Đề tài: Pháp luật về hoạt động bao thanh toán của tổ chức tín dụng
1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
PHẠM THỊ THU TRANG
PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG BAO THANH TOÁN CỦA
TỔ CHỨC TÍN DỤNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
Hà Nội - 2014
2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
PHẠM THỊ THU TRANG
PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG BAO THANH TOÁN CỦA
TỔ CHỨC TÍN DỤNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số : 60 38 01 07
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. Võ Đình Toàn
Hà Nội - 2014
3. LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN
Phạm Thị Thu Trang
4. MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN .............................................................................................1
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT ..........................................2
DANH MỤC BIỂU ĐỒ....................................................................................5
LỜI MỞ ĐẦU...................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài............................................................................ 1
2. Mục đích nghiên cứu................................................................................... 2
3. Phạm vi nghiên cứu..................................................................................... 3
4. Phƣơng pháp nghiên cứu............................................................................ 3
5. Tình hình nghiên cứu và tính mới của kết quả luận văn ........................ 3
6. Bố cục của đề tài.......................................................................................... 4
CHƢƠNG 1- MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG BAO
THANH TOÁN CỦA TỐ CHỨC TÍN DỤNG..............................................5
1.1. Những vấn đề chung về bao thanh toán................................................. 5
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm ................................................................... 5
1.1.2. Lợi ích của các bên khi sử dụng bao thanh toán...........................12
1.1.3.Cácloạihìnhbaothanhtoán ................................................................20
1.2. Sự cần thiết và nhận diện mô hình pháp luật điều chỉnh quanhệ bao
thanh toán ...................................................................................................... 25
1.2.1. Sự cần thiết về pháp luật điều chỉnh quan hệ bao thanh toán.......25
1.2.2. Nhận diện mô hình hoạt động bao thanh toán ở một số nước trên
thế giới và khái niệm pháp luật bao thanh toán ......................................27
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1...............................................................................32
CHƢƠNG 2- THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN HOẠT
ĐỘNG VỀ BAO THANH TOÁN CỦA TỔ CHỨC TÍN DỤNG TẠI
VIỆT NAM......................................................................................................33
2.1. Thực trạng pháp luật về hoạt động bao thanh toán của tổ chức tín
dụng ở Việt Nam............................................................................................ 33
2.1.1. Cơ sở pháp lý, các nguyên tắc, phân loại và phương thức bao
thanh toán theo pháp luật Việt Nam .......................................................33
2.1.2. Chủ thể của quan hệ bao thanh toán .............................................36
2.1.3. Đối tượng của quan hệ bao thanh toán .........................................39
5. 2.1.4. Hợp đồng bao thanh toán..............................................................41
2.1.5. Quyền và nghĩa vụ của các bên.....................................................48
2.1.6. Quy trình hoạt động bao thanh toán..............................................52
2.1.7. Phí dịch vụ bao thanh toán............................................................54
2.2. Đánh giá thực trạng hoạt động Bao thanh toán ở nƣớc ta hiện nay. 56
2.3. Một số khó khăn vƣớng mắc trong pháp luật, nghiệp vụ bao thanh
toán của tổ chức tín dụng ở Việt Nam......................................................... 59
2.3.1. Một số bất cập trong Quyết định 1096/2004/QĐ-NHNN và Quyết
định số 30/2008/QĐ-NHNN...................................................................59
2.3.2. Nhận thức về bao thanh toán còn tương đối mới mẻ....................61
2.3.3. Chi phí bao thanh toán khá cao gây e ngại cho các doanh nghiệp61
2.3.4. Sản phẩm bao thanh toán chưa có sức hấp dẫn đối với khách hàng
.................................................................................................................61
