SlideShare a Scribd company logo
1 of 129
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
HÀ VĂN GIANG
CHẾ ĐỘ DÂN CHỦ ĐẠI DIỆN TRONG ĐIỀU KIỆN
XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN Ở VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2014
2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
HÀ VĂN GIANG
CHẾ ĐỘ DÂN CHỦ ĐẠI DIỆN TRONG ĐIỀU KIỆN
XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật
Mã số : 60 38 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Nguyễn Đăng Dung
HÀ NỘI - 2014
3
Lêi cam ®oan
T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn
cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ
trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh
x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña
luËn v¨n ch-a tõng ®-îc ai c«ng bè trong bÊt kú
c«ng tr×nh nµo kh¸c.
T¸c gi¶ luËn v¨n
Hµ V¨n Giang
4
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỘ DÂN CHỦ
ĐẠI DIỆN TRONG ĐIỀU KIỆN XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC
PHÁP QUYỀN Ở VIỆT NAM
6
1.1. Khái niệm dân chủ đại diện và những bộ phận hợp thành 6
1.1.1. Khái niệm dân chủ đại diện 6
1.1.2. Những bộ phận hợp thành dân chủ đại diện 11
1.2. Các phương thức thực hiện dân chủ đại diện 31
Chương 2: THỰC TRẠNG CỦA CHẾ ĐỘ DÂN CHỦ ĐẠI DIỆN
TRONG ĐIỀU KIỆN XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP
QUYỀN Ở VIỆT NAM
34
2.1. Chế độ dân chủ đại diện trong điều kiện xây dựng nhà nước
pháp quyền ở Việt Nam
34
2.1.1. Khái niệm pháp luật về Quốc hội và Đại biểu Quốc hội 34
2.1.2. Đặc điểm của pháp luật về Quốc hội, về Đại biểu Quốc hội 37
2.1.3. Nội dung và tồn tại của pháp luật về Quốc hội và Đại biểu
Quốc hội
39
2.2. Thực trạng của chế độ dân chủ đại diện trong quá trình xây
dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay
66
2.2.1. Những ưu điểm trong việc thực hiện chế độ dân chủ đại diện
trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam
66
2.2.2. Những hạn chế trong việc thực hiện chế độ dân chủ đại diện
trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam
68
5
Chương 3: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ CHẾ ĐỘ DÂN CHỦ ĐẠI DIỆN TRONG ĐIỀU KIỆN
XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN Ở VIỆT NAM
71
3.1. Yêu cầu hoàn thiện pháp luật về chế độ dân chủ trong điều
kiện xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam
71
3.1.1. Từ yêu cầu xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền,
phát huy vai trò của Quốc hội, Đại biểu Quốc hội trong thời
kỳ đổi mới
71
3.1.2. Từ yêu cầu thực hiện chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật Việt Nam của Đảng
72
3.1.3. Từ yêu cầu xây dựng xã hội dân chủ ở Việt Nam 73
3.1.4. Từ yêu cầu thực hiện chủ động hội nhập quốc tế 74
3.1.5. Từ đòi hỏi thực tiễn hoạt động của Quốc hội, Đại biểu Quốc
hội trong tình hình hiện nay
75
3.1.6. Từ những hạn chế của pháp luật về Quốc hội, Đại biểu Quốc
hội hiện hành
76
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về chế độ dân chủ đại diện để
nâng cao năng lực thực hành dân chủ đại diện ở nước ta
77
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện các quy phạm pháp luật về bầu cử Đại
biểu Quốc hội
77
3.2.2. Giải pháp hoàn thiện các quy phạm về nhiệm vụ, quyền hạn
của Quốc hội, Đại biểu Quốc hội
85
3.2.3. Giải pháp hoàn thiện về chế độ hoạt động của Quốc hội, Đại
biểu Quốc hội
97
3.2.4. Giải pháp hoàn thiện về các biện pháp bảo đảm hoạt của
Quốc hội, Đại biểu Quốc hội
105
3.2.5. Giải pháp hoàn thiện về hình thức pháp luật về Quốc hội, Đại
biểu Quốc hội
108
KẾT LUẬN 117
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 120
6
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ĐBQH : Đại biểu Quốc hội
HĐND : Hội đồng nhân dân
UBND : Ủy ban nhân dân
UBTVQH : Ủy ban Thường vụ Quốc hội
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
7
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã
xác định nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN)
dưới sự lãnh đạo của Đảng là một trong những nhiệm vụ có tính chiến lược
trong quá trình thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020.
Là khẳng định quyết tâm chính trị của Đảng ta trong việc đẩy mạnh cải cách
tổ chức và hoạt động của Nhà nước và pháp luật, phát huy dân chủ, tăng
cường pháp chế mà còn đánh dấu một giai đoạn phát triển mới của sự nghiệp
xây dựng Nhà nước kiểu mới - một nhà nước của dân, do dân, vì vân - khởi
đầu từ cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945. Kể từ đó đến nay chúng ta
không chỉ phấn đấu mục tiêu độc lập dân tộc mà còn phấn đấu vì một chế độ
pháp quyền thật sự dân chủ.
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 trong Văn kiện Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã nêu:
Kiên trì và quyết liệt thực hiện đổi mới. Đổi mới chính trị phải
đồng bộ với đổi mới kinh tế theo lộ trình thích hợp, trọng tâm là hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa, mở rộng dân chủ trong Đảng và trong xã hội gắn với
tăng cường kỷ luật, kỷ cương để thúc đẩy đổi mới toàn diện và phát
huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc vì mục tiêu xây dựng nước
Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh. Lấy việc thực hiện mục tiêu này làm tiêu chuẩn cao nhất để
đánh giá hiệu quả của quá trình đổi mới và phát triển...
Mở rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con người; coi
con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát
8
triển. Phải bảo đảm quyền con người, quyền công dân và các điều
kiện để mọi người được phát triển toàn diện. Nâng cao năng lực và
tạo cơ chế để nhân dân thực hiện đầy đủ quyền làm chủ, nhất là dân
chủ trực tiếp để phát huy mạnh mẽ mọi khả năng sáng tạo và bảo
đảm đồng thuận cao trong xã hội, tạo động lực phát triển đất nước.
Phát huy lợi thế dân số và con người Việt Nam, nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực, trọng dụng nhân tài, chăm lo lợi ích chính
đáng và không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của mọi
người dân, thực hiện công bằng xã hội [18].
Điều đó thể hiện sự đặc biệt quan tâm của Đảng và Nhà nước ta trong
việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN nhưng vẫn đảm bảo mở rộng dân
chủ trong xã hội.
Dân chủ được thể hiện ở hai bình diện đó là dân chủ trực tiếp và dân
chủ gián tiếp (hay còn gọi là dân chủ đại diện), hiện nay ở nước ta đang được
Đảng, Nhà nước và toàn thể nhân dân hết sức quan tâm. Đặc biệt là vấn đề
dân chủ đại diện với mong muốn nâng cao, mở rộng và tăng cường các biện
pháp đảm bảo chế độ dân chủ đại diện. Để làm được điều đó chúng ta phải
phân tích thấu đáo về thực trạng, nguyên nhân cũng như hướng hoàn thiện
chế độ dân chủ đại diện trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền
XHCN ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Dân chủ đại diện tại Việt Nam được thể chế cụ thể dưới công cụ hữu
hiệu và cao nhất của hệ thống pháp luật, đó chính là Hiến pháp 2013, trong đó tại
Điều 6 Hiến pháp quy định "Nhân dân sử dụng quyền lực Nhà nước bằng dân
chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và
thông qua các cơ quan khác của Nhà nước" [41]. Tại Điều 7 Hiến pháp 2013
cũng quy định "việc bầu cử Đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân
tiến hành theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Đại biểu
Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân bị cử tri hoặc Quốc hội, Hội đồng nhân
9
dân bãi nhiệm khi không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân" [41].
Qua đó, dân chủ đại diện chính là việc nhân dân thông qua cơ quan đại diện
của mình để thực hiện quyền dân chủ của mình. Do đó, hoàn thiện chế độ dân
chủ đại diện chính là hoàn thiện hình thức của nó hay nói cách khác là hoàn
thiện chế định Quốc hội, Đại biểu Quốc hội (ĐBQH) là một yêu cầu cấp bách
được đặt ra một cách hệ thống toàn diện trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam.
Nghiên cứu chế độ dân chủ đại diện góp phần lý luận khoa học cũng như thực
tiễn cho việc hoàn thiện pháp luật hiện nay mà Đảng và Nhà nước ta đang
thực hiện.
Hoàn thiện chế độ dân chủ đại diện ở Việt Nam là vấn đề hết sức
cấp thiết góp phần to lớn vào mục tiêu chung về xây dựng một Nhà nước
pháp quyền, xã hội dân chủ, đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của
Quốc hội… mà Đại hội XI của Đảng đã đề cập. Bên cạnh đó đang xuất hiện
nhiều vấn đề nổi cộm, mới, bức xúc về mặt lý luận chưa được làm rõ giải
quyết thấu đáo để hoàn thiện chế độ dân chủ đại diện của cơ quan đại diện cao
nhất như vấn đề về tiêu chuẩn, cơ cấu, tính đại diện của ĐBQH, Quốc hội làm
cho vấn đề chủ thể đại diện cho nhân dân chưa được giải quyết dứt điểm và
thấu đáo. Đồng thời, chưa có công trình nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ
thống liên quan đến vấn đề dân chủ đại diện ở Việt Nam.
Với những lý do cơ bản đó nên tác giả đã lựa chọn đề tài "Chế độ
dân chủ đại diện trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt
Nam" làm đề tài luận văn thạc sĩ.
2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Đề tài đi sâu vào nghiên cứu chế độ dân chủ đại diện trong điều kiện
xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. Đó là các khái niệm, ý nghĩa,
cách thức tổ chức, các quy định của pháp luật hiện hành và việc thực hiện chế
độ dân chủ đại diện hiện nay.
10
* Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu chế độ dân chủ đại diện trọng tâm là Quốc
hội với hạt nhân là ĐBQH dựa trên các chế định theo quy định của pháp luật
Việt Nam hiện nay.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục tiêu tổng quát
Nghiên cứu, đánh giá và phân tích thực trạng về chế độ dân chủ đại
diện hiện nay của nhà nước ở Việt Nam. Qua đó đưa ra những mặt đã làm
được cũng như còn hạn chế bất cập mà chế độ dân chủ đại diện ở Việt Nam
còn vướng phải trong thời gian qua. Từ đó, đề xuất các biện pháp, cách thức
nhằm hoàn thiện chế độ dân chủ đại diện ở Việt Nam trong thời gian tới.
* Mục tiêu cụ thể và nhiệm vụ nghiên cứu
Tìm hiểu, làm sáng tỏ khái quát về các vấn đề lý luận liên quan đến
chế độ dân chủ đại diện và các khía cạnh của nó như quyền lực nhân dân và
các hình thức dân chủ đại diện, các yếu tố cấu thành cũng như các phương
thức thực hiện dân chủ đại diện chung tại Việt Nam.
Nghiên cứu tổng thể các chế định liên quan tổ chức và hoạt động của
hình thức dân chủ đại diện, trong đó xoay quanh chế định Quốc hội và ĐBQH.
Xác định, đánh giá vai trò, các bộ phận liên quan nòng cốt của hình
thức dân chủ đại diện để tìm ra thực trạng, hạn chế, yếu kém cũng những tồn
tại trong thời gian qua, cần khắc phục trong thời gian tới đối với các cấu phần,
các yếu tố tạo nên hình thức của chế độ dân chủ đại diện.
Qua đó rút ra, đề xuất những phương hướng, giải pháp nhằm nâng
cao, mở rộng chế độ dân chủ đại diện trong điều kiện xây dựng nhà nước
pháp quyền ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Quan điểm của học thuyết Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về
vấn đề dân chủ, tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước, quan điểm chỉ đạo
11
của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước về vấn đề dân chủ nói chung và
dân chủ đại diện nói riêng trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền ở
Việt Nam.
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu
so sánh, thống kê, tổng hợp, phân tích các tư liệu liên quan, đồng thời kết hợp
các phương pháp đó lại để phục vụ cho việc hoàn thiện luận văn này.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Trong phạm vi của mình, đề tài là một công trình nghiên cứu vừa có ý
nghĩa về mặt lý luận, vừa có ý nghĩa về mặt thực tiễn trong quá trình xây
dựng chế độ dân chủ đại diện của nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.
- Về mặt lý luận: Đề tài góp phần hoàn thiện nội dung về chế độ dân
chủ đại diện trong nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.
- Về mặt thực tiến: những giải pháp đưa ra góp phần hoàn thiện các
quy định của pháp luật về chế độ dân chủ đại diện nhằm thực hiện tốt chế độ
dân chủ đại diện trong những năm tới.
Ngoài ra, luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong
công tác nghiên cứu, giảng dạy chuyên sâu về chế độ dân chủ đại diện trong
giai đoạn hiện nay tại Việt Nam.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về chế độ dân chủ đại diện trong
điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng của chế độ dân chủ đại diện trong điều kiện xây
dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.
Chương 3: Yêu cầu và giải pháp hoàn thiện chế độ dân chủ đại diện
trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.
12
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỘ DÂN CHỦ ĐẠI DIỆN
TRONG ĐIỀU KIỆN XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN
Ở VIỆT NAM
1.1. KHÁI NIỆM DÂN CHỦ ĐẠI DIỆN VÀ NHỮNG BỘ PHẬN HỢP THÀNH
1.1.1 Khái niệm dân chủ đại diện
Dân chủ là một thuật ngữ có nhiều định nghĩa khác nhau về nó, do
cách tiếp cận, mục đích tiếp cận khác nhau. Dân chủ có thể hiểu dưới nhiều
phương diện, nhiều góc độ: 1- Dân chủ có thể là một dòng triết học - chính trị
(dân chủ phản ánh các giá trị phổ quát như tự do cá nhân, bình đẳng về điều
kiện, thống nhất trong tính đa dạng); 2- Dân chủ là một chỉnh thể hiện thực
thâu tóm mọi khía cạnh vật chất và tinh thần của dân chủ (nền dân chủ); 3-
Dân chủ là một khái niệm chính trị - pháp lý (hình thức nhà nước); 4- Dân
chủ là một hiện thực kinh tế (thị trường tự do); 5- Dân chủ là một hiện thực xã
hội (các tổ chức phi Chính phủ, các tổ chức xã hội, phong trào lao động và xã
hội quốc tế); 6- Dân chủ là trạng thái của hệ thống quan hệ quốc tế (quyền tự
quyết dân tộc, chủ quyền quốc gia...). Căn cứ vào phạm vi có thể hiểu dân chủ
ở nghĩa phổ quát: ở tầm quốc tế, ở mỗi khu vực, mỗi quốc gia, từng cộng
đồng dân cư và ở sự cảm nhận dân chủ của mỗi người dân. Dựa vào những
phương diện, góc độ đánh giá mà các nhà khoa học đưa ra các ý kiến như sau:
1- Dân chủ là sản phẩm của quan hệ giai cấp, là tổ chức quyền lực chính trị
của giai cấp cầm quyền đối với xã hội; 2- Dân chủ bao hàm ba nội dung cơ bản
là nội dung chính trị (dân chủ chính trị), nội dung văn minh nhân đạo (dân chủ
xã hội là thành quả quan trọng nhất của văn minh và nhân đạo của loài người)
và nội dung xã hội của dân chủ (dân chủ xã hội là hình thức tồn tại của xã hội
hiện đại); 3- Dân chủ cần xem xét theo nhiều khía cạnh, nhưng với nghĩa
chung nhất, phổ biến nhất, dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân; 4- Dân
13
chủ là khát vọng, lý tưởng chung mà hàng triệu con tim và khối óc cùng
hướng tới, đấu tranh không mệt mỏi để dành lấy dù phải hy sinh xương máu.
Dân chủ là khát vọng mà chính chúng ta đang vươn tới; 5- Dân chủ không chỉ
là một vấn đề chính trị hay xã hội, mà xét theo bề sâu chính là một vấn đề văn
hóa. Bởi thế, xử lý vấn đề dân chủ không thể tách rời khỏi mối quan hệ truyền
thống - hiện đại trong văn hóa. Dân chủ còn là một yếu tố của văn hóa, một
thành tựu của văn hóa đã có từ lâu đời trong truyền thống văn hóa của dân
tộc. Theo các nhà kinh điển: dân chủ là sản phẩm tự quyết của nhân dân, phản
ánh sự tồn tại của con người với tất cả ý chí, tài năng và lợi ích của họ; dân
chủ là sản phẩm của đấu tranh giai cấp; quyền dân chủ bị chế định bởi tương
quan giai cấp, trạng thái phát triển của sản xuất và trình độ văn hóa chung,
trước hết là văn hóa chính trị của nhân dân; dân chủ là một hình thức Nhà
nước mà ở đó thừa nhận quyền ngang nhau của dân cư trong việc xác định cơ
cấu nhà nước và quản lý xã hội.
Qua quá trình phát triển lâu dài với nhiều cách tiếp cận khác nhau về
vấn đề dân chủ, nhưng tựu chung lại các ý kiến đều thống nhất ở luận điểm:
Dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân. Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam
định nghĩa: "Dân chủ, hình thức tổ chức thiết chế chính trị của xã hội dựa trên
việc thừa nhận nhân dân là nguồn gốc của quyền lực, thừa nhận nguyên tắc
bình đẳng và tự do. Dân chủ cũng được vận dụng vào tổ chức và hoạt động
của những tổ chức và thiết chế chính trị nhất định" [20, tr. 653].
Dân chủ trực tiếp là một trong hai hình thức của dân chủ và nó có một
tầm quan trọng trong quá trình xây dựng nhà nước, đặc biệt là xây dựng nhà
nước pháp quyền XHCN. Lê nin đã từng nói: Không phải chỉ tuyên truyền về
dân chủ, tuyên bố và ra sắc lệnh về dân chủ là đủ, không phải chỉ giao trách
nhiệm thực hiện dân chủ cho những người đại diện nhân dân trong những cơ
quan đại biểu là đủ. Cần phải xây dựng ngay chế độ dân chủ, bắt đầu từ cơ sở,
dựa vào sáng kiến của bản thân quần chúng với sự tham gia trực tiếp của quần
chúng vào tất cả đời sống của Nhà nước.
14
Xét một cách cụ thể hơn về bản chất pháp lý, để được coi là dân chủ
trực tiếp phải có các yếu tố sau:
Thứ nhất, là yếu tố phổ thông, đại chúng, nghĩa là bất cứ ai có đủ tư
cách (có năng lực pháp lý và năng lực hành vi) thì đều có quyền tự mình bày
tỏ ý chí của mình.
Thứ hai, là yếu tố trực tiếp, nghĩa là không thông qua cá nhân hay tổ
chức thay mặt mình.
Thứ ba, là yếu tố có hiệu lực thi hành, nghĩa là ý chí các công dân
quyết định.
Tóm lại, dân chủ trực tiếp là sự thể hiện trực tiếp ý chí của chủ thể
quyền lực về những vấn đề quan trọng nhất.
Xét về lý thuyết phương thức tốt nhất để nhân dân thực hiện quyền lực
nhà nước là họ trực tiếp quyết định các vấn đề của đời sống xã hội. Trong
trường hợp này, quyết định nhà nước thể hiện đúng ý chí của nhân dân, không
bị sai lệch. Tuy nhiên xét về mặt thực tiễn thì phương thức này có những bất
cập hoặc bất khả thi. Nó không thể thực hiện được trong điều kiện dân số có
quy mô lớn, các sự kiện trong đời sống xã hội ngày càng đa dạng, phức tạp,
biến đổi với tốc độ chóng mặt, sự tốn kém về kinh tế… Bởi vậy khi thực hiện
trong thực tiễn đời sống xã hội của mỗi đất nước thì dân chủ trực tiếp chỉ
được áp dụng trong một vài hình thức và không phổ biến với sự nhường lại
cho phương thức dân chủ đại diện (dân chủ gián tiếp) để thực hiện tối ưu
quyền lực của nhân trong hoạt động của nhà nước. Với hạn chế tồn tại cố hữu
trong bản chất của phương thức dân chủ trực tiếp nên dân chủ đại diện là cần
thiết để qua những người đại diện, ý chí của nhân dân được thể hiện kịp thời
qua các quyết định của nhà nước. Dân chủ đại diện là một hình thức nhà nước
được các đại diện của dân thành lập trên nguyên tắc thi hành chủ quyền nhân
dân (Popular sovereignty). Các đại diện không phải chỉ đại diện cho sự ủy
quyền của nhân dân mà có nghĩa vụ thực hiện quyền lợi của họ, ví dụ: không
15
nhất thiết phải luôn tuân theo ước muốn của họ, nhưng phải đủ quyền lực để
thực thi những khởi xướng thích ứng với những tình huống một cách nhanh
chóng và triệt để. Điều này thường trái ngược với hình thức dân chủ trực tiếp
đã được đề cập ở phần trên.
Hiện nay có hai cách hiểu về dân chủ đại diện theo đó (i) dân chủ đại diện
được hiểu là hình thức chính thể trong đó dân chủ thể hiện trong cách thức tổ
chức, thành lập ra các cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất và mối quan hệ
giữa các cơ quan đó, cũng như thái độ của các cơ quan này đối với nhân dân.
Với cách hiểu này dân chủ đại diện được hiểu theo nghĩa rộng bao hàm tất cả các
cơ quan nhà nước như Quốc hội, Chính phủ, Tòa án, Viện kiểm sát…(ii) dân
chủ đại diện được hiểu là nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước bằng dân chủ
đại diện thông qua Quốc hội, HĐND và thông qua các cơ quan khác của Nhà
nước. Tại luận văn này chúng ta tập trung vào trọng tâm đối tượng là Quốc hội,
nòng cốt hạt nhân là ĐBQH theo cách hiểu thứ hai để khai thác và phân tích.
Ở Việt Nam, nhà nước là nhà nước của dân, do dân và vì dân, tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nhân dân là người làm chủ nhà nước
và xã hội. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình trước hết thông qua
các cơ quan, tổ chức đại diện cho họ (dân chủ đại diện) theo nghĩa rộng, các
cơ quan, tổ chức đại diện cho quyền lực và quyền làm chủ của nhân dân bao
gồm Quốc hội, HĐND các cấp, các cơ quan nhà nước khác, các đoàn thể, các
tổ chức xã hội. Theo nghĩa hẹp, cơ quan tổ chức đại diện cho nhân dân là Quốc
hội, HĐND và các cơ quan khác của Nhà nước. Mặt khác, nhân dân thực hiện
quyền làm chủ của mình còn thông qua việc trực tiếp bày tỏ ý chí, ý kiến,
nguyện vọng của mình trong quá trình tham gia xây dựng nhà nước, pháp
luật, tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội cũng như đấu tranh bảo vệ các
quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của mình, của người khác, cũng như của
Nhà nước và của xã hội.
Dân chủ đại diện mà thực chất của nó là truyền đạt các ý nguyện của
công dân thông qua hình thức các cơ quan dân cử, các đại biểu được người
16
dân bầu chọn thông qua lá phiếu bầu, hình thức dân chủ này cho phép sự điều
tiết xã hội được quy về một mối, do vậy nhà nước điều tiết quản lý xã hội một
cách đồng bộ, thống nhất phản ứng kịp thời và có hiệu quả trước các biến
động của xã hội, điều này dân chủ trực tiếp không thể đáp ứng được trong xã
hội hiện đại. Tuy nhiên dân chủ đại diện sẽ không phát huy được, và sẽ là
hình thức nếu không có cơ chế hiệu quả để người dân thực sự bầu chọn được
những người đại diện chính đáng của mình, và những người được bầu chọn
không đủ trình độ phẩm chất năng lực, và như thế các quyết sách được đưa ra
từ các cơ quan dân cử sẽ là của một số người chứ chưa phải là của toàn dân,
đây là điểm hạn chế đáng lưu ý của dân chủ đại diện. Là hình thức, phương
thức chủ yếu của nền dân chủ hiện đại nhưng dân chủ đại diện không triệt tiêu
dân chủ trực tiếp, tính ưu điểm của dân chủ trực tiếp là đặt sự kiểm soát của
Chính phủ trong tay người dân tạo tính đồng thuận trong việc sử dụng quyền
lực nhà nước, hạn chế khả năng lạm dụng quyền lực nhà nước, nhưng nó cũng
không thể thay thế được dân chủ đại diện, mà nó chỉ bổ sung cho cơ chế dân
chủ đại diện giúp cho dân chủ đại diện hoàn thiện hơn, hiệu quả hơn.
Thực tiễn cách mạng XHCN ở nước ta, đặc biệt là hơn 20 năm đổi
mới, Đảng và Nhà nước ta luôn đặc biệt coi trọng việc thực hiện dân chủ
XHCN, không ngừng hoàn thiện cơ chế thực hiện dân chủ đại diện, các tầng
lớp nhân dân đã thực sự lựa chọn những người đại diện cho ý chí nguyện
vọng của mình thông qua lá phiếu bầu chọn, tổ chức và hoạt động của Quốc
hội, HĐND các cấp ngày càng được đổi mới hoạt động chất lượng và hiệu
quả hơn, các tổ chức chính trị xã hội ngày càng được đổi mới về tổ chức và
phương thức hoạt động, gắn bó mật thiết với nhân dân, là một kênh quan
trọng để nhân dân bày tỏ ý nguyện,tham gia quản lý giám sát bộ máy nhà
nước và đội ngũ cán bộ công chức. Đồng thời quan tâm thực hiện, từng bước
mở rộng hình thức dân chủ trực tiếp, nghị quyết Đại hội IX đã chỉ rõ: "Thực
hiện tốt quy chế dân chủ cơ sở, mở rộng dân chủ trực tiếp ở cơ sở tạo điều
kiện để nhân dân tham gia quản lý xã hội, thảo luận và quyết định những vấn
đề quan trọng, khắc phục mọi biểu hiện dân chủ hình thức" [12]. Đặc biệt coi
17
trọng và phát huy dân chủ cơ sở, mọi người dân vừa có quyền giám sát công
việc quản lý của nhà nước, vừa có quyền trực tiếp làm chủ ở cơ sở, vừa phản
ánh ý nguyện của mình thông qua HĐND, vừa trực tiếp phản ánh ý nguyện,
chất vấn của mình tại các cơ sở tiếp công dân, hoặc tại chính quyền.
Đảng ta xác định: "Tiến tới mở rộng các thiết chế dân chủ gián tiếp
một cách thiết thực, đúng hướng và có hiệu quả", Bởi để thực hiện dân chủ
trực tiếp có hiệu quả nó đòi hỏi trình độ dân trí nhất định, mỗi người dân phải
có sự hiểu biết về mặt pháp lý cần thiết, trình độ văn hóa cần thiết, và nhận
thức chính trị cần thiết, để không bị dụ dỗ, ép buộc, mê hoặc bởi mỵ dân.
Đồng thời mỗi người dân phải có thông tin đầy đủ chính xác, kịp thời các vấn
đề của nhà nước và của xã hội, có đủ thời gian, nhận thức để xử lý thông tin,
bàn bạc trao đổi trước khi đưa ra quyết định chính kiến của mình, mặt khác
còn phải được tổ chức thực hiện một cách khoa học, chặt chẽ và có khung
pháp lý đầy đủ, tiện lợi để người dân thực hiện.
Như vậy, dân chủ đại diện là hình thức tham gia quản lý nhà nước
thông qua các đại diện được bầu cử, thay mặt cho cử tri trong việc thực hiện
các chức năng hoạch định chính sách, quản lý nhà nước và xã hội.
Chế độ dân chủ đại diện là hình thức thực tế để các đại diện được bầu
cử thực hiện quyền lực nhà nước thay mặt cho cử tri.
1.1.2. Những bộ phận hợp thành dân chủ đại diện
1.1.2.1. Bầu cử
Các cuộc bầu cử tự do và công bằng là yếu tố cơ bản bảo đảm sự đồng
thuận của nhân dân, là trụ cột của nền chính trị dân chủ. Các cuộc bầu cử là cơ
chế chủ yếu để chuyển hóa sự đồng thuận đó thành quyền lực của nhà nước.
Jeane Kirkpatrick từng là học giả và cựu đại sứ Mỹ tại Liên Hợp Quốc
đã đưa ra định nghĩa như sau: Bầu cử dân chủ không chỉ đơn thuần là hình
thức... Chúng là những cuộc bầu cử cạnh tranh, theo định kỳ, với thành phần
tham gia mở và mang tính quyết định, qua đó các nhà hoạch định chính sách
18
của một Chính phủ được nhân dân bầu lên. Nhân dân có quyền tự do chỉ trích
