SlideShare a Scribd company logo
1 of 92
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
TIỂU LUẬN:
XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN NHÀ
NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA VIỆT NAM
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
Làm rõ quan điểm mà Đảng ta đã đưa ra tại Đại hội X của Đảng về xây dựng và
hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với tư cách một nhiệm
vụ chiến lược quan trọng trong thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước, trong bài viết
này, tác giả đã tập trung luận giải: 1. Lý luận về Nhà nước pháp quyền; 2. Xây dựng
Nhà nước pháp quyền với tư cách một tất yếu lịch sử, tất yếu khách quan đối với Việt
Nam hiện nay; 3. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam vừa thể hiện
được các giá trị phổ biến, vừa khẳng định được bản sắc đặc thù; 4. Những đặc trưng
của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; 5. Đổi mới, hoàn thiện bộ
máy nhà nước theo yêu cầu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Từ Đại hội lần thứ IX, khi thông qua việc sửa đổi một số điều trong Hiến pháp năm
1992, Đảng ta đã xác định phải tiếp tục đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của
Nhà nước, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế. Việc xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân đã được Đảng ta đặt
ra như một nhiệm vụ chiến lược quan trọng trong thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước
vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Về vấn đề
này, tại Đại hội lần thứ X, Đảng ta đã khẳng định chủ trương “đẩy nhanh công cuộc
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trên các mặt: hệ thống thể chế, chức
năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy; cán bộ, công chức; phương thức hoạt động”(1).
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
Để triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội X của Đảng, biến Nghị quyết Đại hội
thành hiện thực sinh động trong đời sống xã hội, trước hết chúng ta cần nhìn lại một
cách khái quát những gì đã làm được cả trên lĩnh vực nghiên cứu lý luận lẫn hoạt
động thực tiễn; đồng thời phải giải quyết một cách hiệu quả nhất những vấn đề mới
đặt ra trong tiến trình phát triển đất nước.
1. Về phương diện lý luận, các nhà khoa học đã đi tới một số khẳng định quan trọng:
nhà nước pháp quyền không phải là một kiểu nhà nước mà là giá trị phổ biến, là biểu
hiện của một trình độ phát triển dân chủ.
Với quan niệm này, nhà nước pháp quyền đã được nhìn nhận như một cách thức tổ
chức nền dân chủ, cách thức tổ chức nhà nước và xã hội trên nền tảng dân chủ. Các
giá trị phổ biến của nó được trình bày dưới các dạng thức khác nhau và phụ thuộc
vào lập trường chính trị – pháp lý, quan điểm học thuật của mỗi người. Ngay cả cách
trình bày cũng có thể khác nhau, nhưng về thực chất, đều nhấn mạnh các giá trị sau
đây:
- Nhà nước pháp quyền là biểu hiện tập trung của chế độ dân chủ. Theo đó, dân chủ
vừa là bản chất, vừa là điều kiện, là tiền đề để xây dựng nhà nước pháp quyền.
- Bộ máy nhà nước pháp quyền được tổ chức và vận hành trên cơ sở các nguyên tắc
tổ chức quyền lực một cách dân chủ.
- Một chế độ tư pháp thật sự dân chủ, cơ quan xét xử chỉ tuân theo pháp luật với một
chế độ tố tụng công khai, dân chủ.
Sự phủ nhận quan điểm xem nhà nước pháp quyền như một kiểu nhà nước có ý
nghĩa nhận thức luận quan trọng trong việc nhìn nhận đúng bản chất của nhà nước
pháp quyền. Ý nghĩa nhận thức luận này bao hàm các khía cạnh sau:
- Chỉ từ khi dân chủ tư sản xuất hiện, mới có cơ hội và điều kiện để xây dựng nhà
nước pháp quyền. Do vậy, trên thực tế, nhà nước pháp quyền tư sản đang được xây
dựng ở hầu hết các nước tư bản phát triển và đang phát triển .
- Nhà nước pháp quyền với tư cách cách thức tổ chức và vận hành của một chế độ
nhà nước và xã hội không những được xây dựng ở chế độ tư bản, mà còn được xây
dựng ở chế độ xã hội chủ nghĩa. Như vậy, trong nhận thức lý luận cũng như trong
thực tiễn, có nhà nước pháp quyền tư sản và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
- Ngoài các giá trị phổ biến, nhà nước pháp quyền còn bao hàm các giá trị đặc thù.
Tính đặc thù của nhà nước pháp quyền được xác định bởi nhiều yếu tố. Các yếu tố
này, về thực chất, là hết sức đa dạng, phong phú và rất phức tạp, được xác định bởi
các điều kiện lịch sử, kinh tế, văn hoá, tâm lý xã hội và môi trường địa lý của mỗi
quốc gia dân tộc. Chúng không chỉ tạo ra cái đặc sắc, tính riêng biệt của mỗi dân tộc
trong quá trình dựng nước, giữ nước và phát triển, mà còn quyết định mức độ tiếp
thu và dung nạp các giá trị phổ biến của nhà nước pháp quyền. Việc thừa nhận tính
đặc thù của nhà nước pháp quyền có ý nghĩa nhận thức luận quan trọng. Với ý nghĩa
này, nhà nước pháp quyền là một phạm trù vừa mang tính phổ biến, vừa mang tính
đặc thù; vừa là giá trị chung của nhân loại, vừa là giá trị riêng của mỗi dân tộc, quốc
gia. Do vậy, không thể có một nhà nước pháp quyền như một mô hình chung thống
nhất cho mọi quốc gia, dân tộc. Mỗi quốc gia, dân tộc, tuỳ thuộc vào các đặc điểm
lịch sử, chính trị, kinh tế, xã hội và trình độ phát triển mà xây dựng cho mình một mô
hình nhà nước pháp quyền thích hợp.
2. Đối với Việt Nam, vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền đang được đặt ra như
một tất yếu lịch sử và tất yếu khách quan.
Tính tất yếu lịch sử của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam bắt nguồn từ
chính lịch sử xây dựng và phát triển của Nhà nước ta. Ngay từ khi thành lập và trong
quá trình phát triển, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã và luôn là một nhà
nước hợp hiến, hợp pháp. Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở các quy
định của Hiến pháp, pháp luật và luôn vận hành trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp
luật. Các đạo luật tổ chức Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân
dân và các đạo luật về chính quyền địa phương được xây dựng trên cơ sở Hiến pháp
năm 1946, năm 1959. năm 1980 và năm 1992. Những lần Hiến pháp được sửa đổi và
thông qua là những bước củng cố cơ sở pháp luật cho tổ chức và hoạt động của bản
thân các cơ quan nhà nước. Vì vậy, có thể nói, quá trình xây dựng Nhà nước pháp
quyền Việt Nam là một quá trình lịch sử được bắt đầu ngay từ Tuyên ngôn độc lập
năm 1945 và Hiến pháp năm 1946, được định hướng trong tư tưởng Hồ Chí Minh về
xây dựng nhà nước. Quá trình này đã trải qua hơn nửa thế kỷ và ngày nay, quá trình
này đang được tiếp tục đẩy mạnh trong thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước.
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
Tính tất yếu khách quan của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xuất
phát từ định hướng xã hội chủ nghĩa với mục tiêu "độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội, nhằm xây dựng một chế độ xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh"(2). Chúng ta ý thức sâu sắc rằng, để xây dựng được một
chế độ xã hội có tính mục tiêu như vậy thì công cụ, phương tiện cơ bản chỉ có thể là
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và một Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trên cơ sở lý luận chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Tính tất yếu khách quan ấy còn xuất
phát từ đặc điểm của thời đại với xu thế toàn cầu hoá. Nhu cầu hội nhập kinh tế quốc
tế sau khi nước ta trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) đòi
hỏi chúng ta tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính Nhà nước, cải cách pháp luật,
đảm bảo cho Nhà nước không ngừng vững mạnh, có hiệu lực để giải quyết có hiệu
quả các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, thực hành dân chủ, giữ vững độc lập, tự
chủ và hội nhập vững chắc vào đời sống quốc tế.
3. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một Nhà nước vừa phải thể
hiện được các giá trị phổ biến của nhà nước pháp quyền, vừa khẳng định được bản
sắc đặc thù của riêng mình.
Sự khác nhau cơ bản giữa nhà nước pháp quyền tư sản và nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa nói chung, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam nói riêng,
có thể khái quát trên các nét chính sau:
Một là, cơ sở kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tính định hướng xã hội chủ nghĩa
của nền kinh tế thị trường không phủ nhận các quy luật khách quan của thị trường,
mà là cơ sở để xác định sự khác nhau giữa kinh tế thị trường trong chủ nghĩa tư bản
và kinh tế thị trường trong chủ nghĩa xã hội. Do vậy, đặc tính của nền kinh tế thị
trường xã hội chủ nghĩa tạo ra sự khác nhau giữa nhà nước pháp quyền tư sản và nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đồng thời tạo ra nét đặc trưng của nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa.
Hai là, cơ sở xã hội của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là khối đại đoàn kết
dân tộc. Với khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nhà nước pháp quyền có được cơ sở xã
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
hội rộng lớn và khả năng to lớn trong việc tập hợp, tổ chức các tầng lớp nhân dân
thực hành và phát huy dân chủ.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tuy không loại bỏ được sự phân
tầng xã hội theo hướng phân hoá giàu nghèo, nhưng có khả năng xử lý tốt hơn công
bằng xã hội. Những mâu thuẫn xã hội phát sinh trong điều kiện phát triển nền kinh tế
thị trường do được điều tiết thông qua pháp luật, chính sách và các công cụ khác của
nhà nước nên ít có nguy cơ trở thành các mâu thuẫn đối kháng và tạo ra các xung đột
có tính chất chia rẽ xã hội. Đây là một trong những điều kiện đảm bảo ổn định chính
trị, đoàn kết các lực lượng xã hội vì các mục tiêu chung của sự phát triển.
Tính nhất nguyên chính trị và sự lãnh đạo của một Đảng duy nhất cầm quyền tạo khả
năng đồng thuận xã hội, tăng cường khả năng hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau giữa các
giai tầng, các cộng đồng dân cư và các dân tộc. Nhờ vậy, nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa có được sự ủng hộ rộng rãi từ phía xã hội, nguồn sức mạnh từ sự đoàn
kết toàn dân, phát huy được sức sáng tạo của các tầng lớp dân cư trong việc nâng cao
quyền làm chủ của nhân dân.
4. Những đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Một là, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Đây là đặc
trưng cơ bản, được ghi nhận trong Hiến pháp của nước ta và được thể hiện trong các
quy định về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước từ trung ương đến
địa phương của các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Hai là, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ
quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đây
vừa là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta, vừa là quan điểm
chỉ đạo quá trình tiếp tục thực hiện việc cải cách bộ máy nhà nước.
Ba là, Hiến pháp và các đạo luật giữ vị trí tối thượng trong điều chỉnh các quan hệ
thuộc tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Hệ thống pháp luật thể hiện đầy đủ,
đúng đắn ý chí của nhân dân, phù hợp với hiện thực khách quan, thúc đẩy tiến bộ xã
hội. Nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp, pháp luật là của tất cả công dân, không loại trừ
đối với bất cứ ai.
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
Bốn là, Nhà nước ta tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; nâng
cao trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và công dân, thực hành dân chủ, đồng thời
tăng cường kỷ cương, kỷ luật. Mục tiêu cao cả của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ
tịch Hồ Chí Minh về bảo đảm quyền con người, quyền công dân được thể chế hoá
thành luật và được Nhà nước ta tổ chức thực hiện có kết quả.
Năm là, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tôn trọng và thực hiện đầy
đủ các điều ước quốc tế mà Nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký kết
hoặc tham gia.
Sáu là, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tổ chức và hoạt động
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là đặc trưng cơ bản để phân biệt
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nhà nước pháp quyền tư sản chủ nghĩa.
Qua những nội dung trình bày trên đây, chúng ta thấy rằng, trong quá trình xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chúng ta đã tiếp thu được những
tinh hoa, những giá trị toàn nhân loại. Đó là các chế định pháp lý, như tất cả quyền
lực nhà nước thuộc về nhân dân, sự tôn trọng và bảo vệ các quyền và tự do của con
người như những giá trị xã hội cao quý nhất, sự ngự trị của pháp luật trong các lĩnh
vực sinh hoạt của xã hội, tính tối cao của pháp luật trong các lĩnh vực hoạt động của
nhà nước và trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội.
5. Đổi mới, hoàn thiện bộ máy nhà nước theo yêu cầu của Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam.
Đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước cần được tiến hành đồng bộ, từ
việc xác định vị trí trụ cột của Nhà nước trong hệ thống chính trị, cơ cấu lại chức
năng, nhiệm vụ và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong quá trình phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hành và phát huy dân chủ đến
việc đổi mới từng bộ phận cấu thành bộ máy nhà nước: Quốc hội, Chính phủ, cơ
quan tư pháp và chính quyền địa phương.
a) Đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội theo hướng nâng cao chất lượng, thực
hiện tốt chức năng lập pháp và giám sát tối cao.
Hiến pháp năm 1992 đã xác định Quốc hội nước ta là cơ quan đại biểu cao nhất của
nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất với 3 chức năng: lập hiến, lập pháp,
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
quyết định các vấn đề trọng đại của đất nước và giám sát tối cao.
Cần đổi mới nhận thức về vị trí, vai trò của Quốc hội trong tổng thể bộ máy nhà
nước, theo đó Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, nhưng không phải
toàn bộ quyền lực nhà nước đều thuộc về Quốc hội. Vấn đề đặt ra là, cần phải xây
dựng được một Quốc hội thực quyền chứ không phải là Quốc hội toàn quyền.
Đối với chức năng lập hiến và lập pháp, cần quán triệt nguyên tắc hiến định: Quốc
hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp. Để đảm bảo quyền này của
Quốc hội, cần nghiên cứu để hạn chế quyền ban hành pháp lệnh của Uỷ ban Thường
vụ Quốc hội, tiến tới quy định Uỷ ban Thường vụ Quốc hội không ban hành pháp
lệnh, đồng thời phân định rõ thẩm quyền lập pháp của Quốc hội với thẩm quyền lập
quy của Chính phủ, từng bước hạn chế uỷ quyền lập pháp.
Đối với việc thực hiện quyền giám sát tối cao của Quốc hội, vấn đề thiết thực và
quan trọng nhất là hiệu quả của sự giám sát thông qua cơ chế xử lý kết quả giám sát
của Quốc hội, bảo đảm các kết luận giám sát của Quốc hội phải được tôn trọng và
thực hiện nghiêm túc bởi các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan.
Để tạo lập được cơ chế giám sát tối cao một cách thực tế đối với hoạt động của nhà
nước, cần tổ chức nghiên cứu để tiến tới thành lập một cơ quan bảo hiến, đảm bảo
địa vị tối cao, thiêng liêng, bất khả xâm phạm của Hiến pháp trong Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân của nước ta.
Nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là khi Việt Nam đã trở thành thành viên của
Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), bảo đảm sự tương thích của pháp luật quốc gia
với các không gian pháp lý có tính quốc tế đang đòi hỏi chúng ta phải đẩy mạnh việc
đổi mới công tác lập pháp. Chúng ta không những phải soạn thảo và thông qua nhiều
đạo luật mới, mà còn phải rà soát, sửa đổi toàn bộ những đạo luật đã có sao cho đáp
ứng được yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ mới. Do vậy, công tác lập pháp của
nước ta trong nhiệm kỳ Quốc hội khoá XII trở nên cấp bách hơn bất cứ thời kỳ nào
trước đây.
b) Xây dựng một Chính phủ gọn về tổ chức, rõ về chức năng, hiệu lực, hiệu quả
trong hoạt động.
Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và thực hiện nền
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chức năng quản lý nhà nước của
Chính phủ gồm hai nhóm cơ bản sau đây:
- Nghiên cứu chính sách thể chế;
- Điều hành mang tính chất hành chính công quyền.
Để thực hiện tốt chức năng hành pháp của Chính phủ, Nghị quyết Đại hội Đảng lần
thứ X ghi rõ: “Đẩy mạnh cải cách hành chính, đổi mới tổ chức và hoạt động của
Chính phủ theo hướng xây dựng hệ thống cơ quan hành pháp thống nhất, thông suốt,
hiện đại. Luật hoá cơ cấu, tổ chức của Chính phủ; tổ chức bộ quản lý đa ngành, đa
lĩnh vực, bảo đảm tinh gọn và hợp lý. Phân cấp mạnh, giao quyền chủ động hơn nữa
cho chính quyền địa phương, nhất là trong việc quyết định về ngân sách, tài chính,
đầu tư, nguồn nhân lực, thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với Trung ương"(3). Cụ thể,
chính phủ cần thực hiện bốn nhóm quyền hạn và nhiệm vụ sau đây:
- Xây dựng và hoàn thiện hệ thống thống nhất bộ máy hành chính nhà nước từ Trung
ương đến cơ sở, đảm bảo cho toàn bộ hệ thống này hoạt động có hiệu lực, hiệu quả,
đủ mạnh để hoàn thiện các chức năng của quyền hành pháp.
- Bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật trong đời sống nhà nước và đời sống
xã hội.
- Thống nhất quản lý hành chính nhà nước về kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng,
trật tự an toàn xã hội và đối ngoại. Thực hiện chính sách xã hội, trong đó cần quan
tâm đến chính sách dân tộc và chính sách tôn giáo.
- Thi hành những biện pháp hữu hiệu bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân, tạo điều kiện để công dân thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình, bảo vệ tài sản,
lợi ích của Nhà nước, xã hội và bảo vệ môi trường.
c) Đổi mới các cơ quan tư pháp và thủ tục tư pháp theo các yêu cầu của Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Trọng tâm của cải cách tư pháp chính là cải cách tổ chức và hoạt động của Toà án
với quan điểm Toà án là trung tâm của hệ thống tư pháp và sự độc lập của Toà án
trong xét xử là điều kiện cơ bản bảo đảm cho Toà án thực hiện vai trò của mình với
tư cách cơ quan bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người.
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X đã xác định: "Xây dựng hệ thống cơ quan tư
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, quyền con
người... Cải cách tư pháp khẩn trương, đồng bộ; lấy cải cách hoạt động xét xử làm
trọng tâm; thực hiện cơ chế công tố gắn với hoạt động điều tra. Xây dựng cơ chế
phán quyết về những vi phạm Hiến pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư
pháp”(4).
Cần nghiên cứu để tiến tới tổ chức lại Viện Kiểm sát thành viện công tố; xác định lại
vị trí, phạm vi thẩm quyền của các cơ quan điều tra. Cơ cấu lại tổ chức và quản lý
việc thi hành án; nghiên cứu khả năng xã hội hoá các hoạt động bổ trợ tư pháp, như
luật sư, công chứng, giám định tư pháp…
Đổi mới mạnh mẽ pháp luật thủ tục về hoạt động tư pháp trong tất cả các lĩnh vực
hình sự, dân sự, hành chính... theo hướng chuyển các hoạt động xét xử của Toà án
sang chế độ tranh tụng để thật sự bảo đảm quyền bình đẳng của các bên trong quá
trình tranh tụng tại Toà án.
d) Đổi mới chính quyền địa phương đáp ứng các yêu cầu của Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa.
Vấn đề này, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X đã chỉ rõ: "Nâng cao chất lượng hoạt
động của hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân, bảo đảm quyền tự chủ và tự chịu
trách nhiệm của chính quyền địa phương trong phạm vi được phân cấp. Phát huy vai
trò giám sát của hội đồng nhân dân. Tổ chức hợp lý chính quyền địa phương, phân
định lại thẩm quyền đối với chính quyền ở nông thôn, đô thị, hải đảo"(5).
Mô hình tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương các cấp cần bảo đảm sự
thống nhất không gian kinh tế và không gian pháp lý. Quyền tự chủ của chính quyền
địa phương phải đặt trong sự quản lý của Trung ương về thể chế và chính sách vĩ mô.
Mỗi cấp chính quyền là một bộ phận cấu thành của hệ thống hành chính nhà nước
thống nhất. Do đó, không thể coi việc đảm bảo quyền tự chủ của chính quyền địa
phương như là sự thoát ly, tách rời khỏi Nhà nước Trung ương và không thể làm phát
sinh tình trạng cát cứ, cục bộ địa phương, không để tạo ra sự đối lập lợi ích giữa địa
phương và Trung ương.
Đổi mới, cải cách tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương phải gắn liền
với việc đổi mới tổ chức và hoạt động của tổ chức đảng ở các cấp địa phương.
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
e) Xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, công chức theo yêu cầu xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Trong những năm qua, đội ngũ cán bộ, công chức của nước ta đã có sự phát triển cả
về số lượng và chất lượng. Bên cạnh những mặt trưởng thành, đội ngũ cán bộ công
chức còn nhiều mặt yếu kém, điều có tính phổ biến là còn thiếu tính chuyên nghiệp.
Do vậy, nhiệm vụ hiện nay cần quan tâm trước hết là xây dựng và áp dụng chức
danh, tiêu chuẩn của các loại cán bộ công chức trong bộ máy hành chính, các tổ chức
sự nghiệp. Tiến hành phân cấp quản lý biên chế hành chính, biên chế sự nghiệp nhà
nước và thực hiện cơ chế quản lý mới đối với biên chế sự nghiệp, thực hiện cơ chế
hợp đồng đối với biên chế sự nghiệp để tạo quyền tự chủ về nguồn nhân lực và thay
đổi cơ cấu công chức, viên chức cho các đơn vị sự nghiệp. Đổi mới công tác tuyển
dụng cán bộ, công chức, chuyển từ phương thức xét tuyển sang phương thức thi
tuyển để lấy người có trình độ vào làm việc trong các cơ quan quản lý nhà nước;
đồng thời chú ý đến các vùng sâu, vùng xa, đối với đội ngũ cán bộ, giáo viên cần có
những vận dụng phù hợp trong tuyển dụng.
Đội ngũ cán bộ, công chức luôn giữ vai trò quan trọng trong việc thực thi pháp luật,
chính sách của Đảng và Nhà nước đối với toàn bộ xã hội. Ngoài trình độ chuyên
môn, đội ngũ cán bộ công chức phải tận tuỵ phục vụ nhân dân mà tấm gương của
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn toả sáng trong cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh" do Đảng ta phát động và đang được toàn Đảng, toàn
dân hưởng ứng. Thiết nghĩ, đây là dịp tốt để mọi cán bộ, công chức, viên chức liên
hệ vào công việc của mình đang đảm nhiệm, tạo chuyển biến tốt để phục vụ nhân
dân một cách thiết thực thì chắc chắn, Đảng và Nhà nước ta tăng thêm được uy tín
của mình đối với nhân dân. Đó cũng là cách thức tốt nhất để nhân dân góp phần thiết
thực vào việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân.r
(*) Giáo sư, Viện sĩ, Viện Khoa học xã hội Việt Nam.
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X.Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006. tr. 253.
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 22.
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X.Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.126 – 127.
(4) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.127.
(5) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.127.
VĂN HÓA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VÀ VẤN ĐỀ NÂNG CAO VĂN HOÁ
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
NGUYỄN VĂN PHÚC (*)
Phân tích sự thể hiện văn hoá trong các xã hội phương Đông phong kiến và các xã
hội phương Tây hiện đại, tác giả cho rằng, sự gia tăng hàm lượng văn hoá là xu thế
chung của sự phát triển của quản lý nhà nước. Chính sự gia tăng hàm lượng văn hoá
là nhân tố tạo nên hiệu quả của quản lý nhà nước. Trong điều kiện hiện nay ở nước
ta, những bất cập trong quản lý nhà nước thể hiện ở cả bình diện phương thức quản
lý lẫn bình diện nhân cách con người quản lý. Vì vậy, đẩy mạnh cải cách hành chính
nhằm hoàn thiện phương thức quản lý, nâng cao đạo đức và tính chuyên nghiệp
trong hoạt động của cán bộ công chức chính là nâng cao hàm lượng văn hoá của
quản lý nhà nước, qua đó nâng cao hiệu quả của quản lý nhà nước đáp ứng yêu cầu
phát triển của đất nước hiện nay.
Với sự phát triển của thực tiễn và lý luận hiện nay, văn hóa không còn bị quy giản
chỉ về một số yếu tố cấu thành văn hóa, chẳng hạn, giáo dục, khoa học, nghệ thuật...
Văn hóa, hiểu theo nghĩa rộng, là sự thể hiện và thực hiện những sức mạnh bản chất
của con người trong toàn bộ các lĩnh vực hoạt động người. Do thể hiện và thực hiện
những sức mạnh bản chất của con người mà văn hóa giữ vai trò nền tảng tinh thần
của xã hội và là mục tiêu, động lực của sự phát triển.
Với quan niệm như vậy về phạm vi thể hiện và vai trò của văn hoá, từ Chiến lược
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
phát triển kinh tế – xã hội 10 năm từ 2001 – 2010 đến Báo cáo Chính trị tại Đại hội
X, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhất quán chủ trương “nâng cao tính văn hóa trong
mọi hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội và sinh hoạt của nhân dân”(1).
Với tư cách một lĩnh vực, một loại hình hoạt động của xã hội, quản lý nhà nước
chính là một trong những địa bàn thể hiện sức mạnh bản chất của con người, nghĩa là
địa bàn thể hiện văn hoá. Đồng thời, văn hoá quản lý nhà nước là động lực, là sự
đảm bảo cho hoạt động quản lý nhà nước có hiệu quả. Với tinh thần ấy, Đảng Cộng
sản Việt Nam “đặc biệt coi trọng nâng cao văn hóa lãnh đạo và quản lý…”(2).
Như chúng ta đều biết, hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước vừa phụ thuộc vào
phương thức quản lý (hoặc công nghệ quản lý), vừa phụ thuộc vào nhân cách (đức và
tài) của các chủ thể quản lý. Vì thế, để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, cần phải
nâng cao văn hoá của cả phương thức quản lý lẫn nhân cách người quản lý.
Mặc dù chưa ý thức được đầy đủ phạm vi thể hiện và vai trò của văn hóa, nhưng
không vì thế mà quản lý nhà nước trong các thời đại trước đây không ít nhiều biết
đến văn hóa trong quản lý. Trong các quốc gia phong kiến phương Đông, cụ thể là
Trung Hoa và Việt Nam, ở một mức độ nhất định, văn hóa đã được thể hiện khá tự
giác trong quản lý nhà nước. Các nhà nước phong kiến đã sử dụng phương thức đức
trị trong quản lý xã hội. Phương thức này vận hành thông qua một hệ thống những
yêu cầu, những chuẩn mực đạo đức điều chỉnh hoạt động của toàn bộ xã hội, và đặc
biệt là hoạt động của những nhà quản lý, tức những bậc đế vương, quan lại các cấp.
Hệ thống những chuẩn mực đức trị chính là hệ chuẩn mực Nho giáo với Trung, Hiếu,
Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín... Tương ứng với các chuẩn mực đạo đức đó là nhân cách
đạo đức, các phẩm chất đạo đức cá nhân của các nhà quản lý. Vua sáng, tôi hiền,
những vị quan phụ mẫu là những tấm gương sáng cho mọi người noi theo... Trong
tinh thần ấy, văn hóa của quản lý nhà nước trong các quốc gia Nho giáo đã được thể
hiện. Cố nhiên, văn hoá này phản ánh và bảo vệ một trật tự kinh tế xã hội trì trệ. Bởi
thế, tác động của nó tới sự phát triển xã hội là rất hạn chế. Hơn nữa, không phải lúc
nào các nhà quản lý cũng gương mẫu thực thi đức trị. Nhưng dù sao, sự thể hiện và
thực hiện văn hóa quản lý Nho giáo đã góp phần tạo nên cả một thời đại phong kiến
phương Đông về cơ bản là ổn định và trường trị; cho dù sự trường trị ấy càng về sau
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
càng mang nặng tính trì trệ.
Tiến trình phát triển của quản lý nhà nước ở phương Tây hiện đại cũng cho thấy vai
trò của văn hoá trong quản lý và xu thế gia tăng hàm lượng văn hóa trong quản lý.
Trước những năm 30 của thế kỷ XX, thường người ta mới chỉ biết đến văn hoá của
phương thức quản lý. Đó là việc sử dụng pháp luật nghiêm minh, hợp lý hóa, tinh
giản bộ máy tổ chức; chú ý giải quyết một cách hợp lý quan hệ giữa trách nhiệm và
quyền hạn, nghĩa vụ và quyền lợi, kỷ luật và khen thưởng... ; đồng thời, xem việc
giải quyết tốt các vấn đề đó là động lực thúc đẩy quản lý nhà nước. Việc chỉ biết đến
các động lực có tính quy phạm, pháp lệnh lạnh lùng tuy có đem lại những hiệu quả
nhất định nhưng không phát huy được tối đa tính tích cực xã hội của con người, của
nhân viên, cấp dưới... Nghĩa vụ và quyền lợi, kỷ cương, kỷ luật và khen thưởng là
những kích thích tố từ bên ngoài; chúng chỉ phát huy được tối đa tác dụng khi được
chuyển hoá thành sức mạnh bên trong của các chủ thể quản lý. Trong trường hợp
này, phương diện văn hóa và sự bộc lộ nó trong quản lý nhà nước cũng như vai trò
động lực của nó còn hạn chế.
Từ sau những năm 30 của thế kỷ XX, trong khi vẫn coi trọng tính quy phạm, kỷ
cương, người ta bắt đầu chú ý đến vấn đề con người trong quản lý. Ngoài sự coi
trọng hiệu quả công việc, coi trọng kiểm tra, kiểm soát, những nhà quản lý còn đồng
thời quan tâm đến con người, đến nhân viên, cấp dưới, cố gắng khơi dậy tính tích
cực, chủ động của họ trong công việc. Trong thời kỳ này, học giả Maikeleike với lý
thuyết X, Y nổi tiếng cho rằng, cơ sở của quản lý nhà nước truyền thống là lý thuyết
X. Lý thuyết X dựa trên một quan niệm sai lầm là, con người bẩm sinh vốn đã vô
trách nhiệm và không thích làm việc; vì thế, trong quản lý nhà nước cần phải có một
cơ chế kiểm soát nghiêm ngặt hoạt động của con người. Đối với lý thuyết Y, bản
chất con người không phải là lười biếng và vô trách nhiệm. Nếu biết kích thích tính
thiện ở con người thì tự họ sẽ biết phải hành động như thế nào để hoàn thành tốt
chức trách. Vì thế, cần thực hiện quản lý một cách dân chủ, công khai, tin tưởng ở
đồng sự, cấp dưới, ủy quyền một cách thích đáng, phát huy hết thế mạnh, tiềm năng
của con người... Với việc tính đến tính tích cực xã hội của con người, nhân tố văn
hóa trong quản lý nhà nước đã được thể hiện một cách tự giác hơn; do đó, hiệu lực
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
và hiệu quả của quản lý nhà nước cũng được nâng cao hơn.
Từ những năm 60 của thế kỷ XX đến nay, khoa học quản lý nhà nước cũng như thực
tiễn quản lý nhà nước ở phương Tây đã đạt được bước tiến mới. Vào thời kỳ này đã
xuất hiện lý thuyết Z của W. Danei. Lý thuyết Z cho rằng, các lý thuyết X, Y có
những giá trị và vai trò nhất định trong quản lý nhưng đều tỏ ra phiến diện. Con
người không hoàn toàn tốt cũng không hoàn toàn xấu; mỗi con người cụ thể có
những điểm mạnh, điểm yếu cụ thể. Bởi thế, trong quản lý không nên sử dụng một
hoặc một số biện pháp nhất loạt như nhau đối với tất cả mọi người trong tất cả các
tình huống, các điều kiện. Tùy lúc, tùy nơi, tùy người mà chú ý đến kiểm tra, kiểm
soát, kỷ luật hoặc khen thưởng động viên... Lý thuyết này đã ảnh hưởng lớn đến quản
lý nhà nước trong điều kiện của xã hội hiện đại(3).
Như vậy, trong quản lý nhà nước, vấn đề con người trong bộ máy quản lý đã được
quan tâm ngày một đầy đủ hơn. Đây chính là một phương diện quan trọng trong văn
hóa của quản lý nhà nước. Cùng với lý thuyết Z, trong quản lý nhà nước ở phương
Tây hiện đại, các thành tựu của khoa học - công nghệ đã được sử dụng ngày càng
nhiều, khiến cho hiệu lực và hiệu quả của quản lý ngày càng gia tăng. Việc áp dụng
các thành tựu khoa học - công nghệ (tin học hóa, xây dựng chính phủ điện tử…)
đang trở thành trung tâm chú ý của cải cách hành chính nhằm tiết kiệm nhân lực, tài
lực và nâng cao hiệu quả của quản lý nhà nước. Không chỉ khoa học - công nghệ,
khoa học xã hội và nhân văn cũng được áp dụng ngày một tích cực hơn trong quản lý
nhà nước. Nhờ vậy, hoạt động quản lý nhà nước không tự giới hạn ở việc chỉ dựa
trên những hiểu biết về các nguyên lý và những quy tắc mang tính công nghệ thuần
túy. Trong thực tiễn, người ta nhận thấy rằng, hiệu quả của quản lý nhà nước không
chỉ phụ thuộc vào phương thức, công nghệ quản lý mà còn phụ thuộc rất nhiều vào
nhân cách các nhà quản lý. Nhân cách nhà quản lý biểu hiện không đơn giản chỉ
ở những hiểu biết và khả năng “vận hành” công nghệ quản lý của họ. Nó còn được
biểu hiện ở sự quan tâm đến cấp dưới, nhân viên trong việc tạo điều kiện thuận lợi
cho họ làm việc cũng như cho cuộc sống và gia đình của họ; điều đó có tác dụng rất
lớn đối với việc nâng cao hiệu quả của hoạt động quản lý. Nhân cách nhà quản lý
còn biểu hiện ở những phẩm chất cá nhân, đặc biệt là sự nêu gương trong công việc
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
cũng như trong đời tư. Chính những điều đó có tác dụng rất lớn đối với việc động
viên ý thức trách nhiệm, tinh thần làm việc của cấp dưới, nhân viên. Không chỉ thế,
trong quản lý nhà nước, người ta còn nhận ra vai trò của các nhân tố khác, như kinh
nghiệm cá nhân, kỹ năng, linh cảm, trực giác, cảm hứng sáng tạo của nhà quản lý; đó
là những nhân tố cấu thành “năng lực sáng tạo theo quy luật cái đẹp” của các nhà
lãnh đạo, quản lý, là nghệ thuật quản lý. Như vậy, quản lý nhà nước được nhìn nhận
và tiến hành vừa như một khoa học, vừa như một nghệ thuật. Sự thống nhất giữa
phương diện khoa học và phương diện nghệ thuật trong quản lý nhà nước làm cho
văn hóa của quản lý nhà nước được thể hiện và thực hiện ngày càng đầy đủ, toàn
diện hơn; đồng thời nhân lực, vật lực, tài lực được tiết kiệm, hiệu quả của quản lý
nhà nước được gia tăng.
Ở nước ta, trước thời kỳ đổi mới, phương diện văn hóa của các hoạt động phát triển
xã hội nói chung và hoạt động quản lý nhà nước nói riêng chưa được quan tâm đúng
mức. Nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, xã hội mang nặng tính khép kín, đời sống
xã hội bị chi phối nặng nề bởi các yêu cầu chính trị và luân lý, ... không đòi hỏi cao
và không tạo ra một hệ thống quản lý nhà nước năng động. Ngày nay, sự nghiệp đổi
mới đất nước vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh” đặt ra yêu cầu chuyển biến toàn diện xã hội từ kinh tế kế hoạch hóa tập trung
sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; từ xã hội nông nghiệp lên xã
hội công nghiệp; từ xã hội khép kín chuyển thành xã hội mở cửa, giao lưu; từ xã hội
mang nặng tính luân lý, chính trị sang xã hội công dân, nhà nước pháp quyền. Những
yêu cầu to lớn đó đặt ra trước quản lý nhà nước hàng loạt các vấn đề cần giải quyết.
Đó là các vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa; tích lũy nhanh nguồn vốn cho tăng trưởng kinh tế, mở rộng đầu tư, chuyển giao
công nghệ; xóa đói, giảm nghèo; khắc phục tình trạng phân phối thu nhập quá bất
bình đẳng, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; cùng hàng loạt các vấn đề khác,
như bảo vệ môi trường, kế hoạch hóa dân số, phát triển đời sống văn hóa cho nhân
dân lao động... Chính những điều đó đòi hỏi phải mở rộng và gia tăng phương diện
văn hóa của quản lý nhà nước.
Trong những năm qua, hoạt động quản lý nhà nước ở nước ta đã có những cải cách
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
nhằm thích ứng với yêu cầu mới; “hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước được tăng
cường một bước”(4). Tuy vậy, như đánh giá của Đảng tại Đại hội X, “Bộ máy nhà
nước chậm đổi mới, chưa theo kịp yêu cầu của công cuộc phát triển kinh tế - xã hội.
Những yếu kém của bộ máy quản lý nhà nước chậm được khắc phục”; “Năng lực và
phẩm chất của nhiều cán bộ, công chức còn yếu, một bộ phận không nhỏ thoái hóa,
biến chất. Dân chủ ở nhiều nơi bị vi phạm, kỷ cương phép nước chưa nghiêm. Quan
liêu, tham nhũng, lãng phí còn nghiêm trọng, đặc biệt là tình trạng nhũng nhiễu, cửa
quyền, thiếu trách nhiệm của bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức, nhất là ở các cơ
quan giải quyết công việc cho dân và doanh nghiệp. Bộ máy chính quyền cơ sở nhiều
nơi yếu kém”(5).
Để khắc phục tình trạng đó, cần phải đẩy mạnh hơn nữa cải cách hành chính, làm
cho cải cách hành chính đi vào thực chất, nâng cao hàm lượng văn hoá của quản lý
nhà nước; khắc phục tình trạng “cải cách hành chính chưa đạt yêu cầu”(6) như hiện
nay. Mục tiêu của cải cách hành chính phải nhằm vào việc xây dựng được một hệ
thống quản lý nhà nước đủ mạnh trên các phương diện duy trì trật tự, động viên xã
hội, đổi mới chính sách; các quyết sách phải được khoa học hóa, các quá trình tổ
chức, thực thi phải mang tính chuyên nghiệp, đồng bộ và mang tính nghệ thuật cao...
Điều đó cũng có nghĩa là gia tăng hàm lượng văn hóa cho hoạt động quản lý nhà
nước.
Như đã chỉ ra, văn hóa của quản lý nhà nước thể hiện cả trên phương diện phương
thức quản lý lẫn trên phương diện nhân cách của những người hoạt động trong lĩnh
vực quản lý. Vì vậy, đối với phương thức quản lý, cần phải có những cải cách, đổi
mới cần thiết nhằm đáp ứng các yêu cầu của tình hình hiện nay. Những đổi mới đó
phải nhằm vào những vấn đề chủ yếu sau:
Thứ nhất, cần có cơ chế tăng cường hơn nữa chức năng hiệp đồng của bộ máy hành
chính các cấp. Do xu thế gia tăng chức năng của quản lý nhà nước trong điều kiện
hiện đại, do sự gia tăng quyền tự quyết của chính quyền ở các địa phương, các ngành
nên yêu cầu tăng cường chức năng hiệp đồng nhằm phối hợp giải quyết những vướng
mắc, những mâu thuẫn về quyền hạn, trách nhiệm trong quản lý luôn là vấn đề cần
giải quyết.
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
Thứ hai, tinh giản bộ máy là yêu cầu có tính thường xuyên của cải cách hành chính.
Nó góp phần tiết kiệm nhân lực, tài lực. Cố nhiên, sự tinh giản này đòi hỏi nâng cao
nhân cách, năng lực chuyên môn của đội ngũ công chức.
Thứ ba, thu hẹp phạm vi hành chính của chính phủ, đẩy mạnh xã hội hóa những lĩnh
vực mà chính phủ quản lý kém hiệu quả.
Thứ tư, đẩy mạnh hơn nữa việc áp dụng các thành tựu khoa học - công nghệ hiện đại
vào quản lý, xây dựng chính phủ điện tử, áp dụng các thành tựu của khoa học quản
lý, khoa học nhân văn...
Thứ năm, thực hiện dân chủ hóa hành chính, tăng cường sự tham gia dân chủ vào
quản lý trong nội bộ các cơ quan hành chính; đồng thời, thu hút các đoàn thể xã hội,
quần chúng nhân dân thuộc mọi giới tham gia vào quản lý hành chính, thông qua
trưng cầu dân ý, phản biện xã hội...
Tất cả những cải cách như vậy là nhằm nâng cao hàm lượng văn hoá cho phương
thức quản lý nhà nước, qua đó nâng cao hiệu quả của quản lý nhà nước.
Cùng với cải cách, đổi mới phương thức quản lý là vấn đề con người, chủ thể của
quản lý nhà nước. Đào tạo những nhà quản lý, đội ngũ công chức có văn hóa cao là
đòi hỏi có tính quyết định đối với việc nâng cao hiệu quả của quản lý nhà nước hiện
nay. Thực ra thì phương thức (hoặc công nghệ) quản lý với con người quản lý là hai
phương diện thống nhất một cách hữu cơ trong quản lý nhà nước. Sự đổi mới
phương diện này đòi hỏi đổi mới phương diện kia và ngược lại.
Trong điều kiện hiện nay, những yếu kém, bất cập về nhân cách cán bộ, công chức
trong lĩnh vực quản lý nhà nước thể hiện cả trên bình diện đạo đức lẫn trên bình diện
chuyên môn.
Trên bình diện đạo đức, sự yếu kém trong rèn luyện đạo đức và do đó, khả năng nêu
gương yếu kém là điều đáng quan ngại nhất. Chính điều đó ảnh hưởng không tốt đến
hiệu quả của quản lý nhà nước. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến
vấn đề này. Khi suy ngẫm về nhân cách và ảnh hưởng của nhân cách Lênin đối với
các dân tộc châu Á, Hồ Chí Minh viết: “Không phải chỉ thiên tài của Người, mà
chính là tính coi khinh sự xa hoa, tinh thần yêu lao động, đời tư trong sáng, nếp sống
giản dị, tóm lại là đạo đức vĩ đại và cao đẹp của người Thầy, đã ảnh hưởng lớn lao
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
đến các dân tộc châu Á và đã khiến cho trái tim của họ hướng về Người, không có gì
ngăn cản nổi”(7). Người thường nhắc nhở cán bộ, đảng viên rằng, “Tốt nhất là miệng
nói tay làm, làm gương cho người khác bắt chước”(8). Vì vậy, đẩy mạnh hơn nữa
Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” trong đội
ngũ những người hoạt động trong lĩnh vực quản lý nhà nước là một trong những biện
pháp vừa cấp bách, vừa lâu dài nhằm nâng cao hàm lượng văn hóa của quản lý nhà
nước, qua đó nâng cao hiệu quả của quản lý nhà nước.
Trên bình diện chuyên môn, biểu hiện yếu kém, bất cập nổi bật hiện nay là tính thiếu
chuyên nghiệp. Cụ thể là, vẫn còn những người lãnh đạo, quản lý một lĩnh vực hoạt
động xã hội mà chưa được đào tạo về chuyên môn đủ để đảm bảo cho công tác lãnh
đạo ở lĩnh vực đó. Ngay từ năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói rằng, một
người muốn lãnh đạo ngành hỏa xa thì phải học về ngành đó. Đối với đội ngũ công
chức, tình trạng làm trái ngành nghề hoặc đúng ngành nghề nhưng trình độ chuyên
môn không đáp ứng yêu cầu vẫn còn là hiện tượng phổ biến. Trong những năm gần
đây, việc tổ chức thi tuyển công chức tuy đã được thực hiện, nhưng hiệu quả chưa
cao. Cần nâng cao hơn nữa tính chuyên nghiệpcủa các nhà quản lý và công chức hoạt
động trong bộ máy quản lý nhà nước; tính chuyên nghiệp thể hiện cả ở việc có đủ tri
thức chuyên môn, kỹ năng, sự thành thạo khi giải quyết các công việc chuyên môn
lẫn ở tác phong, ở quan hệ giao tiếp, ứng xử... Tất cả những điều đó biểu hiện văn
hóa, sức mạnh bản chất người, “năng lực sáng tạo theo quy luật cái đẹp” của đội ngũ
cán bộ, công chức; chúng góp phần tạo nên hiệu quả của quản lý nhà nước.
Tóm lại, đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao văn hoá của quản lý nhà nước là
một trong những nhiệm vụ vừa cấp thiết, vừa lâu dài nhằm nâng cao hiệu quả của
quản lý nhà nước trong điều kiện nước ta hiện nay./.
(*) Phó giáo sư, tiến sĩ triết học, Trưởng phòng Đạo đức và Mỹ học, Viện Triết học,
Viện Khoa học xã hội Việt Nam.
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 213.
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.213.
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
(3) Xem: Hành chính học và những vấn đề cải cách hành chính. Nxb Sự thật, Hà
Nội, 1992, tr. 26 – 29.
(4) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X. Sđd., tr.160.
(5) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr. 174 – 175.
(6) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.174.
(7) Hồ Chí Minh. Toàn tập, t.1. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.295.
(8) Hồ Chí Minh. Sđd., t.4, tr.333.
CHỦ NGHĨA TƯ BẢN NHÀ NƯỚC: TỪ QUAN NIỆM CỦA V.I.LÊNIN ĐẾN
SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TA TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI
NGUYỄN VĂN THỨC (*)
Bài viết đã luận giải để làm rõ thêm những tư tưởng của V.I.Lênin về chủ nghĩa tư
bản nhà nước với tính cách “khâu trung gian”, “phòng chờ” đi vào chủ nghĩa xã hội.
Từ đó, tác giả khẳng định sự cần thiết phải vận dụng sáng tạo tư tưởng của V.I.Lênin
về chủ nghĩa tư bản nhà nước trên cơ sở phân tích một số điểm khác biệt về điều kiện
phát triển của nước ta hiện nay so với Liên Xô những năm 20 của thế kỷ trước. Tác
giả tin tưởng rằng, nếu vận dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước một cách khoa học,
chúng ta không những sẽ bắc được “cây cầu nhỏ”, mà còn có thể bắc được “cây cầu
lớn vững chắc, hiện đại” đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Sau hơn 20 năm, bắt đầu từ năm 1986, công cuộc đổi mới ở nước ta đã đạt được
những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Thành tựu này chứng tỏ đường lối đổi
mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
Chủ nghĩa tư bản nhà nước xuất hiện từ cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX và hiện
nay, vẫn tiếp tục tồn tại, phát triển khá mạnh ở nhiều quốc gia. Ở miền Bắc nước ta,
chủ nghĩa tư bản nhà nước dưới hình thức công ty hợp doanh cũng tồn tại từ cuối
những năm 50 của thế kỷ XX nhưng chỉ ít năm sau đó, đã bị thủ tiêu.
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
Từ khi tiến hành công cuộc đổi mới, các Văn kiện Đại hội lần thứ VI, VII, VIII, IX
của Đảng ta ngày càng tiếp cận sâu hơn, đầy đủ hơn và hiệu quả hơn vấn đề chủ
nghĩa tư bản, chủ nghĩa tư bản nhà nước trong bức tranh toàn cảnh đa dạng hoá sở
hữu và các thành phần kinh tế, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa. Trong Văn kiện Đại hội lần thứ X, với tinh thần đẩy mạnh toàn diện công
cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, Đảng ta tiếp tục đề
cập tới vấn đề chủ nghĩa tư bản nhà nước với chủ trương: “Trên cơ sở ba chế độ sở
hữu (toàn dân, tập thể, tư nhân), hình thành nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành
phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư
bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài”(1).
Sinh thời, cả C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin đã nhiều lần nhấn mạnh rằng, chủ
nghĩa xã hội trước hết là sản phẩm khách quan của chủ nghĩa tư bản và điều đó tất
yếu đòi hỏi những người cộng sản, nhân dân lao động cùng với nhà nước kiểu mới
của mình phải biết tiếp thu, kế thừa tất cả các giá trị tiến bộ được tạo ra bởi chủ nghĩa
tư bản để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Do những hạn chế lịch sử, C.Mác
và Ph.Ăngghen đều chưa đề cập đến chủ nghĩa tư bản nhà nước trong học thuyết
kinh tế chính trị học của mình. Vấn đề này đến V.I.Lênin mới được đề cập tới.
Chủ nghĩa tư bản nhà nước được V.I.Lênin vận dụng vào thực tiễn nước Nga năm 1921
trong Chính sách kinh tế mới (NEP), sau bước thử nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội
bằng “con đường trực tiếp” không thành công. Tư tưởng của V.I.Lênin về một kết cấu
kinh tế quá độ với sự đan xen giữa các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, các giai
cấp vô sản, tư sản và tiểu tư sản đã được nêu ra từ năm 1918. Đặc biệt, vị trí và vai trò
lịch sử của chủ nghĩa tư bản nhà nước được V.I.Lênin phân tích rõ ràng trong bài báo
Tai hoạ sắp đến và những phương pháp ngăn ngừa tai hoạ đó. Trong bài báo này,
V.I.Lênin viết: “Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sự chuẩn bị vật chất đầy đủ
nhất cho chủ nghĩa xã hội, là phòng chờ đi vào chủ nghĩa xã hội, là nấc thang lịch sử mà
giữa nó (nấc thang đó) với nấc thang được gọi là chủ nghĩa xã hội thì không có một nấc
thang nào ở giữa cả”(2). Kết luận này của V.I.Lênin đã luận chứng cho quan điểm của
ông về khả năng bùng nổ và thắng lợi của cách mạng vô sản ở một nước riêng lẻ, thậm
chí kém phát triển, trong thời đại đế quốc chủ nghĩa.
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
Chủ nghĩa tư bản nhà nước cũng như chủ nghĩa tư bản độc quyền và chủ nghĩa tư
bản độc quyền nhà nước đều có chung cội nguồn kinh tế sâu xa - đó là quá trình tập
trung hoá và xã hội hoá lực lượng sản xuất một cách tất yếu, khách quan, gắn liền
trước hết với các thành tựu khoa học, kỹ thuật hiện đại đạt được cuối thế kỷ XIX -
đầu thế kỷ XX. Tính chất cạnh tranh ngày càng gay gắt, một mất một còn của nền
sản xuất và tái sản xuất hàng hoá mở rộng không cho phép chủ nghĩa tư bản tiếp tục
tồn tại ở quy mô tư bản cá biệt hoặc công ty cổ phần của các nhà tư bản đã có từ giai
đoạn tự do cạnh tranh. Mặt khác, các quy luật nội tại của phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa ngày càng làm sâu sắc hơn các mâu thuẫn đối kháng giữa giai cấp vô
sản và giai cấp tư sản, giữa đế quốc với đế quốc, giữa đế quốc với thuộc địa. Đó
chính là nguyên nhân cơ bản giải thích sự ra đời tất yếu của chủ nghĩa tư bản nhà
nước với tư cách sự kết hợp giữa nhà nước với chính các tế bào kinh tế. Sự kết hợp
này mang tính tự phát và đã tạo ra cho chủ nghĩa tư bản thời đế quốc một loại hình
quan hệ kinh tế – chính trị độc đáo – chủ nghĩa tư bản nhà nước.
Quá trình vận dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước trong điều kiện Đảng Cộng sản cầm
quyền, Nhà nước kiểu mới của những người cộng sản và nhân dân lao động trực tiếp
quản lý và điều hành xã hội là một quá trình hợp quy luật. Quá trình này ngày càng
mang nhiều yếu tố tự giác hơn và tạo nên địa bàn mới ngày càng thuận lợi hơn cho
sự phát triển hơn nữa của lực lượng sản xuất và đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã
hội trên những cơ sở vững chắc hơn. Về luận điểm này, V.I.Lênin khẳng định: “Chủ
nghĩa tư bản nhà nước sẽ là một sự cứu nguy đối với chúng ta, giá như chúng ta thực
hiện được chủ nghĩa tư bản nhà nước ở nước Nga rồi, thì bước quá độ lên chủ nghĩa
xã hội hoàn toàn là đã dễ dàng, đã nằm gọn trong tay chúng ta rồi, bởi vì chủ nghĩa
tư bản nhà nước là cái gì có tính chất tập trung, được tính toán, được kiểm soát và
được xã hội hoá”(3).
Đối với chủ nghĩa tư bản nhà nước, V.I.Lênin đặc biệt quan tâm tới việc phải thực
hiện nó một cách nghiêm túc và có nguyên tắc. Theo ông, các nước từ sản xuất nhỏ
tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa bắt buộc phải
đi qua “hai cái trạm” là chủ nghĩa tư bản nhà nước và kiểm kê - kiểm soát. Chính
kiểm kê - kiểm soát đảm bảo cho chủ nghĩa tư bản nhà nước vận động theo
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
quỹ đạo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nếu thiếu “cái trạm” này, hoặc có nhưng hoạt
động thiếu nguyên tắc và không có hiệu quả thì chủ nghĩa tư bản nhà nước chỉ mang
lại những điều “xấu xa” như V.I.Lênin đã phân tích trong tác phẩm nổi tiếng Chủ
nghĩa đế quốc – giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản.Và đương nhiên, con đường
tiến lên chủ nghĩa xã hội sẽ không hiện thực.
Việc phân tích lại toàn bộ tình hình về chủ nghĩa tư bản nhà nước và thực tiễn nước Nga
khi đó đã dẫn V.I.Lênin tới kết luận quan trọng rằng, trong điều kiện một nước tiểu nông
kém phát triển, tiềm lực kinh tế, kỹ thuật nhỏ bé, cần phải biết sử dụng các hình thức
kinh tế quá độ. Chính tại đây, vai trò của các quan hệ thị trường và tư bản chủ nghĩa
trong công cuộc xây dựng xã hội mới – xã hội chủ nghĩa - đã được xác định.
Quan niệm chủ yếu của V.I.Lênin là, trong một nước kém phát triển, giai cấp vô sản
không thể tự mình xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Nó cần phải và không thể
không mượn tay, mượn sức của các giai cấp khác (nông dân, tư sản, tiểu tư sản) để
hoàn thành sự nghiệp đó. Lôgíc vấn đề dẫn tới sự cần thiết phải phát triển các quan
hệ thị trường (cơ sở cho sự phát sinh không thể tránh khỏi của các quan hệ tư bản
chủ nghĩa) với tư cách phương pháp, thủ đoạn chứ không phải là mục đích của cách
mạng. Chủ nghĩa tư bản nhà nước trong khuôn khổ đó trở thành hình thức quá độ để
vừa mượn được sức của các giai cấp khác, vừa đảm bảo được tính chất xã hội chủ
nghĩa. Theo nghĩa như vậy, quan điểm sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước trở thành
tư tưởng trung tâm của NEP.
Chủ nghĩa tư bản nhà nước trong quan niệm của V.I.Lênin là kết quả chung của hai
xu hướng vận động trong đời sống thực tiễn. Xu hướng thứ nhất bắt nguồn từ việc
chấp nhận các quan hệ thị trường để thuyết phục người tiểu nông và thiết lập liên
minh kinh tế giữa giai cấp vô sản (thông qua đại diện của nó là Nhà nước vô sản) với
giai cấp nông dân trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Sự chấp nhận đó,
trong điều kiện một nước tiểu nông, tất yếu sinh ra các quan hệ tư bản chủ nghĩa.
Vấn đề đặt ra là làm thế nào, bằng hình thức nào để hướng sự phát triển tự phát đó
vào quỹ đạo, đặt nó dưới sự kiểm soát của Nhà nước và có lợi cho chủ nghĩa xã hội.
Câu trả lời là chủ nghĩa tư bản nhà nước. Xu hướng thứ hai nảy sinh ra từ chính nhu
cầu nội tại của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Để hoàn thành sứ mạng này,
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
Nhà nước vô sản cần có vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm tổ chức và quản lý cao cấp, cũng
như cần có các quan hệ kinh tế xã hội hoá, mà tất cả những yếu tố đó chỉ có thể có được
từ các nước tư bản chủ nghĩa phát triển, từ các công ty của nó. Với nhận thức rằng, đó là
những thành tựu của lịch sử phát triển của nhân loại, việc tận dụng chúng thông qua
quan hệ hợp tác với các nước tư bản chủ nghĩa và công ty của chúng trở thành một yêu
cầu chính đáng và có tính bắt buộc đối với những nước đi sau. Cách thức để đáp ứng
nhu cầu này, về nguyên tắc, cũng thông qua chủ nghĩa tư bản nhà nước.
Vậy, vấn đề chủ nghĩa tư bản nhà nước trong chiến lược phát triển kinh tế của Việt
Nam hiện nay cần được quan niệm như thế nào? Chủ nghĩa tư bản nhà nước trong
điều kiện của Việt Nam hiện nay là chủ nghĩa tư bản nhà nước đặc biệt –chủ nghĩa
tư bản nhà nước kiểu mới – là sự kết hợp giữa tư bản và Nhà nước vô sản, được thực
hiện trong điều kiện Đảng Cộng sản cầm quyền và được quản lý điều hành trực tiếp
bởi Nhà nước kiểu mới – Nhà nước của dân, do dân và vì dân, vận động trong quỹ
đạo định hướng xã hội chủ nghĩa và tạo điều kiện cho đất nước tiến lên chủ nghĩa xã
hội từng bước vững chắc.
Với quan niệm phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, việc
trở lại vấn đề chủ nghĩa tư bản nhà nước ở nước ta hiện nay trở thành không thể
tránh khỏi, xét từ bất cứ góc độ nào. Định hướng xã hội chủ nghĩa (dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh) và mục tiêu phát triển với tốc độ cao và
lâu bền được thực hiện trong điều kiện thách thức gay gắt của thời đại đã và đang đặt
ra hai vấn đề phải đồng thời được giải quyết:
Một là, nguồn vốn. Đối với một nước nghèo như nước ta, nguồn vốn là vấn đề sống
còn của bất kỳ định hướng phát triển nào. Lôgíc vấn đề dẫn tới chỗ làm sao để huy