2.3.5. Hạn chế của trình độ hiểu biết về luật pháp, điều ước và tập quán
quốc tế.....................................................................................................62
2.3.6. Quan hệ với thị trường nước ngoài còn hạn chế...........................63
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2...............................................................................64
CHƢƠNG 3 - GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN, NÂNG CAO HIỆU QUẢ
PHÁP LUẬT VÀ NGHIỆP VỤ BAO THANH TOÁN CỦA TỔ CHỨC
TÍN DỤNG Ở VIỆT NAM ............................................................................65
3.1. Đánh giá những thuận lợi để phát triển hoạt động bao thanh toán ở
Việt Nam hiện nay......................................................................................... 65
3.1.1. Bao thanh toán nội địa ..................................................................65
3.1.2. Bao thanh toán quốc tế..................................................................66
3.2. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả hoạt
động bao thanh toán ở nƣớc ta .................................................................... 68
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật .....................................................68
3. 2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động nghiệp vụ bao thanh toán
.................................................................................................................74
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3...............................................................................87
KẾT LUẬN CHUNG.....................................................................................88
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................89
6. DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
BTT : Bao thanh toán (Factoring)
CIC : Trung tâm thông tin tín dụng Ngân hàng nhà nước
D/A : Document against Acceptance (Nhờ thu trả chậm)
DN : Doanh nghiệp
D/P : Document against Payment (Nhờ thu)
ĐVBTT : Đơn vị bao thanh toán
FCI : Factors Chain International (Mạng lưới Bao thanh toán
quốc tế).
HĐ : Hợp đồng
KH : Khách hàng
KPT : Khoản phải thu
L/C : Letter of Credit (Thư tín dụng)
NH : Ngân hàng
NHNN : Ngân hàng nhà nước
NHTM : Ngân hàng thương mại
NHTMCP : Ngân hàng thương mại cổ phần
NK : Nhập khẩu
TSBĐ: Tài sản bảo đảm
T/T : Telegraphic Transfer (Chuyển tiền bằng điện)
XK : Xuất Khẩu
7. DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1. Doanh thu của BTT nước ta từ năm 2005 đến năm 2012
(đơn vị Triệu EUR)…………………………………………………………60
Biểu đồ 2.2. Doanh thu BTT nội địa và BTT quốc tế từ năm 2005 đến
năm 2012 (đơn vị Triệu EUR)……………………………………………..61
8.
9. 1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là nhiệm vụ, mục tiêu phát
triển kinh tế của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Đây là con đường đầy
gian nan và khó khăn, đặc biệt là trong bối cảnh toàn cầu hoá thì cơ hội và
thách thức càng lớn. Đứng trước những đòi hỏi của nền kinh tế năng động là
sự đòi hỏi một cơ chế hoạt động nhạy bén và chuẩn mực. Do đó, Việt Nam
nói riêng và các nước đang phát triển nói chung cần đưa ra những chính sách
hợp lý và khả thi. Nhất là phải theo kịp các nước phát triển về công nghệ và
dịch vụ.
Đồng thời, với việc mở rộng các mối quan hệ quốc tế song phương và
đa phương, tham gia các tổ chức quốc tế tạo điều kiện cho Việt Nam trong
việc phát triển kinh doanh hàng hóa dịch vụ ngoại thương. Mặt khác, việc
tham gia các tổ chức, các nhóm, khối tài chính quốc tế cũng tạo cho Việt Nam
những áp lực nhất định về nhiều mặt như: hiện đại hóa hệ thống ngân hàng,
lành mạnh hệ thống tài chính,…Hiện tại ở Việt Nam, dịch vụ bao thanh toán
mới được hình thành và chủ yếu là bao thanh toán trong nước. Chính vì thế,
trong quá trình hội nhập, bao thanh toán là một trong những sản phẩm mà
chúng ta phải áp dụng để bắt kịp với tốc độ phát triển chung, đặc biệt là mảng
bao thanh toán quốc tế.
Bao thanh toán là một hình thức cấp tín dụng của tổ chức tín dụng
cho bên bán hàng thông qua việc mua lại các khoản phải thu phát sinh từ
việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ đã được bên bán hàng và bên mua
hàng thỏa thuận trong hợp đồng mua, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ. Đây
được xem như một hình thức trợ vốn cho người bán hàng nhằm đảm bảo
10. quyền lợi cũng như nguồn vốn luân chuyển để tiếp tục sản xuất, tránh tình
trạng ứ đọng vốn làm giảm khả năng kinh doanh của bên bán hàng. Với hình
thức cấp tín dụng mới mẻ này, cho phép bên bán hàng có được những quyền
lợi nhất định.