Chính phủ, công khai phê phán và đề xuất các chính sách thay thế. Theo ông,
dân chủ phải mang tính cạnh tranh, định kỳ,mở và quyết định.
Ở Việt Nam, việc bầu cử ĐBQH được tiến hành theo nguyên tắc phổ
thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Đó cũng là những tư tưởng chỉ
đạo trong việc tổ chức bầu cử, thể hiện bản chất dân chủ của Nhà nước ta. Các
nguyên tắc này thể hiện tính chặt chẽ, thống nhất và xuyên suốt trong toàn bộ
quá trình tiến hành bầu cử, bảo đảm cho cuộc bầu cử khách quan, dân chủ, thể
hiện đúng nguyện vọng của cử tri khi lựa chọn. Nguyên tắc bầu cử yêu cầu
phải quy định rõ quyền và trách nhiệm của cử tri trong bầu cử, trách nhiệm
của Nhà nước phải bảo đảm các quy định về bầu cử.
Nguyên tắc phổ thông thể hiện tính toàn dân và toàn diện trong bầu
cử, bảo đảm để mọi công dân không phân biệt dân tộc, nam, nữ, thành phần
xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, thời hạn cư trú,
đủ 18 tuổi trở lên đều có quyền tham gia bầu cử và đủ 21 tuổi trở lên đều có
quyền ứng cử ĐBQH theo quy định của pháp luật.Yêu cầu của nguyên tắc này
là Nhà nước phải bảo đảm để cuộc bầu cử thực sự trở thành một cuộc sinh
hoạt chính trị rộng lớn, tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện quyền
bầu cử của mình, bảo đảm tính dân chủ, công khai và sự tham gia rộng rãi của
các tầng lớp nhân dân.
Bình đẳng trong bầu cử là một nguyên tắc nhằm bảo đảm tính khách
quan, không thiên vị để mọi công dân đều có khả năng như nhau tham gia bầu
cử, nghiêm cấm mọi sự phân biệt dưới bất cứ hình thức nào.
Nguyên tắc bình đẳng được pháp luật quy định trong việc thực hiện
quyền bầu cử và ứng cử của công dân, thể hiện ở các mặt như sau:
- Số lượng dân cư như nhau thì được bầu số đại biểu bằng nhau;
- Mỗi cử tri chỉ được ghi tên vào danh sách cử tri ở một nơi cư trú;
- Mỗi người chỉ được ghi tên ứng cử ở một đơn vị bầu cử;
19
- Mỗi cử tri chỉ được bỏ một phiếu bầu;
- Giá trị phiếu bầu của mọi cử tri như nhau mà không có sự phân biệt.
Nguyên tắc bình đẳng còn đòi hỏi phải có sự phân bổ hợp lý cơ cấu,
thành phần, số lượng ĐBQH để bảo đảm tiếng nói đại diện của các vùng,
miền, địa phương, các tầng lớp xã hội, các dân tộc thiểu số và phụ nữ phải có
tỷ lệ đại biểu thích đáng trong Quốc hội.
Bầu cử trực tiếp là việc cử tri trực tiếp đi bầu cử, tự bỏ lá phiếu của
mình vào hòm phiếu để lựa chọn người đủ tín nhiệm vào cơ quan quyền lực
nhà nước. Cử tri không được nhờ người khác bầu hộ, bầu thay hoặc bầu
bằng cách gửi thư. Trường hợp cử tri không thể tự viết được phiếu bầu thì có
thể nhờ người khác viết hộ, nhưng phải tự mình bỏ phiếu; nếu vì tàn tật
không tự bỏ phiếu được thì nhờ người khác bỏ phiếu vào hòm phiếu; cử tri
do ốm đau, già yếu, tàn tật không thể đến phòng bỏ phiếu được thì Tổ bầu cử
mang hòm phiếu phụ và phiếu bầu đến chỗ ở của cử tri để cử tri nhận phiếu
bầu và bầu.
Nguyên tắc bỏ phiếu kín bảo đảm cho cử tri tự do lựa chọn người
mình tín nhiệm mà không bị tác động bởi những điều kiện và yếu tố bên
ngoài. Theo đó, cử tri bầu ai, không bầu ai đều được bảo đảm bí mật. Khi cử
tri viết phiếu bầu không ai được đến gần, kể cả cán bộ, nhân viên các tổ chức
phụ trách bầu cử; không ai được biết và can thiệp vào việc viết phiếu bầu của
cử tri. Cử tri viết phiếu bầu trong buồng kín và bỏ phiếu vào hòm phiếu.
Qua các nguyên tắc bầu cử nêu trên đã thể hiện được tinh thần chỉ đạo
xuyên suốt, nhất quán nội dung bầu cử dân chủ của Việt Nam trong việc lựa
chọn các cá nhân xuất sắc vào hàng ngũ ĐBQH.
1.1.2.2 Chế độ Quốc hội
Ở Việt Nam, Quốc hội có vị trí, vai trò quan trọng và được xác định
bởi vị trí, tính chất và nhiệm vụ quyền hạn của nó, điều đó thể hiện được rõ
tính chất đại diện trước nhân dân.
20
Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền
lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Quốc hội là cơ
quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp; quyết định những vấn đề trọng
đại của đất nước và thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt
động của Nhà nước.
Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân: Tính chất đại
biểu cao nhất này được thể hiện thông qua cách thức thành lập, cơ cấu, thành
phần đại biểu và việc thực hiện chức năng nhiệm vụ.
Về cách thức thành lập: Quốc hội Việt Nam là cơ quan nhà nước duy
nhất do cử tri cả nước bầu ra theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp
và bỏ phiếu kín. Bầu cử ĐBQH là kết quả lựa chọn thống nhất ý chí của cử tri
cả nước. Ngay từ cuộc bầu cử Quốc hội khóa I, trong điều kiện đất nước mới
giành độc lập, trình độ dân trí chưa cao đã có đến 89% tổng số cử tri cả nước
đi bỏ phiếu [47, tr. 52]. Gần đây nhất, trong cuộc bầu cử Quốc hội khóa XI có
đến 99,73% tổng số cử tri đi bầu cử. Trong khi đó các nước tư sản như Mỹ,
năm 1998 chỉ có 33,8% cử tri tham gia bỏ phiếu bầu cử Quốc hội, đây là tỷ lệ
thấp nhất từ năm 1942 đến nay. Ở Pháp, trong cuộc bầu cử vòng hai Quốc hội
Pháp ngày 15 tháng 6 năm 2002 tỷ lệ cử tri vắng mặt đạt kỷ lục 39,9% (theo
Báo Nhân dân số ra ngày 18 tháng 6 năm 2002).
Cách thức thành lập nên Quốc hội thông qua cuộc bầu cử ĐBQH Việt
Nam là cách thể hiện sinh động tính đại diện của cơ quan này. Bởi lẽ, Quốc hội
là cơ quan mang tính đại diện cao nhất, do toàn thể nhân dân có chủ quyền trao
quyền cho Quốc hội thay mình thực hiện công việc của đất nước. Do đó, Quốc
hội là đại diện cho toàn thể nhân dân (cử tri cả nước) chứ không phải chỉ là
người đại diện cho từng Đơn vị bầu cử. Ngay từ cuộc bầu cử Quốc hội đầu tiên
quyền bầu cử đã là quyền thiêng liêng cho mỗi công dân Việt Nam. Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Trong các cuộc bầu cử, công dân Việt Nam từ
18 tuổi trở lên, không phân biệt gái trai, tôn giáo, mức tài sản, trình độ văn
21
hóa, không phân biệt nòi giống đều có quyền tham gia. Đó là một cách rất hợp lý
để nhân dân lao động thực hành quyền thống trị của mình" [27, tr. 218].
Về cơ cấu theo thành phần đại biểu: Quốc hội Việt Nam bao gồm đại
biểu đại diện cho các tầng lớp nhân dân, cho các vùng lãnh thổ trong cả nước
và đại diện cho các dân tộc, các tôn giáo trên lãnh thổ Việt Nam. Quốc hội là
cơ quan thể hiện rõ nét nhất khối đại đoàn kết dân tộc ở nước ta, đại diện cho
trí tuệ của đất nước. Trong đó bao gồm: đại diện của tầng lớp công dân, nông
dân, trí thức, quân nhân, người làm nghề thủ công, đại diện của chính đảng,
các tôn giáo và các dân tộc. Những người đại diện cơ cấu này trong Quốc hội
chiếm những tỷ lệ nhất định. Trong quá trình chuẩn bị bầu cử Quốc hội Việt
Nam, yếu tố cơ cấu rất được chú trọng để đảm bảo mọi giai cấp, tầng lớp, tôn
giáo, dân tộc đều có đại diện.
Các ĐBQH Việt Nam được nhân dân bầu dựa trên sự tín nhiệm. Sự tín
nhiệm đó căn cứ vào nhân thân và quá trình công tác, đóng góp, kinh nghiệm
của mỗi ứng cử viên ĐBQH. Tuy nhiên, uy tín chính trị đó được thể hiện và
được cử tri bầu trên cơ sở tiêu chuẩn ĐBQH được quy định trong Luật bầu
cử ĐBQH.
Nếu như ở những nước tư sản, những người thắng cử phần lớn là
những người giàu có, xuất thân từ tầng lớp trên thì ở Việt Nam, ĐBQH là
những người xuất thân từ mọi tầng lớp nhân dân lao động nên khi hoạt động
ĐBQH, họ là người đại diện cho toàn thể nhân dân trong xã hội. Có như vậy,
tính chất đại diện của Quốc hội Việt Nam mới được duy trì và đảm bảo thực
hiện trên thực tế.
Về cơ cấu ĐBQH theo đơn vị hành chính lãnh thổ: Luật bầu cử
ĐBQH quy định ở tất cả các đơn vị hành chính cấp tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương đều có ĐBQH. Căn cứ để phân bổ ĐBQH của mỗi tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương được tính như sau: Mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương có ít nhất ba đại biểu cư trú và làm việc tại địa phương. Số đại
biểu tiếp theo được tính theo số dân và đặc điểm của mỗi địa phương. Thủ đô
22
Hà Nội được phân bổ số đại biểu thích đáng (Điều 3 Luật bầu cử ĐBQH năm
1997 được sửa đổi, bổ sung năm 2001).
Như vậy, có thể thấy, ĐBQH Việt Nam không chỉ mang tính đại diện
theo cơ cấu thành phần mà còn đại diện theo đơn vị hành chính lãnh thổ. Để
đảm bảo cho ĐBQH thể hiện được tính đại diện nhân dân một cách triệt để
nhất, ngay từ lần bầu cử Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam(6 tháng 1 năm
1946), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trương thực hiện cách thức bầu cử theo
đơn vị dân cư. Cách thức bầu cử theo đơn vị hành chính dân cư của Hồ Chủ
tịch là sự vận dụng linh hoạt tư tưởng của Lênin về cách thức bầu cử. Như
chúng ta đã biết, trước đây, ở nước Nga Xô viết đã thực hiện cơ chế bầu cử
theo doanh trại quân đội, xí nghiệp để có được đại biểu đại diện cho công,
nông, binh. Ở Việt Nam, nơi bầu điển hình phải là các đơn vị dân cư, thông
qua cách thức bầu cử theo đơn vị hành chính dân cư các đại biểu được bầu ra
thể hiện tính đại diện cao. Do đó, cách thức bầu cử ra ĐBQH này thể hiện sâu
sắc chế độ dân chủ. Nó đảm bảo cho ĐBQH của nước ta không chỉ là người
đại diện cho ý chí, nguyện vọng của cử tri địa phương mà còn đại diện cho ý
chí, nguyện vọng của cử tri cả nước. Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về
bầu cử theo đơn vị dân cư đã được Đảng và Nhà nước ta quán triệt, ghi nhận
trong Luật bầu cử ĐBQH. Do đó, cách thức xác lập thành phần ĐBQH theo
đơn vị bầu cử (cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương) đã thể hiện tính dân
chủ của Quốc hội - cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân nói riêng của chế
độ dân chủ đại diện tại Việt Nam nói chung.
Ở Việt Nam, Quốc hội thể hiện cả tính đại diện và tính quyền lực nhà
nước. Điều đó thể hiện trong quá trình xây dựng Quốc hội dựa trên cơ sở
quán triệt quan điểm về cơ quan dân cử XHCN V.I.Lênin và vận dụng tinh
thần về chế độ ủy quyền - học thuyết của Rousseau "đại biểu nhân dân không
thể là người đại diện cho họ mà chỉ là người được ủy quyền") để xây dựng
Quốc hội Việt Nam, trong đó, ĐBQH trước hết là người đại diện cho cử tri
của mình và cử tri hoàn toàn có thể bãi miễn ĐBQH vào bất cứ thời điểm nào
23
nếu họ không đáp ứng được yêu cầu của cử tri. Do đó, có thể thấy, thành phần
ĐBQH ở Việt Nam có khả năng kết hợp được một cách tốt nhất việc đại diện
cho cử tri của khu vực bầu cử, cho cử tri của địa phương nơi đại biểu đang
sinh sống, làm việc và cho cả lợi ích quốc gia.
Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất của nhân dân: Tính quyền
lực nhà nước cao nhất của Quốc hội được thể hiện ở chỗ chỉ có Quốc hội mới
có quyền biến ý chí của nhân dân thành ý chí của nhà nước, thành pháp luật -
các quy tắc xử sự chung mang tính bắt buộc, tính cưỡng chế nhà nước đối với
mọi tầng lớp dân cư trong xã hội. Sở dĩ, Quốc hội có được vị trí pháp lý đặc
biệt như vậy vì Quốc hội là cơ quan duy nhất trong bộ máy nhà nước được
thành lập do cử tri cả nước trực tiếp bầu ra. Quốc hội là cơ quan quyền lực
cao nhất được thể hiện ở các chức năng, nhiệm vụ của Quốc hội.
Ở Việt Nam, Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến, lập
pháp quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao
toàn bộ hoạt động của nhà nước. Đây là ba chức năng quan trọng, đặc biệt,
duy nhất của Quốc hội. Chính tính chất đặc biệt quan trọng của các quyền,
nhiệm vụ này đã quyết định vị trí pháp lý đặc biệt quan trọng của Quốc hội
trong bộ máy nhà nước.
- Trước hết, đó là quyền lập hiến, lập pháp. Ở Việt Nam, ngay từ bản
Hiến pháp 1946 - bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta đã quy định cho Quốc
hội có quyền lập hiến. Các bản Hiến pháp sau này: Hiến pháp 1959, Hiến
pháp 1980 và Hiến pháp 1992 đã được sửa đổi, bổ sung và Hiến pháp 2013
quyền lập hiến vẫn là một quyền hiến định của Quốc hội. Quốc hội vừa có
quyền lập hiến vừa có quyền lập pháp là một đặc thù của Quốc hội Việt Nam.
Ở một số nước trên thế giới quan niệm quyền lập hiến là quyền của toàn
thể nhân dân nên nhân dân bầu ra một Quốc hội lập hiến để ban hành Hiến
pháp hoặc Hiến pháp được ban hành trên cơ sở kết quả của một cuộc trưng cầu ý
dân. Đây cũng là một dấu hiệu thể hiện tập trung nhất tính quyền lực nhà
nước cao nhất của Quốc hội so với các cơ quan khác trong bộ máy nhà nước.
24
Thứ hai, Quốc hội có quyền quyết định những vấn đề quan trọng của
đất nước. Đó là: những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ
kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước, những nguyên tắc chủ yếu
về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động
của công dân (Điều 70 Hiến pháp 2013).
Thứ ba, Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ
hoạt động của nhà nước. Quyền giám sát tối cao là một quyền năng đặc thù
của Quốc hội Việt Nam. Ở Việt Nam, chỉ có Quốc hội mới có quyền giám sát
tối cao. Quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của nhà nước do
Quốc hội thực hiện là một quyền hiến định. Quốc hội thực hiện quyền giám
sát tối cao chính là để thể hiện tính chất cơ bản của Quốc hội: tính đại diện
cao nhất của nhân dân và tính quyền lực nhà nước. Thông qua việc thực hiện
chức năng giám sát, Quốc hội Việt Nam thể hiện rõ tính chất của cơ quan đại
biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước
cộng hòa XHCN Việt Nam.
Như vậy, nghiên cứu tính đại diện cao nhất của nhân dân và tính
quyền lực nhà nước cao nhất của Quốc hội Việt Nam cho phép khẳng định
Quốc hội có vị trí pháp lý đặc biệt quan trọng trong bộ máy nhà nước ta. Mọi
hoạt động do Quốc hội thực hiện đều bắt nguồn từ ý chí, nguyện vọng chung
của dân tộc, của đất nước và của nhân dân. Từ cách thành lập, cơ cấu thành
phần đại biểu cho đến việc thực hiện chức năng và nhiệm vụ đặc biệt của
Quốc hội, chúng ta có cơ sở để khẳng định Quốc hội là cơ quan đại biểu cao
nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Vị trí pháp lý của
Quốc hội đã thể hiện quan điểm nhất quán về tổ chức quyền lực nhà nước
đảm bảo tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, thể hiện cao độ chế độ
đại diện của Quốc hội.
1.1.2.3. Chế độ Đại biểu Quốc hội
Đại biểu Quốc hội còn được gọi là nghị sĩ, nghị viện, đại biểu Đại hội
nhân dân toàn quốc hoặc đại biểu HĐND tối cao…với tính cách là một chức
25
danh nhà nước. Quan niệm về ĐBQH ở các nước phụ thuộc vào rất nhiều các
yếu tố khác nhau như truyền thống lịch sử, văn hóa, chính trị, pháp lý, vào mô
hình, nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước và trình tự hình thành bộ máy
nhà nước. Tuy nhiên, xét về bản chất thì ĐBQH được cử tri bầu ra thông qua
những trình tự, thủ tục do pháp luật quy định, trừ một số trường hợp đặc biệt
ở một số quốc gia có thể do chỉ định, bổ nhiệm hoặc được thế tập.
Xét về bản chất, ĐBQH có hai yếu tố quan trọng sau:
Đại biểu Quốc hội là người đại diện cho một phạm vi nhất định cộng
đồng dân cư, nhóm lợi ích trong xã hội. Đó là những người tiêu biểu cho các
giai tầng trong xã hội. Theo tính chất của Quốc hội, ĐBQH còn là người đại
diện cho nhân dân cả nước hoặc cho cả dân tộc còn là người đại diện cho
nhân dân của cả địa phương.
Đại biểu Quốc hội là người được cử tri ủy nhiệm quyền lực một cách
trực tiếp thông qua bầu cử, được pháp luật quy định thành những nhiệm vụ,
quyền hạn và được thực hiện thông qua hoạt động của đại biểu.
Theo Hiến pháp 2013, Luật Tổ chức Quốc hội trực tiếp là tại Điều 1
Quy chế hoạt động của ĐBQH và Đoàn ĐBQH thì "Đại biểu Quốc hội là
người đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân ở đơn vị bầu cử ra
mình và của nhân dân cả nước". Quy định này thể hiện được hai thuộc tính,
cấu tạo thành bản chất của ĐBQH đó là tính đại diện và tính quyền lực của đại
biểu. Trong thuộc tính về bản chất của ĐBQH thì tính đại diện cho nhân dân
là thuộc tính quan trọng chi phối hoạt động của Quốc hội cũng như ĐBQH quy
định bản chất, mối quan hệ giữa Quốc hội, ĐBQH với cử tri, nhân dân.
Bản chất của ĐBQH luôn phụ thuộc vào bản chất của Nhà nước, bản
chất của Quốc hội. Mặc dù vậy, trên vấn đề này vẫn có những quan niệm và
theo các nguyên tắc khác nhau, hoặc là nguyên tắc ủy quyền tự do (free
mandate) hoặc là nguyên tắc ủy quyền mệnh lệnh (Imperative mandate).
Nguyên tắc "ủy quyền tự do" cho rằng, các ĐBQH do cử tri của từng đơn vị
bầu cử khác nhau bầu ra, nhưng sau khi họ đã được bầu thì trở thành người
26
đại diện chung cho toàn thể nhân dân, không còn tồn tại quan hệ giữa cá nhân
từng đại biểu với các cử tri đã bầu ra họ. Thuyết minh cho nguyên tắc này,
học giả người Pháp M.Prelot cho rằng: Khi cử tri lựa chọn cá nhân này hay cá
nhân kia để bầu làm đại biểu thì ý chí của cử tri đã bị hạn chế, bởi vì cử tri
không thể gây ảnh hưởng tới vị thế của người trúng cử. Vị thế này được xác
định bởi Hiến pháp và luật… Những đại biểu được bầu trong cuộc bầu cử trực
tiếp, tự do, hoàn toàn độc lập không phụ thuộc vào cử tri. Nguyên tắc ủy
quyền tự do được áp dụng đối với Quốc hội ở nhiều nước trên thế giới. Ở
Italia, Điều 67 Hiến pháp năm 1947 quy định: "Mỗi thành viên của Nghị viện
là người đại diện của dân tộc. Khi thực hiện nhiệm vụ, đại biểu không phải
chịu trách nhiệm chính trị trước cử tri" [49]; ở Ba Lan, Điều 104 Hiến pháp
năm 1997 quy định: "Các đại biểu là người đại diện của dân tộc. Đại biểu
không bị ràng buộc bởi ý kiến của cử tri" [50]. Nguyên tắc ủy quyền mệnh
lệnh dựa trên luận điểm của J.J.Rousseau:
Chủ quyền tối cao của toàn dân là không thể dùng người đại
diện được, do đó nó cũng không thể bị xóa bỏ; nó nằm trong ý chí
của toàn dân, là ý chí chung thì không ai nói thay được…Các đại
diện nhân dân không phải và không thể là người thay mặt nhân dân
được; họ chỉ có thể là những ủy viên chấp hành [21, tr. 179].
Điều đó có nghĩa, theo nguyên tắc chủ quyền nhân dân thì những người
được nhân dân bầu cử ra chỉ là tạo ra mệnh lệnh, được ủy quyền lập pháp phải
theo ý chí, yêu cầu của nhân dân và nhân dân có thể rút lại sự ủy quyền lập
pháp phải theo người đại biểu không thực hiện đúng yêu cầu của họ. Nguyên tắc
ủy quyền mệnh lệnh cũng được các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin
đề cập trong tác phẩm "Nội chiến ở Pháp", khi tổng kết kinh nghiệm Công xã
Pari, C Mác cho rằng: "Công xã không phải là một cơ quan đại nghị, mà là một
cơ quan hành động, vừa lập pháp, vừa hành pháp" [25, tr. 17; 455]. VI. Lênin
người sáng lập và lãnh đạo nhà nước XHCN đầu tiên trên thế giới đã phát triển
luận điểm của C.Mác, khẳng định: "Các nghị sĩ phải tự mình công tác, tự mình
thực hiện những pháp luật của mình, tự mình kiểm tra lấy tác dụng của những
27
pháp luật ấy, tự chịu trách nhiệm trực tiếp trước cử tri của mình" [22, tr. 59].
Như thế ĐBQH trong nhà nước XHCN là một bộ phận ưu tú trong quần chúng
nhân dân lao động, không thoát ly khỏi môi trường lao động, công tác, gắn bó
mật thiết với nhân dân và chịu trách nhiệm trước cử tri, nhân dân về hoạt
động của mình; hoạt động ĐBQH đối với họ do vậy chỉ mang tính chất kiêm
nhiệm. Quan điểm này trong một thời gian dài đã chi phối tổ chức và hoạt
động của Quốc hội các nước XHCN, trong đó có Việt Nam và cho đến nay,
ĐBQH hoạt động kiêm nhiệm vẫn chiếm tỷ lệ đa số tuyệt đối trong thành
phần ĐBQH ở Việt Nam.
Từ bản chất về ĐBQH, có thể rút ra những đặc điểm cơ bản của ĐBQH
Việt Nam như sau:
Thứ nhất, ĐBQH là người đại diện cho ý chí và nguyện vọng của
nhân dân ở đơn vị bầu cử ra mình và của Nhân dân cả nước.
Trước hết, ĐBQH là người được cử tri của đơn vị mà mình ứng cử
bầu ra để đại diện cho ý chí và nguyện vọng của họ. Ứng cử viên trúng cử là
người nhận được nhiều sự ủng hộ nhất của cử tri, được đông đảo cử tri đánh
giá là người đại diện cho ý chí và nguyện vọng của họ. Ở đây có một ranh
giới mà pháp luật khó phân định giữa tiêu chuẩn được lựa chọn để bầu làm
đại biểu HĐND mỗi cấp với tiêu chuẩn của người được lựa chọn để bầu làm
ĐBQH. Tuy nhiên, có thể thấy rõ năng lực của ĐBQH phải tương xứng với
yêu cầu đại diện cho nhân dân ở cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất và rõ
ràng là khác nếu không nói là phải cao hơn so với yêu cầu của đại biểu
HĐND. Điểm khác biệt về tính đại diện của ĐBQH là họ không chỉ đại diện
cho cử tri của đơn vị bầu cử ra mình mà còn đại diện cho ý chí và nguyện
vọng của nhân dân cả nước.
Thuộc tính đại diện cho nhân dân của ĐBQH mặc dù đã được Hiến
pháp và pháp luật quy định, song trên thực tế vẫn luôn đặt ra ĐBQH đại diện
cho ai? Cho cử tri, địa phương có đơn vị bầu cử ra mình hay cho toàn thể
nhân dân? Vì không phải lúc nào lợi ích của cử tri cũng đồng thuận với lợi ích
28
chung; lợi ích của địa phương cũng hài hòa với lợi ích của cả nước. ĐBQH
vừa phải là sứ giả đại diện cho cử tri, địa phương đã bầu ra mình, vừa phải là
đại diện cho nhân dân trong việc hoạch định chính sách, pháp luật. Đây là
điều không dễ dàng, là vấn đề luôn đặt ra trong việc nghiên cứu, hoàn thiện
pháp luật về ĐBQH cũng như trong thực tiễn hoạt động của họ. Thực tế cho
thấy ngay từ những ngày đầu của Quốc hội Việt Nam, dẫu rằng thành phần
ĐBQH khóa I rất đa dạng, phức tạp, bên cạnh các đại biểu được cử tri cả
nước bầu ra còn có cả những đại biểu không do bầu cử mà do các đảng phái
phản động như Việt Nam Quốc dân Đảng, Việt Nam phục quốc cử ra (70 ghế)
nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn khẳng định: "Các đại biểu trong Quốc hội
này không phải đại diện cho một đảng phái nào mà đại biểu cho toàn thể quốc
dân Việt Nam. Đó là một sự đoàn kết tỏ ra rằng lực lượng của toàn dân Việt
Nam đã kết lại thành một khối" [28, tr. 4]. "Quốc hội là tiêu biểu ý chí thống
nhất của dân tộc ta, một ý chí sắt đá không gì lay chuyển nổi" [28, tr. 189].
Lịch sử lập hiến Việt Nam cũng cho thấy từ Hiến pháp 1946 đến Hiến pháp
2013 cũng như các văn bản pháp luật khác về ĐBQH đều khẳng định ĐBQH
đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân "là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá
trình tổ chức và hoạt động của Quốc hội Việt Nam" [47, tr. 3].
Về phương diện lý luận, liên quan đến tính đại diện của ĐBQH cần
phân biệt giữa khái niệm cử tri và khái niệm nhân dân trong mối quan hệ với
ĐBQH mà hiện nay khoa học pháp lý chưa làm rõ. Pháp luật thực định đã quy
định về hai mối quan hệ này, những cũng chưa phân biệt rõ cử tri và nhân
dân, như ĐBQH là đại diện cho cử tri, đồng thời cũng phải chịu trách nhiệm
trước nhân dân; ĐBQH có thể bị bãi miễn nếu không xứng đáng với sự tín
nhiệm của cử tri, sự tín nhiệm của nhân dân… Rõ ràng, giữa hai nhóm chủ
thể là cử tri và nhân dân có sự khác biệt nhất định mà pháp luật về ĐBQH
không thể không tính đến. Pháp luật về ĐBQH nhiều nước đều quy định rõ sự
khác biệt này. Đại biểu dân cử là người đại diện cho một khối cử tri nào đó.
Khối cử tri có thể được xác định theo những tiêu chí khác nhau như đơn vị
hành chính, dân tộc, nhóm lợi ích… Những tiêu chí này chính là những yếu tố
29
dẫn đến những sự khác biệt về ý chí, nguyện vọng, mà cụ thể nhất là sự khác
nhau, và có thể là trái ngược nhau về lợi ích; lợi ích của các cộng đồng người
thiểu số thường khó có thể đồng nhất với lợi ích của cộng đồng dân cư chiếm
đa số; lợi ích của cộng đồng người ở các vùng miền núi khó có thể đồng nhất
với lợi ích của cộng đồng người ở miền đồng bằng… Tuy nhiên, pháp luật
nhiều nước chú trọng tính đại diện của ĐBQH trước nhân dân cả nước, mặc
dù "nhân dân" là một phạm trù rất rộng, có thể bao gồm những cộng đồng dân
cư với những lợi ích khác nhau và có thể trái ngược nhau. Trong khi đó, ở
Việt Nam, trong khoa học pháp lý, nhân dân là một khái niệm chung chỉ được
sử dụng trong các quy phạm xác định bản chất nguyên tắc, mục tiêu của chính
thể, các chính sách cơ bản, ít là chủ thể trong quan hệ pháp luật cụ thể, trừ khi
lấy ý kiến nhân dân về vấn đề nào đó hoặc có trưng cầu ý dân trên phạm vi
toàn quốc.
Về bản chất, ĐBQH không đại diện cho từng cá nhân, từng cử tri cụ
thể, mà đại diện cho ý chí, nguyện vọng chung của đại đa số cử tri, nhân dân.
Tuy nhiên, việc thực hiện trên thực tế bản chất đó lại không dễ dàng. Vấn đề
đặt ra là ý chí, nguyện vọng của cử tri mà ĐBQH đại diện chỉ có thể được bảo
đảm và trở thành hiện thực khi họ ý thức một cách đầy đủ nghĩa vụ, trách
nhiệm của mình trước cử tri, nhân dân mà điều đó phụ thuộc rất lớn vào phẩm
chất, năng lực của người đại biểu. Mặt khác, cơ chế hình thành ý chí chung
của ĐBQH cũng đóng vai trò quan trọng trong việc trở thành ý chí chung của
Quốc hội - cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân. Thực tế hoạt động của
ĐBQH cho thấy, việc phản ánh và việc làm cho ý chí của cử tri trở thành quy
định của pháp luật từ mỗi ĐBQH là rất khác nhau, phụ thuộc vào nhiều yếu
tố, nhất là phẩm chất, năng lực, trình độ ĐBQH, cơ chế "luật hóa", mối quan
hệ… Mặt khác, do Quốc hội làm việc theo nguyên tắc tập thể, quyết định theo
đa số và cho đến nay vẫn chưa hình thành cơ chế bảo vệ ý chí được coi là
chính đáng của một bộ phận cử tri, cho nên luôn tiềm ẩn nguy cơ ý chí này dễ
bị "chết yểu" bởi nguyên tắc đa số phiếu. Chính vì thế, việc phản ánh ý chí
nguyện vọng của cộng đồng cử tri thiểu số ở một số nước thường có cơ chế
30
đặc thù được quy định ngay trong Hiến pháp hoặc các đạo luật. Đây là vấn đề
rất đáng lưu ý, nhất là ở Việt Nam có tới 54 dân tộc khác nhau.
Đặc điểm về tính đại diện của ĐBQH còn liên quan đến vấn đề thành