động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực cả trong lẫn ngoài nước.
Hai là, lựa chọn các hình thức kinh tế quá độ thích hợp. Mục tiêu của sự lựa chọn
này là nâng cao trình độ xã hội hoá các quan hệ kinh tế, đồng thời thoả mãn yêu cầu
về một định hướng phát triển cụ thể của quá trình xã hội hoá đó - định hướng xã hội
chủ nghĩa.
Trong những năm qua, đường lối của Đảng và Nhà nước ta về phát triển kinh tế thị
trường, khuyến khích sự phát triển của các thành phần kinh tế và khai thông các
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
dòng vốn quốc tế được thực hiện khá thành công. Trong một chừng mực nào đó,
đường lối này đáp ứng tích cực nhu cầu về nguồn lực phát triển và nâng cao trình độ
xã hội hoá của nền kinh tế. Trên quan điểm mácxít, đây là một bước tiến thực sự lên
chủ nghĩa xã hội.
Song, cho đến nay, chúng ta vẫn chưa xác định rõ ràng và cụ thể về các phương thức
kinh tế có khả năng thoả mãn cả hai yêu cầu: nguồn vốn cho tăng trưởng và bảo đảm
bảo định hướng trong khuôn khổ phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa (vì các nguồn vốn nước ngoài, trên thực tế, chủ yếu là từ các nước và các
công ty tư bản chủ nghĩa).
Vì những lẽ đó, chủ nghĩa tư bản nhà nước trong điều kiện Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa và trong khuôn khổ định hướng xã hội chủ nghĩa là vấn đề cần phải
được đặt ra và có kết luận rõ ràng.
Vấn đề chủ nghĩa tư bản nhà nước ở nước ta hiện nay, trên nhiều điểm có tính
nguyên tắc là trùng hợp với cách đặt vấn đề của V.I.Lênin cách đây hơn 80 năm. Tuy
nhiên, cần nhận thức rõ ràng sự khác biệt của hoàn cảnh phát triển giữa nước ta hiện
nay và Liên Xô những năm 20 của thế kỷ trước (bao gồm trong đó cả những khác
biệt căn bản về điều kiện quốc tế) là yếu tố chế định một cách tiếp cận hiện đại đối
với vấn đề chủ nghĩa tư bản nhà nước. Những điểm khác biệt chủ yếu về điều kiện
phát triển đó là:
* Hệ thống kinh tế thế giới mở cửa, quan hệ hợp tác giữa các quốc gia, giữa các tổ
chức kinh tế quốc tế với từng quốc gia riêng biệt trở nên cởi mở hơn và bình đẳng
hơn. Tính tương thuộc trong phát triển giữa các nước trở thành quan hệ chủ đạo
trong hệ thống kinh tế đó. Tương ứng với sự thay đổi đó là tính đa dạng về hình thức
hợp tác kinh tế.
* Sự đối đầu về quân sự ít gay gắt hơn, nhường vị trí ưu tiên cho cuộc đua tranh –
cạnh tranh phát triển kinh tế hết sức quyết liệt. Thay cho chiến tranh xâm lược dựa
trên bạo lực quân sự là một hình thái chiến tranh mới – chiến tranh kinh tế. Sự sống
còn của một quốc gia, theo nghĩa đó, tùy thuộc chủ yếu vào năng lực phát triển kinh
tế của nó.
* Khác với nước Nga Xô viết những năm đầu thập niên 20 của thế kỷ trước, ở nước ta
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
hiện nay, địa vị thống trị của Đảng Cộng sản và Nhà nước vô sản đã được củng cố vững
chắc và là yếu tố quy định định hướng phát triển chính trị – xã hội của đất nước.
* Giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức Việt Nam chấp nhận sự lãnh đạo của Đảng
và Nhà nước với lòng tin mạnh mẽ. Điều này đã được kiểm chứng trong nhiều thập
niên khó khăn của cách mạng và gần đây nhất, trong những năm đổi mới kinh tế theo
hướng xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
* Nếu như trước kia, ở nước Nga Xô viết, việc phát triển các quan hệ thị trường mới
chỉ diễn ra trong một bước thử nghiệm ngắn ngủi cùng với NEP, thì ở nước ta hiện
nay, bước thử nghiệm chuyển sang phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa đã trải qua hơn 20 năm và đạt được những thành tựu quan trọng có ý
nghĩa lịch sử. Ở mức độ cao hơn, nó được khẳng định là hướng phát triển tất yếu và
lâu dài của nền kinh tế.
* Một khác biệt rất căn bản khác là Việt Nam hiện nay có điều kiện kế thừa và lựa
chọn kinh nghiệm thực tiễn của nhiều nước trong việc thực thi vai trò điều tiết kinh
tế của Nhà nước, kể cả trong nền kinh tế thị trường cũng như trong việc phát triển sở
hữu tư bản nhà nước với nhiều hình thức đa dạng của nó. Một trong những vấn đề
mấu chốt nhất về chủ nghĩa tư bản nhà nước là vấn đề xác định rõ những giới hạn
phát triển, các biện pháp kiểm soát và điều tiết của Nhà nước đã được không ít nước
giải quyết thành công trong sự phù hợp với điều kiện của họ. Thực tiễn đó có thể gợi
ý rất nhiều điều bổ ích cho các nước đi sau, trong đó có Việt Nam.
* Trong nền kinh tế thị trường, các hình thức sở hữu khác nhau được nhìn nhận theo
hiệu quả kinh tế là chủ yếu. Trong nền kinh tế đó, không nên coi hình thức sở hữu
này là tiến bộ, còn hình thức sở hữu kia thì không. Người ta chỉ phân biệt các hình
thức sở hữu ấy về mặt luật pháp; sở hữu hợp pháp hay không hợp pháp, còn về mặt
kinh tế, chúng được đánh giá dựa trên mức độ hiệu quả kinh tế. Sự chuyển dịch của
các hình thức sở hữu trước hết là do chính bản thân các chủ thể sở hữu quyết định và
sâu xa hơn, chủ yếu hơn, là do đòi hỏi khách quan của sự phát triển sản xuất. Do vậy,
không thể dùng những biện pháp cưỡng bức để thực hiện sự chuyển dịch này. Một
người có cổ phần, có quyền bán cổ phần này để mua cổ phần khác, tùy theo sự lựa
chọn của anh ta. Trong những trường hợp chuyển dịch sở hữu theo quy định của luật
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
pháp, thì sự chuyển dịch ấy cũng tuân theo nguyên tắc bảo vệ quyền sở hữu của
những người chủ sở hữu. Chuyển dịch sở hữu không hoàn toàn có nghĩa là xoá bỏ sở
hữu. Tất cả các hình thức sở hữu và các thành phần kinh tế tác động qua lại, đan xen
và chính sự đan xen đó đã hình thành hình thức sở hữu hỗn hợp, mang tính phổ biến
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Sự dung hợp giữa sở hữu nhà
nước và sở hữu của nhà tư bản (trong và ngoài nước) trở thành sở hữu chung của nhà
nước và nhà tư bản. Đây chính là hình thức sở hữu đặc trưng nhất của một thời kỳ
quá độ lâu dài, như V.I.Lênin từng gọi, là thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội, là thời kỳ nhà tư bản cày trên luống cày của chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa xã hội ra đời từ những gì mà chủ nghĩa tư bản đã đạt được, là thời kỳ không
còn chủ nghĩa tư bản thuần tuý nhưng cũng chưa có chủ nghĩa xã hội đầy đủ, thời kỳ
mà nhân dân đang bắc những nhịp cầu nhỏ vững chắc đi lên chủ nghĩa xã hội.
Thực hiện chủ nghĩa tư bản nhà nước là một trong những định hướng hợp quy luật để
cải tạo nền kinh tế nước ta theo hướng chủ nghĩa xã hội. Nói cách khác, chủ nghĩa tư
bản nhà nước là “cầu nối”, là “nấc thang” trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội. Vị trí, vai
trò của chủ nghĩa tư bản nhà nước được biểu hiện ở các mặt sau:
Thứ nhất, chủ nghĩa tư bản nhà nước là phương thức cải tạo có hiệu quả nền kinh tế
còn kém phát triển của nước ta, sớm tạo dựng được các cơ sở công nghiệp lớn và tạo
ra địa bàn mới để phát triển nhanh chóng lực lượng sản xuất với trình độ xã hội hoá
ngày càng cao. Một mặt, nó thúc đẩy nhanh sự phát triển các hình thức sở hữu và các
thành phần kinh tế. Mặt khác, nó dẫn dắt và làm chuyển hoá các hình thức sở hữu và
các thành phần kinh tế vận động theo quỹ đạo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, chủ nghĩa tư bản nhà nước góp phần quan trọng vào việc giải phóng các lực
lượng sản xuất và các tiềm năng của đất nước. Nó thu hút và phát huy tối đa các nguồn
lực trong và ngoài nước, đồng thời là công cụ hữu hiệu để thực hiện công nghiệp hoá,
hiện đại hoá và đảm bảo cho nền kinh tế nước ta phát triển một cách độc lập, tự chủ.
Thứ ba, chủ nghĩa tư bản nhà nước có tính chất “tập trung”, “được tính toán”, “được
kiểm soát và xã hội hoá” nên nó là một trong những phương thức tổ chức và quản lý
nền sản xuất lớn, hiện đại. Nó cũng là phương tiện có hiệu quả để thay thế, sửa chữa
những hạn chế của cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp, góp phần chống nạn
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
tham nhũng và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước chủ yếu bằng các giải pháp kinh
tế đối với các hoạt động của nền kinh tế và chống lại chủ nghĩa quan liêu, bệnh giấy
tờ, hình thức chủ nghĩa đang còn ít nhiều tồn tại ở nước ta.
Thứ tư, doanh nghiệp cổ phần sẽ ngày càng phát triển và trở thành hình thức tổ chức
kinh tế phổ biến trong nền kinh tế của nước ta. Doanh nghiệp nhà nước, kể cả một số
tổng công ty nhà nước cũng đang được đẩy mạnh cổ phần hoá trên diện rộng. Trong
vấn đề này, với tính chất hiện đại và tính đa dạng được thực hiện thông qua các hình
thức kinh tế cụ thể, chủ nghĩa tư bản nhà nước là yếu tố định hướng xã hội chủ nghĩa
trực tiếp đối với các hình thức sở hữu và các thành phần kinh tế. Qua đó, chủ nghĩa
tư bản nhà nước thúc đẩy xã hội hoá sản xuất kinh doanh và sở hữu. Với tính chất là
một phương thức tổ chức kinh tế – chính trị hiện đại, chủ nghĩa tư bản nhà nước là
yếu tố quan trọng giúp chúng ta hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa với ba nội dung cụ thể là: nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý của nhà
nước; phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành của các loại thị trường
cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh; phát triển mạnh các thành phần kinh tế,
các loại hình tổ chức sản xuất, kinh doanh. Đồng thời, chủ nghĩa tư bản nhà nước
cũng là một phương thức hiệu quả để đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế trong bối cảnh toàn cầu
hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển.
Trên cơ sở nhận thức ngày càng sâu sắc về vai trò và ý nghĩa của kinh tế tư bản nhà
nước đối với sự phát triển kinh tế nói riêng và sự phát triển đất nước nói chung, tại
Đại hội lần thứ IX, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Phát triển đa dạng kinh tế
tư bản nhà nước dưới các hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế nhà nước với
kinh tế tư bản tư nhân trong nước và ngoài nước…”(4). Tiếp tục quan điểm đó, Đại
hội X của Đảng nhấn mạnh kinh tế tư bản nhà nước là bộ phận hợp thành quan trọng
của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, được đối xử bình đẳng trước
pháp luật, cùng tồn tại và phát triển lâu dài bên cạnh các thành phần kinh tế khác.
Trong điều kiện nước ta hiện nay, vận dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước là một tất
yếu, hợp quy luật. Để thực hiện thắng lợi chủ nghĩa tư bản nhà nước kiểu mới –sự
kết hợp biện chứng giữa tư bản và Nhà nước vô sản – chủ thể kinh tế –chính trị kiểu
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
mới của những người cộng sản và nhân dân lao động, chúng ta cần mạnh dạn đổi
mới trong cả lĩnh vực tư duy và tổ chức hoạt động thực tiễn. Nếu nhận thức và vận
dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước kiểu mớimột cách nghiêm túc và có nguyên tắc như
di huấn của V.I.Lênin để lại, chúng ta chẳng những bắc được những “nhịp cầu nhỏ”,
mà còn có đủ điều kiện bắc được “cây cầu lớn, vững chắc, hiện đại” để đưa đất nước
tiến lên chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng.r
(*) Tiến sĩ, Trưởng phòng Đào tạo và Quản lý khoa học, Viện Triết học, Viện Khoa
học xã hội Việt Nam.
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.83.
(2) V.I.Lênin. Toàn tập, t.34. Nxb Tíến bộ, Mátxcơva, 1976, tr. 258.
(3) V.I.Lênin. Sđd., t.36, tr.311.
(4) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX.Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.99.
CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN Ở
VIỆT NAM: MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ HƯỚNG GIẢI QUYẾT
TRẦN ĐẮC HIẾN (*)
Trong bài viết này, tác giả đã phân tích một số vấn đề đặt ra từ thực tiễn tiến hành
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở nước ta hiện nay. Cụ thể là:
1. Chưa thúc đẩy nông nghiệp, nông thôn phát triển theo hướng hiện đại; 2. Tạo ra áp
lực lớn về việc làm cho nông dân bị thu hồi đất canh tác; 3. Làm gia tăng sự phân hoá
giàu nghèo; 4. Gây ô nhiễm môi trường,… Trên cơ sở đó, tác giả luận chứng những
biện pháp cần thiết để giải quyết, khắc phục những vấn đề nảy sinh nhằm nâng cao hiệu
quả của tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.
Hiểu một cách chung nhất, công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình phát triển sản
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
xuất và quản lý kinh tế, xã hội dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa
học – công nghệ nhằm tạo ra năng suất lao động xã hội cao. Ngày nay, quá trình
công nghiệp hoá gắn liền với hiện đại hoá. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là con
đường tất yếu để phát triển của các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là những nước
nông nghiệp lạc hậu như Việt Nam.
Ở Việt Nam, chủ trương công nghiệp hoá lần đầu tiên được đưa ra tại Đại hội lần thứ
III của Đảng (năm 1960), với quan điểm: xây dựng một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa
cân đối, hiện đại, kết hợp công nghiệp với nông nghiệp, lấy công nghiệp nặng làm
nền tảng, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời phát triển
nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, nhằm biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc
hậu thành một nước công nghiệp hiện đại. Quan điểm này tiếp tục được khẳng định
tại Đại hội lần thứ IV (năm 1976) và thời gian hoàn thành xây dựng nền sản xuất lớn
xã hội chủ nghĩa cũng được xác định cụ thể, đó là sau khoảng 20 năm. Tuy nhiên, sự
nóng vội trong việc xác định bước đi cũng như sai lầm trong sự lựa chọn ưu tiên giữa
công nghiệp và nông nghiệp đã dẫn đến những khó khăn trầm trọng về kinh tế - xã
hội trên phạm vi cả nước. Với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự
thật và nói rõ sự thật”, Đại hội lần thứ VI của Đảng (1986) đã nghiêm khắc chỉ ra
những hạn chế, sai lầm trong chủ trương thực hiện công nghiệp hoá những năm 1976
- 1980; đồng thời, chỉ ra nhiệm vụ trọng tâm là tiếp tục xây dựng những tiền đề cần
thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong chặng đường tiếp theo.
Đến Đại hội lần thứ VII (1991), việc chuẩn bị tiền đề để chuyển sang thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đã được hoàn thành cơ bản. Đặc biệt,
tại Đại hội lần thứ IX (2001), Đảng đã thông qua Chiến lược đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền tảng để đưa nước
ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp hiện đại vào năm 2020, trong đó lấy công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn làm trọng tâm. Đại hội lần thứ X
của Đảng (năm 2006) tiếp tục khẳng định: “đẩy mạnh hơn nữa công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn, giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp,
nông thôn và nông dân”(1).
Đến nay, việc thực hiện đường lối công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
thôn đã đạt được những thành tựu đáng kể, tạo sự chuyển biến tích cực trong kinh tế
nông thôn cũng như trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, đồng thời
kéo theo nhiều đổi thay ở các lĩnh vực khác của đời sống xã hội nông thôn. Mặc dù
vậy, nhiều vấn đề kinh tế, xã hội bức xúc thể hiện sự bất cập, hạn chế của quá trình
này cũng đã xuất hiện và có diễn biến phức tạp, đòi hỏi phải được nhận thức và giải
quyết. Cụ thể là:
Thứ nhất, về cơ bản, quá trình công nghiệp hoá hiện còn chưa thúc đẩy sự phát triển
của nông nghiệp, nông thôn theo hướng hiện đại. Theo quy luật, trong quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, cùng với sự phát triển kinh tế, cơ
cấu kinh tế nông nghiệp sẽ chuyển dần từ thuần trồng trọt, sản xuất lương thực sang
đa dạng hoá cây trồng, rồi đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp, tỷ trọng chăn nuôi,
thuỷ sản, cây ăn quả, cây công nghiệp tăng dần; trong cơ cấu kinh tế nông thôn, tỷ
trọng các ngành nghề phi nông nghiệp cũng dần chiếm ưu thế. Nhưng thực tế phát
triển ở nước ta thời gian qua cho thấy, việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế ở nông thôn
diễn ra rất chậm chạp, chủ yếu dưới dạng làng nghề, phân tán rải rác khắp nơi với
quy mô nhỏ và công nghệ đơn giản. Nguyên nhân chủ yếu là do, trong nhiều năm,
hầu như mọi nguồn lực ở các địa phương đều tập trung cho công nghiệp hoá, mà có
phần xem nhẹ hoặc đầu tư chưa thoả đáng cho phát triển nông nghiệp, nông thôn.
Nói cách khác, công nghiệp hoá đã góp phần đô thị hoá nông thôn nhiều hơn là hiện
đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Một số năm gần đây, Chính phủ đã có nhiều cố
gắng tăng mức ngân sách đầu tư phát triển nông thôn (nông lâm nghiệp, thuỷ lợi,
giao thông nông thôn, điện sinh hoạt...), song nhìn chung tỷ trọng còn thấp so với
tổng đầu tư xã hội và nhà nước. Điều đó dẫn đến cơ sở hạ tầng nông thôn còn ở mức
thấp kém, khoa học - kỹ thuật chậm phát triển. Mặc dù Chính phủ khuyến khích sự
hợp tác giữa “bốn nhà” (Nhà nước, nhà nông, nhà khoa học và nhà doanh nghiệp)
trong quá trình phát triển nền sản xuất nông nghiệp hàng hoá hiện đại, nhưng trên
thực tế, sự hợp tác này vẫn chưa có hiệu quả. Trong khoảng 15 năm gần đây, một số
thành tựu công nghệ sinh học đã được ứng dụng trong sản xuất nông nghiệp (chăn
nuôi, trồng trọt), song còn hạn chế về quy mô, mức độ và do vậy, chưa thực sự nâng
cao năng suất, chất lượng và tính cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá nông nghiệp
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
trên thị trường; việc cơ giới hoá cũng được áp dụng trong sản xuất nông nghiệp,
nhưng lao động thủ công vẫn phổ biến và chiếm khoảng 70%.
Thứ hai, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn đã góp phần thúc đẩy
sự ra đời và phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu đô thị. Tuy nhiên,
không thể không tính đến một mặt trái là quá trình đó làm giảm số lượng đất sản xuất
nông nghiệp, làm tăng số nông dân không có đất canh tác, dẫn đến tình trạng thất
nghiệp ngày càng lớn, tạo ra áp lực về lao động, việc làm ở nông thôn. Ở những tỉnh
có tốc độ công nghiệp hoá nhanh, các khu công nghiệp ra đời hàng loạt, đất nông
nghiệp bị chuyển đổi mục đích sử dụng sang phát triển công nghiệp và xây dựng kết
cấu hạ tầng ngày càng nhiều. Theo báo cáo của Bộ Tài nguyên và Môi trường về
thực hiện Kế hoạch sử dụng đất giai đoạn 2001 - 2005, tổng diện tích đất nông
nghiệp đã thu hồi để chuyển sang đất phi nông nghiệp trên địa bàn toàn quốc là
366,44 nghìn ha (chiếm 3,89% đất nông nghiệp đang được sử dụng), trong đó diện
tích đất trồng lúa đã thu hồi để xây dựng các khu công nghiệp là 15.383 ha, xây dựng
đô thị là 70,322 ha, xây dựng hạ tầng là 136,175 ha. Diện tích đất nông nghiệp bị thu
hồi phần lớn là vùng đất tốt, có cơ sở hạ tầng thuận lợi cho việc canh tác, lại tập
trung vào một số xã có mật độ dân số cao, trong đó có xã bị thu hồi 70 - 80% tổng
diện tích đất canh tác(2). Kết quả tổng hợp từ các địa phương cho thấy, có khoảng 10
- 20% số hộ bị thu hồi 100% đất sản xuất, khoảng 20% số hộ bị thu hồi 2/3 đất sản
xuất, còn lại khoảng 60% số hộ bị thu hồi 1/2 diện tích. Trung bình mỗi hộ nông dân
có khoảng 1,5 lao động và mỗi ha đất thu hồi sẽ ảnh hưởng tới việc làm của trên 10
lao động nông nghiệp. Như vậy, việc thu hồi đất nông nghiệp trong những năm qua
đã ảnh hưởng tới đời sống của 627.495 hộ gia đình, khoảng 950.000 lao động và 2,5
triệu nông dân(3). Khi ruộng đất bị Nhà nước thu hồi để sử dụng vào mục đích phát
triển công nghiệp, các thành viên của nhiều gia đình nông dân trở thành thất nghiệp
ngay trên quê hương mình và sống dựa vào số tiền đền bù đất bị thu hồi. Do không
có kế hoạch đầu tư cho việc học nghề, tạo việc làm mới nên số tiền đền bù rồi cũng
bị tiêu dùng hết, người nông dân lại đổ ra thành phố kiếm việc làm thuê, làm mướn...
Những năm qua, công tác giải quyết việc làm cho lực lượng lao động thất nghiệp
thuộc khu vực nông nghiệp và nông thôn chưa được các cấp, các ngành chức năng
Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
quan tâm đúng mức, vì tư tưởng cho rằng đó là việc của nông dân và chính quyền địa
phương. Việc thu hút lao động tại chỗ vào làm việc tại các khu công nghiệp được xác
định là ưu tiên số một, là trách nhiệm của các ngành, các cấp và nhất là các địa
phương có khu công nghiệp, là nghĩa vụ của các doanh nghiệp trong khu công
nghiệp, nhưng trên thực tế chưa giải quyết được bao nhiêu. Tỉ lệ nông dân và con em
của họ vào làm việc ở các doanh nghiệp trong các khu, điểm công nghiệp rất thấp,
chỉ khoảng 15 - 20%. Tình trạng thất nghiệp trong nông dân đang trở nên phổ biến
và là vấn đề xã hội cấp thiết cần được các ngành chức năng quan tâm giải quyết, nếu
không sẽ tiềm ẩn nguy cơ gây mất ổn định xã hội không chỉ ở khu vực nông thôn, mà
cả khu vực thành thị.
Bên cạnh đó, việc phát triển các khu công nghiệp vừa góp phần nâng cao hiệu quả sử
dụng đất, song cũng có phần làm lãng phí đất đai. Rõ ràng là, trên cùng một diện tích
đất, đầu tư xây dựng khu công nghiệp, khu chế xuất sẽ đem lại hiệu quả cao hơn
nhiều so với sản xuất thuần nông. Bình quân 1 ha đất nông nghiệp chỉ sử dụng 4 - 5
lao động, tạo ra giá trị kinh tế khoảng 10 triệu đồng/năm; trong khi đó, cũng với diện
tích này, các khu công nghiệp, khu chế xuất sử dụng từ 80 - 100 lao động, tạo ra
khoảng 30 tỷ đồng/năm. Tuy nhiên, việc lãng phí đất đai do tình trạng quy hoạch
“treo” quá lâu, dự án thiếu tính khả thi, hoặc không thể lấp đầy quá 60% diện tích là
khá phổ biến. Theo thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính đến tháng 6/2007, cả
nước đã có 148 khu công nghiệp, khu chế xuất (145 khu công nghiệp và 3 khu chế
xuất) với tổng diện tích đất tự nhiên là 32.120 ha, được phân bố trên 49 địa phương.
Tuy nhiên, mới chỉ có 90 khu công nghiệp đã đi vào hoạt động với tổng diện tích đất
tự nhiên là 19.790 ha, 58 khu công nghiệp đang trong giai đoạn đền bù giải phóng
mặt bằng và xây dựng cơ bản(4). Nhiều khu công nghiệp có tỷ lệ lấp đầy rất thấp.
Chẳng hạn, khu công nghiệp Tân Hương (Tiền Giang) rộng 197 ha, từ năm 2004 đến
nay mới cho thuê được 1ha; khu công nghiệp Nam Đông Hà (Quảng Trị) rộng 99 ha,
từ năm 2004 đến nay mới cho thuê được 3 ha; khu công nghiệp Ninh Phúc (Ninh
Bình) rộng 334 ha, từ năm 2003 đến nay mới cho thuê được 48 ha... Trong khi đất
khu công nghiệp bị bỏ hoang hoá thì người nông dân lại trở thành “tha nhân”, không
có đất để sản xuất. Tất cả những cái đó dễ gây tâm lý ức chế, bất bình trong nông dân
Tiểu luận về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.doc
Tiểu luận về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.doc
Tiểu luận về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.doc
Tiểu luận về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.doc
Tiểu luận về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.doc
Tiểu luận về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.doc
Tiểu luận về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.doc
Tiểu luận về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.doc
Tiểu luận về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.doc
Tiểu luận về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.doc
Tiểu luận về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.doc
Tiểu luận về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.doc
Tiểu luận về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.doc
Tiểu luận về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.doc
Tiểu luận về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.doc
Tiểu luận về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.doc
Tiểu luận về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.doc
Tiểu luận về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.doc
Tiểu luận về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.doc
Tiểu luận về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.doc
Tiểu luận về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.doc
Tiểu luận về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.doc
Tiểu luận về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.doc
Tiểu luận về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.doc
Tiểu luận về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.doc
Tiểu luận về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.doc
Tiểu luận về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.doc
Tiểu luận về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.doc
Tiểu luận về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.doc
Tiểu luận về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.doc
Tiểu luận về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.doc
Tiểu luận về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.doc
Tiểu luận về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.doc
Tiểu luận về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.doc
Tiểu luận về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.doc
Tiểu luận về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.doc
Tiểu luận về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.doc
Tiểu luận về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.doc
Tiểu luận về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.doc
Tiểu luận về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.doc
Tiểu luận về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.doc
Tiểu luận về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.doc
Tiểu luận về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.doc
Tiểu luận về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.doc
Tiểu luận về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.doc
Tiểu luận về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.doc
Tiểu luận về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.doc
Tiểu luận về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.doc
Tiểu luận về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.doc
Tiểu luận về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.doc
Tiểu luận về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.doc
Tiểu luận về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.doc
Tiểu luận về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.doc
Tiểu luận về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.doc
Tiểu luận về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.doc
Tiểu luận về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.doc
Tiểu luận về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.doc
Tiểu luận về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.doc
Tiểu luận về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.doc

