xã hội tư bản bước vào thời kỳ chấm
dứt giai đoạn công trường thủ công và bước vào giai đoạn đại công nghiệp. Ở
thời kỳ này, các phạm trù, khái niệm về nhà nước pháp quyền tư sản được xây
dựng một cách hệ thống hơn.
1.1.3. Những đặc điểm cơ bản của nhà nước pháp quyền
Nhìn chung, lý luận về nhà nước pháp quyền là hệ thống các quan
điểm, tư tưởng rất phức tạp, phong phú với các cách tiếp cận khác nhau. Có ý
kiến cho rằng, điều quan trọng nhất trong Nhà nước pháp quyền là nguyên tắc
phân công rành mạch giữa các nhánh quyền lực lập pháp, hành pháp và tư
pháp. Ý kiến khác cho rằng bản chất của Nhà nước pháp quyền nằm ở việc
ghi nhận, đề cao và bảo vệ quyền con người. Cũng có ý kiến lại nhấn mạnh
Nhà nước pháp quyền là Nhà nước mà trong đó, mọi chủ thể, kể cả Nhà nước
đều tuân thủ nghiêm chỉnh, chịu phục tùng pháp luật - một pháp luật có tính
14
pháp lý cao, phù hợp với lý trí, thể hiện đầy đủ những giá trị cao nhất của xã
hội, của con người.
Có thể nói, những ý kiến trên đây đều là những tiêu chí quan trọng để
xác định bản chất của Nhà nước pháp quyền. Tuy nhiên, nếu chỉ có một trong
những tiêu chí đó, không thể có được khái niệm về Nhà nước pháp quyền
hoàn chỉnh. Nhà nước pháp quyền rất cần được tổ chức một cách khoa học,
hợp lý, nhưng nếu nhà nước đó không có một hệ thống pháp luật hoàn thiện,
đồng bộ để quản lý xã hội hiệu quả thì không bao giờ duy trì được trật tự, kỷ
cương cũng như bảo đảm được tiến bộ xã hội. Mặt khác, nếu chỉ đề cao vai
trò tối thượng của các đạo luật không thôi thì Nhà nước pháp quyền sẽ không
khác gì nhà nước cai trị bằng pháp luật hay nhà nước pháp trị... Như vậy, việc
xác định Nhà nước pháp quyền phải dựa vào những tiêu chí nhất định. Dưới
đây là một số đặc điểm cơ bản của nhà nước pháp quyền:
- Nhà nước pháp quyền là nhà nước bảo đảm tính tối cao của Hiến
pháp và pháp luật trong đời sống xã hội. Tính tối cao của pháp luật được thể
hiện trên hai phương diện: một là, bảo đảm sự thống trị của pháp luật trong
các lĩnh vực của đời sống xã hội; hai là, tính bắt buộc của pháp luật đối với
bản thân nhà nước, các tổ chức xã hội và mọi công dân. Pháp luật là tiêu
chuẩn, là căn cứ cho mọi hoạt động của nhà nước và xã hội.
- Tổ chức quyền lực nhà nước theo cơ chế phân công, kiểm soát, cân
bằng quyền lực và quyền lực phải bị giới hạn bởi pháp luật. Theo đó, ba
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp được phân định rõ ràng, rành mạch cho
ba hệ thống cơ quan tương ứng trong mối quan hệ cân bằng, đối trọng, chế
ước lẫn nhau, tạo thành cơ chế đồng bộ bảo đảm sự thống nhất của quyền lực
nhà nước, thực hiện quyền lực nhân dân. Hành pháp mạnh, đủ năng lực xây
dựng chính sách, thể chế hóa chính sách thông qua cơ chế làm luật, năng lực
tổ chức thực hiện chính sách và pháp luật. Tư pháp phải độc lập và bảo đảm
15
công lý cho mọi cá nhân trong xã hội. Nguyên tắc này cũng đặt ra yêu cầu
mọi thiết chế quyền lực nhà nước phải được tổ chức và hoạt động trong khuôn
khổ pháp luật, không ai có thể lạm dụng quyền lực, và vì lẽ đó, cần phải sắp
xếp quyền lực sao cho không có sự lạm quyền.
- Quyền dân chủ, tự do và lợi ích chính đáng của con người được pháp
luật ghi nhận và bảo đảm bằng quyền lực nhà nước. Mục tiêu cao nhất của
Nhà nước pháp quyền là bảo đảm quyền tự do, dân chủ của con người. Vì
vậy, pháp luật trong Nhà nước pháp quyền là phương tiện ghi nhận quyền dân
chủ, tự do và lợi ích chính đáng của con người, đồng thời cũng quy định cả
những biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn và trừng trị những hành vi xâm hại
đến các quyền và lợi ích đó.
- Nhà nước pháp quyền là nhà nước bảo đảm trách nhiệm lẫn nhau
giữa nhà nước và công dân, quyền công dân là trách nhiệm của nhà nước và
ngược lại quyền của nhà nước là trách nhiệm của công dân. Nhà nước phải
chịu trách nhiệm trước công dân về những hoạt động của mình, còn công dân
phải thực hiện các nghĩa vụ đối với nhà nước và chịu trách nhiệm về những
hành vi vi phạm pháp luật.
- Cơ chế bảo hiến là một bộ phận không thể thiếu trong nhà nước pháp
quyền. Cơ chế bảo hiến ngày nay đã trở thành một phần quan trọng trong tổ
chức của đa số các nhà nước đương đại, do tư tưởng về nhà nước pháp quyền
đã được thừa nhận rộng rãi với đặc trưng cơ bản nhất là tính tối cao của Hiến
pháp và pháp luật. Trong hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia, Hiến pháp là
văn bản pháp lý có hiệu lực cao nhất, là đạo luật cơ bản và quan trọng nhất.
Với ý nghĩa quan trọng và giá trị pháp lý của Hiến pháp như trên, việc hình
thành cơ chế bảo vệ và bảo đảm thực thi Hiến pháp là không thể thiếu, đặc
biệt là trong nhà nước pháp quyền, nơi Hiến pháp và pháp luật giữ vị trí
thượng tôn.
16
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân và vì dân
1.2.1. Nhà nước của dân, do dân và vì dân theo tư tưởng Hồ Chí
Minh
Sau khi nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã khẳng định: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân.
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân… Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung
ương do dân cử ra… Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”[14,
tr.698]. Chính vì vậy, việc xây dựng một nhà nước của dân, do dân và vì dân
là tư tưởng chỉ đạo, xuyên suốt quá trình hình thành, xây dựng và củng cố nhà
nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong hơn 60 năm qua.
Xây dựng một nhà nước do nhân dân lao động làm chủ là tư tưởng chủ
đạo trong suốt cuộc đời cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ngay tại Điều
thứ 1, Hiến pháp 1946 đã khẳng định: “Nước Việt Nam là nước dân chủ cộng
hòa. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không
phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”. Tính chất dân
chủ nhân dân là đặc trưng nổi bật của nhà nước ta. Nhân dân là người nắm
giữ mọi quyền lực, còn các cơ quan nhà nước do nhân dân tổ chức được ủy
quyền để thực hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Quan niệm toàn bộ
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân thể hiện rõ nhất tính dân chủ triệt để
của nhà nước ta, trở thành nguyên tắc cơ bản tổ chức bộ máy quyền lực nhà
nước và được thể hiện rõ trong tất cả các bản Hiến pháp của nước ta.
Là người chủ đất nước, mỗi người dân có quyền thông qua cơ chế dân
chủ thực thi quyền lực nhưng đồng thời cũng phải có nghĩa vụ xây dựng và
bảo vệ nhà nước, làm cho nhà nước ngày càng hoàn thiện, trong sạch, vững
mạnh. Hồ Chí Minh luôn đòi hỏi với tư cách là chủ nhân của một đất nước
độc lập, tự do, quyền và nghĩa vụ công dân luôn gắn bó chặt chẽ với nhau.
17
Một trong những phương thức quan trọng và cơ bản nhất thể hiện
quyền lực nhân dân đó chính là bầu cử. Hồ Chí Minh coi “tổng tuyển cử là
một dịp cho toàn thể quốc dân tự do lựa chọn những người có tài, có đức, để
gánh vác công việc nước nhà. Trong cuộc tổng tuyển cử, hễ là những người
muốn lo việc nước thì đều có quyền ra ứng cử; hễ là công dân thì đều có
quyền đi bầu cử … Do tổng tuyển cử mà toàn dân bầu ra Quốc hội. Quốc hội
sẽ cử ra CHÍNH phủ. Chính phủ đó thật là Chính phủ của toàn dân”[14, tr.
133].
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, quyền lực tối cao của nhân dân không
chỉ thể hiện ở việc bầu cử Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp mà còn ở
quyền bãi miễn, kiểm soát, giám sát hoạt động của các đại biểu. Hồ Chí Minh
đã nêu: “Nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng
nhân dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của
nhân dân với đại biểu của mình”[15, tr.275].
Người dân được hưởng mọi quyền dân chủ, có quyền làm bất cứ việc gì
pháp luật không cấm và có nghĩa vụ tuân theo pháp luật. Nhà nước của dân
phải bằng mọi nỗ lực hình thành các thiết chế dân chủ để thực thi quyền làm
chủ của người dân. Những người đại diện của dân, do dân cử ra chỉ là thừa ủy
quyền của dân, chỉ là “công bộc của dân”. Hồ Chí Minh phê phán những “vị
đại diện” lầm lẫn sự ủy quyền đó với quyền lực cá nhân, sinh lộng quyền,
cửa quyền: “Cậy thế mình ở trong ban này, ban nọ rồi ngang tàng, phóng
túng, muốn sao được vậy, coi khinh dư luận, không nghĩ đến dân. Quên rằng
dân bầu mình ra để làm việc cho dân, chứ không phải để cậy thế với dân” [14,
tr.57].
Từ quan niệm chung về vị thế của người cầm quyền, Hồ Chí Minh ý
thức rất rõ vị trí của Người trong hệ thống quyền lực nhà nước Việt Nam.
Người nhiều lần nhắc nhở: ở nước ta từ Hồ Chủ tịch trở xuống là đầy tớ của
18
dân; dân đặt ở đâu thì làm ở đó; Người làm Chủ tịch nước cũng là nhận sự
trao quyền, ủy thác của dân.
Hồ Chí Minh khẳng định: chỉ có nhà nước của dân, do dân tổ chức, xây
dựng và kiểm soát mới có thể là nhà nước vì dân. Nhà nước vì dân là nhà
nước phục vụ lợi ích, nguyện vọng của nhân dân, không có đặc quyền, đặc
lợi, thật sự trong sạch, cần kiệm liêm chính. Hồ Chí Minh yêu cầu: “Việc gì
lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại cho dân, ta phải hết sức
tránh…”[13, tr.56-57].
Cán bộ nhà nước phải là đầy tớ của dân, đồng thời là người lãnh đạo
hướng dẫn nhân dân. Đầy tớ thì phải trung thành, tận tụy, cần kiệm liêm
chính, chí công vô tư, lo trước thiên hạ. Người lãnh đạo phải trí tuệ hơn
người, minh mẫn sáng suốt, nhìn xa trông rộng, gần gũi nhân dân, trọng dụng
hiền tài. Như vậy, “người thay mặt dân phải đủ cả đức và tài, vừa hiền lại vừa
minh”.
Một trong những điểm cơ bản của tư tưởng nhà nước của dân là nhân
dân có quyền kiểm soát nhà nước. Hồ Chí Minh viết: “Chính phủ ta là chính
phủ của nhân dân, chỉ có một mục đích là phụng sự cho lợi ích của nhân dân.
Chính phủ rất mong đồng bào giúp đỡ, đôn đốc, kiểm soát và phê bình để làm
tròn nhiệm vụ của mình, là người đầy tớ trung thành tận tụy của nhân
dân”[13, tr.221].
Hồ Chí Minh cũng khẳng định chỉ có nhà nước thực sự của dân, do dân
tổ chức, xây dựng và kiểm soát mới có thể là nhà nước vì dân. Nhà nước vì
dân là nhà nước phục vụ lợi ích và nguyện vọng của nhân dân, không có đặc
quyền, đặc lợi, thật sự trong sạch, cần kiệm liêm chính. Nhà nước phục vụ
nhân dân, nghĩa là nhà nước đó được tổ chức và hoạt động theo một mục tiêu
duy nhất là không ngừng cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân. Đó
19
cũng là cơ sở để đánh giá hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước và năng
lực của đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước.
Bên cạnh đó, nhà nước vì dân là nhà nước biết chăm lo mọi mặt đời
sống của nhân dân, trước hết là thoả mãn các nhu cầu thiết yếu nhất. Hồ Chí
Minh đã nói: “Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết
rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của
độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ. Chúng ta phải thực hiện ngay: làm
cho dân có ăn, làm cho dân có mặc, làm cho dân có chỗ ở, làm cho dân có học
hành. Cái mục đích chúng ta đi đến là bốn điều đó. Đi đến để dân nước ta
xứng đáng với tự do, độc lập và giúp sức được cho tự do, độc lập”[13, tr.152].
Nhà nước chăm lo cho dân không có nghĩa là làm thay dân mà hướng dẫn, tạo
điều kiện cho dân tự chăm lo đời sống của mình. Theo Hồ Chí Minh, việc đáp
ứng và thoả mãn nhu cầu, lợi ích của nhân dân là tiêu chí hàng đầu để đánh
giá hiệu quả, năng lực hoạt động của nhà nước.
Ngoài ra, nhà nước cũng phải biết kết hợp, điều chỉnh các loại lợi ích
khác nhau giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội, các bộ phận dân cư để luôn được
nhân dân ủng hộ. Để làm tốt vai trò hướng dẫn của mình, nhà nước cũng cần
phải biết kết hợp giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài, lợi ích của trung
ương và lợi ích của địa phương, lợi ích của các ban ngành, các chủ thể trong
xã hội để tất cả nhân dân đều nhận thấy nhà nước là người đại diện cho lợi ích
của họ, hoạt động vì lợi ích chung của cả cộng đồng. Hồ chủ tịch thường nhấn
mạnh để phục vụ tốt nhân dân, vì dân, nhà nước phải thực sự liêm khiết, trong
sạch, tránh quan liêu, tham nhũng, phải loại hết “các ông quan cách mạng” ra
khỏi bộ máy nhà nước. Nếu hoạt động của nhà nước kém hiệu quả, bộ máy
quan liêu, đội ngũ cán bộ, công chức, nhất là những cán bộ chủ chốt bị thoái
hoá, biến chất thì tất yếu nhà nước sẽ đi ngược lại lợi ích của nhân dân, không
hoàn thành vai trò phục vụ nhân dân. Vì thế, chống đặc quyền, đặc lợi, khắc
20
phục những tiêu cực trong bộ máy nhà nước là nhu cầu và việc làm thường
xuyên, bảo đảm cho nhà nước thực sự là công bộc của nhân dân.
1.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa
Khi xem xét tư tưởng Hồ Chí Minh với vấn đề sử dụng pháp luật trong
xây dựng nhà nước pháp quyền cần khẳng định: Tư tưởng của Người về pháp
luật có từ rất sớm, Người không chỉ nhìn thấy ở pháp luật vai trò của một
công cụ giúp nhà nước bảo đảm thực hiện hoạt động quản lý, mà còn tìm thấy
ở pháp luật ý nghĩa của một đại lượng công bằng, bảo đảm cho việc thực hiện
các giá trị dân chủ, tiến bộ; cho sự bình đẳng và phát triển của các dân tộc
trên thế giới. Sự phát triển trong tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật mang
tính hệ thống và nhất quán; gắn liền với quá trình đấu tranh cách mạng cho sự
ra đời của một nhà nước mà quyền lực hoàn toàn thuộc về nhân dân, do nhân
dân làm chủ; một nhà nước mà ở đó vai trò của pháp luật được đề cao, khẳng
định và phát huy. Chính vì vậy, ngay từ những năm đầu tiên của chính quyền
nhân dân, chủ tịch Hồ Chí Minh đã yêu cầu Chính phủ lâm thời Việt Nam
phải xây dựng một bản Hiến pháp ghi nhận các quyền tự do dân chủ, bảo vệ
các quyền con người và lấy mục đích phục vụ con người như một nguyên tắc
bất di bất dịch và không thể xâm hại.
Chủ tịch Hồ Chí Minh xem pháp luật “như một hiện tượng chính trị của
nhà nước… pháp luật đúng đắn sẽ tạo nên bầu không khí chính trị ổn định của
nhà nước, làm bộ máy nhà nước vận hành đúng quỹ đạo”[9, tr.153]. Chủ tịch
Hồ Chí Minh còn cho rằng Nhà nước và pháp luật luôn thống nhất với nhau
về bản chất. Sự thống nhất này nằm ở tính dân chủ trong việc tổ chức nhà
nước cũng như khi xây dựng pháp luật. Điều đáng lưu ý trong tư tưởng Hồ
Chí Minh là ở chỗ Người đề cao vai trò của các đạo luật trong xây dựng pháp
luật và coi đây như là một bảo đảm về tính dân chủ của hệ thống pháp luật.
21
Với Người, pháp luật không chỉ là công cụ, phương tiện của quản lý nhà nước
mà còn là phương tiện để bảo đảm nền dân chủ. Đồng thời với việc xây dựng
chính quyền Việt Nam sau cách mạng và sự ra đời của nhà nước Việt Nam,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bắt tay vào tổ chức, xây dựng hệ thống pháp luật
đầu tiên của nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Như vậy, với việc xây
dựng hệ thống pháp luật này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt nền móng đầu tiên
cho quá trình xây dựng hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Khi xem xét vai trò của pháp luật với Nhà nước, cùng với việc khẳng
định vai trò của pháp luật trong quản lý và duy trì bản chất nhà nước mới,
Chủ tịch Hồ Chí Minh còn đặt ra yêu cầu xây dựng pháp luật sao cho pháp
luật thực sự trở thành phương tiện bảo đảm công bằng, là hành lang pháp lý
cho việc thực hiện các thiết chế dân chủ. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định
pháp luật của nhà nước ta được xây dựng để phục vụ nhân dân và phải phục
vụ nhân dân. Như vậy, pháp luật đã trở thành công cụ duy trì vào bảo vệ bản
chất của nhà nước.
Tư tưởng đề cao pháp luật trong quản lý nhà nước ở Chủ tịch Hồ Chí
Minh gắn liền với việc đề cao Hiến pháp và giá trị của các đạo luật trong nhà
nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặc biệt quan tâm đến những bảo đảm cần
thiết cho việc tuân thủ nghiêm chỉnh Hiến pháp cả từ phía các cơ quan nhà
nước và từ phía công dân. Có như thế thì mới bảo đảm trật tự, kỷ cương nhà
nước và công dân mới được hưởng các quyền tự do dân chủ đã được ghi nhận
trong Hiến pháp. Hiến pháp năm 1946 một mặt, đã xác định rõ chế độ nhà
nước và ghi nhận các quyền cơ bản của công dân, mặt khác, đã khẳng định
nguyên tắc tôn trọng Hiến pháp, hay nói cách khác là xác lập cơ chế bảo đảm
hiệu lực tối cao của Hiến pháp.
Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà nước dân chủ tất yếu sẽ dẫn đến pháp
luật dân chủ. Theo Người, nhà nước sẽ chẳng là gì nếu không phục vụ nhân
22
dân, pháp luật sẽ trở nên vô tác dụng nếu không phù hợp và phản ánh ý chí
của cộng đồng. Do đó, trong việc bảo vệ các giá trị dân chủ thì cả nhà nước
và pháp luật đều trở thành công cụ, phương tiện bảo đảm cho nhân dân thực
hiện quyền lực của mình. Nhận thức được vai trò của pháp luật trong việc ghi
nhận và bảo vệ các giá trị dân chủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu: “phải nhận
thức cho tốt và chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật. Sự bình đẳng trong xã hội
ở nơi pháp luật. Dân chủ đúng đắn cũng ở nơi pháp luật”[14, tr.299]. Người
cho rằng pháp luật phải chứa đựng những giá trị xã hội mà con người hướng
tới. Cùng với việc giải quyết mối quan hệ hai mặt giữa pháp luật và dân chủ,
Hồ chủ tịch cũng đặt ra yêu cầu xây dựng hệ thống pháp luật dân chủ. Hệ
thống pháp luật ấy không chỉ dừng lại ở việc ghi nhận các giá trị dân chủ mà
thông qua các quy phạm nội dung tạo lập được hệ thống các quy phạm thủ tục
bảo đảm cho việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân chủ ấy.
Cùng với việc đề cao vai trò của dân chủ trong xây dựng nhà nước sau
Cách mạng tháng 8 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt nền móng vững
chắc đầu tiên cho việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tại
Việt Nam.
1.3. Sự hình thành và phát triển tư duy lý luận của Đảng cộng sản
Việt Nam về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
1.3.1. Giai đoạn trước Đại hội Đảng VII
Trước năm 1986, việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước và pháp luật
được thực hiện trên cơ sở quan điểm phát triển nền kinh tế kế hoạch hóa tập
trung, bao cấp. Đại hội Đảng VI khởi xướng đường lối đổi mới, trong đó đổi
mới kinh tế đi trước một bước. Nền tảng tư tưởng để xây dựng nhà nước và
pháp luật trong giai đoạn này là chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh về nhà nước và pháp luật nhưng bắt đầu được nhận thức theo tư duy
mới. Tổng kết quan điểm của Đảng về lý luận xây dựng nhà nước và pháp
23
luật trong giai đoạn trước Đại hội Đảng VII cho thấy những nhận thức cơ bản
sau:
Đảng ta nhất quán khẳng định bản chất của nhà nước ta là nhà nước
chuyên chính vô sản. Quan điểm này được khẳng định rõ trong Hiến pháp
1980: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước chuyên
chính vô sản” của nhân dân lao động. Báo cáo chính trị Đại hội Đảng VI tiếp
tục khẳng định bản chất của nhà nước ta “là công cụ của chế độ làm chủ tập
thể xã hội chủ nghĩa”, đồng thời chỉ rõ trong thời kỳ quá độ, “đó là nhà nước
chuyên chính vô sản thực hiện chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa”. Như vậy,
những đặc thù mang tính lịch sử trong quá trình xây dựng nhà nước chuyên
chính vô sản ở giai đoạn này là nền tảng cơ sở vững chắc cho quá trình nghiên
cứu, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân và vì nhân dân sau này.
Đảng ta chủ trương xây dựng nhà nước bảo đảm ngày càng đầy đủ
quyền dân chủ của công dân. Nhà nước bảo đảm không ngừng hoàn chỉnh và
củng cố chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa của nhân dân lao động về các
mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Đại hội VI chỉ rõ phương châm “dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” phải trở thành nề nếp hàng ngày của xã
hội mới, thể hiện chế độ nhân dân lao động tự quản lý nhà nước của mình.
Khẳng định quyền làm chủ của nhân dân, Đại hội Đảng VI chỉ rõ: “Công tác
quản lý không phải là việc riêng của người quản lý chuyên nghiệp mà là sự
nghiệp của nhân dân. Trong công tác quản lý, dù là quản lý hành chính hay
quản lý sản xuất, kinh doanh, quản lý trật tự đều cần có sự tham gia của quần
chúng. Việc phát huy vai trò của nhân dân lao động tham gia quản lý kinh tế,
quản lý xã hội cần được các cơ quan lãnh đạo và quản lý đặt ra và thực hiện
đúng ngay từ khi chuẩn bị và quyết định chủ trương, chính sách”. Muốn được
như vậy thì “quyền làm chủ của nhân dân cần được thể chế hóa bằng pháp
luật và tổ chức”.
24
Đảng luôn chủ trương tổ chức một nhà nước quản lý xã hội bằng pháp
luật và theo pháp luật. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, chức năng của nhà nước là
thể chế hóa bằng pháp luật quyền hạn, lợi ích, nghĩa vụ của nhân dân lao động
và quản lý kinh tế, xã hội theo pháp luật. Việc quản lý nhà nước, quản lý xã
hội bằng pháp luật được thể hiện ở một số điểm cơ bản sau:
- Từng bước bổ sung và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật để bảo đảm cho
bộ máy nhà nước được tổ chức và hoạt động theo pháp luật;
- Pháp luật được thực hiện thống nhất trong cả nước;
- Pháp luật phải được chấp hành nghiêm chỉnh, mọi người đều bình
đẳng trước pháp luật. Mọi vi phạm pháp luật đều được xử lý;
- Tăng cường bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa phương và cơ sở
thành một hệ thống nhất, có sự phân định rành mạnh nhiệm vụ, quyền hạn,
trách nhiệm từng cấp theo nguyên tắc tập trung dân chủ;
- Coi trọng công tác giáo dục, tuyên truyền, giải thích pháp luật. Cần sử
dụng nhiều hình thức và biện pháp để giáo dục, nâng cao ý thức pháp luật và
làm tư vấn pháp luật cho nhân dân[2].
Đảng ta xác định nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc pháp chế xã
hội chủ nghĩa… là những nguyên tắc xuyên suốt trong tổ chức và hoạt động
của bộ máy nhà nước ta. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã chỉ rõ: với cơ
chế tập trung quan liêu, bao cấp, bộ máy nhà nước ta còn cồng kềnh, nhiều
tầng, nhiều nấc, kém hiệu lực; chức năng tổ chức trùng lắp, chồng chéo… Từ
những khuyết điểm này, Đại hội chủ trương thực hiện một cuộc cải cách lớn
về tổ chức bộ máy nhà nước theo hướng: “Xây dựng và thực hiện một cơ chế
quản lý nhà nước thể hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động ở tất cả các
cấp”, với bộ máy nhà nước thống nhất từ trung ương đến địa phương và cơ
sở, trong đó phân định rõ nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm từng cấp theo
25
nguyên tắc tập trung dân chủ, phân định rõ chức năng quản lý hành chính –
kinh tế với quản lý sản xuất – kinh doanh, kết hợp quản lý theo ngành với
quản lý theo địa phương và vùng lãnh thổ.
Do những hạn chế về điều kiện lịch sử cụ thể nên các quan điểm về xây
dựng nhà nước pháp quyền trong giai đoạn này chưa ý thức được đầy đủ cả
trong nhận thức, tư duy lý luận của Đảng và cả trong quá trình hoạch định
chính sách. Có thể nhận thấy những hạn chế đó như sau:
- Vấn đề xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính trị, hoàn thiện bộ máy
nhà nước và pháp luật trong giai đoạn này chủ yếu vẫn trong khuôn khổ của
nền kinh tế xã hội chủ nghĩa thời bao cấp, các quan điểm về xây dựng nhà
nước và pháp luật trong giai đoạn này chịu nhiều ảnh hưởng của mô hình
Liên Xô cũ, chưa có điều chỉnh phù hợp với sự chuyển biến của tình hình
mới;
- Hầu như chúng ta chưa có định hướng cải cách rõ ràng, đáng kể về bộ
máy nhà nước cho kịp với sự vận động khách quan của công cuộc đổi mới
kinh tế – xã hội;
- Những chủ trương, định hướng phát triển hệ thống pháp luật còn
manh mún, thiếu tầm nhìn bao quát. Vị trí của pháp luật trong đời sống xã hội
chưa thực sự được tôn trọng đúng mức.
1.3.2. Từ Đại hội Đảng VII đến Đại hội Đảng X
Đây là giai đoạn chúng ta đạt được nhiều thành tựu trong lĩnh vực kinh
tế. Các tiền đề kinh tế, chính trị, tư tưởng, xã hội và quốc tế đẩy sự hình thành
ngày càng đầy đủ và toàn diện hơn những tư tưởng, quan điểm về xây dựng
nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân.
26
Trong tư duy lý luận của Đảng ta đã thể hiện rõ tính chủ động, tích cực
trong việc nghiên cứu, tìm tòi, xây dựng mô hình nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa phù hợp với điều kiện hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam. Trong giai
đoạn này, trên cơ sở nghiên cứu học thuyết này trên thế giới, Đảng ta đã tiếp
cận dần đến nhận thức:
- Xây dựng nhà nước pháp quyền là mục tiêu cần hướng tới của bất kỳ
xã hội nào, vì nó đáp ứng được khát vọng tự do, dân chủ, công bằng xã hội,
phúc lợi cho nhân dân, là phương thức hữu hiệu bảo đảm sự tôn trọng nhân
phẩm và các quyền cơ bản của con người.
- Tư tưởng và quan điểm về nhà nước pháp quyền tuy rất đa dạng, song
đều thống nhất ở các đặc trưng cơ bản, đó là: tổ chức bộ máy nhà nước, chức
năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà nước được xác định chặt
chẽ về mặt pháp lý, bị ràng buộc bởi pháp luật do chính nhà nước đặt ra,
nhằm loại trừ nguy cơ tùy tiện, lạm quyền trong tổ chức và thực thi quyền
lực; pháp luật được nhà nước ban hành và xã hội thừa nhận, có địa vị tối cao,
có giá trị pháp lý phổ biến, có hiệu lực bắt buộc thi hành, là phương thức chủ
yếu để tổ chức và quản lý xã hội. Nói cách khác, đó là tư tưởng: công dân có
quyền làm tất cả những gì pháp luật không cấm, còn các cơ quan nhà nước chỉ
được làm những gì mà pháp luật quy định khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
của mình.
- Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chủ nghĩa ở Việt
Nam hoàn toàn không phải là xây dựng một kiểu nhà nước mới, thoát ly
những nguyên tắc phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
về nhà nước xã hội chủ nghĩa. Biện chứng lịch sử của quá trình xây dựng và
phát triển nhà nước ta cho thấy: một mặt nhà nước chỉ có thể trở thành nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa khi có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam; mặt khác sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước chỉ phát huy được tác
27
dụng trong điều kiện Đảng đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo phù hợp
với tổ chức quyền lực trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Tổng kết lý luận của Đảng về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của nhân dân. do nhân dân, vì nhân dân ở nước ta trong giai đoạn
này có thể rút ra những đặc điểm quan trọng sau đây:
Thứ nhất, Đảng ta nhất quán chỉ rõ bản chất của nhà nước ta là nhà
nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; tất cả quyền lực nhà nước đều
thuộc về nhân dân.
Trong suốt chiều dài của cách mạng Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của
Đảng cộng sản Việt Nam, chính nhân dân là người đã đập tan ách thống trị
của chế độ thực dân phong kiến, thiết lập nên một chính quyền mới và lẽ tự
nhiên chính quyền ấy phải là của nhân dân, do nhân dân xây dựng nên và tất
nhiên chính quyền ấy phải phục vụ và bảo vệ lợi ích của nhân dân. Trong hơn
60 năm qua, tư tưởng ấy như một chân lý không bao giờ thay đổi. Theo Chủ
tịch Hồ Chí Minh thì “trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân” và “bao
nhiêu lợi ích đều vì nhân dân”, “mọi công việc đều vì lợi ích của nhân dân mà
làm”[13, tập 8, tr.276, tập 5, tr.698; tập 6, tr.66.]. Đây cũng là một trong
những tư tưởng cơ bản của cách mạng Việt Nam được khẳng định trong các
văn kiện của Đảng.
Tư tưởng này đã được thể chế hóa tại Điều 2 Hiến pháp 1992 và luôn
được khẳng định nhất quán trong các Văn kiện của Đảng ta như Nghị quyết
trung ương 8 khóa VII, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, Nghị
quyết trung ương 3 khóa VIII, Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
IX…). Bên cạnh đó, Nghị quyết trung ương 8 khóa VII còn chỉ rõ: quán triệt
bản chất giai cấp công nhân trong xây dựng nhà nước, bản chất giai cấp công
nhân gắn bó chặt chẽ với tính dân tộc, tính nhân dân của nhà nước ta. Mọi
quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân. Nhà nước do nhân dân lập nên,
28
dân bầu ra, dân giám sát và bãi miễn. Nhà nước phải thể hiện đúng ý chí,
nguyện vọng của dân, bảo đảm trên thực tế mọi quyền lực thuộc về nhân dân.
Thứ hai, Đảng ta xác định rõ tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước ta phải tuân thủ nguyên tắc quyền lực nhà nước thống nhất, có sự phân
công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp.
Trước yêu cầu và nhu cầu cần thiết phải xây dựng và hoàn thiện tổ
chức bộ máy nhà nước trong thời kỳ mới, Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (tháng 6-1991) đã chỉ ra: “Nhà nước
Việt Nam thống nhất ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp với sự phân
công rành mạch ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, với sự phân công
rành mạch ba quyền đó”[18, tr.128].
Sau nhiều tìm tòi và phát triển nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ
máy nhà nước, Nghị quyết trung 8 khoá VII đã xác định “quyền lực nhà nước
là thống nhất, có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà
nước trong việc thực hiện ba quyền: lập pháp, hành pháp, tư pháp”, nguyên
tắc này đã trở thành nguyên tắc cơ bản trong nhận thức và hoạt động thực
thực tiễn của Đảng và nhà nước, được tiếp tục khẳng định trong các Văn hiện
của Đảng (Văn kiện Đại hội Đảng VIII, Nghị quyết trung ương 3 và 7 khóa
VIII, Văn kiện đại hội Đảng IX …).
Nguyên tắc quyền lực nhà nước thống nhất, có sự phân công, phối hợp
giữa các cơ quan thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, một mặt
khẳng định quyền lực nhà nước là thống nhất nhưng mặt khác có sự kế thừa
những nhân tố tiến bộ trong tổ chức và phân công quyền lực nhà nước, đây là
một bước tiến lớn trong tư duy lý luận của Đảng ta. Nguyên tắc này được thể
chế hóa trong lần sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp 1992 và các
luật tổ chức bộ máy nhà nước (Luật tổ chức Quốc hội, Luật tổ chức Chính
29
phủ, Luật tổ chức Tòa án nhân dân, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân). Sự
phân công, phối hợp được thể hiện ngày càng rõ nét trong các luật tổ chức bộ
máy nhà nước trong thời gian gần đây, đặc biệt là đối với các cơ quan nhà
nước ở trung ương (Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm
sát nhân dân tối cao).
Thứ ba, Đảng ta đã khẳng định vai trò, vị trí của pháp luật trong quản
lý nhà nước và xã hội, bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp và các đạo luật
trong điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Tư duy lý luận của Đảng ta về vị trí, vai trò của pháp luật trong quản lý
nhà nước và xã hội có sự phát triển ngày càng hoàn thiện theo hướng bảo đảm
cho Hiến pháp và các đạo luật giữ vị trí tối thượng trong việc điều chỉnh các
quan hệ xã hội. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII khẳng định điều quan
trọng để phát huy dân chủ là xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, nâng cao dân trí và ý thức chấp hành pháp
luật của nhân dân. Nhiệm vụ trọng tâm về xây dựng pháp luật phục vụ công
cuộc đổi mới là “tiếp tục đổi mới, bổ sung và đồng bộ hóa hệ thống pháp luật
kinh tế, đặc biệt chú trọng đổi mới và bổ sung các luật thuế”, đồng thời “tăng
cường giáo dục pháp luật, nâng cao hiểu biết và ý thức tôn trọng pháp luật,
sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, bảo đảm cho pháp luật được thi
hành một cách nghiêm minh, thống nhất và công bằng”.
Như vậy, nội dung pháp luật của nhà nước ta chính là sự thể chế hóa
đường lối của Đảng; nói cách khác trong nội dung pháp luật đã hàm chứa đầy
đủ đường lối của Đảng, chấp hành pháp luật chính là thực hiện đường lối của
Đảng. Đồng thời, pháp luật là những quy tắc xử sự chung nên mọi cá nhân, tổ
chức phải tuân thủ. Nghĩa vụ tuân theo pháp luật không loại trừ bất cứ một ai.
Chính vì vậy, Điều 4 Hiến pháp 1992 quy định “mọi tổ chức của Đảng hoạt
động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”.
30
Thứ tư, bảo đảm quyền con người, quyền công dân, nâng cao trách
nhiệm pháp lý giữa nhà nước và công dân; mở rộng dân chủ đồng thời với
tăng cường kỷ cương, kỷ luật.
Quan điểm của Đảng ta là phát huy quyền làm chủ của nhân dân là vấn
đề thuộc bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là biện pháp và chủ
trương của Đảng để lãnh đạo cách mạng nhằm huy động mọi tiềm năng, trí
tuệ của nhân dân tham gia xây dựng, quản lý xã hội và quản lý nhà nước, xây
dựng và phát triển đất nước, phát huy dân chủ nhằm không ngừng duy trì bản
chất nhân dân của nhà nước ta và nâng cao khả năng, hiệu lực quản lý của nhà
nước, ngăn chặn và đẩy lùi tiêu cực, quan liêu tham nhũng, tăng cường hơn
nữa khối đại đoàn kết dân tộc.
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, chủ trương dân chủ hóa mọi
mặt đời sống xã hội đã được thể chế hóa một bước quan trọng. Dân chủ về
kinh tế ngày càng được mở rộng đã tác động tích cực đến việc giải phóng sức
sản xuất, là động lực thúc đẩy kinh tế phát triển, nâng cao đời sống nhân dân.
Dân chủ về chính trị có bước tiến quan trọng, thể hiện ở việc bầu cử đại biểu
ở các cơ quan dân cử, ở chất lượng làm việc của Quốc hội, Hội đồng nhân
dân các cấp, ở hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội với các thành viên
Chính phủ,… Hoạt động của các cơ quan nhà nước đổi mới theo hướng dân
chủ hơn, phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đã được
pháp luật hóa và từng bước được khẳng định trong thực tế, tạo điều kiện để
nhân dân tham gia và thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của các cơ
quan nhà nước. Vai trò của báo chí và các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội -
nghề nghiệp ngày càng được tăng cường.
Thứ năm, từng bước xác định đầy đủ trách nhiệm của nhà nước trong
việc thực hiện các cam kết quốc tế trong quá trình hội nhập quốc tế và khu
vực.
31
Tiếp tục thực hiện chính sách đổi mới của Đảng trong quan hệ đối
ngoại do Đại hội Đảng VI đề ra, trong giai đoạn này Đảng và nhà nước ta
luôn luôn quán triệt tinh thần “hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các
nước không phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác nhau trên cơ sở những
nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình” [19, tr.126]; “với chính sách đối ngoại rộng
mở, chúng ta tuyên bố rằng: Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước
trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển” [3,
tr.147].
Nhất quán với chính sách đối ngoại nêu trên, trong giai đoạn này Đảng
ta đã đề ra những chủ trương chỉ đạo việc ký kết, gia nhập và thực thi các điều
ước quốc tế trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, các văn kiện của Đảng
cũng luôn ghi nhận việc ký kết, gia nhập và thực thi các điều ước quốc tế như
một phần không thể thiếu của quá trình hội nhập, quá trình phát triển kinh tế -
xã hội đất nước. Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001-2010 định hướng:
“tiếp tục mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại theo hướng đa phương hóa, đa
dạng hóa; chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp với điều
kiện của nước ta và bảo đảm thực hiện những cam kết trong quan hệ song
phương và đa phương như AFTA, APEC, Hiệp định thương mại Việt- Mỹ,
tiến tới gia nhập WTO…”[5, tr. 120-121].
Thứ sáu, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đối với
nhà nước trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Đảng lãnh đạo nhân dân ta xây dựng một nhà nước thực sự của dân, do
dân, vì dân. Bằng thực tế cách mạng, nhân dân ta đã thừa nhận sự lãnh đạo
của Đảng đối với nhà nước, xã hội là tất yếu. “Và trong thực tế, cho đến nay,
chưa có một tổ chức chính trị nào khác ngoài Đảng cộng sản Việt Nam có đủ
khả năng, uy tín và bản lĩnh lãnh đạo đất nước” [30]. Chính vì vậy, Văn kiện
32
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII chỉ rõ “ở nước ta không có sự lãnh đạo
của Đảng cộng sản thì không có độc lập dân tộc, không có quyền làm chủ
thực sự của nhân dân, không có nhà nước của dân, do dân và vì dân, không
thể thực hiện được công bằng xã hội. Lúc bình thường, vai trò lãnh đạo của
Đảng đã rất quan trọng, ở những bước chuyển giai đoạn, vai trò đó lại càng
quan trọng” [4, tr.91].
Đại hội X của Đảng cũng đã chỉ rõ: “Xây dựng cơ chế vận hành của
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực
nhà nước đều thuộc về nhân dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự
phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng tính cụ thể, khả thi
của các quy định trong văn bản pháp luật. Xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm
tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của
các cơ quan công quyền” [6, tr. 126].
Sự ghi nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và toàn xã hội
trong Hiến pháp đã chính thức khẳng định địa vị pháp lý của Đảng trong hệ
thống chính trị. Địa vị lãnh đạo của Đảng được khẳng định trong quá trình
hoạt động chính trị của Đảng và vai trò ấy càng được tăng lên theo quy mô và
chiều sâu của công cuộc đổi mới xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa.
1.4. Những đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam
Trên cơ sở những tiêu chí chung về nhà nước pháp quyền đã được
trình bày ở phần trên, có thể nhận thấy một số nét đặc trưng cơ bản của nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam như sau:
33
1.4.1. Bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp và pháp luật trong đời
sống xã hội
Sự đề cao và khẳng định vai trò của pháp luật là sợ chỉ đỏ xuyên suốt
học thuyết nhà nước pháp quyền. Nhà nước pháp quyền trước hết phải là một
nhà nước được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật. Nhà nước
quản lý xã hội bằng pháp luật, các đạo luật có vai trò tối thượng trong việc
điều chỉnh các mối quan hệ xã hội. Mọi cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội,
người có chức vụ và công dân đều có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp
luật, bình đẳng trước pháp luật. Không một ai đứng trên hoặc đứng ngoài
pháp luật, đi ngược lại ý chí và lợi ích của nhân dân. Khác với nhà nước cực
quyền hay nhà nước pháp trị, việc quản lý xã hội bằng pháp luật của nhà nước
pháp quyền là dựa trên cơ sở một hệ thống pháp luật đầy đủ, đồng bộ, thống
nhất, có giá trị pháp lý cao, phản ánh nguyện vọng và ý chí của nhân dân, là
chuẩn mực của dân chủ, tự do, công bằng và nhân đạo.
1.4.2. Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
Trong suốt quá trình đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng đất
nước, đã có thời kỳ nước ta tồn tại nhiều đảng phái chính trị. Qua thử thách
của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và trong công cuộc xây dựng, bảo vệ tổ
quốc, chúng ta đã thừa nhận vị trí, vai trò lãnh đạo duy nhất của Đảng cộng
sản Việt Nam đối với nhà nước và toàn xã hội. Chính vì vậy, trong quá trình
xây dựng Nhà nước pháp quyền, đòi hỏi phải bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng
đối với Nhà nước và toàn xã hội; phát huy vai trò và hiệu lực quản lý xã hội
của Nhà nước nhằm làm cho các chủ trương, đường lối của Đảng đi vào cuộc