phần đại biểu. Bên cạnh việc bảo đảm cơ cấu, thành phần đại biểu thuộc mọi
thành phần giai cấp, dân tộc, tôn giáo, địa bàn, lĩnh vực hoạt động xã hội…có
đại diện của mình trong Quốc hội thì điều quan trọng hơn đó là năng lực đại
diện của các ĐBQH. Do đó, không nên quan niệm rằng, cứ có một chị nông
dân trong Quốc hội thì đã thực hiện được sự đại diện cho giai cấp nông dân,
cũng như không phải cứ có một nhà khoa học trong Quốc hội thì đã đại diện
được cho tầng lớp trí thức trong Quốc hội. Vấn đề là người ĐBQH bên cạnh
thành phần xuất thân còn phải thực hiện được năng lực đại diện đó như thế
nào? Và điều đó phụ thuộc vào cái tâm, cái trí, cái dũng trong thực hiện đại
diện của ĐBQH.
Thứ hai, ĐBQH là người được cử tri bầu theo các nguyên tắc và thủ
tục dân chủ do pháp luật quy định.
Đây là đặc điểm để phân biệt rõ giữa ĐBQH với chức danh khác trong
bộ máy nhà nước và hệ thống chính trị. Việc bầu cử ĐBQH ở nhiều nước,
trong đó có Việt Nam được tiến hành theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng,
trực tiếp và bỏ phiếu kín. Tuy nhiên, pháp luật về bầu cử ở mỗi nước cũng rất
khác nhau. Ở Việt Nam, ĐBQH là chủ thể duy nhất được nhân dân cả nước
trực tiếp bầu ra theo các đơn vị bầu cử do pháp luật quy định và để trở thành
ứng cử viên phải trải qua những trình tự, thủ tục do luật định, trong đó phải
qua các bước hiệp thương do Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức. Ở các
nước, pháp luật bầu cử thường bảo đảm cho các ứng cử viên có đại diện cho
các thành phần khác nhau trong xã hội, theo các phương thức tự ứng cử, đề cử
bởi nhóm cử tri, chính đảng hay tổ chức xã hội; theo chế độ bầu cử đa số hay
chế độ bầu cử tỷ lệ…Cá biệt, có nước trong một số trường hợp việc hình
thành ĐBQH theo chỉ định, bổ nhiệm hoặc do thế tập như ở Anh đối với
Thượng nghị sĩ, hoặc là đặc quyền của các cựu tổng thống ở Chi Lê trước
31
đây, sau khi mãn hạn tổng thống thì đương nhiên trở thành Thượng nghị sĩ.
Đặc điểm này chủ yếu xuất phát từ truyền thống lịch sử, chính trị, pháp luật
và văn hóa riêng của mỗi nước. Trên thực tế để trở thành ứng cử viên và được
bầu là ĐBQH còn phụ thuộc và chi phối bởi rất nhiều yếu tố, như sự công
khai, rõ ràng, minh bạch trong thủ tục bầu cử, ứng cử, ý thức của người dân
trong việc thực hiện quyền và trách nhiệm công dân của mình, những thông
tin về ứng cử viên mà cử tri biết được, những tiêu chuẩn ĐBQH làm căn cứ
cho việc lựa chọn và nhất là cơ chế hiệp thương, tranh cử. Đây là vấn đề mà ở
Việt Nam trong chừng mực nhất định cũng còn hình thức, cần được hoàn
thiện, góp phần bảo đảm để bầu được những người thực sự tiêu biểu cho các
giai tầng trong xã hội. Có như vậy mới thể hiện được bản chất của ĐBQH
trong mối quan hệ với cử tri, nhân dân.
Thứ ba, thành phần ĐBQH hết sức đa dạng.
Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân nên tất yếu cơ cấu
thành phần ĐBQH trong Quốc hội phải đảm bảo đại diện cho các giai cấp,
tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo, các ngành, các giới, tổ chức chính trị, tổ
chức chính trị - xã hội, lực lượng vũ trang và các đoàn thể quần chúng… Tuy
nhiên, để các thành phần xã hội đều có đại biểu thực sự đại diện được cho ý
chí, nguyện vọng và lợi ích của mình trong Quốc hội thì việc xác định ĐBQH
chỉ căn cứ vào số lượng của mỗi thành phần cử tri trong tổng dân số thì sẽ rất
khó bảo đảm, nhất là đối với những nhóm cử tri thiểu số. Ở nhiều nước việc
bảo đảm quyền được có đại biểu đại diện tại Quốc hội của các nhóm thiểu số
luôn được Hiến pháp và pháp luật quy định chặt chẽ.
Một vấn đề nữa đặt ra đối với đặc điểm này của ĐBQH là việc lựa
chọn ứng cử viên theo các thành phần xã hội với việc tổ chức đơn vị bầu cử.
Theo đó, các ứng cử viên bên cạnh tính chất chung là đại diện cho nhân dân
cả nước thì còn được cơ cấu đại diện cho một thành phần xã hội nhất định
song không chỉ do cử tri thuộc thành phần đó lựa chọn, mà lại do cử tri thuộc
các thành phần trên địa bàn dân cư theo đơn vị hành chính lựa chọn. Như vậy,
32
với thành phần đa dạng của dân cư tại đơn vị bầu cử đã bảo đảm cho ứng cử
viên trúng cửa đại diện cho mọi cử tri, nhân dân, vì là người được cử tri thuộc
mọi thành phần xã hội tôn vinh lựa chọn.
Thứ tư, ĐBQH hoạt động theo nhiệm kỳ.
Đại biểu Quốc hội hoạt động theo nhiệm kỳ là đặc điểm quan trọng,
bảo đảm cho Quốc hội luôn được đổi mới, tăng cường được nguồn lực mới,
bảo đảm cho những người tiên tiến trong các giai tầng xã hội, các dân tộc
luôn có cơ hội đại diện cho giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc mình tham gia
Quốc hội. Hoạt động theo nhiệm kỳ của ĐBQH đã tạo áp lực của cử tri với
đại biểu và cũng là yếu tố tác động mạnh mẽ khiến ĐBQH phải tu dưỡng, rèn
luyện, hoạt động xứng đáng với sự tín nhiệm của cử tri. Đây là đặc điểm khác
biệt với công chức, viên chức nhà nước, những người hoạt động có tính chất
ổn định và lâu dài. Ở Việt Nam, theo quy định của Hiến pháp và pháp luật,
nhiệm kỳ của ĐBQH trùng với nhiệm kỳ của Quốc hội là 5 năm. Ở các nước
việc xác định nhiệm kỳ ĐBQH cũng khác nhau. Có nước nhiệm kỳ của Quốc
hội và ĐBQH là một; cũng có nước nhiệm kỳ của Quốc hội và nhiệm kỳ của
ĐBQH là khác nhau. Ở những nước này, pháp luật quy định sau một thời gian
nhất định của nhiệm kỳ Quốc hội, thường là 1/3 hoặc ½ nhiệm kỳ sẽ bầu lại
một tỷ lệ nhất định để loại ra các ĐBQH qua thực tế hoạt động có những biểu
hiện yếu kém. Cơ chế này tạo sự cạnh tranh giữa các ĐBQH, tạo động lực để
các ĐBQH phấn đấu trong quá trình thực thi nhiệm vụ mà nhân dân và cử tri
giao phó. Đây là quá trình đổi mới không ngừng nhưng vẫn bảo đảm sự kế thừa,
tính liên tục cũng như sự ổn định trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội. Do
cơ chế linh hoạt như vậy nên mặc dù hoạt động theo nhiệm kỳ là phổ biến đối
với Quốc hội các nước trên thế giới, song không làm ảnh hưởng nhiều đến tính
chuyên nghiệp, ổn định trong hoạt động của ĐBQH, nhất là ở các nước có
truyền thống coi hoạt động ĐBQH như một nghề, tỷ lệ ĐBQH hoạt động nhiều
nhiệm kỳ trở thành phổ biến. Trong khi đó, ở Việt Nam, đặc điểm này của
ĐBQH phần nào ảnh hưởng đến yêu cầu về tính ổn định, tính chuyên nghiệp,
33
những đòi hỏi về kinh nghiệm, về chất lượng và hiệu quả hoạt động của ĐBQH.
Mặt khác, thực tế các khóa Quốc hội Việt Nam cho thấy, do nhiều nguyên
nhân khác nhau mà tỷ lệ tái cử của ĐBQH thường không cao. Số ĐBQH tái cử
trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa IX chỉ là 108, chiếm tỷ lệ 27,34%; nhiệm kỳ
Quốc hội khóa X là 135 người chiếm tỷ lệ 27,11% [47, tr. 236], nhiệm kỳ
Quốc hội khóa XII là 136 chiếm tỷ lệ 27,59%. Điều này càng cho thấy đặc
điểm về tính nhiệm kỳ trong hoạt động của ĐBQH và hệ quả của nó là vấn đề
không thể không tính đến trong việc nghiên cứu hoàn thiện pháp luật về ĐBQH.
Thứ năm, thành phần ĐBQH phản ánh rõ tính giai cấp của Quốc hội.
Trong tác phẩm "Nhà nước và cách mạng", VI. Lênin đã phân tích
những luận điểm khoa học về nhà nước, về tính chất giai cấp của Nhà nước,
về những đặc trưng kiểu mới của Nhà nước XHCN. Đề cập đến tính chất giai
cấp của Nhà nước tư sản, nghị viện tư sản và bầu cử tư sản, VI Lênin viết:
"Cứ mấy năm lại một lần quyết định xem người nào trong giai cấp thống trị sẽ
chà đạp và đè nén nhân dân trong nghị viện, đó là thực chất của chế độ đại
nghị tư sản, không những chỉ trong các nước quân chủ lập hiến - đại nghị, mà
cả trong những nước cộng hòa dân chủ nữa" [23, tr. 56-57]. Như vậy, theo
V.I.Lênin, các nghị sĩ Quốc hội trong nhà nước tư sản về thực chất chỉ là đại
biểu đại diện cho giai cấp tư sản thống trị chà đạp và áp bức nhân dân, hoàn toàn
không phải như các học giả tư sản cho rằng, họ là những người đại diện rộng rãi
cho mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội. Đối ngược lại với tính chất giai cấp
của nghị viện tư sản, nghị sĩ tư sản, Nhà nước XHCN là nhà nước do giai cấp
công nhân lãnh đạo nhà nước do nhân dân tự tổ chức xây dựng, làm chủ và
quản lý theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, và do đó, các đại biểu do
nhân dân bầu ra "phải tự mình công tác, tự mình thực hiện những luật pháp
của mình và tự mình kiểm tra lấy tác dụng của những luật pháp ấy" [22]. Điều
đó cũng có nghĩa ĐBQH trong Nhà nước XHCN là đại diện cho nhân dân lao
động, toàn bộ hoạt động là vì lợi ích của nhân dân, bản thân phải là những người
lao động, không thoát ly khỏi môi trường lao động, công tác. Ở Việt Nam, từ
34
thực tiễn lịch sử đã khẳng định: Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
đối với nhà nước là nhân tố quyết định sự phát triển, bảo đảm tính chất giai
cấp công nhân và tính nhân dân rộng rãi của Nhà nước. Sự lãnh đạo của Đảng
theo những phương thức khác nhau phù hợp với vị trí, tính chất, chức năng
của từng cơ quan trong bộ máy nhà nước. Đối với Quốc hội, sự lãnh đạo của
Đảng trước hết là lãnh đạo bầu cử ĐBQH. Đảng giới thiệu những đảng viên
ưu tú của Đảng để nhân dân lựa chọn bầu vào Quốc hội, mặt khác, Đảng lãnh
đạo trong việc xác định thành phần, cơ cấu, tiêu chuẩn ĐBQH, lãnh đạo các
cơ quan, tổ chức bầu cử, đặc biệt là lãnh đạo Mặt trận tổ quốc Việt Nam các
cấp trong hiệp thương giới thiệu người ra ứng cử ĐBQH, bảo đảm cơ cấu, thành
phần đại biểu đại diện cho mọi tầng lớp nhân dân, trung thành với Đảng, nắm
vững đường lối, chủ trương của Đảng và có khả năng tham gia Quốc hội để
thể chế hóa đường lối, chủ trương đó thành các đạo luật, nghị quyết. Vì lẽ đó,
ĐBQH dù xuất thân từ thành phần nào, dù ở trong Đảng hay ngoài Đảng cũng
đều là đại diện của các tầng lớp, giai cấp, dân tộc trung thành với Đảng, thể
hiện và bảo đảm tính giai cấp công nhân và tính nhân dân rộng rãi, cái làm
nên bản chất của Nhà nước XHCN Việt Nam, của Quốc hội Việt Nam.
Thứ sáu, ĐBQH có địa vị pháp lý và vai trò quan trọng trong hoạt
động của Quốc hội và Nhà nước.
ĐBQH là người đại diện của nhân dân, cùng với Quốc hội quyết định
những vấn đề quan trọng của đất nước, lập hiến, lập pháp và thực hiện quyền
giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước. Vì lẽ đó, so với cán
bộ, công chức nhà nước khác, ĐBQH có địa vị pháp lý đặc biệt, thể hiện ở
những quy định về vị trí, vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn và, theo đó ĐBQH là
người đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, thay mặt nhân dân
thực hiện quyền lực nhà nước trong Quốc hội, họ đều bình đẳng với nhau về
quyền và nghĩa vụ, không có ĐBQH cấp trên, ĐBQH cấp dưới, ĐBQH nào
lãnh đạo, chỉ đạo ĐBQH khác; mối quan hệ giữa họ là mối quan hệ phân
công, phối hợp công tác chứ tuyệt nhiên không hình thành thứ bậc quyền uy.
35
Đại biểu Quốc hội có những quyền hạn đặc biệt, như quyền trình dự án
luật, kiến nghị về luật ra trước Quốc hội; quyền phát biểu ý kiến tham gia thảo
luận, thông qua các quyết định thuộc chức năng của Quốc hội như làm Hiến
pháp, sửa đổi Hiến pháp, làm luật, sửa đổi luật, quyết định kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội, ngân sách nhà nước…; bầu phê chuẩn các chức danh cao
cấp trong bộ máy nhà nước, chất vấn các chức danh do Quốc hội bầu, phê
chuẩn; quyền yêu cầu các cơ quan, tổ chức trả lời những vấn đề mà ĐBQH
quan tâm; quyền được cung cấp thông tin, tài liệu; quyền được bảo đảm điều
kiện hoạt động; quyền được miễn trừ không bị bắt giam, truy tố nếu không có
sự đồng ý của Quốc hội hoặc Ủy ban thường vụ quốc hội (UBTVQH).... Theo
Hiến pháp và pháp luật, ĐBQH có những nhiệm vụ thể hiện trách nhiệm
trước Quốc hội, cử tri và nhân dân như tham gia đầy đủ các kỳ họp, phiên
họp của Quốc hội; liên hệ chặt chẽ với cử tri, thu thập, phản ánh trung thực ý
chí, nguyện vọng của cử tri với Quốc hội và các cơ quan nhà nước hữu quan;
thực hiện chế độ tiếp xúc cử tri và báo cáo với cử tri về hoạt động của mình
và của Quốc hội; tiếp nhận xử lý, giám sát, đôn đốc việc giải quyết các kiến
nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân và hướng dẫn, giúp đỡ công dân thực
hiện các quyền đó…
Phù hợp với địa vị pháp lý đặc biệt, ĐBQH có vị trí, vai trò quan trọng
thể hiện ở chỗ:
Đại biểu Quốc hội là người đại diện cho ý chí và nguyện vọng của
nhân dân, thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước trong Quốc hội.
Vị trí, vai trò này của ĐBQH thể hiện ở tính chất và nội dung đại diện
của ĐBQH, trong đó có đại diện thực hiện quyền lực nhà nước tại Quốc hội,
thể hiện ở các quyền hạn của đại biểu. ĐBQH dù là Đảng viên hay không là
Đảng viên đều tham gia cùng với Quốc hội góp phần quan trọng vào việc tạo
dựng lên định hướng chính trị của đất nước trên những mặt cơ bản sau:
- Thể chế hóa và bảo đảm thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng,
phát triển đất nước theo định hướng XHCN.
36
- Tạo lập thể chế pháp lý cơ bản trên cơ sở tính chất và hoạt động của
Nhà nước, xã hội; phản ánh và bảo đảm bản chất của Nhà nước, định hướng
phát triển nhà nước, xã hội và củng cố đội ngũ công chức trong sạch, tăng
cường trật tự, kỷ cương, pháp chế và hội nhập quốc tế.
- Thực hiện dân chủ hóa đời sống chính trị của đất nước, xã hội, bảo
đảm cán bộ, công chức thực sự là công bộc của nhân dân, các quyết định của
Nhà nước được nhân dân tham gia góp ý, với các mô hình phản biện hiệu quả,
thể hiện đầy đủ ý chí, nguyện vọng của nhân dân.
Đại biểu Quốc hội là cầu nối giữa nhà nước và nhân dân, nhân dân
và nhà nước.
Đại biểu Quốc hội là một chức danh nhà nước, vừa là chức danh do
nhân dân bầu, vừa là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân,
vừa là người được Hiến pháp và pháp luật giao cho những quyền hạn đặc biệt
thuộc quyền lực nhà nước. Với vị trí đó, ĐBQH thực sự là cầu nối giữa nhà
nước và nhân dân, nhân dân và nhà nước. Điều này được thể hiện:
- Với nhân dân, ĐBQH phản ánh ý nguyện của nhân dân với Quốc
hội, bảo vệ dân, bảo đảm cho nhân dân thực hiện các quyền con người, quyền
tự do dân chủ…
- Với nhà nước, ĐBQH thông qua các hoạt động của mình làm cho ý
nguyện của nhân dân được phản ánh chính xác, đầy đủ trong các quy định của
pháp luật; góp phần bảo đảm nhà nước gần dân, hiểu dân, học dân, chịu sự
giám sát của nhân dân, loại bỏ căn bệnh quan liêu, tham nhũng trong bộ máy
nhà nước, đồng thời là người tổ chức, người thường xuyên tuyên truyền, vận
động nhân dân thực hiện pháp luật.
Đại biểu Quốc hội là trung tâm, hạt nhân trong tổ chức và hoạt động
của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội.
Đại biểu Quốc hội cấu thành nên Quốc hội. Không có các ĐBQH, tất
yếu sẽ không có Quốc hội và các cơ cấu của Quốc hội. ĐBQH mạnh thì cơ
37
cấu của Quốc hội mới mạnh, Quốc hội mới mạnh và ngược lại. Trong các cơ
cấu của Quốc hội thì hoạt động của ĐBQH luôn là hạt nhân trung tâm trong
toàn bộ hoạt động của Quốc hội. Mặt khác, vị trí, vai trò trên của ĐBQH
không những được thể hiện trong hoạt động của Quốc hội mà còn được thể
hiện trong toàn bộ hoạt động của nhà nước.
Như vậy, chế định ĐBQH là một trong những nhân tố có ý nghĩa và
vai trò quyết định, hạt nhân của việc hoàn thiện dân chủ đại diện ở Việt Nam
trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay.
1.2. CÁC PHƢƠNG THỨC THỰC HIỆN DÂN CHỦ ĐẠI DIỆN
Cũng tương tự như phương thức dân chủ trực tiếp, hình thức dân chủ đại
diện cũng có nhiều phương thức thực hiện khác nhau, vận dụng cũng như đối
chiếu với thực tiễn tại Việt Nam chúng ta có thể thấy dân chủ đại diện được thực
hiện thông qua hoạt động chính của Quốc hội, HĐND và các đoàn thể tổ chức
xã hội, trong đó Quốc hội đóng vai trò quan trọng. Do vậy, các phương thức
thực hiện dân chủ đại diện chủ yếu bao gồm:
Một là, dân chủ đại diện được thực hiện thông qua hoạt động bầu cử
ĐBQH thông qua hoạt động của ĐBQH; ĐBQH là những người do cử tri
bầu ra đại diện cho ý chí, nguyện vọng, lợi ích của cử tri. Trong hoạt động
của mình, ĐBQH phải gần gũi nhân dân, tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng, nhu
cầu của họ, nắm bắt những vấn đề đặt ra trong đời sống chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội, an ninh, trật tự ở từ địa phương, cơ sở đến Trung ương.
Trên cơ sở tập hợp ý chí, nguyện vọng, ý kiến của nhân dân và những vấn đề
đặt ra trên các lĩnh vực đời sống xã hội, căn cứ vào quy định của pháp luật,
ĐBQH sẽ tham gia xây dựng các nghị quyết, Luật... của Quốc hội nhằm
quyết định những chủ trương, biện pháp thể hiện tập trung ý chí của nhân
dân, phù hợp với Hiến pháp, pháp luật và nghị quyết, quyết định của Đảng
và Nhà nước. Chất lượng trong và ngoài kỳ họp của ĐBQH sẽ quyết định
tính chất, hiệu quả đại diện của Quốc hội.
38
Hai là, dân chủ đại diện được thực hiện thông qua việc Quốc hội thực
hiện các chức năng do pháp luật quy định: Bản chất của Nhà nước ta là nhà
nước của dân, do dân, vì dân. Đối với Quốc hội bản chất đó được thể hiện
thông qua việc thực hiện các chức năng của Quốc hội; Quốc hội là cơ quan
duy nhất có quyền lập hiến, lập pháp. Quốc hội quyết định những chính sách
cơ bản về đối nội, đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh
của đất nước, những nguyên tắc chủ yếu của tổ chức và hoạt động của bộ máy
nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động công dân. Quốc hội thực hiện
quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của nhà nước, tất cả những
nội dung này đều phải phù hợp ý chí, tâm tư, nguyện vọng của đông đảo nhân
dân đã gửi gắm vào những người đại diện cho ý chí của họ. HĐND ban hành
các nghị quyết nhằm tổ chức, thực hiện pháp luật và giải quyết những vấn đề
quan trọng trên các lĩnh vực đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội ở địa
phương, cơ sở, phù hợp với ý chí, nguyện vọng của nhân dân; HĐND thực
hiện chức năng giám sát hoạt động của Ủy ban nhân dân (UBND) (cơ quan
chấp hành của HĐND) bảo đảm cho hoạt động của UBND phù hợp với Hiến
pháp, pháp luật, thực hiện tốt các nghị quyết của HĐND, đồng thời hoạt động
giám sát của HĐND được thực hiện theo sự phản ánh và nguyện vọng của
nhân dân đối với tổ chức, hoạt động của UBND.
Ba là, dân chủ đại diện còn được thực hiện thông qua hoạt động của
các cơ quan khác của Nhà nước như: Công đoàn, Đoàn Thanh niên Cộng sản
Hồ Chí Minh, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh. Đây là những
tổ chức quần chúng theo giai cấp, giới tính, nghề nghiệp, sở thích nhằm tập
hợp, vận động quần chúng, thực hiện đường lối, chính sách, pháp luật, tham
gia xây dựng nhà nước, quản lý nhà nước và xã hội; giúp đỡ nhau trong học
tập, sản xuất - kinh doanh, đời sống, sinh hoạt, hoạt động xã hội, đồng thời bảo
vệ những quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của đoàn viên, hội viên. Do
cách thức tổ chức, nội dung, mục đích hoạt động của các đoàn thể, tổ chức
quần chúng nên các tổ chức này thể hiện rõ hơn tính chất đại diện cho đoàn
39
viên, hội viên của mình và ngược lại tính chất đại diện của chúng lại được thể
hiện cụ thể trong nội dung, mục đích tôn chỉ, hoạt động của tổ chức này. Trong
giới hạn phạm vi nghiên cứu của luận văn sẽ không được xem xét và phân tích
sâu về nội dung này. Như đã trình bày ở những phần trên chúng ta tập trung
vào phương thức thực hiện dân chủ đại diện điển hình, quan trọng nhất hiện
nay ở Việt Nam đó là thông qua hoạt động của Quốc hội, ĐBQH, xoáy quanh
chế định Quốc hội và ĐBQH để nắm rõ thực trạng và hướng hoàn thiện chế
độ dân chủ đại diện ở nước ta hiện nay. Việc mở rộng dân chủ đại diện đòi
hỏi phải tiếp tục cải tiến chế độ bầu cử các cơ quan dân cử, đảm bảo cho nhân
dân được tiếp xúc, đối thoại với các đại biểu của mình, có đầy đủ thông tin để
trao đổi, nhận xét, lựa chọn thực sự dân chủ.
40
Chương 2
THỰC TRẠNG CỦA CHẾ ĐỘ DÂN CHỦ ĐẠI DIỆN TRONG ĐIỀU KIỆN
XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN Ở VIỆT NAM
2.1. CHẾ ĐỘ DÂN CHỦ ĐẠI DIỆN TRONG ĐIỀU KIỆN XÂY DỰNG NHÀ
NƢỚC PHÁP QUYỀN Ở VIỆT NAM
Chế độ dân chủ đại diện thể hiện ở một số nội dung cơ bản: 1) quyền
lực nhà nước thuộc về nhân dân; 2) quyền lực của nhân dân phải được khẳng
định bằng Hiến pháp và pháp luật; 3) quyền lực đó được thực hiện và được
bảo đảm thông qua nhà nước dân chủ. Với quan điểm trên chế độ dân chủ đã
được thể hiện trong Hiến pháp và các văn bản quy phạm pháp luật liên quan
với cách thức tổ chức và cơ cấu sau đây.
2.1.1. Khái niệm pháp luật về Quốc hội và Đại biểu Quốc hội
Khái niệm pháp luật về Quốc hội và ĐBQH có thể được tiếp cận dưới
các góc độ khác nhau. Dưới góc độ pháp luật thực định thì pháp luật về Quốc
hội và ĐBQH ở Việt Nam là toàn bộ các văn bản quy phạm pháp luật mà chủ
yếu là Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, UBTVQH điều chỉnh các
quan hệ về tổ chức, hoạt động, chức năng, nhiệm vụ của Quốc hội; về bầu cử
ĐBQH; về nhiệm vụ quyền hạn của ĐBQH cũng như phương thức, hình thức,
biện pháp thực hiện và bảo đảm thực hiện các nhiệm vụ quyền hạn đó; về các
quan hệ giữa Quốc hội, ĐBQH với cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan tới
hoạt động của Quốc hội, ĐBQH và các điều kiện bảo đảm cho hoạt động
Quốc hội, ĐBQH.
Hiến pháp năm 2013 có nội dung quan trọng nhằm thiết lập vị trí pháp
lý, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của Quốc hội, ĐBQH cũng như các
chức năng và phương thức hoạt động của Quốc hội, ĐBQH, theo đó, Hiến
pháp đã dành một chương (Chương V) quy định về vấn đề này, điều này hoàn
41
toàn phù hợp với thông lệ chung của các nước trên thế giới như Liên bang
Nga, Hoa Kỳ…Và hàng loạt các văn bản đã quy định cụ thể về Quốc hội và
ĐBQH như Luật tổ chức Quốc hội, Luật hoạt động Giám sát của Quốc hội,
Luật bầu cử ĐBQH 2001… và các văn bản quy định khác có liên quan về địa
vị pháp lý, hoạt động, chức năng nhiệm vụ, trách nhiệm và các điều kiện bảo
đảm hoạt động của Quốc hội và ĐBQH…
Nhìn chung, pháp luật về Quốc hội, ĐBQH ở Việt Nam và nhiều nước
tập trung vào các vấn đề chính sau:
- Cách thức hình thành Quốc hội và ĐBQH, nhiệm kỳ và bản chất đại
diện của Quốc hội, ĐBQH: Bao gồm các quy định liên quan đến bầu cử, địa
vị pháp lý, nhiệm kỳ của Quốc hội, ĐBQH; Mối quan hệ giữa Quốc hội,
ĐBQH với cử tri; phương thức hoạt động và kết thúc hoạt động của ĐBQH.
- Các quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm
của Quốc hội, của ĐBQH như Quyền làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp;
làm luật và sửa đổi luật… quyền trình dự án luật, kiến nghị về luật ra trước
Quốc hội …
- Mối quan hệ giữa Quốc hội, ĐBQH với các cơ quan, tổ chức, cá
nhân và việc thực thi nhiệm vụ Quốc hội, ĐBQH.
- Những quy định bảo đảm cho Quốc hội, ĐBQH về mặt pháp lý, chế
độ miễn trừ, hoạt động, chế độ làm việc, cơ cấu tổ chức, chính sách, chế độ có
liên quan và các quy định khác…
Dưới góc độ lý thuyết hệ thống pháp luật, các quy phạm pháp luật về
Quốc hội, ĐBQH là bộ phận cấu thành lên chế định về bầu cử và chế định
Quốc hội nói chung trong hệ thống các chế định của ngành luật nhà nước, và
trực tiếp điều chỉnh các quan hệ có liên quan tới việc hình thành ĐBQH,
thành lập Quốc hội, tổ chức và hoạt động của Quốc hội, ĐBQH cụ thể là điều
chỉnh các quan hệ trong tổ chức bộ máy nhà nước, tổ chức và thực hiện quyền
lực nhà nước, những quy phạm đó điều chỉnh các nhóm quan hệ xã hội sau:
42
- Các nhóm quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ về bầu cử
ĐBQH, bãi nhiệm, miễn nhiệm ĐBQH;
- Các nhóm quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ phát sinh
trong thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của ĐBQH, của Quốc hội
và các bảo đảm cho hoạt động của ĐBQH, của Quốc hội.
- Các nhóm quy phạm pháp luật điều chỉnh các mối quan hệ liên quan
đến hoạt động của ĐBQH, của Quốc hội, như giữa ĐBQH với Quốc hội và
ngược lại, các cơ quan của Quốc hội …
- Các nhóm quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ phát sinh
trong việc bảo đảm điều kiện cho hoạt động của Quốc hội, của ĐBQH.
Là một bộ phận thuộc đối tượng điều chỉnh của ngành luật nhà nước,
những mối quan hệ liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội, tổ chức,
hoạt động của Quốc hội, bầu cử ĐBQH, xác định địa vị pháp lý, nhiệm vụ
quyền hạn của ĐBQH, phương thức hoạt động và những bảo đảm cho hoạt
động của Quốc hội và ĐBQH…là những quan hệ có liên quan đến tổ chức
thực hiện quyền lực nhà nước, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước,
trực tiếp và chính yếu là Quốc hội. Thông qua việc điều chỉnh đó, pháp luật
về Quốc hội và ĐBQH thể hiện bản chất nhà nước của dân, do dân và vì dân;
nhà nước thể hiện ý chí của đại đa số nhân dân là công cụ của chế độ làm chủ
tập thể XHCN, do giai cấp công nhân và nhân dân lao động tổ chức thành cơ
quan quyền lực chính trị [6, tr. 117]. Đây là những căn cứ cơ bản để xác định
pháp luật về Quốc hội, ĐBQH là một bộ phận quan trọng của ngành luật nhà
nước. Điều cần lưu ý là các quy phạm điều chỉnh trên không tồn tại như một
chế định độc lập của ngành luật nhà nước mà tham gia cấu thành lên các chế
định khác nhau của ngành luật này như chế định về bầu cử, chế định về Quốc
hội. Cũng vì lý do này mà phương pháp điều chỉnh của pháp luật về Quốc hội,
về ĐBQH không nằm ngoài các phương pháp điều chỉnh đặc thù của ngành
luật nhà nước; nguồn của pháp luật về Quốc hội, về ĐBQH do vậy cũng là
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY

More Related Content

What's hot

BÀI GIẢNG LUẬT HIẾN PHÁP QUỐC HỘI NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
BÀI GIẢNG LUẬT HIẾN PHÁP   QUỐC HỘI NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAMBÀI GIẢNG LUẬT HIẾN PHÁP   QUỐC HỘI NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
BÀI GIẢNG LUẬT HIẾN PHÁP QUỐC HỘI NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAMMinh Chanh
 
Tcbm cvbvcc truong cbnn
Tcbm cvbvcc truong cbnnTcbm cvbvcc truong cbnn
Tcbm cvbvcc truong cbnnNinhnd Nguyen
 
Đề thi công chức môn kiến thức chung
Đề thi công chức môn kiến thức chungĐề thi công chức môn kiến thức chung
Đề thi công chức môn kiến thức chungNguyễn Ngọc Phan Văn
 
Bộ máy nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Bộ máy nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.Bộ máy nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Bộ máy nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.akirahitachi
 
Pháp luật đại cương nhóm 5
Pháp luật đại cương nhóm 5Pháp luật đại cương nhóm 5
Pháp luật đại cương nhóm 5Tuấn Đạt
 
kien_thuc_chung_2014(1)
kien_thuc_chung_2014(1)kien_thuc_chung_2014(1)
kien_thuc_chung_2014(1)tuyencongchuc
 
Hien phap ch xhcnvn 2014
Hien phap ch xhcnvn 2014Hien phap ch xhcnvn 2014
Hien phap ch xhcnvn 2014connhim2008
 
Công tác kiểm tra, giám sát của đảng trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp q...
Công tác kiểm tra, giám sát của đảng trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp q...Công tác kiểm tra, giám sát của đảng trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp q...
Công tác kiểm tra, giám sát của đảng trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp q...jackjohn45
 
Làm rõ về đặc điểm nhà nước pháp quyền XHCN và vai trò của Đoàn thanh niên tr...
Làm rõ về đặc điểm nhà nước pháp quyền XHCN và vai trò của Đoàn thanh niên tr...Làm rõ về đặc điểm nhà nước pháp quyền XHCN và vai trò của Đoàn thanh niên tr...
Làm rõ về đặc điểm nhà nước pháp quyền XHCN và vai trò của Đoàn thanh niên tr...dinhtrongtran39
 
BÀI GIẢNG LUẬT HIẾN PHÁP - BỘ MÁY NHÀ NƯỚC NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆ...
BÀI GIẢNG LUẬT HIẾN PHÁP - BỘ MÁY NHÀ NƯỚC NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆ...BÀI GIẢNG LUẬT HIẾN PHÁP - BỘ MÁY NHÀ NƯỚC NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆ...
BÀI GIẢNG LUẬT HIẾN PHÁP - BỘ MÁY NHÀ NƯỚC NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆ...Minh Chanh
 
Đề thi công chức chuyên ngành thanh tra nhà nước ( Thi viết )
Đề thi công chức chuyên ngành thanh tra nhà nước ( Thi viết )Đề thi công chức chuyên ngành thanh tra nhà nước ( Thi viết )
Đề thi công chức chuyên ngành thanh tra nhà nước ( Thi viết )Nguyễn Ngọc Phan Văn
 

What's hot (15)

BÀI GIẢNG LUẬT HIẾN PHÁP QUỐC HỘI NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
BÀI GIẢNG LUẬT HIẾN PHÁP   QUỐC HỘI NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAMBÀI GIẢNG LUẬT HIẾN PHÁP   QUỐC HỘI NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
BÀI GIẢNG LUẬT HIẾN PHÁP QUỐC HỘI NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
 
Tcbm cvbvcc truong cbnn
Tcbm cvbvcc truong cbnnTcbm cvbvcc truong cbnn
Tcbm cvbvcc truong cbnn
 
Đề thi công chức môn kiến thức chung
Đề thi công chức môn kiến thức chungĐề thi công chức môn kiến thức chung
Đề thi công chức môn kiến thức chung
 
Bộ máy nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Bộ máy nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.Bộ máy nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Bộ máy nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
 
Giám sát của Quốc hội đối về thực hiện quyền hành pháp ở nước ta
Giám sát của Quốc hội đối về thực hiện quyền hành pháp ở nước taGiám sát của Quốc hội đối về thực hiện quyền hành pháp ở nước ta
Giám sát của Quốc hội đối về thực hiện quyền hành pháp ở nước ta
 
Luận văn: Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tại TP Đà Nẵng
Luận văn: Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tại TP Đà NẵngLuận văn: Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tại TP Đà Nẵng
Luận văn: Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tại TP Đà Nẵng
 
Pháp luật đại cương nhóm 5
Pháp luật đại cương nhóm 5Pháp luật đại cương nhóm 5
Pháp luật đại cương nhóm 5
 
kien_thuc_chung_2014(1)
kien_thuc_chung_2014(1)kien_thuc_chung_2014(1)
kien_thuc_chung_2014(1)
 
Hien phap ch xhcnvn 2014
Hien phap ch xhcnvn 2014Hien phap ch xhcnvn 2014
Hien phap ch xhcnvn 2014
 
Luận văn: Dân chủ trực tiếp ở cơ sở huyện Phú Hoà, Phú Yên
Luận văn: Dân chủ trực tiếp ở cơ sở huyện Phú Hoà, Phú YênLuận văn: Dân chủ trực tiếp ở cơ sở huyện Phú Hoà, Phú Yên
Luận văn: Dân chủ trực tiếp ở cơ sở huyện Phú Hoà, Phú Yên
 
Công tác kiểm tra, giám sát của đảng trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp q...
Công tác kiểm tra, giám sát của đảng trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp q...Công tác kiểm tra, giám sát của đảng trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp q...
Công tác kiểm tra, giám sát của đảng trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp q...
 