Tuy nhiên, hình thức bao thanh toán manh nha xuất hiện ở nước ta từ
đầu thập niên 90 nhưng phải đến năm 2004 mới chính thức hoạt động ở Việt
Nam sau khi Quyết định số 1096/2004/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân
hàng Nhà nước ban hành Quy chế hoạt động bao thanh toán của các tổ chức
tín dụng có hiệu lực, đến nay hình thức này còn khá mới và lạ lẫm đối với
nhiều doanh nghiệp cũng như người dân Việt Nam. Thêm vào đó, các quy
định của pháp luật về phương thức này còn gặp nhiều hạn chế. Vì vậy, sau
khi tìm hiểu tôi xin mạnh dạn nghiên cứu về vấn đề bao thanh toán với đề tài:
“Pháp luật về hoạt động bao thanh toán của tổ chức tín dụng ở Việt Nam
hiện nay”.
Với trình độ và nhận thức còn hạn chế, đề tài sẽ còn rất nhiều khuyết
điểm, do đó, kính mong Quí thầy cô và các bạn cùng tham gia góp ý để đề tài
được hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn./.
2. Mục đích nghiên cứu
Một là, trung nghiên cứu làm rõ lý luận về hoạt đông bao thanh toán
như nguồn gốc, bản chất, quy tắc hoạt động của bao thanh toán. Đây là nền
tảng quan trọng để thực hiện và phát triển hoạt động dịch vụ bao thanh toán ở
nước ta nói riêng và trên thế giới nói chung. Đồng thời, tập trung nghiên cứu
tình hình phát triển hoạt động bao thanh toán của tổ chức tín dụng trên thế
giới nói chung và Việt Nam nói riêng, từ đó đưa ra được những bài học kinh
nghiệm áp dụng vào nước ta.
Hai là, căn cứ lý luận về bao thanh toán và pháp luật về bao thanh toán
11. 3
đánh giá pháp luật Việt Nam hiện hành về hình thức bao thanh toán, thực
trạng phát triển hoạt động bao thanh toán ở nước ta và tìm ra nguyên nhân,
hạn chế trong hoạt động này ở Việt Nam. Đánh giá khách quan về chính sách
pháp luật điều chỉnh bao thanh toán ơ nước ta, làm rõ những khó khăn, hạn
chế và đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật bao thanh toán.
Ba là, đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
pháp luật về bao thanh toán ở Việt Nam.
3. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dưới góc độ luật học về lý luận và dựa trên các
quy định pháp luật hiện hành gắn với tình hình phát triển dịch vụ bao thanh
toán cũng như pháp luật về bao thanh toán ở một số nước trên thế giới, rút ra
bài học kinh nghiệm áp dụng thực tiễn nước nhà. Đồng thời, luận văn chỉ tập
trung nghiên cứu bao thanh toán tại Ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện
nay.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được xây dựng dựa trên tổng hoà của các phương pháp nghiên
cứu sau: Phương pháp luận duy vật biện chứng kết hợp với phương pháp
phân - tổng hợp, phương pháp so sánh, thống kê dựa trên tư tưởng Mac -
LêNin.
