SlideShare a Scribd company logo
1 of 91
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
----------
TẠ HỒNG HẠNH
PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG CHIẾT KHẤU
HỐI PHIẾU CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI
TẠI VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số : 60.38.01.07
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Lê Thị Thu Thủy
HÀ NộI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN
Tạ Hồng Hạnh
MỤC LỤC
LờI CAM ĐOAN
DANH MụC CÁC CHữ VIếT TắT
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HỐI PHIẾU VÀ CHIẾT
KHẤU HỐI PHIẾU CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI ........................ 6
1.1. Sự ra đời và phát triển của hối phiếu và pháp luật về hối phiếu............. 6
1.1.1 Sự ra đời và phát triển của hối phiếu ................................................ 6
1.1.2 Sự ra đời và phát triển của pháp luật về Hối phiếu ......................... 7
1.2. Khái niệm, đặc điểm, phân loại và vai trò của hối phiếu và chiết khấu
hối phiếu của ngân hàng thương mại...........................................................10
1.2.1. Khái niệm hối phiếu........................................................................10
1.2.2. Các đặc điểm cơ bản của hối phiếu: ..............................................14
1.2.3. Phân loại hối phiếu.........................................................................15
1.2.4. Vai trò của Hối phiếu......................................................................18
1.2.5. Khái niệm chiết khấu hối phiếu của ngân hàng thương mại.........23
1.2.6. Các đặc trưng cơ bản của hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân
hàng thương mại.......................................................................................24
1.2.7. Vai trò của hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng thương mại......27
1.3. Nguyên tắc và phương thức chiết khấu hối phiếu của ngân hàng thương mại....29
1.3.1 Nguyên tắc chiết khấu hối phiếu của ngân hàng thương mại .........29
1.3.2 Các phương thức chiết khấu hối phiếu của ngân hàng thương mại 30
1.3.2.1 Phương thức mua có bảo lưu quyền truy đòi. ...........................32
1.3.2.2 Phương thức chiết khấu hối phiếu có kỳ hạn ............................32
1.4. Phân biệt hoạt động chiết khấu hối phiếu và cầm cố hối phiếu của ngân
hàng thương mại...........................................................................................34
1.5. Phân biệt giữa hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng thương mại và
hoạt động chiết khấu hối phiếu của Ngân hàng nhà nước Việt Nam ....................37
Kết luận Chƣơng 1........................................................................................44
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG CHIẾT
KHẤU HỐI PHIẾU CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI VIỆT NAM.... 45
2.1 Trình tự, thủ tục thực hiện hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân
hàng thương mại. .........................................................................................45
2.2 Chủ thể tham gia hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng thương mại.....50
2.2.1 Bên nhận chiết khấu: .......................................................................51
2.2.2 Bên được chiết khấu: .......................................................................52
2.2.3 Quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia hoạt động chiết khấu hối phiếu....53
1.2.3.1 Quyền và nghĩa vụ của bên nhận chiết khấu:............................53
2.2.3.2 Quyền và nghĩa vụ của bên được chiết khấu.............................54
2.3 Hợp đồng chiết khấu hối phiếu..............................................................56
2.3.1 Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng chiết khấu hối phiếu............56
2.3.2. Các loại hợp đồng chiết khấu hối phiếu.........................................58
2.3.3 Hình thức và nội dung của hợp đồng chiết khấu hối phiếu............61
2.3.3.1 Hình thức của hợp đồng chiết khấu hối phiếu...........................61
2.3.3.2 Nội dung của hợp đồng chiết khấu hối phiếu............................61
Kết luận Chƣơng 2........................................................................................71
Chƣơng 3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ HOẠT ĐỘNG CHIẾT KHẤU HỐI PHIẾU CỦA NGÂN HÀNG
THƢƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM................................................................72
3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về hoạt động chiết khấu hối phiếu
của ngân hàng thương mại tại Việt Nam .....................................................72
3.2. Một số giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về hoạt động chiết
khấu hối phiếu của ngân hàng thương mại tại Việt Nam ............................75
Kết luận Chƣơng 3........................................................................................82
KẾT LUẬN....................................................................................................83
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................84
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT KÍ HIỆU NỘI DUNG TỪ VIẾT TẮT
1 NHNN : Ngân hàng nhà nước
2 BLDS 2005 : Bộ luật dân sự 2005
3 NHTM : Ngân hàng thương mại
4 ĐHQGHN : Đại học Quốc gia Hà Nội
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kinh tế Việt Nam sau gần ba mươi năm đổi mới đã đạt được rất nhiều
thành tựu to lớn. Việt nam ngày nay được biết đến như một nền kinh tế đang
nổi với tốc độ tăng trưởng cao và ổn định, ngành tài chính - ngân hàng của
Việt Nam những năm trở lại đây đã có những bước phát triển rất mạnh mẽ,
góp phần làm thay đổi đáng kể diện mạo nền kinh tế đất nước. Nhưng không
thể chỉ dừng lại ở đó, các ngân hàng thương mại Việt Nam cần phải nâng cao
quy mô và năng lực của mình hơn nữa để có thể bắt kịp với sự phát triển của
các ngân hàng trên thế giới. Chính vì vậy, đa dạng hóa và phát triển các hoạt
động, dịch vụ ngân hàng là một đòi hỏi cấp thiết của bất cứ ngân hàng nào
trong bối cảnh hội nhập và cạnh tranh hiện nay. Một trong các sản phẩm dịch
vụ đó là chiết khấu hối phiếu.
Hoạt động chiết khấu hối phiếu là một trong những nghiệp vụ cấp tín
dụng cổ điển của các ngân hàng thương mại trên thế giới. Nhưng ở nước ta
hoạt động chiết khấu hối phiếu tại các ngân hàng thương mại còn diễn ra khá
ít, thậm chí có nhiều ngân hàng chưa triển khai nghiệp vụ cấp tín dụng bằng
chiết khấu hối phiếu. Việc ghi nhận hoạt động chiết khấu hối phiếu với tư
cách là một trong những hình thức cấp tín dụng của ngân hàng thương mại
trong Luật các Tổ chức tín dụng năm 1997 đã tạo ra cơ sở pháp lý ban đầu
cho việc xác lập và thực hiện giao dịch này trên thực tế, đảm bảo quyền lợi
cho các chủ thể khi tham gia giao dịch. Để điều chỉnh một cách chi tiết và
hiệu quả hơn hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng thương mại đối
với khách hàng, các nhà làm luật đã cụ thể hóa hoạt động này không những
trong các văn bản luật mà còn thể hiện cả ở văn bản dưới luật. Đặc biệt với
việc Ngân hàng Nhà nước ban hành Quyết định số 63/2006/QĐ-NHNN quy
2
định về việc chiết khấu, tái chiết khấu công cụ chuyển nhượng của tổ chức tín
dụng đối với khách hàng đã tạo một hành lang pháp lý cụ thể và rõ ràng hơn
cho nghiệp vụ chiết khấu hối phiếu của các Ngân hàng thương mại. Bên cạnh
đó, gần đây Thông tư số 04/2013/TT-NHNN ngày 01/3/2013 Quy định về
hoạt động chiết khấu công cụ chuyển nhượng, giấy tờ có giá khác của tổ chức
tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng đã thay thế
Quyết định số 63 nêu trên. Có thể nói, đây là văn bản có nhiều điểm tiến bộ
hơn Quyết định số 63, tuy nhiên, bên cạnh những điểm tích cực còn các điểm
hạn chế nhất định cần khắc phục và hoàn thiện. Hiện nay thị trường hối phiếu
cũng như hoạt động chiết khấu Hối phiếu diễn ra chưa phổ biến. Chế tài đối
với hành vi vi phạm trong lĩnh vực sử dụng Hối phiếu và chiết khấu Hối
phiếu chưa được qui định cụ thể. Hối phiếu chưa phát huy được vai trò là một
loại công cụ chuyển nhượng trên thị trường, là cầu nối trong tín dụng thương
mại. Mặt khác trong thực tiễn có rất nhiều học giả nghiên cứu hoạt động này
dưới góc độ kinh tế học, chỉ đơn thuần tìm hiểu nó với tư cách là một nghiệp
vụ kinh doanh ngân hàng với những đặc thù mang tính chất kỹ thuật kinh tế,
nhưng lại có rất ít các tài liệu nghiên cứu về bản chất pháp lý cũng như tính
ưu việt của hoạt động này khiến cho các ngân hàng thương mại rất ít lựa chọn
hình thức này để cấp tín dụng cho khách hàng. Do vậy việc nghiên cứu để làm
rõ thực trạng pháp luật, những điểm bất cập và hạn chế, trên cơ sở đó nêu ra
các giải pháp hoàn thiện và vận dụng một cách có hiệu quả những quy định
của pháp luật về chiết khấu hối phiếu là rất cần thiết, nhằm tạo điều kiện cho
các ngân hàng thương mại phát triển được hoạt động chiết khấu, trên cơ sở đó
thúc đẩy hoạt động thương mại của doanh nghiệp
Trên đây là lý do tôi chọn đề tài “Pháp luật về hoạt động chiết khấu
hối phiếu của ngân hàng thương mại tại Việt Nam” làm đề tài luận văn tốt
nghiệp của mình.
3
2. Tình hình nghiên cứu đề tài:
Cho đến thời điểm hiện nay đã có một số công trình nghiên cứu về hối
phiếu như bài báo của TS. Lê Hoàng Nga “Thương phiếu ở Việt nam, đôi
điều cần trao đổi - Tạp chí Thị trường Tài chính tiền tệ 7/2002"; Đỗ Thị
Hồng Hạnh “Một số bất cập của các quy định pháp luật về thương phiếu hiện
nay - Tạp chí Ngân hàng, số 5/2002”; Lê Văn Hải “Tín dụng thương mại
góp phần thoả mãn nhu cầu vốn của nền kinh tế - Tạp chí Thị trường tài
chính - tiền tệ số 4/1999”; Nguyễn Hải Hà “Thương phiếu với vấn đề lạnh
mạnh hoá hoạt động tiền tệ - Tạp chí Thị trường tài chính 7/1999”; TS.Đinh
Dũng Sỹ “Khái niệm thương phiếu và Pháp lệnh thương phiếu – Tạp chí Nhà
nước và pháp luật, 7/2000”.....Ngoài ra, giáo trình Luật Ngân hàng Việt nam,
Khoa Luật - ĐHQGHN, Nhà xuất bản ĐHQGHN, Hà nội 2005 cũng đã có
những phân tích cụ thể về hoạt động tín dụng của tổ chức tín dụng nói chung
và hoạt động chiết khấu Hối phiếu và giấy tờ có giá nói riêng; Bên cạnh đó,
cuốn sách của GS. Đinh Xuân Trình, Giáo trình thanh toán quốc tế trong
ngoại thương, NXB. Giáo dục năm 2002; cuốn sách của tác giả Phạm Minh,
Luật thương phiếu, Nhà xuất bản thống kê, 2002 cũng thể hiện nghiên cứu sâu
về Hối phiếu. Tuy nhiên, phần lớn hoạt động chiết khấu Hối phiếu của ngân
hàng thương mại chưa được phân tích rõ trong bất kỳ một công trình nghiên
cứu nào. Các tác giả mới chỉ dừng lại ở những vấn đề lý luận chung về Hối
phiếu và chiết khấu Hối phiếu, chưa nêu bật được thực trạng pháp luật về vấn
đề này ở Việt Nam, những bất cập và các giải pháp hoàn thiện. Đặc biệt, chưa
có công trình nào nghiên cứu về hoạt động chiết khấu hối phiếu từ khi ban
hành Thông tư 04/2013/TT – NHNN. Vì vậy, một công trình nghiên cứu toàn
diện các vấn đề về pháp luật chiết khấu Hối phiếu của ngân hàng thương mại
tại Việt Nam hiện nay là cần thiết, nhằm tạo cơ sở cho việc phát triển hoạt
động thương mại trong nền kinh tế và tạo sự luân chuyển vốn nhịp nhàng giữa
những người thừa và thiếu vốn.
4
3. Mục đích, đối tƣợng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu
- Trong khuôn khổ của luận văn, mục đích nghiên cứu của đề tài được
xác định như sau:
Thứ nhất làm rõ một số vấn đề lý luận cơ bản về Hối phiếu và chiết
khấu Hối phiếu của ngân hàng thương mại.
Thứ hai nghiên cứu, đánh giá thực trạng các quy định pháp luật hiện
hành về hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng thương mại Việt Nam,
so sánh hoạt động chiết khấu hối phiếu với hoạt động cầm cố hối phiếu của
Ngân hàng thương mại, so sánh giữa hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân
hàng thương mại đối với khách hàng và chiết khấu, tái chiết khấu hối phiếu
của ngân hàng Nhà nước đối với các ngân hàng để từ đó hiểu hơn về bản chất
của hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng thương mại.
Thứ ba phát hiện những điểm bất cập của pháp luật về chiết khấu Hối
phiếu để từ đó nêu ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về hoạt
động chiết khấu Hối phiếu của ngân hàng thương mại tại Việt Nam hiện nay.
- Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là các qui định pháp luật về chiết khấu Hối phiếu
tại Ngân hàng thương mại Việt Nam
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung làm rõ các vấn đề như lịch sử
hình thành, phát triển của Hối phiếu và pháp luật về Hối phiếu, pháp luật về
hoạt động chiết khấu Hối phiếu, vai trò của hoạt động chiết khấu hối phiếu
đối với ngân hàng và khách hàng; Đánh giá những bất cập trong thực trạng
pháp luật về hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng thương mại tại
Việt Nam để từ đó nêu lên một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về
hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng thương mại Việt Nam.
5
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trên cơ sở của phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đề tài sử
dụng các phương pháp chủ yếu sau để làm rõ các nội dung trong đề tài:
phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh. Các phương pháp này được sử
dụng xuyên suốt luận văn gắn với từng nội dung nghiên cứu của đề tài.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, đề
tài được bố cục thành ba chương cụ thể như sau:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về hối phiếu và chiết khấu hối phiếu
của ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng pháp luật về hoạt động chiết khấu hối phiếu của
ngân hàng thương mại tại Việt Nam.
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về hoạt động
chiết khấu hối phiếu của ngân hàng thương mại tại Việt Nam.
6
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HỐI PHIẾU VÀ CHIẾT KHẤU
HỐI PHIẾU CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI
1.1. Sự ra đời và phát triển của hối phiếu và pháp luật về hối phiếu
1.1.1 Sự ra đời và phát triển của hối phiếu
Hối phiếu (bao gồm hối phiếu đòi nợ và hối phiếu nhận nợ). Trước đây
Hối phiếu được gọi là thương phiếu. Hối phiếu ra đời khi nền kinh tế hàng
hóa ngày càng phát triển, việc giao lưu buôn bán cả nội địa và quốc tế của các
thương nhân diễn ra ngày càng mạnh mẽ. Nhưng không phải lúc nào người
mua cũng có tiền mặt để thanh toán cho người bán vì vậy mà họ phải tìm ra
một giải pháp phù hợp đó là mua bán chịu, tức là thỏa thuận người bán giao
hàng trước, còn người mua sẽ thanh toán sau khi nhận hàng với một thời hạn
nhất định theo sự thỏa thuận của các bên, từ đó tín dụng thương mại được
hình thành và tín dụng thương mại được thể hiện qua việc tạo lập và thanh
toán bằng hối phiếu. Hối phiếu chính là một phương tiện thanh toán thay cho
tiền mặt mà các thương nhân đã sáng tạo ra." Hối phiếu ra đời từ thế kỷ XII
khi nền kinh tế hàng hóa đã phát triển phá vỡ kiểu sản xuất tự cung tự cấp đã
tồn tại hàng ngàn năm" [30].
Trong nền kinh tế thị trường, tín dụng thương mại nói chung và hối
phiếu nói riêng có vai trò rất to lớn. Một mặt, nó được sử dụng như phương
tiện thanh toán để thực hiện nghĩa vụ thanh toán trong quan hệ mua bán chịu,
trả chậm. Mặt khác, thông qua việc phát hành và lưu thông hối phiếu, hối
phiếu được sử dụng như một công cụ tín dụng giữa người ký phát và người bị
ký phát, giữa người ký phát và người thụ hưởng, giữa người thụ hưởng và
ngân hàng chiết khấu. Đồng thời, việc thể hiện quan hệ tín dụng thương mại
bằng hối phiếu tạo ra cơ sở quan trọng để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp
của các bên tham gia.
7
"Trong lịch sử, hối phiếu được biết đến từ rất xa xưa, như là bản ghi
nhận khoản nợ khi các thương gia mua bán hàng hóa chịu. Các thương gia ở
thành phố cảng Italia là những người đầu tiên phát hành, sử dụng thương
phiếu ở thế kỷ XII. Các chứng chỉ này được ghi nhận là thương phiếu đầu tiên
được phát hành và sử dụng" [30].
Việc sử dụng hối phiếu trở thành phổ biến ở thế kỷ XVI, khi hối phiếu
đã được chuyển nhượng. Thông qua hình thức chuyển nhượng, hối phiếu đã
được sử dụng như một phương tiện thanh toán trong quan hệ thương mại, mua
bán hàng hóa. Ngày nay, hối phiếu được sử dụng rộng rãi như là phương tiện
thanh toán trong quan hệ thương mại quốc tế và trong quan hệ thương mại nội
địa của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Ngoài ra hối phiếu còn được sử
dụng rộng rãi trong các giao dịch vay nợ quốc tế như là văn bản cam kết nhận
nợ và cam kết thanh toán đối với các khoản vay [30].
Cùng với sự phát triển kinh tế, thương mại và công nghệ, hối phiếu
ngày càng hoàn thiện hơn về hình thức và nội dung, dần thoát ly khỏi cơ sở
kinh tế ban đầu của nó là quan hệ thương mại, nghĩa là, sau khi được ký phát
hối phiếu trở thành một loại giấy tờ có giá có hiệu lực độc lập hoàn toàn với
giao dịch kinh tế “sản sinh” ra nó. Vì là chứng từ có giá lại chuyển nhượng
được, nên hối phiếu không chỉ dừng lại ở quan hệ tín dụng thương mại mà
còn được sử dụng trong quan hệ tín dụng ngân hàng, chiết khấu, cầm cố, thế
chấp và là phương tiện thanh toán trong các giao dịch khác. Hơn nữa, ngày
nay hối phiếu còn trở thành một loại hàng hóa để mua bán trên thị trường tiền
tệ, đặc biệt ở một số nước, việc mua bán hối phiếu đã phát triển mạnh thành
một thị trường riêng biệt.
1.1.2 Sự ra đời và phát triển của pháp luật về Hối phiếu
Để Hối phiếu trở thành phương tiện thanh toán và nâng cao hiệu quả sử
dụng của hối phiếu, ngoài việc phải chứng chỉ hóa hối phiếu thì pháp luật về
8
hối phiếu và các hoạt động thương mại liên quan đến hối phiếu cần phải được
ban hành đầy đủ và hoàn thiện hơn. Thực tế thì hầu hết các quốc gia trên thế
giới đã ban hành luật về hối phiếu. Tuy nhiên, ngày nay thương mại quốc tế
đã phát triển rất nhiều, từ đó làm phát sinh nhu cầu sử dụng hối phiếu làm
phương tiện thanh toán quốc tế gia tăng, do đó nếu không có sự quy định
thống nhất pháp luật về hối phiếu trong khi Người ký phát và Người bị ký
phát lại ở hai quốc gia khác nhau thì việc sử dụng và thanh toán hối phiếu sẽ
rất khó khăn. Vì vậy, yêu cầu đặt ra là phải xây dựng một Luật quốc tế thống
nhất về hối phiếu.
Hội nghị về Luật hối phiếu được tổ chức tại Den Haag năm 1912 đã ra
kiến nghị về việc cần ký kết một hiệp định giữa các nước, trong đó, các nước
thành viên cam kết sẽ soạn thảo và thi hành pháp lệnh hối phiếu ở nước mình.
Tại thời điểm đó, Mỹ và Khối liên hiệp Anh đã tự tách khỏi cam kết thống
nhất này. Tuy nhiên do xảy ra thế chiến lần thứ nhất nên các nước dự hội nghị
không thể đi tới việc ký hiệp định về Luật hối phiếu.
Tới năm 1930, hội nghị về Luật hối phiếu được tổ chức tại Geneve, các
nước thành viên đã phê chuẩn Công ước về Luật hối phiếu, gọi là Công ước
Geneve 1930 về Luật hối phiếu thống nhất (Uniform Law for Bills of
Exchange – Geneve Convention 1930, ULB 1930).
Ngày nay, Luật hối phiếu thống nhất ULB 1930 có hiệu lực tại tất cả
các nước (ngoại trừ Anh). Nhiều nước khác mặc dù không tham gia công ước
Geneve, nhưng vẫn xây dựng Luật hối phiếu của họ tương thích với ULB
1930, chính điều đó càng làm cho tính hiệu lực quốc tế của ULB ngày càng
được thừa nhận trong cuộc sống.
Ở Việt Nam, thời kỳ phong kiến, nền kinh tế Việt Nam "là nền kinh tế
tự cung, tự cấp, bế quan tỏa cảng" [30], các quy định pháp luật về kinh doanh
thương mại còn chưa được chú trọng ban hành, do đó hối phiếu chưa ra đời ở
Việt Nam trong thời kỳ này.
9
Đến thời kỳ pháp thuộc, do thương mại phát triển cho nên luật về
thương mại mới được ban hành. Năm 1864, Luật thương mại của Pháp được
áp dụng ở Nam kỳ và đến năm 1888 thì được áp dụng ở Bắc kỳ. Ở Trung bộ,
triều đình Nguyễn ban hành Bộ Luật thương mại Việt Nam Trung phần năm 1942.
Trong thời kỳ này, sau khi phê chuẩn công ước Geneva vào cuối năm 1935, tháng
12 năm 1937 Toàn quyền Pháp ở Đông Dương đã ban hành Nghị định chính thức
áp dụng Luật thương phiếu của Pháp trên toàn lãnh thổ Đông Dương.
Từ 1945 đến 1954, Việt Nam tiến hành cuộc kháng chiến trường kỳ
chống thực dân Pháp, đất nước lúc này chia thành hai khu vực, khu vực do
thực dân Pháp tạm thời chiếm đóng và Khu vực kháng chiến. Trong khu vực
do thực dân Pháp chiếm đóng thì thương phiếu nói chung và hối phiếu nói
riêng vẫn được sử dụng trong cả nội thương và ngoại thương. Còn trong khu
vực kháng chiến thì không sử dụng thương phiếu bởi vì lúc đó kinh tế chủ yếu
để phục cho kháng chiến, không còn cơ sở cho thương phiếu hình thành và
phát triển.
Từ năm 1954 đến 1972, khi đất nước bị chia cắt thành hai miền, Miền
Bắc tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam chịu ảnh hưởng của kinh
tế tư bản chủ nghĩa do sự chiếm đóng của đế quốc Mỹ. Lúc này, miền Nam
Việt Nam sử dụng thương phiếu theo Luật thương mại của Pháp. Năm 1972,
Chính phủ Miền Nam Việt Nam đã ban hành Luật thương mại, trong đó đã
dành riêng một chương quy định về Hối phiếu, Kỳ phiếu và Chi phiếu (Séc).
Sau khi đất nước thống nhất năm 1975, Luật thương mại Sài Gòn 1972 không
còn được sử dụng nữa. Từ năm 1954 đến 1999, thương phiếu chỉ được sử
dụng trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại. Các doanh nghiệp Việt Nam khi phát
hành Hối phiếu đòi nợ đều áp dụng Luật thống nhất về hối phiếu (ULB 1930).
Ngày 24/12/1999, Pháp lệnh thương phiếu của Việt Nam ra đời, đánh
dấu một bước phát triển mới của lưu thông thương phiếu tại Việt Nam. Tuy
10
nhiên, sau khi được ban hành, pháp luật Thương phiếu đã bộc lộ nhiều hạn
chế, khiến cho pháp lệnh này khó được áp dụng trong thực tiễn. Trước yêu
cầu của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, một yêu cầu đặt ra là phải sửa đổi
các quy định trong pháp lệnh thương phiếu 1999 để nó phù hợp hơn với các
hoạt động thương mại trên thực tế. Vì vậy Luật các công cụ chuyển nhượng
đã được Quốc hội thông qua ngày 29/11/2005 đã đánh dấu một bước phát
triển mới đối với pháp luật về hối phiếu của Việt Nam. Ngoài ra, Luật các tổ
chức tín dụng năm 2010 hiện cũng là cơ sở pháp lý quan trọng, cho phép các
tổ chức tín dụng thực hiện hoạt động tín dụng dưới hình thức chiết khấu các
giấy tờ có giá, trong đó có Hối phiếu. Bên cạnh đó, để cụ thể hóa hoạt động
chiết khấu Hối phiếu, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Quyết định số
63/2006/QĐ – NHNN quy định về việc chiết khấu, tái chiết khấu công cụ
chuyển nhượng của Tổ chức tín dụng đối với khách hàng. Quyết định này đã
được thay thế bởi Thông tư số 04/2013/TT-NHNN ngày 01/3/2013 Quy định
về hoạt động chiết khấu công cụ chuyển nhượng, giấy tờ có giá khác của tổ
chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng. Có thể nói,
các văn bản trên tạo hành lang pháp lý quan trọng để phát triển thị trường Hối
phiếu nói chung và hoạt động chiết khấu của ngân hàng thương mại nói riêng.
1.2. Khái niệm, đặc điểm, phân loại và vai trò của hối phiếu và
chiết khấu hối phiếu của ngân hàng thƣơng mại
1.2.1. Khái niệm hối phiếu
Cho đến hiện nay vẫn còn có những quan điểm, cách hiểu khác nhau về
nội hàm của khái niệm hối phiếu:
Theo cách hiểu thông thường: Hối phiếu là giấy nợ được lập ra trong
một quan hệ thương mại giữa các thương nhân với nhau hoặc giữa các thương
nhân với những người không phải thương nhân
11
Theo điều 3 Luật Hối phiếu Anh 1882: Hối phiếu là một lệnh không
điều kiện bằng văn bản do một người ký phát cho một người khác yêu cầu
người này thanh toán ngay lập tức hoặc tại một thời điểm ấn định hoặc có thể
xác định được trong tương lai một khoản tiền nhất định cho một người xác
định hoặc theo lệnh của người này hoặc cho người cầm hối phiếu.
Luật hối phiếu của Đức năm 1933 không định nghĩa thế nào là hối
phiếu nhưng lại có những quy định rất rõ ràng về các yếu tố cấu thành nên hối
phiếu. Cụ thể, tại điều 1 Luật hối phiếu Đức ban hành ngày 21.6.1933 quy
định: Một hối phiếu đòi nợ gồm có:
- Chữ “Hối phiếu” trong nội dung của chứng chỉ và bằng ngôn ngữ
được sử dụng khi phát hành chứng chỉ;
- Chỉ thị thanh toán vô điều kiện một khoản tiền nhất định;
- Họ và tên người phải thanh toán (người bị ký phát);
- Hạn định thanh toán hối phiếu;
- Địa điểm thanh toán hối phiếu
- Họ và tên người được thanh toán hoặc theo lệnh của người này;
- Ngày, tháng và địa điểm ký phát;
- Chữ ký của người ký phát hối phiếu [3].
Tương tự như vậy Điều 75 Luật hối phiếu Đức 1933 quy định về các
cấu thành hối phiếu tự nhận nợ như sau:
- Chữ “Hối phiếu” trong nội dung chứng chỉ và bằng ngôn ngữ được
sử dụng khi phát hành chứng chỉ;
- Cam kết thanh toán vô điều kiện một khoản tiền nhất định;
- Hạn định thanh toán hối phiếu;
- Địa điểm thanh toán hối phiếu;
- Họ và tên người được hưởng thanh toán hoặc theo lệnh của người này;
- Ngày, tháng và địa điểm ký phát;
12
- Chữ ký của người ký phát [3].
Luật hối phiếu của Singapore năm 1965 định nghĩa về hối phiếu đòi nợ
và hối phiếu nhận nợ như sau:
- Hối phiếu đòi nợ là một lệnh yêu cầu thanh toán không điều kiện
bằng văn bản do một người ký phát cho một người khác yêu cầu người này
thanh toán ngay lập tức hoặc tại một thời điểm ấn định hoặc có thể xác định
trong tương lai một số tiền nhất định cho hoặc theo lệnh của một người xác
định hoặc trả cho người cầm hối phiếu [20].
- Một công cụ không phù hợp với các điều kiện trên hoặc một công cụ
ra lệnh thực hiện thêm bất kỳ một hành động nào ngoài việc thanh toán tiền
không phải là hối phiếu đòi nợ.
- Hối phiếu nhận nợ là một cam kết không điều kiện được lập thành
văn bản do người lập ký cho một người khác, cam kết sẽ thanh toán ngay khi
có yêu cầu hoặc tại một thời điểm ấn định hoặc có thể xác định được trong
tương lai một số tiền nhất định cho hoặc theo lệnh của một người cụ thể hoặc
cho người cầm hối phiếu. Theo nghĩa của điều này, một công cụ có hình thức
giống hối phiếu nhận nợ trả theo lệnh của người ký phát không được coi là
hối phiếu nhận nợ, trừ khi được ký hậu bởi người lập hối phiếu.
Theo từ điển tiếng việt của Viện ngôn ngữ năm 1995 thì: “Hối phiếu là
phiếu qua đó một người (chủ nợ) yêu cầu một người khác (con nợ) trả một
món tiền theo kỳ hạn nhất định cho một người thứ ba ”
Theo Bộ Luật Thương mại Sài Gòn năm 1972 thì: “Thương phiếu (bao
gồm hối phiếu, lệnh phiếu và chi phiếu) là một thứ phiếu có thể chuyển dịch
được, dùng để xác nhận cho người cầm phiếu một trái quyền ngắn hạn”
Theo Luật thương mại Việt Nam năm 1997 thì: “Thương phiếu (gồm
hối phiếu và lệnh phiếu) được hiểu là chứng từ ghi nhận sự thanh toán vô điều
kiện một số tiền xác định trong một thời gian nhất định”.
13
Theo Pháp lệnh thương phiếu năm 1999 thì: Thương phiếu là chứng chỉ
có giá ghi nhận lệnh yêu cầu thanh toán hoặc cam kết thanh toán không điều
kiện một số tiền xác định trong một thời gian nhất định. Thương phiếu bao
gồm hối phiếu và lệnh phiếu.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, tại điều 4 Luật các
công cụ chuyển nhượng 2005 thì: Hối phiếu bao gồm hai loại là Hối phiếu đòi