Làm rõ về đặc điểm nhà nước pháp quyền XHCN và vai trò của Đoàn thanh niên tr...
Làm rõ về đặc điểm nhà nước pháp quyền XHCN và vai trò của Đoàn thanh niên tr...Làm rõ về đặc điểm nhà nước pháp quyền XHCN và vai trò của Đoàn thanh niên tr...
Làm rõ về đặc điểm nhà nước pháp quyền XHCN và vai trò của Đoàn thanh niên tr...
 
BÀI GIẢNG LUẬT HIẾN PHÁP - BỘ MÁY NHÀ NƯỚC NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆ...
BÀI GIẢNG LUẬT HIẾN PHÁP - BỘ MÁY NHÀ NƯỚC NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆ...BÀI GIẢNG LUẬT HIẾN PHÁP - BỘ MÁY NHÀ NƯỚC NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆ...
BÀI GIẢNG LUẬT HIẾN PHÁP - BỘ MÁY NHÀ NƯỚC NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆ...
 
Đề thi công chức chuyên ngành thanh tra nhà nước ( Thi viết )
Đề thi công chức chuyên ngành thanh tra nhà nước ( Thi viết )Đề thi công chức chuyên ngành thanh tra nhà nước ( Thi viết )
Đề thi công chức chuyên ngành thanh tra nhà nước ( Thi viết )
 
Pháp luật về dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính, HOT
Pháp luật về dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính, HOTPháp luật về dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính, HOT
Pháp luật về dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính, HOT
 

Similar to Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY

Chế Độ Dân Chủ Đại Diện Trong Điều Kiện Xây Dựng Nhà Nước Pháp Quyền Ở Việt N...
Chế Độ Dân Chủ Đại Diện Trong Điều Kiện Xây Dựng Nhà Nước Pháp Quyền Ở Việt N...Chế Độ Dân Chủ Đại Diện Trong Điều Kiện Xây Dựng Nhà Nước Pháp Quyền Ở Việt N...
Chế Độ Dân Chủ Đại Diện Trong Điều Kiện Xây Dựng Nhà Nước Pháp Quyền Ở Việt N...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Quyền ứng cử đại biểu quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, HOT - Gửi miễn p...
Quyền ứng cử đại biểu quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, HOT - Gửi miễn p...Quyền ứng cử đại biểu quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, HOT - Gửi miễn p...
Quyền ứng cử đại biểu quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, HOT - Gửi miễn p...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

Similar to Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY (20)

Chế Độ Dân Chủ Đại Diện Trong Điều Kiện Xây Dựng Nhà Nước Pháp Quyền Ở Việt N...
Chế Độ Dân Chủ Đại Diện Trong Điều Kiện Xây Dựng Nhà Nước Pháp Quyền Ở Việt N...Chế Độ Dân Chủ Đại Diện Trong Điều Kiện Xây Dựng Nhà Nước Pháp Quyền Ở Việt N...
Chế Độ Dân Chủ Đại Diện Trong Điều Kiện Xây Dựng Nhà Nước Pháp Quyền Ở Việt N...
 
Luận văn: Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, HAY
Luận văn: Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, HAYLuận văn: Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, HAY
Luận văn: Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, HAY
 
Quyền ứng cử đại biểu quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, HOT - Gửi miễn p...
Quyền ứng cử đại biểu quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, HOT - Gửi miễn p...Quyền ứng cử đại biểu quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, HOT - Gửi miễn p...
Quyền ứng cử đại biểu quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, HOT - Gửi miễn p...
 
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HOT, 9đ - Gửi miễn phí qua zalo=> ...
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HOT, 9đ  - Gửi miễn phí qua zalo=> ...Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HOT, 9đ  - Gửi miễn phí qua zalo=> ...
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HOT, 9đ - Gửi miễn phí qua zalo=> ...
 
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAYLuận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
 
Đề tài: Đặc điểm của pháp luật trong nhà nước pháp quyền, HAY
Đề tài: Đặc điểm của pháp luật trong nhà nước pháp quyền, HAYĐề tài: Đặc điểm của pháp luật trong nhà nước pháp quyền, HAY
Đề tài: Đặc điểm của pháp luật trong nhà nước pháp quyền, HAY
 
Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay, HAY
Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay, HAYCơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay, HAY
Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay, HAY
 
Luận án: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam
Luận án: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt NamLuận án: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam
Luận án: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam
 
Luận án: Hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở, HAY
Luận án: Hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở, HAYLuận án: Hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở, HAY
Luận án: Hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở, HAY
 
Đề tài: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam, HAY
Đề tài: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam, HAYĐề tài: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam, HAY
Đề tài: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta
Luận văn: Đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta Luận văn: Đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta
Luận văn: Đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta
 
Đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta, HAY.docx
Đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta, HAY.docxĐổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta, HAY.docx
Đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta, HAY.docx
 
Đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta, HAY.docx
Đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta, HAY.docxĐổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta, HAY.docx
Đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta, HAY.docx
 
Luận án: Quốc Hội cơ quan đại diện cao nhất của Việt Nam, HAY
Luận án: Quốc Hội cơ quan đại diện cao nhất của Việt Nam, HAYLuận án: Quốc Hội cơ quan đại diện cao nhất của Việt Nam, HAY
Luận án: Quốc Hội cơ quan đại diện cao nhất của Việt Nam, HAY
 
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAYQuốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
 
Hoàn thiện cơ chế pháp lý nd kiểm soát qlnn ở vn
Hoàn thiện cơ chế pháp lý nd kiểm soát qlnn ở vnHoàn thiện cơ chế pháp lý nd kiểm soát qlnn ở vn
Hoàn thiện cơ chế pháp lý nd kiểm soát qlnn ở vn
 
Luận văn: Cơ chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước, HOT
Luận văn: Cơ chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước, HOTLuận văn: Cơ chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước, HOT
Luận văn: Cơ chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước, HOT
 
Đề tài: Cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước
Đề tài: Cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nướcĐề tài: Cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước
Đề tài: Cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước
 
Đề tài: Pháp luật về tổ chức Hội đồng nhân dân ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Pháp luật về tổ chức Hội đồng nhân dân ở Việt Nam, HOTĐề tài: Pháp luật về tổ chức Hội đồng nhân dân ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Pháp luật về tổ chức Hội đồng nhân dân ở Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền
Luận văn: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyềnLuận văn: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền
Luận văn: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864

Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docDịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864 (20)

Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.docYếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
 
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.docTừ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
 
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
 
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.docTác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
 
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.docSong Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
 
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.docỨng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
 
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.docVai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
 
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.docThu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
 

Recently uploaded

30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdftohoanggiabao81
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfVyTng986513
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxnhungdt08102004
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxendkay31
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNguyễn Đăng Quang
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdfTrnHoa46
 

Recently uploaded (20)