sống, trở thành hiện thực xã hội. Đây là nét đặc trưng khác biệt giữa nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với nhà nước pháp quyền tư sản; đồng
thời cũng là kinh nghiệm vô cùng quý giá mà nhân dân ta đã đúc kết trong
34
quá trình lịch sử của cách mạng Việt Nam. Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước được thể hiện ở các phương diện sau:
- Đảng đề ra đường lối, chủ trương và các chính sách lớn định hướng
cho sự phát triển của đất nước trong từng thời kỳ;
- Đảng lãnh đạo Nhà nước định ra và thực thi Hiến pháp, pháp luật; xây
dựng bộ máy nhà nước tinh, gọn, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả; xây dựng
đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất, trí tuệ và năng lực, trung thành với
sự nghiệp cách mạng của Đảng, của Tổ quốc, tận tuỵ phục vụ nhân dân;
- Đảng kiểm tra việc quán triệt và tổ chức thực hiện đường lối, chủ
trương của Đảng và pháp luật của Nhà nước; củng cố và nâng cao chất lượng
hoạt động của các tổ chức Đảng và đảng viên trong các cơ quan nhà nước.
Nhằm hoàn thiện việc xây dựng nhà nước pháp quyền cần đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, giữ vững, tăng cường vai
trò của Đảng, đồng thời, phát huy được tính chủ động, sáng tạo của Nhà nước
và các đoàn thể chính trị - xã hội, nêu cao quyền làm chủ của nhân dân trong
quá trình tổ chức thực hiện đường lối phát triển do Đảng đưa ra. Bên cạnh đó,
việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng phải được tiến hành đồng bộ với
đổi mới toàn bộ hệ thống chính trị, với việc đổi mới, sắp xếp lại và nâng cao
phẩm chất, năng lực đội ngũ cán bộ, đảng viên, nâng cao chất lượng của các
tổ chức đảng.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng phải tiến hành một cách dân
chủ, bằng những phương pháp dân chủ, phải thấm nhuần sâu sắc tư duy biện
chứng về mối quan hệ giữa mục tiêu với phương thức, phải được tiến hành
khẩn trương, kiên quyết nhưng vững chắc.
1.4.3. Bảo đảm và bảo vệ quyền công dân, quyền con người
35
Xét cho đến cùng thì mục tiêu cao cả nhất của nhà nước pháp quyền là
bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Người dân trong nhà nước pháp
quyền không phải là thần dân của các nhà cầm quyền, là người chủ thực sự
của đất nước. Các quyền cơ bản thiêng liêng nhất của con người, của công
dân như quyền sống, quyền tự do, quyền bình đẳng, quyền sở hữu… được nhà
nước bảo vệ bằng pháp luật.
Có thể nói, quyền công dân là sự thể hiện cụ thể quyền con người.
“Quyền công dân là quyền con người trong một xã hội cụ thể, trong một chế
độ xã hội – chính trị nhất định với một nền pháp luật cụ thể do nhà nước đó
thừa nhận, quy định” [21, tr. 27]. Lịch sử đấu tranh cho quyền con người bắt
đầu từ lịch sử hình thành giai cấp, nhà nước và pháp luật. Chính vì vậy, cùng
với sự phát triển của xã hội, việc bảo đảm quyền con người, cụ thể hơn nữa là
quyền công dân ngày càng được coi trọng. Nó trở thành một đặc trưng của
một xã hội hoàn thiện, nơi quyền con người, quyền công dân được bảo đảm
đầy đủ.
Xuất phát từ mục tiêu trên, nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc
về nhân dân đã được đề cập ngay từ bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta. Đây
không chỉ là một nguyên tắc cơ bản được ghi nhận trong các bản Hiến pháp
nước ta từ Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980 và Hiến pháp năm 1992 mà còn
được thể hiện cụ thể trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta từ
trung ương tới địa phương. Điều này thể hiện trên các phương diện sau đây:
- Nhân dân với tư cách là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước thực
hiện quyền lực dưới nhiều hình thức khác nhau, trong đó, hình thức cơ bản
nhất là nhân dân thông qua bầu cử lập ra các cơ quan đại diện quyền lực của
mình. Điều 6 Hiến pháp 1992 quy định rõ: “Nhân dân sử dụng quyền lực nhà
nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp là những cơ quan
đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu
36
trách nhiệm trước nhân dân.”;
- Nhân dân còn thực hiện quyền làm chủ của mình thông qua việc giám
sát hoạt động của bộ máy nhà nước, có quyền bãi miễn những đại biểu không
còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân;
- Nhà nước phải luôn luôn hoạt động vì lợi ích của nhân dân, lấy phục
vụ nhân dân làm mục tiêu cao nhất của mình. Tất cả các cơ quan nhà nước
đều phải tôn trọng nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân
dân;
- Pháp luật không chỉ quy định địa vị pháp lý của công dân mà còn
buộc các cơ quan nhà nước phải tôn trọng và bảo đảm thực tế cho các quyền
ấy, tránh mọi nguy cơ xâm hại từ phía các cơ quan công quyền và viên chức
nhà nước.
Đây chính là những nguyên tắc được quy định trong Hiến pháp, bảo
đảm cho mọi người dân thực hiện được quyền làm chủ của mình.
1.4.4. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối
hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp.
Đây là một trong những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam. Khác với nguyên tắc “tam quyền phân lập”, trong
nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, quyền lực nhà nước là
thống nhất, không phân chia và thuộc về nhân dân. Xuất phát từ nguyên tắc
cơ bản là "tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân", ở nước ta, quyền
lực nhà nước là thống nhất, đồng thời có sự phân công và phối hợp chặt chẽ
trong việc thực hiện các cơ cấu của quyền lực nhà nước, trong đó:
37
- Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan có quyền
lập hiến và lập pháp, quyết định những vấn đề trọng đại của đất nước và giám
sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước;
- Chủ tịch nước là nguyên thủ quốc gia, là người thống lĩnh các lực
lượng vũ trang, giữ chức Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và an ninh, có
những thẩm quyền nhất định liên quan trực tiếp đến các quyền lập pháp, hành
pháp và tư pháp;
- Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính
nhà nước cao nhất, thống nhất điều hành việc thực hiện các nhiệm vụ chính
trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của nhà nước;
- Toà án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam; Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố
và kiểm sát các hoạt động tư pháp.
Như vậy, trong việc thực hiện quyền lực nhà nước, có sự phân công
giữa Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện
Kiểm sát nhân dân tối cao để mỗi cơ quan thực thi có hiệu quả chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của mình với sự phối hợp chặt chẽ, tạo nên sức mạnh
tổng hợp của quyền lực nhà nước. Các cơ quan này dù được phân công thực
hiện các quyền khác nhau nhưng trong quá trình thực hiện quyền hạn của
mình đều phải có sự phối hợp với các cơ quan khác. Về thực chất thì quyền
lực nhà nước là thống nhất, không thể tách biệt độc lập các lĩnh vực hoạt động
của quyền lực nhà nước. Có thể nhận thấy sự phối hợp này trong từng hoạt
động của các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Trong các công đoạn của quy trình lập pháp, không chỉ tồn tại vai trò
của Quốc hội mà còn có sự tham gia của Chính phủ và các cơ quan tư pháp.
Chính phủ và các cơ quan tư pháp tham gia vào quá trình đề xuất sáng kiến
38
pháp luật, chuẩn bị các dự án luật theo sự phân công.
Chính phủ thực hiện quyền hành pháp trên cơ sở phối hợp với các cơ
quan nhà nước khác như Quốc hội, các cơ quan tư pháp... Quốc hội thực hiện
quyền quyết định nhân sự của Chính phủ như bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm
Thủ tướng Chính phủ, quyết định thành lập, bãi bỏ các bộ, cơ quan ngang bộ,
thực hiện quyền giám sát tối cao đối với mọi hoạt động của Chính phủ. Với
chức năng bảo vệ pháp luật, các cơ quan tư pháp góp phần bảo đảm quyền
hành pháp được thực thi đúng đắn, bảo đảm trật tự quản lý nhà nước.
Trong lĩnh vực tư pháp, Quốc hội quy định về tổ chức và hoạt động của
Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chánh
án tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao...
Có thể nói, các thiết chế quyền lực của Nhà nước ta có sự phân công,
phối hợp nhưng vẫn bảo đảm sự thống nhất quyền lực ở một nguyên tắc là
Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
1.4.5. Bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt
động của Nhà nước
Kết hợp đúng đắn tập trung và dân chủ là yếu tố quyết định sức mạnh
tổ chức và hiệu lực hoạt động của bộ máy nhà nước ta. Điều này tạo ra sự
thống nhất tổ chức và hành động, phát huy đồng thời và kết hợp chặt chẽ sức
mạnh của cả tập thể và từng cá nhân, của cả nước và từng địa phương, từng
cơ sở, của từng tổ chức và cả hệ thống bộ máy nhà nước [31].
Đặc trưng của nguyên tắc tập trung dân chủ trong quá trình hoàn thiện
bộ máy nhà nước là sự kết hợp giữa việc tăng cường sự lãnh đạo và điều hành
tập trung thống nhất của trung ương, đồng thời phát huy trách nhiệm và tính
chủ động, năng động của địa phương. Hiện nay, các đạo luật do Quốc hội ban
39
hành đều nhấn mạnh tới việc phân cấp mạnh mẽ trong quản lý nhà nước cho
chính quyền địa phương.
40
Chương 2
THỰC TRẠNG XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Đảng ta đã quán triệt những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng phù hợp với những điều kiện
cụ thể của đất nước để tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước.
Đảng đã xác định lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, xác định đúng mối
quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị cũng như các lĩnh vực
khác. Từ tư tưởng chỉ đạo chung sáng suốt đó, việc kiện toàn và đổi mới
bộ máy nhà nước trong thời gian qua đã đạt được những tiến bộ rõ rệt.
Nhà nước ta đã từng bước được kiện toàn, từ cơ cấu tổ chức đến cơ chế
hoạt động trên các lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp. Quản lý nhà
nước bằng pháp luật được tăng cường, dân chủ xã hội chủ nghĩa được
phát huy trên nhiều lĩnh vực, trước hết là về kinh tế, ổn định chính trị
được giữ vững. Có thể nhận thấy sự thay đổi và phát triển của quá trình
phấn đấu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trên
những mặt sau:
2.1. Về tổ chức của bộ máy nhà nước
2.1.1. Những thành tựu đạt được
Điều 2 Hiến pháp năm 1980 khẳng định nhà nước ta là “nhà nước
chuyên chính vô sản” và để phù hợp với tình hình mới cũng như có nhận
thức toàn diện, đầy đủ, chính xác hơn về tính chất nhà nước, Điều 2 Hiến
pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) đã xác định: “Nhà nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”. Dưới sự lãnh đạo của
Đảng, ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tất cả quyền lực nhà
41
nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân
với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.
Bộ máy nhà nước trước đây được tổ chức theo nguyên tắc tập quyền
xã hội chủ nghĩa nay đã được tổ chức lại theo nguyên tắc quyền lực nhà
nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà
nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Sự
phân công giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lực nhà
nước nhằm bảo đảm cho mỗi cơ quan nhà nước thi hành có hiệu quả chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, không phải là sự phân chia, cắt
khúc, đối lập nhau giữa các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp mà ở
đây có sự phối hợp, hỗ trợ nhau tạo thành sức mạnh tổng hợp của quyền
lực nhà nước.
Với tính chất là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan
quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, Quốc hội tiếp tục được xác định là cơ quan duy nhất có quyền lập
hiến và lập pháp; thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt
động của nhà nước và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước.
Nếu như trước đây (theo Hiến pháp 1980), trên phương diện lý luận,
quyền lực nhà nước được xác định tập trung vào Quốc hội, nhưng trên
thực tế hoạt động của Quốc hội còn mang đậm tính hình thức thì hiện nay
Quốc hội ngày càng trở nên có thực quyền hơn. Cùng với việc củng cố,
tăng cường về tổ chức của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, nâng cao
chất lượng, cơ cấu đại biểu Quốc hội. Sinh hoạt của Quốc hội đã phát huy
dân chủ, khắc phục bệnh hình thức, chất lượng các kỳ họp Quốc hội đã có
những tiến bộ rõ rệt. Có thể thấy trong thời gian gần đây, các phiên chất
vấn tại các kỳ họp Quốc hội vô cùng sôi nổi, thu hút được sự chú ý theo
dõi của đông đảo tầng lớp nhân dân. Chức năng, nhiệm vụ chung của
Quốc hội về cơ bản vẫn trên cơ sở kế thừa các quy định của Hiến pháp
42
năm 1980 nhưng đã có một số sửa đổi, bổ sung quan trọng cho phù hợp
với vị trí và tính chất của Quốc hội và phù hợp với yêu cầu của nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, như: bỏ thẩm quyền của Quốc hội trong
việc tự “định cho mình những nhiệm vụ và quyền hạn khác, khi xét thấy
cần thiết”; xác định lại thẩm quyền quyết định về ngân sách, bỏ thẩm
quyền của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định về nhân sự Chính phủ
trong thời gian giữa hai kỳ họp Quốc hội; bổ sung thẩm quyền của Quốc
hội trong việc bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ các chức vụ do
Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn… Tổ chức của Quốc hội cũng có những đổi
mới như thiết lập trở lại chế định về Uỷ ban thường vụ Quốc hội là cơ
quan thường trực của Quốc hội (vị trí này trước đây do Hội đồng nhà
nước là cơ quan cao nhất hoạt động thường xuyên của Quốc hội, là Chủ
tịch tập thể của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đảm nhiệm).
Hội đồng dân tộc và các uỷ ban của Quốc hội cũng có những thay đổi
quan trọng về tổ chức: Quốc hội thành lập Hội đồng dân tộc và 9 Uỷ ban
với các chức năng, nhiệm vụ được quy định cụ thể. Kết thúc Quốc hội
khoá XI vừa qua, Quốc hội đã có thêm hai Uỷ ban mới là Uỷ ban ngân
sách và Uỷ ban tư pháp. Chất lượng, cơ cấu đại biểu Quốc hội được đổi
mới nhằm bảo đảm cho đại diện mọi giới, mọi dân tộc, mọi tầng lớp nhân
dân có thể tham gia vào Quốc hội, đồng thời tỷ lệ đại biểu Quốc hội hoạt
động chuyên trách đã từng bước được tăng lên đáng kể. Số lượng đại biểu
Quốc hội chuyên trách là 25% và chắc chắn tại Quốc hội khoá XII số
lượng này sẽ tăng thêm nhằm bảo đảm hiệu lực và hiệu quả hoạt động của
Quốc hội trên thực tế.
Kể từ năm 1992, chế định Chủ tịch nước đã được thiết lập lại, thay
thế chế định nguyên thủ quốc gia tập thể theo Hiến pháp năm 1980. Chủ
tịch nước được xác định là người đứng đầu nhà nước, thay mặt nhà nước
về đối nội, đối ngoại. So với thời kỳ trước năm 1980, chế định Chủ tịch
Luận văn: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền
Luận văn: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền
Luận văn: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền
Luận văn: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền
Luận văn: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền
Luận văn: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền
Luận văn: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền
Luận văn: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền
Luận văn: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền
Luận văn: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền
Luận văn: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền
Luận văn: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền
Luận văn: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền
Luận văn: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền
Luận văn: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền
Luận văn: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền
Luận văn: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền
Luận văn: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền
Luận văn: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền
Luận văn: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền
Luận văn: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền
Luận văn: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền
Luận văn: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền
Luận văn: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền
Luận văn: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền
Luận văn: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền
Luận văn: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền
Luận văn: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền
Luận văn: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền
Luận văn: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền
Luận văn: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền
Luận văn: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền
Luận văn: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền
Luận văn: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền
Luận văn: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền
Luận văn: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền
Luận văn: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền
Luận văn: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền
Luận văn: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền
Luận văn: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền
Luận văn: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền
Luận văn: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền
Luận văn: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền
Luận văn: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền
Luận văn: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền
Luận văn: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền
Luận văn: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền
Luận văn: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền
Luận văn: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền
Luận văn: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền
Luận văn: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền
Luận văn: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền
Luận văn: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền
Luận văn: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền
Luận văn: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền
Luận văn: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền
Luận văn: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền
Luận văn: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền
Luận văn: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền
Luận văn: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền
Luận văn: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền
Luận văn: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền
Luận văn: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền
Luận văn: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền
Luận văn: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền
Luận văn: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền
Luận văn: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền
Luận văn: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền
Luận văn: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền
Luận văn: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền
Luận văn: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền
Luận văn: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền
Luận văn: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền

More Related Content

What's hot

Quan điểm của Đảng ta về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và xây dựng nhà...
Quan điểm của Đảng ta về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và xây dựng nhà...Quan điểm của Đảng ta về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và xây dựng nhà...
Quan điểm của Đảng ta về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và xây dựng nhà...Hạnh Hoàng Minh
 
Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân.
Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân.Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân.
Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân.akirahitachi
 
TS. BUI QUANG XUAN NHÀ NƯỚC TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
TS. BUI QUANG XUAN    NHÀ NƯỚC TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊTS. BUI QUANG XUAN    NHÀ NƯỚC TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
TS. BUI QUANG XUAN NHÀ NƯỚC TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊBùi Quang Xuân
 
Bài giảng LUẬT HÀNH CHÍNH VIỆT NAM.pdf
Bài giảng LUẬT HÀNH CHÍNH VIỆT NAM.pdfBài giảng LUẬT HÀNH CHÍNH VIỆT NAM.pdf
Bài giảng LUẬT HÀNH CHÍNH VIỆT NAM.pdfjackjohn45
 

What's hot (20)

Đề tài: Quản lý về phòng chống bạo lực gia đình tại TPHCM, HOT
Đề tài: Quản lý về phòng chống bạo lực gia đình tại TPHCM, HOTĐề tài: Quản lý về phòng chống bạo lực gia đình tại TPHCM, HOT
Đề tài: Quản lý về phòng chống bạo lực gia đình tại TPHCM, HOT
 
Luận văn: Văn bản quy phạm pháp luật - Vấn đề lý luận và thực tiễn
Luận văn: Văn bản quy phạm pháp luật - Vấn đề lý luận và thực tiễnLuận văn: Văn bản quy phạm pháp luật - Vấn đề lý luận và thực tiễn
Luận văn: Văn bản quy phạm pháp luật - Vấn đề lý luận và thực tiễn
 
Luận văn: Vai trò của Hiến pháp trong việc kiểm soát Nhà nước
Luận văn: Vai trò của Hiến pháp trong việc kiểm soát Nhà nướcLuận văn: Vai trò của Hiến pháp trong việc kiểm soát Nhà nước
Luận văn: Vai trò của Hiến pháp trong việc kiểm soát Nhà nước
 
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, 9đ
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, 9đLuận văn: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, 9đ
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, 9đ
 
Đề tài: Hình thức chính thể Việt Nam qua các bản Hiến pháp, HOT
Đề tài: Hình thức chính thể Việt Nam qua các bản Hiến pháp, HOTĐề tài: Hình thức chính thể Việt Nam qua các bản Hiến pháp, HOT
Đề tài: Hình thức chính thể Việt Nam qua các bản Hiến pháp, HOT
 
Luận văn: Vấn đề giáo dục ý thức pháp luật cho sinh viên, HOT
Luận văn: Vấn đề giáo dục ý thức pháp luật cho sinh viên, HOTLuận văn: Vấn đề giáo dục ý thức pháp luật cho sinh viên, HOT
Luận văn: Vấn đề giáo dục ý thức pháp luật cho sinh viên, HOT
 
Luận văn: Thực hiện pháp luật tiếp công dân của UBND cấp xã
Luận văn: Thực hiện pháp luật tiếp công dân của UBND cấp xãLuận văn: Thực hiện pháp luật tiếp công dân của UBND cấp xã
Luận văn: Thực hiện pháp luật tiếp công dân của UBND cấp xã
 
Luận văn: Tội nhận hối lộ theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội nhận hối lộ theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội nhận hối lộ theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội nhận hối lộ theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp xã, HAY
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp xã, HAYLuận văn: Tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp xã, HAY
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp xã, HAY
 
Luận văn: Quyền con người và giáo dục quyền con người, HOT
Luận văn: Quyền con người và giáo dục quyền con người, HOTLuận văn: Quyền con người và giáo dục quyền con người, HOT
Luận văn: Quyền con người và giáo dục quyền con người, HOT
 
Luận văn: Cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở địa phương, HOT
Luận văn: Cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở địa phương, HOTLuận văn: Cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở địa phương, HOT
Luận văn: Cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở địa phương, HOT
 
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOTLuận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
 
Luận văn: Đăng ký khai sinh theo pháp luật về hộ tịch hiện nay
Luận văn: Đăng ký khai sinh theo pháp luật về hộ tịch hiện nayLuận văn: Đăng ký khai sinh theo pháp luật về hộ tịch hiện nay
Luận văn: Đăng ký khai sinh theo pháp luật về hộ tịch hiện nay
 
Quan điểm của Đảng ta về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và xây dựng nhà...
Quan điểm của Đảng ta về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và xây dựng nhà...Quan điểm của Đảng ta về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và xây dựng nhà...
Quan điểm của Đảng ta về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và xây dựng nhà...
 
Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân.
Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân.Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân.
Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân.
 
Luận văn: Pháp luật về phòng chống bạo lực gia đình tại Đà Nẵng
Luận văn: Pháp luật về phòng chống bạo lực gia đình tại Đà NẵngLuận văn: Pháp luật về phòng chống bạo lực gia đình tại Đà Nẵng
Luận văn: Pháp luật về phòng chống bạo lực gia đình tại Đà Nẵng
 
Luận văn: Những loại người đồng phạm trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Những loại người đồng phạm trong luật hình sự Việt NamLuận văn: Những loại người đồng phạm trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Những loại người đồng phạm trong luật hình sự Việt Nam
 
TS. BUI QUANG XUAN NHÀ NƯỚC TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
TS. BUI QUANG XUAN    NHÀ NƯỚC TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊTS. BUI QUANG XUAN    NHÀ NƯỚC TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
TS. BUI QUANG XUAN NHÀ NƯỚC TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
 
Luận văn: Pháp luật về bảo vệ môi trường không khí ở Việt Nam
Luận văn: Pháp luật về bảo vệ môi trường không khí ở Việt NamLuận văn: Pháp luật về bảo vệ môi trường không khí ở Việt Nam
Luận văn: Pháp luật về bảo vệ môi trường không khí ở Việt Nam
 
Bài giảng LUẬT HÀNH CHÍNH VIỆT NAM.pdf
Bài giảng LUẬT HÀNH CHÍNH VIỆT NAM.pdfBài giảng LUẬT HÀNH CHÍNH VIỆT NAM.pdf
Bài giảng LUẬT HÀNH CHÍNH VIỆT NAM.pdf
 

Similar to Luận văn: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền

XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TRONG VĂ...
XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TRONG VĂ...XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TRONG VĂ...
XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TRONG VĂ...Man_Ebook
 
Khái niệm và những đặc điểm của nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay 275961
Khái niệm và những đặc điểm của nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay 275961Khái niệm và những đặc điểm của nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay 275961
Khái niệm và những đặc điểm của nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay 275961nataliej4
 
Công tác kiểm tra, giám sát của đảng trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp q...
Công tác kiểm tra, giám sát của đảng trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp q...Công tác kiểm tra, giám sát của đảng trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp q...
Công tác kiểm tra, giám sát của đảng trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp q...jackjohn45
 
Nhà nước pháp quyền trong tư tưởng John Locke và ý nghĩa hiện thời - Gửi miễn...
Nhà nước pháp quyền trong tư tưởng John Locke và ý nghĩa hiện thời - Gửi miễn...Nhà nước pháp quyền trong tư tưởng John Locke và ý nghĩa hiện thời - Gửi miễn...
Nhà nước pháp quyền trong tư tưởng John Locke và ý nghĩa hiện thời - Gửi miễn...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận án: Vấn đề nhà nước pháp quyền trong tư tưởng John Locke và ý nghĩa hiện...
Luận án: Vấn đề nhà nước pháp quyền trong tư tưởng John Locke và ý nghĩa hiện...Luận án: Vấn đề nhà nước pháp quyền trong tư tưởng John Locke và ý nghĩa hiện...
Luận án: Vấn đề nhà nước pháp quyền trong tư tưởng John Locke và ý nghĩa hiện...Viết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 
Ảnh hưởng của tư tưởng trị quốc Nho giáo xây dựng Nhà nước, HAY - Gửi miễn ph...
Ảnh hưởng của tư tưởng trị quốc Nho giáo xây dựng Nhà nước, HAY - Gửi miễn ph...Ảnh hưởng của tư tưởng trị quốc Nho giáo xây dựng Nhà nước, HAY - Gửi miễn ph...
Ảnh hưởng của tư tưởng trị quốc Nho giáo xây dựng Nhà nước, HAY - Gửi miễn ph...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận án: Ảnh hưởng của tư tưởng trị quốc Nho giáo đối với việc xây dựng Nhà n...
Luận án: Ảnh hưởng của tư tưởng trị quốc Nho giáo đối với việc xây dựng Nhà n...Luận án: Ảnh hưởng của tư tưởng trị quốc Nho giáo đối với việc xây dựng Nhà n...
Luận án: Ảnh hưởng của tư tưởng trị quốc Nho giáo đối với việc xây dựng Nhà n...Viết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 
ảNh hưởng của tư tưởng trị quốc nho giáo đối với việc xây dựng nhà nước pháp ...
ảNh hưởng của tư tưởng trị quốc nho giáo đối với việc xây dựng nhà nước pháp ...ảNh hưởng của tư tưởng trị quốc nho giáo đối với việc xây dựng nhà nước pháp ...
ảNh hưởng của tư tưởng trị quốc nho giáo đối với việc xây dựng nhà nước pháp ...jackjohn45
 
Luận văn Tư tưởng pháp quyền Hồ chí Minh với việc xây dựng nhà nước pháp quyề...
Luận văn Tư tưởng pháp quyền Hồ chí Minh với việc xây dựng nhà nước pháp quyề...Luận văn Tư tưởng pháp quyền Hồ chí Minh với việc xây dựng nhà nước pháp quyề...
Luận văn Tư tưởng pháp quyền Hồ chí Minh với việc xây dựng nhà nước pháp quyề...sividocz
 

Similar to Luận văn: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền (20)

Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền và thực tiễn xây dựng nhà...
Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền và thực tiễn xây dựng nhà...Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền và thực tiễn xây dựng nhà...
Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền và thực tiễn xây dựng nhà...
 
XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TRONG VĂ...
XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TRONG VĂ...XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TRONG VĂ...
XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TRONG VĂ...
 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và vận dụng trong cải cách
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và vận dụng trong cải cáchTư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và vận dụng trong cải cách
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và vận dụng trong cải cách
 
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HOT, 9đ - Gửi miễn phí qua zalo=> ...
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HOT, 9đ  - Gửi miễn phí qua zalo=> ...Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HOT, 9đ  - Gửi miễn phí qua zalo=> ...
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HOT, 9đ - Gửi miễn phí qua zalo=> ...
 
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAYLuận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
 
Khái niệm và những đặc điểm của nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay 275961
Khái niệm và những đặc điểm của nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay 275961Khái niệm và những đặc điểm của nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay 275961
Khái niệm và những đặc điểm của nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay 275961
 
Bài thu hoạch lớp trung cấp lý luận chính trị - hành chính, 9 điểm.doc
Bài thu hoạch lớp trung cấp lý luận chính trị - hành chính, 9 điểm.docBài thu hoạch lớp trung cấp lý luận chính trị - hành chính, 9 điểm.doc
Bài thu hoạch lớp trung cấp lý luận chính trị - hành chính, 9 điểm.doc
 
Đề tài: Đặc điểm của pháp luật trong nhà nước pháp quyền, HAY
Đề tài: Đặc điểm của pháp luật trong nhà nước pháp quyền, HAYĐề tài: Đặc điểm của pháp luật trong nhà nước pháp quyền, HAY
Đề tài: Đặc điểm của pháp luật trong nhà nước pháp quyền, HAY
 
Công tác kiểm tra, giám sát của đảng trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp q...
Công tác kiểm tra, giám sát của đảng trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp q...Công tác kiểm tra, giám sát của đảng trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp q...
Công tác kiểm tra, giám sát của đảng trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp q...
 
Nhà nước pháp quyền trong tư tưởng John Locke và ý nghĩa hiện thời - Gửi miễn...
Nhà nước pháp quyền trong tư tưởng John Locke và ý nghĩa hiện thời - Gửi miễn...Nhà nước pháp quyền trong tư tưởng John Locke và ý nghĩa hiện thời - Gửi miễn...
Nhà nước pháp quyền trong tư tưởng John Locke và ý nghĩa hiện thời - Gửi miễn...
 
Luận án: Vấn đề nhà nước pháp quyền trong tư tưởng John Locke và ý nghĩa hiện...
Luận án: Vấn đề nhà nước pháp quyền trong tư tưởng John Locke và ý nghĩa hiện...Luận án: Vấn đề nhà nước pháp quyền trong tư tưởng John Locke và ý nghĩa hiện...
Luận án: Vấn đề nhà nước pháp quyền trong tư tưởng John Locke và ý nghĩa hiện...
 
Ảnh hưởng của tư tưởng trị quốc Nho giáo xây dựng Nhà nước, HAY - Gửi miễn ph...
Ảnh hưởng của tư tưởng trị quốc Nho giáo xây dựng Nhà nước, HAY - Gửi miễn ph...Ảnh hưởng của tư tưởng trị quốc Nho giáo xây dựng Nhà nước, HAY - Gửi miễn ph...
Ảnh hưởng của tư tưởng trị quốc Nho giáo xây dựng Nhà nước, HAY - Gửi miễn ph...
 
Luận án: Ảnh hưởng của tư tưởng trị quốc Nho giáo đối với việc xây dựng Nhà n...
Luận án: Ảnh hưởng của tư tưởng trị quốc Nho giáo đối với việc xây dựng Nhà n...Luận án: Ảnh hưởng của tư tưởng trị quốc Nho giáo đối với việc xây dựng Nhà n...
Luận án: Ảnh hưởng của tư tưởng trị quốc Nho giáo đối với việc xây dựng Nhà n...
 
ảNh hưởng của tư tưởng trị quốc nho giáo đối với việc xây dựng nhà nước pháp ...
ảNh hưởng của tư tưởng trị quốc nho giáo đối với việc xây dựng nhà nước pháp ...ảNh hưởng của tư tưởng trị quốc nho giáo đối với việc xây dựng nhà nước pháp ...
ảNh hưởng của tư tưởng trị quốc nho giáo đối với việc xây dựng nhà nước pháp ...
 
Tiểu luận về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.doc
Tiểu luận về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.docTiểu luận về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.doc
Tiểu luận về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.doc
 
Luận văn Tư tưởng pháp quyền Hồ chí Minh với việc xây dựng nhà nước pháp quyề...
Luận văn Tư tưởng pháp quyền Hồ chí Minh với việc xây dựng nhà nước pháp quyề...Luận văn Tư tưởng pháp quyền Hồ chí Minh với việc xây dựng nhà nước pháp quyề...
Luận văn Tư tưởng pháp quyền Hồ chí Minh với việc xây dựng nhà nước pháp quyề...
 
LUẬN VĂN XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN VIỆT NAM.doc
LUẬN VĂN XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN VIỆT NAM.docLUẬN VĂN XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN VIỆT NAM.doc
LUẬN VĂN XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN VIỆT NAM.doc
 
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAYChế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
 
Bai 4 lndvm
Bai 4 lndvmBai 4 lndvm
Bai 4 lndvm
 
BÀI MẪU tiểu luận môn quản lý nhà nước, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU tiểu luận môn quản lý nhà nước, HAY, 9 ĐIỂMBÀI MẪU tiểu luận môn quản lý nhà nước, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU tiểu luận môn quản lý nhà nước, HAY, 9 ĐIỂM
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864

Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docDịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864 (20)

Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.docYếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
 
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.docTừ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
 
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
 
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.docTác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
 
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.docSong Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
 
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.docỨng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
 
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.docVai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
 
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.docThu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
 

Recently uploaded

Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdftohoanggiabao81
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxpowerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxAnAn97022
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdfTrnHoa46
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxendkay31
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfVyTng986513
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNguyễn Đăng Quang
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 

Recently uploaded (20)

Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxpowerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 