nợ và hối phiếu nhận nợ:
- Hối phiếu đòi nợ là giấy tờ có giá do người ký phát lập, yêu cầu người
bị ký phát thanh toán không điều kiện một số tiền xác định khi có yêu cầu
hoặc vào một thời điểm nhất định trong tương lai cho người thụ hưởng.
- Hối phiếu nhận nợ là giấy tờ có giá do người phát hành lập, cam kết
thanh toán không điều kiện một số tiền xác định khi có yêu cầu hoặc vào một
thời điểm nhất định trong tương lai cho người thụ hưởng.
Vậy từ định nghĩa về Hối phiếu trong Luật các công cụ chuyển nhượng
cũng như trong các văn bản khác cho thấy Hối phiếu bao gồm hai loại: nhận
nợ và đòi nợ, thể hiện một số đặc thù sau:
- Một là, hối phiếu là một chứng chỉ có giá, phương tiện thanh toán;
- Hai là, hối phiếu ghi nhận lệnh yêu cầu thanh toán hoặc cam kết thanh
toán không điều kiện một số tiền xác định;
- Ba là, thời hạn thanh toán của hối phiếu là khi có yêu cầu hoặc sau
một thời hạn có thể xác định trong tương lai.
Về bản chất, hối phiếu là một hành vi pháp lý được thực hiện bởi bên
có quyền hoặc bên có nghĩa vụ – để ràng buộc nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ
đối với việc thanh toán hối phiếu. Tuy nhiên chỉ khi hành vi pháp lý ấy được
thực hiện dưới hình thức và nội dung theo luật định thì nó mới ràng buộc
nghĩa vụ thanh toán hối phiếu của chủ thể đó. Hành vi pháp lý bao gồm: hành
vi ký phát hành, ký chấp nhận, ký bảo lãnh (nếu có) và ký chuyển nhượng hối
phiếu của người ký phát hành, người bị ký phát, người bảo lãnh, người
chuyển nhượng...
14
1.2.2. Các đặc điểm cơ bản của hối phiếu:
Hối phiếu là một loại giấy tờ có giá, có các đặc điểm cơ bản sau đây:
Một là: Hối phiếu được nhìn nhận là trái vụ của một bên, do hối phiếu
được hiểu là một lệnh trả tiền hoặc cam kết trả tiền vô điều kiện của người
phát lệnh (người ký phát, người phát hành) cho người thụ hưởng. Khi đó câu
hỏi được đặt ra là: tính chất vô điều kiện của việc trả tiền được thiết lập đối
với ai và thiết lập từ khi nào:
Đối với người ký phát: Kể từ khi lập hối phiếu
Đối với người bị ký phát: Kể từ khi chấp nhận hối phiếu
Đối với người bảo lãnh: Kể từ khi ký bảo lãnh
Đối với người nhận chuyển nhượng: Kể từ khi hối phiếu được chuyển
nhượng hợp lệ.
Hai là: Hối phiếu có tính trừu tượng. Xuất phát từ hình thức và nội
dung của hối phiếu, ta thấy trên hối phiếu chỉ ghi số tiền phải trả hoặc cam kết
trả mà không ghi nguyên nhân. Trong lưu thông, giá trị của hối phiếu không
bị ràng buộc vào nguyên nhân phát sinh ra nó. Điều đó có nghĩa là khi một
hối phiếu được phát hành và chuyển giao cho người khác thì nó trở thành một
chứng thư độc lập và được phép lưu thông mà không phụ thuộc vào việc có
tồn tại hay không một giao dịch cơ sở, miễn là trong thời hạn còn hiệu lực.
Ba là: Hối phiếu có tính lưu thông (là một công cụ có tính chuyển nhượng)
trong thời hạn hối phiếu có hiệu lực, hối phiếu được mua, bán trong giao lưu thương
mại giữa các thương nhân hoặc giữa thương nhân với ngân hàng.
Bốn là: Hối phiếu là một công cụ thanh toán. Ngoài ra hối phiếu còn là
một công cụ tín dụng, nó được sử dụng rộng rãi trong thương mại, đặc biệt là
thương mại quốc tế. Các thương nhân sử dụng hối phiếu thay cho tiền mặt vì
nhiều mục đích khác, có thể là trong quan hệ mua bán trả chậm có bảo đảm,
có thể là nhằm tạo sự thuận lợi cho các bên trong quan hệ kinh doanh mà khi
15
sử dụng tiền mặt để thanh toán sẽ không đạt được, vì hối phiếu có thể đem ra
mua bán, trao đổi hay đem chiết khấu tại ngân hàng hay lưu thông trong dân
sự. Chính đặc điểm này đã giúp hối phiếu ngày càng được sử dụng rộng rãi.
Năm là: Hối phiếu có thời hạn thường là ngắn hạn (đến 1 năm). Việc
quy định này trước hết là nhằm đảm bảo quyền lợi cho người thụ hưởng, thời
gian càng dài rủi ro càng lớn, bởi vậy quy định một thời hạn thanh toán ngắn
tạo nên một tâm lý an tâm cho thương nhân khi sử dụng và cầm giữ hối phiếu.
Mặt khác, việc quy định một thời hạn thanh toán ngắn còn thúc đẩy sự lưu
thông hối phiếu, qua đó việc sử dụng hối phiếu trở nên thông dụng hơn. Thời
hạn thanh toán ngắn giúp cho người ký phát có thể chuyển nhượng hối phiếu
với khả năng thanh khoản cao.
1.2.3. Phân loại hối phiếu
- Căn cứ vào người tạo lập hối phiếu, hối phiếu có thể được chia thành:
"Hối phiếu đòi nợ là một tờ lệnh trả tiền vô điều kiện do một người ký
phát cho một người khác, yêu cầu người này khi nhìn thấy hối phiếu hoặc đến
một ngày cụ thể nhất định hoặc đến một ngày có thể xác định trong tương lai
phải trả một số tiền nhất định cho một người nào đó hoặc theo lệnh của người
này trả cho một người khác hoặc trả cho người cầm phiếu" [4].
Hối phiếu đòi nợ được sử dụng làm phương tiện thanh toán trong các
trường hợp sau:
Hối phiếu đòi nợ do người bán lập yêu cầu ngân hàng phục vụ người
mua trả tiền cho người thứ ba.
Hối phiếu đòi nợ do người mua lập yêu cầu ngân hàng phục vụ mình
trả tiền cho người bán
Hối phiếu đòi nợ do người bán lập yêu cầu ngân hàng mở thư tín dụng
thanh toán tiền theo thư tín dụng (L/C)
Hối phiếu đòi nợ lại có thể chia thành hai loại:
16
Hối phiếu đòi nợ chưa được người bị ký phát chấp nhận: Là loại hối
phiếu đòi nợ chưa được người bị ký phát ký chấp nhận sẽ thực hiện yêu cầu
thanh toán của người ký phát. Như vậy, nghĩa vụ thanh toán Hối phiếu của
người bị ký phát chưa hình thành. Nếu Hối phiếu loại này được chuyển
nhượng mà đến hạn lại không được thanh toán, thì người thụ hưởng có quyền
truy đòi người ký phát Hối phiếu.
Hối phiếu đòi nợ đã được người bị ký phát chấp nhận: Sau khi đã ký
chấp nhận trên Hối phiếu, người bị ký phát có nghĩa vụ thanh toán một phần
hoặc toàn bộ số tiền ghi trên Hối phiếu đòi nợ khi đến hạn thanh toán. Điều
đó có nghĩa là hành vi chấp nhận đã làm phát sinh nghĩa vụ thanh toán Hối
phiếu (một phần hoặc toàn bộ) của người bị ký phát.
Hối phiếu nhận nợ là cam kết thanh toán một số tiền nhất định trong
tương lai cho người thụ hưởng trước khi đến hạn thanh toán.
- Căn cứ vào thời hạn thanh toán hối phiếu, hối phiếu có thể được
chia thành:
Hối phiếu thanh toán ngay sau khi xuất trình là loại Hối phiếu có cam
kết hoặc được yêu cầu thanh toán khi xuất trình hoặc trên Hối phiếu không
qui định thời hạn thanh toán.
Hối phiếu thanh toán sau một thời gian xác định
Hối phiếu thanh toán vào một ngày cụ thể nhất định Ví dụ: Thanh toán
Hối phiếu này vào ngày 30/5/2013.
Hối phiếu thanh toán vào một ngày có thể xác định được trong tương
lai Ví dụ: Thanh toán Hối phiếu này sau 30 ngày kể từ ngày ký chấp nhận Hối
phiếu. Việc qui định thời hạn thanh toán một cách linh hoạt như vậy nhằm
đáp ứng nhu cầu thực tiễn phát sinh trong hoạt động kinh doanh của các
doanh nghiệp.
17
- Căn cứ vào việc thanh toán Hối phiếu có kèm chứng từ thương mại
hay không, Hối phiếu có thể được chia thành:
Hối phiếu trơn: Là Hối phiếu mà việc thanh toán và chấp nhận thanh
toán không dựa vào chứng từ thương mại gửi kèm.
Hối phiếu kèm chứng từ: Là Hối phiếu mà việc thanh toán dựa vào
chứng từ thương mại gửi kèm với các điều kiện D/P (Trả tiền đổi lấy chứng
từ), D/A (Chấp nhận thanh toán đổi lấy chứng từ), D/TC (thực hiện các điều
khoản và các điều kiện khác đổi lấy chứng từ).
- Căn cứ vào tính chất chuyển nhượng của Hối phiếu, có thể phân
chia Hối phiếu thành ba loại:
Hối phiếu vô danh: Là Hối phiếu không ghi tên người thụ hưởng hoặc
ghi trả cho người cầm phiếu. Đối với loại Hối phiếu này, bất cứ ai cầm được
Hối phiếu đều có thể trở thành người thụ hưởng Hối phiếu, việc chuyển
nhượng Hối phiếu vô danh được tiến hành bằng phương thức chuyển giao,
không phải thông qua thủ tục ký hậu.
Hối phiếu ghi danh: Là Hối phiếu ghi trả theo lệnh của một người nào đó.
Người có nghĩa vụ trả tiền của Hối phiếu sẽ trả tiền cho người thụ hưởng có tên
ghi trên Hối phiếu hoặc theo lệnh của người này trả cho một người khác. Việc
chuyển nhượng Hối phiếu ghi danh được thực hiện bằng thủ tục ký hậu.
Hối phiếu ký danh: Là Hối phiếu ghi rõ tên của người thụ hưởng không
kèm theo từ “theo lệnh”. Loại Hối phiếu này không thể được chuyển nhượng
bằng thủ tục ký hậu, tức là không có tính lưu thông [9].
- Căn cứ vào phạm vi sử dụng Hối phiếu, chúng ta có thể chia Hối
phiếu thanh hai loại sau đây:
Hối phiếu nội địa: Là Hối phiếu ghi rõ đồng thời được phát hành và
thanh toán trong phạm vi lãnh thổ của một quốc gia hoặc được phát hành tại
một quốc gia để đòi tiền một người khác trong cùng lãnh thổ quốc gia đó.
18
Hối phiếu quốc tế: Là Hối phiếu được phát hành và thanh toán tại hai
quốc gia khác nhau hoặc được phát hành để đòi tiền một người khác ở nước
ngoài. Hối phiếu quốc tế được sử dụng rộng rãi trong thanh toán quốc tế và
tín dụng quốc tế.
- Căn cứ vào cơ sở hình thành Hối phiếu có thể chia Hối phiếu thành
Hối phiếu thực: Là Hối phiếu được hình thành từ các giao dịch cơ sở
như hợp đồng mua bán hàng hóa, hợp đồng cung ứng dịch vụ, hợp đồng vay
tài sản của tổ chức cá nhân trong nền kinh tế, hợp đồng tín dụng ngân
hàng….Ví dụ: Trong hợp đồng mua bán hàng hóa, người bán sau khi hoàn
thành nghĩa vụ giao hàng theo hợp đồng thì ký phát Hối phiếu đòi nợ đòi tiền
người mua hoặc sau khi nhận được Hối phiếu nhận nợ từ người mua thì người
bán mới tiến hành giao hàng [9].
Hối phiếu khống: Là Hối phiếu không hình thành dựa trên các giao
dịch cơ sở.
- Căn cứ vào loại tiền tệ ghi trên Hối phiếu có thể phân chia thành:
Hối phiếu nội tệ là loại Hối phiếu được ghi trả bằng đồng tiền của quốc
gia nơi Hối phiếu được thanh toán.
Hối phiếu ngoại tệ là loại Hối phiếu được ghi trả bằng đồng tiền không
phải là đồng tiền của quốc gia nơi Hối phiếu được thanh toán.
- Căn cứ vào giao dịch cơ sở của Hối phiếu, có thể chia Hối phiếu
thành hai loại:
Hối phiếu thương mại: Là Hối phiếu được phát hành trên cơ sở giao
dịch thương mại như: Hợp đồng mua bán hàng hóa, hợp đồng cung ứng dịch
vụ,….
Hối phiếu tài chính: Là Hối phiếu được phát hành trên cơ sở giao dịch
tài chính như: hợp đồng vay nợ.
1.2.4. Vai trò của Hối phiếu
- Đáp ứng nhu cầu về vốn trong nền kinh tế.
19
Khi bán hàng hóa hoặc cung cấp dịch vụ, người bán chưa thu tiền ngay
từ người mua. Người bán lập Hối phiếu yêu cầu người mua thanh toán tiền
hàng hoặc dịch vụ cho chính người bán hoặc cho một người khác (thường là
chủ nợ của người bán trong một quan hệ Hợp đồng khác) được ghi tên trên
Hối phiếu. Đây là quan hệ tín dụng thương mại giữa người bán và người mua,
được biểu hiện dưới hình thức mua bán chịu hàng hóa. Việc cấp tín dụng
thương mại dưới hình thức mua bán chịu hàng hóa có thể được hiểu là hình
thức thanh toán chậm. Hành vi mua bán chịu hàng hóa hoặc thanh toán chậm
được xem là hình thức tín dụng. Trong việc mua bán chịu hàng hóa, người
bán chuyển giao cho người mua được sử dụng vốn trong một thời gian nhất
định (vốn ở đây được thể hiện dưới hình thức hàng hóa) và khi đến thời hạn
đã được thỏa thuận người mua phải hoàn lại vốn cho người bán dưới hình
thức tiền tệ và cả phần lãi cho người bán chịu. Tín dụng thương mại dưới hình
thức mua bán chịu hàng hóa được thực hiện trên cơ sở Hối phiếu.
Các thương nhân có thể huy động vốn qua nhiều kênh khác nhau như:
Tín dụng nhà nước, tín dung ngân hàng, tín dung thương mại, phát hành cổ
phiếu, trái phiếu. Tuy nhiên, để có thể vay vốn các ngân hàng thương mại, các
doanh nghiệp phải tuân thủ những điều kiện trình tự, thủ tục theo quy định
của pháp luật và bản thân ngân hàng thương mại. Muốn phát hành cổ phiếu,
trái phiếu các doanh nghiệp phải thỏa mãn các điều kiện khắt khe của luật
chứng khoán và cũng rất khó để huy động được lựơng tiền mong muốn một
cách nhanh chóng vì vậy, việc sử dụng Hối phiếu như một công cụ tín dụng
trực tiếp giữa các thương nhân có nhiều ưu điểm so với các loại hình tín dụng
khác như: Thời hạn cấp tín dụng linh hoạt, điều kiện, thủ tục cấp tín dụng đơn
giản. Nhờ những ưu điểm này mà Hối phiếu đóng vai trò quan trọng trong
việc đáp ứng nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp. Nó đã phần nào làm giảm
bớt sức ép về vốn đối với các ngân hàng thương mại nhất là khi tốc động lưu
thông hàng hóa rất nhanh mà vốn của các ngân hàng thương mại có hạn
20
Tạo ra những sản phẩm dịch vụ mới, tăng sức cạnh tranh và nguồn
doanh thu cho các ngân hàng thương mại.
Trong nền kinh tế thị trường, việc khai thác và nâng cao chất lượng của
các loại hình dịch vụ mới là mối quan tâm hàng đầu của các ngân hàng
thương mại. Bởi vì chính nhờ các dịch vụ tiện ích đó mà các ngân hàng
thương mại thu hút ngày càng nhiều khách hàng hơn. Hối phiếu với 4 chức
năng cơ bản (Công cụ tín dụng, là tài sản bản đảm trong Hợp đồng tín dụng,
là công cụ đầu tư vốn, và là phương tiện thanh toán) có vai trò kích thích
những sản phẩm dịch vụ mới của các ngân hàng thương mại. Cụ thể, những
nghiệp vụ ngân hàng liên quan đến Hối phiếu là: Nghiệp vụ nhờ thu Hối
phiếu, nghiệp vụ bảo lãnh Hối phiếu, nghiệp vụ chấp nhận Hối phiếu. Thực
hiện những nghiệp vụ này ngân hàng thương mại được hưởng những phí dịch
vụ: Phí nhờ thu, phí bảo lãnh, phí chấp nhận hối phiếu. Những khoản phí này
làm tăng doanh thu cho ngân hàng thương mại.
- Tạo cơ sở để mở rộng hoạt động cấp tín dụng cho các chủ thể trong
nền kinh tế qua các dịch vụ cầm cố, chiết khấu, bảo lãnh hối phiếu.
Nếu có nhu cầu về vốn, người thụ hưởng hối phiếu có thể đem hối
phiếu chưa đến hạn thanh toán đi chiết khấu, cầm cố hối phiếu, chiết khấu và
được cấp một khoản tín dụng.
Đối với hối phiếu được bảo lãnh, người bảo lãnh có nghĩa vụ cam kết
với người nhận bảo lãnh sẽ thanh toán toàn bộ hoặc một phần số tiền ghi trên
hối phiếu nếu đã đến hạn thanh toán mà người được bảo lãnh không thanh
toán hoặc thanh toán không đầy đủ. Như vậy, bảo lãnh hối phiếu khác với
cầm cố, chiết khấu hối phiếu ở chỗ: nghĩa vụ trả tiền của người bảo lãnh chỉ
phát sinh trong các trường hợp người được bảo lãnh không thanh toán đầy đủ
khi hối phiếu hết hạn.
Ngoài ra Hối phiếu gắn hoạt động tín dụng với quá trình sản xuất và
lưu thông hàng hóa, làm giảm thiểu rủi ro cho hoạt động tín dụng ngân hàng.
21
Nếu trong hoạt động kinh doanh không tồn tại hoạt động tín dụng thương mại,
hối phiếu không được sử dụng, ngân hàng sẽ phải cho vay 2 lần. Lần thứ nhất,
cho người sản xuất vay để mua nguyên, nhiên vật liệu…để sản xuất ra sản
phẩm. Lần thứ hai, người mua vay tiền để mua hàng hóa. Song không chắc
những sản phẩm do người sản xuất làm ra đã có thể tiêu thụ dễ dàng để thu hồi
vốn liếng đã bỏ ra, và hoàn trả tín dụng mà ngân hàng đã cấp (cả vốn và lãi) khi
đến hạn. Như vậy hoạt động tín dụng ngân hàng sẽ phải đối diện với những rủi
ro tín dụng, là hệ quả của những rủi ro kinh doanh của người sản xuất.
Khi có tín dụng thương mại, hối phiếu được phát hành trên những giao
dịch cơ sở hàng hóa, dịch vụ,….Do vậy tín dụng thương mại luôn có hàng
hóa, dịch vụ đối ứng. Khi ngân hàng thương mại cấp tín dụng dưới hình thức
chiết khấu, cầm cố hối phiếu thì các khoản tín dụng do ngân hàng cung cấp
cũng có hàng hóa, dịch vụ đối ứng. Tức là, ngân hàng thương mại cho một
người sản xuất vay khi họ đã bán được hàng, khác với trước đây thường là
cho vay vốn để sản xuất. Như vậy, hoạt động tín dụng ngân hàng đã trở nên
an toàn hơn do ngân hàng chỉ cấp tín dụng một lần thay vì hai lần như trước.
- Việc sử dụng Hối phiếu tạo thêm hàng hóa cho thị trường tiền tệ
Hối phiếu là hàng hóa trên thị trường hối phiếu, một bộ phận của thị
trường vốn ngắn hạn hay còn gọi là thị trường tiền tệ. Thị trường hối phiếu là
nơi diễn ra các hoạt động nghiệp vụ kinh doanh hối phiếu như: Cầm cố, nhờ
thu, bảo lãnh, chiết khấu… Trước đây hàng hóa trên thị trường tiền tệ chủ yếu
bao gồm: Tín phiếu kho bạc, tín phiếu ngân hàng nhà nước, chứng chỉ tiền
gửi….Ở nước ta hối phiếu chưa phải là một loại hàng hóa chủ đạo của thị
trường tiền tệ. Nhưng ở nhiều nước trên thế giới, các giao dịch hối phiếu
chiếm một tỷ lệ lớn trong tổng lượng giao dịch trên thị trường vốn ngắn hạn
thậm chí, đã phát triển thành thị trường hối phiếu riêng biệt. (ví dụ ở các nước
phát triển như Hoa Kỳ, Anh)
- Hối phiếu là phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt trong nền
kinh tế
22
Các chủ thể tham gia vào quá trình lưu thông hối phiếu bao gồm: người
ký phát, người bị ký phát, người phát hành, người thụ hưởng, người chuyển
nhượng, người nhận chuyển nhượng, các ngân hàng thương mại, ngân hàng
trung ương…. Để đòi nợ, chủ nợ phát hành hối phiếu đòi nợ và để cam kết trả
nợ, con nợ phát hành hối phiếu nhận nợ. Để có tiền thanh toán cho các chủ nợ
của mình, người thụ hưởng hối phiếu có thể tiến hành theo các cách sau đây:
- Chuyển nhượng hối phiếu cho chủ nợ của mình.
- Đem hối phiếu đến ngân hàng thương mại để chiết khấu và được cấp
một khoản tín dụng để trả nợ.
- Đem cầm cố hối phiếu để vay một khoản tiền để trả nợ.
Như vậy, có thể trong một vòng khép kín, các giao dịch kinh tế có thể
chỉ được thanh toán bằng hối phiếu mà không cần dùng đến tiền mặt
- Hối phiếu là công cụ của ngân hàng trung ương để thực hiện chính
sách tiền tệ quốc gia.
Ngân hàng trung ương sử dụng chức năng làm công cụ tín dụng của hối
phiếu để điều tiết lưu thông tiền tệ, thông qua việc mở rộng hay thu hẹp khối
lượng tín dụng cung cấp cho ngân hàng thương mại. Thông qua lãi suất tái
chiết khâu hối phiếu, lãi suất cho vay bằng cầm cố hối phiếu, ngân hàng trung
ương có thể điều tiết lãi suất trên thị trường tiền tệ nhằm thực hiện chính sách
tiền tệ quốc gia.
Đối với hối phiếu, ngân hàng trung ương có thể cung cấp tín dụng cho
ngân hàng thượng mại thông qua hai hình thức: Cho vay có bảo đảm bằng
cầm cố hối phiếu và tái chiết khấu hối phiếu
Tái chiết khấu hối phiếu: Ngân hàng trung ương cấp tín dụng cho các
ngân hàng thương mại bằng cách mua lại các hối phiếu chưa đến hạn của các
ngân hàng thương đó. Tái chiết khấu hối phiếu là việc mua lại hối phiếu đã
được chiết khấu trước khi đến hạn thanh toán. Lãi suất tái chiết khấu là công
23
cụ để ngân hàng trung ương điều tiết lượng tiền lưu thông trong nền kinh tế.
Khi ngân hàng trung ương tăng lãi suất tái chiết khấu thì chi phí trả lãi của
ngân hàng thương mại sẽ cao hơn. Điều này khiến cho ngân hàng thương mại
nâng lãi cho vay, nên khối lượng cấp tín dụng sẽ ít đi, làm giảm lượng cung
tiền trong nền kinh tế. Biện pháp tăng lãi suất tái chiết khấu được áp dụng khi
Ngân hàng trung ương nhận thấy cần phải điều tiết nền kinh tế đang phát triển
quá nóng, có nguy cơ lạm phát cao. Khi Ngân hàng trung ương giảm lãi suất
tái chiết khấu thì chi phí trả lãi của Ngân hàng thương mại sẽ thấp hơn. Điều
này khiến cho Ngân hàng thương mại có thể giảm lãi suất cho vay, nên khối
lượng cấp tín dụng sẽ tăng lên làm tăng lượng cung tiền trong nền kinh tế.
Biện pháp giảm lãi suất chiết khấu được áp dụng khi Ngân hàng trung ương
nhận thấy phải kích cầu trong tiêu dùng trong nền kinh tế.
1.2.5. Khái niệm chiết khấu hối phiếu của ngân hàng thương mại
Khoản 14, 15 Điều 4 - Luật các công cụ chuyển nhượng năm 2005 quy định:
Chiết khấu công cụ chuyển nhượng là việc tổ chức tín dụng mua
công cụ chuyển nhượng từ người thụ hưởng trước khi đến hạn
thanh toán, tái chiết khấu công cụ chuyển nhượng là việc Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam, tổ chức tín dụng mua lại công cụ
chuyển nhượng đã được tổ chức tín dụng khác chiết khấu trước
khi đến hạn thanh toán [21].
Điều 35 - Luật các công cụ chuyển nhượng năm 2005 quy định “Hối
phiếu đòi nợ có thể được chiết khấu hoặc tái chiết khấu tại Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam, các tổ chức tín dụng theo quy định của Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam” [21].
Các quy định này cũng được áp dụng cho hối phiếu nhận nợ.
Từ các quy định trên của pháp luật ta có thể định nghĩa hoạt động chiết
khấu, tái chiết khấu hối phiếu của ngân hàng thương mại như sau: Chiết khấu
24
hối phiếu của ngân hàng thương mại đối với khách hàng là nghiệp vụ tín
dụng, theo đó ngân hàng thương mại thỏa thuận mua hối phiếu của khách
hàng trước hạn thanh toán. Trường hợp hối phiếu đã được chiết khấu một lần
ở một ngân hàng thương mại, sau đó ngân hàng thương mại này lại đem hối
phiếu mà mình nhận chiết khấu đi chiết khấu tại một ngân hàng thương mại
khác hoặc tại Ngân hàng Trung Ương thì nghiệp vụ này gọi là tái chiết khấu.
Do vậy, điểm khác nhau cơ bản giữa nghiệp vụ chiết khấu với tái chiết khấu
hối phiếu là ở chỗ, chiết khấu là giao dịch mua bán hối phiếu lần đầu còn tái
chiết khấu là giao dịch mua bán lại hối phiếu đã được chiết khấu.
1.2.6. Các đặc trưng cơ bản của hoạt động chiết khấu hối phiếu của
ngân hàng thương mại
Nghiệp vụ chiết khấu hối phiếu của ngân hàng thương mại tuy có nhiều
điểm tương đồng với các nghiệp vụ tín dụng khác nhưng bản thân nó cũng
hàm chứa những đặc trưng cơ bản sau đây:
Thứ nhất, chiết khấu hối phiếu luôn có bản chất là một nghiệp vụ tín
dụng ngắn hạn. Tính chất ngắn hạn của nghiệp vụ tín dụng này thể hiện ở chỗ,
khách hàng chỉ có thể đem chiết khấu ở ngân hàng với thời hạn dưới một năm
mặc dù hối phiếu có thể còn thời hạn thanh toán trên một năm. Điều 3 -
Khoản 3 - Thông tư 04/2013/TT-NHNN qui định:
Thời hạn chiết khấu công cụ chuyển nhượng, giấy tờ có
giá khác là khoảng thời gian tính từ ngày tiếp theo của ngày tổ
chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài nhận chiết khấu
công cụ chuyển nhượng, giấy tờ có giá khác đến ngày khách
hàng phải thực hiện nghĩa vụ cam kết mua lại hoặc đến ngày đến
hạn thanh toán toàn bộ số tiền ghi trên công cụ chuyển nhượng,
giấy tờ có giá khác đó, bao gồm cả ngày nghỉ và ngày lễ [18].
25
Ngoài ra, Điều 11 - Khoản 2 - Thông tư 04/2013/TT-NHNN còn xác
định rõ “Thời hạn chiết khấu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước
ngoài và khách hàng thỏa thuận nhưng không vượt quá thời hạn thanh toán
còn lại của công cụ chuyển nhượng,giấy tờ có giá khác; Đối với giấy tờ có giá
khác do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng khác phát hành, thời hạn chiết
khấu tối đa là dưới 01 năm” [18].
Quy định này nhằm tránh cho ngân hàng nhận chiết khấu những rủi ro
quá lớn khi nhận chiết khấu hối phiếu cho khách hàng và do đó tránh cho nền
kinh tế những biến cố không đáng có do sự đổ vỡ của các ngân hàng.
Thứ hai, chiết khấu là một hình thức cho vay trực tiếp đối với người sở
hữu hối phiếu nhưng lại là hình thức cho vay gián tiếp đối với người bị ký
phát hoặc người phát hành. Thông qua việc chiết khấu hối phiếu, ngân hàng
cung cấp một khoản tín dụng cho người sở hữu hối phiếu trên cơ sở quan hệ
thương mại đã tồn tại trước đó giữa người thụ hưởng, người cầm giữ hối
phiếu, người ký phát với người bị ký phát hoặc người phát hành.
Thứ ba, hoạt động chiết khấu hối phiếu của tổ chức tín dụng là một
hình thức cho vay dựa trên việc chuyển nhượng trái quyền. Có cùng bản chất
với hình thức chuyển nhượng khoản cho vay, khách hàng là chủ sở hữu một
trái quyền có kỳ hạn và họ có thể yêu cầu ngân hàng cấp ngay một khoản tín
dụng cho mình bằng cách chuyển nhượng trái quyền đó cho ngân hàng, với
điều kiện bị khấu trừ đi phần lợi tức chiết khấu. Bằng cách chiết khấu, ngân
hàng không chỉ có tư cách giống như người cho vay mà còn có tư cách của
một người mua các trái quyền chưa đến hạn thanh toán.Tuy nhiên, nghiệp vụ
chiết khấu vẫn khác biệt với quan hệ chuyển nhượng các khoản cho vay ở
chỗ, giao dịch chiết khấu đòi hỏi khách hàng phải làm thủ tục chuyển quyền
sở hữu, mà cụ thể ở đây là chuyển quyền sở hữu hối phiếu cho tổ chức tín
dụng theo các quy định của pháp luật. Trong khi đó giao dịch chuyển nhượng
các khoản cho vay nghề nghiệp không bắt buộc khách hàng phải làm thủ tục
26
này mà chỉ cần lập bảng kê các khoản nợ mà khách hàng có ý định chuyển
nhượng cho ngân hàng và chuyển giao bảng kê đó cho ngân hàng là đủ. Còn
ngân hàng sẽ có trách nhiệm thông báo việc chuyển nhượng này cho người
thụ trái biết để sau đó họ sẽ chỉ có nghĩa vụ trả tiền cho người chủ nợ mới là
ngân hàng.
Thứ tư, nghiệp vụ chiết khấu hối phiếu cũng như chiết khấu giấy tờ có
giá nói chung khác với nghiệp vụ tín dụng thấu chi ở chỗ, đối với ngân hàng
thì chiết khấu có độ an toàn cao hơn thấu chi và khách hàng được chiết khấu
không phải là người mắc nợ chính của ngân hàng, trong khi khách hàng được
thấu chi lại luôn đóng vai trò là người mắc nợ của ngân hàng, sau khi họ đã sử
dụng số tiền trên tài khoản thanh toán vượt quá số dư hiện có theo sự đồng ý
của ngân hàng trong hạn mức thấu chi đã thỏa thuận. Chiết khấu là nghiệp vụ
có phần an toàn hơn vì nó đảm bảo cho ngân hàng có được khả năng thanh
khoản bằng phương pháp tái chiết khấu tại Ngân hàng trung ương hoặc các
ngân hàng thương mại khác [19].
Thứ năm, nghiệp vụ chiết khấu hối phiếu cũng khác với nghiệp vụ cho
vay có bảo đảm bằng cầm cố hối phiếu ở chỗ, khi ngân hàng nhận chiết khấu
hối phiếu cho khách hàng đồng nghĩa với việc khách hàng chuyển quyền sở
hữu hối phiếu cho ngân hàng nhận chiết khấu. Nếu ngân hàng chiết khấu toàn
bộ thời hạn còn lại của hối phiếu thì điều đó có nghĩa là khách hàng đã bán
đứt hối phiếu cho ngân hàng và không có quyền đòi lại. Còn cầm cố hối phiếu
lại là căn cứ để ngân hàng yêu cầu người đi vay trả nợ, trong trường hợp
người đi vay không trả được nợ thì cầm cố là cơ sở pháp lý để ngân hàng có
quyền xử lý tài sản bảo đảm đó – chính là hối phiếu để bù đắp một phần hoặc
toàn bộ nghĩa vụ trả nợ của khách hàng. Nhưng nếu khách hàng hoàn trả nợ
cho ngân hàng đúng thời hạn thì hối phiếu mà khách hàng dùng làm tài sản
cầm cố tại ngân hàng sẽ được ngân hàng trả lại theo như thỏa thuận trong hợp
đồng tín dụng đã ký giữa khách hàng và ngân hàng.
27
1.2.7. Vai trò của hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng
thương mại
- Đối với khách hàng:
Hoạt động chiết khấu hối phiếu đem lại cho khách hàng những lợi ích
sau đây:
Một là, khách hàng có thể chiết khấu hối phiếu như một hình thức luân
chuyển nguồn vốn kinh doanh của mình, ngay cả khi họ có nhu cầu thu hồi
vốn tức thì nhưng không thể đòi tiền trước hạn người bị ký phát. Trong nền
kinh tế thị trường cạnh tranh khốc liệt như hiện nay thì mọi hoạt động kinh
doanh phải rất linh hoạt, người bán sẵn sàng bán chịu hàng hoá của mình cho
người mua khi họ có đủ các điều kiện mua chịu, giữa họ sẽ lập một hối phiếu
(có thể là hối phiếu nhận nợ hoặc hối đòi nợ) để đảm bảo nghĩa vụ thanh toán
tiền của người mua cho người bán bằng việc chi trả số tiền ghi trên hối phiếu
cho người thụ hưởng. Tuy nhiên cũng xảy ra trường hợp người có hối phiếu
cần tiền trong khi hối phiếu chưa đến hạn thanh toán. Việc chiết khấu hối
phiếu sẽ giải quyết được khó khăn này, tức là biến các khoản nợ thành tiền,
giúp cho khách hàng giải quyết được kịp thời nhu cầu vốn của mình.
Hai là, trong quan hệ chiết khấu, người xin chiết khấu không bị ràng
buộc với nghĩa vụ sử dụng vốn đúng mục đích. Chiết khấu hối phiếu cũng
vậy, khách hàng muốn sử dụng khoản tiền do ngân hàng trả cho việc chiết
khấu hối phiếu vào mục đích nào là do họ quyết định, đó là điểm khác biệt rõ