30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 

Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY

  • 1. 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT HÀ VĂN GIANG CHẾ ĐỘ DÂN CHỦ ĐẠI DIỆN TRONG ĐIỀU KIỆN XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN Ở VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2014
  • 2. 2 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT HÀ VĂN GIANG CHẾ ĐỘ DÂN CHỦ ĐẠI DIỆN TRONG ĐIỀU KIỆN XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN Ở VIỆT NAM Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật Mã số : 60 38 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Nguyễn Đăng Dung HÀ NỘI - 2014
  • 3. 3 Lêi cam ®oan T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña luËn v¨n ch-a tõng ®-îc ai c«ng bè trong bÊt kú c«ng tr×nh nµo kh¸c. T¸c gi¶ luËn v¨n Hµ V¨n Giang
  • 4. 4 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỘ DÂN CHỦ ĐẠI DIỆN TRONG ĐIỀU KIỆN XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN Ở VIỆT NAM 6 1.1. Khái niệm dân chủ đại diện và những bộ phận hợp thành 6 1.1.1. Khái niệm dân chủ đại diện 6 1.1.2. Những bộ phận hợp thành dân chủ đại diện 11 1.2. Các phương thức thực hiện dân chủ đại diện 31 Chương 2: THỰC TRẠNG CỦA CHẾ ĐỘ DÂN CHỦ ĐẠI DIỆN TRONG ĐIỀU KIỆN XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN Ở VIỆT NAM 34 2.1. Chế độ dân chủ đại diện trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam 34 2.1.1. Khái niệm pháp luật về Quốc hội và Đại biểu Quốc hội 34 2.1.2. Đặc điểm của pháp luật về Quốc hội, về Đại biểu Quốc hội 37 2.1.3. Nội dung và tồn tại của pháp luật về Quốc hội và Đại biểu Quốc hội 39 2.2. Thực trạng của chế độ dân chủ đại diện trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay 66 2.2.1. Những ưu điểm trong việc thực hiện chế độ dân chủ đại diện trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam 66 2.2.2. Những hạn chế trong việc thực hiện chế độ dân chủ đại diện trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam 68
  • 5. 5 Chương 3: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CHẾ ĐỘ DÂN CHỦ ĐẠI DIỆN TRONG ĐIỀU KIỆN XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN Ở VIỆT NAM 71 3.1. Yêu cầu hoàn thiện pháp luật về chế độ dân chủ trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam 71 3.1.1. Từ yêu cầu xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền, phát huy vai trò của Quốc hội, Đại biểu Quốc hội trong thời kỳ đổi mới 71 3.1.2. Từ yêu cầu thực hiện chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam của Đảng 72 3.1.3. Từ yêu cầu xây dựng xã hội dân chủ ở Việt Nam 73 3.1.4. Từ yêu cầu thực hiện chủ động hội nhập quốc tế 74 3.1.5. Từ đòi hỏi thực tiễn hoạt động của Quốc hội, Đại biểu Quốc hội trong tình hình hiện nay 75 3.1.6. Từ những hạn chế của pháp luật về Quốc hội, Đại biểu Quốc hội hiện hành 76 3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về chế độ dân chủ đại diện để nâng cao năng lực thực hành dân chủ đại diện ở nước ta 77 3.2.1. Giải pháp hoàn thiện các quy phạm pháp luật về bầu cử Đại biểu Quốc hội 77 3.2.2. Giải pháp hoàn thiện các quy phạm về nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội, Đại biểu Quốc hội 85 3.2.3. Giải pháp hoàn thiện về chế độ hoạt động của Quốc hội, Đại biểu Quốc hội 97 3.2.4. Giải pháp hoàn thiện về các biện pháp bảo đảm hoạt của Quốc hội, Đại biểu Quốc hội 105 3.2.5. Giải pháp hoàn thiện về hình thức pháp luật về Quốc hội, Đại biểu Quốc hội 108 KẾT LUẬN 117 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 120
  • 6. 6 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ĐBQH : Đại biểu Quốc hội HĐND : Hội đồng nhân dân UBND : Ủy ban nhân dân UBTVQH : Ủy ban Thường vụ Quốc hội XHCN : Xã hội chủ nghĩa
  • 7. 7 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) dưới sự lãnh đạo của Đảng là một trong những nhiệm vụ có tính chiến lược trong quá trình thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020. Là khẳng định quyết tâm chính trị của Đảng ta trong việc đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của Nhà nước và pháp luật, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế mà còn đánh dấu một giai đoạn phát triển mới của sự nghiệp xây dựng Nhà nước kiểu mới - một nhà nước của dân, do dân, vì vân - khởi đầu từ cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945. Kể từ đó đến nay chúng ta không chỉ phấn đấu mục tiêu độc lập dân tộc mà còn phấn đấu vì một chế độ pháp quyền thật sự dân chủ. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã nêu: Kiên trì và quyết liệt thực hiện đổi mới. Đổi mới chính trị phải đồng bộ với đổi mới kinh tế theo lộ trình thích hợp, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mở rộng dân chủ trong Đảng và trong xã hội gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương để thúc đẩy đổi mới toàn diện và phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc vì mục tiêu xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Lấy việc thực hiện mục tiêu này làm tiêu chuẩn cao nhất để đánh giá hiệu quả của quá trình đổi mới và phát triển... Mở rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con người; coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát
  • 8. 8 triển. Phải bảo đảm quyền con người, quyền công dân và các điều kiện để mọi người được phát triển toàn diện. Nâng cao năng lực và tạo cơ chế để nhân dân thực hiện đầy đủ quyền làm chủ, nhất là dân chủ trực tiếp để phát huy mạnh mẽ mọi khả năng sáng tạo và bảo đảm đồng thuận cao trong xã hội, tạo động lực phát triển đất nước. Phát huy lợi thế dân số và con người Việt Nam, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, trọng dụng nhân tài, chăm lo lợi ích chính đáng và không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của mọi người dân, thực hiện công bằng xã hội [18]. Điều đó thể hiện sự đặc biệt quan tâm của Đảng và Nhà nước ta trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN nhưng vẫn đảm bảo mở rộng dân chủ trong xã hội. Dân chủ được thể hiện ở hai bình diện đó là dân chủ trực tiếp và dân chủ gián tiếp (hay còn gọi là dân chủ đại diện), hiện nay ở nước ta đang được Đảng, Nhà nước và toàn thể nhân dân hết sức quan tâm. Đặc biệt là vấn đề dân chủ đại diện với mong muốn nâng cao, mở rộng và tăng cường các biện pháp đảm bảo chế độ dân chủ đại diện. Để làm được điều đó chúng ta phải phân tích thấu đáo về thực trạng, nguyên nhân cũng như hướng hoàn thiện chế độ dân chủ đại diện trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Dân chủ đại diện tại Việt Nam được thể chế cụ thể dưới công cụ hữu hiệu và cao nhất của hệ thống pháp luật, đó chính là Hiến pháp 2013, trong đó tại Điều 6 Hiến pháp quy định "Nhân dân sử dụng quyền lực Nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước" [41]. Tại Điều 7 Hiến pháp 2013 cũng quy định "việc bầu cử Đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân tiến hành theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân bị cử tri hoặc Quốc hội, Hội đồng nhân
  • 9. 9 dân bãi nhiệm khi không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân" [41]. Qua đó, dân chủ đại diện chính là việc nhân dân thông qua cơ quan đại diện của mình để thực hiện quyền dân chủ của mình. Do đó, hoàn thiện chế độ dân chủ đại diện chính là hoàn thiện hình thức của nó hay nói cách khác là hoàn thiện chế định Quốc hội, Đại biểu Quốc hội (ĐBQH) là một yêu cầu cấp bách được đặt ra một cách hệ thống toàn diện trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam. Nghiên cứu chế độ dân chủ đại diện góp phần lý luận khoa học cũng như thực tiễn cho việc hoàn thiện pháp luật hiện nay mà Đảng và Nhà nước ta đang thực hiện. Hoàn thiện chế độ dân chủ đại diện ở Việt Nam là vấn đề hết sức cấp thiết góp phần to lớn vào mục tiêu chung về xây dựng một Nhà nước pháp quyền, xã hội dân chủ, đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của Quốc hội… mà Đại hội XI của Đảng đã đề cập. Bên cạnh đó đang xuất hiện nhiều vấn đề nổi cộm, mới, bức xúc về mặt lý luận chưa được làm rõ giải quyết thấu đáo để hoàn thiện chế độ dân chủ đại diện của cơ quan đại diện cao nhất như vấn đề về tiêu chuẩn, cơ cấu, tính đại diện của ĐBQH, Quốc hội làm cho vấn đề chủ thể đại diện cho nhân dân chưa được giải quyết dứt điểm và thấu đáo. Đồng thời, chưa có công trình nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống liên quan đến vấn đề dân chủ đại diện ở Việt Nam. Với những lý do cơ bản đó nên tác giả đã lựa chọn đề tài "Chế độ dân chủ đại diện trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam" làm đề tài luận văn thạc sĩ. 2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu Đề tài đi sâu vào nghiên cứu chế độ dân chủ đại diện trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. Đó là các khái niệm, ý nghĩa, cách thức tổ chức, các quy định của pháp luật hiện hành và việc thực hiện chế độ dân chủ đại diện hiện nay.
  • 10. 10 * Phạm vi nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu chế độ dân chủ đại diện trọng tâm là Quốc hội với hạt nhân là ĐBQH dựa trên các chế định theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay. 3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu * Mục tiêu tổng quát Nghiên cứu, đánh giá và phân tích thực trạng về chế độ dân chủ đại diện hiện nay của nhà nước ở Việt Nam. Qua đó đưa ra những mặt đã làm được cũng như còn hạn chế bất cập mà chế độ dân chủ đại diện ở Việt Nam còn vướng phải trong thời gian qua. Từ đó, đề xuất các biện pháp, cách thức nhằm hoàn thiện chế độ dân chủ đại diện ở Việt Nam trong thời gian tới. * Mục tiêu cụ thể và nhiệm vụ nghiên cứu Tìm hiểu, làm sáng tỏ khái quát về các vấn đề lý luận liên quan đến chế độ dân chủ đại diện và các khía cạnh của nó như quyền lực nhân dân và các hình thức dân chủ đại diện, các yếu tố cấu thành cũng như các phương thức thực hiện dân chủ đại diện chung tại Việt Nam. Nghiên cứu tổng thể các chế định liên quan tổ chức và hoạt động của hình thức dân chủ đại diện, trong đó xoay quanh chế định Quốc hội và ĐBQH. Xác định, đánh giá vai trò, các bộ phận liên quan nòng cốt của hình thức dân chủ đại diện để tìm ra thực trạng, hạn chế, yếu kém cũng những tồn tại trong thời gian qua, cần khắc phục trong thời gian tới đối với các cấu phần, các yếu tố tạo nên hình thức của chế độ dân chủ đại diện. Qua đó rút ra, đề xuất những phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao, mở rộng chế độ dân chủ đại diện trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. 4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu Quan điểm của học thuyết Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân chủ, tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước, quan điểm chỉ đạo
  • 11. 11 của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước về vấn đề dân chủ nói chung và dân chủ đại diện nói riêng trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu so sánh, thống kê, tổng hợp, phân tích các tư liệu liên quan, đồng thời kết hợp các phương pháp đó lại để phục vụ cho việc hoàn thiện luận văn này. 5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn Trong phạm vi của mình, đề tài là một công trình nghiên cứu vừa có ý nghĩa về mặt lý luận, vừa có ý nghĩa về mặt thực tiễn trong quá trình xây dựng chế độ dân chủ đại diện của nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. - Về mặt lý luận: Đề tài góp phần hoàn thiện nội dung về chế độ dân chủ đại diện trong nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. - Về mặt thực tiến: những giải pháp đưa ra góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật về chế độ dân chủ đại diện nhằm thực hiện tốt chế độ dân chủ đại diện trong những năm tới. Ngoài ra, luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong công tác nghiên cứu, giảng dạy chuyên sâu về chế độ dân chủ đại diện trong giai đoạn hiện nay tại Việt Nam. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về chế độ dân chủ đại diện trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. Chương 2: Thực trạng của chế độ dân chủ đại diện trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. Chương 3: Yêu cầu và giải pháp hoàn thiện chế độ dân chủ đại diện trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.
  • 12. 12 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỘ DÂN CHỦ ĐẠI DIỆN TRONG ĐIỀU KIỆN XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN Ở VIỆT NAM 1.1. KHÁI NIỆM DÂN CHỦ ĐẠI DIỆN VÀ NHỮNG BỘ PHẬN HỢP THÀNH 1.1.1 Khái niệm dân chủ đại diện Dân chủ là một thuật ngữ có nhiều định nghĩa khác nhau về nó, do cách tiếp cận, mục đích tiếp cận khác nhau. Dân chủ có thể hiểu dưới nhiều phương diện, nhiều góc độ: 1- Dân chủ có thể là một dòng triết học - chính trị (dân chủ phản ánh các giá trị phổ quát như tự do cá nhân, bình đẳng về điều kiện, thống nhất trong tính đa dạng); 2- Dân chủ là một chỉnh thể hiện thực thâu tóm mọi khía cạnh vật chất và tinh thần của dân chủ (nền dân chủ); 3- Dân chủ là một khái niệm chính trị - pháp lý (hình thức nhà nước); 4- Dân chủ là một hiện thực kinh tế (thị trường tự do); 5- Dân chủ là một hiện thực xã hội (các tổ chức phi Chính phủ, các tổ chức xã hội, phong trào lao động và xã hội quốc tế); 6- Dân chủ là trạng thái của hệ thống quan hệ quốc tế (quyền tự quyết dân tộc, chủ quyền quốc gia...). Căn cứ vào phạm vi có thể hiểu dân chủ ở nghĩa phổ quát: ở tầm quốc tế, ở mỗi khu vực, mỗi quốc gia, từng cộng đồng dân cư và ở sự cảm nhận dân chủ của mỗi người dân. Dựa vào những phương diện, góc độ đánh giá mà các nhà khoa học đưa ra các ý kiến như sau: 1- Dân chủ là sản phẩm của quan hệ giai cấp, là tổ chức quyền lực chính trị của giai cấp cầm quyền đối với xã hội; 2- Dân chủ bao hàm ba nội dung cơ bản là nội dung chính trị (dân chủ chính trị), nội dung văn minh nhân đạo (dân chủ xã hội là thành quả quan trọng nhất của văn minh và nhân đạo của loài người) và nội dung xã hội của dân chủ (dân chủ xã hội là hình thức tồn tại của xã hội hiện đại); 3- Dân chủ cần xem xét theo nhiều khía cạnh, nhưng với nghĩa chung nhất, phổ biến nhất, dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân; 4- Dân
  • 13. 13 chủ là khát vọng, lý tưởng chung mà hàng triệu con tim và khối óc cùng hướng tới, đấu tranh không mệt mỏi để dành lấy dù phải hy sinh xương máu. Dân chủ là khát vọng mà chính chúng ta đang vươn tới; 5- Dân chủ không chỉ là một vấn đề chính trị hay xã hội, mà xét theo bề sâu chính là một vấn đề văn hóa. Bởi thế, xử lý vấn đề dân chủ không thể tách rời khỏi mối quan hệ truyền thống - hiện đại trong văn hóa. Dân chủ còn là một yếu tố của văn hóa, một thành tựu của văn hóa đã có từ lâu đời trong truyền thống văn hóa của dân tộc. Theo các nhà kinh điển: dân chủ là sản phẩm tự quyết của nhân dân, phản ánh sự tồn tại của con người với tất cả ý chí, tài năng và lợi ích của họ; dân chủ là sản phẩm của đấu tranh giai cấp; quyền dân chủ bị chế định bởi tương quan giai cấp, trạng thái phát triển của sản xuất và trình độ văn hóa chung, trước hết là văn hóa chính trị của nhân dân; dân chủ là một hình thức Nhà nước mà ở đó thừa nhận quyền ngang nhau của dân cư trong việc xác định cơ cấu nhà nước và quản lý xã hội. Qua quá trình phát triển lâu dài với nhiều cách tiếp cận khác nhau về vấn đề dân chủ, nhưng tựu chung lại các ý kiến đều thống nhất ở luận điểm: Dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân. Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam định nghĩa: "Dân chủ, hình thức tổ chức thiết chế chính trị của xã hội dựa trên việc thừa nhận nhân dân là nguồn gốc của quyền lực, thừa nhận nguyên tắc bình đẳng và tự do. Dân chủ cũng được vận dụng vào tổ chức và hoạt động của những tổ chức và thiết chế chính trị nhất định" [20, tr. 653]. Dân chủ trực tiếp là một trong hai hình thức của dân chủ và nó có một tầm quan trọng trong quá trình xây dựng nhà nước, đặc biệt là xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN. Lê nin đã từng nói: Không phải chỉ tuyên truyền về dân chủ, tuyên bố và ra sắc lệnh về dân chủ là đủ, không phải chỉ giao trách nhiệm thực hiện dân chủ cho những người đại diện nhân dân trong những cơ quan đại biểu là đủ. Cần phải xây dựng ngay chế độ dân chủ, bắt đầu từ cơ sở, dựa vào sáng kiến của bản thân quần chúng với sự tham gia trực tiếp của quần chúng vào tất cả đời sống của Nhà nước.
  • 14. 14 Xét một cách cụ thể hơn về bản chất pháp lý, để được coi là dân chủ trực tiếp phải có các yếu tố sau: Thứ nhất, là yếu tố phổ thông, đại chúng, nghĩa là bất cứ ai có đủ tư cách (có năng lực pháp lý và năng lực hành vi) thì đều có quyền tự mình bày tỏ ý chí của mình. Thứ hai, là yếu tố trực tiếp, nghĩa là không thông qua cá nhân hay tổ chức thay mặt mình. Thứ ba, là yếu tố có hiệu lực thi hành, nghĩa là ý chí các công dân quyết định. Tóm lại, dân chủ trực tiếp là sự thể hiện trực tiếp ý chí của chủ thể quyền lực về những vấn đề quan trọng nhất. Xét về lý thuyết phương thức tốt nhất để nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước là họ trực tiếp quyết định các vấn đề của đời sống xã hội. Trong trường hợp này, quyết định nhà nước thể hiện đúng ý chí của nhân dân, không bị sai lệch. Tuy nhiên xét về mặt thực tiễn thì phương thức này có những bất cập hoặc bất khả thi. Nó không thể thực hiện được trong điều kiện dân số có quy mô lớn, các sự kiện trong đời sống xã hội ngày càng đa dạng, phức tạp, biến đổi với tốc độ chóng mặt, sự tốn kém về kinh tế… Bởi vậy khi thực hiện trong thực tiễn đời sống xã hội của mỗi đất nước thì dân chủ trực tiếp chỉ được áp dụng trong một vài hình thức và không phổ biến với sự nhường lại cho phương thức dân chủ đại diện (dân chủ gián tiếp) để thực hiện tối ưu quyền lực của nhân trong hoạt động của nhà nước. Với hạn chế tồn tại cố hữu trong bản chất của phương thức dân chủ trực tiếp nên dân chủ đại diện là cần thiết để qua những người đại diện, ý chí của nhân dân được thể hiện kịp thời qua các quyết định của nhà nước. Dân chủ đại diện là một hình thức nhà nước được các đại diện của dân thành lập trên nguyên tắc thi hành chủ quyền nhân dân (Popular sovereignty). Các đại diện không phải chỉ đại diện cho sự ủy quyền của nhân dân mà có nghĩa vụ thực hiện quyền lợi của họ, ví dụ: không
  • 15. 15 nhất thiết phải luôn tuân theo ước muốn của họ, nhưng phải đủ quyền lực để thực thi những khởi xướng thích ứng với những tình huống một cách nhanh chóng và triệt để. Điều này thường trái ngược với hình thức dân chủ trực tiếp đã được đề cập ở phần trên. Hiện nay có hai cách hiểu về dân chủ đại diện theo đó (i) dân chủ đại diện được hiểu là hình thức chính thể trong đó dân chủ thể hiện trong cách thức tổ chức, thành lập ra các cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất và mối quan hệ giữa các cơ quan đó, cũng như thái độ của các cơ quan này đối với nhân dân. Với cách hiểu này dân chủ đại diện được hiểu theo nghĩa rộng bao hàm tất cả các cơ quan nhà nước như Quốc hội, Chính phủ, Tòa án, Viện kiểm sát…(ii) dân chủ đại diện được hiểu là nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, HĐND và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước. Tại luận văn này chúng ta tập trung vào trọng tâm đối tượng là Quốc hội, nòng cốt hạt nhân là ĐBQH theo cách hiểu thứ hai để khai thác và phân tích. Ở Việt Nam, nhà nước là nhà nước của dân, do dân và vì dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nhân dân là người làm chủ nhà nước và xã hội. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình trước hết thông qua các cơ quan, tổ chức đại diện cho họ (dân chủ đại diện) theo nghĩa rộng, các cơ quan, tổ chức đại diện cho quyền lực và quyền làm chủ của nhân dân bao gồm Quốc hội, HĐND các cấp, các cơ quan nhà nước khác, các đoàn thể, các tổ chức xã hội. Theo nghĩa hẹp, cơ quan tổ chức đại diện cho nhân dân là Quốc hội, HĐND và các cơ quan khác của Nhà nước. Mặt khác, nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình còn thông qua việc trực tiếp bày tỏ ý chí, ý kiến, nguyện vọng của mình trong quá trình tham gia xây dựng nhà nước, pháp luật, tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội cũng như đấu tranh bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của mình, của người khác, cũng như của Nhà nước và của xã hội. Dân chủ đại diện mà thực chất của nó là truyền đạt các ý nguyện của công dân thông qua hình thức các cơ quan dân cử, các đại biểu được người
  • 16. 16 dân bầu chọn thông qua lá phiếu bầu, hình thức dân chủ này cho phép sự điều tiết xã hội được quy về một mối, do vậy nhà nước điều tiết quản lý xã hội một cách đồng bộ, thống nhất phản ứng kịp thời và có hiệu quả trước các biến động của xã hội, điều này dân chủ trực tiếp không thể đáp ứng được trong xã hội hiện đại. Tuy nhiên dân chủ đại diện sẽ không phát huy được, và sẽ là hình thức nếu không có cơ chế hiệu quả để người dân thực sự bầu chọn được những người đại diện chính đáng của mình, và những người được bầu chọn không đủ trình độ phẩm chất năng lực, và như thế các quyết sách được đưa ra từ các cơ quan dân cử sẽ là của một số người chứ chưa phải là của toàn dân, đây là điểm hạn chế đáng lưu ý của dân chủ đại diện. Là hình thức, phương thức chủ yếu của nền dân chủ hiện đại nhưng dân chủ đại diện không triệt tiêu dân chủ trực tiếp, tính ưu điểm của dân chủ trực tiếp là đặt sự kiểm soát của Chính phủ trong tay người dân tạo tính đồng thuận trong việc sử dụng quyền lực nhà nước, hạn chế khả năng lạm dụng quyền lực nhà nước, nhưng nó cũng không thể thay thế được dân chủ đại diện, mà nó chỉ bổ sung cho cơ chế dân chủ đại diện giúp cho dân chủ đại diện hoàn thiện hơn, hiệu quả hơn. Thực tiễn cách mạng XHCN ở nước ta, đặc biệt là hơn 20 năm đổi mới, Đảng và Nhà nước ta luôn đặc biệt coi trọng việc thực hiện dân chủ XHCN, không ngừng hoàn thiện cơ chế thực hiện dân chủ đại diện, các tầng lớp nhân dân đã thực sự lựa chọn những người đại diện cho ý chí nguyện vọng của mình thông qua lá phiếu bầu chọn, tổ chức và hoạt động của Quốc hội, HĐND các cấp ngày càng được đổi mới hoạt động chất lượng và hiệu quả hơn, các tổ chức chính trị xã hội ngày càng được đổi mới về tổ chức và phương thức hoạt động, gắn bó mật thiết với nhân dân, là một kênh quan trọng để nhân dân bày tỏ ý nguyện,tham gia quản lý giám sát bộ máy nhà nước và đội ngũ cán bộ công chức. Đồng thời quan tâm thực hiện, từng bước mở rộng hình thức dân chủ trực tiếp, nghị quyết Đại hội IX đã chỉ rõ: "Thực hiện tốt quy chế dân chủ cơ sở, mở rộng dân chủ trực tiếp ở cơ sở tạo điều kiện để nhân dân tham gia quản lý xã hội, thảo luận và quyết định những vấn đề quan trọng, khắc phục mọi biểu hiện dân chủ hình thức" [12]. Đặc biệt coi
  • 17. 17 trọng và phát huy dân chủ cơ sở, mọi người dân vừa có quyền giám sát công việc quản lý của nhà nước, vừa có quyền trực tiếp làm chủ ở cơ sở, vừa phản ánh ý nguyện của mình thông qua HĐND, vừa trực tiếp phản ánh ý nguyện, chất vấn của mình tại các cơ sở tiếp công dân, hoặc tại chính quyền. Đảng ta xác định: "Tiến tới mở rộng các thiết chế dân chủ gián tiếp một cách thiết thực, đúng hướng và có hiệu quả", Bởi để thực hiện dân chủ trực tiếp có hiệu quả nó đòi hỏi trình độ dân trí nhất định, mỗi người dân phải có sự hiểu biết về mặt pháp lý cần thiết, trình độ văn hóa cần thiết, và nhận thức chính trị cần thiết, để không bị dụ dỗ, ép buộc, mê hoặc bởi mỵ dân. Đồng thời mỗi người dân phải có thông tin đầy đủ chính xác, kịp thời các vấn đề của nhà nước và của xã hội, có đủ thời gian, nhận thức để xử lý thông tin, bàn bạc trao đổi trước khi đưa ra quyết định chính kiến của mình, mặt khác còn phải được tổ chức thực hiện một cách khoa học, chặt chẽ và có khung pháp lý đầy đủ, tiện lợi để người dân thực hiện. Như vậy, dân chủ đại diện là hình thức tham gia quản lý nhà nước thông qua các đại diện được bầu cử, thay mặt cho cử tri trong việc thực hiện các chức năng hoạch định chính sách, quản lý nhà nước và xã hội. Chế độ dân chủ đại diện là hình thức thực tế để các đại diện được bầu cử thực hiện quyền lực nhà nước thay mặt cho cử tri. 1.1.2. Những bộ phận hợp thành dân chủ đại diện 1.1.2.1. Bầu cử Các cuộc bầu cử tự do và công bằng là yếu tố cơ bản bảo đảm sự đồng thuận của nhân dân, là trụ cột của nền chính trị dân chủ. Các cuộc bầu cử là cơ chế chủ yếu để chuyển hóa sự đồng thuận đó thành quyền lực của nhà nước. Jeane Kirkpatrick từng là học giả và cựu đại sứ Mỹ tại Liên Hợp Quốc đã đưa ra định nghĩa như sau: Bầu cử dân chủ không chỉ đơn thuần là hình thức... Chúng là những cuộc bầu cử cạnh tranh, theo định kỳ, với thành phần tham gia mở và mang tính quyết định, qua đó các nhà hoạch định chính sách