More Related Content

Similar to Tiểu luận về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.doc

Nhà nước pháp quyền trong tư tưởng John Locke và ý nghĩa hiện thời - Gửi miễn...
Nhà nước pháp quyền trong tư tưởng John Locke và ý nghĩa hiện thời - Gửi miễn...Nhà nước pháp quyền trong tư tưởng John Locke và ý nghĩa hiện thời - Gửi miễn...
Nhà nước pháp quyền trong tư tưởng John Locke và ý nghĩa hiện thời - Gửi miễn...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận án: Vấn đề nhà nước pháp quyền trong tư tưởng John Locke và ý nghĩa hiện...
Luận án: Vấn đề nhà nước pháp quyền trong tư tưởng John Locke và ý nghĩa hiện...Luận án: Vấn đề nhà nước pháp quyền trong tư tưởng John Locke và ý nghĩa hiện...
Luận án: Vấn đề nhà nước pháp quyền trong tư tưởng John Locke và ý nghĩa hiện...Viết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 
Công tác kiểm tra, giám sát của đảng trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp q...
Công tác kiểm tra, giám sát của đảng trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp q...Công tác kiểm tra, giám sát của đảng trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp q...
Công tác kiểm tra, giám sát của đảng trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp q...jackjohn45
 
TS. BÙI QUANG XUÂN - NHANUOC.docx
TS. BÙI QUANG XUÂN  -  NHANUOC.docxTS. BÙI QUANG XUÂN  -  NHANUOC.docx
TS. BÙI QUANG XUÂN - NHANUOC.docxBùi Quang Xuân
 
Ảnh hưởng của tư tưởng trị quốc Nho giáo xây dựng Nhà nước, HAY - Gửi miễn ph...
Ảnh hưởng của tư tưởng trị quốc Nho giáo xây dựng Nhà nước, HAY - Gửi miễn ph...Ảnh hưởng của tư tưởng trị quốc Nho giáo xây dựng Nhà nước, HAY - Gửi miễn ph...
Ảnh hưởng của tư tưởng trị quốc Nho giáo xây dựng Nhà nước, HAY - Gửi miễn ph...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận án: Ảnh hưởng của tư tưởng trị quốc Nho giáo đối với việc xây dựng Nhà n...
Luận án: Ảnh hưởng của tư tưởng trị quốc Nho giáo đối với việc xây dựng Nhà n...Luận án: Ảnh hưởng của tư tưởng trị quốc Nho giáo đối với việc xây dựng Nhà n...
Luận án: Ảnh hưởng của tư tưởng trị quốc Nho giáo đối với việc xây dựng Nhà n...Viết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 
ảNh hưởng của tư tưởng trị quốc nho giáo đối với việc xây dựng nhà nước pháp ...
ảNh hưởng của tư tưởng trị quốc nho giáo đối với việc xây dựng nhà nước pháp ...ảNh hưởng của tư tưởng trị quốc nho giáo đối với việc xây dựng nhà nước pháp ...
ảNh hưởng của tư tưởng trị quốc nho giáo đối với việc xây dựng nhà nước pháp ...jackjohn45
 
Tai_lieu_on_mon_KTC_20190905112352915910.pdf
Tai_lieu_on_mon_KTC_20190905112352915910.pdfTai_lieu_on_mon_KTC_20190905112352915910.pdf
Tai_lieu_on_mon_KTC_20190905112352915910.pdfMaiPhuong883623
 
Tiểu Luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước trong sạch vững mạnh hiệu...
Tiểu Luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước trong sạch vững mạnh hiệu...Tiểu Luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước trong sạch vững mạnh hiệu...
Tiểu Luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước trong sạch vững mạnh hiệu...Nhận Viết Đề Tài Trọn Gói ZALO 0932091562
 

Similar to Tiểu luận về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.doc (20)

Luận văn: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền
Luận văn: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyềnLuận văn: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền
Luận văn: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền
 
Nhà nước pháp quyền trong tư tưởng John Locke và ý nghĩa hiện thời - Gửi miễn...
Nhà nước pháp quyền trong tư tưởng John Locke và ý nghĩa hiện thời - Gửi miễn...Nhà nước pháp quyền trong tư tưởng John Locke và ý nghĩa hiện thời - Gửi miễn...
Nhà nước pháp quyền trong tư tưởng John Locke và ý nghĩa hiện thời - Gửi miễn...
 
Luận án: Vấn đề nhà nước pháp quyền trong tư tưởng John Locke và ý nghĩa hiện...
Luận án: Vấn đề nhà nước pháp quyền trong tư tưởng John Locke và ý nghĩa hiện...Luận án: Vấn đề nhà nước pháp quyền trong tư tưởng John Locke và ý nghĩa hiện...
Luận án: Vấn đề nhà nước pháp quyền trong tư tưởng John Locke và ý nghĩa hiện...
 
Phonnnn
PhonnnnPhonnnn
Phonnnn
 
Phonnnn
PhonnnnPhonnnn
Phonnnn
 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và vận dụng trong cải cách
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và vận dụng trong cải cáchTư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và vận dụng trong cải cách
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và vận dụng trong cải cách
 
Công tác kiểm tra, giám sát của đảng trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp q...
Công tác kiểm tra, giám sát của đảng trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp q...Công tác kiểm tra, giám sát của đảng trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp q...
Công tác kiểm tra, giám sát của đảng trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp q...
 