Luận văn: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN QUỲNH NGA Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền và thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay luËn v¨n th¹c sÜ LUẬT Hµ néi - 2007
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN QUỲNH NGA Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền và thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay Mã số : 60 38 01 luËn v¨n th¹c sÜ LUẬT Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Hoàng Thị Kim Quế Hµ néi - 2007
  • 3. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Đại hội Đảng VIII đã khẳng định nhiệm vụ của nhà nước ta là tiếp tục cải cách bộ máy nhà nước, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước theo hướng nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa: “tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, quản lý xã hội bằng pháp luật đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức”. Và Điều 2 Hiến pháp 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001) một lần nữa khẳng định rõ hơn vấn đề này“Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với nông dân và tầng lớp trí thức”. Đó là cơ sở pháp lý và cũng là văn bản pháp luật quan trọng nhất để xây dựng đất nước, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đồng thời cũng thể chế hoá đường lối của Đảng đề ra trong “cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” và “chiến lược ổn định phát triển kinh tế - xã hội”. Theo đó, Nhà nước pháp quyền Việt Nam là Nhà nước của giai cấp công nhân với nông dân và tầng lớp trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Nhà nước pháp quyền Việt Nam là Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, tôn trọng và thực sự bảo vệ quyền con người. Do vậy việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trở thành một nguyên tắc bắt buộc trong hoạt động của Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam để tạo cơ sở thực thi nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, đảm bảo vai trò của nhân dân trong công cuộc xây dựng và quản lí đất nước và là giải pháp cho các vấn đề về tổ chức quyền lực Nhà nước, mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân... Xây dựng nhà nước pháp quyền vừa tạo nên thiết chế phục vụ cho công cuộc đổi mới đất nước toàn diện vừa tạo ra các cơ cấu tổ chức, pháp luật phù
  • 4. 2 hợp, cơ chế tuân thủ nghiêm chỉnh pháp luật để đảm bảo cho việc thực hiện đầy đủ các quyền, lợi ích của công dân, tổ chức và xã hội; đảm bảo cho các cơ quan nhà nước trở về với xã hội công dân, chấm dứt tình trạng Nhà nước đứng trên xã hội. Như vậy, việc xây dựng và từng bước hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã trở thành nhiệm vụ cấp thiết của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước nói chung cũng như đổi mới hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa nói riêng. Tuy nhiên cho đến nay, vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một vấn đề có nội dung lớn, đòi hỏi phải có sự nghiên cứu toàn diện cả về lý luận và thực tiễn. Chính vì vậy, chúng tôi đã mạnh dạn chọn đề tài “Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền và thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay” nhằm góp phần vào quá trình nghiên cứu về nhà nước pháp quyền hiện nay ở nước ta. 2. Mục đích của Luận văn và phạm vi nghiên cứu Mục đích của luận văn là từ lịch sử hình thành và phát triển của tư tưởng nhà nước pháp quyền tìm ra những phương hướng để xây dựng và ngày càng hoàn thiện nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Với mục đích đó, nhiệm vụ chính của luận văn là: - Khái quát chung những tư tưởng, lý luận về nhà nước pháp quyền của thế giới trong các thời kỳ phát triển lịch sử. - Phân tích và đánh giá những quan điểm chủ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Từ đó khẳng định rằng nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong nửa thế kỷ qua đang được xây dựng thành một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
  • 5. 3 - Đưa ra một số kiến nghị về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa phù hợp với đặc điểm, tình hình chính trị, kinh tế và xã hội nước ta trong giai đoạn phát triển hiện nay. 3. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài, phương pháp nghiên cứu cơ bản mà luận văn sử dụng là phương pháp qui nạp trên cơ sở thống kê, tổng hợp, nghiên cứu và phân tích các văn kiện của Đảng và Nhà nước ta để làm rõ những quan điểm về việc xây dựng nhà nước pháp quyền. Luận văn cũng sử dụng các tác phẩm của Mác, Ăngghen, Lênin và các công trình nghiên cứu khoa học của các tác giả trong và ngoài nước về nhà nước và pháp luật làm tài liệu tham khảo. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phương pháp lôgic và phương pháp so sánh đối chiếu để làm sáng tỏ những nội dung của luận văn. 4. Tình hình nghiên cứu đề tài Những năm qua, các văn kiện của Đảng và Nhà nước, các bài phát biểu của các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước tại các diễn đàn đã đề cập nhiều đến vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền. Đây là định hướng cơ bản và quan trọng nhằm hoàn thiện nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trên thực tế hiện nay cũng đã có không ít những công trình khoa học, bài viết liên quan đến vấn đề này song mỗi công trình, mỗi bài viết lại đề cập đến những khía cạnh khác nhau của việc xây dựng nhà nước pháp quyền như vấn đế pháp luật, tổ chức bộ máy nhà nước... Bên cạnh đó, cũng có thể thấy với mỗi giai đoạn khác nhau của quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền, yêu cầu và phương hướng hoàn thiện sẽ có những điểm khác biệt nhất định. Một số công trình nghiên cứu đề cập đến vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền như: Về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Viện nghiên
  • 6. 4 cứu khoa học pháp lý, Nxb.Tư pháp, 2000; Cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền, TSKH.Lê Cảm-TS.Nguyễn Ngọc Chí, Nxb.Chính trị quốc gia, 2004; Quyền con người, quyền công dân trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, GS.TS.Trần Ngọc Đường, Nxb.Chính trị quốc gia, 2004; Mô hình tổ chức và hoạt động của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, GS.TSKH. Đào Trí Úc, Nxb.Tư pháp, 2006; Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, Nguyễn Văn Yểu- GS.TS. Lê Hữu Nghĩa, Nxb.Chính trị quốc gia, 2006; Tư tưởng Đông, Tây về nhà nước và pháp luật-Những nhân tố nhà nước pháp quyền, PGS.TS. Hoàng Thị Kim Quế, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 3/2002 Góp phần nghiên cứu Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp chế trong xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam, TS. Trịnh Đức Thảo & ThS. Tào Thị Quyên, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 5/2006… Vì vậy, việc nghiên cứu một cách tổng thể cơ sở lý luận cũng như thực tiễn 20 năm xây dựng đất nước Việt Nam, từ đó tìm ra phương hướng, giải pháp xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là vô cùng cần thiết. 5. Kết cấu của Luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung của Luận văn gồm có 3 chương được bố cục như sau: Chương 1: Cơ sở lý luận của việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam Chương 2: Thực trạng xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay Chương 3: Phương hướng xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam Chương 1
  • 7. 5 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN Ở VIỆT NAM 1.1. Tư tưởng và học thuyết về nhà nước pháp quyền qua các thời kỳ 1.1.1. Tư tưởng về nhà nước pháp quyền thời cổ đại Những ý niệm đầu tiên về nhà nước pháp quyền xuất hiện ngay từ thời kỳ đầu tiên của nền văn minh nhân loại. Ngay từ thời cổ đại xa xưa, loài người đã bắt đầu tìm kiếm những hình thức xã hội công bằng, tốt đẹp. Cùng với tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại, những ý niệm ban đầu này đã được các nhà tư tưởng phát triển và hình thành nên tư tưởng về hình thức tổ chức quyền lực xã hội mà trong đó pháp luật trở thành quy phạm bắt buộc đối với mọi người, là sức mạnh mang tính nhà nước và quyền lực xã hội được pháp luật thừa nhận trở thành quyền lực nhà nước. Những tư tưởng này được hình thành qua nhiều giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất (thế kỷ VIII-V tr. CN) gắn sự hình thành của các Nhà nước và pháp luật. Giai đoạn thứ hai (thế kỷ V-nửa đầu thế kỷ IV tr. CN) gắn liền sự phát triển cao của các thể chế Nhà nước. Giai đoạn thứ ba (nửa sau thế kỷ IV - thế kỷ II tr. CN) gắn liền với sự suy vong của Nhà nước thành bang Hy Lạp cổ đại. Có thể thấy những tư tưởng này đã có mầm mống ở nhiều nơi trên thế giới, cả phương Đông lẫn phương Tây.  Ở phương Tây Tư tưởng Nhà nước pháp quyền ở phương Tây cổ đại chủ yếu gắn liền với sự phát triển của nền dân chủ Hy Lạp và La Mã, có phần sâu sắc hơn vì được dựa trên cơ sở tư duy triết học. Các nhà tư tưởng chú ý tới tính tối cao của đạo luật và sự tổ chức hợp lý của bộ máy nhà nước. Họ cho rằng pháp luật là pháp luật tự nhiên, pháp luật xuất phát từ bản chất lý trí của con người
  • 8. 6 và của thế giới xung quanh con người, pháp luật của Nhà nước phải đáp ứng yêu cầu của luật tự nhiên [29]. Trong thế kỷ thứ VI tr. CN, Xôlông (Solon, 638-559 tr. CN) khi chủ trương cải cách triệt để Nhà nước thành bang Hy Lạp đã cho rằng, quyền lực cần đặt ngang hàng với pháp luật và cả hai đều là phương tiện để đạt tới tự do và công bằng. Xôlông xác định sẽ "giải phóng tất cả mọi người bằng quyền lực của pháp luật, bằng sự kết hợp sức mạnh với pháp luật". Giữa thế kỷ này, Pitago (580-500 tr. CN) đòi phải thực hiện mệnh lệnh của Nhà nước, tức là phải tuân thủ pháp luật. Pháp luật phải được đặt cao hơn các phong tục, tập quán truyền thống không thành văn. Cuối thế kỷ VI - đầu thế kỷ V tr. CN, Hêracơlit (Heraclite, 530-470 tr. CN) hết sức coi trọng pháp luật và quan niệm rằng, pháp luật là phương thức để thực hiện cái phổ biến. Do đó, "nhân dân phải đấu tranh để bảo vệ pháp luật như bảo vệ chốn nương thân của mình". Thế kỷ V tr. CN, Hêrôđôt (Herodote, 480-425 tr. CN) khi so sánh ba chính thể quân chủ, quý tộc và cộng hoà, đã gợi ý về một thể chế chính trị hỗn hợp giữa các giá trị của ba loại chính thể trên. Ông khẳng định, quyền lực trong xã hội là thuộc về dân, xã hội phải được quản lý theo nguyên tắc công bằng trước pháp luật. Đemôcơrít (Democrite, 460-370 tr. CN) cho rằng Nhà nước và pháp luật là sản phẩm của cuộc đấu tranh lâu dài của con người nhằm liên kết với nhau thành cộng đồng. Nhà nước là sự thể hiện quyền lực chung của công dân. Tự do của công dân nằm trong sự tuân thủ pháp luật. Cuối thế kỷ V tr. CN, khi nền dân chủ A-ten lâm vào khủng hoảng, Xôcơrat (Socrate, 469, 399 tr. CN) cho rằng dân chủ không thể tồn tại được vì thiếu pháp luật hay pháp luật bất lực thì công bằng và công lý sẽ bị vi phạm.
  • 9. 7 Cuối thế kỷ V đầu thế kỷ IV tr. CN, Platôn (Platon, 427 - 347 tr. CN) xác định rằng, người cầm quyền phải gạt sang một bên ý chí cá nhân để tuân thủ và nhân danh ý chí của pháp luật. Platôn nhìn thấy “sự sụp đổ nhanh chóng của Nhà nước ở nơi nào mà pháp luật không được đề cao và nằm dưới quyền lực của một ai đó. Còn ở nơi nào pháp luật đứng trên các nhà cầm quyền và các nhà cầm quyền chỉ là nô lệ của pháp luật, thì tôi thấy ở đó có sự cứu thoát Nhà nước và những lợi ích mà chỉ có Thượng đế mới có thể tặng cho các Nhà nước''. Arixtot (384 - 322 TCN) - nhà tư tưởng vĩ đại nhất của thời cổ đại cho rằng pháp luật cần thống trị trên tất cả. Theo ông thì yếu tố cấu thành cơ bản của phẩm chất chính trị trong luật pháp là sự phù hợp của tính đúng đắn về chính trị của nó với tính pháp quyền; không thể có pháp luật nếu như việc cầm quyền không tuân theo pháp luật, chà đạp lên pháp luật, mưu toan thống trị bằng bạo lực. Pôlybi (Polybe, 201-120 tr. CN) là người La Mã đầu tiên nêu lên những tư tưởng quan trọng về Nhà nước pháp quyền. Theo ông, ''không phải lý trí mà kinh nghiệm đã dạy chúng ta rằng hình thức chính phủ hoàn hảo nhất là hình thức được tạo nên từ ba chính thể quân chủ, quý tộc và cộng hoà". Trong đó cơ quan chấp chính tối cao thuộc về vua, nguyên lão viện (nghị viện) thuộc về quý tộc và các cơ quan dân biểu (hội đồng) thuộc về nhân dân (chủ nô). Phân bố và giám sát quyền lực hợp lý, chặt chẽ là hai yếu tố cơ bản bảo đảm một Nhà nước vững mạnh và phát triển quốc gia La Mã thành một đế quốc hùng mạnh. Xixêrôn (Ceceron, 106 - 43 tr. CN) cho rằng, Nhà nước là ''một cộng đồng pháp lý''. Nhà nước là của chung nhân dân và là trật tự chung. ''Nhân dân không phải là một tập hợp bất kỳ, mà là một tập hợp liên kết với nhau bằng sự thoả thuận về pháp luật và bằng tính cộng đồng của các lợi ích
  • 10. 8 chung''. Nhà nước chỉ có ở nơi nào không có bạo lực và chuyên quyền. Sự cần thiết của Nhà nước bắt nguồn từ bản chất trốn chạy sự cô đơn và khao khát đời sống cộng đồng của con người. Công bằng là mệnh lệnh từ lý trí của con người mà Nhà nước phải tuân theo. Pháp luật là ''lẽ phải chính trực phù hợp với bản chất có trong tất cả mọi sinh vật''. Pháp luật là công pháp giữ vai trò điều chỉnh các mối quan hệ xã hội. ''Phục tùng pháp luật là bắt buộc đối với tất cả mọi người”. Xixêrôn đã xác định được pháp quyền tự nhiên, nhưng pháp quyền đó vẫn còn ''treo lơ lửng trong không khí'' và chưa tìm thấy điểm tựa trong hiện thực. Như vậy có thể thấy, ngay từ thời cổ đại đã có những tư tưởng đề cao vấn đề dân chủ như một hình thức Nhà nước. Theo đó, Nhà nước chỉ là sự thể hiện quyền lợi chung của công dân và lấy việc phục vụ con người cá nhân và xã hội làm mục đích. ý tưởng về sự kết hợp giữa Nhà nước và pháp luật là cách tốt nhất để khách quan hoá Nhà nước, hạn chế ý muốn chủ quan của nhà cầm quyền. Nhà nước tuân theo pháp luật là tuân theo ý chí chung của xã hội. Xuất hiện yêu cầu về Nhà nước pháp quyền nhằm bảo đảm sự phát triển của kinh tế - xã hội, vừa bảo đảm sự tồn tại của bản thân Nhà nước. Bên cạnh đó, quyền lực Nhà nước dù của vua, của quý tộc hay của dân đều thông qua các cá nhân cầm quyền và có xu hướng bị lạm dụng. Quyền lực Nhà nước luôn luôn cũng có xu hướng bành trướng và hạn chế quyền tự do của con người. Để khắc phục tình trạng này cần phân biệt quyền lực Nhà nước thành các quyền khác nhau theo chức năng, nhiệm vụ của nó. Cùng với tư tưởng quản lý xã hội bằng pháp luật, tư tưởng phân chia, kiểm soát quyền lực trong một Nhà nước đã phôi thai. Như vậy, tư tưởng Nhà nước pháp quyền thời cổ đại nhằm chống lại sự chuyên quyền, độc đoán, vô chính phủ, đấu tranh xác lập và phát triển nền dân chủ. Theo các nhà triết học phương Tây, pháp luật không chỉ là công cụ cai trị của Nhà nước mà còn là phương thức điều chỉnh quan trọng nhất đối
  • 11. 9 với các quan hệ xã hội, bản thân Nhà nước cũng phải phục tùng pháp luật.  Ở phương Đông Trong xã hội chiếm hữu nô lệ ở Trung Quốc cổ đại diễn ra cuộc đấu tranh quyết liệt xung quanh vấn đề trị nước, an dân bằng cách thức nào, dùng pháp luật hay đạo đức, lễ nhạc... Nho giáo do Khổng Tử sáng lập lúc đầu chủ trương “nhân trị”, “lễ trị” hoàn toàn nhưng về sau đã phải tìm kiếm đến những yếu tố thích hợp của tư tưởng pháp trị. “Lễ trị” của Khổng Tử có tác dụng rất sâu sắc và bao quát, vừa là sự cụ thể hoá, vừa là công cụ, biện pháp để thực hiện đức trị và “chính danh” nhằm tạo ra một trật tự trong các quan hệ gia đình và xã hội. Theo Mạnh Tử, vua vâng mệnh trời để trị dân, nhưng mệnh trời phải hợp với lòng dân, vai trò chủ chốt là của dân và sự phụ thuộc của nhà cầm quyền vào nhân dân. Tuân Tử đã kết hợp “lễ trị với luật” để trị nước. Có thể coi đây là chiếc cầu nối giữa tư tưởng nhân - lễ trị của Khổng - Mạnh và tư tưởng pháp trị sau này. Hàn Phi Tử đã phát triển tư tưởng pháp trị lên đến đỉnh cao, coi pháp luật là cơ sở duy nhất để quản lý xã hội, pháp luật phải thay đổi theo thời cuộc, “thời biến, pháp biến”. Nho giáo mà tiêu biểu là Khổng Tử cũng không phủ nhận hoàn toàn vai trò của pháp luật nhưng quan niệm và cách thức vận dụng pháp luật khác nhiều so với Hàn Phi Tử. Cùng là dùng hình luật để cai trị nhưng Pháp gia khác với Nho gia. Pháp gia thì xem việc dùng hình phạt dù nặng hay nhẹ đều là việc hiển nhiên, còn Nho gia khi dùng đến hình phạt cho rằng đó là phương tiện mà không phải là mục đích.
  • 12. 10 Có thể thấy các nhà tư tưởng phương Đông ít bàn luận về Nhà nước, pháp luật hơn mà chủ yếu quan tâm đến đường lối, phương thức cai trị con người và xã hội. Tuy nhiên, cũng như các nhà triết học phương Tây, các nhà tư tưởng phương Đông đều coi trọng nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật. Hàn Phi Tử cho rằng, ý muốn cá nhân của các bậc quân vương là cội nguồn của tình trạng vô pháp luật; luật pháp đối với người quý tộc và kẻ hèn mọn phải như nhau. Đồng thời Nhà nước pháp quyền cũng không loại trừ đạo đức, thiếu đạo đức xã hội sẽ hỗn loạn. Tư tưởng này đã được kế thừa, phát triển qua nhiều thời đại và đến nay vẫn còn nguyên giá trị. 1.1.2. Học thuyết nhà nước pháp quyền tư sản Theo Ph.Ăngghen, học thuyết nhà nước pháp quyền tư sản từng bước được hình thành trên cơ sở thế giới quan của giai cấp tư sản đang lên- thế giới quan pháp lý. Trong thời kỳ của các cuộc cách mạng tư sản đầu tiên, đóng góp đáng kể vào quan điểm chế độ nhà nước pháp quyền thuộc về các nhà tư tưởng tiến bộ thuộc các trường phái lý thuyết pháp quyền khác nhau như Xpinôda, Hốpxơ, Lốccơ, Môngtexkiơ… Từ thế kỷ XVI-XVII, lý thuyết pháp quyền tự nhiên do các nhà triết học Hà Lan là Xpinôda và Grôtxki sáng lập dựa trên cơ sở lý luận pháp quyền tự nhiên thời cổ đại. Tư tưởng chủ đạo của lý thuyết pháp quyền tự nhiên là tuyên ngôn cho tính độc lập của pháp quyền tự nhiên. Nhà nước và pháp luật không phải do Chúa trời tạo ra mà do thoả thuận giữa con người với nhau phù hợp với quyền tự nhiên vốn có của mình và với quy luật tự nhiên. Vì vậy, pháp luật do nhà nước sáng tạo ra phải phù hợp với pháp luật tự nhiên; cần phải giải phóng nhà nước và pháp luật khỏi thần quyền và thần giáo. Hình thức nhà nước tốt nhất theo tư tưởng pháp quyền tự nhiên là chế độ dân chủ, đối lập với chế độ quân chủ. Trong nhà nước dân chủ đó, con người sống tự do, bình đẳng và giao tiếp tự nhiên với nhau mà sinh ra pháp quyền tự nhiên.