  • 18. 18 của một Chính phủ được nhân dân bầu lên. Nhân dân có quyền tự do chỉ trích Chính phủ, công khai phê phán và đề xuất các chính sách thay thế. Theo ông, dân chủ phải mang tính cạnh tranh, định kỳ,mở và quyết định. Ở Việt Nam, việc bầu cử ĐBQH được tiến hành theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Đó cũng là những tư tưởng chỉ đạo trong việc tổ chức bầu cử, thể hiện bản chất dân chủ của Nhà nước ta. Các nguyên tắc này thể hiện tính chặt chẽ, thống nhất và xuyên suốt trong toàn bộ quá trình tiến hành bầu cử, bảo đảm cho cuộc bầu cử khách quan, dân chủ, thể hiện đúng nguyện vọng của cử tri khi lựa chọn. Nguyên tắc bầu cử yêu cầu phải quy định rõ quyền và trách nhiệm của cử tri trong bầu cử, trách nhiệm của Nhà nước phải bảo đảm các quy định về bầu cử. Nguyên tắc phổ thông thể hiện tính toàn dân và toàn diện trong bầu cử, bảo đảm để mọi công dân không phân biệt dân tộc, nam, nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ 18 tuổi trở lên đều có quyền tham gia bầu cử và đủ 21 tuổi trở lên đều có quyền ứng cử ĐBQH theo quy định của pháp luật.Yêu cầu của nguyên tắc này là Nhà nước phải bảo đảm để cuộc bầu cử thực sự trở thành một cuộc sinh hoạt chính trị rộng lớn, tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện quyền bầu cử của mình, bảo đảm tính dân chủ, công khai và sự tham gia rộng rãi của các tầng lớp nhân dân. Bình đẳng trong bầu cử là một nguyên tắc nhằm bảo đảm tính khách quan, không thiên vị để mọi công dân đều có khả năng như nhau tham gia bầu cử, nghiêm cấm mọi sự phân biệt dưới bất cứ hình thức nào. Nguyên tắc bình đẳng được pháp luật quy định trong việc thực hiện quyền bầu cử và ứng cử của công dân, thể hiện ở các mặt như sau: - Số lượng dân cư như nhau thì được bầu số đại biểu bằng nhau; - Mỗi cử tri chỉ được ghi tên vào danh sách cử tri ở một nơi cư trú; - Mỗi người chỉ được ghi tên ứng cử ở một đơn vị bầu cử;
  • 19. 19 - Mỗi cử tri chỉ được bỏ một phiếu bầu; - Giá trị phiếu bầu của mọi cử tri như nhau mà không có sự phân biệt. Nguyên tắc bình đẳng còn đòi hỏi phải có sự phân bổ hợp lý cơ cấu, thành phần, số lượng ĐBQH để bảo đảm tiếng nói đại diện của các vùng, miền, địa phương, các tầng lớp xã hội, các dân tộc thiểu số và phụ nữ phải có tỷ lệ đại biểu thích đáng trong Quốc hội. Bầu cử trực tiếp là việc cử tri trực tiếp đi bầu cử, tự bỏ lá phiếu của mình vào hòm phiếu để lựa chọn người đủ tín nhiệm vào cơ quan quyền lực nhà nước. Cử tri không được nhờ người khác bầu hộ, bầu thay hoặc bầu bằng cách gửi thư. Trường hợp cử tri không thể tự viết được phiếu bầu thì có thể nhờ người khác viết hộ, nhưng phải tự mình bỏ phiếu; nếu vì tàn tật không tự bỏ phiếu được thì nhờ người khác bỏ phiếu vào hòm phiếu; cử tri do ốm đau, già yếu, tàn tật không thể đến phòng bỏ phiếu được thì Tổ bầu cử mang hòm phiếu phụ và phiếu bầu đến chỗ ở của cử tri để cử tri nhận phiếu bầu và bầu. Nguyên tắc bỏ phiếu kín bảo đảm cho cử tri tự do lựa chọn người mình tín nhiệm mà không bị tác động bởi những điều kiện và yếu tố bên ngoài. Theo đó, cử tri bầu ai, không bầu ai đều được bảo đảm bí mật. Khi cử tri viết phiếu bầu không ai được đến gần, kể cả cán bộ, nhân viên các tổ chức phụ trách bầu cử; không ai được biết và can thiệp vào việc viết phiếu bầu của cử tri. Cử tri viết phiếu bầu trong buồng kín và bỏ phiếu vào hòm phiếu. Qua các nguyên tắc bầu cử nêu trên đã thể hiện được tinh thần chỉ đạo xuyên suốt, nhất quán nội dung bầu cử dân chủ của Việt Nam trong việc lựa chọn các cá nhân xuất sắc vào hàng ngũ ĐBQH. 1.1.2.2 Chế độ Quốc hội Ở Việt Nam, Quốc hội có vị trí, vai trò quan trọng và được xác định bởi vị trí, tính chất và nhiệm vụ quyền hạn của nó, điều đó thể hiện được rõ tính chất đại diện trước nhân dân.
  • 20. 20 Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp; quyết định những vấn đề trọng đại của đất nước và thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước. Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân: Tính chất đại biểu cao nhất này được thể hiện thông qua cách thức thành lập, cơ cấu, thành phần đại biểu và việc thực hiện chức năng nhiệm vụ. Về cách thức thành lập: Quốc hội Việt Nam là cơ quan nhà nước duy nhất do cử tri cả nước bầu ra theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Bầu cử ĐBQH là kết quả lựa chọn thống nhất ý chí của cử tri cả nước. Ngay từ cuộc bầu cử Quốc hội khóa I, trong điều kiện đất nước mới giành độc lập, trình độ dân trí chưa cao đã có đến 89% tổng số cử tri cả nước đi bỏ phiếu [47, tr. 52]. Gần đây nhất, trong cuộc bầu cử Quốc hội khóa XI có đến 99,73% tổng số cử tri đi bầu cử. Trong khi đó các nước tư sản như Mỹ, năm 1998 chỉ có 33,8% cử tri tham gia bỏ phiếu bầu cử Quốc hội, đây là tỷ lệ thấp nhất từ năm 1942 đến nay. Ở Pháp, trong cuộc bầu cử vòng hai Quốc hội Pháp ngày 15 tháng 6 năm 2002 tỷ lệ cử tri vắng mặt đạt kỷ lục 39,9% (theo Báo Nhân dân số ra ngày 18 tháng 6 năm 2002). Cách thức thành lập nên Quốc hội thông qua cuộc bầu cử ĐBQH Việt Nam là cách thể hiện sinh động tính đại diện của cơ quan này. Bởi lẽ, Quốc hội là cơ quan mang tính đại diện cao nhất, do toàn thể nhân dân có chủ quyền trao quyền cho Quốc hội thay mình thực hiện công việc của đất nước. Do đó, Quốc hội là đại diện cho toàn thể nhân dân (cử tri cả nước) chứ không phải chỉ là người đại diện cho từng Đơn vị bầu cử. Ngay từ cuộc bầu cử Quốc hội đầu tiên quyền bầu cử đã là quyền thiêng liêng cho mỗi công dân Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Trong các cuộc bầu cử, công dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên, không phân biệt gái trai, tôn giáo, mức tài sản, trình độ văn
  • 21. 21 hóa, không phân biệt nòi giống đều có quyền tham gia. Đó là một cách rất hợp lý để nhân dân lao động thực hành quyền thống trị của mình" [27, tr. 218]. Về cơ cấu theo thành phần đại biểu: Quốc hội Việt Nam bao gồm đại biểu đại diện cho các tầng lớp nhân dân, cho các vùng lãnh thổ trong cả nước và đại diện cho các dân tộc, các tôn giáo trên lãnh thổ Việt Nam. Quốc hội là cơ quan thể hiện rõ nét nhất khối đại đoàn kết dân tộc ở nước ta, đại diện cho trí tuệ của đất nước. Trong đó bao gồm: đại diện của tầng lớp công dân, nông dân, trí thức, quân nhân, người làm nghề thủ công, đại diện của chính đảng, các tôn giáo và các dân tộc. Những người đại diện cơ cấu này trong Quốc hội chiếm những tỷ lệ nhất định. Trong quá trình chuẩn bị bầu cử Quốc hội Việt Nam, yếu tố cơ cấu rất được chú trọng để đảm bảo mọi giai cấp, tầng lớp, tôn giáo, dân tộc đều có đại diện. Các ĐBQH Việt Nam được nhân dân bầu dựa trên sự tín nhiệm. Sự tín nhiệm đó căn cứ vào nhân thân và quá trình công tác, đóng góp, kinh nghiệm của mỗi ứng cử viên ĐBQH. Tuy nhiên, uy tín chính trị đó được thể hiện và được cử tri bầu trên cơ sở tiêu chuẩn ĐBQH được quy định trong Luật bầu cử ĐBQH. Nếu như ở những nước tư sản, những người thắng cử phần lớn là những người giàu có, xuất thân từ tầng lớp trên thì ở Việt Nam, ĐBQH là những người xuất thân từ mọi tầng lớp nhân dân lao động nên khi hoạt động ĐBQH, họ là người đại diện cho toàn thể nhân dân trong xã hội. Có như vậy, tính chất đại diện của Quốc hội Việt Nam mới được duy trì và đảm bảo thực hiện trên thực tế. Về cơ cấu ĐBQH theo đơn vị hành chính lãnh thổ: Luật bầu cử ĐBQH quy định ở tất cả các đơn vị hành chính cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đều có ĐBQH. Căn cứ để phân bổ ĐBQH của mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương được tính như sau: Mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có ít nhất ba đại biểu cư trú và làm việc tại địa phương. Số đại biểu tiếp theo được tính theo số dân và đặc điểm của mỗi địa phương. Thủ đô
  • 22. 22 Hà Nội được phân bổ số đại biểu thích đáng (Điều 3 Luật bầu cử ĐBQH năm 1997 được sửa đổi, bổ sung năm 2001). Như vậy, có thể thấy, ĐBQH Việt Nam không chỉ mang tính đại diện theo cơ cấu thành phần mà còn đại diện theo đơn vị hành chính lãnh thổ. Để đảm bảo cho ĐBQH thể hiện được tính đại diện nhân dân một cách triệt để nhất, ngay từ lần bầu cử Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam(6 tháng 1 năm 1946), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trương thực hiện cách thức bầu cử theo đơn vị dân cư. Cách thức bầu cử theo đơn vị hành chính dân cư của Hồ Chủ tịch là sự vận dụng linh hoạt tư tưởng của Lênin về cách thức bầu cử. Như chúng ta đã biết, trước đây, ở nước Nga Xô viết đã thực hiện cơ chế bầu cử theo doanh trại quân đội, xí nghiệp để có được đại biểu đại diện cho công, nông, binh. Ở Việt Nam, nơi bầu điển hình phải là các đơn vị dân cư, thông qua cách thức bầu cử theo đơn vị hành chính dân cư các đại biểu được bầu ra thể hiện tính đại diện cao. Do đó, cách thức bầu cử ra ĐBQH này thể hiện sâu sắc chế độ dân chủ. Nó đảm bảo cho ĐBQH của nước ta không chỉ là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của cử tri địa phương mà còn đại diện cho ý chí, nguyện vọng của cử tri cả nước. Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về bầu cử theo đơn vị dân cư đã được Đảng và Nhà nước ta quán triệt, ghi nhận trong Luật bầu cử ĐBQH. Do đó, cách thức xác lập thành phần ĐBQH theo đơn vị bầu cử (cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương) đã thể hiện tính dân chủ của Quốc hội - cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân nói riêng của chế độ dân chủ đại diện tại Việt Nam nói chung. Ở Việt Nam, Quốc hội thể hiện cả tính đại diện và tính quyền lực nhà nước. Điều đó thể hiện trong quá trình xây dựng Quốc hội dựa trên cơ sở quán triệt quan điểm về cơ quan dân cử XHCN V.I.Lênin và vận dụng tinh thần về chế độ ủy quyền - học thuyết của Rousseau "đại biểu nhân dân không thể là người đại diện cho họ mà chỉ là người được ủy quyền") để xây dựng Quốc hội Việt Nam, trong đó, ĐBQH trước hết là người đại diện cho cử tri của mình và cử tri hoàn toàn có thể bãi miễn ĐBQH vào bất cứ thời điểm nào
  • 23. 23 nếu họ không đáp ứng được yêu cầu của cử tri. Do đó, có thể thấy, thành phần ĐBQH ở Việt Nam có khả năng kết hợp được một cách tốt nhất việc đại diện cho cử tri của khu vực bầu cử, cho cử tri của địa phương nơi đại biểu đang sinh sống, làm việc và cho cả lợi ích quốc gia. Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất của nhân dân: Tính quyền lực nhà nước cao nhất của Quốc hội được thể hiện ở chỗ chỉ có Quốc hội mới có quyền biến ý chí của nhân dân thành ý chí của nhà nước, thành pháp luật - các quy tắc xử sự chung mang tính bắt buộc, tính cưỡng chế nhà nước đối với mọi tầng lớp dân cư trong xã hội. Sở dĩ, Quốc hội có được vị trí pháp lý đặc biệt như vậy vì Quốc hội là cơ quan duy nhất trong bộ máy nhà nước được thành lập do cử tri cả nước trực tiếp bầu ra. Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất được thể hiện ở các chức năng, nhiệm vụ của Quốc hội. Ở Việt Nam, Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến, lập pháp quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao toàn bộ hoạt động của nhà nước. Đây là ba chức năng quan trọng, đặc biệt, duy nhất của Quốc hội. Chính tính chất đặc biệt quan trọng của các quyền, nhiệm vụ này đã quyết định vị trí pháp lý đặc biệt quan trọng của Quốc hội trong bộ máy nhà nước. - Trước hết, đó là quyền lập hiến, lập pháp. Ở Việt Nam, ngay từ bản Hiến pháp 1946 - bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta đã quy định cho Quốc hội có quyền lập hiến. Các bản Hiến pháp sau này: Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980 và Hiến pháp 1992 đã được sửa đổi, bổ sung và Hiến pháp 2013 quyền lập hiến vẫn là một quyền hiến định của Quốc hội. Quốc hội vừa có quyền lập hiến vừa có quyền lập pháp là một đặc thù của Quốc hội Việt Nam. Ở một số nước trên thế giới quan niệm quyền lập hiến là quyền của toàn thể nhân dân nên nhân dân bầu ra một Quốc hội lập hiến để ban hành Hiến pháp hoặc Hiến pháp được ban hành trên cơ sở kết quả của một cuộc trưng cầu ý dân. Đây cũng là một dấu hiệu thể hiện tập trung nhất tính quyền lực nhà nước cao nhất của Quốc hội so với các cơ quan khác trong bộ máy nhà nước.
  • 24. 24 Thứ hai, Quốc hội có quyền quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước. Đó là: những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân (Điều 70 Hiến pháp 2013). Thứ ba, Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của nhà nước. Quyền giám sát tối cao là một quyền năng đặc thù của Quốc hội Việt Nam. Ở Việt Nam, chỉ có Quốc hội mới có quyền giám sát tối cao. Quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của nhà nước do Quốc hội thực hiện là một quyền hiến định. Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao chính là để thể hiện tính chất cơ bản của Quốc hội: tính đại diện cao nhất của nhân dân và tính quyền lực nhà nước. Thông qua việc thực hiện chức năng giám sát, Quốc hội Việt Nam thể hiện rõ tính chất của cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước cộng hòa XHCN Việt Nam. Như vậy, nghiên cứu tính đại diện cao nhất của nhân dân và tính quyền lực nhà nước cao nhất của Quốc hội Việt Nam cho phép khẳng định Quốc hội có vị trí pháp lý đặc biệt quan trọng trong bộ máy nhà nước ta. Mọi hoạt động do Quốc hội thực hiện đều bắt nguồn từ ý chí, nguyện vọng chung của dân tộc, của đất nước và của nhân dân. Từ cách thành lập, cơ cấu thành phần đại biểu cho đến việc thực hiện chức năng và nhiệm vụ đặc biệt của Quốc hội, chúng ta có cơ sở để khẳng định Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Vị trí pháp lý của Quốc hội đã thể hiện quan điểm nhất quán về tổ chức quyền lực nhà nước đảm bảo tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, thể hiện cao độ chế độ đại diện của Quốc hội. 1.1.2.3. Chế độ Đại biểu Quốc hội Đại biểu Quốc hội còn được gọi là nghị sĩ, nghị viện, đại biểu Đại hội nhân dân toàn quốc hoặc đại biểu HĐND tối cao…với tính cách là một chức
  • 25. 25 danh nhà nước. Quan niệm về ĐBQH ở các nước phụ thuộc vào rất nhiều các yếu tố khác nhau như truyền thống lịch sử, văn hóa, chính trị, pháp lý, vào mô hình, nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước và trình tự hình thành bộ máy nhà nước. Tuy nhiên, xét về bản chất thì ĐBQH được cử tri bầu ra thông qua những trình tự, thủ tục do pháp luật quy định, trừ một số trường hợp đặc biệt ở một số quốc gia có thể do chỉ định, bổ nhiệm hoặc được thế tập. Xét về bản chất, ĐBQH có hai yếu tố quan trọng sau: Đại biểu Quốc hội là người đại diện cho một phạm vi nhất định cộng đồng dân cư, nhóm lợi ích trong xã hội. Đó là những người tiêu biểu cho các giai tầng trong xã hội. Theo tính chất của Quốc hội, ĐBQH còn là người đại diện cho nhân dân cả nước hoặc cho cả dân tộc còn là người đại diện cho nhân dân của cả địa phương. Đại biểu Quốc hội là người được cử tri ủy nhiệm quyền lực một cách trực tiếp thông qua bầu cử, được pháp luật quy định thành những nhiệm vụ, quyền hạn và được thực hiện thông qua hoạt động của đại biểu. Theo Hiến pháp 2013, Luật Tổ chức Quốc hội trực tiếp là tại Điều 1 Quy chế hoạt động của ĐBQH và Đoàn ĐBQH thì "Đại biểu Quốc hội là người đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân ở đơn vị bầu cử ra mình và của nhân dân cả nước". Quy định này thể hiện được hai thuộc tính, cấu tạo thành bản chất của ĐBQH đó là tính đại diện và tính quyền lực của đại biểu. Trong thuộc tính về bản chất của ĐBQH thì tính đại diện cho nhân dân là thuộc tính quan trọng chi phối hoạt động của Quốc hội cũng như ĐBQH quy định bản chất, mối quan hệ giữa Quốc hội, ĐBQH với cử tri, nhân dân. Bản chất của ĐBQH luôn phụ thuộc vào bản chất của Nhà nước, bản chất của Quốc hội. Mặc dù vậy, trên vấn đề này vẫn có những quan niệm và theo các nguyên tắc khác nhau, hoặc là nguyên tắc ủy quyền tự do (free mandate) hoặc là nguyên tắc ủy quyền mệnh lệnh (Imperative mandate). Nguyên tắc "ủy quyền tự do" cho rằng, các ĐBQH do cử tri của từng đơn vị bầu cử khác nhau bầu ra, nhưng sau khi họ đã được bầu thì trở thành người
  • 26. 26 đại diện chung cho toàn thể nhân dân, không còn tồn tại quan hệ giữa cá nhân từng đại biểu với các cử tri đã bầu ra họ. Thuyết minh cho nguyên tắc này, học giả người Pháp M.Prelot cho rằng: Khi cử tri lựa chọn cá nhân này hay cá nhân kia để bầu làm đại biểu thì ý chí của cử tri đã bị hạn chế, bởi vì cử tri không thể gây ảnh hưởng tới vị thế của người trúng cử. Vị thế này được xác định bởi Hiến pháp và luật… Những đại biểu được bầu trong cuộc bầu cử trực tiếp, tự do, hoàn toàn độc lập không phụ thuộc vào cử tri. Nguyên tắc ủy quyền tự do được áp dụng đối với Quốc hội ở nhiều nước trên thế giới. Ở Italia, Điều 67 Hiến pháp năm 1947 quy định: "Mỗi thành viên của Nghị viện là người đại diện của dân tộc. Khi thực hiện nhiệm vụ, đại biểu không phải chịu trách nhiệm chính trị trước cử tri" [49]; ở Ba Lan, Điều 104 Hiến pháp năm 1997 quy định: "Các đại biểu là người đại diện của dân tộc. Đại biểu không bị ràng buộc bởi ý kiến của cử tri" [50]. Nguyên tắc ủy quyền mệnh lệnh dựa trên luận điểm của J.J.Rousseau: Chủ quyền tối cao của toàn dân là không thể dùng người đại diện được, do đó nó cũng không thể bị xóa bỏ; nó nằm trong ý chí của toàn dân, là ý chí chung thì không ai nói thay được…Các đại diện nhân dân không phải và không thể là người thay mặt nhân dân được; họ chỉ có thể là những ủy viên chấp hành [21, tr. 179]. Điều đó có nghĩa, theo nguyên tắc chủ quyền nhân dân thì những người được nhân dân bầu cử ra chỉ là tạo ra mệnh lệnh, được ủy quyền lập pháp phải theo ý chí, yêu cầu của nhân dân và nhân dân có thể rút lại sự ủy quyền lập pháp phải theo người đại biểu không thực hiện đúng yêu cầu của họ. Nguyên tắc ủy quyền mệnh lệnh cũng được các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đề cập trong tác phẩm "Nội chiến ở Pháp", khi tổng kết kinh nghiệm Công xã Pari, C Mác cho rằng: "Công xã không phải là một cơ quan đại nghị, mà là một cơ quan hành động, vừa lập pháp, vừa hành pháp" [25, tr. 17; 455]. VI. Lênin người sáng lập và lãnh đạo nhà nước XHCN đầu tiên trên thế giới đã phát triển luận điểm của C.Mác, khẳng định: "Các nghị sĩ phải tự mình công tác, tự mình thực hiện những pháp luật của mình, tự mình kiểm tra lấy tác dụng của những
  • 27. 27 pháp luật ấy, tự chịu trách nhiệm trực tiếp trước cử tri của mình" [22, tr. 59]. Như thế ĐBQH trong nhà nước XHCN là một bộ phận ưu tú trong quần chúng nhân dân lao động, không thoát ly khỏi môi trường lao động, công tác, gắn bó mật thiết với nhân dân và chịu trách nhiệm trước cử tri, nhân dân về hoạt động của mình; hoạt động ĐBQH đối với họ do vậy chỉ mang tính chất kiêm nhiệm. Quan điểm này trong một thời gian dài đã chi phối tổ chức và hoạt động của Quốc hội các nước XHCN, trong đó có Việt Nam và cho đến nay, ĐBQH hoạt động kiêm nhiệm vẫn chiếm tỷ lệ đa số tuyệt đối trong thành phần ĐBQH ở Việt Nam. Từ bản chất về ĐBQH, có thể rút ra những đặc điểm cơ bản của ĐBQH Việt Nam như sau: Thứ nhất, ĐBQH là người đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân ở đơn vị bầu cử ra mình và của Nhân dân cả nước. Trước hết, ĐBQH là người được cử tri của đơn vị mà mình ứng cử bầu ra để đại diện cho ý chí và nguyện vọng của họ. Ứng cử viên trúng cử là người nhận được nhiều sự ủng hộ nhất của cử tri, được đông đảo cử tri đánh giá là người đại diện cho ý chí và nguyện vọng của họ. Ở đây có một ranh giới mà pháp luật khó phân định giữa tiêu chuẩn được lựa chọn để bầu làm đại biểu HĐND mỗi cấp với tiêu chuẩn của người được lựa chọn để bầu làm ĐBQH. Tuy nhiên, có thể thấy rõ năng lực của ĐBQH phải tương xứng với yêu cầu đại diện cho nhân dân ở cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất và rõ ràng là khác nếu không nói là phải cao hơn so với yêu cầu của đại biểu HĐND. Điểm khác biệt về tính đại diện của ĐBQH là họ không chỉ đại diện cho cử tri của đơn vị bầu cử ra mình mà còn đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân cả nước. Thuộc tính đại diện cho nhân dân của ĐBQH mặc dù đã được Hiến pháp và pháp luật quy định, song trên thực tế vẫn luôn đặt ra ĐBQH đại diện cho ai? Cho cử tri, địa phương có đơn vị bầu cử ra mình hay cho toàn thể nhân dân? Vì không phải lúc nào lợi ích của cử tri cũng đồng thuận với lợi ích
  • 28. 28 chung; lợi ích của địa phương cũng hài hòa với lợi ích của cả nước. ĐBQH vừa phải là sứ giả đại diện cho cử tri, địa phương đã bầu ra mình, vừa phải là đại diện cho nhân dân trong việc hoạch định chính sách, pháp luật. Đây là điều không dễ dàng, là vấn đề luôn đặt ra trong việc nghiên cứu, hoàn thiện pháp luật về ĐBQH cũng như trong thực tiễn hoạt động của họ. Thực tế cho thấy ngay từ những ngày đầu của Quốc hội Việt Nam, dẫu rằng thành phần ĐBQH khóa I rất đa dạng, phức tạp, bên cạnh các đại biểu được cử tri cả nước bầu ra còn có cả những đại biểu không do bầu cử mà do các đảng phái phản động như Việt Nam Quốc dân Đảng, Việt Nam phục quốc cử ra (70 ghế) nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn khẳng định: "Các đại biểu trong Quốc hội này không phải đại diện cho một đảng phái nào mà đại biểu cho toàn thể quốc dân Việt Nam. Đó là một sự đoàn kết tỏ ra rằng lực lượng của toàn dân Việt Nam đã kết lại thành một khối" [28, tr. 4]. "Quốc hội là tiêu biểu ý chí thống nhất của dân tộc ta, một ý chí sắt đá không gì lay chuyển nổi" [28, tr. 189]. Lịch sử lập hiến Việt Nam cũng cho thấy từ Hiến pháp 1946 đến Hiến pháp 2013 cũng như các văn bản pháp luật khác về ĐBQH đều khẳng định ĐBQH đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân "là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình tổ chức và hoạt động của Quốc hội Việt Nam" [47, tr. 3]. Về phương diện lý luận, liên quan đến tính đại diện của ĐBQH cần phân biệt giữa khái niệm cử tri và khái niệm nhân dân trong mối quan hệ với ĐBQH mà hiện nay khoa học pháp lý chưa làm rõ. Pháp luật thực định đã quy định về hai mối quan hệ này, những cũng chưa phân biệt rõ cử tri và nhân dân, như ĐBQH là đại diện cho cử tri, đồng thời cũng phải chịu trách nhiệm trước nhân dân; ĐBQH có thể bị bãi miễn nếu không xứng đáng với sự tín nhiệm của cử tri, sự tín nhiệm của nhân dân… Rõ ràng, giữa hai nhóm chủ thể là cử tri và nhân dân có sự khác biệt nhất định mà pháp luật về ĐBQH không thể không tính đến. Pháp luật về ĐBQH nhiều nước đều quy định rõ sự khác biệt này. Đại biểu dân cử là người đại diện cho một khối cử tri nào đó. Khối cử tri có thể được xác định theo những tiêu chí khác nhau như đơn vị hành chính, dân tộc, nhóm lợi ích… Những tiêu chí này chính là những yếu tố
  • 29. 29 dẫn đến những sự khác biệt về ý chí, nguyện vọng, mà cụ thể nhất là sự khác nhau, và có thể là trái ngược nhau về lợi ích; lợi ích của các cộng đồng người thiểu số thường khó có thể đồng nhất với lợi ích của cộng đồng dân cư chiếm đa số; lợi ích của cộng đồng người ở các vùng miền núi khó có thể đồng nhất với lợi ích của cộng đồng người ở miền đồng bằng… Tuy nhiên, pháp luật nhiều nước chú trọng tính đại diện của ĐBQH trước nhân dân cả nước, mặc dù "nhân dân" là một phạm trù rất rộng, có thể bao gồm những cộng đồng dân cư với những lợi ích khác nhau và có thể trái ngược nhau. Trong khi đó, ở Việt Nam, trong khoa học pháp lý, nhân dân là một khái niệm chung chỉ được sử dụng trong các quy phạm xác định bản chất nguyên tắc, mục tiêu của chính thể, các chính sách cơ bản, ít là chủ thể trong quan hệ pháp luật cụ thể, trừ khi lấy ý kiến nhân dân về vấn đề nào đó hoặc có trưng cầu ý dân trên phạm vi toàn quốc. Về bản chất, ĐBQH không đại diện cho từng cá nhân, từng cử tri cụ thể, mà đại diện cho ý chí, nguyện vọng chung của đại đa số cử tri, nhân dân. Tuy nhiên, việc thực hiện trên thực tế bản chất đó lại không dễ dàng. Vấn đề đặt ra là ý chí, nguyện vọng của cử tri mà ĐBQH đại diện chỉ có thể được bảo đảm và trở thành hiện thực khi họ ý thức một cách đầy đủ nghĩa vụ, trách nhiệm của mình trước cử tri, nhân dân mà điều đó phụ thuộc rất lớn vào phẩm chất, năng lực của người đại biểu. Mặt khác, cơ chế hình thành ý chí chung của ĐBQH cũng đóng vai trò quan trọng trong việc trở thành ý chí chung của Quốc hội - cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân. Thực tế hoạt động của ĐBQH cho thấy, việc phản ánh và việc làm cho ý chí của cử tri trở thành quy định của pháp luật từ mỗi ĐBQH là rất khác nhau, phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhất là phẩm chất, năng lực, trình độ ĐBQH, cơ chế "luật hóa", mối quan hệ… Mặt khác, do Quốc hội làm việc theo nguyên tắc tập thể, quyết định theo đa số và cho đến nay vẫn chưa hình thành cơ chế bảo vệ ý chí được coi là chính đáng của một bộ phận cử tri, cho nên luôn tiềm ẩn nguy cơ ý chí này dễ bị "chết yểu" bởi nguyên tắc đa số phiếu. Chính vì thế, việc phản ánh ý chí nguyện vọng của cộng đồng cử tri thiểu số ở một số nước thường có cơ chế