5. Tình hình nghiên cứu và tính mới của kết quả luận văn
Bao thanh toán là một hình thức cấp tín dụng được đưa vào hoạt động
ở Việt Nam chính thức từ năm 2004 đến nay. Với 10 năm ra đời, hoạt động
và phát triển, hoạt động này đã bước đầu thu được những thành quả đáng ghi
nhận và nhận được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều tác giả. Ví dụ như
Luận văn thạc sĩ Kinh tế của Nguyễn Thị Thu Hiền với “Phát triển nghiệp vụ
bao thanh toán của ngân hàng công thương tại Việt Nam”, hay đề tài “Tình
12. hình thực hiện bao thanh toán ở Việt Nam và một số giải pháp để đưa sản
phẩm bao thanh toán ứng dụng vào Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt
Nam” của tác giả Nguyễn Thái Bảo Luân,... Tuy nhiên, các tác giả thường
tập trung nghiên cứu nghiệp vụ kinh tế về bao thanh toán của các ngân hàng
thương mại ở nước ta mà chưa chú trọng đến pháp luật điều chỉnh hoạt động
này ở Việt Nam. Trong khi hệ thống pháp luật Việt Nam điều chỉnh về
nghiệp vụ này còn nhiều hạn chế, chưa thực sự linh động và nhất quán. Chính
vì thế, ở đề tài này tác giả muốn tìm hiểu một cách thống nhất tạo cơ sở tiền
đề nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về nghiệp vụ bao thanh toán.
Kết quả nghiên cứu chủ yếu của luận văn là:
Thứ nhất, hệ thống hóa và làm rõ lý luận về bao thanh toán và pháp
luật về bao thanh toán trên cơ sở nghiên cứu các quan điểm khoa học và kinh
nghiệm xây dựng và thi hành pháp luật về bao thanh toán ở một số nước trên
thế giới.
Thứ hai, đánh giá thực trạng pháp luật về bao thanh toán ở Việt Nam,
làm rõ những bất cập, hạn chế và nguyên nhân cần khắc phục.
Thứ ba, xác định những quan điểm chung và đề xuất giải pháp hoàn
thiện pháp luật về bao thanh toán ở Việt Nam.
6. Bố cục của đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Nội dung, Kết luận đề tài được chia làm 3
chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về hoạt động bao thanh toán của tổ
chức tín dụng.
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn hoạt động bao thanh
toán của tổ chức tín dụng ở Viêt Nam.
Chương 3: Giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu
13. 5
quả về nghiệp vụ bao thanh toán của tổ chức tín dụng.
CHƢƠNG 1- MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG BAO
THANH TOÁN CỦA TỐ CHỨC TÍN DỤNG
1.1. Những vấn đề chung về bao thanh toán
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm
1.1.1.1. Khái niệm
Bao thanh toán (BTT) xuất phát từ đại lý hưởng hoa hồng, những người
thực hiện việc mua bán và luân chuyển hàng hóa khoảng 2000 năm trước
dưới thời đế chế La Mã. Với sự phát triển toàn cầu của ngành công nghiệp
Anh vào thế kỷ 14 và thế kỷ 15 là sự lớn mạnh trong tầm quan trọng của đại
lý BTT. Khi họ dần dần tin cậy vào khả năng trả nợ của người mua trong
nước mà họ giao dịch cùng, họ bắt đầu cấp tín dụng cho người ủy nhiệm mình
để lấy hoa hồng cao hơn. Thực tế là, với khoản hoa hồng nhiều hơn, đại lý
BTT bắt đầu bảo đảm khả năng trả nợ của người mua bằng cách hứa trả cho
người ủy nhiệm trong tương lai, nếu người mua không thể trả nợ đúng hạn do
khả năng tài chính không cho phép. Không lâu trước đó, là kết quả tự nhiên
của việc bảo lãnh tín dụng, đại lý thanh toán có đủ vốn bắt đầu trả trước một
phần (tạm ứng) cho người ủy nhiệm của mình dựa trên khoản thanh toán của
người mua trong tương lai hoặc là của đại lý BTT, nếu người mua không trả
tiền và nếu nó bảo lãnh khoản tín dụng đó của người mua. Do có những
khoản tạm ứng này mà đại lý BTT tính thêm phí hoa hồng hay lãi suất. Thông
thường, để tránh khỏi tình trạng không thanh toán hay thanh toán không đủ do
những vấn đề không thuộc phạm trù tín dụng như là người mua khiếu nại
nguời bán về số lượng, chất lượng hàng hóa hay thời gian giao hàng không
đúng hạn, đại lý BTT không tạm ứng toàn bộ số tiền doanh thu bán hàng.