  • 13. 11 Tóm lại, lý thuyết pháp quyền tự nhiên đã góp phần giải phóng lý luận về nhà nước và pháp luật khỏi sự bảo hộ của thần học và chủ nghĩa kinh viện trung đại. C.Mác nhận xét, lý thuyết pháp quyền tự nhiên “đã bắt đầu xem xét nhà nước bằng đôi mắt người và rút ra những quy luật tự nhiên của nhà nước từ lý trí và kinh nghiệm, chứ không phải từ khoa thần học”[12, tr.165]. Các nhà triết học duy vật Anh thế kỷ XVII đã tiếp tục phát triển lý luận về pháp quyền tự nhiên thành lý thuyết về tự do, phân quyền và chủ quyền nhân dân. Dựa trên tư tưởng chủ quyền nhân dân và khế ước xã hội, tạo nên cơ sở pháp luật và nguồn gốc của chế độ nhà nước, Lốccơ luận giải “học thuyết về nền pháp chế chống lại mọi biểu hiện phi luật pháp của chính quyền”. Ông có nhiều luận điểm tự do mang tính kinh điển về quyền và tự do của cá nhân trong điều kiện chế độ nhà nước pháp quyền. Ông nhận xét: “Tự do của những người nằm dưới quyền lực của chính phủ là ở chỗ, cần có một quy tắc cố định cho cuộc sống, chung cho mọi cá nhân trong xã hội và được quy định bởi quyền lập pháp được thiết lập ở đó. Đó là quyền tự do được làm theo ý muốn riêng trong mọi trường hợp, nếu như ý muốn đó không bị luật pháp ngăn cấm và không phụ thuộc vào ý chí độc đoán thường xuyên, không xác định và không rõ ràng của người khác”[16, tr.16-17]. Đến thế kỷ XVIII, các nhà triết học khai sáng Pháp như Môngtecxkiơ, Rutxô, Vônte, Hônbách… đã đưa ra lý thuyết về phân quyền, chủ quyền nhân dân và khế ước xã hội. Môngtecxkiơ quan niệm nhà nước ra đời từ sự vận động và phát triển của xã hội loài người đến một trình độ nhất định. ý tưởng về sự phân chia quyền lực được ông nghiên cứu một cách hệ thống, ông phân chia quyền lực thành quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Vì vậy, muốn ngăn chặn được nạn lạm dụng quyền lực thì phải có một trật tự, trong đó các thế lực khác nhau có thể kìm hãm được nhau. Ông nhấn mạnh: “Không một cơ quan nào vượt lên những cơ quan kia và không một cơ quan nào có thể tước đoạt quyền cá nhân của công dân” [17, tr.505].
  • 14. 12 Vônte (1694-1778) cũng cho rằng, tất cả mọi người trong xã hội đều bình đẳng; các quyền lợi và nghĩa vụ của mọi thành viên trong xã hội được pháp luật thừa nhận. Đó là các đạo luật tự nhiên, đạo luật của lý trí. Hônbách (1723-1789) khẳng định, tự do là quyền bất khả xâm phạm của con người. Trong xã hội các đạo luật phải được hình thành trên cơ sở các khế ước xã hội. Pháp luật quy định trách nhiệm qua lại giữa các nhà nước và cá nhân, đặc biệt là trách nhiệm của nhà cầm quyền đối với xã hội. Lý thuyết về nhà nước pháp quyền đã được các nhà triết học cổ điển Đức đưa ra từ thế kỷ XIX. Cantơ (1724-1804) đã đề ra và nghiên cứu một cách chi tiết nền tảng triết học của học thuyết nhà nước pháp quyền mà vị trí trung tâm ở đó thuộc về con người. Theo ông, trong nhà nước pháp quyền, người công dân cần phải có khả năng cưỡng ép người cầm quyền thi hành chuẩn xác luật pháp, giống như thái độ của người cầm quyền đối với họ vậy. Nhà nước pháp quyền theo Cantơ không phải như một hiện thực có tính kinh nghiệm, mà như một mô hình lý thuyết lý tưởng, cần được quản lý trong tổ chức thực tiễn của sinh hoạt nhà nước-pháp luật. Nếu như ở Cantơ pháp luật pháp quyền và nhà nước pháp quyền là cái cần phải đạt tới thì ở F.Hêghen chúng là hiện thực, có nghĩa là hiện thực hoá lý trí và thực tiễn trong các hình thức tồn tại hàng ngày của con người. Theo Hêghen, nhà nước là một tổ chức hoàn thiện nhất của đời sống xã hội, trong đó tất cả mọi thức đều được xây dựng trên nền tảng pháp luật, thể hiện sự thống trị của tự do thực sự. Xã hội công dân nhờ có các thể chế pháp luật mà bảo đảm cho lợi ích của các cá nhân và bảo vệ cho sở hữu của họ, giữ vững trật tự xã hội. Phíchtơ (1762-1814) quan niệm nhà nước và pháp luật là những phương tiện để nhân loại thực hiện sứ mệnh lịch sử tối cao của mình là tiến tới tự do tuyệt đối, cái tôi tuyệt đối. Nhà nước và pháp luật có nhiệm vụ quản
  • 15. 13 lý và điều hoà sự phát triển xã hội và vì lợi ích chung là hướng tới tự do. Nhà nước pháp quyền là công cụ để xây dựng một xã hội lý tưởng, bảo đảm các nhu cầu cơ bản của công dân. Xu hướng ảnh hưởng lớn cả về mặt lý luận và thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền tư sản là hệ thống quan điểm pháp lý thực định. Lý thuyết về nhà nước pháp quyền tư sản ra đời vào thế kỷ XIX-XX, nhằm thay thế lý thuyết pháp quyền tự nhiên. Iêring cho rằng, chế độ nhà nước pháp quyền chỉ có thể tồn tại ở nơi mà chính quyền nhà nước cũng lệ thuộc vào trật tự mà nó đặt ra, nơi mà nó đạt được sự vững chắc về pháp lý. R.F.Môn và K.T.Vancơ là những người đầu tiên sử dụng thuật ngữ nhà nước pháp quyền. Nhà nước pháp quyền có mục tiêu là phát huy tự do và năng lực sáng tạo của mọi công dân. Nhà nước pháp quyền phải bảo đảm các nguyên tắc cơ bản như tính tối cao của pháp luật; chủ quyền của nhân dân thông qua nghị viện; mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật. Tư tưởng nhà nước pháp quyền thực chứng được hình hành và phát triển trên cơ sở xã hội tư bản bước vào thời kỳ chấm dứt giai đoạn công trường thủ công và bước vào giai đoạn đại công nghiệp. Ở thời kỳ này, các phạm trù, khái niệm về nhà nước pháp quyền tư sản được xây dựng một cách hệ thống hơn. 1.1.3. Những đặc điểm cơ bản của nhà nước pháp quyền Nhìn chung, lý luận về nhà nước pháp quyền là hệ thống các quan điểm, tư tưởng rất phức tạp, phong phú với các cách tiếp cận khác nhau. Có ý kiến cho rằng, điều quan trọng nhất trong Nhà nước pháp quyền là nguyên tắc phân công rành mạch giữa các nhánh quyền lực lập pháp, hành pháp và tư pháp. Ý kiến khác cho rằng bản chất của Nhà nước pháp quyền nằm ở việc ghi nhận, đề cao và bảo vệ quyền con người. Cũng có ý kiến lại nhấn mạnh Nhà nước pháp quyền là Nhà nước mà trong đó, mọi chủ thể, kể cả Nhà nước đều tuân thủ nghiêm chỉnh, chịu phục tùng pháp luật - một pháp luật có tính
  • 16. 14 pháp lý cao, phù hợp với lý trí, thể hiện đầy đủ những giá trị cao nhất của xã hội, của con người. Có thể nói, những ý kiến trên đây đều là những tiêu chí quan trọng để xác định bản chất của Nhà nước pháp quyền. Tuy nhiên, nếu chỉ có một trong những tiêu chí đó, không thể có được khái niệm về Nhà nước pháp quyền hoàn chỉnh. Nhà nước pháp quyền rất cần được tổ chức một cách khoa học, hợp lý, nhưng nếu nhà nước đó không có một hệ thống pháp luật hoàn thiện, đồng bộ để quản lý xã hội hiệu quả thì không bao giờ duy trì được trật tự, kỷ cương cũng như bảo đảm được tiến bộ xã hội. Mặt khác, nếu chỉ đề cao vai trò tối thượng của các đạo luật không thôi thì Nhà nước pháp quyền sẽ không khác gì nhà nước cai trị bằng pháp luật hay nhà nước pháp trị... Như vậy, việc xác định Nhà nước pháp quyền phải dựa vào những tiêu chí nhất định. Dưới đây là một số đặc điểm cơ bản của nhà nước pháp quyền: - Nhà nước pháp quyền là nhà nước bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp và pháp luật trong đời sống xã hội. Tính tối cao của pháp luật được thể hiện trên hai phương diện: một là, bảo đảm sự thống trị của pháp luật trong các lĩnh vực của đời sống xã hội; hai là, tính bắt buộc của pháp luật đối với bản thân nhà nước, các tổ chức xã hội và mọi công dân. Pháp luật là tiêu chuẩn, là căn cứ cho mọi hoạt động của nhà nước và xã hội. - Tổ chức quyền lực nhà nước theo cơ chế phân công, kiểm soát, cân bằng quyền lực và quyền lực phải bị giới hạn bởi pháp luật. Theo đó, ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp được phân định rõ ràng, rành mạch cho ba hệ thống cơ quan tương ứng trong mối quan hệ cân bằng, đối trọng, chế ước lẫn nhau, tạo thành cơ chế đồng bộ bảo đảm sự thống nhất của quyền lực nhà nước, thực hiện quyền lực nhân dân. Hành pháp mạnh, đủ năng lực xây dựng chính sách, thể chế hóa chính sách thông qua cơ chế làm luật, năng lực tổ chức thực hiện chính sách và pháp luật. Tư pháp phải độc lập và bảo đảm
  • 17. 15 công lý cho mọi cá nhân trong xã hội. Nguyên tắc này cũng đặt ra yêu cầu mọi thiết chế quyền lực nhà nước phải được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, không ai có thể lạm dụng quyền lực, và vì lẽ đó, cần phải sắp xếp quyền lực sao cho không có sự lạm quyền. - Quyền dân chủ, tự do và lợi ích chính đáng của con người được pháp luật ghi nhận và bảo đảm bằng quyền lực nhà nước. Mục tiêu cao nhất của Nhà nước pháp quyền là bảo đảm quyền tự do, dân chủ của con người. Vì vậy, pháp luật trong Nhà nước pháp quyền là phương tiện ghi nhận quyền dân chủ, tự do và lợi ích chính đáng của con người, đồng thời cũng quy định cả những biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn và trừng trị những hành vi xâm hại đến các quyền và lợi ích đó. - Nhà nước pháp quyền là nhà nước bảo đảm trách nhiệm lẫn nhau giữa nhà nước và công dân, quyền công dân là trách nhiệm của nhà nước và ngược lại quyền của nhà nước là trách nhiệm của công dân. Nhà nước phải chịu trách nhiệm trước công dân về những hoạt động của mình, còn công dân phải thực hiện các nghĩa vụ đối với nhà nước và chịu trách nhiệm về những hành vi vi phạm pháp luật. - Cơ chế bảo hiến là một bộ phận không thể thiếu trong nhà nước pháp quyền. Cơ chế bảo hiến ngày nay đã trở thành một phần quan trọng trong tổ chức của đa số các nhà nước đương đại, do tư tưởng về nhà nước pháp quyền đã được thừa nhận rộng rãi với đặc trưng cơ bản nhất là tính tối cao của Hiến pháp và pháp luật. Trong hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia, Hiến pháp là văn bản pháp lý có hiệu lực cao nhất, là đạo luật cơ bản và quan trọng nhất. Với ý nghĩa quan trọng và giá trị pháp lý của Hiến pháp như trên, việc hình thành cơ chế bảo vệ và bảo đảm thực thi Hiến pháp là không thể thiếu, đặc biệt là trong nhà nước pháp quyền, nơi Hiến pháp và pháp luật giữ vị trí thượng tôn.
  • 18. 16 1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân 1.2.1. Nhà nước của dân, do dân và vì dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh Sau khi nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân… Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra… Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”[14, tr.698]. Chính vì vậy, việc xây dựng một nhà nước của dân, do dân và vì dân là tư tưởng chỉ đạo, xuyên suốt quá trình hình thành, xây dựng và củng cố nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong hơn 60 năm qua. Xây dựng một nhà nước do nhân dân lao động làm chủ là tư tưởng chủ đạo trong suốt cuộc đời cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ngay tại Điều thứ 1, Hiến pháp 1946 đã khẳng định: “Nước Việt Nam là nước dân chủ cộng hòa. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”. Tính chất dân chủ nhân dân là đặc trưng nổi bật của nhà nước ta. Nhân dân là người nắm giữ mọi quyền lực, còn các cơ quan nhà nước do nhân dân tổ chức được ủy quyền để thực hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Quan niệm toàn bộ quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân thể hiện rõ nhất tính dân chủ triệt để của nhà nước ta, trở thành nguyên tắc cơ bản tổ chức bộ máy quyền lực nhà nước và được thể hiện rõ trong tất cả các bản Hiến pháp của nước ta. Là người chủ đất nước, mỗi người dân có quyền thông qua cơ chế dân chủ thực thi quyền lực nhưng đồng thời cũng phải có nghĩa vụ xây dựng và bảo vệ nhà nước, làm cho nhà nước ngày càng hoàn thiện, trong sạch, vững mạnh. Hồ Chí Minh luôn đòi hỏi với tư cách là chủ nhân của một đất nước độc lập, tự do, quyền và nghĩa vụ công dân luôn gắn bó chặt chẽ với nhau.
  • 19. 17 Một trong những phương thức quan trọng và cơ bản nhất thể hiện quyền lực nhân dân đó chính là bầu cử. Hồ Chí Minh coi “tổng tuyển cử là một dịp cho toàn thể quốc dân tự do lựa chọn những người có tài, có đức, để gánh vác công việc nước nhà. Trong cuộc tổng tuyển cử, hễ là những người muốn lo việc nước thì đều có quyền ra ứng cử; hễ là công dân thì đều có quyền đi bầu cử … Do tổng tuyển cử mà toàn dân bầu ra Quốc hội. Quốc hội sẽ cử ra CHÍNH phủ. Chính phủ đó thật là Chính phủ của toàn dân”[14, tr. 133]. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, quyền lực tối cao của nhân dân không chỉ thể hiện ở việc bầu cử Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp mà còn ở quyền bãi miễn, kiểm soát, giám sát hoạt động của các đại biểu. Hồ Chí Minh đã nêu: “Nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân với đại biểu của mình”[15, tr.275]. Người dân được hưởng mọi quyền dân chủ, có quyền làm bất cứ việc gì pháp luật không cấm và có nghĩa vụ tuân theo pháp luật. Nhà nước của dân phải bằng mọi nỗ lực hình thành các thiết chế dân chủ để thực thi quyền làm chủ của người dân. Những người đại diện của dân, do dân cử ra chỉ là thừa ủy quyền của dân, chỉ là “công bộc của dân”. Hồ Chí Minh phê phán những “vị đại diện” lầm lẫn sự ủy quyền đó với quyền lực cá nhân, sinh lộng quyền, cửa quyền: “Cậy thế mình ở trong ban này, ban nọ rồi ngang tàng, phóng túng, muốn sao được vậy, coi khinh dư luận, không nghĩ đến dân. Quên rằng dân bầu mình ra để làm việc cho dân, chứ không phải để cậy thế với dân” [14, tr.57]. Từ quan niệm chung về vị thế của người cầm quyền, Hồ Chí Minh ý thức rất rõ vị trí của Người trong hệ thống quyền lực nhà nước Việt Nam. Người nhiều lần nhắc nhở: ở nước ta từ Hồ Chủ tịch trở xuống là đầy tớ của
  • 20. 18 dân; dân đặt ở đâu thì làm ở đó; Người làm Chủ tịch nước cũng là nhận sự trao quyền, ủy thác của dân. Hồ Chí Minh khẳng định: chỉ có nhà nước của dân, do dân tổ chức, xây dựng và kiểm soát mới có thể là nhà nước vì dân. Nhà nước vì dân là nhà nước phục vụ lợi ích, nguyện vọng của nhân dân, không có đặc quyền, đặc lợi, thật sự trong sạch, cần kiệm liêm chính. Hồ Chí Minh yêu cầu: “Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại cho dân, ta phải hết sức tránh…”[13, tr.56-57]. Cán bộ nhà nước phải là đầy tớ của dân, đồng thời là người lãnh đạo hướng dẫn nhân dân. Đầy tớ thì phải trung thành, tận tụy, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, lo trước thiên hạ. Người lãnh đạo phải trí tuệ hơn người, minh mẫn sáng suốt, nhìn xa trông rộng, gần gũi nhân dân, trọng dụng hiền tài. Như vậy, “người thay mặt dân phải đủ cả đức và tài, vừa hiền lại vừa minh”. Một trong những điểm cơ bản của tư tưởng nhà nước của dân là nhân dân có quyền kiểm soát nhà nước. Hồ Chí Minh viết: “Chính phủ ta là chính phủ của nhân dân, chỉ có một mục đích là phụng sự cho lợi ích của nhân dân. Chính phủ rất mong đồng bào giúp đỡ, đôn đốc, kiểm soát và phê bình để làm tròn nhiệm vụ của mình, là người đầy tớ trung thành tận tụy của nhân dân”[13, tr.221]. Hồ Chí Minh cũng khẳng định chỉ có nhà nước thực sự của dân, do dân tổ chức, xây dựng và kiểm soát mới có thể là nhà nước vì dân. Nhà nước vì dân là nhà nước phục vụ lợi ích và nguyện vọng của nhân dân, không có đặc quyền, đặc lợi, thật sự trong sạch, cần kiệm liêm chính. Nhà nước phục vụ nhân dân, nghĩa là nhà nước đó được tổ chức và hoạt động theo một mục tiêu duy nhất là không ngừng cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân. Đó
  • 21. 19 cũng là cơ sở để đánh giá hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước và năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước. Bên cạnh đó, nhà nước vì dân là nhà nước biết chăm lo mọi mặt đời sống của nhân dân, trước hết là thoả mãn các nhu cầu thiết yếu nhất. Hồ Chí Minh đã nói: “Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ. Chúng ta phải thực hiện ngay: làm cho dân có ăn, làm cho dân có mặc, làm cho dân có chỗ ở, làm cho dân có học hành. Cái mục đích chúng ta đi đến là bốn điều đó. Đi đến để dân nước ta xứng đáng với tự do, độc lập và giúp sức được cho tự do, độc lập”[13, tr.152]. Nhà nước chăm lo cho dân không có nghĩa là làm thay dân mà hướng dẫn, tạo điều kiện cho dân tự chăm lo đời sống của mình. Theo Hồ Chí Minh, việc đáp ứng và thoả mãn nhu cầu, lợi ích của nhân dân là tiêu chí hàng đầu để đánh giá hiệu quả, năng lực hoạt động của nhà nước. Ngoài ra, nhà nước cũng phải biết kết hợp, điều chỉnh các loại lợi ích khác nhau giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội, các bộ phận dân cư để luôn được nhân dân ủng hộ. Để làm tốt vai trò hướng dẫn của mình, nhà nước cũng cần phải biết kết hợp giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài, lợi ích của trung ương và lợi ích của địa phương, lợi ích của các ban ngành, các chủ thể trong xã hội để tất cả nhân dân đều nhận thấy nhà nước là người đại diện cho lợi ích của họ, hoạt động vì lợi ích chung của cả cộng đồng. Hồ chủ tịch thường nhấn mạnh để phục vụ tốt nhân dân, vì dân, nhà nước phải thực sự liêm khiết, trong sạch, tránh quan liêu, tham nhũng, phải loại hết “các ông quan cách mạng” ra khỏi bộ máy nhà nước. Nếu hoạt động của nhà nước kém hiệu quả, bộ máy quan liêu, đội ngũ cán bộ, công chức, nhất là những cán bộ chủ chốt bị thoái hoá, biến chất thì tất yếu nhà nước sẽ đi ngược lại lợi ích của nhân dân, không hoàn thành vai trò phục vụ nhân dân. Vì thế, chống đặc quyền, đặc lợi, khắc
  • 22. 20 phục những tiêu cực trong bộ máy nhà nước là nhu cầu và việc làm thường xuyên, bảo đảm cho nhà nước thực sự là công bộc của nhân dân. 1.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Khi xem xét tư tưởng Hồ Chí Minh với vấn đề sử dụng pháp luật trong xây dựng nhà nước pháp quyền cần khẳng định: Tư tưởng của Người về pháp luật có từ rất sớm, Người không chỉ nhìn thấy ở pháp luật vai trò của một công cụ giúp nhà nước bảo đảm thực hiện hoạt động quản lý, mà còn tìm thấy ở pháp luật ý nghĩa của một đại lượng công bằng, bảo đảm cho việc thực hiện các giá trị dân chủ, tiến bộ; cho sự bình đẳng và phát triển của các dân tộc trên thế giới. Sự phát triển trong tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật mang tính hệ thống và nhất quán; gắn liền với quá trình đấu tranh cách mạng cho sự ra đời của một nhà nước mà quyền lực hoàn toàn thuộc về nhân dân, do nhân dân làm chủ; một nhà nước mà ở đó vai trò của pháp luật được đề cao, khẳng định và phát huy. Chính vì vậy, ngay từ những năm đầu tiên của chính quyền nhân dân, chủ tịch Hồ Chí Minh đã yêu cầu Chính phủ lâm thời Việt Nam phải xây dựng một bản Hiến pháp ghi nhận các quyền tự do dân chủ, bảo vệ các quyền con người và lấy mục đích phục vụ con người như một nguyên tắc bất di bất dịch và không thể xâm hại. Chủ tịch Hồ Chí Minh xem pháp luật “như một hiện tượng chính trị của nhà nước… pháp luật đúng đắn sẽ tạo nên bầu không khí chính trị ổn định của nhà nước, làm bộ máy nhà nước vận hành đúng quỹ đạo”[9, tr.153]. Chủ tịch Hồ Chí Minh còn cho rằng Nhà nước và pháp luật luôn thống nhất với nhau về bản chất. Sự thống nhất này nằm ở tính dân chủ trong việc tổ chức nhà nước cũng như khi xây dựng pháp luật. Điều đáng lưu ý trong tư tưởng Hồ Chí Minh là ở chỗ Người đề cao vai trò của các đạo luật trong xây dựng pháp luật và coi đây như là một bảo đảm về tính dân chủ của hệ thống pháp luật.