rệt giữa nghiệp vụ chiết khấu và cho vay của tổ chức tín dụng. Trong nghiệp
vụ cho vay, khách hàng vay phải sử dụng vốn vay đúng mục đích như đã thoả
thuận trong hợp đồng tín dụng. Nếu khách hàng sử dụng vốn vay vào mục
đích khác so với những gì đã thoả thuận với tổ chức tín dụng thì sẽ bị coi là vi
phạm các quy định của hợp đồng tín dụng và có thể bị tổ chức tín dụng phạt
vi phạm hợp đồng hoặc có thể bị áp dụng biện pháp cưỡng chế theo thoả
28
thuận để thu hồi nợ, ví dụ như trích tiền trên tài khoản tiền gửi của khách
hàng hoặc phát mại tài sản bảo đảm, khởi kiện ra toà án....v..v để thu hồi nợ.
Như vậy hoạt động chiết khấu hối phiếu của tổ chức tín dụng không những
mang lại lợi ích thiết thực cho các tổ chức tín dụng mà còn mang lại lợi ích
cho các tổ chức, cá nhân - với tư cách là khách hàng xin chiết khấu khi họ cần
vốn trong kinh doanh hoặc tiêu dùng riêng của họ.
- Đối với ngân hàng thƣơng mại:
Việc chiết khấu hối phiếu không chỉ mang lại những lợi ích đáng kể
cho khách hàng mà còn cho chính NHTM thực hiện nghiệp vụ chiết khấu hối
phiếu, thể hiện ở những điểm sau:
Thứ nhất, nghiệp vụ chiết khấu thường được đánh giá là có quy trình
đơn giản, nhanh chóng, tốn ít chi phí cho các bên và đặc biệt là cho các
NHTM. Nếu như trong hoạt động cho vay, tổ chức tín dụng phải thẩm định hồ
sơ xin vay của khách hàng với nhiều thủ tục phức tạp, nhất là việc thẩm định
giá trị cũng như tính hợp pháp của tài sản bảo đảm thì trong nghiệp vụ chiết
khấu hối phiếu tổ chức tín dụng thường chỉ phải quan tâm đến khả năng trả nợ
của người bị ký phát.
Thứ hai, chiết khấu được xem là một nghiệp vụ hạn chế rủi ro tín dụng
cho NHTM. So với hoạt động cho vay, việc chiết khấu hối phiếu có sự đảm
bảo trả nợ không chỉ từ người bị ký phát mà còn có thể được đảm bảo từ
những người khác có liên quan như người bảo lãnh, người ký phát, người
chuyển nhượng.
Thứ ba, chiết khấu không làm đóng băng vốn của ngân hàng thương
mại mà còn tạo điều kiện cho các tổ chức này sử dụng vốn một cách linh hoạt
và có hiệu quả nhờ khả năng chiết khấu lại (tái chiết khấu) ở ngân hàng trung
ương hoặc ở ngân hàng thương mại khác. Hơn nữa sự ứng vốn trong nghiệp
vụ chiết khấu sẽ tạo ra tiền gửi, đó chính là nguồn vốn của ngân hàng. Điều
29
đó có nghĩa là khi thực hiện chiết khấu, số tiền cấp cho khách hàng có thể
chuyển sang tài khoản tiền gửi của khách hàng, nếu chưa thực sự cần thì
khách hàng sẽ không rút ngay tiền mặt trong tài khoản của mình và như vậy
đã tạo ra nguồn vốn mới cho ngân hàng để cho vay. Chính điều này đã hấp
dẫn các ngân hàng trong việc thực hiện nghiệp vụ chiết khấu hơn các nghiệp
vụ tín dụng khác.
1.3. Nguyên tắc và phƣơng thức chiết khấu hối phiếu của ngân
hàng thƣơng mại
1.3.1 Nguyên tắc chiết khấu hối phiếu của ngân hàng thương mại
Việc chiết khấu, tái chiết khấu công cụ chuyển nhượng của tổ chức tín
dụng đối với khách hàng phải đảm bảo các nguyên tắc sau đây:
- Nguyên tắc thỏa thuận giữa ngân hàng thương mại và khách hàng xin
chiết khấu: Điều này có nghĩa là hoạt động chiết khấu của NHTM được thực
hiện dựa trên cơ sở sự tự do ý chí của các bên – ngân hàng và khách hàng.
Các bên thỏa thuận các điều khoản về nội dung của hợp đồng chiết khấu.
NHTM và khách hàng thỏa thuận trong hợp đồng chiết khấu việc thanh toán
tiền chiết khấu trước hạn, thu phí hoặc không thu phí khi khách hàng thanh
toán tiền chiết khấu trước hạn.
Theo Khoản 1 Điều 3 Thông tư 04/2013/TT-NHNN thì “Hợp đồng
chiết khấu công cụ chuyển nhượng, giấy tờ có giá khác là văn bản thỏa thuận
giữa tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và khách hàng nhằm
xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên về việc chiết
khấu (sau đây gọi tắt là hợp đồng chiết khấu) [18]”. Vậy có thể thấy, hoạt
động chiết khấu hối phiếu là hoạt động tự nguyện của các bên. Không bên nào
có quyền áp đặt ý chí, bắt buộc bên kia phải thực hiện. Đây là nguyên tắc rất
quan trọng, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích tối đa của các chủ thể tham gia
quan hệ chiết khấu hối phiếu.
30
- Nguyên tắc khách hàng phải sử dụng tiền chiết khấu để thanh toán các
giao dịch mà pháp luật không cấm, đảm bảo khả năng tài chính để mua lại
công cụ chuyển nhượng, giấy tờ có giá khác hoặc thanh toán đầy đủ số tiền
chiết khấu, lãi chiết khấu và các chi phí hợp pháp khác cho ngân hàng thương
mại. Nguyên tắc này gắn liền với mục đích chiết khấu của khách hàng là huy
động được nguồn vốn nhất định để đầu tư, kinh doanh vào các ngành nghề,
giao dịch mà pháp luật không cấm. Tuy nhiên, trong trường hợp chiết khấu có
kỳ hạn thì khách hàng không những phải thanh toán đầy đủ lãi suất, phí chiết
khấu, mà còn phải bảo đảm khả năng tài chính để mua lại hối phiếu khi đến hạn
theo thỏa thuận trong hợp đồng chiết khấu. Điều này nhằm đảm bảo sự an toàn
cho ngân hàng thương mại khi thực hiện chiết khấu hối phiếu của khách hàng.
- Nguyên tắc phân định trách nhiệm giữa khâu thẩm định và quyết định
thực hiện hoạt động chiết khấu công cụ chuyển nhượng, giấy tờ có giá khác
của ngân hàng thương mại. Nguyên tắc này đòi hỏi khi chiết khấu, NHTM
phải thẩm định kỹ hồ sơ chiết khấu, tách biệt giữa khâu thẩm định và khâu
quyết định chiết khấu. Thẩm định được thực hiện bởi hội đồng thẩm định
riêng, còn quyết định chiết khấu được khẳng định bởi văn bản dựa trên kết
quả thẩm định. Việc thẩm định sai, dẫn đến thất thoát nguồn vốn của ngân
hàng khi chiết khấu thì người thẩm định hoàn toàn phải chịu trách nhiệm về
vấn đề này.
1.3.2 Các phương thức chiết khấu hối phiếu của ngân hàng
thương mại
Chiết khấu hối phiếu là một hình thức cấp tín dụng của ngân hàng
thương mại, được hình thành trên cơ sở thỏa mãn nhu cầu cần vốn cấp thời
của người sở hữu hối phiếu, khi mà họ không thể đòi tiền người mắc nợ vì hối
phiếu chưa đến hạn thanh toán. Đôi khi khách hàng cần một khoản vốn cấp
thời để sản xuất, kinh doanh hoặc để thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng nhưng lại
31
không muốn bán hẳn hối phiếu mà mình đang sở hữu cho Ngân hàng hoặc
cũng có trường hợp người sở hữu hối phiếu muốn bán hẳn hối phiếu cho
Ngân hàng để giải quyết nỗi lo hối phiếu không được thanh toán đủ và đúng
thời hạn. Trong trường hợp như vậy khách hàng có thể bán hẳn hối phiếu cho
ngân hàng hoặc bán hối phiếu cho ngân hàng nhưng cam kết sẽ mua lại chính
hối phiếu mà họ đã bán vào một ngày nhất định trong tương lai, theo giá cả do
hai bên thỏa thuận trước.
Xuất phát từ nhu cầu thực tế trên, nhà làm luật đã dự liệu hai phương
thức chiết khấu hối phiếu, bao gồm phương thức chiết khấu toàn bộ thời hạn
còn lại của hối phiếu và phương thức chiết khấu một phần còn lại của hối
phiếu. Hai phương thức chiết khấu này được quy định cụ thể ở điều 10 TT
04/2013/TT - NHNN như sau:
Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và khách hàng thỏa
thuận, lựa chọn các phương thức chiết khấu sau đây:
1. Mua có kỳ hạn công cụ chuyển nhượng, giấy tờ có giá khác là việc tổ
chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua và nhận chuyển nhượng
quyền sở hữu công cụ chuyển nhượng, giấy tờ có giá khác chưa đến hạn
thanh toán từ khách hàng, đồng thời khách hàng cam kết sẽ mua lại công cụ
chuyển nhượng và giấy tờ có giá khác đó sau một khoảng thời gian được xác
định tại hợp đồng chiết khấu.
2. Mua có bảo lưu quyền truy đòi công cụ chuyển nhượng, giấy tờ có
giá khác là việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua và
nhận quyền sở hữu công cụ chuyển nhượng, giấy tờ có giá khác chưa đến hạn
thanh toán từ khách hàng; khách hàng phải có trách nhiệm hoàn trả đối với
số tiền chiết khấu, lãi chiết khấu và các chi phí hợp pháp khác có liên quan
đến hoạt động chiết khấu trong trường hợp tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân
hàng nước ngoài không nhận được đầy đủ số tiền được thanh toán từ người
có trách nhiệm thanh toán công cụ chuyển nhượng, người phát hành giấy tờ
có giá khác [18].
32
1.3.2.1 Phương thức mua có bảo lưu quyền truy đòi.
Theo phương thức này, ngân hàng cam kết mua hẳn hối phiếu của
khách hàng theo giá chiết khấu do các bên thỏa thuận dựa trên giá trị thanh
toán ghi trên hối phiếu. Trên cơ sở hợp đồng chiết khấu, khách hàng có nghĩa
vụ phải chuyển giao ngay quyền sở hữu hối phiếu cho ngân hàng nhận chiết
khấu mà không có bất cứ một cam kết nào liên quan đến việc mua lại hối
phiếu đó. Khi đến hạn thanh toán, ngân hàng thương mại xuất trình hối phiếu
đó với tư cách là người sở hữu để yêu cầu người bị ký phát hoặc người phát
hành thanh toán số tiền ghi trên hối phiếu. Tuy nhiên, khi NHTM không nhận
được đầy đủ số tiền được thanh toán từ người có trách nhiệm thanh toán thì
NHTM có quyền truy đòi toàn bộ số tiền đã chiết khấu từ khách hàng xin
chiết khấu.
Như vậy, bản chất của phương thức chiết khấu này là khách hàng và
ngân hàng thương mại thỏa thuận mua bán hẳn hối phiếu với toàn bộ thời hạn
thanh toán còn lại của hối phiếu. Ngân hàng trở thành chủ sở hữu của hối
phiếu sau khi đã thanh toán tiền cho khách hàng và khách hàng làm thủ tục
chuyển giao quyền sở hữu hối phiếu đó cho ngâng hàng. Ngân hàng sẽ được
hưởng toàn bộ quyền lợi phát sinh từ hối phiếu đó với tư cách là người sở hữu
mới của hối phiếu mà không bị bất cứ sự hạn chế nào về khả năng định đoạt
hối phiếu.
1.3.2.2 Phương thức chiết khấu hối phiếu có kỳ hạn
Trong thực tế, đôi khi khách hàng có nhu cầu vốn cấp thời và chỉ muốn
bán hối phiếu cho ngân hàng trong một thời hạn nhất định để có thể có một
khoản vốn cần thiết và cam kết hết thời hạn đó thì khách hàng sẽ mua lại
chính hối phiếu đó từ ngân hàng.
Đối với phương thức chiết khấu này các bên đã thỏa thuận hai vấn đề
cơ bản sau:
33
Một là, khách hàng cam kết bán hối phiếu cho ngân hàng trong một
thời hạn nhất định với giá cả do hai bên thỏa thuận ngay ở thời điểm ký kết
hợp đồng. Với cam kết này khách hàng phải có nghĩa vụ chuyển giao hối
phiếu cho ngân hàng cầm giữ và quản lý như một chủ sở hữu, nhưng chủ sở
hữu này bị hạn chế quyền định đoạt. Đồng thời khách hàng có quyền yêu cầu
ngân hàng thanh toán ngay cho mình khoản tiền bán hối phiếu theo giá cả đã
được hai bên thỏa thuận.
Hai là, khách hàng cam kết sẽ mua lại hối phiếu đó từ ngân hàng
thương mại khi thời hạn bán kết thúc. Với cam kết này khách hàng được
quyền ưu tiên mua lại hối phiếu so với người thứ ba, đồng thời ngân hàng có
nghĩa vụ phải bán lại hối phiếu đó cho khách hàng trong thời hạn đã cam kết,
theo giá cả các bên thỏa thuận trước. Nếu kết thúc thời hạn thỏa thuận mua lại
mà khách hàng không thực hiện việc mua lại thì khi đó họ mất quyền ưu tiên
mua lại hối phiếu của họ và khi đó ngân hàng cũng không còn bị ràng buộc với
nghĩa vụ phải bán lại hối phiếu đó cho khách hàng, đồng thời ngân hàng có toàn
quyền định đoạt đối với hối phiếu theo ý chí của chính mình chứ không còn bị
chi phối bởi cam kết bán lại với khách hàng được chiết khấu nữa.
Như vậy có thể thấy điểm khác nhau cơ bản giữa phương thức chiết
khấu có bảo lưu quyền truy đòi và chiết khấu có kỳ hạn của hối phiếu là ở
quyền sở hữu hối phiếu của ngân hàng nhận chiết khấu. Ở phương thức chiết
khấu có bảo lưu quyền truy đòi , ngân hàng sẽ được sở hữu ngay hối phiếu kể
từ khi khách hàng hoàn thành thủ tục chuyển giao quyền sở hữu. Còn trong
phương thức chiết khấu có kỳ hạn, nếu sau thời hạn chiết khấu mà khách hàng
không mua lại hối phiếu theo thỏa thuận thì ngân hàng mới là chủ sở hữu đầy
đủ đối với hối phiếu và được hưởng toàn bộ quyền lợi phát sinh từ hối phiếu
đó. Ngoài ra, trong phương thức chiết khấu có bảo lưu quyền truy đòi, ngân
hàng luôn được đảm bảo khả năng thanh toán tiền đã chiết khấu kể cả khi
34
người có trách nhiệm thanh toán hối phiếu không thực hiện.Điều này hạn chế
rủi ro cho ngân hàng khi thực hiện hoạt động chiết khấu hối phiếu.
1.4. Phân biệt hoạt động chiết khấu hối phiếu và cầm cố hối phiếu
của ngân hàng thƣơng mại
Theo quy định tại Điều 326 của Bộ Luật dân sự 2005 về cầm cố tài sản
thì “Cầm cố tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên cầm cố) giao tài sản
thuộc quyền sở hữu của mình cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận cầm cố)
để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự” [22].
Theo quy định của Luật các công cụ chuyển nhượng 2005 thì Người
thụ hưởng hối phiếu có quyền cầm cố hối phiếu tại ngân hàng để bảo đảm cho
một khoản vay tại Ngân hàng, các quy định về cầm cố hối phiếu được quy
định cụ thể như sau:
“Điều 36. Quyền được cầm cố hối phiếu đòi nợ: Người thụ hưởng có
quyền cầm cố hối phiếu đòi nợ theo quy định tại Mục này và các quy định
khác của pháp luật có liên quan.
Điều 37. Chuyển giao hối phiếu đòi nợ để cầm cố:Người cầm cố hối
phiếu đòi nợ phải chuyển giao hối phiếu đòi nợ cho người nhận cầm cố. Thoả
thuận về cầm cố hối phiếu đòi nợ phải được lập thành văn bản.
Điều 38. Xử lý hối phiếu đòi nợ được cầm cố: Khi người cầm cố hoàn
thành nghĩa vụ được bảo đảm bằng cầm cố hối phiếu đòi nợ thì người nhận
cầm cố phải hoàn trả hối phiếu đòi nợ cho người cầm cố. Trong trường hợp
người cầm cố không thực hiện đầy đủ, đúng hạn nghĩa vụ được bảo đảm bằng cầm
cố hối phiếu đòi nợ thì người nhận cầm cố trở thành người thụ hưởng hối phiếu đòi
nợ và được thanh toán theo nghĩa vụ được bảo đảm bằng cầm cố” [21].
Theo quy định của Bộ Luật dân sự 2005 thì Hợp đồng cầm cố tài sản,
giấy tờ có giá nói chung và hợp đồng cầm cố hối phiếu nói riêng được xác lập
nhằm đảm bảo thực hiện nghĩa vụ của chủ thể mang nghĩa vụ trong hợp đồng
35
chính. Tuy hợp đồng cầm cố là hợp đồng phái sinh từ hợp đồng chính, nhưng
không phải trong mọi trường hợp hợp đồng chính vô hiệu thì hợp đồng cầm
cố vô hiệu theo. Điều này chỉ đúng khi các bên có thỏa thuận.
Hình thức bắt buộc của hợp đồng cầm cố hối phiếu là phải được lập
thành văn bản, có thể lập thành một bản hợp đồng riêng, hoặc có thể ghi
trong hợp đồng chính.
Cầm cố được sử dụng với vai trò là một trong những biện pháp quan
trọng nhằm giảm thiểu rủi ro tín dụng. Rủi ro tín dụng xảy ra khi người có
nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ trả nợ cho
Ngân hàng. Rủi ro tín dụng là nguy cơ Ngân hàng không đòi được tiền gốc
mà Ngân hàng đã cho khách hàng vay cũng như tiền lãi phát sinh từ số tiền
gốc. Cầm cố là một biện pháp bảo đảm nhằm ngăn ngừa những rủi ro đó.
Tài sản cầm cố chỉ được phép xử lý khi rủi ro xảy ra, đó là khi khách
hàng không thực hiện hoặc không thực hiện đầy đủ được nghĩa vụ trả nợ của
mình đối với Ngân hàng. Khi đó Ngân hàng sẽ phát mại tài sản cầm cố của
khách hàng chính là việc chuyển nhượng hối phiếu cho người khác, nhận
thanh toán giá trị của hối phiếu từ Người bị ký phát hoặc người phát hành
hoặc chiết khấu hối phiếu đó tại Ngân hàng thương mại khác hoặc Ngân hàng
Nhà nước nếu được chấp thuận. Việc xử lý tài sản bảo đảm này nhằm bù đắp
vào khoản tiền mà Ngân hàng đã cho khách hàng vay. Còn nếu khách hàng
thực hiện nghĩa vụ như đã cam kết trong hợp đồng tín dụng của mình thì tài
sản bảo đảm đó sẽ được trả lại cho khách hàng vay, khi đó đương nhiên Ngân
hàng không có quyền xử lý tài sản bảo đảm của khách hàng.
Do việc cầm cố buộc khách hàng phải chuyển giao tài sản cầm cố, cụ
thể trong trường hợp này là chuyển giao hối phiếu cho Ngân hàng nên quyền
sử dụng, chiếm hữu và định đoạt đối với hối phiếu của khách hàng cũng bị
hạn chế. Trong thời gian cầm cố, khách hàng không có quyền chiếm hữu,
36
định đoạt ví dụ như: tặng cho, chuyển nhượng, chiết khấu hay cầm cố cho
một nghĩa vụ khác đối với hối phiếu đã cầm cố nếu như không có thỏa thuận
hoặc được sự đồng ý của Ngân hàng. Tuy nhiên điều đó không có nghĩa là
những quyền đối với hối phiếu của khách hàng bị mất đi hoàn toàn và cũng
không phải các quyền đó được chuyển giao cho Ngân hàng. Ngân hàng sẽ làm
thủ tục hoàn trả lại hối phiếu cho khách hàng khi khách hàng hoàn thành xong
nghĩa vụ đối với Ngân hàng.
Như vậy biện pháp cầm cố hối phiếu trong hoạt động cho vay của Ngân
hàng thương mại có những điểm khác biệt rõ rệt với hoạt động chiết khấu hối
phiếu là ở chỗ:
Thứ nhất, Hợp đồng cầm cố có thể lập thành văn bản riêng hoặc có thể
ghi trong hợp đồng chính nhưng hợp đồng chiết khấu hối phiếu thì bắt buộc
phải lập thành văn bản riêng. Hợp đồng cầm cố chỉ là hợp đồng phụ của hợp
đồng chính là hợp đồng tín dụng, việc khách hàng chuyển giao tài sản cho
Ngân hàng quản lý trong thời gian vay vốn chỉ là một biện pháp bảo đảm cho
nghĩa vụ của khách hàng để Ngân hàng tránh được những rủi ro tín dụng có
thể xảy ra. Trong khi đó, hối phiếu là một loại giấy tờ có giá độc lập hoàn
toàn với giao dịch kinh tế sản sinh ra nó, trên hối phiếu không cần phải thể
hiện nguyên nhân sinh ra nó mà người ta chỉ quan tâm đến số tiền phải trả ghi
trên hối phiếu và những nội dung liên quan đến việc trả tiền, do đó hợp đồng
chiết khấu hối phiếu là một hợp đồng độc lập, hết thời hạn thanh toán thì
người bị ký phát phải có trách nhiệm thanh toán vô điều kiện số tiền ghi trên
hối phiếu cho Ngân hàng đã nhận chiết khấu hối phiếu đó mà Ngân hàng
không cần quan tâm đến giao dịch thương mại trước đó phát sinh ra nó.
Thứ hai, về vấn đề chuyển giao hối phiếu: Nếu như ở hợp đồng cầm cố
hối phiếu thì việc khách hàng chuyển giao hối phiếu cho Ngân hàng chỉ tạm
thời làm mất đi quyền sử dụng, chiếm hữu, định đoạt của họ, khách hàng sẽ
37
lại được sở hữu hối phiếu khi họ hoàn thành nghĩa vụ của mình trong hợp
đồng tín dụng, và ở đây Ngân hàng phần lớn chỉ quan tâm đến việc khách
hàng có trả nợ được cho mình đầy đủ và đúng hạn hay không chứ thực sự
Ngân hàng cũng không muốn khách hàng không trả được nợ để họ phải sở
hữu hối phiếu và phải chờ người bị ký phát thanh toán tiền cho mình. Nhưng
trong quan hệ chiết khấu hối phiếu thì lại khác, cái mà Ngân hàng thương mại
quan tâm đến chính là quyền sở hữu hối phiếu, với những hối phiếu có khả
năng thanh toán cao (độ tín nhiệm cao) thì chúng dễ dàng được Ngân hàng
nhận chiết khấu. Như đã phân tích ở phần trước của luận văn thì chiết khấu
hối phiếu được hiểu là các Ngân hàng thương mại mua hối phiếu của Người
thụ hưởng trước hạn thanh toán với một mức giá và lãi suất chiết khấu do hai
bên thỏa thuận. Vậy nên, sau khi ký hợp đồng chiết khấu thì hối phiếu đương
nhiên thuộc quyền sở hữu của các Ngân hàng, khách hàng hoàn toàn không
còn quyền gì đối với hối phiếu. Ngay cả trong trường hợp chiết khấu hối
phiếu có thời hạn thì trong thời hạn chiết khấu, hối phiếu đó vẫn thuộc quyền
sở hữu của Ngân hàng, khách hàng xin chiết khấu chỉ có quyền ưu tiên mua
lại khi hết thời hạn chiết khấu mà thôi.
1.5. Phân biệt giữa hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng
thƣơng mại và hoạt động chiết khấu hối phiếu của Ngân hàng nhà nƣớc
Việt Nam
Về cơ sở pháp lý, hiện nay ngoài Luật các công cụ chuyển nhượng
2005 là văn bản pháp luật trực tiếp điều chỉnh các quan hệ pháp luật về hối
phiếu và các văn bản pháp luật khác có liên quan như Luật các tổ chức tín
dụng 2010, Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2010…v..v thì Ngân hàng
Nhà nước đã ban hành QĐ số 63/2006/QĐ-NHNN ngày 29/12/2006 và quyết
định này được thay thế bởi Thông tư số 04/2013/QĐ-NHNN ngày 01/3/2013
của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về việc ban hành quy chế
chiết khấu, tái chiết khấu công cụ chuyển nhượng của Tổ chức tín dụng đối
38
với khách hàng. Tuy nhiên với hoạt động chiết khấu, tái chiết khấu hối phiếu
của Ngân hàng Nhà nước với các Tổ chức tín dụng nói chung và Ngân hàng
thương mại nói riêng thì chưa có một văn bản nào quy định riêng về vấn đề
này. QĐ số 898/2003/QĐ-NHNN ngày 12/8/2003 của Thống đốc Ngân hàng
Nhà nước về việc ban hành quy chế chiết khấu, tái chiết khấu của Ngân hàng
Nhà nước đối với các Ngân hàng cũng không có quy định cụ thể giấy tờ có
giá được chiết khấu là Hối phiếu. Cụ thể tại Điều 5 QĐ 898/2003/QĐ-NHNN
quy định “ Các giấy tờ có giá được Ngân hàng Nhà nước chiết khấu bao gồm
tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc, tín phiếu Ngân hàng Nhà nước và các
loại giấy tờ có giá khác được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định trong
từng thời kỳ”. Gần đây nhất Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Thông tư số
01/2012/TT-NHNN ngày 16/02/2012 quy định về việc chiết khấu giấy tờ có giá
của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đối với các tổ chức tín dụng, ngân hàng
nước ngoài, Điều 6 Thông tư này quy định: “Giấy tờ có giá được chiết khấu:
1. Tiêu chuẩn giấy tờ có giá được chiết khấu tại Ngân hàng Nhà nước:
a) Được phát hành bằng đồng Việt Nam (VND);
b) Được phép chuyển nhượng;
c) Thuộc sở hữu hợp pháp của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng
nước ngoài đề nghị chiết khấu;
d) Không phải là giấy tờ có giá do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân
hàng nước ngoài đề nghị chiết khấu phát hành;
đ) Thời hạn còn lại tối đa của giấy tờ có giá là 91 ngày đối với trường
hợp chiết khấu toàn bộ thời hạn còn lại của giấy tờ có giá;
e) Thời hạn còn lại của giấy tờ có giá phải dài hơn thời hạn Ngân hàng
Nhà nước chiết khấu đối với trường hợp chiết khấu có kỳ hạn.
2. Danh mục giấy tờ có giá được chiết khấu do Thống đốc Ngân hàng
Nhà nước quy định trong từng thời kỳ” [17].
39
Như vậy với việc quy định các loại giấy tờ có giá được Ngân hàng Nhà
nước chiết khấu, tái chiết khấu như trên thì rõ ràng là không phải lúc nào hối
phiếu cũng được chiết khấu, tái chiết khấu tại Ngân hàng Nhà nước. Tuy
nhiên, ngoài Thông tư 01/2012/TT-NHNN thì không có một văn bản pháp
luật nào khác quy định về việc chiết khấu, tái chiết khấu hối phiếu của Ngân
hàng Nhà nước đối với các ngân hàng, vì vậy khi Ngân hàng Nhà nước nhận
chiết khấu, tái chiết khấu hối phiếu cho các ngân hàng thương mại thì Ngân
hàng Nhà nước sẽ áp dụng các quy định của Thông tư 01/2012/TT-NHNN.
- Vể cơ sở lý luận: Không chỉ có khách hàng là các cá nhân, tổ chức có
nhu cầu xin chiết khấu hối phiếu trước khi hối phiếu đến hạn thanh toán mà
chính các ngân hàng thương mại khi cần vốn phục vụ cho hoạt động kinh
doanh của mình cũng có nhu cầu chiết khấu hoặc tái chiết khấu hối phiếu.
Chiết khấu, tái chiết khấu hối phiếu nói riêng và chiết khấu, tái chiết khấu
giấy tờ có giá nói chung là một hình thức tái cấp vốn đã có từ lâu đời của các
Ngân hàng trung ương trên thế giới và cả của Ngân hàng nhà nước Việt Nam.
Tái cấp vốn là hình thức cấp tín dụng có bảo đảm của Ngân hàng Nhà
nước nhằm cung ứng vốn ngắn hạn và phương tiện thanh toán cho các ngân
hàng. Khi cấp tín dụng cho các ngân hàng thương mại, một mặt thông qua
hoạt động tái cấp vốn, Ngân hàng Nhà nước đã đưa thêm một lượng tiền vào
lưu thông, qua đó ảnh hưởng đến khả năng mở rộng tín dụng của các tổ chức
tín dụng trong đó có các ngân hàng thương mại khi có nhu cầu về vốn các
ngân hàng thương mại phải đến ngân hàng trung ương xin tái cấp vốn và một
hình thức tái cấp vốn điển hình của ngân hàng nhà nước đó là chiết khấu , tái
chiết khấu hối phiếu và các giấy tờ có giá khác.
Như vậy có thể hiểu chiết khấu,tái chiết khấu là việc ngân hàng nhà
nước mua hoặc mua lại các giấy tờ cò giá còn thời hạn thanh toán thuộc sở
hữu của các ngân hàng. Ngàn hàng thương mại chính là người thụ hưởng giấy
tờ có giá hoặc là người mua , đấu thầu trên thị trường sơ cấp.
Đề tài: Pháp luật về hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng
Đề tài: Pháp luật về hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng
Đề tài: Pháp luật về hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng
Đề tài: Pháp luật về hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng
Đề tài: Pháp luật về hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng
Đề tài: Pháp luật về hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng
Đề tài: Pháp luật về hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng
Đề tài: Pháp luật về hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng
Đề tài: Pháp luật về hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng
Đề tài: Pháp luật về hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng
Đề tài: Pháp luật về hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng
Đề tài: Pháp luật về hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng
Đề tài: Pháp luật về hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng
Đề tài: Pháp luật về hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng
Đề tài: Pháp luật về hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng
Đề tài: Pháp luật về hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng
Đề tài: Pháp luật về hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng
Đề tài: Pháp luật về hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng
Đề tài: Pháp luật về hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng
Đề tài: Pháp luật về hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng
Đề tài: Pháp luật về hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng
Đề tài: Pháp luật về hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng
Đề tài: Pháp luật về hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng
Đề tài: Pháp luật về hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng
Đề tài: Pháp luật về hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng
Đề tài: Pháp luật về hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng
Đề tài: Pháp luật về hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng
Đề tài: Pháp luật về hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng
Đề tài: Pháp luật về hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng
Đề tài: Pháp luật về hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng
Đề tài: Pháp luật về hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng
Đề tài: Pháp luật về hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng
Đề tài: Pháp luật về hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng
Đề tài: Pháp luật về hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng
Đề tài: Pháp luật về hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng
Đề tài: Pháp luật về hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng
Đề tài: Pháp luật về hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng
Đề tài: Pháp luật về hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng
Đề tài: Pháp luật về hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng
Đề tài: Pháp luật về hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng
Đề tài: Pháp luật về hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng
Đề tài: Pháp luật về hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng
Đề tài: Pháp luật về hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng
Đề tài: Pháp luật về hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng
Đề tài: Pháp luật về hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng
Đề tài: Pháp luật về hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng
Đề tài: Pháp luật về hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng

More Related Content

What's hot

Ucp 600 tiếng việt
Ucp 600 tiếng việtUcp 600 tiếng việt
Ucp 600 tiếng việt
Đoan Nguyễn
 

What's hot (20)

Luận văn: Vấn đề nhượng quyền thương mại tại Việt Nam, 9 ĐIỂM!
Luận văn: Vấn đề nhượng quyền thương mại tại Việt Nam, 9 ĐIỂM!Luận văn: Vấn đề nhượng quyền thương mại tại Việt Nam, 9 ĐIỂM!
Luận văn: Vấn đề nhượng quyền thương mại tại Việt Nam, 9 ĐIỂM!
 
Luận văn: Bảo lãnh để bảo đảm tiền vay của Ngân hàng theo luật
Luận văn: Bảo lãnh để bảo đảm tiền vay của Ngân hàng theo luậtLuận văn: Bảo lãnh để bảo đảm tiền vay của Ngân hàng theo luật
Luận văn: Bảo lãnh để bảo đảm tiền vay của Ngân hàng theo luật
 
Luận văn: Bảo đảm tiền vay bằng tài sản tại ngân hàng Vietinbank
Luận văn: Bảo đảm tiền vay bằng tài sản tại ngân hàng VietinbankLuận văn: Bảo đảm tiền vay bằng tài sản tại ngân hàng Vietinbank
Luận văn: Bảo đảm tiền vay bằng tài sản tại ngân hàng Vietinbank
 
Đề tài: Biện pháp bảo đảm trong hoạt động của các ngân hàng, HAY
Đề tài: Biện pháp bảo đảm trong hoạt động của các ngân hàng, HAYĐề tài: Biện pháp bảo đảm trong hoạt động của các ngân hàng, HAY
Đề tài: Biện pháp bảo đảm trong hoạt động của các ngân hàng, HAY
 
Pháp luật về bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng, HOT
Pháp luật về bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng, HOTPháp luật về bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng, HOT
Pháp luật về bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng, HOT
 
Luận văn: Pháp luật về bảo lãnh của Ngân hàng tại MBBank, HAY
Luận văn: Pháp luật về bảo lãnh của Ngân hàng tại MBBank, HAYLuận văn: Pháp luật về bảo lãnh của Ngân hàng tại MBBank, HAY
Luận văn: Pháp luật về bảo lãnh của Ngân hàng tại MBBank, HAY
 
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về tín dụng cho vay tiêu dùng, 9đ
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về tín dụng cho vay tiêu dùng, 9đLuận văn: Pháp luật Việt Nam về tín dụng cho vay tiêu dùng, 9đ
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về tín dụng cho vay tiêu dùng, 9đ
 
URC 522 - QUY TẮC THỐNG NHẤT VỀ NHỜ THU
URC 522 - QUY TẮC THỐNG NHẤT VỀ NHỜ THUURC 522 - QUY TẮC THỐNG NHẤT VỀ NHỜ THU
URC 522 - QUY TẮC THỐNG NHẤT VỀ NHỜ THU
 
Ucp 600 tiếng việt
Ucp 600 tiếng việtUcp 600 tiếng việt
Ucp 600 tiếng việt
 
Luận văn: Hợp đồng mua bán hàng hóa theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hợp đồng mua bán hàng hóa theo pháp luật Việt NamLuận văn: Hợp đồng mua bán hàng hóa theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hợp đồng mua bán hàng hóa theo pháp luật Việt Nam
 
Bài tập thương mại
Bài tập thương mại Bài tập thương mại
Bài tập thương mại
 
Luận văn: Hợp đồng vay tài sản qua giải quyết tranh chấp, HOT
Luận văn: Hợp đồng vay tài sản qua giải quyết tranh chấp, HOTLuận văn: Hợp đồng vay tài sản qua giải quyết tranh chấp, HOT
Luận văn: Hợp đồng vay tài sản qua giải quyết tranh chấp, HOT
 
99 đề tài báo cáo thực tập ngành luật, luật dân sự, kinh tế, hình sự, quốc tế..
99 đề tài báo cáo thực tập ngành luật, luật dân sự, kinh tế, hình sự, quốc tế..99 đề tài báo cáo thực tập ngành luật, luật dân sự, kinh tế, hình sự, quốc tế..
99 đề tài báo cáo thực tập ngành luật, luật dân sự, kinh tế, hình sự, quốc tế..
 
Luận văn: Bảo hiểm nhân thọ theo pháp luật Việt Nam, HAY, 9đ
Luận văn: Bảo hiểm nhân thọ theo pháp luật Việt Nam, HAY, 9đLuận văn: Bảo hiểm nhân thọ theo pháp luật Việt Nam, HAY, 9đ
Luận văn: Bảo hiểm nhân thọ theo pháp luật Việt Nam, HAY, 9đ
 
Luận văn: Quản lý đối với người không quốc tịch ở Việt Nam, HAY
Luận văn: Quản lý đối với người không quốc tịch ở Việt Nam, HAYLuận văn: Quản lý đối với người không quốc tịch ở Việt Nam, HAY
Luận văn: Quản lý đối với người không quốc tịch ở Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Giải quyết vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài, HAY
Luận văn: Giải quyết vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài, HAYLuận văn: Giải quyết vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài, HAY
Luận văn: Giải quyết vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài, HAY
 
Luận văn: Thế chấp và xử lý tài sản thế chấp theo luật dân sự, HOT
Luận văn: Thế chấp và xử lý tài sản thế chấp theo luật dân sự, HOTLuận văn: Thế chấp và xử lý tài sản thế chấp theo luật dân sự, HOT
Luận văn: Thế chấp và xử lý tài sản thế chấp theo luật dân sự, HOT
 
BÁO CÁO KIẾN TẬP KTĐN KINH TẾ LUẬT
BÁO CÁO KIẾN TẬP KTĐN KINH TẾ LUẬTBÁO CÁO KIẾN TẬP KTĐN KINH TẾ LUẬT
BÁO CÁO KIẾN TẬP KTĐN KINH TẾ LUẬT
 
Luận văn: Pháp luật về Quản trị công ty đại chúng ở Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về Quản trị công ty đại chúng ở Việt Nam, HAYLuận văn: Pháp luật về Quản trị công ty đại chúng ở Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về Quản trị công ty đại chúng ở Việt Nam, HAY
 
Đề tài: Pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh của một số nước - Gửi miễn ph...
Đề tài: Pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh của một số nước - Gửi miễn ph...Đề tài: Pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh của một số nước - Gửi miễn ph...
Đề tài: Pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh của một số nước - Gửi miễn ph...
 