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAYChế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
 
Luận văn: Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, HAY
Luận văn: Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, HAYLuận văn: Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, HAY
Luận văn: Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, HAY
 
TS. BÙI QUANG XUÂN - NHANUOC.docx
TS. BÙI QUANG XUÂN  -  NHANUOC.docxTS. BÙI QUANG XUÂN  -  NHANUOC.docx
TS. BÙI QUANG XUÂN - NHANUOC.docx
 
LUẬN VĂN XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN VIỆT NAM.doc
LUẬN VĂN XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN VIỆT NAM.docLUẬN VĂN XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN VIỆT NAM.doc
LUẬN VĂN XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN VIỆT NAM.doc
 
Đề tài: Hình thức chính thể Việt Nam qua các bản Hiến pháp, HOT
Đề tài: Hình thức chính thể Việt Nam qua các bản Hiến pháp, HOTĐề tài: Hình thức chính thể Việt Nam qua các bản Hiến pháp, HOT
Đề tài: Hình thức chính thể Việt Nam qua các bản Hiến pháp, HOT
 
Ảnh hưởng của tư tưởng trị quốc Nho giáo xây dựng Nhà nước, HAY - Gửi miễn ph...
Ảnh hưởng của tư tưởng trị quốc Nho giáo xây dựng Nhà nước, HAY - Gửi miễn ph...Ảnh hưởng của tư tưởng trị quốc Nho giáo xây dựng Nhà nước, HAY - Gửi miễn ph...
Ảnh hưởng của tư tưởng trị quốc Nho giáo xây dựng Nhà nước, HAY - Gửi miễn ph...
 
Luận án: Ảnh hưởng của tư tưởng trị quốc Nho giáo đối với việc xây dựng Nhà n...
Luận án: Ảnh hưởng của tư tưởng trị quốc Nho giáo đối với việc xây dựng Nhà n...Luận án: Ảnh hưởng của tư tưởng trị quốc Nho giáo đối với việc xây dựng Nhà n...
Luận án: Ảnh hưởng của tư tưởng trị quốc Nho giáo đối với việc xây dựng Nhà n...
 
ảNh hưởng của tư tưởng trị quốc nho giáo đối với việc xây dựng nhà nước pháp ...
ảNh hưởng của tư tưởng trị quốc nho giáo đối với việc xây dựng nhà nước pháp ...ảNh hưởng của tư tưởng trị quốc nho giáo đối với việc xây dựng nhà nước pháp ...
ảNh hưởng của tư tưởng trị quốc nho giáo đối với việc xây dựng nhà nước pháp ...
 
Cơ sở lý luận, pháp luật về thực hiện dân chủ ở xã, thị trấn.docx
Cơ sở lý luận, pháp luật về thực hiện dân chủ ở xã, thị trấn.docxCơ sở lý luận, pháp luật về thực hiện dân chủ ở xã, thị trấn.docx
Cơ sở lý luận, pháp luật về thực hiện dân chủ ở xã, thị trấn.docx
 
Tiểu Luận Môn Lý Luận Nhà Nước Và Pháp Luật Hình Thức Chính Thể, Hình Thức Cấ...
Tiểu Luận Môn Lý Luận Nhà Nước Và Pháp Luật Hình Thức Chính Thể, Hình Thức Cấ...Tiểu Luận Môn Lý Luận Nhà Nước Và Pháp Luật Hình Thức Chính Thể, Hình Thức Cấ...
Tiểu Luận Môn Lý Luận Nhà Nước Và Pháp Luật Hình Thức Chính Thể, Hình Thức Cấ...
 
Tai_lieu_on_mon_KTC_20190905112352915910.pdf
Tai_lieu_on_mon_KTC_20190905112352915910.pdfTai_lieu_on_mon_KTC_20190905112352915910.pdf
Tai_lieu_on_mon_KTC_20190905112352915910.pdf
 
Tiểu Luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước trong sạch vững mạnh hiệu...
Tiểu Luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước trong sạch vững mạnh hiệu...Tiểu Luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước trong sạch vững mạnh hiệu...
Tiểu Luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước trong sạch vững mạnh hiệu...
 
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HOT, 9đ - Gửi miễn phí qua zalo=> ...
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HOT, 9đ  - Gửi miễn phí qua zalo=> ...Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HOT, 9đ  - Gửi miễn phí qua zalo=> ...
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HOT, 9đ - Gửi miễn phí qua zalo=> ...
 

More from Dịch vụ viết thuê đề tài trọn gói ☎☎☎ Liên hệ ZALO/TELE: 0973.287.149 👍👍

More from Dịch vụ viết thuê đề tài trọn gói ☎☎☎ Liên hệ ZALO/TELE: 0973.287.149 👍👍 (20)

Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn An Ninh Mạng, Hay Nhất.docx
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn An Ninh Mạng, Hay Nhất.docxDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn An Ninh Mạng, Hay Nhất.docx
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn An Ninh Mạng, Hay Nhất.docx
 
171 Đề Tài Luận Văn Du Lịch Tâm Linh, Từ Trường Đại Học.docx
171 Đề Tài Luận Văn Du Lịch Tâm Linh, Từ Trường Đại Học.docx171 Đề Tài Luận Văn Du Lịch Tâm Linh, Từ Trường Đại Học.docx
171 Đề Tài Luận Văn Du Lịch Tâm Linh, Từ Trường Đại Học.docx
 
195 Đề Tài Khóa Luận Tốt Nghiệp Sư Phạm Mầm Non, Mới Nhất.docx
195 Đề Tài Khóa Luận Tốt Nghiệp Sư Phạm Mầm Non, Mới Nhất.docx195 Đề Tài Khóa Luận Tốt Nghiệp Sư Phạm Mầm Non, Mới Nhất.docx
195 Đề Tài Khóa Luận Tốt Nghiệp Sư Phạm Mầm Non, Mới Nhất.docx
 
171 Đề Tài Luận Văn Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Dịch Vụ, Điểm Cao.docx
171 Đề Tài Luận Văn Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Dịch Vụ, Điểm Cao.docx171 Đề Tài Luận Văn Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Dịch Vụ, Điểm Cao.docx
171 Đề Tài Luận Văn Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Dịch Vụ, Điểm Cao.docx
 
Xem Ngay 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Về Thành Ngữ, 9 Điểm.docx
Xem Ngay 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Về Thành Ngữ, 9 Điểm.docxXem Ngay 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Về Thành Ngữ, 9 Điểm.docx
Xem Ngay 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Về Thành Ngữ, 9 Điểm.docx
 
Combo 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Về Thừa Kế, Tuyển Chọn 10 Điểm.docx
Combo 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Về Thừa Kế, Tuyển Chọn 10 Điểm.docxCombo 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Về Thừa Kế, Tuyển Chọn 10 Điểm.docx
Combo 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Về Thừa Kế, Tuyển Chọn 10 Điểm.docx
 
180 Đề Tài Luận Văn Nghiên Cứu Khoa Học, Hay Nhất.docx
180 Đề Tài Luận Văn Nghiên Cứu Khoa Học, Hay Nhất.docx180 Đề Tài Luận Văn Nghiên Cứu Khoa Học, Hay Nhất.docx
180 Đề Tài Luận Văn Nghiên Cứu Khoa Học, Hay Nhất.docx
 
200 Đề Tài Luận Văn Phát Triển Du Lịch Cộng Đồng, Từ Sinh Viên Giỏi.docx
200 Đề Tài Luận Văn Phát Triển Du Lịch Cộng Đồng, Từ Sinh Viên Giỏi.docx200 Đề Tài Luận Văn Phát Triển Du Lịch Cộng Đồng, Từ Sinh Viên Giỏi.docx
200 Đề Tài Luận Văn Phát Triển Du Lịch Cộng Đồng, Từ Sinh Viên Giỏi.docx
 
Tuyển Chọn 201 Đề Tài Luận Văn Dịch Vụ Công, 9 Điểm.docx
Tuyển Chọn 201 Đề Tài Luận Văn Dịch Vụ Công, 9 Điểm.docxTuyển Chọn 201 Đề Tài Luận Văn Dịch Vụ Công, 9 Điểm.docx
Tuyển Chọn 201 Đề Tài Luận Văn Dịch Vụ Công, 9 Điểm.docx
 
List 200 Đề Tài Khóa Luận Tốt Nghiệp Ngành Mầm Non, 9 Điểm.docx
List 200 Đề Tài Khóa Luận Tốt Nghiệp Ngành Mầm Non, 9 Điểm.docxList 200 Đề Tài Khóa Luận Tốt Nghiệp Ngành Mầm Non, 9 Điểm.docx
List 200 Đề Tài Khóa Luận Tốt Nghiệp Ngành Mầm Non, 9 Điểm.docx
 
Tuyển Chọn 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Về An Ninh Mạng, Mới Nhất.docx
Tuyển Chọn 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Về An Ninh Mạng, Mới Nhất.docxTuyển Chọn 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Về An Ninh Mạng, Mới Nhất.docx
Tuyển Chọn 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Về An Ninh Mạng, Mới Nhất.docx
 
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU.docx
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU.docxCƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU.docx
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU.docx
 
Tải Free Tiểu luận về công ty đa quốc gia 9 điểm.docx
Tải Free Tiểu luận về công ty đa quốc gia 9 điểm.docxTải Free Tiểu luận về công ty đa quốc gia 9 điểm.docx
Tải Free Tiểu luận về công ty đa quốc gia 9 điểm.docx
 
DOWNLOAD FREE - Tiểu luận về bảo hiểm y tế.doc
DOWNLOAD FREE - Tiểu luận về bảo hiểm y tế.docDOWNLOAD FREE - Tiểu luận về bảo hiểm y tế.doc
DOWNLOAD FREE - Tiểu luận về bảo hiểm y tế.doc
 
Tải miễn phí - TIỂU LUẬN VỀ KINH TẾ HỌC 9 điểm.doc
Tải miễn phí - TIỂU LUẬN VỀ KINH TẾ HỌC 9 điểm.docTải miễn phí - TIỂU LUẬN VỀ KINH TẾ HỌC 9 điểm.doc
Tải miễn phí - TIỂU LUẬN VỀ KINH TẾ HỌC 9 điểm.doc
 
Tiểu luận về kỹ năng giao tiếp của sinh viên 9 điểm.doc
Tiểu luận về kỹ năng giao tiếp của sinh viên 9 điểm.docTiểu luận về kỹ năng giao tiếp của sinh viên 9 điểm.doc
Tiểu luận về kỹ năng giao tiếp của sinh viên 9 điểm.doc
 
Tải miễn phí - Tiểu luận về ngân hàng thương mại.docx
Tải miễn phí - Tiểu luận về ngân hàng thương mại.docxTải miễn phí - Tiểu luận về ngân hàng thương mại.docx
Tải miễn phí - Tiểu luận về ngân hàng thương mại.docx
 
TIỂU LUẬN MÔN QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG 9 điểm.doc
TIỂU LUẬN MÔN QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG 9 điểm.docTIỂU LUẬN MÔN QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG 9 điểm.doc
TIỂU LUẬN MÔN QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG 9 điểm.doc
 
Tiểu luận chế định thừa kế trong bộ luật dân sự.doc
Tiểu luận chế định thừa kế trong bộ luật dân sự.docTiểu luận chế định thừa kế trong bộ luật dân sự.doc
Tiểu luận chế định thừa kế trong bộ luật dân sự.doc
 
Tiểu luận về nền văn hóa bản sắc dân tộc Việt Nam.doc
Tiểu luận về nền văn hóa bản sắc dân tộc Việt Nam.docTiểu luận về nền văn hóa bản sắc dân tộc Việt Nam.doc
Tiểu luận về nền văn hóa bản sắc dân tộc Việt Nam.doc
 

Recently uploaded

Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfTrnHoa46
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoámyvh40253
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfVyTng986513
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdfTrnHoa46
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 

Recently uploaded (20)

Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 

Tiểu luận về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.doc

  • 1. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 TIỂU LUẬN: XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
  • 2. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 Làm rõ quan điểm mà Đảng ta đã đưa ra tại Đại hội X của Đảng về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với tư cách một nhiệm vụ chiến lược quan trọng trong thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước, trong bài viết này, tác giả đã tập trung luận giải: 1. Lý luận về Nhà nước pháp quyền; 2. Xây dựng Nhà nước pháp quyền với tư cách một tất yếu lịch sử, tất yếu khách quan đối với Việt Nam hiện nay; 3. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam vừa thể hiện được các giá trị phổ biến, vừa khẳng định được bản sắc đặc thù; 4. Những đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; 5. Đổi mới, hoàn thiện bộ máy nhà nước theo yêu cầu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Từ Đại hội lần thứ IX, khi thông qua việc sửa đổi một số điều trong Hiến pháp năm 1992, Đảng ta đã xác định phải tiếp tục đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của Nhà nước, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế. Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân đã được Đảng ta đặt ra như một nhiệm vụ chiến lược quan trọng trong thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Về vấn đề này, tại Đại hội lần thứ X, Đảng ta đã khẳng định chủ trương “đẩy nhanh công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trên các mặt: hệ thống thể chế, chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy; cán bộ, công chức; phương thức hoạt động”(1).
  • 3. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 Để triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội X của Đảng, biến Nghị quyết Đại hội thành hiện thực sinh động trong đời sống xã hội, trước hết chúng ta cần nhìn lại một cách khái quát những gì đã làm được cả trên lĩnh vực nghiên cứu lý luận lẫn hoạt động thực tiễn; đồng thời phải giải quyết một cách hiệu quả nhất những vấn đề mới đặt ra trong tiến trình phát triển đất nước. 1. Về phương diện lý luận, các nhà khoa học đã đi tới một số khẳng định quan trọng: nhà nước pháp quyền không phải là một kiểu nhà nước mà là giá trị phổ biến, là biểu hiện của một trình độ phát triển dân chủ. Với quan niệm này, nhà nước pháp quyền đã được nhìn nhận như một cách thức tổ chức nền dân chủ, cách thức tổ chức nhà nước và xã hội trên nền tảng dân chủ. Các giá trị phổ biến của nó được trình bày dưới các dạng thức khác nhau và phụ thuộc vào lập trường chính trị – pháp lý, quan điểm học thuật của mỗi người. Ngay cả cách trình bày cũng có thể khác nhau, nhưng về thực chất, đều nhấn mạnh các giá trị sau đây: - Nhà nước pháp quyền là biểu hiện tập trung của chế độ dân chủ. Theo đó, dân chủ vừa là bản chất, vừa là điều kiện, là tiền đề để xây dựng nhà nước pháp quyền. - Bộ máy nhà nước pháp quyền được tổ chức và vận hành trên cơ sở các nguyên tắc tổ chức quyền lực một cách dân chủ. - Một chế độ tư pháp thật sự dân chủ, cơ quan xét xử chỉ tuân theo pháp luật với một chế độ tố tụng công khai, dân chủ. Sự phủ nhận quan điểm xem nhà nước pháp quyền như một kiểu nhà nước có ý nghĩa nhận thức luận quan trọng trong việc nhìn nhận đúng bản chất của nhà nước pháp quyền. Ý nghĩa nhận thức luận này bao hàm các khía cạnh sau: - Chỉ từ khi dân chủ tư sản xuất hiện, mới có cơ hội và điều kiện để xây dựng nhà nước pháp quyền. Do vậy, trên thực tế, nhà nước pháp quyền tư sản đang được xây dựng ở hầu hết các nước tư bản phát triển và đang phát triển . - Nhà nước pháp quyền với tư cách cách thức tổ chức và vận hành của một chế độ nhà nước và xã hội không những được xây dựng ở chế độ tư bản, mà còn được xây dựng ở chế độ xã hội chủ nghĩa. Như vậy, trong nhận thức lý luận cũng như trong thực tiễn, có nhà nước pháp quyền tư sản và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
  • 4. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 - Ngoài các giá trị phổ biến, nhà nước pháp quyền còn bao hàm các giá trị đặc thù. Tính đặc thù của nhà nước pháp quyền được xác định bởi nhiều yếu tố. Các yếu tố này, về thực chất, là hết sức đa dạng, phong phú và rất phức tạp, được xác định bởi các điều kiện lịch sử, kinh tế, văn hoá, tâm lý xã hội và môi trường địa lý của mỗi quốc gia dân tộc. Chúng không chỉ tạo ra cái đặc sắc, tính riêng biệt của mỗi dân tộc trong quá trình dựng nước, giữ nước và phát triển, mà còn quyết định mức độ tiếp thu và dung nạp các giá trị phổ biến của nhà nước pháp quyền. Việc thừa nhận tính đặc thù của nhà nước pháp quyền có ý nghĩa nhận thức luận quan trọng. Với ý nghĩa này, nhà nước pháp quyền là một phạm trù vừa mang tính phổ biến, vừa mang tính đặc thù; vừa là giá trị chung của nhân loại, vừa là giá trị riêng của mỗi dân tộc, quốc gia. Do vậy, không thể có một nhà nước pháp quyền như một mô hình chung thống nhất cho mọi quốc gia, dân tộc. Mỗi quốc gia, dân tộc, tuỳ thuộc vào các đặc điểm lịch sử, chính trị, kinh tế, xã hội và trình độ phát triển mà xây dựng cho mình một mô hình nhà nước pháp quyền thích hợp. 2. Đối với Việt Nam, vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền đang được đặt ra như một tất yếu lịch sử và tất yếu khách quan. Tính tất yếu lịch sử của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam bắt nguồn từ chính lịch sử xây dựng và phát triển của Nhà nước ta. Ngay từ khi thành lập và trong quá trình phát triển, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã và luôn là một nhà nước hợp hiến, hợp pháp. Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở các quy định của Hiến pháp, pháp luật và luôn vận hành trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Các đạo luật tổ chức Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân và các đạo luật về chính quyền địa phương được xây dựng trên cơ sở Hiến pháp năm 1946, năm 1959. năm 1980 và năm 1992. Những lần Hiến pháp được sửa đổi và thông qua là những bước củng cố cơ sở pháp luật cho tổ chức và hoạt động của bản thân các cơ quan nhà nước. Vì vậy, có thể nói, quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam là một quá trình lịch sử được bắt đầu ngay từ Tuyên ngôn độc lập năm 1945 và Hiến pháp năm 1946, được định hướng trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước. Quá trình này đã trải qua hơn nửa thế kỷ và ngày nay, quá trình này đang được tiếp tục đẩy mạnh trong thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước.
  • 5. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 Tính tất yếu khách quan của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xuất phát từ định hướng xã hội chủ nghĩa với mục tiêu "độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, nhằm xây dựng một chế độ xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh"(2). Chúng ta ý thức sâu sắc rằng, để xây dựng được một chế độ xã hội có tính mục tiêu như vậy thì công cụ, phương tiện cơ bản chỉ có thể là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Tính tất yếu khách quan ấy còn xuất phát từ đặc điểm của thời đại với xu thế toàn cầu hoá. Nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế sau khi nước ta trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) đòi hỏi chúng ta tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính Nhà nước, cải cách pháp luật, đảm bảo cho Nhà nước không ngừng vững mạnh, có hiệu lực để giải quyết có hiệu quả các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, thực hành dân chủ, giữ vững độc lập, tự chủ và hội nhập vững chắc vào đời sống quốc tế. 3. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một Nhà nước vừa phải thể hiện được các giá trị phổ biến của nhà nước pháp quyền, vừa khẳng định được bản sắc đặc thù của riêng mình. Sự khác nhau cơ bản giữa nhà nước pháp quyền tư sản và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nói chung, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam nói riêng, có thể khái quát trên các nét chính sau: Một là, cơ sở kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường không phủ nhận các quy luật khách quan của thị trường, mà là cơ sở để xác định sự khác nhau giữa kinh tế thị trường trong chủ nghĩa tư bản và kinh tế thị trường trong chủ nghĩa xã hội. Do vậy, đặc tính của nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa tạo ra sự khác nhau giữa nhà nước pháp quyền tư sản và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đồng thời tạo ra nét đặc trưng của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Hai là, cơ sở xã hội của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là khối đại đoàn kết dân tộc. Với khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nhà nước pháp quyền có được cơ sở xã
  • 6. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 hội rộng lớn và khả năng to lớn trong việc tập hợp, tổ chức các tầng lớp nhân dân thực hành và phát huy dân chủ. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tuy không loại bỏ được sự phân tầng xã hội theo hướng phân hoá giàu nghèo, nhưng có khả năng xử lý tốt hơn công bằng xã hội. Những mâu thuẫn xã hội phát sinh trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường do được điều tiết thông qua pháp luật, chính sách và các công cụ khác của nhà nước nên ít có nguy cơ trở thành các mâu thuẫn đối kháng và tạo ra các xung đột có tính chất chia rẽ xã hội. Đây là một trong những điều kiện đảm bảo ổn định chính trị, đoàn kết các lực lượng xã hội vì các mục tiêu chung của sự phát triển. Tính nhất nguyên chính trị và sự lãnh đạo của một Đảng duy nhất cầm quyền tạo khả năng đồng thuận xã hội, tăng cường khả năng hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau giữa các giai tầng, các cộng đồng dân cư và các dân tộc. Nhờ vậy, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có được sự ủng hộ rộng rãi từ phía xã hội, nguồn sức mạnh từ sự đoàn kết toàn dân, phát huy được sức sáng tạo của các tầng lớp dân cư trong việc nâng cao quyền làm chủ của nhân dân. 4. Những đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Một là, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Đây là đặc trưng cơ bản, được ghi nhận trong Hiến pháp của nước ta và được thể hiện trong các quy định về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa phương của các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp. Hai là, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đây vừa là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta, vừa là quan điểm chỉ đạo quá trình tiếp tục thực hiện việc cải cách bộ máy nhà nước. Ba là, Hiến pháp và các đạo luật giữ vị trí tối thượng trong điều chỉnh các quan hệ thuộc tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Hệ thống pháp luật thể hiện đầy đủ, đúng đắn ý chí của nhân dân, phù hợp với hiện thực khách quan, thúc đẩy tiến bộ xã hội. Nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp, pháp luật là của tất cả công dân, không loại trừ đối với bất cứ ai.
  • 7. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 Bốn là, Nhà nước ta tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và công dân, thực hành dân chủ, đồng thời tăng cường kỷ cương, kỷ luật. Mục tiêu cao cả của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh về bảo đảm quyền con người, quyền công dân được thể chế hoá thành luật và được Nhà nước ta tổ chức thực hiện có kết quả. Năm là, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tôn trọng và thực hiện đầy đủ các điều ước quốc tế mà Nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia. Sáu là, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tổ chức và hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là đặc trưng cơ bản để phân biệt nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nhà nước pháp quyền tư sản chủ nghĩa. Qua những nội dung trình bày trên đây, chúng ta thấy rằng, trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chúng ta đã tiếp thu được những tinh hoa, những giá trị toàn nhân loại. Đó là các chế định pháp lý, như tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, sự tôn trọng và bảo vệ các quyền và tự do của con người như những giá trị xã hội cao quý nhất, sự ngự trị của pháp luật trong các lĩnh vực sinh hoạt của xã hội, tính tối cao của pháp luật trong các lĩnh vực hoạt động của nhà nước và trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội. 5. Đổi mới, hoàn thiện bộ máy nhà nước theo yêu cầu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước cần được tiến hành đồng bộ, từ việc xác định vị trí trụ cột của Nhà nước trong hệ thống chính trị, cơ cấu lại chức năng, nhiệm vụ và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hành và phát huy dân chủ đến việc đổi mới từng bộ phận cấu thành bộ máy nhà nước: Quốc hội, Chính phủ, cơ quan tư pháp và chính quyền địa phương. a) Đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội theo hướng nâng cao chất lượng, thực hiện tốt chức năng lập pháp và giám sát tối cao. Hiến pháp năm 1992 đã xác định Quốc hội nước ta là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất với 3 chức năng: lập hiến, lập pháp,
  • 8. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 quyết định các vấn đề trọng đại của đất nước và giám sát tối cao. Cần đổi mới nhận thức về vị trí, vai trò của Quốc hội trong tổng thể bộ máy nhà nước, theo đó Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, nhưng không phải toàn bộ quyền lực nhà nước đều thuộc về Quốc hội. Vấn đề đặt ra là, cần phải xây dựng được một Quốc hội thực quyền chứ không phải là Quốc hội toàn quyền. Đối với chức năng lập hiến và lập pháp, cần quán triệt nguyên tắc hiến định: Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp. Để đảm bảo quyền này của Quốc hội, cần nghiên cứu để hạn chế quyền ban hành pháp lệnh của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, tiến tới quy định Uỷ ban Thường vụ Quốc hội không ban hành pháp lệnh, đồng thời phân định rõ thẩm quyền lập pháp của Quốc hội với thẩm quyền lập quy của Chính phủ, từng bước hạn chế uỷ quyền lập pháp. Đối với việc thực hiện quyền giám sát tối cao của Quốc hội, vấn đề thiết thực và quan trọng nhất là hiệu quả của sự giám sát thông qua cơ chế xử lý kết quả giám sát của Quốc hội, bảo đảm các kết luận giám sát của Quốc hội phải được tôn trọng và thực hiện nghiêm túc bởi các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan. Để tạo lập được cơ chế giám sát tối cao một cách thực tế đối với hoạt động của nhà nước, cần tổ chức nghiên cứu để tiến tới thành lập một cơ quan bảo hiến, đảm bảo địa vị tối cao, thiêng liêng, bất khả xâm phạm của Hiến pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân của nước ta. Nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là khi Việt Nam đã trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), bảo đảm sự tương thích của pháp luật quốc gia với các không gian pháp lý có tính quốc tế đang đòi hỏi chúng ta phải đẩy mạnh việc đổi mới công tác lập pháp. Chúng ta không những phải soạn thảo và thông qua nhiều đạo luật mới, mà còn phải rà soát, sửa đổi toàn bộ những đạo luật đã có sao cho đáp ứng được yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ mới. Do vậy, công tác lập pháp của nước ta trong nhiệm kỳ Quốc hội khoá XII trở nên cấp bách hơn bất cứ thời kỳ nào trước đây. b) Xây dựng một Chính phủ gọn về tổ chức, rõ về chức năng, hiệu lực, hiệu quả trong hoạt động. Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và thực hiện nền
  • 9. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chức năng quản lý nhà nước của Chính phủ gồm hai nhóm cơ bản sau đây: - Nghiên cứu chính sách thể chế; - Điều hành mang tính chất hành chính công quyền. Để thực hiện tốt chức năng hành pháp của Chính phủ, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X ghi rõ: “Đẩy mạnh cải cách hành chính, đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo hướng xây dựng hệ thống cơ quan hành pháp thống nhất, thông suốt, hiện đại. Luật hoá cơ cấu, tổ chức của Chính phủ; tổ chức bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực, bảo đảm tinh gọn và hợp lý. Phân cấp mạnh, giao quyền chủ động hơn nữa cho chính quyền địa phương, nhất là trong việc quyết định về ngân sách, tài chính, đầu tư, nguồn nhân lực, thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với Trung ương"(3). Cụ thể, chính phủ cần thực hiện bốn nhóm quyền hạn và nhiệm vụ sau đây: - Xây dựng và hoàn thiện hệ thống thống nhất bộ máy hành chính nhà nước từ Trung ương đến cơ sở, đảm bảo cho toàn bộ hệ thống này hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, đủ mạnh để hoàn thiện các chức năng của quyền hành pháp. - Bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật trong đời sống nhà nước và đời sống xã hội. - Thống nhất quản lý hành chính nhà nước về kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã hội và đối ngoại. Thực hiện chính sách xã hội, trong đó cần quan tâm đến chính sách dân tộc và chính sách tôn giáo. - Thi hành những biện pháp hữu hiệu bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tạo điều kiện để công dân thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình, bảo vệ tài sản, lợi ích của Nhà nước, xã hội và bảo vệ môi trường. c) Đổi mới các cơ quan tư pháp và thủ tục tư pháp theo các yêu cầu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Trọng tâm của cải cách tư pháp chính là cải cách tổ chức và hoạt động của Toà án với quan điểm Toà án là trung tâm của hệ thống tư pháp và sự độc lập của Toà án trong xét xử là điều kiện cơ bản bảo đảm cho Toà án thực hiện vai trò của mình với tư cách cơ quan bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X đã xác định: "Xây dựng hệ thống cơ quan tư
  • 10. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, quyền con người... Cải cách tư pháp khẩn trương, đồng bộ; lấy cải cách hoạt động xét xử làm trọng tâm; thực hiện cơ chế công tố gắn với hoạt động điều tra. Xây dựng cơ chế phán quyết về những vi phạm Hiến pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp”(4). Cần nghiên cứu để tiến tới tổ chức lại Viện Kiểm sát thành viện công tố; xác định lại vị trí, phạm vi thẩm quyền của các cơ quan điều tra. Cơ cấu lại tổ chức và quản lý việc thi hành án; nghiên cứu khả năng xã hội hoá các hoạt động bổ trợ tư pháp, như luật sư, công chứng, giám định tư pháp… Đổi mới mạnh mẽ pháp luật thủ tục về hoạt động tư pháp trong tất cả các lĩnh vực hình sự, dân sự, hành chính... theo hướng chuyển các hoạt động xét xử của Toà án sang chế độ tranh tụng để thật sự bảo đảm quyền bình đẳng của các bên trong quá trình tranh tụng tại Toà án. d) Đổi mới chính quyền địa phương đáp ứng các yêu cầu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Vấn đề này, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X đã chỉ rõ: "Nâng cao chất lượng hoạt động của hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân, bảo đảm quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương trong phạm vi được phân cấp. Phát huy vai trò giám sát của hội đồng nhân dân. Tổ chức hợp lý chính quyền địa phương, phân định lại thẩm quyền đối với chính quyền ở nông thôn, đô thị, hải đảo"(5). Mô hình tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương các cấp cần bảo đảm sự thống nhất không gian kinh tế và không gian pháp lý. Quyền tự chủ của chính quyền địa phương phải đặt trong sự quản lý của Trung ương về thể chế và chính sách vĩ mô. Mỗi cấp chính quyền là một bộ phận cấu thành của hệ thống hành chính nhà nước thống nhất. Do đó, không thể coi việc đảm bảo quyền tự chủ của chính quyền địa phương như là sự thoát ly, tách rời khỏi Nhà nước Trung ương và không thể làm phát sinh tình trạng cát cứ, cục bộ địa phương, không để tạo ra sự đối lập lợi ích giữa địa phương và Trung ương. Đổi mới, cải cách tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương phải gắn liền với việc đổi mới tổ chức và hoạt động của tổ chức đảng ở các cấp địa phương.
  • 11. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 e) Xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, công chức theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Trong những năm qua, đội ngũ cán bộ, công chức của nước ta đã có sự phát triển cả về số lượng và chất lượng. Bên cạnh những mặt trưởng thành, đội ngũ cán bộ công chức còn nhiều mặt yếu kém, điều có tính phổ biến là còn thiếu tính chuyên nghiệp. Do vậy, nhiệm vụ hiện nay cần quan tâm trước hết là xây dựng và áp dụng chức danh, tiêu chuẩn của các loại cán bộ công chức trong bộ máy hành chính, các tổ chức sự nghiệp. Tiến hành phân cấp quản lý biên chế hành chính, biên chế sự nghiệp nhà nước và thực hiện cơ chế quản lý mới đối với biên chế sự nghiệp, thực hiện cơ chế hợp đồng đối với biên chế sự nghiệp để tạo quyền tự chủ về nguồn nhân lực và thay đổi cơ cấu công chức, viên chức cho các đơn vị sự nghiệp. Đổi mới công tác tuyển dụng cán bộ, công chức, chuyển từ phương thức xét tuyển sang phương thức thi tuyển để lấy người có trình độ vào làm việc trong các cơ quan quản lý nhà nước; đồng thời chú ý đến các vùng sâu, vùng xa, đối với đội ngũ cán bộ, giáo viên cần có những vận dụng phù hợp trong tuyển dụng. Đội ngũ cán bộ, công chức luôn giữ vai trò quan trọng trong việc thực thi pháp luật, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với toàn bộ xã hội. Ngoài trình độ chuyên môn, đội ngũ cán bộ công chức phải tận tuỵ phục vụ nhân dân mà tấm gương của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn toả sáng trong cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" do Đảng ta phát động và đang được toàn Đảng, toàn dân hưởng ứng. Thiết nghĩ, đây là dịp tốt để mọi cán bộ, công chức, viên chức liên hệ vào công việc của mình đang đảm nhiệm, tạo chuyển biến tốt để phục vụ nhân dân một cách thiết thực thì chắc chắn, Đảng và Nhà nước ta tăng thêm được uy tín của mình đối với nhân dân. Đó cũng là cách thức tốt nhất để nhân dân góp phần thiết thực vào việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.r (*) Giáo sư, Viện sĩ, Viện Khoa học xã hội Việt Nam. (1) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X.Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006. tr. 253.
  • 12. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 (2) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 22. (3) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X.Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.126 – 127. (4) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.127. (5) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.127. VĂN HÓA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VÀ VẤN ĐỀ NÂNG CAO VĂN HOÁ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC Ở NƯỚC TA HIỆN NAY NGUYỄN VĂN PHÚC (*) Phân tích sự thể hiện văn hoá trong các xã hội phương Đông phong kiến và các xã hội phương Tây hiện đại, tác giả cho rằng, sự gia tăng hàm lượng văn hoá là xu thế chung của sự phát triển của quản lý nhà nước. Chính sự gia tăng hàm lượng văn hoá là nhân tố tạo nên hiệu quả của quản lý nhà nước. Trong điều kiện hiện nay ở nước ta, những bất cập trong quản lý nhà nước thể hiện ở cả bình diện phương thức quản lý lẫn bình diện nhân cách con người quản lý. Vì vậy, đẩy mạnh cải cách hành chính nhằm hoàn thiện phương thức quản lý, nâng cao đạo đức và tính chuyên nghiệp trong hoạt động của cán bộ công chức chính là nâng cao hàm lượng văn hoá của quản lý nhà nước, qua đó nâng cao hiệu quả của quản lý nhà nước đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước hiện nay. Với sự phát triển của thực tiễn và lý luận hiện nay, văn hóa không còn bị quy giản chỉ về một số yếu tố cấu thành văn hóa, chẳng hạn, giáo dục, khoa học, nghệ thuật... Văn hóa, hiểu theo nghĩa rộng, là sự thể hiện và thực hiện những sức mạnh bản chất của con người trong toàn bộ các lĩnh vực hoạt động người. Do thể hiện và thực hiện những sức mạnh bản chất của con người mà văn hóa giữ vai trò nền tảng tinh thần của xã hội và là mục tiêu, động lực của sự phát triển. Với quan niệm như vậy về phạm vi thể hiện và vai trò của văn hoá, từ Chiến lược