  • 23. 21 Với Người, pháp luật không chỉ là công cụ, phương tiện của quản lý nhà nước mà còn là phương tiện để bảo đảm nền dân chủ. Đồng thời với việc xây dựng chính quyền Việt Nam sau cách mạng và sự ra đời của nhà nước Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bắt tay vào tổ chức, xây dựng hệ thống pháp luật đầu tiên của nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Như vậy, với việc xây dựng hệ thống pháp luật này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt nền móng đầu tiên cho quá trình xây dựng hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Khi xem xét vai trò của pháp luật với Nhà nước, cùng với việc khẳng định vai trò của pháp luật trong quản lý và duy trì bản chất nhà nước mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn đặt ra yêu cầu xây dựng pháp luật sao cho pháp luật thực sự trở thành phương tiện bảo đảm công bằng, là hành lang pháp lý cho việc thực hiện các thiết chế dân chủ. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định pháp luật của nhà nước ta được xây dựng để phục vụ nhân dân và phải phục vụ nhân dân. Như vậy, pháp luật đã trở thành công cụ duy trì vào bảo vệ bản chất của nhà nước. Tư tưởng đề cao pháp luật trong quản lý nhà nước ở Chủ tịch Hồ Chí Minh gắn liền với việc đề cao Hiến pháp và giá trị của các đạo luật trong nhà nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặc biệt quan tâm đến những bảo đảm cần thiết cho việc tuân thủ nghiêm chỉnh Hiến pháp cả từ phía các cơ quan nhà nước và từ phía công dân. Có như thế thì mới bảo đảm trật tự, kỷ cương nhà nước và công dân mới được hưởng các quyền tự do dân chủ đã được ghi nhận trong Hiến pháp. Hiến pháp năm 1946 một mặt, đã xác định rõ chế độ nhà nước và ghi nhận các quyền cơ bản của công dân, mặt khác, đã khẳng định nguyên tắc tôn trọng Hiến pháp, hay nói cách khác là xác lập cơ chế bảo đảm hiệu lực tối cao của Hiến pháp. Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà nước dân chủ tất yếu sẽ dẫn đến pháp luật dân chủ. Theo Người, nhà nước sẽ chẳng là gì nếu không phục vụ nhân
  • 24. 22 dân, pháp luật sẽ trở nên vô tác dụng nếu không phù hợp và phản ánh ý chí của cộng đồng. Do đó, trong việc bảo vệ các giá trị dân chủ thì cả nhà nước và pháp luật đều trở thành công cụ, phương tiện bảo đảm cho nhân dân thực hiện quyền lực của mình. Nhận thức được vai trò của pháp luật trong việc ghi nhận và bảo vệ các giá trị dân chủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu: “phải nhận thức cho tốt và chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật. Sự bình đẳng trong xã hội ở nơi pháp luật. Dân chủ đúng đắn cũng ở nơi pháp luật”[14, tr.299]. Người cho rằng pháp luật phải chứa đựng những giá trị xã hội mà con người hướng tới. Cùng với việc giải quyết mối quan hệ hai mặt giữa pháp luật và dân chủ, Hồ chủ tịch cũng đặt ra yêu cầu xây dựng hệ thống pháp luật dân chủ. Hệ thống pháp luật ấy không chỉ dừng lại ở việc ghi nhận các giá trị dân chủ mà thông qua các quy phạm nội dung tạo lập được hệ thống các quy phạm thủ tục bảo đảm cho việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân chủ ấy. Cùng với việc đề cao vai trò của dân chủ trong xây dựng nhà nước sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt nền móng vững chắc đầu tiên cho việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam. 1.3. Sự hình thành và phát triển tư duy lý luận của Đảng cộng sản Việt Nam về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1.3.1. Giai đoạn trước Đại hội Đảng VII Trước năm 1986, việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước và pháp luật được thực hiện trên cơ sở quan điểm phát triển nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp. Đại hội Đảng VI khởi xướng đường lối đổi mới, trong đó đổi mới kinh tế đi trước một bước. Nền tảng tư tưởng để xây dựng nhà nước và pháp luật trong giai đoạn này là chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật nhưng bắt đầu được nhận thức theo tư duy mới. Tổng kết quan điểm của Đảng về lý luận xây dựng nhà nước và pháp
  • 25. 23 luật trong giai đoạn trước Đại hội Đảng VII cho thấy những nhận thức cơ bản sau: Đảng ta nhất quán khẳng định bản chất của nhà nước ta là nhà nước chuyên chính vô sản. Quan điểm này được khẳng định rõ trong Hiến pháp 1980: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước chuyên chính vô sản” của nhân dân lao động. Báo cáo chính trị Đại hội Đảng VI tiếp tục khẳng định bản chất của nhà nước ta “là công cụ của chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa”, đồng thời chỉ rõ trong thời kỳ quá độ, “đó là nhà nước chuyên chính vô sản thực hiện chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa”. Như vậy, những đặc thù mang tính lịch sử trong quá trình xây dựng nhà nước chuyên chính vô sản ở giai đoạn này là nền tảng cơ sở vững chắc cho quá trình nghiên cứu, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân sau này. Đảng ta chủ trương xây dựng nhà nước bảo đảm ngày càng đầy đủ quyền dân chủ của công dân. Nhà nước bảo đảm không ngừng hoàn chỉnh và củng cố chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa của nhân dân lao động về các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Đại hội VI chỉ rõ phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” phải trở thành nề nếp hàng ngày của xã hội mới, thể hiện chế độ nhân dân lao động tự quản lý nhà nước của mình. Khẳng định quyền làm chủ của nhân dân, Đại hội Đảng VI chỉ rõ: “Công tác quản lý không phải là việc riêng của người quản lý chuyên nghiệp mà là sự nghiệp của nhân dân. Trong công tác quản lý, dù là quản lý hành chính hay quản lý sản xuất, kinh doanh, quản lý trật tự đều cần có sự tham gia của quần chúng. Việc phát huy vai trò của nhân dân lao động tham gia quản lý kinh tế, quản lý xã hội cần được các cơ quan lãnh đạo và quản lý đặt ra và thực hiện đúng ngay từ khi chuẩn bị và quyết định chủ trương, chính sách”. Muốn được như vậy thì “quyền làm chủ của nhân dân cần được thể chế hóa bằng pháp luật và tổ chức”.
  • 26. 24 Đảng luôn chủ trương tổ chức một nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật và theo pháp luật. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, chức năng của nhà nước là thể chế hóa bằng pháp luật quyền hạn, lợi ích, nghĩa vụ của nhân dân lao động và quản lý kinh tế, xã hội theo pháp luật. Việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội bằng pháp luật được thể hiện ở một số điểm cơ bản sau: - Từng bước bổ sung và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật để bảo đảm cho bộ máy nhà nước được tổ chức và hoạt động theo pháp luật; - Pháp luật được thực hiện thống nhất trong cả nước; - Pháp luật phải được chấp hành nghiêm chỉnh, mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Mọi vi phạm pháp luật đều được xử lý; - Tăng cường bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa phương và cơ sở thành một hệ thống nhất, có sự phân định rành mạnh nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm từng cấp theo nguyên tắc tập trung dân chủ; - Coi trọng công tác giáo dục, tuyên truyền, giải thích pháp luật. Cần sử dụng nhiều hình thức và biện pháp để giáo dục, nâng cao ý thức pháp luật và làm tư vấn pháp luật cho nhân dân[2]. Đảng ta xác định nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa… là những nguyên tắc xuyên suốt trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã chỉ rõ: với cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, bộ máy nhà nước ta còn cồng kềnh, nhiều tầng, nhiều nấc, kém hiệu lực; chức năng tổ chức trùng lắp, chồng chéo… Từ những khuyết điểm này, Đại hội chủ trương thực hiện một cuộc cải cách lớn về tổ chức bộ máy nhà nước theo hướng: “Xây dựng và thực hiện một cơ chế quản lý nhà nước thể hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động ở tất cả các cấp”, với bộ máy nhà nước thống nhất từ trung ương đến địa phương và cơ sở, trong đó phân định rõ nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm từng cấp theo
  • 27. 25 nguyên tắc tập trung dân chủ, phân định rõ chức năng quản lý hành chính – kinh tế với quản lý sản xuất – kinh doanh, kết hợp quản lý theo ngành với quản lý theo địa phương và vùng lãnh thổ. Do những hạn chế về điều kiện lịch sử cụ thể nên các quan điểm về xây dựng nhà nước pháp quyền trong giai đoạn này chưa ý thức được đầy đủ cả trong nhận thức, tư duy lý luận của Đảng và cả trong quá trình hoạch định chính sách. Có thể nhận thấy những hạn chế đó như sau: - Vấn đề xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính trị, hoàn thiện bộ máy nhà nước và pháp luật trong giai đoạn này chủ yếu vẫn trong khuôn khổ của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa thời bao cấp, các quan điểm về xây dựng nhà nước và pháp luật trong giai đoạn này chịu nhiều ảnh hưởng của mô hình Liên Xô cũ, chưa có điều chỉnh phù hợp với sự chuyển biến của tình hình mới; - Hầu như chúng ta chưa có định hướng cải cách rõ ràng, đáng kể về bộ máy nhà nước cho kịp với sự vận động khách quan của công cuộc đổi mới kinh tế – xã hội; - Những chủ trương, định hướng phát triển hệ thống pháp luật còn manh mún, thiếu tầm nhìn bao quát. Vị trí của pháp luật trong đời sống xã hội chưa thực sự được tôn trọng đúng mức. 1.3.2. Từ Đại hội Đảng VII đến Đại hội Đảng X Đây là giai đoạn chúng ta đạt được nhiều thành tựu trong lĩnh vực kinh tế. Các tiền đề kinh tế, chính trị, tư tưởng, xã hội và quốc tế đẩy sự hình thành ngày càng đầy đủ và toàn diện hơn những tư tưởng, quan điểm về xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân.
  • 28. 26 Trong tư duy lý luận của Đảng ta đã thể hiện rõ tính chủ động, tích cực trong việc nghiên cứu, tìm tòi, xây dựng mô hình nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa phù hợp với điều kiện hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam. Trong giai đoạn này, trên cơ sở nghiên cứu học thuyết này trên thế giới, Đảng ta đã tiếp cận dần đến nhận thức: - Xây dựng nhà nước pháp quyền là mục tiêu cần hướng tới của bất kỳ xã hội nào, vì nó đáp ứng được khát vọng tự do, dân chủ, công bằng xã hội, phúc lợi cho nhân dân, là phương thức hữu hiệu bảo đảm sự tôn trọng nhân phẩm và các quyền cơ bản của con người. - Tư tưởng và quan điểm về nhà nước pháp quyền tuy rất đa dạng, song đều thống nhất ở các đặc trưng cơ bản, đó là: tổ chức bộ máy nhà nước, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà nước được xác định chặt chẽ về mặt pháp lý, bị ràng buộc bởi pháp luật do chính nhà nước đặt ra, nhằm loại trừ nguy cơ tùy tiện, lạm quyền trong tổ chức và thực thi quyền lực; pháp luật được nhà nước ban hành và xã hội thừa nhận, có địa vị tối cao, có giá trị pháp lý phổ biến, có hiệu lực bắt buộc thi hành, là phương thức chủ yếu để tổ chức và quản lý xã hội. Nói cách khác, đó là tư tưởng: công dân có quyền làm tất cả những gì pháp luật không cấm, còn các cơ quan nhà nước chỉ được làm những gì mà pháp luật quy định khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình. - Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chủ nghĩa ở Việt Nam hoàn toàn không phải là xây dựng một kiểu nhà nước mới, thoát ly những nguyên tắc phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước xã hội chủ nghĩa. Biện chứng lịch sử của quá trình xây dựng và phát triển nhà nước ta cho thấy: một mặt nhà nước chỉ có thể trở thành nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa khi có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; mặt khác sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước chỉ phát huy được tác
  • 29. 27 dụng trong điều kiện Đảng đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo phù hợp với tổ chức quyền lực trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Tổng kết lý luận của Đảng về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân. do nhân dân, vì nhân dân ở nước ta trong giai đoạn này có thể rút ra những đặc điểm quan trọng sau đây: Thứ nhất, Đảng ta nhất quán chỉ rõ bản chất của nhà nước ta là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân. Trong suốt chiều dài của cách mạng Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, chính nhân dân là người đã đập tan ách thống trị của chế độ thực dân phong kiến, thiết lập nên một chính quyền mới và lẽ tự nhiên chính quyền ấy phải là của nhân dân, do nhân dân xây dựng nên và tất nhiên chính quyền ấy phải phục vụ và bảo vệ lợi ích của nhân dân. Trong hơn 60 năm qua, tư tưởng ấy như một chân lý không bao giờ thay đổi. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh thì “trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân” và “bao nhiêu lợi ích đều vì nhân dân”, “mọi công việc đều vì lợi ích của nhân dân mà làm”[13, tập 8, tr.276, tập 5, tr.698; tập 6, tr.66.]. Đây cũng là một trong những tư tưởng cơ bản của cách mạng Việt Nam được khẳng định trong các văn kiện của Đảng. Tư tưởng này đã được thể chế hóa tại Điều 2 Hiến pháp 1992 và luôn được khẳng định nhất quán trong các Văn kiện của Đảng ta như Nghị quyết trung ương 8 khóa VII, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, Nghị quyết trung ương 3 khóa VIII, Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX…). Bên cạnh đó, Nghị quyết trung ương 8 khóa VII còn chỉ rõ: quán triệt bản chất giai cấp công nhân trong xây dựng nhà nước, bản chất giai cấp công nhân gắn bó chặt chẽ với tính dân tộc, tính nhân dân của nhà nước ta. Mọi quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân. Nhà nước do nhân dân lập nên,
  • 30. 28 dân bầu ra, dân giám sát và bãi miễn. Nhà nước phải thể hiện đúng ý chí, nguyện vọng của dân, bảo đảm trên thực tế mọi quyền lực thuộc về nhân dân. Thứ hai, Đảng ta xác định rõ tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta phải tuân thủ nguyên tắc quyền lực nhà nước thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Trước yêu cầu và nhu cầu cần thiết phải xây dựng và hoàn thiện tổ chức bộ máy nhà nước trong thời kỳ mới, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (tháng 6-1991) đã chỉ ra: “Nhà nước Việt Nam thống nhất ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp với sự phân công rành mạch ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, với sự phân công rành mạch ba quyền đó”[18, tr.128]. Sau nhiều tìm tòi và phát triển nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, Nghị quyết trung 8 khoá VII đã xác định “quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền: lập pháp, hành pháp, tư pháp”, nguyên tắc này đã trở thành nguyên tắc cơ bản trong nhận thức và hoạt động thực thực tiễn của Đảng và nhà nước, được tiếp tục khẳng định trong các Văn hiện của Đảng (Văn kiện Đại hội Đảng VIII, Nghị quyết trung ương 3 và 7 khóa VIII, Văn kiện đại hội Đảng IX …). Nguyên tắc quyền lực nhà nước thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, một mặt khẳng định quyền lực nhà nước là thống nhất nhưng mặt khác có sự kế thừa những nhân tố tiến bộ trong tổ chức và phân công quyền lực nhà nước, đây là một bước tiến lớn trong tư duy lý luận của Đảng ta. Nguyên tắc này được thể chế hóa trong lần sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp 1992 và các luật tổ chức bộ máy nhà nước (Luật tổ chức Quốc hội, Luật tổ chức Chính
  • 31. 29 phủ, Luật tổ chức Tòa án nhân dân, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân). Sự phân công, phối hợp được thể hiện ngày càng rõ nét trong các luật tổ chức bộ máy nhà nước trong thời gian gần đây, đặc biệt là đối với các cơ quan nhà nước ở trung ương (Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao). Thứ ba, Đảng ta đã khẳng định vai trò, vị trí của pháp luật trong quản lý nhà nước và xã hội, bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp và các đạo luật trong điều chỉnh các quan hệ xã hội. Tư duy lý luận của Đảng ta về vị trí, vai trò của pháp luật trong quản lý nhà nước và xã hội có sự phát triển ngày càng hoàn thiện theo hướng bảo đảm cho Hiến pháp và các đạo luật giữ vị trí tối thượng trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII khẳng định điều quan trọng để phát huy dân chủ là xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, nâng cao dân trí và ý thức chấp hành pháp luật của nhân dân. Nhiệm vụ trọng tâm về xây dựng pháp luật phục vụ công cuộc đổi mới là “tiếp tục đổi mới, bổ sung và đồng bộ hóa hệ thống pháp luật kinh tế, đặc biệt chú trọng đổi mới và bổ sung các luật thuế”, đồng thời “tăng cường giáo dục pháp luật, nâng cao hiểu biết và ý thức tôn trọng pháp luật, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, bảo đảm cho pháp luật được thi hành một cách nghiêm minh, thống nhất và công bằng”. Như vậy, nội dung pháp luật của nhà nước ta chính là sự thể chế hóa đường lối của Đảng; nói cách khác trong nội dung pháp luật đã hàm chứa đầy đủ đường lối của Đảng, chấp hành pháp luật chính là thực hiện đường lối của Đảng. Đồng thời, pháp luật là những quy tắc xử sự chung nên mọi cá nhân, tổ chức phải tuân thủ. Nghĩa vụ tuân theo pháp luật không loại trừ bất cứ một ai. Chính vì vậy, Điều 4 Hiến pháp 1992 quy định “mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”.
  • 32. 30 Thứ tư, bảo đảm quyền con người, quyền công dân, nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa nhà nước và công dân; mở rộng dân chủ đồng thời với tăng cường kỷ cương, kỷ luật. Quan điểm của Đảng ta là phát huy quyền làm chủ của nhân dân là vấn đề thuộc bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là biện pháp và chủ trương của Đảng để lãnh đạo cách mạng nhằm huy động mọi tiềm năng, trí tuệ của nhân dân tham gia xây dựng, quản lý xã hội và quản lý nhà nước, xây dựng và phát triển đất nước, phát huy dân chủ nhằm không ngừng duy trì bản chất nhân dân của nhà nước ta và nâng cao khả năng, hiệu lực quản lý của nhà nước, ngăn chặn và đẩy lùi tiêu cực, quan liêu tham nhũng, tăng cường hơn nữa khối đại đoàn kết dân tộc. Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, chủ trương dân chủ hóa mọi mặt đời sống xã hội đã được thể chế hóa một bước quan trọng. Dân chủ về kinh tế ngày càng được mở rộng đã tác động tích cực đến việc giải phóng sức sản xuất, là động lực thúc đẩy kinh tế phát triển, nâng cao đời sống nhân dân. Dân chủ về chính trị có bước tiến quan trọng, thể hiện ở việc bầu cử đại biểu ở các cơ quan dân cử, ở chất lượng làm việc của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, ở hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội với các thành viên Chính phủ,… Hoạt động của các cơ quan nhà nước đổi mới theo hướng dân chủ hơn, phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đã được pháp luật hóa và từng bước được khẳng định trong thực tế, tạo điều kiện để nhân dân tham gia và thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước. Vai trò của báo chí và các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp ngày càng được tăng cường. Thứ năm, từng bước xác định đầy đủ trách nhiệm của nhà nước trong việc thực hiện các cam kết quốc tế trong quá trình hội nhập quốc tế và khu vực.