Similar to Đề tài: Pháp luật về hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng

Similar to Đề tài: Pháp luật về hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng (20)

Huy động vốn bằng hình thức nhận tiền gửi của ngân hàng Agribank
Huy động vốn bằng hình thức nhận tiền gửi của ngân hàng AgribankHuy động vốn bằng hình thức nhận tiền gửi của ngân hàng Agribank
Huy động vốn bằng hình thức nhận tiền gửi của ngân hàng Agribank
 
Đề tài: Hành vi cạnh tranh không lành mạnh của các ngân hàng, HAY
Đề tài: Hành vi cạnh tranh không lành mạnh của các ngân hàng, HAYĐề tài: Hành vi cạnh tranh không lành mạnh của các ngân hàng, HAY
Đề tài: Hành vi cạnh tranh không lành mạnh của các ngân hàng, HAY
 
37. DO THI BICH TUYEN .doc
37. DO THI BICH TUYEN .doc37. DO THI BICH TUYEN .doc
37. DO THI BICH TUYEN .doc
 
Đề tài: Hợp đồng mua bán nợ của các Ngân hàng Thương mại, HOT
Đề tài: Hợp đồng mua bán nợ của các Ngân hàng Thương mại, HOTĐề tài: Hợp đồng mua bán nợ của các Ngân hàng Thương mại, HOT
Đề tài: Hợp đồng mua bán nợ của các Ngân hàng Thương mại, HOT
 
BÀI MẪU LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH LUẬT NGÂN HÀNG, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH LUẬT NGÂN HÀNG, 9 ĐIỂMBÀI MẪU LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH LUẬT NGÂN HÀNG, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH LUẬT NGÂN HÀNG, 9 ĐIỂM
 
Luận văn: Pháp luật về cho vay và đảm bảo an toàn khi cho vay
Luận văn: Pháp luật về cho vay và đảm bảo an toàn khi cho vayLuận văn: Pháp luật về cho vay và đảm bảo an toàn khi cho vay
Luận văn: Pháp luật về cho vay và đảm bảo an toàn khi cho vay
 
Pháp luật về bảo lãnh của ngân hàng từ thực tiễn ngân hàng thương mại cổ phần...
Pháp luật về bảo lãnh của ngân hàng từ thực tiễn ngân hàng thương mại cổ phần...Pháp luật về bảo lãnh của ngân hàng từ thực tiễn ngân hàng thương mại cổ phần...
Pháp luật về bảo lãnh của ngân hàng từ thực tiễn ngân hàng thương mại cổ phần...
 
Đề tài: Cầm cố tài sản trong hoạt động của tổ chức tín dụng, HOT
Đề tài: Cầm cố tài sản trong hoạt động của tổ chức tín dụng, HOTĐề tài: Cầm cố tài sản trong hoạt động của tổ chức tín dụng, HOT
Đề tài: Cầm cố tài sản trong hoạt động của tổ chức tín dụng, HOT
 
Luận văn: Quy định về giới hạn đầu tư vốn của Ngân hàng, HOT
Luận văn: Quy định về giới hạn đầu tư vốn của Ngân hàng, HOTLuận văn: Quy định về giới hạn đầu tư vốn của Ngân hàng, HOT
Luận văn: Quy định về giới hạn đầu tư vốn của Ngân hàng, HOT
 
Luận văn: Pháp luật về giới hạn đầu tư vốn của Ngân hàng thương mại
Luận văn: Pháp luật về giới hạn đầu tư vốn của Ngân hàng thương mạiLuận văn: Pháp luật về giới hạn đầu tư vốn của Ngân hàng thương mại
Luận văn: Pháp luật về giới hạn đầu tư vốn của Ngân hàng thương mại
 
Pháp Luật Về Cho Vay Và Đảm Bảo An Toàn Khi Cho Vay.doc
Pháp Luật Về Cho Vay Và Đảm Bảo An Toàn Khi Cho Vay.docPháp Luật Về Cho Vay Và Đảm Bảo An Toàn Khi Cho Vay.doc
Pháp Luật Về Cho Vay Và Đảm Bảo An Toàn Khi Cho Vay.doc
 
PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG, THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI CÔNG TY TÀI CHÍNH CỔ P...
PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG, THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI CÔNG TY TÀI CHÍNH CỔ P...PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG, THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI CÔNG TY TÀI CHÍNH CỔ P...
PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG, THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI CÔNG TY TÀI CHÍNH CỔ P...
 
Pháp luật điều chỉnh hoạt động cấp tín dụng tại Sacombank, HOT
Pháp luật điều chỉnh hoạt động cấp tín dụng tại Sacombank, HOTPháp luật điều chỉnh hoạt động cấp tín dụng tại Sacombank, HOT
Pháp luật điều chỉnh hoạt động cấp tín dụng tại Sacombank, HOT
 
Nâng cao chất lượng dịch vụ tại ngân hàng Maritime (TẢI FREE ZALO: 0934 573 149)
Nâng cao chất lượng dịch vụ tại ngân hàng Maritime (TẢI FREE ZALO: 0934 573 149)Nâng cao chất lượng dịch vụ tại ngân hàng Maritime (TẢI FREE ZALO: 0934 573 149)
Nâng cao chất lượng dịch vụ tại ngân hàng Maritime (TẢI FREE ZALO: 0934 573 149)
 
Pháp luật về hạn cấp tín dụng đảm bảo an toàn ngân hàng Vietcombank
Pháp luật về hạn cấp tín dụng đảm bảo an toàn ngân hàng VietcombankPháp luật về hạn cấp tín dụng đảm bảo an toàn ngân hàng Vietcombank
Pháp luật về hạn cấp tín dụng đảm bảo an toàn ngân hàng Vietcombank
 
Đề tài: Pháp luật về chi nhánh ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam
Đề tài: Pháp luật về chi nhánh ngân hàng nước ngoài ở Việt NamĐề tài: Pháp luật về chi nhánh ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam
Đề tài: Pháp luật về chi nhánh ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam
 
Pháp luật về hoạt động tín dụng, thực tiễn áp dụng tại công ty tài chính Tín ...
Pháp luật về hoạt động tín dụng, thực tiễn áp dụng tại công ty tài chính Tín ...Pháp luật về hoạt động tín dụng, thực tiễn áp dụng tại công ty tài chính Tín ...
Pháp luật về hoạt động tín dụng, thực tiễn áp dụng tại công ty tài chính Tín ...
 
Đề tài: Pháp luật về mua lại và sáp nhập, hợp nhất ngân hàng, HAY
Đề tài: Pháp luật về mua lại và sáp nhập, hợp nhất ngân hàng, HAYĐề tài: Pháp luật về mua lại và sáp nhập, hợp nhất ngân hàng, HAY
Đề tài: Pháp luật về mua lại và sáp nhập, hợp nhất ngân hàng, HAY
 
Luận văn: Pháp luật về huy động vốn dưới hình thức nhận tiền gửi
Luận văn: Pháp luật về huy động vốn dưới hình thức nhận tiền gửiLuận văn: Pháp luật về huy động vốn dưới hình thức nhận tiền gửi
Luận văn: Pháp luật về huy động vốn dưới hình thức nhận tiền gửi
 
Luận văn: Pháp luật về kinh doanh dịch vụ đòi nợ ở Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về kinh doanh dịch vụ đòi nợ ở Việt Nam, HAYLuận văn: Pháp luật về kinh doanh dịch vụ đòi nợ ở Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về kinh doanh dịch vụ đòi nợ ở Việt Nam, HAY
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620 (20)

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 ĐiểmDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý TưởngDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 

Recently uploaded

Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1
Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1
Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1
mskellyworkmail
 
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
ltbdieu
 

Recently uploaded (20)

Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1
Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1
Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1
 
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 11 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 11 - CÁN...ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 11 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 11 - CÁN...
 
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiTrắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
 
Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại Trung tâm nghiên cứu gia cầm Thụy Phương
Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại Trung tâm nghiên cứu gia cầm Thụy PhươngLuận văn 2024 Tạo động lực lao động tại Trung tâm nghiên cứu gia cầm Thụy Phương
Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại Trung tâm nghiên cứu gia cầm Thụy Phương
 
22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...
22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...
22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...
 
Hoàn thiện hoạt động kiểm soát rủi ro tín dụng trong cho vay doanh nghiệp tại...
Hoàn thiện hoạt động kiểm soát rủi ro tín dụng trong cho vay doanh nghiệp tại...Hoàn thiện hoạt động kiểm soát rủi ro tín dụng trong cho vay doanh nghiệp tại...
Hoàn thiện hoạt động kiểm soát rủi ro tín dụng trong cho vay doanh nghiệp tại...
 
TIỂU LUẬN MÔN PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
TIỂU LUẬN MÔN PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌCTIỂU LUẬN MÔN PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
TIỂU LUẬN MÔN PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
 
XÂY DỰNG KẾ HOẠCH KINH DOANH CHO CÔNG TY KHÁCH SẠN SÀI GÒN CENTER ĐẾN NĂM 2025
XÂY DỰNG KẾ HOẠCH KINH DOANH CHO CÔNG TY KHÁCH SẠN SÀI GÒN CENTER ĐẾN NĂM 2025XÂY DỰNG KẾ HOẠCH KINH DOANH CHO CÔNG TY KHÁCH SẠN SÀI GÒN CENTER ĐẾN NĂM 2025
XÂY DỰNG KẾ HOẠCH KINH DOANH CHO CÔNG TY KHÁCH SẠN SÀI GÒN CENTER ĐẾN NĂM 2025
 
NHẬN XÉT LUẬN VĂN THẠC SĨ: Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của n...
NHẬN XÉT LUẬN VĂN THẠC SĨ: Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của n...NHẬN XÉT LUẬN VĂN THẠC SĨ: Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của n...
NHẬN XÉT LUẬN VĂN THẠC SĨ: Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của n...
 
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN...
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN...CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN...
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN...
 
GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ MỘT SỐ BÀI HÁT DÂN CA CÁC DÂN TỘC BẢN ĐỊA CHO HỌC...
GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ MỘT SỐ BÀI HÁT DÂN CA CÁC DÂN TỘC BẢN ĐỊA CHO HỌC...GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ MỘT SỐ BÀI HÁT DÂN CA CÁC DÂN TỘC BẢN ĐỊA CHO HỌC...
GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ MỘT SỐ BÀI HÁT DÂN CA CÁC DÂN TỘC BẢN ĐỊA CHO HỌC...
 
Luận văn 2024 Tuyển dụng nhân lực tại Công ty cổ phần in Hồng Hà
Luận văn 2024 Tuyển dụng nhân lực tại Công ty cổ phần in Hồng HàLuận văn 2024 Tuyển dụng nhân lực tại Công ty cổ phần in Hồng Hà
Luận văn 2024 Tuyển dụng nhân lực tại Công ty cổ phần in Hồng Hà
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY CA TRÙ (CỔ ĐẠM – NGHI XUÂN, HÀ ...
MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY CA TRÙ (CỔ ĐẠM – NGHI XUÂN, HÀ ...MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY CA TRÙ (CỔ ĐẠM – NGHI XUÂN, HÀ ...
MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY CA TRÙ (CỔ ĐẠM – NGHI XUÂN, HÀ ...
 
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT HÓA HỌC 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT HÓA HỌC 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT HÓA HỌC 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT HÓA HỌC 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
 
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
 
Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...
Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...
Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...
 
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng TạoĐề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
 
Luận Văn: HOÀNG TỬ BÉ TỪ GÓC NHÌN CẢI BIÊN HỌC
Luận Văn: HOÀNG TỬ BÉ TỪ GÓC NHÌN CẢI BIÊN HỌCLuận Văn: HOÀNG TỬ BÉ TỪ GÓC NHÌN CẢI BIÊN HỌC
Luận Văn: HOÀNG TỬ BÉ TỪ GÓC NHÌN CẢI BIÊN HỌC
 