  • 13. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 phát triển kinh tế – xã hội 10 năm từ 2001 – 2010 đến Báo cáo Chính trị tại Đại hội X, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhất quán chủ trương “nâng cao tính văn hóa trong mọi hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội và sinh hoạt của nhân dân”(1). Với tư cách một lĩnh vực, một loại hình hoạt động của xã hội, quản lý nhà nước chính là một trong những địa bàn thể hiện sức mạnh bản chất của con người, nghĩa là địa bàn thể hiện văn hoá. Đồng thời, văn hoá quản lý nhà nước là động lực, là sự đảm bảo cho hoạt động quản lý nhà nước có hiệu quả. Với tinh thần ấy, Đảng Cộng sản Việt Nam “đặc biệt coi trọng nâng cao văn hóa lãnh đạo và quản lý…”(2). Như chúng ta đều biết, hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước vừa phụ thuộc vào phương thức quản lý (hoặc công nghệ quản lý), vừa phụ thuộc vào nhân cách (đức và tài) của các chủ thể quản lý. Vì thế, để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, cần phải nâng cao văn hoá của cả phương thức quản lý lẫn nhân cách người quản lý. Mặc dù chưa ý thức được đầy đủ phạm vi thể hiện và vai trò của văn hóa, nhưng không vì thế mà quản lý nhà nước trong các thời đại trước đây không ít nhiều biết đến văn hóa trong quản lý. Trong các quốc gia phong kiến phương Đông, cụ thể là Trung Hoa và Việt Nam, ở một mức độ nhất định, văn hóa đã được thể hiện khá tự giác trong quản lý nhà nước. Các nhà nước phong kiến đã sử dụng phương thức đức trị trong quản lý xã hội. Phương thức này vận hành thông qua một hệ thống những yêu cầu, những chuẩn mực đạo đức điều chỉnh hoạt động của toàn bộ xã hội, và đặc biệt là hoạt động của những nhà quản lý, tức những bậc đế vương, quan lại các cấp. Hệ thống những chuẩn mực đức trị chính là hệ chuẩn mực Nho giáo với Trung, Hiếu, Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín... Tương ứng với các chuẩn mực đạo đức đó là nhân cách đạo đức, các phẩm chất đạo đức cá nhân của các nhà quản lý. Vua sáng, tôi hiền, những vị quan phụ mẫu là những tấm gương sáng cho mọi người noi theo... Trong tinh thần ấy, văn hóa của quản lý nhà nước trong các quốc gia Nho giáo đã được thể hiện. Cố nhiên, văn hoá này phản ánh và bảo vệ một trật tự kinh tế xã hội trì trệ. Bởi thế, tác động của nó tới sự phát triển xã hội là rất hạn chế. Hơn nữa, không phải lúc nào các nhà quản lý cũng gương mẫu thực thi đức trị. Nhưng dù sao, sự thể hiện và thực hiện văn hóa quản lý Nho giáo đã góp phần tạo nên cả một thời đại phong kiến phương Đông về cơ bản là ổn định và trường trị; cho dù sự trường trị ấy càng về sau
  • 14. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 càng mang nặng tính trì trệ. Tiến trình phát triển của quản lý nhà nước ở phương Tây hiện đại cũng cho thấy vai trò của văn hoá trong quản lý và xu thế gia tăng hàm lượng văn hóa trong quản lý. Trước những năm 30 của thế kỷ XX, thường người ta mới chỉ biết đến văn hoá của phương thức quản lý. Đó là việc sử dụng pháp luật nghiêm minh, hợp lý hóa, tinh giản bộ máy tổ chức; chú ý giải quyết một cách hợp lý quan hệ giữa trách nhiệm và quyền hạn, nghĩa vụ và quyền lợi, kỷ luật và khen thưởng... ; đồng thời, xem việc giải quyết tốt các vấn đề đó là động lực thúc đẩy quản lý nhà nước. Việc chỉ biết đến các động lực có tính quy phạm, pháp lệnh lạnh lùng tuy có đem lại những hiệu quả nhất định nhưng không phát huy được tối đa tính tích cực xã hội của con người, của nhân viên, cấp dưới... Nghĩa vụ và quyền lợi, kỷ cương, kỷ luật và khen thưởng là những kích thích tố từ bên ngoài; chúng chỉ phát huy được tối đa tác dụng khi được chuyển hoá thành sức mạnh bên trong của các chủ thể quản lý. Trong trường hợp này, phương diện văn hóa và sự bộc lộ nó trong quản lý nhà nước cũng như vai trò động lực của nó còn hạn chế. Từ sau những năm 30 của thế kỷ XX, trong khi vẫn coi trọng tính quy phạm, kỷ cương, người ta bắt đầu chú ý đến vấn đề con người trong quản lý. Ngoài sự coi trọng hiệu quả công việc, coi trọng kiểm tra, kiểm soát, những nhà quản lý còn đồng thời quan tâm đến con người, đến nhân viên, cấp dưới, cố gắng khơi dậy tính tích cực, chủ động của họ trong công việc. Trong thời kỳ này, học giả Maikeleike với lý thuyết X, Y nổi tiếng cho rằng, cơ sở của quản lý nhà nước truyền thống là lý thuyết X. Lý thuyết X dựa trên một quan niệm sai lầm là, con người bẩm sinh vốn đã vô trách nhiệm và không thích làm việc; vì thế, trong quản lý nhà nước cần phải có một cơ chế kiểm soát nghiêm ngặt hoạt động của con người. Đối với lý thuyết Y, bản chất con người không phải là lười biếng và vô trách nhiệm. Nếu biết kích thích tính thiện ở con người thì tự họ sẽ biết phải hành động như thế nào để hoàn thành tốt chức trách. Vì thế, cần thực hiện quản lý một cách dân chủ, công khai, tin tưởng ở đồng sự, cấp dưới, ủy quyền một cách thích đáng, phát huy hết thế mạnh, tiềm năng của con người... Với việc tính đến tính tích cực xã hội của con người, nhân tố văn hóa trong quản lý nhà nước đã được thể hiện một cách tự giác hơn; do đó, hiệu lực
  • 15. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 và hiệu quả của quản lý nhà nước cũng được nâng cao hơn. Từ những năm 60 của thế kỷ XX đến nay, khoa học quản lý nhà nước cũng như thực tiễn quản lý nhà nước ở phương Tây đã đạt được bước tiến mới. Vào thời kỳ này đã xuất hiện lý thuyết Z của W. Danei. Lý thuyết Z cho rằng, các lý thuyết X, Y có những giá trị và vai trò nhất định trong quản lý nhưng đều tỏ ra phiến diện. Con người không hoàn toàn tốt cũng không hoàn toàn xấu; mỗi con người cụ thể có những điểm mạnh, điểm yếu cụ thể. Bởi thế, trong quản lý không nên sử dụng một hoặc một số biện pháp nhất loạt như nhau đối với tất cả mọi người trong tất cả các tình huống, các điều kiện. Tùy lúc, tùy nơi, tùy người mà chú ý đến kiểm tra, kiểm soát, kỷ luật hoặc khen thưởng động viên... Lý thuyết này đã ảnh hưởng lớn đến quản lý nhà nước trong điều kiện của xã hội hiện đại(3). Như vậy, trong quản lý nhà nước, vấn đề con người trong bộ máy quản lý đã được quan tâm ngày một đầy đủ hơn. Đây chính là một phương diện quan trọng trong văn hóa của quản lý nhà nước. Cùng với lý thuyết Z, trong quản lý nhà nước ở phương Tây hiện đại, các thành tựu của khoa học - công nghệ đã được sử dụng ngày càng nhiều, khiến cho hiệu lực và hiệu quả của quản lý ngày càng gia tăng. Việc áp dụng các thành tựu khoa học - công nghệ (tin học hóa, xây dựng chính phủ điện tử…) đang trở thành trung tâm chú ý của cải cách hành chính nhằm tiết kiệm nhân lực, tài lực và nâng cao hiệu quả của quản lý nhà nước. Không chỉ khoa học - công nghệ, khoa học xã hội và nhân văn cũng được áp dụng ngày một tích cực hơn trong quản lý nhà nước. Nhờ vậy, hoạt động quản lý nhà nước không tự giới hạn ở việc chỉ dựa trên những hiểu biết về các nguyên lý và những quy tắc mang tính công nghệ thuần túy. Trong thực tiễn, người ta nhận thấy rằng, hiệu quả của quản lý nhà nước không chỉ phụ thuộc vào phương thức, công nghệ quản lý mà còn phụ thuộc rất nhiều vào nhân cách các nhà quản lý. Nhân cách nhà quản lý biểu hiện không đơn giản chỉ ở những hiểu biết và khả năng “vận hành” công nghệ quản lý của họ. Nó còn được biểu hiện ở sự quan tâm đến cấp dưới, nhân viên trong việc tạo điều kiện thuận lợi cho họ làm việc cũng như cho cuộc sống và gia đình của họ; điều đó có tác dụng rất lớn đối với việc nâng cao hiệu quả của hoạt động quản lý. Nhân cách nhà quản lý còn biểu hiện ở những phẩm chất cá nhân, đặc biệt là sự nêu gương trong công việc
  • 16. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 cũng như trong đời tư. Chính những điều đó có tác dụng rất lớn đối với việc động viên ý thức trách nhiệm, tinh thần làm việc của cấp dưới, nhân viên. Không chỉ thế, trong quản lý nhà nước, người ta còn nhận ra vai trò của các nhân tố khác, như kinh nghiệm cá nhân, kỹ năng, linh cảm, trực giác, cảm hứng sáng tạo của nhà quản lý; đó là những nhân tố cấu thành “năng lực sáng tạo theo quy luật cái đẹp” của các nhà lãnh đạo, quản lý, là nghệ thuật quản lý. Như vậy, quản lý nhà nước được nhìn nhận và tiến hành vừa như một khoa học, vừa như một nghệ thuật. Sự thống nhất giữa phương diện khoa học và phương diện nghệ thuật trong quản lý nhà nước làm cho văn hóa của quản lý nhà nước được thể hiện và thực hiện ngày càng đầy đủ, toàn diện hơn; đồng thời nhân lực, vật lực, tài lực được tiết kiệm, hiệu quả của quản lý nhà nước được gia tăng. Ở nước ta, trước thời kỳ đổi mới, phương diện văn hóa của các hoạt động phát triển xã hội nói chung và hoạt động quản lý nhà nước nói riêng chưa được quan tâm đúng mức. Nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, xã hội mang nặng tính khép kín, đời sống xã hội bị chi phối nặng nề bởi các yêu cầu chính trị và luân lý, ... không đòi hỏi cao và không tạo ra một hệ thống quản lý nhà nước năng động. Ngày nay, sự nghiệp đổi mới đất nước vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” đặt ra yêu cầu chuyển biến toàn diện xã hội từ kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; từ xã hội nông nghiệp lên xã hội công nghiệp; từ xã hội khép kín chuyển thành xã hội mở cửa, giao lưu; từ xã hội mang nặng tính luân lý, chính trị sang xã hội công dân, nhà nước pháp quyền. Những yêu cầu to lớn đó đặt ra trước quản lý nhà nước hàng loạt các vấn đề cần giải quyết. Đó là các vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; tích lũy nhanh nguồn vốn cho tăng trưởng kinh tế, mở rộng đầu tư, chuyển giao công nghệ; xóa đói, giảm nghèo; khắc phục tình trạng phân phối thu nhập quá bất bình đẳng, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; cùng hàng loạt các vấn đề khác, như bảo vệ môi trường, kế hoạch hóa dân số, phát triển đời sống văn hóa cho nhân dân lao động... Chính những điều đó đòi hỏi phải mở rộng và gia tăng phương diện văn hóa của quản lý nhà nước. Trong những năm qua, hoạt động quản lý nhà nước ở nước ta đã có những cải cách
  • 17. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 nhằm thích ứng với yêu cầu mới; “hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước được tăng cường một bước”(4). Tuy vậy, như đánh giá của Đảng tại Đại hội X, “Bộ máy nhà nước chậm đổi mới, chưa theo kịp yêu cầu của công cuộc phát triển kinh tế - xã hội. Những yếu kém của bộ máy quản lý nhà nước chậm được khắc phục”; “Năng lực và phẩm chất của nhiều cán bộ, công chức còn yếu, một bộ phận không nhỏ thoái hóa, biến chất. Dân chủ ở nhiều nơi bị vi phạm, kỷ cương phép nước chưa nghiêm. Quan liêu, tham nhũng, lãng phí còn nghiêm trọng, đặc biệt là tình trạng nhũng nhiễu, cửa quyền, thiếu trách nhiệm của bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức, nhất là ở các cơ quan giải quyết công việc cho dân và doanh nghiệp. Bộ máy chính quyền cơ sở nhiều nơi yếu kém”(5). Để khắc phục tình trạng đó, cần phải đẩy mạnh hơn nữa cải cách hành chính, làm cho cải cách hành chính đi vào thực chất, nâng cao hàm lượng văn hoá của quản lý nhà nước; khắc phục tình trạng “cải cách hành chính chưa đạt yêu cầu”(6) như hiện nay. Mục tiêu của cải cách hành chính phải nhằm vào việc xây dựng được một hệ thống quản lý nhà nước đủ mạnh trên các phương diện duy trì trật tự, động viên xã hội, đổi mới chính sách; các quyết sách phải được khoa học hóa, các quá trình tổ chức, thực thi phải mang tính chuyên nghiệp, đồng bộ và mang tính nghệ thuật cao... Điều đó cũng có nghĩa là gia tăng hàm lượng văn hóa cho hoạt động quản lý nhà nước. Như đã chỉ ra, văn hóa của quản lý nhà nước thể hiện cả trên phương diện phương thức quản lý lẫn trên phương diện nhân cách của những người hoạt động trong lĩnh vực quản lý. Vì vậy, đối với phương thức quản lý, cần phải có những cải cách, đổi mới cần thiết nhằm đáp ứng các yêu cầu của tình hình hiện nay. Những đổi mới đó phải nhằm vào những vấn đề chủ yếu sau: Thứ nhất, cần có cơ chế tăng cường hơn nữa chức năng hiệp đồng của bộ máy hành chính các cấp. Do xu thế gia tăng chức năng của quản lý nhà nước trong điều kiện hiện đại, do sự gia tăng quyền tự quyết của chính quyền ở các địa phương, các ngành nên yêu cầu tăng cường chức năng hiệp đồng nhằm phối hợp giải quyết những vướng mắc, những mâu thuẫn về quyền hạn, trách nhiệm trong quản lý luôn là vấn đề cần giải quyết.
  • 18. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 Thứ hai, tinh giản bộ máy là yêu cầu có tính thường xuyên của cải cách hành chính. Nó góp phần tiết kiệm nhân lực, tài lực. Cố nhiên, sự tinh giản này đòi hỏi nâng cao nhân cách, năng lực chuyên môn của đội ngũ công chức. Thứ ba, thu hẹp phạm vi hành chính của chính phủ, đẩy mạnh xã hội hóa những lĩnh vực mà chính phủ quản lý kém hiệu quả. Thứ tư, đẩy mạnh hơn nữa việc áp dụng các thành tựu khoa học - công nghệ hiện đại vào quản lý, xây dựng chính phủ điện tử, áp dụng các thành tựu của khoa học quản lý, khoa học nhân văn... Thứ năm, thực hiện dân chủ hóa hành chính, tăng cường sự tham gia dân chủ vào quản lý trong nội bộ các cơ quan hành chính; đồng thời, thu hút các đoàn thể xã hội, quần chúng nhân dân thuộc mọi giới tham gia vào quản lý hành chính, thông qua trưng cầu dân ý, phản biện xã hội... Tất cả những cải cách như vậy là nhằm nâng cao hàm lượng văn hoá cho phương thức quản lý nhà nước, qua đó nâng cao hiệu quả của quản lý nhà nước. Cùng với cải cách, đổi mới phương thức quản lý là vấn đề con người, chủ thể của quản lý nhà nước. Đào tạo những nhà quản lý, đội ngũ công chức có văn hóa cao là đòi hỏi có tính quyết định đối với việc nâng cao hiệu quả của quản lý nhà nước hiện nay. Thực ra thì phương thức (hoặc công nghệ) quản lý với con người quản lý là hai phương diện thống nhất một cách hữu cơ trong quản lý nhà nước. Sự đổi mới phương diện này đòi hỏi đổi mới phương diện kia và ngược lại. Trong điều kiện hiện nay, những yếu kém, bất cập về nhân cách cán bộ, công chức trong lĩnh vực quản lý nhà nước thể hiện cả trên bình diện đạo đức lẫn trên bình diện chuyên môn. Trên bình diện đạo đức, sự yếu kém trong rèn luyện đạo đức và do đó, khả năng nêu gương yếu kém là điều đáng quan ngại nhất. Chính điều đó ảnh hưởng không tốt đến hiệu quả của quản lý nhà nước. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến vấn đề này. Khi suy ngẫm về nhân cách và ảnh hưởng của nhân cách Lênin đối với các dân tộc châu Á, Hồ Chí Minh viết: “Không phải chỉ thiên tài của Người, mà chính là tính coi khinh sự xa hoa, tinh thần yêu lao động, đời tư trong sáng, nếp sống giản dị, tóm lại là đạo đức vĩ đại và cao đẹp của người Thầy, đã ảnh hưởng lớn lao
  • 19. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 đến các dân tộc châu Á và đã khiến cho trái tim của họ hướng về Người, không có gì ngăn cản nổi”(7). Người thường nhắc nhở cán bộ, đảng viên rằng, “Tốt nhất là miệng nói tay làm, làm gương cho người khác bắt chước”(8). Vì vậy, đẩy mạnh hơn nữa Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” trong đội ngũ những người hoạt động trong lĩnh vực quản lý nhà nước là một trong những biện pháp vừa cấp bách, vừa lâu dài nhằm nâng cao hàm lượng văn hóa của quản lý nhà nước, qua đó nâng cao hiệu quả của quản lý nhà nước. Trên bình diện chuyên môn, biểu hiện yếu kém, bất cập nổi bật hiện nay là tính thiếu chuyên nghiệp. Cụ thể là, vẫn còn những người lãnh đạo, quản lý một lĩnh vực hoạt động xã hội mà chưa được đào tạo về chuyên môn đủ để đảm bảo cho công tác lãnh đạo ở lĩnh vực đó. Ngay từ năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói rằng, một người muốn lãnh đạo ngành hỏa xa thì phải học về ngành đó. Đối với đội ngũ công chức, tình trạng làm trái ngành nghề hoặc đúng ngành nghề nhưng trình độ chuyên môn không đáp ứng yêu cầu vẫn còn là hiện tượng phổ biến. Trong những năm gần đây, việc tổ chức thi tuyển công chức tuy đã được thực hiện, nhưng hiệu quả chưa cao. Cần nâng cao hơn nữa tính chuyên nghiệpcủa các nhà quản lý và công chức hoạt động trong bộ máy quản lý nhà nước; tính chuyên nghiệp thể hiện cả ở việc có đủ tri thức chuyên môn, kỹ năng, sự thành thạo khi giải quyết các công việc chuyên môn lẫn ở tác phong, ở quan hệ giao tiếp, ứng xử... Tất cả những điều đó biểu hiện văn hóa, sức mạnh bản chất người, “năng lực sáng tạo theo quy luật cái đẹp” của đội ngũ cán bộ, công chức; chúng góp phần tạo nên hiệu quả của quản lý nhà nước. Tóm lại, đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao văn hoá của quản lý nhà nước là một trong những nhiệm vụ vừa cấp thiết, vừa lâu dài nhằm nâng cao hiệu quả của quản lý nhà nước trong điều kiện nước ta hiện nay./. (*) Phó giáo sư, tiến sĩ triết học, Trưởng phòng Đạo đức và Mỹ học, Viện Triết học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam. (1) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 213. (2) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.213.
  • 20. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 (3) Xem: Hành chính học và những vấn đề cải cách hành chính. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1992, tr. 26 – 29. (4) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Sđd., tr.160. (5) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr. 174 – 175. (6) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.174. (7) Hồ Chí Minh. Toàn tập, t.1. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.295. (8) Hồ Chí Minh. Sđd., t.4, tr.333. CHỦ NGHĨA TƯ BẢN NHÀ NƯỚC: TỪ QUAN NIỆM CỦA V.I.LÊNIN ĐẾN SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TA TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI NGUYỄN VĂN THỨC (*) Bài viết đã luận giải để làm rõ thêm những tư tưởng của V.I.Lênin về chủ nghĩa tư bản nhà nước với tính cách “khâu trung gian”, “phòng chờ” đi vào chủ nghĩa xã hội. Từ đó, tác giả khẳng định sự cần thiết phải vận dụng sáng tạo tư tưởng của V.I.Lênin về chủ nghĩa tư bản nhà nước trên cơ sở phân tích một số điểm khác biệt về điều kiện phát triển của nước ta hiện nay so với Liên Xô những năm 20 của thế kỷ trước. Tác giả tin tưởng rằng, nếu vận dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước một cách khoa học, chúng ta không những sẽ bắc được “cây cầu nhỏ”, mà còn có thể bắc được “cây cầu lớn vững chắc, hiện đại” đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Sau hơn 20 năm, bắt đầu từ năm 1986, công cuộc đổi mới ở nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Thành tựu này chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Chủ nghĩa tư bản nhà nước xuất hiện từ cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX và hiện nay, vẫn tiếp tục tồn tại, phát triển khá mạnh ở nhiều quốc gia. Ở miền Bắc nước ta, chủ nghĩa tư bản nhà nước dưới hình thức công ty hợp doanh cũng tồn tại từ cuối những năm 50 của thế kỷ XX nhưng chỉ ít năm sau đó, đã bị thủ tiêu.
  • 21. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 Từ khi tiến hành công cuộc đổi mới, các Văn kiện Đại hội lần thứ VI, VII, VIII, IX của Đảng ta ngày càng tiếp cận sâu hơn, đầy đủ hơn và hiệu quả hơn vấn đề chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa tư bản nhà nước trong bức tranh toàn cảnh đa dạng hoá sở hữu và các thành phần kinh tế, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong Văn kiện Đại hội lần thứ X, với tinh thần đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, Đảng ta tiếp tục đề cập tới vấn đề chủ nghĩa tư bản nhà nước với chủ trương: “Trên cơ sở ba chế độ sở hữu (toàn dân, tập thể, tư nhân), hình thành nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài”(1). Sinh thời, cả C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin đã nhiều lần nhấn mạnh rằng, chủ nghĩa xã hội trước hết là sản phẩm khách quan của chủ nghĩa tư bản và điều đó tất yếu đòi hỏi những người cộng sản, nhân dân lao động cùng với nhà nước kiểu mới của mình phải biết tiếp thu, kế thừa tất cả các giá trị tiến bộ được tạo ra bởi chủ nghĩa tư bản để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Do những hạn chế lịch sử, C.Mác và Ph.Ăngghen đều chưa đề cập đến chủ nghĩa tư bản nhà nước trong học thuyết kinh tế chính trị học của mình. Vấn đề này đến V.I.Lênin mới được đề cập tới. Chủ nghĩa tư bản nhà nước được V.I.Lênin vận dụng vào thực tiễn nước Nga năm 1921 trong Chính sách kinh tế mới (NEP), sau bước thử nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội bằng “con đường trực tiếp” không thành công. Tư tưởng của V.I.Lênin về một kết cấu kinh tế quá độ với sự đan xen giữa các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, các giai cấp vô sản, tư sản và tiểu tư sản đã được nêu ra từ năm 1918. Đặc biệt, vị trí và vai trò lịch sử của chủ nghĩa tư bản nhà nước được V.I.Lênin phân tích rõ ràng trong bài báo Tai hoạ sắp đến và những phương pháp ngăn ngừa tai hoạ đó. Trong bài báo này, V.I.Lênin viết: “Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sự chuẩn bị vật chất đầy đủ nhất cho chủ nghĩa xã hội, là phòng chờ đi vào chủ nghĩa xã hội, là nấc thang lịch sử mà giữa nó (nấc thang đó) với nấc thang được gọi là chủ nghĩa xã hội thì không có một nấc thang nào ở giữa cả”(2). Kết luận này của V.I.Lênin đã luận chứng cho quan điểm của ông về khả năng bùng nổ và thắng lợi của cách mạng vô sản ở một nước riêng lẻ, thậm chí kém phát triển, trong thời đại đế quốc chủ nghĩa.
  • 22. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 Chủ nghĩa tư bản nhà nước cũng như chủ nghĩa tư bản độc quyền và chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước đều có chung cội nguồn kinh tế sâu xa - đó là quá trình tập trung hoá và xã hội hoá lực lượng sản xuất một cách tất yếu, khách quan, gắn liền trước hết với các thành tựu khoa học, kỹ thuật hiện đại đạt được cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX. Tính chất cạnh tranh ngày càng gay gắt, một mất một còn của nền sản xuất và tái sản xuất hàng hoá mở rộng không cho phép chủ nghĩa tư bản tiếp tục tồn tại ở quy mô tư bản cá biệt hoặc công ty cổ phần của các nhà tư bản đã có từ giai đoạn tự do cạnh tranh. Mặt khác, các quy luật nội tại của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ngày càng làm sâu sắc hơn các mâu thuẫn đối kháng giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản, giữa đế quốc với đế quốc, giữa đế quốc với thuộc địa. Đó chính là nguyên nhân cơ bản giải thích sự ra đời tất yếu của chủ nghĩa tư bản nhà nước với tư cách sự kết hợp giữa nhà nước với chính các tế bào kinh tế. Sự kết hợp này mang tính tự phát và đã tạo ra cho chủ nghĩa tư bản thời đế quốc một loại hình quan hệ kinh tế – chính trị độc đáo – chủ nghĩa tư bản nhà nước. Quá trình vận dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước trong điều kiện Đảng Cộng sản cầm quyền, Nhà nước kiểu mới của những người cộng sản và nhân dân lao động trực tiếp quản lý và điều hành xã hội là một quá trình hợp quy luật. Quá trình này ngày càng mang nhiều yếu tố tự giác hơn và tạo nên địa bàn mới ngày càng thuận lợi hơn cho sự phát triển hơn nữa của lực lượng sản xuất và đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội trên những cơ sở vững chắc hơn. Về luận điểm này, V.I.Lênin khẳng định: “Chủ nghĩa tư bản nhà nước sẽ là một sự cứu nguy đối với chúng ta, giá như chúng ta thực hiện được chủ nghĩa tư bản nhà nước ở nước Nga rồi, thì bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội hoàn toàn là đã dễ dàng, đã nằm gọn trong tay chúng ta rồi, bởi vì chủ nghĩa tư bản nhà nước là cái gì có tính chất tập trung, được tính toán, được kiểm soát và được xã hội hoá”(3). Đối với chủ nghĩa tư bản nhà nước, V.I.Lênin đặc biệt quan tâm tới việc phải thực hiện nó một cách nghiêm túc và có nguyên tắc. Theo ông, các nước từ sản xuất nhỏ tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa bắt buộc phải đi qua “hai cái trạm” là chủ nghĩa tư bản nhà nước và kiểm kê - kiểm soát. Chính kiểm kê - kiểm soát đảm bảo cho chủ nghĩa tư bản nhà nước vận động theo
  • 23. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 quỹ đạo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nếu thiếu “cái trạm” này, hoặc có nhưng hoạt động thiếu nguyên tắc và không có hiệu quả thì chủ nghĩa tư bản nhà nước chỉ mang lại những điều “xấu xa” như V.I.Lênin đã phân tích trong tác phẩm nổi tiếng Chủ nghĩa đế quốc – giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản.Và đương nhiên, con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội sẽ không hiện thực. Việc phân tích lại toàn bộ tình hình về chủ nghĩa tư bản nhà nước và thực tiễn nước Nga khi đó đã dẫn V.I.Lênin tới kết luận quan trọng rằng, trong điều kiện một nước tiểu nông kém phát triển, tiềm lực kinh tế, kỹ thuật nhỏ bé, cần phải biết sử dụng các hình thức kinh tế quá độ. Chính tại đây, vai trò của các quan hệ thị trường và tư bản chủ nghĩa trong công cuộc xây dựng xã hội mới – xã hội chủ nghĩa - đã được xác định. Quan niệm chủ yếu của V.I.Lênin là, trong một nước kém phát triển, giai cấp vô sản không thể tự mình xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Nó cần phải và không thể không mượn tay, mượn sức của các giai cấp khác (nông dân, tư sản, tiểu tư sản) để hoàn thành sự nghiệp đó. Lôgíc vấn đề dẫn tới sự cần thiết phải phát triển các quan hệ thị trường (cơ sở cho sự phát sinh không thể tránh khỏi của các quan hệ tư bản chủ nghĩa) với tư cách phương pháp, thủ đoạn chứ không phải là mục đích của cách mạng. Chủ nghĩa tư bản nhà nước trong khuôn khổ đó trở thành hình thức quá độ để vừa mượn được sức của các giai cấp khác, vừa đảm bảo được tính chất xã hội chủ nghĩa. Theo nghĩa như vậy, quan điểm sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước trở thành tư tưởng trung tâm của NEP. Chủ nghĩa tư bản nhà nước trong quan niệm của V.I.Lênin là kết quả chung của hai xu hướng vận động trong đời sống thực tiễn. Xu hướng thứ nhất bắt nguồn từ việc chấp nhận các quan hệ thị trường để thuyết phục người tiểu nông và thiết lập liên minh kinh tế giữa giai cấp vô sản (thông qua đại diện của nó là Nhà nước vô sản) với giai cấp nông dân trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Sự chấp nhận đó, trong điều kiện một nước tiểu nông, tất yếu sinh ra các quan hệ tư bản chủ nghĩa. Vấn đề đặt ra là làm thế nào, bằng hình thức nào để hướng sự phát triển tự phát đó vào quỹ đạo, đặt nó dưới sự kiểm soát của Nhà nước và có lợi cho chủ nghĩa xã hội. Câu trả lời là chủ nghĩa tư bản nhà nước. Xu hướng thứ hai nảy sinh ra từ chính nhu cầu nội tại của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Để hoàn thành sứ mạng này,