Thay vào đó, họ sẽ giữ lại một phần để dự trữ phải trả cho người bán cho tới
14. khi tất cả những sự việc không thanh toán không còn tồn tại nữa. Người mua
thường được thông báo là đại lý BTT đã mua quyền nhận thanh toán của họ.
Vào thời điểm Columbus phát hiện ra Châu Mỹ năm 1492, đại lý BTT đã phát
triển từ vai trò duy nhất với chức năng marketing thành đóng hai vai trò vừa
có chức năng marketing vừa có chức năng tài chính.
Đến cuối thế kỷ 19, một sự thay đổi quan trọng trong thế giới thương
mại đã xảy ra. Mỹ phát triển thành một quốc gia chủ quyền và trở nên ít bị
phụ thuộc vào hàng hóa nước ngoài. Sự phát triển của ngành công nghiệp
trong nước là do dân số và lực luợng lao động trong nước tăng rất nhanh, tài
nguyên thiên nhiên dư thừa, và sự áp đặt biểu thuế gắt gao đối với hàng hóa
nước ngoài. Đồng thời, những nhà sản xuất Mỹ phát triển đội ngũ kinh doanh
(marketing) của mình và vì vậy, nhu cầu chức năng marketing mà trước đây
các đại lý BTT thường thực hiện giảm đi. Tuy nhiên, môt lần nữa, các đại lý
BTT lại phát triển và điều chỉnh theo nhu cầu của nền kinh tế mới trong nước,
tập trung vào tín dụng, thu nợ, kế toán và các chức năng tài chính (thường là
thông báo cho người mua việc bán các khoản phải thu). Việc giao cho các đại
lý BTT thực hiện các chức năng này cho phép các nhà sản xuất ngành dệt của
Mỹ tập trung vào sản xuất và tiếp thị trong thời kỳ phát triển rất nhanh này.
Khi các nhà sản xuất Mỹ mở rộng vào đầu thế kỷ 20 sang các sản phẩm may
mặc và phụ kiện, đồ nội thất và thảm thì các đại lý BTT của Mỹ cũng mở
rộng chuyên môn và dịch vụ sang ngành công nghiệp này.
Đến giữa thế kỷ 20, BTT của Mỹ phát triển sang những ngành công
nghiệp mới đang phát triển như điện, hoá chất, và sợi tổng hợp. Ngày nay, để
làm dịu bớt nhu cầu kiểm soát hàng hóa về mặt vật lý, BTT đã mở rộng sang
nhiều ngành nghề khác như giao nhận, cung cấp nhân sự tạm thời, quảng cáo,
thiết kề đồ họa,... Tuy có những tình cảnh đặc biệt này, nhưng chúng ta cũng
15. 7
sẽ thấy một số lượng giới hạn các đại lý BTT cung cấp những dịch vụ của
mình trong những ngành công nghiệp có ảnh hưởng liên quan. [3]
Từ khi manh nha xuất hiện đến nay, hoạt động BTT đã trải qua nhiều
thế kỷ tồn tại và phát triển. Tuy nhiên, đến năm 1963, cơ quan kiểm soát tiền
tệ công bố bao thanh toán là một hoạt động ngân hàng hợp pháp và các ngân
hàng chính thức đi vào lĩnh vực này và bắt đầu từ năm 1974 thì nghiệp vụ này
mới được công nhận bởi hầu hết ở các nước trên thế giới. Tại Việt Nam từ khi
có Quyết định 1096/2004/QĐ-NHNN về Quy chế hoạt động bao thanh toán
của các tổ chức tín dụng thì hoạt động bao thanh toán mới chính thức được
triển khai tại một số NHTM Việt Nam.Có rất nhiều định nghĩa về bao thanh
toán, sau đây là một số định nghĩa tiêu biểu:
Theo Hiệp hội bao thanh toán thế giới (FCI-Factors Chain
International) bao thanh toán được định nghĩa là một dịch vụ tài chính trọn