Đề tài: Pháp luật về hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ---------- TẠ HỒNG HẠNH PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG CHIẾT KHẤU HỐI PHIẾU CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật kinh tế Mã số : 60.38.01.07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Lê Thị Thu Thủy HÀ NộI - 2014
  • 2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƢỜI CAM ĐOAN Tạ Hồng Hạnh
  • 3. MỤC LỤC LờI CAM ĐOAN DANH MụC CÁC CHữ VIếT TắT MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HỐI PHIẾU VÀ CHIẾT KHẤU HỐI PHIẾU CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI ........................ 6 1.1. Sự ra đời và phát triển của hối phiếu và pháp luật về hối phiếu............. 6 1.1.1 Sự ra đời và phát triển của hối phiếu ................................................ 6 1.1.2 Sự ra đời và phát triển của pháp luật về Hối phiếu ......................... 7 1.2. Khái niệm, đặc điểm, phân loại và vai trò của hối phiếu và chiết khấu hối phiếu của ngân hàng thương mại...........................................................10 1.2.1. Khái niệm hối phiếu........................................................................10 1.2.2. Các đặc điểm cơ bản của hối phiếu: ..............................................14 1.2.3. Phân loại hối phiếu.........................................................................15 1.2.4. Vai trò của Hối phiếu......................................................................18 1.2.5. Khái niệm chiết khấu hối phiếu của ngân hàng thương mại.........23 1.2.6. Các đặc trưng cơ bản của hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng thương mại.......................................................................................24 1.2.7. Vai trò của hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng thương mại......27 1.3. Nguyên tắc và phương thức chiết khấu hối phiếu của ngân hàng thương mại....29 1.3.1 Nguyên tắc chiết khấu hối phiếu của ngân hàng thương mại .........29 1.3.2 Các phương thức chiết khấu hối phiếu của ngân hàng thương mại 30 1.3.2.1 Phương thức mua có bảo lưu quyền truy đòi. ...........................32 1.3.2.2 Phương thức chiết khấu hối phiếu có kỳ hạn ............................32 1.4. Phân biệt hoạt động chiết khấu hối phiếu và cầm cố hối phiếu của ngân hàng thương mại...........................................................................................34 1.5. Phân biệt giữa hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng thương mại và hoạt động chiết khấu hối phiếu của Ngân hàng nhà nước Việt Nam ....................37 Kết luận Chƣơng 1........................................................................................44
  • 4. Chƣơng 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG CHIẾT KHẤU HỐI PHIẾU CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI VIỆT NAM.... 45 2.1 Trình tự, thủ tục thực hiện hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng thương mại. .........................................................................................45 2.2 Chủ thể tham gia hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng thương mại.....50 2.2.1 Bên nhận chiết khấu: .......................................................................51 2.2.2 Bên được chiết khấu: .......................................................................52 2.2.3 Quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia hoạt động chiết khấu hối phiếu....53 1.2.3.1 Quyền và nghĩa vụ của bên nhận chiết khấu:............................53 2.2.3.2 Quyền và nghĩa vụ của bên được chiết khấu.............................54 2.3 Hợp đồng chiết khấu hối phiếu..............................................................56 2.3.1 Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng chiết khấu hối phiếu............56 2.3.2. Các loại hợp đồng chiết khấu hối phiếu.........................................58 2.3.3 Hình thức và nội dung của hợp đồng chiết khấu hối phiếu............61 2.3.3.1 Hình thức của hợp đồng chiết khấu hối phiếu...........................61 2.3.3.2 Nội dung của hợp đồng chiết khấu hối phiếu............................61 Kết luận Chƣơng 2........................................................................................71 Chƣơng 3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG CHIẾT KHẤU HỐI PHIẾU CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM................................................................72 3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng thương mại tại Việt Nam .....................................................72 3.2. Một số giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng thương mại tại Việt Nam ............................75 Kết luận Chƣơng 3........................................................................................82 KẾT LUẬN....................................................................................................83 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................84
  • 5. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT STT KÍ HIỆU NỘI DUNG TỪ VIẾT TẮT 1 NHNN : Ngân hàng nhà nước 2 BLDS 2005 : Bộ luật dân sự 2005 3 NHTM : Ngân hàng thương mại 4 ĐHQGHN : Đại học Quốc gia Hà Nội
  • 6. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Kinh tế Việt Nam sau gần ba mươi năm đổi mới đã đạt được rất nhiều thành tựu to lớn. Việt nam ngày nay được biết đến như một nền kinh tế đang nổi với tốc độ tăng trưởng cao và ổn định, ngành tài chính - ngân hàng của Việt Nam những năm trở lại đây đã có những bước phát triển rất mạnh mẽ, góp phần làm thay đổi đáng kể diện mạo nền kinh tế đất nước. Nhưng không thể chỉ dừng lại ở đó, các ngân hàng thương mại Việt Nam cần phải nâng cao quy mô và năng lực của mình hơn nữa để có thể bắt kịp với sự phát triển của các ngân hàng trên thế giới. Chính vì vậy, đa dạng hóa và phát triển các hoạt động, dịch vụ ngân hàng là một đòi hỏi cấp thiết của bất cứ ngân hàng nào trong bối cảnh hội nhập và cạnh tranh hiện nay. Một trong các sản phẩm dịch vụ đó là chiết khấu hối phiếu. Hoạt động chiết khấu hối phiếu là một trong những nghiệp vụ cấp tín dụng cổ điển của các ngân hàng thương mại trên thế giới. Nhưng ở nước ta hoạt động chiết khấu hối phiếu tại các ngân hàng thương mại còn diễn ra khá ít, thậm chí có nhiều ngân hàng chưa triển khai nghiệp vụ cấp tín dụng bằng chiết khấu hối phiếu. Việc ghi nhận hoạt động chiết khấu hối phiếu với tư cách là một trong những hình thức cấp tín dụng của ngân hàng thương mại trong Luật các Tổ chức tín dụng năm 1997 đã tạo ra cơ sở pháp lý ban đầu cho việc xác lập và thực hiện giao dịch này trên thực tế, đảm bảo quyền lợi cho các chủ thể khi tham gia giao dịch. Để điều chỉnh một cách chi tiết và hiệu quả hơn hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng thương mại đối với khách hàng, các nhà làm luật đã cụ thể hóa hoạt động này không những trong các văn bản luật mà còn thể hiện cả ở văn bản dưới luật. Đặc biệt với việc Ngân hàng Nhà nước ban hành Quyết định số 63/2006/QĐ-NHNN quy
  • 7. 2 định về việc chiết khấu, tái chiết khấu công cụ chuyển nhượng của tổ chức tín dụng đối với khách hàng đã tạo một hành lang pháp lý cụ thể và rõ ràng hơn cho nghiệp vụ chiết khấu hối phiếu của các Ngân hàng thương mại. Bên cạnh đó, gần đây Thông tư số 04/2013/TT-NHNN ngày 01/3/2013 Quy định về hoạt động chiết khấu công cụ chuyển nhượng, giấy tờ có giá khác của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng đã thay thế Quyết định số 63 nêu trên. Có thể nói, đây là văn bản có nhiều điểm tiến bộ hơn Quyết định số 63, tuy nhiên, bên cạnh những điểm tích cực còn các điểm hạn chế nhất định cần khắc phục và hoàn thiện. Hiện nay thị trường hối phiếu cũng như hoạt động chiết khấu Hối phiếu diễn ra chưa phổ biến. Chế tài đối với hành vi vi phạm trong lĩnh vực sử dụng Hối phiếu và chiết khấu Hối phiếu chưa được qui định cụ thể. Hối phiếu chưa phát huy được vai trò là một loại công cụ chuyển nhượng trên thị trường, là cầu nối trong tín dụng thương mại. Mặt khác trong thực tiễn có rất nhiều học giả nghiên cứu hoạt động này dưới góc độ kinh tế học, chỉ đơn thuần tìm hiểu nó với tư cách là một nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng với những đặc thù mang tính chất kỹ thuật kinh tế, nhưng lại có rất ít các tài liệu nghiên cứu về bản chất pháp lý cũng như tính ưu việt của hoạt động này khiến cho các ngân hàng thương mại rất ít lựa chọn hình thức này để cấp tín dụng cho khách hàng. Do vậy việc nghiên cứu để làm rõ thực trạng pháp luật, những điểm bất cập và hạn chế, trên cơ sở đó nêu ra các giải pháp hoàn thiện và vận dụng một cách có hiệu quả những quy định của pháp luật về chiết khấu hối phiếu là rất cần thiết, nhằm tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại phát triển được hoạt động chiết khấu, trên cơ sở đó thúc đẩy hoạt động thương mại của doanh nghiệp Trên đây là lý do tôi chọn đề tài “Pháp luật về hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng thương mại tại Việt Nam” làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình.
  • 8. 3 2. Tình hình nghiên cứu đề tài: Cho đến thời điểm hiện nay đã có một số công trình nghiên cứu về hối phiếu như bài báo của TS. Lê Hoàng Nga “Thương phiếu ở Việt nam, đôi điều cần trao đổi - Tạp chí Thị trường Tài chính tiền tệ 7/2002"; Đỗ Thị Hồng Hạnh “Một số bất cập của các quy định pháp luật về thương phiếu hiện nay - Tạp chí Ngân hàng, số 5/2002”; Lê Văn Hải “Tín dụng thương mại góp phần thoả mãn nhu cầu vốn của nền kinh tế - Tạp chí Thị trường tài chính - tiền tệ số 4/1999”; Nguyễn Hải Hà “Thương phiếu với vấn đề lạnh mạnh hoá hoạt động tiền tệ - Tạp chí Thị trường tài chính 7/1999”; TS.Đinh Dũng Sỹ “Khái niệm thương phiếu và Pháp lệnh thương phiếu – Tạp chí Nhà nước và pháp luật, 7/2000”.....Ngoài ra, giáo trình Luật Ngân hàng Việt nam, Khoa Luật - ĐHQGHN, Nhà xuất bản ĐHQGHN, Hà nội 2005 cũng đã có những phân tích cụ thể về hoạt động tín dụng của tổ chức tín dụng nói chung và hoạt động chiết khấu Hối phiếu và giấy tờ có giá nói riêng; Bên cạnh đó, cuốn sách của GS. Đinh Xuân Trình, Giáo trình thanh toán quốc tế trong ngoại thương, NXB. Giáo dục năm 2002; cuốn sách của tác giả Phạm Minh, Luật thương phiếu, Nhà xuất bản thống kê, 2002 cũng thể hiện nghiên cứu sâu về Hối phiếu. Tuy nhiên, phần lớn hoạt động chiết khấu Hối phiếu của ngân hàng thương mại chưa được phân tích rõ trong bất kỳ một công trình nghiên cứu nào. Các tác giả mới chỉ dừng lại ở những vấn đề lý luận chung về Hối phiếu và chiết khấu Hối phiếu, chưa nêu bật được thực trạng pháp luật về vấn đề này ở Việt Nam, những bất cập và các giải pháp hoàn thiện. Đặc biệt, chưa có công trình nào nghiên cứu về hoạt động chiết khấu hối phiếu từ khi ban hành Thông tư 04/2013/TT – NHNN. Vì vậy, một công trình nghiên cứu toàn diện các vấn đề về pháp luật chiết khấu Hối phiếu của ngân hàng thương mại tại Việt Nam hiện nay là cần thiết, nhằm tạo cơ sở cho việc phát triển hoạt động thương mại trong nền kinh tế và tạo sự luân chuyển vốn nhịp nhàng giữa những người thừa và thiếu vốn.
  • 9. 4 3. Mục đích, đối tƣợng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu - Trong khuôn khổ của luận văn, mục đích nghiên cứu của đề tài được xác định như sau: Thứ nhất làm rõ một số vấn đề lý luận cơ bản về Hối phiếu và chiết khấu Hối phiếu của ngân hàng thương mại. Thứ hai nghiên cứu, đánh giá thực trạng các quy định pháp luật hiện hành về hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng thương mại Việt Nam, so sánh hoạt động chiết khấu hối phiếu với hoạt động cầm cố hối phiếu của Ngân hàng thương mại, so sánh giữa hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng thương mại đối với khách hàng và chiết khấu, tái chiết khấu hối phiếu của ngân hàng Nhà nước đối với các ngân hàng để từ đó hiểu hơn về bản chất của hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng thương mại. Thứ ba phát hiện những điểm bất cập của pháp luật về chiết khấu Hối phiếu để từ đó nêu ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về hoạt động chiết khấu Hối phiếu của ngân hàng thương mại tại Việt Nam hiện nay. - Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu là các qui định pháp luật về chiết khấu Hối phiếu tại Ngân hàng thương mại Việt Nam Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung làm rõ các vấn đề như lịch sử hình thành, phát triển của Hối phiếu và pháp luật về Hối phiếu, pháp luật về hoạt động chiết khấu Hối phiếu, vai trò của hoạt động chiết khấu hối phiếu đối với ngân hàng và khách hàng; Đánh giá những bất cập trong thực trạng pháp luật về hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng thương mại tại Việt Nam để từ đó nêu lên một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng thương mại Việt Nam.
  • 10. 5 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Trên cơ sở của phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đề tài sử dụng các phương pháp chủ yếu sau để làm rõ các nội dung trong đề tài: phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh. Các phương pháp này được sử dụng xuyên suốt luận văn gắn với từng nội dung nghiên cứu của đề tài. 5. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được bố cục thành ba chương cụ thể như sau: Chương 1: Những vấn đề cơ bản về hối phiếu và chiết khấu hối phiếu của ngân hàng thương mại Chương 2: Thực trạng pháp luật về hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng thương mại tại Việt Nam. Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng thương mại tại Việt Nam.
  • 11. 6 Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HỐI PHIẾU VÀ CHIẾT KHẤU HỐI PHIẾU CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI 1.1. Sự ra đời và phát triển của hối phiếu và pháp luật về hối phiếu 1.1.1 Sự ra đời và phát triển của hối phiếu Hối phiếu (bao gồm hối phiếu đòi nợ và hối phiếu nhận nợ). Trước đây Hối phiếu được gọi là thương phiếu. Hối phiếu ra đời khi nền kinh tế hàng hóa ngày càng phát triển, việc giao lưu buôn bán cả nội địa và quốc tế của các thương nhân diễn ra ngày càng mạnh mẽ. Nhưng không phải lúc nào người mua cũng có tiền mặt để thanh toán cho người bán vì vậy mà họ phải tìm ra một giải pháp phù hợp đó là mua bán chịu, tức là thỏa thuận người bán giao hàng trước, còn người mua sẽ thanh toán sau khi nhận hàng với một thời hạn nhất định theo sự thỏa thuận của các bên, từ đó tín dụng thương mại được hình thành và tín dụng thương mại được thể hiện qua việc tạo lập và thanh toán bằng hối phiếu. Hối phiếu chính là một phương tiện thanh toán thay cho tiền mặt mà các thương nhân đã sáng tạo ra." Hối phiếu ra đời từ thế kỷ XII khi nền kinh tế hàng hóa đã phát triển phá vỡ kiểu sản xuất tự cung tự cấp đã tồn tại hàng ngàn năm" [30]. Trong nền kinh tế thị trường, tín dụng thương mại nói chung và hối phiếu nói riêng có vai trò rất to lớn. Một mặt, nó được sử dụng như phương tiện thanh toán để thực hiện nghĩa vụ thanh toán trong quan hệ mua bán chịu, trả chậm. Mặt khác, thông qua việc phát hành và lưu thông hối phiếu, hối phiếu được sử dụng như một công cụ tín dụng giữa người ký phát và người bị ký phát, giữa người ký phát và người thụ hưởng, giữa người thụ hưởng và ngân hàng chiết khấu. Đồng thời, việc thể hiện quan hệ tín dụng thương mại bằng hối phiếu tạo ra cơ sở quan trọng để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia.
  • 12. 7 "Trong lịch sử, hối phiếu được biết đến từ rất xa xưa, như là bản ghi nhận khoản nợ khi các thương gia mua bán hàng hóa chịu. Các thương gia ở thành phố cảng Italia là những người đầu tiên phát hành, sử dụng thương phiếu ở thế kỷ XII. Các chứng chỉ này được ghi nhận là thương phiếu đầu tiên được phát hành và sử dụng" [30]. Việc sử dụng hối phiếu trở thành phổ biến ở thế kỷ XVI, khi hối phiếu đã được chuyển nhượng. Thông qua hình thức chuyển nhượng, hối phiếu đã được sử dụng như một phương tiện thanh toán trong quan hệ thương mại, mua bán hàng hóa. Ngày nay, hối phiếu được sử dụng rộng rãi như là phương tiện thanh toán trong quan hệ thương mại quốc tế và trong quan hệ thương mại nội địa của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Ngoài ra hối phiếu còn được sử dụng rộng rãi trong các giao dịch vay nợ quốc tế như là văn bản cam kết nhận nợ và cam kết thanh toán đối với các khoản vay [30]. Cùng với sự phát triển kinh tế, thương mại và công nghệ, hối phiếu ngày càng hoàn thiện hơn về hình thức và nội dung, dần thoát ly khỏi cơ sở kinh tế ban đầu của nó là quan hệ thương mại, nghĩa là, sau khi được ký phát hối phiếu trở thành một loại giấy tờ có giá có hiệu lực độc lập hoàn toàn với giao dịch kinh tế “sản sinh” ra nó. Vì là chứng từ có giá lại chuyển nhượng được, nên hối phiếu không chỉ dừng lại ở quan hệ tín dụng thương mại mà còn được sử dụng trong quan hệ tín dụng ngân hàng, chiết khấu, cầm cố, thế chấp và là phương tiện thanh toán trong các giao dịch khác. Hơn nữa, ngày nay hối phiếu còn trở thành một loại hàng hóa để mua bán trên thị trường tiền tệ, đặc biệt ở một số nước, việc mua bán hối phiếu đã phát triển mạnh thành một thị trường riêng biệt. 1.1.2 Sự ra đời và phát triển của pháp luật về Hối phiếu Để Hối phiếu trở thành phương tiện thanh toán và nâng cao hiệu quả sử dụng của hối phiếu, ngoài việc phải chứng chỉ hóa hối phiếu thì pháp luật về
  • 13. 8 hối phiếu và các hoạt động thương mại liên quan đến hối phiếu cần phải được ban hành đầy đủ và hoàn thiện hơn. Thực tế thì hầu hết các quốc gia trên thế giới đã ban hành luật về hối phiếu. Tuy nhiên, ngày nay thương mại quốc tế đã phát triển rất nhiều, từ đó làm phát sinh nhu cầu sử dụng hối phiếu làm phương tiện thanh toán quốc tế gia tăng, do đó nếu không có sự quy định thống nhất pháp luật về hối phiếu trong khi Người ký phát và Người bị ký phát lại ở hai quốc gia khác nhau thì việc sử dụng và thanh toán hối phiếu sẽ rất khó khăn. Vì vậy, yêu cầu đặt ra là phải xây dựng một Luật quốc tế thống nhất về hối phiếu. Hội nghị về Luật hối phiếu được tổ chức tại Den Haag năm 1912 đã ra kiến nghị về việc cần ký kết một hiệp định giữa các nước, trong đó, các nước thành viên cam kết sẽ soạn thảo và thi hành pháp lệnh hối phiếu ở nước mình. Tại thời điểm đó, Mỹ và Khối liên hiệp Anh đã tự tách khỏi cam kết thống nhất này. Tuy nhiên do xảy ra thế chiến lần thứ nhất nên các nước dự hội nghị không thể đi tới việc ký hiệp định về Luật hối phiếu. Tới năm 1930, hội nghị về Luật hối phiếu được tổ chức tại Geneve, các nước thành viên đã phê chuẩn Công ước về Luật hối phiếu, gọi là Công ước Geneve 1930 về Luật hối phiếu thống nhất (Uniform Law for Bills of Exchange – Geneve Convention 1930, ULB 1930). Ngày nay, Luật hối phiếu thống nhất ULB 1930 có hiệu lực tại tất cả các nước (ngoại trừ Anh). Nhiều nước khác mặc dù không tham gia công ước Geneve, nhưng vẫn xây dựng Luật hối phiếu của họ tương thích với ULB 1930, chính điều đó càng làm cho tính hiệu lực quốc tế của ULB ngày càng được thừa nhận trong cuộc sống. Ở Việt Nam, thời kỳ phong kiến, nền kinh tế Việt Nam "là nền kinh tế tự cung, tự cấp, bế quan tỏa cảng" [30], các quy định pháp luật về kinh doanh thương mại còn chưa được chú trọng ban hành, do đó hối phiếu chưa ra đời ở Việt Nam trong thời kỳ này.
  • 14. 9 Đến thời kỳ pháp thuộc, do thương mại phát triển cho nên luật về thương mại mới được ban hành. Năm 1864, Luật thương mại của Pháp được áp dụng ở Nam kỳ và đến năm 1888 thì được áp dụng ở Bắc kỳ. Ở Trung bộ, triều đình Nguyễn ban hành Bộ Luật thương mại Việt Nam Trung phần năm 1942. Trong thời kỳ này, sau khi phê chuẩn công ước Geneva vào cuối năm 1935, tháng 12 năm 1937 Toàn quyền Pháp ở Đông Dương đã ban hành Nghị định chính thức áp dụng Luật thương phiếu của Pháp trên toàn lãnh thổ Đông Dương. Từ 1945 đến 1954, Việt Nam tiến hành cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp, đất nước lúc này chia thành hai khu vực, khu vực do thực dân Pháp tạm thời chiếm đóng và Khu vực kháng chiến. Trong khu vực do thực dân Pháp chiếm đóng thì thương phiếu nói chung và hối phiếu nói riêng vẫn được sử dụng trong cả nội thương và ngoại thương. Còn trong khu vực kháng chiến thì không sử dụng thương phiếu bởi vì lúc đó kinh tế chủ yếu để phục cho kháng chiến, không còn cơ sở cho thương phiếu hình thành và phát triển. Từ năm 1954 đến 1972, khi đất nước bị chia cắt thành hai miền, Miền Bắc tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam chịu ảnh hưởng của kinh tế tư bản chủ nghĩa do sự chiếm đóng của đế quốc Mỹ. Lúc này, miền Nam Việt Nam sử dụng thương phiếu theo Luật thương mại của Pháp. Năm 1972, Chính phủ Miền Nam Việt Nam đã ban hành Luật thương mại, trong đó đã dành riêng một chương quy định về Hối phiếu, Kỳ phiếu và Chi phiếu (Séc). Sau khi đất nước thống nhất năm 1975, Luật thương mại Sài Gòn 1972 không còn được sử dụng nữa. Từ năm 1954 đến 1999, thương phiếu chỉ được sử dụng trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại. Các doanh nghiệp Việt Nam khi phát hành Hối phiếu đòi nợ đều áp dụng Luật thống nhất về hối phiếu (ULB 1930). Ngày 24/12/1999, Pháp lệnh thương phiếu của Việt Nam ra đời, đánh dấu một bước phát triển mới của lưu thông thương phiếu tại Việt Nam. Tuy
  • 15. 10 nhiên, sau khi được ban hành, pháp luật Thương phiếu đã bộc lộ nhiều hạn chế, khiến cho pháp lệnh này khó được áp dụng trong thực tiễn. Trước yêu cầu của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, một yêu cầu đặt ra là phải sửa đổi các quy định trong pháp lệnh thương phiếu 1999 để nó phù hợp hơn với các hoạt động thương mại trên thực tế. Vì vậy Luật các công cụ chuyển nhượng đã được Quốc hội thông qua ngày 29/11/2005 đã đánh dấu một bước phát triển mới đối với pháp luật về hối phiếu của Việt Nam. Ngoài ra, Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 hiện cũng là cơ sở pháp lý quan trọng, cho phép các tổ chức tín dụng thực hiện hoạt động tín dụng dưới hình thức chiết khấu các giấy tờ có giá, trong đó có Hối phiếu. Bên cạnh đó, để cụ thể hóa hoạt động chiết khấu Hối phiếu, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Quyết định số 63/2006/QĐ – NHNN quy định về việc chiết khấu, tái chiết khấu công cụ chuyển nhượng của Tổ chức tín dụng đối với khách hàng. Quyết định này đã được thay thế bởi Thông tư số 04/2013/TT-NHNN ngày 01/3/2013 Quy định về hoạt động chiết khấu công cụ chuyển nhượng, giấy tờ có giá khác của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng. Có thể nói, các văn bản trên tạo hành lang pháp lý quan trọng để phát triển thị trường Hối phiếu nói chung và hoạt động chiết khấu của ngân hàng thương mại nói riêng. 1.2. Khái niệm, đặc điểm, phân loại và vai trò của hối phiếu và chiết khấu hối phiếu của ngân hàng thƣơng mại 1.2.1. Khái niệm hối phiếu Cho đến hiện nay vẫn còn có những quan điểm, cách hiểu khác nhau về nội hàm của khái niệm hối phiếu: Theo cách hiểu thông thường: Hối phiếu là giấy nợ được lập ra trong một quan hệ thương mại giữa các thương nhân với nhau hoặc giữa các thương nhân với những người không phải thương nhân
  • 16. 11 Theo điều 3 Luật Hối phiếu Anh 1882: Hối phiếu là một lệnh không điều kiện bằng văn bản do một người ký phát cho một người khác yêu cầu người này thanh toán ngay lập tức hoặc tại một thời điểm ấn định hoặc có thể xác định được trong tương lai một khoản tiền nhất định cho một người xác định hoặc theo lệnh của người này hoặc cho người cầm hối phiếu. Luật hối phiếu của Đức năm 1933 không định nghĩa thế nào là hối phiếu nhưng lại có những quy định rất rõ ràng về các yếu tố cấu thành nên hối phiếu. Cụ thể, tại điều 1 Luật hối phiếu Đức ban hành ngày 21.6.1933 quy định: Một hối phiếu đòi nợ gồm có: - Chữ “Hối phiếu” trong nội dung của chứng chỉ và bằng ngôn ngữ được sử dụng khi phát hành chứng chỉ; - Chỉ thị thanh toán vô điều kiện một khoản tiền nhất định; - Họ và tên người phải thanh toán (người bị ký phát); - Hạn định thanh toán hối phiếu; - Địa điểm thanh toán hối phiếu - Họ và tên người được thanh toán hoặc theo lệnh của người này; - Ngày, tháng và địa điểm ký phát; - Chữ ký của người ký phát hối phiếu [3]. Tương tự như vậy Điều 75 Luật hối phiếu Đức 1933 quy định về các cấu thành hối phiếu tự nhận nợ như sau: - Chữ “Hối phiếu” trong nội dung chứng chỉ và bằng ngôn ngữ được sử dụng khi phát hành chứng chỉ; - Cam kết thanh toán vô điều kiện một khoản tiền nhất định; - Hạn định thanh toán hối phiếu; - Địa điểm thanh toán hối phiếu; - Họ và tên người được hưởng thanh toán hoặc theo lệnh của người này; - Ngày, tháng và địa điểm ký phát;
  • 17. 12 - Chữ ký của người ký phát [3]. Luật hối phiếu của Singapore năm 1965 định nghĩa về hối phiếu đòi nợ và hối phiếu nhận nợ như sau: - Hối phiếu đòi nợ là một lệnh yêu cầu thanh toán không điều kiện bằng văn bản do một người ký phát cho một người khác yêu cầu người này thanh toán ngay lập tức hoặc tại một thời điểm ấn định hoặc có thể xác định trong tương lai một số tiền nhất định cho hoặc theo lệnh của một người xác định hoặc trả cho người cầm hối phiếu [20]. - Một công cụ không phù hợp với các điều kiện trên hoặc một công cụ ra lệnh thực hiện thêm bất kỳ một hành động nào ngoài việc thanh toán tiền không phải là hối phiếu đòi nợ. - Hối phiếu nhận nợ là một cam kết không điều kiện được lập thành văn bản do người lập ký cho một người khác, cam kết sẽ thanh toán ngay khi có yêu cầu hoặc tại một thời điểm ấn định hoặc có thể xác định được trong tương lai một số tiền nhất định cho hoặc theo lệnh của một người cụ thể hoặc cho người cầm hối phiếu. Theo nghĩa của điều này, một công cụ có hình thức giống hối phiếu nhận nợ trả theo lệnh của người ký phát không được coi là hối phiếu nhận nợ, trừ khi được ký hậu bởi người lập hối phiếu. Theo từ điển tiếng việt của Viện ngôn ngữ năm 1995 thì: “Hối phiếu là phiếu qua đó một người (chủ nợ) yêu cầu một người khác (con nợ) trả một món tiền theo kỳ hạn nhất định cho một người thứ ba ” Theo Bộ Luật Thương mại Sài Gòn năm 1972 thì: “Thương phiếu (bao gồm hối phiếu, lệnh phiếu và chi phiếu) là một thứ phiếu có thể chuyển dịch được, dùng để xác nhận cho người cầm phiếu một trái quyền ngắn hạn” Theo Luật thương mại Việt Nam năm 1997 thì: “Thương phiếu (gồm hối phiếu và lệnh phiếu) được hiểu là chứng từ ghi nhận sự thanh toán vô điều kiện một số tiền xác định trong một thời gian nhất định”.