  • 24. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 Nhà nước vô sản cần có vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm tổ chức và quản lý cao cấp, cũng như cần có các quan hệ kinh tế xã hội hoá, mà tất cả những yếu tố đó chỉ có thể có được từ các nước tư bản chủ nghĩa phát triển, từ các công ty của nó. Với nhận thức rằng, đó là những thành tựu của lịch sử phát triển của nhân loại, việc tận dụng chúng thông qua quan hệ hợp tác với các nước tư bản chủ nghĩa và công ty của chúng trở thành một yêu cầu chính đáng và có tính bắt buộc đối với những nước đi sau. Cách thức để đáp ứng nhu cầu này, về nguyên tắc, cũng thông qua chủ nghĩa tư bản nhà nước. Vậy, vấn đề chủ nghĩa tư bản nhà nước trong chiến lược phát triển kinh tế của Việt Nam hiện nay cần được quan niệm như thế nào? Chủ nghĩa tư bản nhà nước trong điều kiện của Việt Nam hiện nay là chủ nghĩa tư bản nhà nước đặc biệt –chủ nghĩa tư bản nhà nước kiểu mới – là sự kết hợp giữa tư bản và Nhà nước vô sản, được thực hiện trong điều kiện Đảng Cộng sản cầm quyền và được quản lý điều hành trực tiếp bởi Nhà nước kiểu mới – Nhà nước của dân, do dân và vì dân, vận động trong quỹ đạo định hướng xã hội chủ nghĩa và tạo điều kiện cho đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội từng bước vững chắc. Với quan niệm phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, việc trở lại vấn đề chủ nghĩa tư bản nhà nước ở nước ta hiện nay trở thành không thể tránh khỏi, xét từ bất cứ góc độ nào. Định hướng xã hội chủ nghĩa (dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh) và mục tiêu phát triển với tốc độ cao và lâu bền được thực hiện trong điều kiện thách thức gay gắt của thời đại đã và đang đặt ra hai vấn đề phải đồng thời được giải quyết: Một là, nguồn vốn. Đối với một nước nghèo như nước ta, nguồn vốn là vấn đề sống còn của bất kỳ định hướng phát triển nào. Lôgíc vấn đề dẫn tới chỗ làm sao để huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực cả trong lẫn ngoài nước. Hai là, lựa chọn các hình thức kinh tế quá độ thích hợp. Mục tiêu của sự lựa chọn này là nâng cao trình độ xã hội hoá các quan hệ kinh tế, đồng thời thoả mãn yêu cầu về một định hướng phát triển cụ thể của quá trình xã hội hoá đó - định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong những năm qua, đường lối của Đảng và Nhà nước ta về phát triển kinh tế thị trường, khuyến khích sự phát triển của các thành phần kinh tế và khai thông các
  • 25. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 dòng vốn quốc tế được thực hiện khá thành công. Trong một chừng mực nào đó, đường lối này đáp ứng tích cực nhu cầu về nguồn lực phát triển và nâng cao trình độ xã hội hoá của nền kinh tế. Trên quan điểm mácxít, đây là một bước tiến thực sự lên chủ nghĩa xã hội. Song, cho đến nay, chúng ta vẫn chưa xác định rõ ràng và cụ thể về các phương thức kinh tế có khả năng thoả mãn cả hai yêu cầu: nguồn vốn cho tăng trưởng và bảo đảm bảo định hướng trong khuôn khổ phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (vì các nguồn vốn nước ngoài, trên thực tế, chủ yếu là từ các nước và các công ty tư bản chủ nghĩa). Vì những lẽ đó, chủ nghĩa tư bản nhà nước trong điều kiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và trong khuôn khổ định hướng xã hội chủ nghĩa là vấn đề cần phải được đặt ra và có kết luận rõ ràng. Vấn đề chủ nghĩa tư bản nhà nước ở nước ta hiện nay, trên nhiều điểm có tính nguyên tắc là trùng hợp với cách đặt vấn đề của V.I.Lênin cách đây hơn 80 năm. Tuy nhiên, cần nhận thức rõ ràng sự khác biệt của hoàn cảnh phát triển giữa nước ta hiện nay và Liên Xô những năm 20 của thế kỷ trước (bao gồm trong đó cả những khác biệt căn bản về điều kiện quốc tế) là yếu tố chế định một cách tiếp cận hiện đại đối với vấn đề chủ nghĩa tư bản nhà nước. Những điểm khác biệt chủ yếu về điều kiện phát triển đó là: * Hệ thống kinh tế thế giới mở cửa, quan hệ hợp tác giữa các quốc gia, giữa các tổ chức kinh tế quốc tế với từng quốc gia riêng biệt trở nên cởi mở hơn và bình đẳng hơn. Tính tương thuộc trong phát triển giữa các nước trở thành quan hệ chủ đạo trong hệ thống kinh tế đó. Tương ứng với sự thay đổi đó là tính đa dạng về hình thức hợp tác kinh tế. * Sự đối đầu về quân sự ít gay gắt hơn, nhường vị trí ưu tiên cho cuộc đua tranh – cạnh tranh phát triển kinh tế hết sức quyết liệt. Thay cho chiến tranh xâm lược dựa trên bạo lực quân sự là một hình thái chiến tranh mới – chiến tranh kinh tế. Sự sống còn của một quốc gia, theo nghĩa đó, tùy thuộc chủ yếu vào năng lực phát triển kinh tế của nó. * Khác với nước Nga Xô viết những năm đầu thập niên 20 của thế kỷ trước, ở nước ta
  • 26. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 hiện nay, địa vị thống trị của Đảng Cộng sản và Nhà nước vô sản đã được củng cố vững chắc và là yếu tố quy định định hướng phát triển chính trị – xã hội của đất nước. * Giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức Việt Nam chấp nhận sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước với lòng tin mạnh mẽ. Điều này đã được kiểm chứng trong nhiều thập niên khó khăn của cách mạng và gần đây nhất, trong những năm đổi mới kinh tế theo hướng xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. * Nếu như trước kia, ở nước Nga Xô viết, việc phát triển các quan hệ thị trường mới chỉ diễn ra trong một bước thử nghiệm ngắn ngủi cùng với NEP, thì ở nước ta hiện nay, bước thử nghiệm chuyển sang phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã trải qua hơn 20 năm và đạt được những thành tựu quan trọng có ý nghĩa lịch sử. Ở mức độ cao hơn, nó được khẳng định là hướng phát triển tất yếu và lâu dài của nền kinh tế. * Một khác biệt rất căn bản khác là Việt Nam hiện nay có điều kiện kế thừa và lựa chọn kinh nghiệm thực tiễn của nhiều nước trong việc thực thi vai trò điều tiết kinh tế của Nhà nước, kể cả trong nền kinh tế thị trường cũng như trong việc phát triển sở hữu tư bản nhà nước với nhiều hình thức đa dạng của nó. Một trong những vấn đề mấu chốt nhất về chủ nghĩa tư bản nhà nước là vấn đề xác định rõ những giới hạn phát triển, các biện pháp kiểm soát và điều tiết của Nhà nước đã được không ít nước giải quyết thành công trong sự phù hợp với điều kiện của họ. Thực tiễn đó có thể gợi ý rất nhiều điều bổ ích cho các nước đi sau, trong đó có Việt Nam. * Trong nền kinh tế thị trường, các hình thức sở hữu khác nhau được nhìn nhận theo hiệu quả kinh tế là chủ yếu. Trong nền kinh tế đó, không nên coi hình thức sở hữu này là tiến bộ, còn hình thức sở hữu kia thì không. Người ta chỉ phân biệt các hình thức sở hữu ấy về mặt luật pháp; sở hữu hợp pháp hay không hợp pháp, còn về mặt kinh tế, chúng được đánh giá dựa trên mức độ hiệu quả kinh tế. Sự chuyển dịch của các hình thức sở hữu trước hết là do chính bản thân các chủ thể sở hữu quyết định và sâu xa hơn, chủ yếu hơn, là do đòi hỏi khách quan của sự phát triển sản xuất. Do vậy, không thể dùng những biện pháp cưỡng bức để thực hiện sự chuyển dịch này. Một người có cổ phần, có quyền bán cổ phần này để mua cổ phần khác, tùy theo sự lựa chọn của anh ta. Trong những trường hợp chuyển dịch sở hữu theo quy định của luật
  • 27. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 pháp, thì sự chuyển dịch ấy cũng tuân theo nguyên tắc bảo vệ quyền sở hữu của những người chủ sở hữu. Chuyển dịch sở hữu không hoàn toàn có nghĩa là xoá bỏ sở hữu. Tất cả các hình thức sở hữu và các thành phần kinh tế tác động qua lại, đan xen và chính sự đan xen đó đã hình thành hình thức sở hữu hỗn hợp, mang tính phổ biến trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Sự dung hợp giữa sở hữu nhà nước và sở hữu của nhà tư bản (trong và ngoài nước) trở thành sở hữu chung của nhà nước và nhà tư bản. Đây chính là hình thức sở hữu đặc trưng nhất của một thời kỳ quá độ lâu dài, như V.I.Lênin từng gọi, là thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, là thời kỳ nhà tư bản cày trên luống cày của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội ra đời từ những gì mà chủ nghĩa tư bản đã đạt được, là thời kỳ không còn chủ nghĩa tư bản thuần tuý nhưng cũng chưa có chủ nghĩa xã hội đầy đủ, thời kỳ mà nhân dân đang bắc những nhịp cầu nhỏ vững chắc đi lên chủ nghĩa xã hội. Thực hiện chủ nghĩa tư bản nhà nước là một trong những định hướng hợp quy luật để cải tạo nền kinh tế nước ta theo hướng chủ nghĩa xã hội. Nói cách khác, chủ nghĩa tư bản nhà nước là “cầu nối”, là “nấc thang” trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội. Vị trí, vai trò của chủ nghĩa tư bản nhà nước được biểu hiện ở các mặt sau: Thứ nhất, chủ nghĩa tư bản nhà nước là phương thức cải tạo có hiệu quả nền kinh tế còn kém phát triển của nước ta, sớm tạo dựng được các cơ sở công nghiệp lớn và tạo ra địa bàn mới để phát triển nhanh chóng lực lượng sản xuất với trình độ xã hội hoá ngày càng cao. Một mặt, nó thúc đẩy nhanh sự phát triển các hình thức sở hữu và các thành phần kinh tế. Mặt khác, nó dẫn dắt và làm chuyển hoá các hình thức sở hữu và các thành phần kinh tế vận động theo quỹ đạo định hướng xã hội chủ nghĩa. Thứ hai, chủ nghĩa tư bản nhà nước góp phần quan trọng vào việc giải phóng các lực lượng sản xuất và các tiềm năng của đất nước. Nó thu hút và phát huy tối đa các nguồn lực trong và ngoài nước, đồng thời là công cụ hữu hiệu để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đảm bảo cho nền kinh tế nước ta phát triển một cách độc lập, tự chủ. Thứ ba, chủ nghĩa tư bản nhà nước có tính chất “tập trung”, “được tính toán”, “được kiểm soát và xã hội hoá” nên nó là một trong những phương thức tổ chức và quản lý nền sản xuất lớn, hiện đại. Nó cũng là phương tiện có hiệu quả để thay thế, sửa chữa những hạn chế của cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp, góp phần chống nạn
  • 28. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 tham nhũng và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước chủ yếu bằng các giải pháp kinh tế đối với các hoạt động của nền kinh tế và chống lại chủ nghĩa quan liêu, bệnh giấy tờ, hình thức chủ nghĩa đang còn ít nhiều tồn tại ở nước ta. Thứ tư, doanh nghiệp cổ phần sẽ ngày càng phát triển và trở thành hình thức tổ chức kinh tế phổ biến trong nền kinh tế của nước ta. Doanh nghiệp nhà nước, kể cả một số tổng công ty nhà nước cũng đang được đẩy mạnh cổ phần hoá trên diện rộng. Trong vấn đề này, với tính chất hiện đại và tính đa dạng được thực hiện thông qua các hình thức kinh tế cụ thể, chủ nghĩa tư bản nhà nước là yếu tố định hướng xã hội chủ nghĩa trực tiếp đối với các hình thức sở hữu và các thành phần kinh tế. Qua đó, chủ nghĩa tư bản nhà nước thúc đẩy xã hội hoá sản xuất kinh doanh và sở hữu. Với tính chất là một phương thức tổ chức kinh tế – chính trị hiện đại, chủ nghĩa tư bản nhà nước là yếu tố quan trọng giúp chúng ta hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với ba nội dung cụ thể là: nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý của nhà nước; phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành của các loại thị trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh; phát triển mạnh các thành phần kinh tế, các loại hình tổ chức sản xuất, kinh doanh. Đồng thời, chủ nghĩa tư bản nhà nước cũng là một phương thức hiệu quả để đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Trên cơ sở nhận thức ngày càng sâu sắc về vai trò và ý nghĩa của kinh tế tư bản nhà nước đối với sự phát triển kinh tế nói riêng và sự phát triển đất nước nói chung, tại Đại hội lần thứ IX, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Phát triển đa dạng kinh tế tư bản nhà nước dưới các hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư bản tư nhân trong nước và ngoài nước…”(4). Tiếp tục quan điểm đó, Đại hội X của Đảng nhấn mạnh kinh tế tư bản nhà nước là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, được đối xử bình đẳng trước pháp luật, cùng tồn tại và phát triển lâu dài bên cạnh các thành phần kinh tế khác. Trong điều kiện nước ta hiện nay, vận dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước là một tất yếu, hợp quy luật. Để thực hiện thắng lợi chủ nghĩa tư bản nhà nước kiểu mới –sự kết hợp biện chứng giữa tư bản và Nhà nước vô sản – chủ thể kinh tế –chính trị kiểu
  • 29. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 mới của những người cộng sản và nhân dân lao động, chúng ta cần mạnh dạn đổi mới trong cả lĩnh vực tư duy và tổ chức hoạt động thực tiễn. Nếu nhận thức và vận dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước kiểu mớimột cách nghiêm túc và có nguyên tắc như di huấn của V.I.Lênin để lại, chúng ta chẳng những bắc được những “nhịp cầu nhỏ”, mà còn có đủ điều kiện bắc được “cây cầu lớn, vững chắc, hiện đại” để đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng.r (*) Tiến sĩ, Trưởng phòng Đào tạo và Quản lý khoa học, Viện Triết học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam. (1) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.83. (2) V.I.Lênin. Toàn tập, t.34. Nxb Tíến bộ, Mátxcơva, 1976, tr. 258. (3) V.I.Lênin. Sđd., t.36, tr.311. (4) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX.Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.99. CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN Ở VIỆT NAM: MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ HƯỚNG GIẢI QUYẾT TRẦN ĐẮC HIẾN (*) Trong bài viết này, tác giả đã phân tích một số vấn đề đặt ra từ thực tiễn tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở nước ta hiện nay. Cụ thể là: 1. Chưa thúc đẩy nông nghiệp, nông thôn phát triển theo hướng hiện đại; 2. Tạo ra áp lực lớn về việc làm cho nông dân bị thu hồi đất canh tác; 3. Làm gia tăng sự phân hoá giàu nghèo; 4. Gây ô nhiễm môi trường,… Trên cơ sở đó, tác giả luận chứng những biện pháp cần thiết để giải quyết, khắc phục những vấn đề nảy sinh nhằm nâng cao hiệu quả của tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Hiểu một cách chung nhất, công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình phát triển sản
  • 30. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 xuất và quản lý kinh tế, xã hội dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học – công nghệ nhằm tạo ra năng suất lao động xã hội cao. Ngày nay, quá trình công nghiệp hoá gắn liền với hiện đại hoá. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là con đường tất yếu để phát triển của các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là những nước nông nghiệp lạc hậu như Việt Nam. Ở Việt Nam, chủ trương công nghiệp hoá lần đầu tiên được đưa ra tại Đại hội lần thứ III của Đảng (năm 1960), với quan điểm: xây dựng một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cân đối, hiện đại, kết hợp công nghiệp với nông nghiệp, lấy công nghiệp nặng làm nền tảng, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, nhằm biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước công nghiệp hiện đại. Quan điểm này tiếp tục được khẳng định tại Đại hội lần thứ IV (năm 1976) và thời gian hoàn thành xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa cũng được xác định cụ thể, đó là sau khoảng 20 năm. Tuy nhiên, sự nóng vội trong việc xác định bước đi cũng như sai lầm trong sự lựa chọn ưu tiên giữa công nghiệp và nông nghiệp đã dẫn đến những khó khăn trầm trọng về kinh tế - xã hội trên phạm vi cả nước. Với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật và nói rõ sự thật”, Đại hội lần thứ VI của Đảng (1986) đã nghiêm khắc chỉ ra những hạn chế, sai lầm trong chủ trương thực hiện công nghiệp hoá những năm 1976 - 1980; đồng thời, chỉ ra nhiệm vụ trọng tâm là tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong chặng đường tiếp theo. Đến Đại hội lần thứ VII (1991), việc chuẩn bị tiền đề để chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đã được hoàn thành cơ bản. Đặc biệt, tại Đại hội lần thứ IX (2001), Đảng đã thông qua Chiến lược đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền tảng để đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp hiện đại vào năm 2020, trong đó lấy công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn làm trọng tâm. Đại hội lần thứ X của Đảng (năm 2006) tiếp tục khẳng định: “đẩy mạnh hơn nữa công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn, giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân”(1). Đến nay, việc thực hiện đường lối công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông
  • 31. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 thôn đã đạt được những thành tựu đáng kể, tạo sự chuyển biến tích cực trong kinh tế nông thôn cũng như trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, đồng thời kéo theo nhiều đổi thay ở các lĩnh vực khác của đời sống xã hội nông thôn. Mặc dù vậy, nhiều vấn đề kinh tế, xã hội bức xúc thể hiện sự bất cập, hạn chế của quá trình này cũng đã xuất hiện và có diễn biến phức tạp, đòi hỏi phải được nhận thức và giải quyết. Cụ thể là: Thứ nhất, về cơ bản, quá trình công nghiệp hoá hiện còn chưa thúc đẩy sự phát triển của nông nghiệp, nông thôn theo hướng hiện đại. Theo quy luật, trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, cùng với sự phát triển kinh tế, cơ cấu kinh tế nông nghiệp sẽ chuyển dần từ thuần trồng trọt, sản xuất lương thực sang đa dạng hoá cây trồng, rồi đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp, tỷ trọng chăn nuôi, thuỷ sản, cây ăn quả, cây công nghiệp tăng dần; trong cơ cấu kinh tế nông thôn, tỷ trọng các ngành nghề phi nông nghiệp cũng dần chiếm ưu thế. Nhưng thực tế phát triển ở nước ta thời gian qua cho thấy, việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế ở nông thôn diễn ra rất chậm chạp, chủ yếu dưới dạng làng nghề, phân tán rải rác khắp nơi với quy mô nhỏ và công nghệ đơn giản. Nguyên nhân chủ yếu là do, trong nhiều năm, hầu như mọi nguồn lực ở các địa phương đều tập trung cho công nghiệp hoá, mà có phần xem nhẹ hoặc đầu tư chưa thoả đáng cho phát triển nông nghiệp, nông thôn. Nói cách khác, công nghiệp hoá đã góp phần đô thị hoá nông thôn nhiều hơn là hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Một số năm gần đây, Chính phủ đã có nhiều cố gắng tăng mức ngân sách đầu tư phát triển nông thôn (nông lâm nghiệp, thuỷ lợi, giao thông nông thôn, điện sinh hoạt...), song nhìn chung tỷ trọng còn thấp so với tổng đầu tư xã hội và nhà nước. Điều đó dẫn đến cơ sở hạ tầng nông thôn còn ở mức thấp kém, khoa học - kỹ thuật chậm phát triển. Mặc dù Chính phủ khuyến khích sự hợp tác giữa “bốn nhà” (Nhà nước, nhà nông, nhà khoa học và nhà doanh nghiệp) trong quá trình phát triển nền sản xuất nông nghiệp hàng hoá hiện đại, nhưng trên thực tế, sự hợp tác này vẫn chưa có hiệu quả. Trong khoảng 15 năm gần đây, một số thành tựu công nghệ sinh học đã được ứng dụng trong sản xuất nông nghiệp (chăn nuôi, trồng trọt), song còn hạn chế về quy mô, mức độ và do vậy, chưa thực sự nâng cao năng suất, chất lượng và tính cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá nông nghiệp
  • 32. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 trên thị trường; việc cơ giới hoá cũng được áp dụng trong sản xuất nông nghiệp, nhưng lao động thủ công vẫn phổ biến và chiếm khoảng 70%. Thứ hai, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn đã góp phần thúc đẩy sự ra đời và phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu đô thị. Tuy nhiên, không thể không tính đến một mặt trái là quá trình đó làm giảm số lượng đất sản xuất nông nghiệp, làm tăng số nông dân không có đất canh tác, dẫn đến tình trạng thất nghiệp ngày càng lớn, tạo ra áp lực về lao động, việc làm ở nông thôn. Ở những tỉnh có tốc độ công nghiệp hoá nhanh, các khu công nghiệp ra đời hàng loạt, đất nông nghiệp bị chuyển đổi mục đích sử dụng sang phát triển công nghiệp và xây dựng kết cấu hạ tầng ngày càng nhiều. Theo báo cáo của Bộ Tài nguyên và Môi trường về thực hiện Kế hoạch sử dụng đất giai đoạn 2001 - 2005, tổng diện tích đất nông nghiệp đã thu hồi để chuyển sang đất phi nông nghiệp trên địa bàn toàn quốc là 366,44 nghìn ha (chiếm 3,89% đất nông nghiệp đang được sử dụng), trong đó diện tích đất trồng lúa đã thu hồi để xây dựng các khu công nghiệp là 15.383 ha, xây dựng đô thị là 70,322 ha, xây dựng hạ tầng là 136,175 ha. Diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi phần lớn là vùng đất tốt, có cơ sở hạ tầng thuận lợi cho việc canh tác, lại tập trung vào một số xã có mật độ dân số cao, trong đó có xã bị thu hồi 70 - 80% tổng diện tích đất canh tác(2). Kết quả tổng hợp từ các địa phương cho thấy, có khoảng 10 - 20% số hộ bị thu hồi 100% đất sản xuất, khoảng 20% số hộ bị thu hồi 2/3 đất sản xuất, còn lại khoảng 60% số hộ bị thu hồi 1/2 diện tích. Trung bình mỗi hộ nông dân có khoảng 1,5 lao động và mỗi ha đất thu hồi sẽ ảnh hưởng tới việc làm của trên 10 lao động nông nghiệp. Như vậy, việc thu hồi đất nông nghiệp trong những năm qua đã ảnh hưởng tới đời sống của 627.495 hộ gia đình, khoảng 950.000 lao động và 2,5 triệu nông dân(3). Khi ruộng đất bị Nhà nước thu hồi để sử dụng vào mục đích phát triển công nghiệp, các thành viên của nhiều gia đình nông dân trở thành thất nghiệp ngay trên quê hương mình và sống dựa vào số tiền đền bù đất bị thu hồi. Do không có kế hoạch đầu tư cho việc học nghề, tạo việc làm mới nên số tiền đền bù rồi cũng bị tiêu dùng hết, người nông dân lại đổ ra thành phố kiếm việc làm thuê, làm mướn... Những năm qua, công tác giải quyết việc làm cho lực lượng lao động thất nghiệp thuộc khu vực nông nghiệp và nông thôn chưa được các cấp, các ngành chức năng
  • 33. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864 quan tâm đúng mức, vì tư tưởng cho rằng đó là việc của nông dân và chính quyền địa phương. Việc thu hút lao động tại chỗ vào làm việc tại các khu công nghiệp được xác định là ưu tiên số một, là trách nhiệm của các ngành, các cấp và nhất là các địa phương có khu công nghiệp, là nghĩa vụ của các doanh nghiệp trong khu công nghiệp, nhưng trên thực tế chưa giải quyết được bao nhiêu. Tỉ lệ nông dân và con em của họ vào làm việc ở các doanh nghiệp trong các khu, điểm công nghiệp rất thấp, chỉ khoảng 15 - 20%. Tình trạng thất nghiệp trong nông dân đang trở nên phổ biến và là vấn đề xã hội cấp thiết cần được các ngành chức năng quan tâm giải quyết, nếu không sẽ tiềm ẩn nguy cơ gây mất ổn định xã hội không chỉ ở khu vực nông thôn, mà cả khu vực thành thị. Bên cạnh đó, việc phát triển các khu công nghiệp vừa góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng đất, song cũng có phần làm lãng phí đất đai. Rõ ràng là, trên cùng một diện tích đất, đầu tư xây dựng khu công nghiệp, khu chế xuất sẽ đem lại hiệu quả cao hơn nhiều so với sản xuất thuần nông. Bình quân 1 ha đất nông nghiệp chỉ sử dụng 4 - 5 lao động, tạo ra giá trị kinh tế khoảng 10 triệu đồng/năm; trong khi đó, cũng với diện tích này, các khu công nghiệp, khu chế xuất sử dụng từ 80 - 100 lao động, tạo ra khoảng 30 tỷ đồng/năm. Tuy nhiên, việc lãng phí đất đai do tình trạng quy hoạch “treo” quá lâu, dự án thiếu tính khả thi, hoặc không thể lấp đầy quá 60% diện tích là khá phổ biến. Theo thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính đến tháng 6/2007, cả nước đã có 148 khu công nghiệp, khu chế xuất (145 khu công nghiệp và 3 khu chế xuất) với tổng diện tích đất tự nhiên là 32.120 ha, được phân bố trên 49 địa phương. Tuy nhiên, mới chỉ có 90 khu công nghiệp đã đi vào hoạt động với tổng diện tích đất tự nhiên là 19.790 ha, 58 khu công nghiệp đang trong giai đoạn đền bù giải phóng mặt bằng và xây dựng cơ bản(4). Nhiều khu công nghiệp có tỷ lệ lấp đầy rất thấp. Chẳng hạn, khu công nghiệp Tân Hương (Tiền Giang) rộng 197 ha, từ năm 2004 đến nay mới cho thuê được 1ha; khu công nghiệp Nam Đông Hà (Quảng Trị) rộng 99 ha, từ năm 2004 đến nay mới cho thuê được 3 ha; khu công nghiệp Ninh Phúc (Ninh Bình) rộng 334 ha, từ năm 2003 đến nay mới cho thuê được 48 ha... Trong khi đất khu công nghiệp bị bỏ hoang hoá thì người nông dân lại trở thành “tha nhân”, không có đất để sản xuất. Tất cả những cái đó dễ gây tâm lý ức chế, bất bình trong nông dân