  • 30. 30 đặc thù được quy định ngay trong Hiến pháp hoặc các đạo luật. Đây là vấn đề rất đáng lưu ý, nhất là ở Việt Nam có tới 54 dân tộc khác nhau. Đặc điểm về tính đại diện của ĐBQH còn liên quan đến vấn đề thành phần đại biểu. Bên cạnh việc bảo đảm cơ cấu, thành phần đại biểu thuộc mọi thành phần giai cấp, dân tộc, tôn giáo, địa bàn, lĩnh vực hoạt động xã hội…có đại diện của mình trong Quốc hội thì điều quan trọng hơn đó là năng lực đại diện của các ĐBQH. Do đó, không nên quan niệm rằng, cứ có một chị nông dân trong Quốc hội thì đã thực hiện được sự đại diện cho giai cấp nông dân, cũng như không phải cứ có một nhà khoa học trong Quốc hội thì đã đại diện được cho tầng lớp trí thức trong Quốc hội. Vấn đề là người ĐBQH bên cạnh thành phần xuất thân còn phải thực hiện được năng lực đại diện đó như thế nào? Và điều đó phụ thuộc vào cái tâm, cái trí, cái dũng trong thực hiện đại diện của ĐBQH. Thứ hai, ĐBQH là người được cử tri bầu theo các nguyên tắc và thủ tục dân chủ do pháp luật quy định. Đây là đặc điểm để phân biệt rõ giữa ĐBQH với chức danh khác trong bộ máy nhà nước và hệ thống chính trị. Việc bầu cử ĐBQH ở nhiều nước, trong đó có Việt Nam được tiến hành theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Tuy nhiên, pháp luật về bầu cử ở mỗi nước cũng rất khác nhau. Ở Việt Nam, ĐBQH là chủ thể duy nhất được nhân dân cả nước trực tiếp bầu ra theo các đơn vị bầu cử do pháp luật quy định và để trở thành ứng cử viên phải trải qua những trình tự, thủ tục do luật định, trong đó phải qua các bước hiệp thương do Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức. Ở các nước, pháp luật bầu cử thường bảo đảm cho các ứng cử viên có đại diện cho các thành phần khác nhau trong xã hội, theo các phương thức tự ứng cử, đề cử bởi nhóm cử tri, chính đảng hay tổ chức xã hội; theo chế độ bầu cử đa số hay chế độ bầu cử tỷ lệ…Cá biệt, có nước trong một số trường hợp việc hình thành ĐBQH theo chỉ định, bổ nhiệm hoặc do thế tập như ở Anh đối với Thượng nghị sĩ, hoặc là đặc quyền của các cựu tổng thống ở Chi Lê trước
  • 31. 31 đây, sau khi mãn hạn tổng thống thì đương nhiên trở thành Thượng nghị sĩ. Đặc điểm này chủ yếu xuất phát từ truyền thống lịch sử, chính trị, pháp luật và văn hóa riêng của mỗi nước. Trên thực tế để trở thành ứng cử viên và được bầu là ĐBQH còn phụ thuộc và chi phối bởi rất nhiều yếu tố, như sự công khai, rõ ràng, minh bạch trong thủ tục bầu cử, ứng cử, ý thức của người dân trong việc thực hiện quyền và trách nhiệm công dân của mình, những thông tin về ứng cử viên mà cử tri biết được, những tiêu chuẩn ĐBQH làm căn cứ cho việc lựa chọn và nhất là cơ chế hiệp thương, tranh cử. Đây là vấn đề mà ở Việt Nam trong chừng mực nhất định cũng còn hình thức, cần được hoàn thiện, góp phần bảo đảm để bầu được những người thực sự tiêu biểu cho các giai tầng trong xã hội. Có như vậy mới thể hiện được bản chất của ĐBQH trong mối quan hệ với cử tri, nhân dân. Thứ ba, thành phần ĐBQH hết sức đa dạng. Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân nên tất yếu cơ cấu thành phần ĐBQH trong Quốc hội phải đảm bảo đại diện cho các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo, các ngành, các giới, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, lực lượng vũ trang và các đoàn thể quần chúng… Tuy nhiên, để các thành phần xã hội đều có đại biểu thực sự đại diện được cho ý chí, nguyện vọng và lợi ích của mình trong Quốc hội thì việc xác định ĐBQH chỉ căn cứ vào số lượng của mỗi thành phần cử tri trong tổng dân số thì sẽ rất khó bảo đảm, nhất là đối với những nhóm cử tri thiểu số. Ở nhiều nước việc bảo đảm quyền được có đại biểu đại diện tại Quốc hội của các nhóm thiểu số luôn được Hiến pháp và pháp luật quy định chặt chẽ. Một vấn đề nữa đặt ra đối với đặc điểm này của ĐBQH là việc lựa chọn ứng cử viên theo các thành phần xã hội với việc tổ chức đơn vị bầu cử. Theo đó, các ứng cử viên bên cạnh tính chất chung là đại diện cho nhân dân cả nước thì còn được cơ cấu đại diện cho một thành phần xã hội nhất định song không chỉ do cử tri thuộc thành phần đó lựa chọn, mà lại do cử tri thuộc các thành phần trên địa bàn dân cư theo đơn vị hành chính lựa chọn. Như vậy,
  • 32. 32 với thành phần đa dạng của dân cư tại đơn vị bầu cử đã bảo đảm cho ứng cử viên trúng cửa đại diện cho mọi cử tri, nhân dân, vì là người được cử tri thuộc mọi thành phần xã hội tôn vinh lựa chọn. Thứ tư, ĐBQH hoạt động theo nhiệm kỳ. Đại biểu Quốc hội hoạt động theo nhiệm kỳ là đặc điểm quan trọng, bảo đảm cho Quốc hội luôn được đổi mới, tăng cường được nguồn lực mới, bảo đảm cho những người tiên tiến trong các giai tầng xã hội, các dân tộc luôn có cơ hội đại diện cho giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc mình tham gia Quốc hội. Hoạt động theo nhiệm kỳ của ĐBQH đã tạo áp lực của cử tri với đại biểu và cũng là yếu tố tác động mạnh mẽ khiến ĐBQH phải tu dưỡng, rèn luyện, hoạt động xứng đáng với sự tín nhiệm của cử tri. Đây là đặc điểm khác biệt với công chức, viên chức nhà nước, những người hoạt động có tính chất ổn định và lâu dài. Ở Việt Nam, theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, nhiệm kỳ của ĐBQH trùng với nhiệm kỳ của Quốc hội là 5 năm. Ở các nước việc xác định nhiệm kỳ ĐBQH cũng khác nhau. Có nước nhiệm kỳ của Quốc hội và ĐBQH là một; cũng có nước nhiệm kỳ của Quốc hội và nhiệm kỳ của ĐBQH là khác nhau. Ở những nước này, pháp luật quy định sau một thời gian nhất định của nhiệm kỳ Quốc hội, thường là 1/3 hoặc ½ nhiệm kỳ sẽ bầu lại một tỷ lệ nhất định để loại ra các ĐBQH qua thực tế hoạt động có những biểu hiện yếu kém. Cơ chế này tạo sự cạnh tranh giữa các ĐBQH, tạo động lực để các ĐBQH phấn đấu trong quá trình thực thi nhiệm vụ mà nhân dân và cử tri giao phó. Đây là quá trình đổi mới không ngừng nhưng vẫn bảo đảm sự kế thừa, tính liên tục cũng như sự ổn định trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội. Do cơ chế linh hoạt như vậy nên mặc dù hoạt động theo nhiệm kỳ là phổ biến đối với Quốc hội các nước trên thế giới, song không làm ảnh hưởng nhiều đến tính chuyên nghiệp, ổn định trong hoạt động của ĐBQH, nhất là ở các nước có truyền thống coi hoạt động ĐBQH như một nghề, tỷ lệ ĐBQH hoạt động nhiều nhiệm kỳ trở thành phổ biến. Trong khi đó, ở Việt Nam, đặc điểm này của ĐBQH phần nào ảnh hưởng đến yêu cầu về tính ổn định, tính chuyên nghiệp,
  • 33. 33 những đòi hỏi về kinh nghiệm, về chất lượng và hiệu quả hoạt động của ĐBQH. Mặt khác, thực tế các khóa Quốc hội Việt Nam cho thấy, do nhiều nguyên nhân khác nhau mà tỷ lệ tái cử của ĐBQH thường không cao. Số ĐBQH tái cử trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa IX chỉ là 108, chiếm tỷ lệ 27,34%; nhiệm kỳ Quốc hội khóa X là 135 người chiếm tỷ lệ 27,11% [47, tr. 236], nhiệm kỳ Quốc hội khóa XII là 136 chiếm tỷ lệ 27,59%. Điều này càng cho thấy đặc điểm về tính nhiệm kỳ trong hoạt động của ĐBQH và hệ quả của nó là vấn đề không thể không tính đến trong việc nghiên cứu hoàn thiện pháp luật về ĐBQH. Thứ năm, thành phần ĐBQH phản ánh rõ tính giai cấp của Quốc hội. Trong tác phẩm "Nhà nước và cách mạng", VI. Lênin đã phân tích những luận điểm khoa học về nhà nước, về tính chất giai cấp của Nhà nước, về những đặc trưng kiểu mới của Nhà nước XHCN. Đề cập đến tính chất giai cấp của Nhà nước tư sản, nghị viện tư sản và bầu cử tư sản, VI Lênin viết: "Cứ mấy năm lại một lần quyết định xem người nào trong giai cấp thống trị sẽ chà đạp và đè nén nhân dân trong nghị viện, đó là thực chất của chế độ đại nghị tư sản, không những chỉ trong các nước quân chủ lập hiến - đại nghị, mà cả trong những nước cộng hòa dân chủ nữa" [23, tr. 56-57]. Như vậy, theo V.I.Lênin, các nghị sĩ Quốc hội trong nhà nước tư sản về thực chất chỉ là đại biểu đại diện cho giai cấp tư sản thống trị chà đạp và áp bức nhân dân, hoàn toàn không phải như các học giả tư sản cho rằng, họ là những người đại diện rộng rãi cho mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội. Đối ngược lại với tính chất giai cấp của nghị viện tư sản, nghị sĩ tư sản, Nhà nước XHCN là nhà nước do giai cấp công nhân lãnh đạo nhà nước do nhân dân tự tổ chức xây dựng, làm chủ và quản lý theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, và do đó, các đại biểu do nhân dân bầu ra "phải tự mình công tác, tự mình thực hiện những luật pháp của mình và tự mình kiểm tra lấy tác dụng của những luật pháp ấy" [22]. Điều đó cũng có nghĩa ĐBQH trong Nhà nước XHCN là đại diện cho nhân dân lao động, toàn bộ hoạt động là vì lợi ích của nhân dân, bản thân phải là những người lao động, không thoát ly khỏi môi trường lao động, công tác. Ở Việt Nam, từ
  • 34. 34 thực tiễn lịch sử đã khẳng định: Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với nhà nước là nhân tố quyết định sự phát triển, bảo đảm tính chất giai cấp công nhân và tính nhân dân rộng rãi của Nhà nước. Sự lãnh đạo của Đảng theo những phương thức khác nhau phù hợp với vị trí, tính chất, chức năng của từng cơ quan trong bộ máy nhà nước. Đối với Quốc hội, sự lãnh đạo của Đảng trước hết là lãnh đạo bầu cử ĐBQH. Đảng giới thiệu những đảng viên ưu tú của Đảng để nhân dân lựa chọn bầu vào Quốc hội, mặt khác, Đảng lãnh đạo trong việc xác định thành phần, cơ cấu, tiêu chuẩn ĐBQH, lãnh đạo các cơ quan, tổ chức bầu cử, đặc biệt là lãnh đạo Mặt trận tổ quốc Việt Nam các cấp trong hiệp thương giới thiệu người ra ứng cử ĐBQH, bảo đảm cơ cấu, thành phần đại biểu đại diện cho mọi tầng lớp nhân dân, trung thành với Đảng, nắm vững đường lối, chủ trương của Đảng và có khả năng tham gia Quốc hội để thể chế hóa đường lối, chủ trương đó thành các đạo luật, nghị quyết. Vì lẽ đó, ĐBQH dù xuất thân từ thành phần nào, dù ở trong Đảng hay ngoài Đảng cũng đều là đại diện của các tầng lớp, giai cấp, dân tộc trung thành với Đảng, thể hiện và bảo đảm tính giai cấp công nhân và tính nhân dân rộng rãi, cái làm nên bản chất của Nhà nước XHCN Việt Nam, của Quốc hội Việt Nam. Thứ sáu, ĐBQH có địa vị pháp lý và vai trò quan trọng trong hoạt động của Quốc hội và Nhà nước. ĐBQH là người đại diện của nhân dân, cùng với Quốc hội quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, lập hiến, lập pháp và thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước. Vì lẽ đó, so với cán bộ, công chức nhà nước khác, ĐBQH có địa vị pháp lý đặc biệt, thể hiện ở những quy định về vị trí, vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn và, theo đó ĐBQH là người đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước trong Quốc hội, họ đều bình đẳng với nhau về quyền và nghĩa vụ, không có ĐBQH cấp trên, ĐBQH cấp dưới, ĐBQH nào lãnh đạo, chỉ đạo ĐBQH khác; mối quan hệ giữa họ là mối quan hệ phân công, phối hợp công tác chứ tuyệt nhiên không hình thành thứ bậc quyền uy.
  • 35. 35 Đại biểu Quốc hội có những quyền hạn đặc biệt, như quyền trình dự án luật, kiến nghị về luật ra trước Quốc hội; quyền phát biểu ý kiến tham gia thảo luận, thông qua các quyết định thuộc chức năng của Quốc hội như làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp, làm luật, sửa đổi luật, quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, ngân sách nhà nước…; bầu phê chuẩn các chức danh cao cấp trong bộ máy nhà nước, chất vấn các chức danh do Quốc hội bầu, phê chuẩn; quyền yêu cầu các cơ quan, tổ chức trả lời những vấn đề mà ĐBQH quan tâm; quyền được cung cấp thông tin, tài liệu; quyền được bảo đảm điều kiện hoạt động; quyền được miễn trừ không bị bắt giam, truy tố nếu không có sự đồng ý của Quốc hội hoặc Ủy ban thường vụ quốc hội (UBTVQH).... Theo Hiến pháp và pháp luật, ĐBQH có những nhiệm vụ thể hiện trách nhiệm trước Quốc hội, cử tri và nhân dân như tham gia đầy đủ các kỳ họp, phiên họp của Quốc hội; liên hệ chặt chẽ với cử tri, thu thập, phản ánh trung thực ý chí, nguyện vọng của cử tri với Quốc hội và các cơ quan nhà nước hữu quan; thực hiện chế độ tiếp xúc cử tri và báo cáo với cử tri về hoạt động của mình và của Quốc hội; tiếp nhận xử lý, giám sát, đôn đốc việc giải quyết các kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân và hướng dẫn, giúp đỡ công dân thực hiện các quyền đó… Phù hợp với địa vị pháp lý đặc biệt, ĐBQH có vị trí, vai trò quan trọng thể hiện ở chỗ: Đại biểu Quốc hội là người đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước trong Quốc hội. Vị trí, vai trò này của ĐBQH thể hiện ở tính chất và nội dung đại diện của ĐBQH, trong đó có đại diện thực hiện quyền lực nhà nước tại Quốc hội, thể hiện ở các quyền hạn của đại biểu. ĐBQH dù là Đảng viên hay không là Đảng viên đều tham gia cùng với Quốc hội góp phần quan trọng vào việc tạo dựng lên định hướng chính trị của đất nước trên những mặt cơ bản sau: - Thể chế hóa và bảo đảm thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, phát triển đất nước theo định hướng XHCN.
  • 36. 36 - Tạo lập thể chế pháp lý cơ bản trên cơ sở tính chất và hoạt động của Nhà nước, xã hội; phản ánh và bảo đảm bản chất của Nhà nước, định hướng phát triển nhà nước, xã hội và củng cố đội ngũ công chức trong sạch, tăng cường trật tự, kỷ cương, pháp chế và hội nhập quốc tế. - Thực hiện dân chủ hóa đời sống chính trị của đất nước, xã hội, bảo đảm cán bộ, công chức thực sự là công bộc của nhân dân, các quyết định của Nhà nước được nhân dân tham gia góp ý, với các mô hình phản biện hiệu quả, thể hiện đầy đủ ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Đại biểu Quốc hội là cầu nối giữa nhà nước và nhân dân, nhân dân và nhà nước. Đại biểu Quốc hội là một chức danh nhà nước, vừa là chức danh do nhân dân bầu, vừa là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân, vừa là người được Hiến pháp và pháp luật giao cho những quyền hạn đặc biệt thuộc quyền lực nhà nước. Với vị trí đó, ĐBQH thực sự là cầu nối giữa nhà nước và nhân dân, nhân dân và nhà nước. Điều này được thể hiện: - Với nhân dân, ĐBQH phản ánh ý nguyện của nhân dân với Quốc hội, bảo vệ dân, bảo đảm cho nhân dân thực hiện các quyền con người, quyền tự do dân chủ… - Với nhà nước, ĐBQH thông qua các hoạt động của mình làm cho ý nguyện của nhân dân được phản ánh chính xác, đầy đủ trong các quy định của pháp luật; góp phần bảo đảm nhà nước gần dân, hiểu dân, học dân, chịu sự giám sát của nhân dân, loại bỏ căn bệnh quan liêu, tham nhũng trong bộ máy nhà nước, đồng thời là người tổ chức, người thường xuyên tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện pháp luật. Đại biểu Quốc hội là trung tâm, hạt nhân trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội. Đại biểu Quốc hội cấu thành nên Quốc hội. Không có các ĐBQH, tất yếu sẽ không có Quốc hội và các cơ cấu của Quốc hội. ĐBQH mạnh thì cơ
  • 37. 37 cấu của Quốc hội mới mạnh, Quốc hội mới mạnh và ngược lại. Trong các cơ cấu của Quốc hội thì hoạt động của ĐBQH luôn là hạt nhân trung tâm trong toàn bộ hoạt động của Quốc hội. Mặt khác, vị trí, vai trò trên của ĐBQH không những được thể hiện trong hoạt động của Quốc hội mà còn được thể hiện trong toàn bộ hoạt động của nhà nước. Như vậy, chế định ĐBQH là một trong những nhân tố có ý nghĩa và vai trò quyết định, hạt nhân của việc hoàn thiện dân chủ đại diện ở Việt Nam trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay. 1.2. CÁC PHƢƠNG THỨC THỰC HIỆN DÂN CHỦ ĐẠI DIỆN Cũng tương tự như phương thức dân chủ trực tiếp, hình thức dân chủ đại diện cũng có nhiều phương thức thực hiện khác nhau, vận dụng cũng như đối chiếu với thực tiễn tại Việt Nam chúng ta có thể thấy dân chủ đại diện được thực hiện thông qua hoạt động chính của Quốc hội, HĐND và các đoàn thể tổ chức xã hội, trong đó Quốc hội đóng vai trò quan trọng. Do vậy, các phương thức thực hiện dân chủ đại diện chủ yếu bao gồm: Một là, dân chủ đại diện được thực hiện thông qua hoạt động bầu cử ĐBQH thông qua hoạt động của ĐBQH; ĐBQH là những người do cử tri bầu ra đại diện cho ý chí, nguyện vọng, lợi ích của cử tri. Trong hoạt động của mình, ĐBQH phải gần gũi nhân dân, tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng, nhu cầu của họ, nắm bắt những vấn đề đặt ra trong đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, trật tự ở từ địa phương, cơ sở đến Trung ương. Trên cơ sở tập hợp ý chí, nguyện vọng, ý kiến của nhân dân và những vấn đề đặt ra trên các lĩnh vực đời sống xã hội, căn cứ vào quy định của pháp luật, ĐBQH sẽ tham gia xây dựng các nghị quyết, Luật... của Quốc hội nhằm quyết định những chủ trương, biện pháp thể hiện tập trung ý chí của nhân dân, phù hợp với Hiến pháp, pháp luật và nghị quyết, quyết định của Đảng và Nhà nước. Chất lượng trong và ngoài kỳ họp của ĐBQH sẽ quyết định tính chất, hiệu quả đại diện của Quốc hội.
  • 38. 38 Hai là, dân chủ đại diện được thực hiện thông qua việc Quốc hội thực hiện các chức năng do pháp luật quy định: Bản chất của Nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân, vì dân. Đối với Quốc hội bản chất đó được thể hiện thông qua việc thực hiện các chức năng của Quốc hội; Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến, lập pháp. Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội, đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh của đất nước, những nguyên tắc chủ yếu của tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động công dân. Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của nhà nước, tất cả những nội dung này đều phải phù hợp ý chí, tâm tư, nguyện vọng của đông đảo nhân dân đã gửi gắm vào những người đại diện cho ý chí của họ. HĐND ban hành các nghị quyết nhằm tổ chức, thực hiện pháp luật và giải quyết những vấn đề quan trọng trên các lĩnh vực đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội ở địa phương, cơ sở, phù hợp với ý chí, nguyện vọng của nhân dân; HĐND thực hiện chức năng giám sát hoạt động của Ủy ban nhân dân (UBND) (cơ quan chấp hành của HĐND) bảo đảm cho hoạt động của UBND phù hợp với Hiến pháp, pháp luật, thực hiện tốt các nghị quyết của HĐND, đồng thời hoạt động giám sát của HĐND được thực hiện theo sự phản ánh và nguyện vọng của nhân dân đối với tổ chức, hoạt động của UBND. Ba là, dân chủ đại diện còn được thực hiện thông qua hoạt động của các cơ quan khác của Nhà nước như: Công đoàn, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh. Đây là những tổ chức quần chúng theo giai cấp, giới tính, nghề nghiệp, sở thích nhằm tập hợp, vận động quần chúng, thực hiện đường lối, chính sách, pháp luật, tham gia xây dựng nhà nước, quản lý nhà nước và xã hội; giúp đỡ nhau trong học tập, sản xuất - kinh doanh, đời sống, sinh hoạt, hoạt động xã hội, đồng thời bảo vệ những quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của đoàn viên, hội viên. Do cách thức tổ chức, nội dung, mục đích hoạt động của các đoàn thể, tổ chức quần chúng nên các tổ chức này thể hiện rõ hơn tính chất đại diện cho đoàn
  • 39. 39 viên, hội viên của mình và ngược lại tính chất đại diện của chúng lại được thể hiện cụ thể trong nội dung, mục đích tôn chỉ, hoạt động của tổ chức này. Trong giới hạn phạm vi nghiên cứu của luận văn sẽ không được xem xét và phân tích sâu về nội dung này. Như đã trình bày ở những phần trên chúng ta tập trung vào phương thức thực hiện dân chủ đại diện điển hình, quan trọng nhất hiện nay ở Việt Nam đó là thông qua hoạt động của Quốc hội, ĐBQH, xoáy quanh chế định Quốc hội và ĐBQH để nắm rõ thực trạng và hướng hoàn thiện chế độ dân chủ đại diện ở nước ta hiện nay. Việc mở rộng dân chủ đại diện đòi hỏi phải tiếp tục cải tiến chế độ bầu cử các cơ quan dân cử, đảm bảo cho nhân dân được tiếp xúc, đối thoại với các đại biểu của mình, có đầy đủ thông tin để trao đổi, nhận xét, lựa chọn thực sự dân chủ.
  • 40. 40 Chương 2 THỰC TRẠNG CỦA CHẾ ĐỘ DÂN CHỦ ĐẠI DIỆN TRONG ĐIỀU KIỆN XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN Ở VIỆT NAM 2.1. CHẾ ĐỘ DÂN CHỦ ĐẠI DIỆN TRONG ĐIỀU KIỆN XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN Ở VIỆT NAM Chế độ dân chủ đại diện thể hiện ở một số nội dung cơ bản: 1) quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; 2) quyền lực của nhân dân phải được khẳng định bằng Hiến pháp và pháp luật; 3) quyền lực đó được thực hiện và được bảo đảm thông qua nhà nước dân chủ. Với quan điểm trên chế độ dân chủ đã được thể hiện trong Hiến pháp và các văn bản quy phạm pháp luật liên quan với cách thức tổ chức và cơ cấu sau đây. 2.1.1. Khái niệm pháp luật về Quốc hội và Đại biểu Quốc hội Khái niệm pháp luật về Quốc hội và ĐBQH có thể được tiếp cận dưới các góc độ khác nhau. Dưới góc độ pháp luật thực định thì pháp luật về Quốc hội và ĐBQH ở Việt Nam là toàn bộ các văn bản quy phạm pháp luật mà chủ yếu là Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, UBTVQH điều chỉnh các quan hệ về tổ chức, hoạt động, chức năng, nhiệm vụ của Quốc hội; về bầu cử ĐBQH; về nhiệm vụ quyền hạn của ĐBQH cũng như phương thức, hình thức, biện pháp thực hiện và bảo đảm thực hiện các nhiệm vụ quyền hạn đó; về các quan hệ giữa Quốc hội, ĐBQH với cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan tới hoạt động của Quốc hội, ĐBQH và các điều kiện bảo đảm cho hoạt động Quốc hội, ĐBQH. Hiến pháp năm 2013 có nội dung quan trọng nhằm thiết lập vị trí pháp lý, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của Quốc hội, ĐBQH cũng như các chức năng và phương thức hoạt động của Quốc hội, ĐBQH, theo đó, Hiến pháp đã dành một chương (Chương V) quy định về vấn đề này, điều này hoàn
  • 41. 41 toàn phù hợp với thông lệ chung của các nước trên thế giới như Liên bang Nga, Hoa Kỳ…Và hàng loạt các văn bản đã quy định cụ thể về Quốc hội và ĐBQH như Luật tổ chức Quốc hội, Luật hoạt động Giám sát của Quốc hội, Luật bầu cử ĐBQH 2001… và các văn bản quy định khác có liên quan về địa vị pháp lý, hoạt động, chức năng nhiệm vụ, trách nhiệm và các điều kiện bảo đảm hoạt động của Quốc hội và ĐBQH… Nhìn chung, pháp luật về Quốc hội, ĐBQH ở Việt Nam và nhiều nước tập trung vào các vấn đề chính sau: - Cách thức hình thành Quốc hội và ĐBQH, nhiệm kỳ và bản chất đại diện của Quốc hội, ĐBQH: Bao gồm các quy định liên quan đến bầu cử, địa vị pháp lý, nhiệm kỳ của Quốc hội, ĐBQH; Mối quan hệ giữa Quốc hội, ĐBQH với cử tri; phương thức hoạt động và kết thúc hoạt động của ĐBQH. - Các quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Quốc hội, của ĐBQH như Quyền làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp; làm luật và sửa đổi luật… quyền trình dự án luật, kiến nghị về luật ra trước Quốc hội … - Mối quan hệ giữa Quốc hội, ĐBQH với các cơ quan, tổ chức, cá nhân và việc thực thi nhiệm vụ Quốc hội, ĐBQH. - Những quy định bảo đảm cho Quốc hội, ĐBQH về mặt pháp lý, chế độ miễn trừ, hoạt động, chế độ làm việc, cơ cấu tổ chức, chính sách, chế độ có liên quan và các quy định khác… Dưới góc độ lý thuyết hệ thống pháp luật, các quy phạm pháp luật về Quốc hội, ĐBQH là bộ phận cấu thành lên chế định về bầu cử và chế định Quốc hội nói chung trong hệ thống các chế định của ngành luật nhà nước, và trực tiếp điều chỉnh các quan hệ có liên quan tới việc hình thành ĐBQH, thành lập Quốc hội, tổ chức và hoạt động của Quốc hội, ĐBQH cụ thể là điều chỉnh các quan hệ trong tổ chức bộ máy nhà nước, tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước, những quy phạm đó điều chỉnh các nhóm quan hệ xã hội sau:
  • 42. 42 - Các nhóm quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ về bầu cử ĐBQH, bãi nhiệm, miễn nhiệm ĐBQH; - Các nhóm quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của ĐBQH, của Quốc hội và các bảo đảm cho hoạt động của ĐBQH, của Quốc hội. - Các nhóm quy phạm pháp luật điều chỉnh các mối quan hệ liên quan đến hoạt động của ĐBQH, của Quốc hội, như giữa ĐBQH với Quốc hội và ngược lại, các cơ quan của Quốc hội … - Các nhóm quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong việc bảo đảm điều kiện cho hoạt động của Quốc hội, của ĐBQH. Là một bộ phận thuộc đối tượng điều chỉnh của ngành luật nhà nước, những mối quan hệ liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội, tổ chức, hoạt động của Quốc hội, bầu cử ĐBQH, xác định địa vị pháp lý, nhiệm vụ quyền hạn của ĐBQH, phương thức hoạt động và những bảo đảm cho hoạt động của Quốc hội và ĐBQH…là những quan hệ có liên quan đến tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, trực tiếp và chính yếu là Quốc hội. Thông qua việc điều chỉnh đó, pháp luật về Quốc hội và ĐBQH thể hiện bản chất nhà nước của dân, do dân và vì dân; nhà nước thể hiện ý chí của đại đa số nhân dân là công cụ của chế độ làm chủ tập thể XHCN, do giai cấp công nhân và nhân dân lao động tổ chức thành cơ quan quyền lực chính trị [6, tr. 117]. Đây là những căn cứ cơ bản để xác định pháp luật về Quốc hội, ĐBQH là một bộ phận quan trọng của ngành luật nhà nước. Điều cần lưu ý là các quy phạm điều chỉnh trên không tồn tại như một chế định độc lập của ngành luật nhà nước mà tham gia cấu thành lên các chế định khác nhau của ngành luật này như chế định về bầu cử, chế định về Quốc hội. Cũng vì lý do này mà phương pháp điều chỉnh của pháp luật về Quốc hội, về ĐBQH không nằm ngoài các phương pháp điều chỉnh đặc thù của ngành luật nhà nước; nguồn của pháp luật về Quốc hội, về ĐBQH do vậy cũng là