  • 33. 31 Tiếp tục thực hiện chính sách đổi mới của Đảng trong quan hệ đối ngoại do Đại hội Đảng VI đề ra, trong giai đoạn này Đảng và nhà nước ta luôn luôn quán triệt tinh thần “hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các nước không phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác nhau trên cơ sở những nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình” [19, tr.126]; “với chính sách đối ngoại rộng mở, chúng ta tuyên bố rằng: Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển” [3, tr.147]. Nhất quán với chính sách đối ngoại nêu trên, trong giai đoạn này Đảng ta đã đề ra những chủ trương chỉ đạo việc ký kết, gia nhập và thực thi các điều ước quốc tế trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, các văn kiện của Đảng cũng luôn ghi nhận việc ký kết, gia nhập và thực thi các điều ước quốc tế như một phần không thể thiếu của quá trình hội nhập, quá trình phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001-2010 định hướng: “tiếp tục mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa; chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp với điều kiện của nước ta và bảo đảm thực hiện những cam kết trong quan hệ song phương và đa phương như AFTA, APEC, Hiệp định thương mại Việt- Mỹ, tiến tới gia nhập WTO…”[5, tr. 120-121]. Thứ sáu, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đối với nhà nước trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Đảng lãnh đạo nhân dân ta xây dựng một nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân. Bằng thực tế cách mạng, nhân dân ta đã thừa nhận sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước, xã hội là tất yếu. “Và trong thực tế, cho đến nay, chưa có một tổ chức chính trị nào khác ngoài Đảng cộng sản Việt Nam có đủ khả năng, uy tín và bản lĩnh lãnh đạo đất nước” [30]. Chính vì vậy, Văn kiện
  • 34. 32 Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII chỉ rõ “ở nước ta không có sự lãnh đạo của Đảng cộng sản thì không có độc lập dân tộc, không có quyền làm chủ thực sự của nhân dân, không có nhà nước của dân, do dân và vì dân, không thể thực hiện được công bằng xã hội. Lúc bình thường, vai trò lãnh đạo của Đảng đã rất quan trọng, ở những bước chuyển giai đoạn, vai trò đó lại càng quan trọng” [4, tr.91]. Đại hội X của Đảng cũng đã chỉ rõ: “Xây dựng cơ chế vận hành của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng tính cụ thể, khả thi của các quy định trong văn bản pháp luật. Xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của các cơ quan công quyền” [6, tr. 126]. Sự ghi nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và toàn xã hội trong Hiến pháp đã chính thức khẳng định địa vị pháp lý của Đảng trong hệ thống chính trị. Địa vị lãnh đạo của Đảng được khẳng định trong quá trình hoạt động chính trị của Đảng và vai trò ấy càng được tăng lên theo quy mô và chiều sâu của công cuộc đổi mới xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. 1.4. Những đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam Trên cơ sở những tiêu chí chung về nhà nước pháp quyền đã được trình bày ở phần trên, có thể nhận thấy một số nét đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam như sau:
  • 35. 33 1.4.1. Bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp và pháp luật trong đời sống xã hội Sự đề cao và khẳng định vai trò của pháp luật là sợ chỉ đỏ xuyên suốt học thuyết nhà nước pháp quyền. Nhà nước pháp quyền trước hết phải là một nhà nước được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, các đạo luật có vai trò tối thượng trong việc điều chỉnh các mối quan hệ xã hội. Mọi cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, người có chức vụ và công dân đều có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp luật, bình đẳng trước pháp luật. Không một ai đứng trên hoặc đứng ngoài pháp luật, đi ngược lại ý chí và lợi ích của nhân dân. Khác với nhà nước cực quyền hay nhà nước pháp trị, việc quản lý xã hội bằng pháp luật của nhà nước pháp quyền là dựa trên cơ sở một hệ thống pháp luật đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, có giá trị pháp lý cao, phản ánh nguyện vọng và ý chí của nhân dân, là chuẩn mực của dân chủ, tự do, công bằng và nhân đạo. 1.4.2. Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước Trong suốt quá trình đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng đất nước, đã có thời kỳ nước ta tồn tại nhiều đảng phái chính trị. Qua thử thách của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và trong công cuộc xây dựng, bảo vệ tổ quốc, chúng ta đã thừa nhận vị trí, vai trò lãnh đạo duy nhất của Đảng cộng sản Việt Nam đối với nhà nước và toàn xã hội. Chính vì vậy, trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền, đòi hỏi phải bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và toàn xã hội; phát huy vai trò và hiệu lực quản lý xã hội của Nhà nước nhằm làm cho các chủ trương, đường lối của Đảng đi vào cuộc sống, trở thành hiện thực xã hội. Đây là nét đặc trưng khác biệt giữa nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với nhà nước pháp quyền tư sản; đồng thời cũng là kinh nghiệm vô cùng quý giá mà nhân dân ta đã đúc kết trong
  • 36. 34 quá trình lịch sử của cách mạng Việt Nam. Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước được thể hiện ở các phương diện sau: - Đảng đề ra đường lối, chủ trương và các chính sách lớn định hướng cho sự phát triển của đất nước trong từng thời kỳ; - Đảng lãnh đạo Nhà nước định ra và thực thi Hiến pháp, pháp luật; xây dựng bộ máy nhà nước tinh, gọn, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất, trí tuệ và năng lực, trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của Tổ quốc, tận tuỵ phục vụ nhân dân; - Đảng kiểm tra việc quán triệt và tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng và pháp luật của Nhà nước; củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức Đảng và đảng viên trong các cơ quan nhà nước. Nhằm hoàn thiện việc xây dựng nhà nước pháp quyền cần đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, giữ vững, tăng cường vai trò của Đảng, đồng thời, phát huy được tính chủ động, sáng tạo của Nhà nước và các đoàn thể chính trị - xã hội, nêu cao quyền làm chủ của nhân dân trong quá trình tổ chức thực hiện đường lối phát triển do Đảng đưa ra. Bên cạnh đó, việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng phải được tiến hành đồng bộ với đổi mới toàn bộ hệ thống chính trị, với việc đổi mới, sắp xếp lại và nâng cao phẩm chất, năng lực đội ngũ cán bộ, đảng viên, nâng cao chất lượng của các tổ chức đảng. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng phải tiến hành một cách dân chủ, bằng những phương pháp dân chủ, phải thấm nhuần sâu sắc tư duy biện chứng về mối quan hệ giữa mục tiêu với phương thức, phải được tiến hành khẩn trương, kiên quyết nhưng vững chắc. 1.4.3. Bảo đảm và bảo vệ quyền công dân, quyền con người
  • 37. 35 Xét cho đến cùng thì mục tiêu cao cả nhất của nhà nước pháp quyền là bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Người dân trong nhà nước pháp quyền không phải là thần dân của các nhà cầm quyền, là người chủ thực sự của đất nước. Các quyền cơ bản thiêng liêng nhất của con người, của công dân như quyền sống, quyền tự do, quyền bình đẳng, quyền sở hữu… được nhà nước bảo vệ bằng pháp luật. Có thể nói, quyền công dân là sự thể hiện cụ thể quyền con người. “Quyền công dân là quyền con người trong một xã hội cụ thể, trong một chế độ xã hội – chính trị nhất định với một nền pháp luật cụ thể do nhà nước đó thừa nhận, quy định” [21, tr. 27]. Lịch sử đấu tranh cho quyền con người bắt đầu từ lịch sử hình thành giai cấp, nhà nước và pháp luật. Chính vì vậy, cùng với sự phát triển của xã hội, việc bảo đảm quyền con người, cụ thể hơn nữa là quyền công dân ngày càng được coi trọng. Nó trở thành một đặc trưng của một xã hội hoàn thiện, nơi quyền con người, quyền công dân được bảo đảm đầy đủ. Xuất phát từ mục tiêu trên, nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân đã được đề cập ngay từ bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta. Đây không chỉ là một nguyên tắc cơ bản được ghi nhận trong các bản Hiến pháp nước ta từ Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980 và Hiến pháp năm 1992 mà còn được thể hiện cụ thể trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta từ trung ương tới địa phương. Điều này thể hiện trên các phương diện sau đây: - Nhân dân với tư cách là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước thực hiện quyền lực dưới nhiều hình thức khác nhau, trong đó, hình thức cơ bản nhất là nhân dân thông qua bầu cử lập ra các cơ quan đại diện quyền lực của mình. Điều 6 Hiến pháp 1992 quy định rõ: “Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu
  • 38. 36 trách nhiệm trước nhân dân.”; - Nhân dân còn thực hiện quyền làm chủ của mình thông qua việc giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước, có quyền bãi miễn những đại biểu không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân; - Nhà nước phải luôn luôn hoạt động vì lợi ích của nhân dân, lấy phục vụ nhân dân làm mục tiêu cao nhất của mình. Tất cả các cơ quan nhà nước đều phải tôn trọng nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân; - Pháp luật không chỉ quy định địa vị pháp lý của công dân mà còn buộc các cơ quan nhà nước phải tôn trọng và bảo đảm thực tế cho các quyền ấy, tránh mọi nguy cơ xâm hại từ phía các cơ quan công quyền và viên chức nhà nước. Đây chính là những nguyên tắc được quy định trong Hiến pháp, bảo đảm cho mọi người dân thực hiện được quyền làm chủ của mình. 1.4.4. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Đây là một trong những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Khác với nguyên tắc “tam quyền phân lập”, trong nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, quyền lực nhà nước là thống nhất, không phân chia và thuộc về nhân dân. Xuất phát từ nguyên tắc cơ bản là "tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân", ở nước ta, quyền lực nhà nước là thống nhất, đồng thời có sự phân công và phối hợp chặt chẽ trong việc thực hiện các cơ cấu của quyền lực nhà nước, trong đó:
  • 39. 37 - Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan có quyền lập hiến và lập pháp, quyết định những vấn đề trọng đại của đất nước và giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước; - Chủ tịch nước là nguyên thủ quốc gia, là người thống lĩnh các lực lượng vũ trang, giữ chức Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và an ninh, có những thẩm quyền nhất định liên quan trực tiếp đến các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; - Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, thống nhất điều hành việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của nhà nước; - Toà án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Như vậy, trong việc thực hiện quyền lực nhà nước, có sự phân công giữa Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao để mỗi cơ quan thực thi có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình với sự phối hợp chặt chẽ, tạo nên sức mạnh tổng hợp của quyền lực nhà nước. Các cơ quan này dù được phân công thực hiện các quyền khác nhau nhưng trong quá trình thực hiện quyền hạn của mình đều phải có sự phối hợp với các cơ quan khác. Về thực chất thì quyền lực nhà nước là thống nhất, không thể tách biệt độc lập các lĩnh vực hoạt động của quyền lực nhà nước. Có thể nhận thấy sự phối hợp này trong từng hoạt động của các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp. Trong các công đoạn của quy trình lập pháp, không chỉ tồn tại vai trò của Quốc hội mà còn có sự tham gia của Chính phủ và các cơ quan tư pháp. Chính phủ và các cơ quan tư pháp tham gia vào quá trình đề xuất sáng kiến
  • 40. 38 pháp luật, chuẩn bị các dự án luật theo sự phân công. Chính phủ thực hiện quyền hành pháp trên cơ sở phối hợp với các cơ quan nhà nước khác như Quốc hội, các cơ quan tư pháp... Quốc hội thực hiện quyền quyết định nhân sự của Chính phủ như bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Thủ tướng Chính phủ, quyết định thành lập, bãi bỏ các bộ, cơ quan ngang bộ, thực hiện quyền giám sát tối cao đối với mọi hoạt động của Chính phủ. Với chức năng bảo vệ pháp luật, các cơ quan tư pháp góp phần bảo đảm quyền hành pháp được thực thi đúng đắn, bảo đảm trật tự quản lý nhà nước. Trong lĩnh vực tư pháp, Quốc hội quy định về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chánh án tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao... Có thể nói, các thiết chế quyền lực của Nhà nước ta có sự phân công, phối hợp nhưng vẫn bảo đảm sự thống nhất quyền lực ở một nguyên tắc là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. 1.4.5. Bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước Kết hợp đúng đắn tập trung và dân chủ là yếu tố quyết định sức mạnh tổ chức và hiệu lực hoạt động của bộ máy nhà nước ta. Điều này tạo ra sự thống nhất tổ chức và hành động, phát huy đồng thời và kết hợp chặt chẽ sức mạnh của cả tập thể và từng cá nhân, của cả nước và từng địa phương, từng cơ sở, của từng tổ chức và cả hệ thống bộ máy nhà nước [31]. Đặc trưng của nguyên tắc tập trung dân chủ trong quá trình hoàn thiện bộ máy nhà nước là sự kết hợp giữa việc tăng cường sự lãnh đạo và điều hành tập trung thống nhất của trung ương, đồng thời phát huy trách nhiệm và tính chủ động, năng động của địa phương. Hiện nay, các đạo luật do Quốc hội ban
  • 41. 39 hành đều nhấn mạnh tới việc phân cấp mạnh mẽ trong quản lý nhà nước cho chính quyền địa phương.
  • 42. 40 Chương 2 THỰC TRẠNG XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Đảng ta đã quán triệt những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng phù hợp với những điều kiện cụ thể của đất nước để tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Đảng đã xác định lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, xác định đúng mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị cũng như các lĩnh vực khác. Từ tư tưởng chỉ đạo chung sáng suốt đó, việc kiện toàn và đổi mới bộ máy nhà nước trong thời gian qua đã đạt được những tiến bộ rõ rệt. Nhà nước ta đã từng bước được kiện toàn, từ cơ cấu tổ chức đến cơ chế hoạt động trên các lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp. Quản lý nhà nước bằng pháp luật được tăng cường, dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy trên nhiều lĩnh vực, trước hết là về kinh tế, ổn định chính trị được giữ vững. Có thể nhận thấy sự thay đổi và phát triển của quá trình phấn đấu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trên những mặt sau: 2.1. Về tổ chức của bộ máy nhà nước 2.1.1. Những thành tựu đạt được Điều 2 Hiến pháp năm 1980 khẳng định nhà nước ta là “nhà nước chuyên chính vô sản” và để phù hợp với tình hình mới cũng như có nhận thức toàn diện, đầy đủ, chính xác hơn về tính chất nhà nước, Điều 2 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) đã xác định: “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tất cả quyền lực nhà
  • 43. 41 nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Bộ máy nhà nước trước đây được tổ chức theo nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa nay đã được tổ chức lại theo nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Sự phân công giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lực nhà nước nhằm bảo đảm cho mỗi cơ quan nhà nước thi hành có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, không phải là sự phân chia, cắt khúc, đối lập nhau giữa các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp mà ở đây có sự phối hợp, hỗ trợ nhau tạo thành sức mạnh tổng hợp của quyền lực nhà nước. Với tính chất là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Quốc hội tiếp tục được xác định là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp; thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của nhà nước và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước. Nếu như trước đây (theo Hiến pháp 1980), trên phương diện lý luận, quyền lực nhà nước được xác định tập trung vào Quốc hội, nhưng trên thực tế hoạt động của Quốc hội còn mang đậm tính hình thức thì hiện nay Quốc hội ngày càng trở nên có thực quyền hơn. Cùng với việc củng cố, tăng cường về tổ chức của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, nâng cao chất lượng, cơ cấu đại biểu Quốc hội. Sinh hoạt của Quốc hội đã phát huy dân chủ, khắc phục bệnh hình thức, chất lượng các kỳ họp Quốc hội đã có những tiến bộ rõ rệt. Có thể thấy trong thời gian gần đây, các phiên chất vấn tại các kỳ họp Quốc hội vô cùng sôi nổi, thu hút được sự chú ý theo dõi của đông đảo tầng lớp nhân dân. Chức năng, nhiệm vụ chung của Quốc hội về cơ bản vẫn trên cơ sở kế thừa các quy định của Hiến pháp
  • 44. 42 năm 1980 nhưng đã có một số sửa đổi, bổ sung quan trọng cho phù hợp với vị trí và tính chất của Quốc hội và phù hợp với yêu cầu của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, như: bỏ thẩm quyền của Quốc hội trong việc tự “định cho mình những nhiệm vụ và quyền hạn khác, khi xét thấy cần thiết”; xác định lại thẩm quyền quyết định về ngân sách, bỏ thẩm quyền của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định về nhân sự Chính phủ trong thời gian giữa hai kỳ họp Quốc hội; bổ sung thẩm quyền của Quốc hội trong việc bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ các chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn… Tổ chức của Quốc hội cũng có những đổi mới như thiết lập trở lại chế định về Uỷ ban thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội (vị trí này trước đây do Hội đồng nhà nước là cơ quan cao nhất hoạt động thường xuyên của Quốc hội, là Chủ tịch tập thể của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đảm nhiệm). Hội đồng dân tộc và các uỷ ban của Quốc hội cũng có những thay đổi quan trọng về tổ chức: Quốc hội thành lập Hội đồng dân tộc và 9 Uỷ ban với các chức năng, nhiệm vụ được quy định cụ thể. Kết thúc Quốc hội khoá XI vừa qua, Quốc hội đã có thêm hai Uỷ ban mới là Uỷ ban ngân sách và Uỷ ban tư pháp. Chất lượng, cơ cấu đại biểu Quốc hội được đổi mới nhằm bảo đảm cho đại diện mọi giới, mọi dân tộc, mọi tầng lớp nhân dân có thể tham gia vào Quốc hội, đồng thời tỷ lệ đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách đã từng bước được tăng lên đáng kể. Số lượng đại biểu Quốc hội chuyên trách là 25% và chắc chắn tại Quốc hội khoá XII số lượng này sẽ tăng thêm nhằm bảo đảm hiệu lực và hiệu quả hoạt động của Quốc hội trên thực tế. Kể từ năm 1992, chế định Chủ tịch nước đã được thiết lập lại, thay thế chế định nguyên thủ quốc gia tập thể theo Hiến pháp năm 1980. Chủ tịch nước được xác định là người đứng đầu nhà nước, thay mặt nhà nước về đối nội, đối ngoại. So với thời kỳ trước năm 1980, chế định Chủ tịch