  • 18. 13 Theo Pháp lệnh thương phiếu năm 1999 thì: Thương phiếu là chứng chỉ có giá ghi nhận lệnh yêu cầu thanh toán hoặc cam kết thanh toán không điều kiện một số tiền xác định trong một thời gian nhất định. Thương phiếu bao gồm hối phiếu và lệnh phiếu. Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, tại điều 4 Luật các công cụ chuyển nhượng 2005 thì: Hối phiếu bao gồm hai loại là Hối phiếu đòi nợ và hối phiếu nhận nợ: - Hối phiếu đòi nợ là giấy tờ có giá do người ký phát lập, yêu cầu người bị ký phát thanh toán không điều kiện một số tiền xác định khi có yêu cầu hoặc vào một thời điểm nhất định trong tương lai cho người thụ hưởng. - Hối phiếu nhận nợ là giấy tờ có giá do người phát hành lập, cam kết thanh toán không điều kiện một số tiền xác định khi có yêu cầu hoặc vào một thời điểm nhất định trong tương lai cho người thụ hưởng. Vậy từ định nghĩa về Hối phiếu trong Luật các công cụ chuyển nhượng cũng như trong các văn bản khác cho thấy Hối phiếu bao gồm hai loại: nhận nợ và đòi nợ, thể hiện một số đặc thù sau: - Một là, hối phiếu là một chứng chỉ có giá, phương tiện thanh toán; - Hai là, hối phiếu ghi nhận lệnh yêu cầu thanh toán hoặc cam kết thanh toán không điều kiện một số tiền xác định; - Ba là, thời hạn thanh toán của hối phiếu là khi có yêu cầu hoặc sau một thời hạn có thể xác định trong tương lai. Về bản chất, hối phiếu là một hành vi pháp lý được thực hiện bởi bên có quyền hoặc bên có nghĩa vụ – để ràng buộc nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ đối với việc thanh toán hối phiếu. Tuy nhiên chỉ khi hành vi pháp lý ấy được thực hiện dưới hình thức và nội dung theo luật định thì nó mới ràng buộc nghĩa vụ thanh toán hối phiếu của chủ thể đó. Hành vi pháp lý bao gồm: hành vi ký phát hành, ký chấp nhận, ký bảo lãnh (nếu có) và ký chuyển nhượng hối phiếu của người ký phát hành, người bị ký phát, người bảo lãnh, người chuyển nhượng...
  • 19. 14 1.2.2. Các đặc điểm cơ bản của hối phiếu: Hối phiếu là một loại giấy tờ có giá, có các đặc điểm cơ bản sau đây: Một là: Hối phiếu được nhìn nhận là trái vụ của một bên, do hối phiếu được hiểu là một lệnh trả tiền hoặc cam kết trả tiền vô điều kiện của người phát lệnh (người ký phát, người phát hành) cho người thụ hưởng. Khi đó câu hỏi được đặt ra là: tính chất vô điều kiện của việc trả tiền được thiết lập đối với ai và thiết lập từ khi nào: Đối với người ký phát: Kể từ khi lập hối phiếu Đối với người bị ký phát: Kể từ khi chấp nhận hối phiếu Đối với người bảo lãnh: Kể từ khi ký bảo lãnh Đối với người nhận chuyển nhượng: Kể từ khi hối phiếu được chuyển nhượng hợp lệ. Hai là: Hối phiếu có tính trừu tượng. Xuất phát từ hình thức và nội dung của hối phiếu, ta thấy trên hối phiếu chỉ ghi số tiền phải trả hoặc cam kết trả mà không ghi nguyên nhân. Trong lưu thông, giá trị của hối phiếu không bị ràng buộc vào nguyên nhân phát sinh ra nó. Điều đó có nghĩa là khi một hối phiếu được phát hành và chuyển giao cho người khác thì nó trở thành một chứng thư độc lập và được phép lưu thông mà không phụ thuộc vào việc có tồn tại hay không một giao dịch cơ sở, miễn là trong thời hạn còn hiệu lực. Ba là: Hối phiếu có tính lưu thông (là một công cụ có tính chuyển nhượng) trong thời hạn hối phiếu có hiệu lực, hối phiếu được mua, bán trong giao lưu thương mại giữa các thương nhân hoặc giữa thương nhân với ngân hàng. Bốn là: Hối phiếu là một công cụ thanh toán. Ngoài ra hối phiếu còn là một công cụ tín dụng, nó được sử dụng rộng rãi trong thương mại, đặc biệt là thương mại quốc tế. Các thương nhân sử dụng hối phiếu thay cho tiền mặt vì nhiều mục đích khác, có thể là trong quan hệ mua bán trả chậm có bảo đảm, có thể là nhằm tạo sự thuận lợi cho các bên trong quan hệ kinh doanh mà khi
  • 20. 15 sử dụng tiền mặt để thanh toán sẽ không đạt được, vì hối phiếu có thể đem ra mua bán, trao đổi hay đem chiết khấu tại ngân hàng hay lưu thông trong dân sự. Chính đặc điểm này đã giúp hối phiếu ngày càng được sử dụng rộng rãi. Năm là: Hối phiếu có thời hạn thường là ngắn hạn (đến 1 năm). Việc quy định này trước hết là nhằm đảm bảo quyền lợi cho người thụ hưởng, thời gian càng dài rủi ro càng lớn, bởi vậy quy định một thời hạn thanh toán ngắn tạo nên một tâm lý an tâm cho thương nhân khi sử dụng và cầm giữ hối phiếu. Mặt khác, việc quy định một thời hạn thanh toán ngắn còn thúc đẩy sự lưu thông hối phiếu, qua đó việc sử dụng hối phiếu trở nên thông dụng hơn. Thời hạn thanh toán ngắn giúp cho người ký phát có thể chuyển nhượng hối phiếu với khả năng thanh khoản cao. 1.2.3. Phân loại hối phiếu - Căn cứ vào người tạo lập hối phiếu, hối phiếu có thể được chia thành: "Hối phiếu đòi nợ là một tờ lệnh trả tiền vô điều kiện do một người ký phát cho một người khác, yêu cầu người này khi nhìn thấy hối phiếu hoặc đến một ngày cụ thể nhất định hoặc đến một ngày có thể xác định trong tương lai phải trả một số tiền nhất định cho một người nào đó hoặc theo lệnh của người này trả cho một người khác hoặc trả cho người cầm phiếu" [4]. Hối phiếu đòi nợ được sử dụng làm phương tiện thanh toán trong các trường hợp sau: Hối phiếu đòi nợ do người bán lập yêu cầu ngân hàng phục vụ người mua trả tiền cho người thứ ba. Hối phiếu đòi nợ do người mua lập yêu cầu ngân hàng phục vụ mình trả tiền cho người bán Hối phiếu đòi nợ do người bán lập yêu cầu ngân hàng mở thư tín dụng thanh toán tiền theo thư tín dụng (L/C) Hối phiếu đòi nợ lại có thể chia thành hai loại:
  • 21. 16 Hối phiếu đòi nợ chưa được người bị ký phát chấp nhận: Là loại hối phiếu đòi nợ chưa được người bị ký phát ký chấp nhận sẽ thực hiện yêu cầu thanh toán của người ký phát. Như vậy, nghĩa vụ thanh toán Hối phiếu của người bị ký phát chưa hình thành. Nếu Hối phiếu loại này được chuyển nhượng mà đến hạn lại không được thanh toán, thì người thụ hưởng có quyền truy đòi người ký phát Hối phiếu. Hối phiếu đòi nợ đã được người bị ký phát chấp nhận: Sau khi đã ký chấp nhận trên Hối phiếu, người bị ký phát có nghĩa vụ thanh toán một phần hoặc toàn bộ số tiền ghi trên Hối phiếu đòi nợ khi đến hạn thanh toán. Điều đó có nghĩa là hành vi chấp nhận đã làm phát sinh nghĩa vụ thanh toán Hối phiếu (một phần hoặc toàn bộ) của người bị ký phát. Hối phiếu nhận nợ là cam kết thanh toán một số tiền nhất định trong tương lai cho người thụ hưởng trước khi đến hạn thanh toán. - Căn cứ vào thời hạn thanh toán hối phiếu, hối phiếu có thể được chia thành: Hối phiếu thanh toán ngay sau khi xuất trình là loại Hối phiếu có cam kết hoặc được yêu cầu thanh toán khi xuất trình hoặc trên Hối phiếu không qui định thời hạn thanh toán. Hối phiếu thanh toán sau một thời gian xác định Hối phiếu thanh toán vào một ngày cụ thể nhất định Ví dụ: Thanh toán Hối phiếu này vào ngày 30/5/2013. Hối phiếu thanh toán vào một ngày có thể xác định được trong tương lai Ví dụ: Thanh toán Hối phiếu này sau 30 ngày kể từ ngày ký chấp nhận Hối phiếu. Việc qui định thời hạn thanh toán một cách linh hoạt như vậy nhằm đáp ứng nhu cầu thực tiễn phát sinh trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp.
  • 22. 17 - Căn cứ vào việc thanh toán Hối phiếu có kèm chứng từ thương mại hay không, Hối phiếu có thể được chia thành: Hối phiếu trơn: Là Hối phiếu mà việc thanh toán và chấp nhận thanh toán không dựa vào chứng từ thương mại gửi kèm. Hối phiếu kèm chứng từ: Là Hối phiếu mà việc thanh toán dựa vào chứng từ thương mại gửi kèm với các điều kiện D/P (Trả tiền đổi lấy chứng từ), D/A (Chấp nhận thanh toán đổi lấy chứng từ), D/TC (thực hiện các điều khoản và các điều kiện khác đổi lấy chứng từ). - Căn cứ vào tính chất chuyển nhượng của Hối phiếu, có thể phân chia Hối phiếu thành ba loại: Hối phiếu vô danh: Là Hối phiếu không ghi tên người thụ hưởng hoặc ghi trả cho người cầm phiếu. Đối với loại Hối phiếu này, bất cứ ai cầm được Hối phiếu đều có thể trở thành người thụ hưởng Hối phiếu, việc chuyển nhượng Hối phiếu vô danh được tiến hành bằng phương thức chuyển giao, không phải thông qua thủ tục ký hậu. Hối phiếu ghi danh: Là Hối phiếu ghi trả theo lệnh của một người nào đó. Người có nghĩa vụ trả tiền của Hối phiếu sẽ trả tiền cho người thụ hưởng có tên ghi trên Hối phiếu hoặc theo lệnh của người này trả cho một người khác. Việc chuyển nhượng Hối phiếu ghi danh được thực hiện bằng thủ tục ký hậu. Hối phiếu ký danh: Là Hối phiếu ghi rõ tên của người thụ hưởng không kèm theo từ “theo lệnh”. Loại Hối phiếu này không thể được chuyển nhượng bằng thủ tục ký hậu, tức là không có tính lưu thông [9]. - Căn cứ vào phạm vi sử dụng Hối phiếu, chúng ta có thể chia Hối phiếu thanh hai loại sau đây: Hối phiếu nội địa: Là Hối phiếu ghi rõ đồng thời được phát hành và thanh toán trong phạm vi lãnh thổ của một quốc gia hoặc được phát hành tại một quốc gia để đòi tiền một người khác trong cùng lãnh thổ quốc gia đó.
  • 23. 18 Hối phiếu quốc tế: Là Hối phiếu được phát hành và thanh toán tại hai quốc gia khác nhau hoặc được phát hành để đòi tiền một người khác ở nước ngoài. Hối phiếu quốc tế được sử dụng rộng rãi trong thanh toán quốc tế và tín dụng quốc tế. - Căn cứ vào cơ sở hình thành Hối phiếu có thể chia Hối phiếu thành Hối phiếu thực: Là Hối phiếu được hình thành từ các giao dịch cơ sở như hợp đồng mua bán hàng hóa, hợp đồng cung ứng dịch vụ, hợp đồng vay tài sản của tổ chức cá nhân trong nền kinh tế, hợp đồng tín dụng ngân hàng….Ví dụ: Trong hợp đồng mua bán hàng hóa, người bán sau khi hoàn thành nghĩa vụ giao hàng theo hợp đồng thì ký phát Hối phiếu đòi nợ đòi tiền người mua hoặc sau khi nhận được Hối phiếu nhận nợ từ người mua thì người bán mới tiến hành giao hàng [9]. Hối phiếu khống: Là Hối phiếu không hình thành dựa trên các giao dịch cơ sở. - Căn cứ vào loại tiền tệ ghi trên Hối phiếu có thể phân chia thành: Hối phiếu nội tệ là loại Hối phiếu được ghi trả bằng đồng tiền của quốc gia nơi Hối phiếu được thanh toán. Hối phiếu ngoại tệ là loại Hối phiếu được ghi trả bằng đồng tiền không phải là đồng tiền của quốc gia nơi Hối phiếu được thanh toán. - Căn cứ vào giao dịch cơ sở của Hối phiếu, có thể chia Hối phiếu thành hai loại: Hối phiếu thương mại: Là Hối phiếu được phát hành trên cơ sở giao dịch thương mại như: Hợp đồng mua bán hàng hóa, hợp đồng cung ứng dịch vụ,…. Hối phiếu tài chính: Là Hối phiếu được phát hành trên cơ sở giao dịch tài chính như: hợp đồng vay nợ. 1.2.4. Vai trò của Hối phiếu - Đáp ứng nhu cầu về vốn trong nền kinh tế.
  • 24. 19 Khi bán hàng hóa hoặc cung cấp dịch vụ, người bán chưa thu tiền ngay từ người mua. Người bán lập Hối phiếu yêu cầu người mua thanh toán tiền hàng hoặc dịch vụ cho chính người bán hoặc cho một người khác (thường là chủ nợ của người bán trong một quan hệ Hợp đồng khác) được ghi tên trên Hối phiếu. Đây là quan hệ tín dụng thương mại giữa người bán và người mua, được biểu hiện dưới hình thức mua bán chịu hàng hóa. Việc cấp tín dụng thương mại dưới hình thức mua bán chịu hàng hóa có thể được hiểu là hình thức thanh toán chậm. Hành vi mua bán chịu hàng hóa hoặc thanh toán chậm được xem là hình thức tín dụng. Trong việc mua bán chịu hàng hóa, người bán chuyển giao cho người mua được sử dụng vốn trong một thời gian nhất định (vốn ở đây được thể hiện dưới hình thức hàng hóa) và khi đến thời hạn đã được thỏa thuận người mua phải hoàn lại vốn cho người bán dưới hình thức tiền tệ và cả phần lãi cho người bán chịu. Tín dụng thương mại dưới hình thức mua bán chịu hàng hóa được thực hiện trên cơ sở Hối phiếu. Các thương nhân có thể huy động vốn qua nhiều kênh khác nhau như: Tín dụng nhà nước, tín dung ngân hàng, tín dung thương mại, phát hành cổ phiếu, trái phiếu. Tuy nhiên, để có thể vay vốn các ngân hàng thương mại, các doanh nghiệp phải tuân thủ những điều kiện trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật và bản thân ngân hàng thương mại. Muốn phát hành cổ phiếu, trái phiếu các doanh nghiệp phải thỏa mãn các điều kiện khắt khe của luật chứng khoán và cũng rất khó để huy động được lựơng tiền mong muốn một cách nhanh chóng vì vậy, việc sử dụng Hối phiếu như một công cụ tín dụng trực tiếp giữa các thương nhân có nhiều ưu điểm so với các loại hình tín dụng khác như: Thời hạn cấp tín dụng linh hoạt, điều kiện, thủ tục cấp tín dụng đơn giản. Nhờ những ưu điểm này mà Hối phiếu đóng vai trò quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp. Nó đã phần nào làm giảm bớt sức ép về vốn đối với các ngân hàng thương mại nhất là khi tốc động lưu thông hàng hóa rất nhanh mà vốn của các ngân hàng thương mại có hạn
  • 25. 20 Tạo ra những sản phẩm dịch vụ mới, tăng sức cạnh tranh và nguồn doanh thu cho các ngân hàng thương mại. Trong nền kinh tế thị trường, việc khai thác và nâng cao chất lượng của các loại hình dịch vụ mới là mối quan tâm hàng đầu của các ngân hàng thương mại. Bởi vì chính nhờ các dịch vụ tiện ích đó mà các ngân hàng thương mại thu hút ngày càng nhiều khách hàng hơn. Hối phiếu với 4 chức năng cơ bản (Công cụ tín dụng, là tài sản bản đảm trong Hợp đồng tín dụng, là công cụ đầu tư vốn, và là phương tiện thanh toán) có vai trò kích thích những sản phẩm dịch vụ mới của các ngân hàng thương mại. Cụ thể, những nghiệp vụ ngân hàng liên quan đến Hối phiếu là: Nghiệp vụ nhờ thu Hối phiếu, nghiệp vụ bảo lãnh Hối phiếu, nghiệp vụ chấp nhận Hối phiếu. Thực hiện những nghiệp vụ này ngân hàng thương mại được hưởng những phí dịch vụ: Phí nhờ thu, phí bảo lãnh, phí chấp nhận hối phiếu. Những khoản phí này làm tăng doanh thu cho ngân hàng thương mại. - Tạo cơ sở để mở rộng hoạt động cấp tín dụng cho các chủ thể trong nền kinh tế qua các dịch vụ cầm cố, chiết khấu, bảo lãnh hối phiếu. Nếu có nhu cầu về vốn, người thụ hưởng hối phiếu có thể đem hối phiếu chưa đến hạn thanh toán đi chiết khấu, cầm cố hối phiếu, chiết khấu và được cấp một khoản tín dụng. Đối với hối phiếu được bảo lãnh, người bảo lãnh có nghĩa vụ cam kết với người nhận bảo lãnh sẽ thanh toán toàn bộ hoặc một phần số tiền ghi trên hối phiếu nếu đã đến hạn thanh toán mà người được bảo lãnh không thanh toán hoặc thanh toán không đầy đủ. Như vậy, bảo lãnh hối phiếu khác với cầm cố, chiết khấu hối phiếu ở chỗ: nghĩa vụ trả tiền của người bảo lãnh chỉ phát sinh trong các trường hợp người được bảo lãnh không thanh toán đầy đủ khi hối phiếu hết hạn. Ngoài ra Hối phiếu gắn hoạt động tín dụng với quá trình sản xuất và lưu thông hàng hóa, làm giảm thiểu rủi ro cho hoạt động tín dụng ngân hàng.
  • 26. 21 Nếu trong hoạt động kinh doanh không tồn tại hoạt động tín dụng thương mại, hối phiếu không được sử dụng, ngân hàng sẽ phải cho vay 2 lần. Lần thứ nhất, cho người sản xuất vay để mua nguyên, nhiên vật liệu…để sản xuất ra sản phẩm. Lần thứ hai, người mua vay tiền để mua hàng hóa. Song không chắc những sản phẩm do người sản xuất làm ra đã có thể tiêu thụ dễ dàng để thu hồi vốn liếng đã bỏ ra, và hoàn trả tín dụng mà ngân hàng đã cấp (cả vốn và lãi) khi đến hạn. Như vậy hoạt động tín dụng ngân hàng sẽ phải đối diện với những rủi ro tín dụng, là hệ quả của những rủi ro kinh doanh của người sản xuất. Khi có tín dụng thương mại, hối phiếu được phát hành trên những giao dịch cơ sở hàng hóa, dịch vụ,….Do vậy tín dụng thương mại luôn có hàng hóa, dịch vụ đối ứng. Khi ngân hàng thương mại cấp tín dụng dưới hình thức chiết khấu, cầm cố hối phiếu thì các khoản tín dụng do ngân hàng cung cấp cũng có hàng hóa, dịch vụ đối ứng. Tức là, ngân hàng thương mại cho một người sản xuất vay khi họ đã bán được hàng, khác với trước đây thường là cho vay vốn để sản xuất. Như vậy, hoạt động tín dụng ngân hàng đã trở nên an toàn hơn do ngân hàng chỉ cấp tín dụng một lần thay vì hai lần như trước. - Việc sử dụng Hối phiếu tạo thêm hàng hóa cho thị trường tiền tệ Hối phiếu là hàng hóa trên thị trường hối phiếu, một bộ phận của thị trường vốn ngắn hạn hay còn gọi là thị trường tiền tệ. Thị trường hối phiếu là nơi diễn ra các hoạt động nghiệp vụ kinh doanh hối phiếu như: Cầm cố, nhờ thu, bảo lãnh, chiết khấu… Trước đây hàng hóa trên thị trường tiền tệ chủ yếu bao gồm: Tín phiếu kho bạc, tín phiếu ngân hàng nhà nước, chứng chỉ tiền gửi….Ở nước ta hối phiếu chưa phải là một loại hàng hóa chủ đạo của thị trường tiền tệ. Nhưng ở nhiều nước trên thế giới, các giao dịch hối phiếu chiếm một tỷ lệ lớn trong tổng lượng giao dịch trên thị trường vốn ngắn hạn thậm chí, đã phát triển thành thị trường hối phiếu riêng biệt. (ví dụ ở các nước phát triển như Hoa Kỳ, Anh) - Hối phiếu là phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế
  • 27. 22 Các chủ thể tham gia vào quá trình lưu thông hối phiếu bao gồm: người ký phát, người bị ký phát, người phát hành, người thụ hưởng, người chuyển nhượng, người nhận chuyển nhượng, các ngân hàng thương mại, ngân hàng trung ương…. Để đòi nợ, chủ nợ phát hành hối phiếu đòi nợ và để cam kết trả nợ, con nợ phát hành hối phiếu nhận nợ. Để có tiền thanh toán cho các chủ nợ của mình, người thụ hưởng hối phiếu có thể tiến hành theo các cách sau đây: - Chuyển nhượng hối phiếu cho chủ nợ của mình. - Đem hối phiếu đến ngân hàng thương mại để chiết khấu và được cấp một khoản tín dụng để trả nợ. - Đem cầm cố hối phiếu để vay một khoản tiền để trả nợ. Như vậy, có thể trong một vòng khép kín, các giao dịch kinh tế có thể chỉ được thanh toán bằng hối phiếu mà không cần dùng đến tiền mặt - Hối phiếu là công cụ của ngân hàng trung ương để thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. Ngân hàng trung ương sử dụng chức năng làm công cụ tín dụng của hối phiếu để điều tiết lưu thông tiền tệ, thông qua việc mở rộng hay thu hẹp khối lượng tín dụng cung cấp cho ngân hàng thương mại. Thông qua lãi suất tái chiết khâu hối phiếu, lãi suất cho vay bằng cầm cố hối phiếu, ngân hàng trung ương có thể điều tiết lãi suất trên thị trường tiền tệ nhằm thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. Đối với hối phiếu, ngân hàng trung ương có thể cung cấp tín dụng cho ngân hàng thượng mại thông qua hai hình thức: Cho vay có bảo đảm bằng cầm cố hối phiếu và tái chiết khấu hối phiếu Tái chiết khấu hối phiếu: Ngân hàng trung ương cấp tín dụng cho các ngân hàng thương mại bằng cách mua lại các hối phiếu chưa đến hạn của các ngân hàng thương đó. Tái chiết khấu hối phiếu là việc mua lại hối phiếu đã được chiết khấu trước khi đến hạn thanh toán. Lãi suất tái chiết khấu là công
  • 28. 23 cụ để ngân hàng trung ương điều tiết lượng tiền lưu thông trong nền kinh tế. Khi ngân hàng trung ương tăng lãi suất tái chiết khấu thì chi phí trả lãi của ngân hàng thương mại sẽ cao hơn. Điều này khiến cho ngân hàng thương mại nâng lãi cho vay, nên khối lượng cấp tín dụng sẽ ít đi, làm giảm lượng cung tiền trong nền kinh tế. Biện pháp tăng lãi suất tái chiết khấu được áp dụng khi Ngân hàng trung ương nhận thấy cần phải điều tiết nền kinh tế đang phát triển quá nóng, có nguy cơ lạm phát cao. Khi Ngân hàng trung ương giảm lãi suất tái chiết khấu thì chi phí trả lãi của Ngân hàng thương mại sẽ thấp hơn. Điều này khiến cho Ngân hàng thương mại có thể giảm lãi suất cho vay, nên khối lượng cấp tín dụng sẽ tăng lên làm tăng lượng cung tiền trong nền kinh tế. Biện pháp giảm lãi suất chiết khấu được áp dụng khi Ngân hàng trung ương nhận thấy phải kích cầu trong tiêu dùng trong nền kinh tế. 1.2.5. Khái niệm chiết khấu hối phiếu của ngân hàng thương mại Khoản 14, 15 Điều 4 - Luật các công cụ chuyển nhượng năm 2005 quy định: Chiết khấu công cụ chuyển nhượng là việc tổ chức tín dụng mua công cụ chuyển nhượng từ người thụ hưởng trước khi đến hạn thanh toán, tái chiết khấu công cụ chuyển nhượng là việc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, tổ chức tín dụng mua lại công cụ chuyển nhượng đã được tổ chức tín dụng khác chiết khấu trước khi đến hạn thanh toán [21]. Điều 35 - Luật các công cụ chuyển nhượng năm 2005 quy định “Hối phiếu đòi nợ có thể được chiết khấu hoặc tái chiết khấu tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, các tổ chức tín dụng theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam” [21]. Các quy định này cũng được áp dụng cho hối phiếu nhận nợ. Từ các quy định trên của pháp luật ta có thể định nghĩa hoạt động chiết khấu, tái chiết khấu hối phiếu của ngân hàng thương mại như sau: Chiết khấu
  • 29. 24 hối phiếu của ngân hàng thương mại đối với khách hàng là nghiệp vụ tín dụng, theo đó ngân hàng thương mại thỏa thuận mua hối phiếu của khách hàng trước hạn thanh toán. Trường hợp hối phiếu đã được chiết khấu một lần ở một ngân hàng thương mại, sau đó ngân hàng thương mại này lại đem hối phiếu mà mình nhận chiết khấu đi chiết khấu tại một ngân hàng thương mại khác hoặc tại Ngân hàng Trung Ương thì nghiệp vụ này gọi là tái chiết khấu. Do vậy, điểm khác nhau cơ bản giữa nghiệp vụ chiết khấu với tái chiết khấu hối phiếu là ở chỗ, chiết khấu là giao dịch mua bán hối phiếu lần đầu còn tái chiết khấu là giao dịch mua bán lại hối phiếu đã được chiết khấu. 1.2.6. Các đặc trưng cơ bản của hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng thương mại Nghiệp vụ chiết khấu hối phiếu của ngân hàng thương mại tuy có nhiều điểm tương đồng với các nghiệp vụ tín dụng khác nhưng bản thân nó cũng hàm chứa những đặc trưng cơ bản sau đây: Thứ nhất, chiết khấu hối phiếu luôn có bản chất là một nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn. Tính chất ngắn hạn của nghiệp vụ tín dụng này thể hiện ở chỗ, khách hàng chỉ có thể đem chiết khấu ở ngân hàng với thời hạn dưới một năm mặc dù hối phiếu có thể còn thời hạn thanh toán trên một năm. Điều 3 - Khoản 3 - Thông tư 04/2013/TT-NHNN qui định: Thời hạn chiết khấu công cụ chuyển nhượng, giấy tờ có giá khác là khoảng thời gian tính từ ngày tiếp theo của ngày tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài nhận chiết khấu công cụ chuyển nhượng, giấy tờ có giá khác đến ngày khách hàng phải thực hiện nghĩa vụ cam kết mua lại hoặc đến ngày đến hạn thanh toán toàn bộ số tiền ghi trên công cụ chuyển nhượng, giấy tờ có giá khác đó, bao gồm cả ngày nghỉ và ngày lễ [18].
  • 30. 25 Ngoài ra, Điều 11 - Khoản 2 - Thông tư 04/2013/TT-NHNN còn xác định rõ “Thời hạn chiết khấu do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và khách hàng thỏa thuận nhưng không vượt quá thời hạn thanh toán còn lại của công cụ chuyển nhượng,giấy tờ có giá khác; Đối với giấy tờ có giá khác do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng khác phát hành, thời hạn chiết khấu tối đa là dưới 01 năm” [18]. Quy định này nhằm tránh cho ngân hàng nhận chiết khấu những rủi ro quá lớn khi nhận chiết khấu hối phiếu cho khách hàng và do đó tránh cho nền kinh tế những biến cố không đáng có do sự đổ vỡ của các ngân hàng. Thứ hai, chiết khấu là một hình thức cho vay trực tiếp đối với người sở hữu hối phiếu nhưng lại là hình thức cho vay gián tiếp đối với người bị ký phát hoặc người phát hành. Thông qua việc chiết khấu hối phiếu, ngân hàng cung cấp một khoản tín dụng cho người sở hữu hối phiếu trên cơ sở quan hệ thương mại đã tồn tại trước đó giữa người thụ hưởng, người cầm giữ hối phiếu, người ký phát với người bị ký phát hoặc người phát hành. Thứ ba, hoạt động chiết khấu hối phiếu của tổ chức tín dụng là một hình thức cho vay dựa trên việc chuyển nhượng trái quyền. Có cùng bản chất với hình thức chuyển nhượng khoản cho vay, khách hàng là chủ sở hữu một trái quyền có kỳ hạn và họ có thể yêu cầu ngân hàng cấp ngay một khoản tín dụng cho mình bằng cách chuyển nhượng trái quyền đó cho ngân hàng, với điều kiện bị khấu trừ đi phần lợi tức chiết khấu. Bằng cách chiết khấu, ngân hàng không chỉ có tư cách giống như người cho vay mà còn có tư cách của một người mua các trái quyền chưa đến hạn thanh toán.Tuy nhiên, nghiệp vụ chiết khấu vẫn khác biệt với quan hệ chuyển nhượng các khoản cho vay ở chỗ, giao dịch chiết khấu đòi hỏi khách hàng phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu, mà cụ thể ở đây là chuyển quyền sở hữu hối phiếu cho tổ chức tín dụng theo các quy định của pháp luật. Trong khi đó giao dịch chuyển nhượng các khoản cho vay nghề nghiệp không bắt buộc khách hàng phải làm thủ tục
  • 31. 26 này mà chỉ cần lập bảng kê các khoản nợ mà khách hàng có ý định chuyển nhượng cho ngân hàng và chuyển giao bảng kê đó cho ngân hàng là đủ. Còn ngân hàng sẽ có trách nhiệm thông báo việc chuyển nhượng này cho người thụ trái biết để sau đó họ sẽ chỉ có nghĩa vụ trả tiền cho người chủ nợ mới là ngân hàng. Thứ tư, nghiệp vụ chiết khấu hối phiếu cũng như chiết khấu giấy tờ có giá nói chung khác với nghiệp vụ tín dụng thấu chi ở chỗ, đối với ngân hàng thì chiết khấu có độ an toàn cao hơn thấu chi và khách hàng được chiết khấu không phải là người mắc nợ chính của ngân hàng, trong khi khách hàng được thấu chi lại luôn đóng vai trò là người mắc nợ của ngân hàng, sau khi họ đã sử dụng số tiền trên tài khoản thanh toán vượt quá số dư hiện có theo sự đồng ý của ngân hàng trong hạn mức thấu chi đã thỏa thuận. Chiết khấu là nghiệp vụ có phần an toàn hơn vì nó đảm bảo cho ngân hàng có được khả năng thanh khoản bằng phương pháp tái chiết khấu tại Ngân hàng trung ương hoặc các ngân hàng thương mại khác [19]. Thứ năm, nghiệp vụ chiết khấu hối phiếu cũng khác với nghiệp vụ cho vay có bảo đảm bằng cầm cố hối phiếu ở chỗ, khi ngân hàng nhận chiết khấu hối phiếu cho khách hàng đồng nghĩa với việc khách hàng chuyển quyền sở hữu hối phiếu cho ngân hàng nhận chiết khấu. Nếu ngân hàng chiết khấu toàn bộ thời hạn còn lại của hối phiếu thì điều đó có nghĩa là khách hàng đã bán đứt hối phiếu cho ngân hàng và không có quyền đòi lại. Còn cầm cố hối phiếu lại là căn cứ để ngân hàng yêu cầu người đi vay trả nợ, trong trường hợp người đi vay không trả được nợ thì cầm cố là cơ sở pháp lý để ngân hàng có quyền xử lý tài sản bảo đảm đó – chính là hối phiếu để bù đắp một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ trả nợ của khách hàng. Nhưng nếu khách hàng hoàn trả nợ cho ngân hàng đúng thời hạn thì hối phiếu mà khách hàng dùng làm tài sản cầm cố tại ngân hàng sẽ được ngân hàng trả lại theo như thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng đã ký giữa khách hàng và ngân hàng.
  • 32. 27 1.2.7. Vai trò của hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng thương mại - Đối với khách hàng: Hoạt động chiết khấu hối phiếu đem lại cho khách hàng những lợi ích sau đây: Một là, khách hàng có thể chiết khấu hối phiếu như một hình thức luân chuyển nguồn vốn kinh doanh của mình, ngay cả khi họ có nhu cầu thu hồi vốn tức thì nhưng không thể đòi tiền trước hạn người bị ký phát. Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh khốc liệt như hiện nay thì mọi hoạt động kinh doanh phải rất linh hoạt, người bán sẵn sàng bán chịu hàng hoá của mình cho người mua khi họ có đủ các điều kiện mua chịu, giữa họ sẽ lập một hối phiếu (có thể là hối phiếu nhận nợ hoặc hối đòi nợ) để đảm bảo nghĩa vụ thanh toán tiền của người mua cho người bán bằng việc chi trả số tiền ghi trên hối phiếu cho người thụ hưởng. Tuy nhiên cũng xảy ra trường hợp người có hối phiếu cần tiền trong khi hối phiếu chưa đến hạn thanh toán. Việc chiết khấu hối phiếu sẽ giải quyết được khó khăn này, tức là biến các khoản nợ thành tiền, giúp cho khách hàng giải quyết được kịp thời nhu cầu vốn của mình. Hai là, trong quan hệ chiết khấu, người xin chiết khấu không bị ràng buộc với nghĩa vụ sử dụng vốn đúng mục đích. Chiết khấu hối phiếu cũng vậy, khách hàng muốn sử dụng khoản tiền do ngân hàng trả cho việc chiết khấu hối phiếu vào mục đích nào là do họ quyết định, đó là điểm khác biệt rõ rệt giữa nghiệp vụ chiết khấu và cho vay của tổ chức tín dụng. Trong nghiệp vụ cho vay, khách hàng vay phải sử dụng vốn vay đúng mục đích như đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. Nếu khách hàng sử dụng vốn vay vào mục đích khác so với những gì đã thoả thuận với tổ chức tín dụng thì sẽ bị coi là vi phạm các quy định của hợp đồng tín dụng và có thể bị tổ chức tín dụng phạt vi phạm hợp đồng hoặc có thể bị áp dụng biện pháp cưỡng chế theo thoả
  • 33. 28 thuận để thu hồi nợ, ví dụ như trích tiền trên tài khoản tiền gửi của khách hàng hoặc phát mại tài sản bảo đảm, khởi kiện ra toà án....v..v để thu hồi nợ. Như vậy hoạt động chiết khấu hối phiếu của tổ chức tín dụng không những mang lại lợi ích thiết thực cho các tổ chức tín dụng mà còn mang lại lợi ích cho các tổ chức, cá nhân - với tư cách là khách hàng xin chiết khấu khi họ cần vốn trong kinh doanh hoặc tiêu dùng riêng của họ. - Đối với ngân hàng thƣơng mại: Việc chiết khấu hối phiếu không chỉ mang lại những lợi ích đáng kể cho khách hàng mà còn cho chính NHTM thực hiện nghiệp vụ chiết khấu hối phiếu, thể hiện ở những điểm sau: Thứ nhất, nghiệp vụ chiết khấu thường được đánh giá là có quy trình đơn giản, nhanh chóng, tốn ít chi phí cho các bên và đặc biệt là cho các NHTM. Nếu như trong hoạt động cho vay, tổ chức tín dụng phải thẩm định hồ sơ xin vay của khách hàng với nhiều thủ tục phức tạp, nhất là việc thẩm định giá trị cũng như tính hợp pháp của tài sản bảo đảm thì trong nghiệp vụ chiết khấu hối phiếu tổ chức tín dụng thường chỉ phải quan tâm đến khả năng trả nợ của người bị ký phát. Thứ hai, chiết khấu được xem là một nghiệp vụ hạn chế rủi ro tín dụng cho NHTM. So với hoạt động cho vay, việc chiết khấu hối phiếu có sự đảm bảo trả nợ không chỉ từ người bị ký phát mà còn có thể được đảm bảo từ những người khác có liên quan như người bảo lãnh, người ký phát, người chuyển nhượng. Thứ ba, chiết khấu không làm đóng băng vốn của ngân hàng thương mại mà còn tạo điều kiện cho các tổ chức này sử dụng vốn một cách linh hoạt và có hiệu quả nhờ khả năng chiết khấu lại (tái chiết khấu) ở ngân hàng trung ương hoặc ở ngân hàng thương mại khác. Hơn nữa sự ứng vốn trong nghiệp vụ chiết khấu sẽ tạo ra tiền gửi, đó chính là nguồn vốn của ngân hàng. Điều
  • 34. 29 đó có nghĩa là khi thực hiện chiết khấu, số tiền cấp cho khách hàng có thể chuyển sang tài khoản tiền gửi của khách hàng, nếu chưa thực sự cần thì khách hàng sẽ không rút ngay tiền mặt trong tài khoản của mình và như vậy đã tạo ra nguồn vốn mới cho ngân hàng để cho vay. Chính điều này đã hấp dẫn các ngân hàng trong việc thực hiện nghiệp vụ chiết khấu hơn các nghiệp vụ tín dụng khác. 1.3. Nguyên tắc và phƣơng thức chiết khấu hối phiếu của ngân hàng thƣơng mại 1.3.1 Nguyên tắc chiết khấu hối phiếu của ngân hàng thương mại Việc chiết khấu, tái chiết khấu công cụ chuyển nhượng của tổ chức tín dụng đối với khách hàng phải đảm bảo các nguyên tắc sau đây: - Nguyên tắc thỏa thuận giữa ngân hàng thương mại và khách hàng xin chiết khấu: Điều này có nghĩa là hoạt động chiết khấu của NHTM được thực hiện dựa trên cơ sở sự tự do ý chí của các bên – ngân hàng và khách hàng. Các bên thỏa thuận các điều khoản về nội dung của hợp đồng chiết khấu. NHTM và khách hàng thỏa thuận trong hợp đồng chiết khấu việc thanh toán tiền chiết khấu trước hạn, thu phí hoặc không thu phí khi khách hàng thanh toán tiền chiết khấu trước hạn. Theo Khoản 1 Điều 3 Thông tư 04/2013/TT-NHNN thì “Hợp đồng chiết khấu công cụ chuyển nhượng, giấy tờ có giá khác là văn bản thỏa thuận giữa tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và khách hàng nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên về việc chiết khấu (sau đây gọi tắt là hợp đồng chiết khấu) [18]”. Vậy có thể thấy, hoạt động chiết khấu hối phiếu là hoạt động tự nguyện của các bên. Không bên nào có quyền áp đặt ý chí, bắt buộc bên kia phải thực hiện. Đây là nguyên tắc rất quan trọng, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích tối đa của các chủ thể tham gia quan hệ chiết khấu hối phiếu.
  • 35. 30 - Nguyên tắc khách hàng phải sử dụng tiền chiết khấu để thanh toán các giao dịch mà pháp luật không cấm, đảm bảo khả năng tài chính để mua lại công cụ chuyển nhượng, giấy tờ có giá khác hoặc thanh toán đầy đủ số tiền chiết khấu, lãi chiết khấu và các chi phí hợp pháp khác cho ngân hàng thương mại. Nguyên tắc này gắn liền với mục đích chiết khấu của khách hàng là huy động được nguồn vốn nhất định để đầu tư, kinh doanh vào các ngành nghề, giao dịch mà pháp luật không cấm. Tuy nhiên, trong trường hợp chiết khấu có kỳ hạn thì khách hàng không những phải thanh toán đầy đủ lãi suất, phí chiết khấu, mà còn phải bảo đảm khả năng tài chính để mua lại hối phiếu khi đến hạn theo thỏa thuận trong hợp đồng chiết khấu. Điều này nhằm đảm bảo sự an toàn cho ngân hàng thương mại khi thực hiện chiết khấu hối phiếu của khách hàng. - Nguyên tắc phân định trách nhiệm giữa khâu thẩm định và quyết định thực hiện hoạt động chiết khấu công cụ chuyển nhượng, giấy tờ có giá khác của ngân hàng thương mại. Nguyên tắc này đòi hỏi khi chiết khấu, NHTM phải thẩm định kỹ hồ sơ chiết khấu, tách biệt giữa khâu thẩm định và khâu quyết định chiết khấu. Thẩm định được thực hiện bởi hội đồng thẩm định riêng, còn quyết định chiết khấu được khẳng định bởi văn bản dựa trên kết quả thẩm định. Việc thẩm định sai, dẫn đến thất thoát nguồn vốn của ngân hàng khi chiết khấu thì người thẩm định hoàn toàn phải chịu trách nhiệm về vấn đề này. 1.3.2 Các phương thức chiết khấu hối phiếu của ngân hàng thương mại Chiết khấu hối phiếu là một hình thức cấp tín dụng của ngân hàng thương mại, được hình thành trên cơ sở thỏa mãn nhu cầu cần vốn cấp thời của người sở hữu hối phiếu, khi mà họ không thể đòi tiền người mắc nợ vì hối phiếu chưa đến hạn thanh toán. Đôi khi khách hàng cần một khoản vốn cấp thời để sản xuất, kinh doanh hoặc để thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng nhưng lại
  • 36. 31 không muốn bán hẳn hối phiếu mà mình đang sở hữu cho Ngân hàng hoặc cũng có trường hợp người sở hữu hối phiếu muốn bán hẳn hối phiếu cho Ngân hàng để giải quyết nỗi lo hối phiếu không được thanh toán đủ và đúng thời hạn. Trong trường hợp như vậy khách hàng có thể bán hẳn hối phiếu cho ngân hàng hoặc bán hối phiếu cho ngân hàng nhưng cam kết sẽ mua lại chính hối phiếu mà họ đã bán vào một ngày nhất định trong tương lai, theo giá cả do hai bên thỏa thuận trước. Xuất phát từ nhu cầu thực tế trên, nhà làm luật đã dự liệu hai phương thức chiết khấu hối phiếu, bao gồm phương thức chiết khấu toàn bộ thời hạn còn lại của hối phiếu và phương thức chiết khấu một phần còn lại của hối phiếu. Hai phương thức chiết khấu này được quy định cụ thể ở điều 10 TT 04/2013/TT - NHNN như sau: Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và khách hàng thỏa thuận, lựa chọn các phương thức chiết khấu sau đây: 1. Mua có kỳ hạn công cụ chuyển nhượng, giấy tờ có giá khác là việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua và nhận chuyển nhượng quyền sở hữu công cụ chuyển nhượng, giấy tờ có giá khác chưa đến hạn thanh toán từ khách hàng, đồng thời khách hàng cam kết sẽ mua lại công cụ chuyển nhượng và giấy tờ có giá khác đó sau một khoảng thời gian được xác định tại hợp đồng chiết khấu. 2. Mua có bảo lưu quyền truy đòi công cụ chuyển nhượng, giấy tờ có giá khác là việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua và nhận quyền sở hữu công cụ chuyển nhượng, giấy tờ có giá khác chưa đến hạn thanh toán từ khách hàng; khách hàng phải có trách nhiệm hoàn trả đối với số tiền chiết khấu, lãi chiết khấu và các chi phí hợp pháp khác có liên quan đến hoạt động chiết khấu trong trường hợp tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài không nhận được đầy đủ số tiền được thanh toán từ người có trách nhiệm thanh toán công cụ chuyển nhượng, người phát hành giấy tờ có giá khác [18].
  • 37. 32 1.3.2.1 Phương thức mua có bảo lưu quyền truy đòi. Theo phương thức này, ngân hàng cam kết mua hẳn hối phiếu của khách hàng theo giá chiết khấu do các bên thỏa thuận dựa trên giá trị thanh toán ghi trên hối phiếu. Trên cơ sở hợp đồng chiết khấu, khách hàng có nghĩa vụ phải chuyển giao ngay quyền sở hữu hối phiếu cho ngân hàng nhận chiết khấu mà không có bất cứ một cam kết nào liên quan đến việc mua lại hối phiếu đó. Khi đến hạn thanh toán, ngân hàng thương mại xuất trình hối phiếu đó với tư cách là người sở hữu để yêu cầu người bị ký phát hoặc người phát hành thanh toán số tiền ghi trên hối phiếu. Tuy nhiên, khi NHTM không nhận được đầy đủ số tiền được thanh toán từ người có trách nhiệm thanh toán thì NHTM có quyền truy đòi toàn bộ số tiền đã chiết khấu từ khách hàng xin chiết khấu. Như vậy, bản chất của phương thức chiết khấu này là khách hàng và ngân hàng thương mại thỏa thuận mua bán hẳn hối phiếu với toàn bộ thời hạn thanh toán còn lại của hối phiếu. Ngân hàng trở thành chủ sở hữu của hối phiếu sau khi đã thanh toán tiền cho khách hàng và khách hàng làm thủ tục chuyển giao quyền sở hữu hối phiếu đó cho ngâng hàng. Ngân hàng sẽ được hưởng toàn bộ quyền lợi phát sinh từ hối phiếu đó với tư cách là người sở hữu mới của hối phiếu mà không bị bất cứ sự hạn chế nào về khả năng định đoạt hối phiếu. 1.3.2.2 Phương thức chiết khấu hối phiếu có kỳ hạn Trong thực tế, đôi khi khách hàng có nhu cầu vốn cấp thời và chỉ muốn bán hối phiếu cho ngân hàng trong một thời hạn nhất định để có thể có một khoản vốn cần thiết và cam kết hết thời hạn đó thì khách hàng sẽ mua lại chính hối phiếu đó từ ngân hàng. Đối với phương thức chiết khấu này các bên đã thỏa thuận hai vấn đề cơ bản sau:
  • 38. 33 Một là, khách hàng cam kết bán hối phiếu cho ngân hàng trong một thời hạn nhất định với giá cả do hai bên thỏa thuận ngay ở thời điểm ký kết hợp đồng. Với cam kết này khách hàng phải có nghĩa vụ chuyển giao hối phiếu cho ngân hàng cầm giữ và quản lý như một chủ sở hữu, nhưng chủ sở hữu này bị hạn chế quyền định đoạt. Đồng thời khách hàng có quyền yêu cầu ngân hàng thanh toán ngay cho mình khoản tiền bán hối phiếu theo giá cả đã được hai bên thỏa thuận. Hai là, khách hàng cam kết sẽ mua lại hối phiếu đó từ ngân hàng thương mại khi thời hạn bán kết thúc. Với cam kết này khách hàng được quyền ưu tiên mua lại hối phiếu so với người thứ ba, đồng thời ngân hàng có nghĩa vụ phải bán lại hối phiếu đó cho khách hàng trong thời hạn đã cam kết, theo giá cả các bên thỏa thuận trước. Nếu kết thúc thời hạn thỏa thuận mua lại mà khách hàng không thực hiện việc mua lại thì khi đó họ mất quyền ưu tiên mua lại hối phiếu của họ và khi đó ngân hàng cũng không còn bị ràng buộc với nghĩa vụ phải bán lại hối phiếu đó cho khách hàng, đồng thời ngân hàng có toàn quyền định đoạt đối với hối phiếu theo ý chí của chính mình chứ không còn bị chi phối bởi cam kết bán lại với khách hàng được chiết khấu nữa. Như vậy có thể thấy điểm khác nhau cơ bản giữa phương thức chiết khấu có bảo lưu quyền truy đòi và chiết khấu có kỳ hạn của hối phiếu là ở quyền sở hữu hối phiếu của ngân hàng nhận chiết khấu. Ở phương thức chiết khấu có bảo lưu quyền truy đòi , ngân hàng sẽ được sở hữu ngay hối phiếu kể từ khi khách hàng hoàn thành thủ tục chuyển giao quyền sở hữu. Còn trong phương thức chiết khấu có kỳ hạn, nếu sau thời hạn chiết khấu mà khách hàng không mua lại hối phiếu theo thỏa thuận thì ngân hàng mới là chủ sở hữu đầy đủ đối với hối phiếu và được hưởng toàn bộ quyền lợi phát sinh từ hối phiếu đó. Ngoài ra, trong phương thức chiết khấu có bảo lưu quyền truy đòi, ngân hàng luôn được đảm bảo khả năng thanh toán tiền đã chiết khấu kể cả khi
  • 39. 34 người có trách nhiệm thanh toán hối phiếu không thực hiện.Điều này hạn chế rủi ro cho ngân hàng khi thực hiện hoạt động chiết khấu hối phiếu. 1.4. Phân biệt hoạt động chiết khấu hối phiếu và cầm cố hối phiếu của ngân hàng thƣơng mại Theo quy định tại Điều 326 của Bộ Luật dân sự 2005 về cầm cố tài sản thì “Cầm cố tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên cầm cố) giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận cầm cố) để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự” [22]. Theo quy định của Luật các công cụ chuyển nhượng 2005 thì Người thụ hưởng hối phiếu có quyền cầm cố hối phiếu tại ngân hàng để bảo đảm cho một khoản vay tại Ngân hàng, các quy định về cầm cố hối phiếu được quy định cụ thể như sau: “Điều 36. Quyền được cầm cố hối phiếu đòi nợ: Người thụ hưởng có quyền cầm cố hối phiếu đòi nợ theo quy định tại Mục này và các quy định khác của pháp luật có liên quan. Điều 37. Chuyển giao hối phiếu đòi nợ để cầm cố:Người cầm cố hối phiếu đòi nợ phải chuyển giao hối phiếu đòi nợ cho người nhận cầm cố. Thoả thuận về cầm cố hối phiếu đòi nợ phải được lập thành văn bản. Điều 38. Xử lý hối phiếu đòi nợ được cầm cố: Khi người cầm cố hoàn thành nghĩa vụ được bảo đảm bằng cầm cố hối phiếu đòi nợ thì người nhận cầm cố phải hoàn trả hối phiếu đòi nợ cho người cầm cố. Trong trường hợp người cầm cố không thực hiện đầy đủ, đúng hạn nghĩa vụ được bảo đảm bằng cầm cố hối phiếu đòi nợ thì người nhận cầm cố trở thành người thụ hưởng hối phiếu đòi nợ và được thanh toán theo nghĩa vụ được bảo đảm bằng cầm cố” [21]. Theo quy định của Bộ Luật dân sự 2005 thì Hợp đồng cầm cố tài sản, giấy tờ có giá nói chung và hợp đồng cầm cố hối phiếu nói riêng được xác lập nhằm đảm bảo thực hiện nghĩa vụ của chủ thể mang nghĩa vụ trong hợp đồng
  • 40. 35 chính. Tuy hợp đồng cầm cố là hợp đồng phái sinh từ hợp đồng chính, nhưng không phải trong mọi trường hợp hợp đồng chính vô hiệu thì hợp đồng cầm cố vô hiệu theo. Điều này chỉ đúng khi các bên có thỏa thuận. Hình thức bắt buộc của hợp đồng cầm cố hối phiếu là phải được lập thành văn bản, có thể lập thành một bản hợp đồng riêng, hoặc có thể ghi trong hợp đồng chính. Cầm cố được sử dụng với vai trò là một trong những biện pháp quan trọng nhằm giảm thiểu rủi ro tín dụng. Rủi ro tín dụng xảy ra khi người có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng. Rủi ro tín dụng là nguy cơ Ngân hàng không đòi được tiền gốc mà Ngân hàng đã cho khách hàng vay cũng như tiền lãi phát sinh từ số tiền gốc. Cầm cố là một biện pháp bảo đảm nhằm ngăn ngừa những rủi ro đó. Tài sản cầm cố chỉ được phép xử lý khi rủi ro xảy ra, đó là khi khách hàng không thực hiện hoặc không thực hiện đầy đủ được nghĩa vụ trả nợ của mình đối với Ngân hàng. Khi đó Ngân hàng sẽ phát mại tài sản cầm cố của khách hàng chính là việc chuyển nhượng hối phiếu cho người khác, nhận thanh toán giá trị của hối phiếu từ Người bị ký phát hoặc người phát hành hoặc chiết khấu hối phiếu đó tại Ngân hàng thương mại khác hoặc Ngân hàng Nhà nước nếu được chấp thuận. Việc xử lý tài sản bảo đảm này nhằm bù đắp vào khoản tiền mà Ngân hàng đã cho khách hàng vay. Còn nếu khách hàng thực hiện nghĩa vụ như đã cam kết trong hợp đồng tín dụng của mình thì tài sản bảo đảm đó sẽ được trả lại cho khách hàng vay, khi đó đương nhiên Ngân hàng không có quyền xử lý tài sản bảo đảm của khách hàng. Do việc cầm cố buộc khách hàng phải chuyển giao tài sản cầm cố, cụ thể trong trường hợp này là chuyển giao hối phiếu cho Ngân hàng nên quyền sử dụng, chiếm hữu và định đoạt đối với hối phiếu của khách hàng cũng bị hạn chế. Trong thời gian cầm cố, khách hàng không có quyền chiếm hữu,
  • 41. 36 định đoạt ví dụ như: tặng cho, chuyển nhượng, chiết khấu hay cầm cố cho một nghĩa vụ khác đối với hối phiếu đã cầm cố nếu như không có thỏa thuận hoặc được sự đồng ý của Ngân hàng. Tuy nhiên điều đó không có nghĩa là những quyền đối với hối phiếu của khách hàng bị mất đi hoàn toàn và cũng không phải các quyền đó được chuyển giao cho Ngân hàng. Ngân hàng sẽ làm thủ tục hoàn trả lại hối phiếu cho khách hàng khi khách hàng hoàn thành xong nghĩa vụ đối với Ngân hàng. Như vậy biện pháp cầm cố hối phiếu trong hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại có những điểm khác biệt rõ rệt với hoạt động chiết khấu hối phiếu là ở chỗ: Thứ nhất, Hợp đồng cầm cố có thể lập thành văn bản riêng hoặc có thể ghi trong hợp đồng chính nhưng hợp đồng chiết khấu hối phiếu thì bắt buộc phải lập thành văn bản riêng. Hợp đồng cầm cố chỉ là hợp đồng phụ của hợp đồng chính là hợp đồng tín dụng, việc khách hàng chuyển giao tài sản cho Ngân hàng quản lý trong thời gian vay vốn chỉ là một biện pháp bảo đảm cho nghĩa vụ của khách hàng để Ngân hàng tránh được những rủi ro tín dụng có thể xảy ra. Trong khi đó, hối phiếu là một loại giấy tờ có giá độc lập hoàn toàn với giao dịch kinh tế sản sinh ra nó, trên hối phiếu không cần phải thể hiện nguyên nhân sinh ra nó mà người ta chỉ quan tâm đến số tiền phải trả ghi trên hối phiếu và những nội dung liên quan đến việc trả tiền, do đó hợp đồng chiết khấu hối phiếu là một hợp đồng độc lập, hết thời hạn thanh toán thì người bị ký phát phải có trách nhiệm thanh toán vô điều kiện số tiền ghi trên hối phiếu cho Ngân hàng đã nhận chiết khấu hối phiếu đó mà Ngân hàng không cần quan tâm đến giao dịch thương mại trước đó phát sinh ra nó. Thứ hai, về vấn đề chuyển giao hối phiếu: Nếu như ở hợp đồng cầm cố hối phiếu thì việc khách hàng chuyển giao hối phiếu cho Ngân hàng chỉ tạm thời làm mất đi quyền sử dụng, chiếm hữu, định đoạt của họ, khách hàng sẽ
  • 42. 37 lại được sở hữu hối phiếu khi họ hoàn thành nghĩa vụ của mình trong hợp đồng tín dụng, và ở đây Ngân hàng phần lớn chỉ quan tâm đến việc khách hàng có trả nợ được cho mình đầy đủ và đúng hạn hay không chứ thực sự Ngân hàng cũng không muốn khách hàng không trả được nợ để họ phải sở hữu hối phiếu và phải chờ người bị ký phát thanh toán tiền cho mình. Nhưng trong quan hệ chiết khấu hối phiếu thì lại khác, cái mà Ngân hàng thương mại quan tâm đến chính là quyền sở hữu hối phiếu, với những hối phiếu có khả năng thanh toán cao (độ tín nhiệm cao) thì chúng dễ dàng được Ngân hàng nhận chiết khấu. Như đã phân tích ở phần trước của luận văn thì chiết khấu hối phiếu được hiểu là các Ngân hàng thương mại mua hối phiếu của Người thụ hưởng trước hạn thanh toán với một mức giá và lãi suất chiết khấu do hai bên thỏa thuận. Vậy nên, sau khi ký hợp đồng chiết khấu thì hối phiếu đương nhiên thuộc quyền sở hữu của các Ngân hàng, khách hàng hoàn toàn không còn quyền gì đối với hối phiếu. Ngay cả trong trường hợp chiết khấu hối phiếu có thời hạn thì trong thời hạn chiết khấu, hối phiếu đó vẫn thuộc quyền sở hữu của Ngân hàng, khách hàng xin chiết khấu chỉ có quyền ưu tiên mua lại khi hết thời hạn chiết khấu mà thôi. 1.5. Phân biệt giữa hoạt động chiết khấu hối phiếu của ngân hàng thƣơng mại và hoạt động chiết khấu hối phiếu của Ngân hàng nhà nƣớc Việt Nam Về cơ sở pháp lý, hiện nay ngoài Luật các công cụ chuyển nhượng 2005 là văn bản pháp luật trực tiếp điều chỉnh các quan hệ pháp luật về hối phiếu và các văn bản pháp luật khác có liên quan như Luật các tổ chức tín dụng 2010, Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2010…v..v thì Ngân hàng Nhà nước đã ban hành QĐ số 63/2006/QĐ-NHNN ngày 29/12/2006 và quyết định này được thay thế bởi Thông tư số 04/2013/QĐ-NHNN ngày 01/3/2013 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về việc ban hành quy chế chiết khấu, tái chiết khấu công cụ chuyển nhượng của Tổ chức tín dụng đối
  • 43. 38 với khách hàng. Tuy nhiên với hoạt động chiết khấu, tái chiết khấu hối phiếu của Ngân hàng Nhà nước với các Tổ chức tín dụng nói chung và Ngân hàng thương mại nói riêng thì chưa có một văn bản nào quy định riêng về vấn đề này. QĐ số 898/2003/QĐ-NHNN ngày 12/8/2003 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc ban hành quy chế chiết khấu, tái chiết khấu của Ngân hàng Nhà nước đối với các Ngân hàng cũng không có quy định cụ thể giấy tờ có giá được chiết khấu là Hối phiếu. Cụ thể tại Điều 5 QĐ 898/2003/QĐ-NHNN quy định “ Các giấy tờ có giá được Ngân hàng Nhà nước chiết khấu bao gồm tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc, tín phiếu Ngân hàng Nhà nước và các loại giấy tờ có giá khác được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định trong từng thời kỳ”. Gần đây nhất Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Thông tư số 01/2012/TT-NHNN ngày 16/02/2012 quy định về việc chiết khấu giấy tờ có giá của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đối với các tổ chức tín dụng, ngân hàng nước ngoài, Điều 6 Thông tư này quy định: “Giấy tờ có giá được chiết khấu: 1. Tiêu chuẩn giấy tờ có giá được chiết khấu tại Ngân hàng Nhà nước: a) Được phát hành bằng đồng Việt Nam (VND); b) Được phép chuyển nhượng; c) Thuộc sở hữu hợp pháp của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đề nghị chiết khấu; d) Không phải là giấy tờ có giá do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đề nghị chiết khấu phát hành; đ) Thời hạn còn lại tối đa của giấy tờ có giá là 91 ngày đối với trường hợp chiết khấu toàn bộ thời hạn còn lại của giấy tờ có giá; e) Thời hạn còn lại của giấy tờ có giá phải dài hơn thời hạn Ngân hàng Nhà nước chiết khấu đối với trường hợp chiết khấu có kỳ hạn. 2. Danh mục giấy tờ có giá được chiết khấu do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định trong từng thời kỳ” [17].
  • 44. 39 Như vậy với việc quy định các loại giấy tờ có giá được Ngân hàng Nhà nước chiết khấu, tái chiết khấu như trên thì rõ ràng là không phải lúc nào hối phiếu cũng được chiết khấu, tái chiết khấu tại Ngân hàng Nhà nước. Tuy nhiên, ngoài Thông tư 01/2012/TT-NHNN thì không có một văn bản pháp luật nào khác quy định về việc chiết khấu, tái chiết khấu hối phiếu của Ngân hàng Nhà nước đối với các ngân hàng, vì vậy khi Ngân hàng Nhà nước nhận chiết khấu, tái chiết khấu hối phiếu cho các ngân hàng thương mại thì Ngân hàng Nhà nước sẽ áp dụng các quy định của Thông tư 01/2012/TT-NHNN. - Vể cơ sở lý luận: Không chỉ có khách hàng là các cá nhân, tổ chức có nhu cầu xin chiết khấu hối phiếu trước khi hối phiếu đến hạn thanh toán mà chính các ngân hàng thương mại khi cần vốn phục vụ cho hoạt động kinh doanh của mình cũng có nhu cầu chiết khấu hoặc tái chiết khấu hối phiếu. Chiết khấu, tái chiết khấu hối phiếu nói riêng và chiết khấu, tái chiết khấu giấy tờ có giá nói chung là một hình thức tái cấp vốn đã có từ lâu đời của các Ngân hàng trung ương trên thế giới và cả của Ngân hàng nhà nước Việt Nam. Tái cấp vốn là hình thức cấp tín dụng có bảo đảm của Ngân hàng Nhà nước nhằm cung ứng vốn ngắn hạn và phương tiện thanh toán cho các ngân hàng. Khi cấp tín dụng cho các ngân hàng thương mại, một mặt thông qua hoạt động tái cấp vốn, Ngân hàng Nhà nước đã đưa thêm một lượng tiền vào lưu thông, qua đó ảnh hưởng đến khả năng mở rộng tín dụng của các tổ chức tín dụng trong đó có các ngân hàng thương mại khi có nhu cầu về vốn các ngân hàng thương mại phải đến ngân hàng trung ương xin tái cấp vốn và một hình thức tái cấp vốn điển hình của ngân hàng nhà nước đó là chiết khấu , tái chiết khấu hối phiếu và các giấy tờ có giá khác. Như vậy có thể hiểu chiết khấu,tái chiết khấu là việc ngân hàng nhà nước mua hoặc mua lại các giấy tờ cò giá còn thời hạn thanh toán thuộc sở hữu của các ngân hàng. Ngàn hàng thương mại chính là người thụ hưởng giấy tờ có giá hoặc là người mua , đấu thầu trên thị trường sơ cấp.