gói bao gồm sự kết hợp giữa tài trợ vốn hoạt động, bảo hiểm rủi ro tín dụng,
theo dõi các khoản phải thu và dịch vụ thu hộ. Đó là sự thỏa thuận giữa đơn
vị bao thanh toán và bên bán, trong đó bên bán hàng sẽ chuyển nhượng các
khoản phải thu cho đơn vị bao thanh toán để nhận tiền ứng trước cho các
khoản phải thu đó đồng thời đơn vị bao thanh toán sẽ quản lý và thu hộ các
khoản phải thu đó. Trong trường hợp bao thanh toán miễn truy đòi, nếu bên
mua phá sản hay mất khả năng chi trả thì đơn vị bao thanh toán sẽ thay bên
mua trả tiền cho bên bán. Khi bên mua và bên bán ở hai nước khác nhau thì
dịch vụ này được gọi là bao thanh toán quốc tế. Điều 1 Quy tắc chung về Bao
thanh toán quốc tế của Hiệp hội bao thanh toán quốc tế - General Rules For
International Factoring - FCI nêu khái niệm “Hợp đồng bao thanh toán là hợp
đồng theo đó người bán có thể hoặc sẽ chuyển nhượng các khoản phải thu cho
một đơn vị bao thanh toán có thể với mục đích nhận tài trợ thương mại hoặc
16. không để nhận được ít nhất một trong các chức năng sau: theo dõi sổ sách
các khoản phải thu, thu hộ các khoản phải thu, bảo hiểm rủi ro nợ xấu”.
Theo Công ước UNIDROIT về Bao thanh toán quốc tế được thông qua
ngày 28/05/1988 tại Ottawa - Canada tại Khoản 2 Điều 1 định nghĩa:
Hợp đồng bao thanh toán là hợp đồng giữa đơn vị bán và đơn vị bao
thanh toán, theo đó người bán có thể hoặc sẽ chuyển nhượng cho các đơn vị
bao thanh toán các khoản phải thu phát sinh từ hợp đồng mua bán hàng
hóa/dịch vụ giữa người bán và người mua hàng. Đơn vị bao thanh toán phải
thực hiện ít nhất hai trong bốn chức năng sau:
- Tài trợ cho bên bán bao gồm các khoản vay và thanh toán trước.
- Quản lý các tài khoản liên quan tới các khoản phải thu.
- Thu hộ các khoản phải thu.
- Bảo hiểm rủi ro không thanh toán của con nợ. [17]
Như vậy, so với định nghĩa của Quy tắc chung về Bao thanh toán quốc
tế của Hiệp hội bao thanh toán quốc tế thì Công ước UNIDROIT bổ sung
thêm một chức năng nữa của bao thanh toán là tài trợ cho người bán, bao gồm
việc cho vay lẫn việc ứng tiền thanh toán trước.
Theo Từ điển kinh tế (Dictionary of Economic - Christopher Pass &
Bryan Lones) th ì bao thanh toán là một sự dàn xếp tài chính, qua đó một
công ty tài chính chuyên nghiệp mua lại các khoản nợ của một công ty với số
tiền ít hơn giá trị của khoản nợ đó. Lợi nhuận phát sinh từ sự chênh lệch giữa
tiền thu được của số nợ đã mua và giá mua thực tế của món nợ đó. Lợi ích của
công ty bán nợ là nhận được tiền ngay thay vì phải chờ đến lúc con nợ trả nợ
hơn nữa lại tránh được những phiền toái và các chi phí trong việc theo đuổi
các con nợ chậm trả. [15]
17. 9
Khái niệm này có nội hàm hạn hẹp hơn các khái niệm trên do chưa chỉ
hết được các chức năng của bao thanh toán do đó chưa thấy được hết các tiện
ích mang lại cho người sử dụng bao thanh toán.
Còn theo Từ điển thuật ngữ Ngân hàng - Hans Klaus cho rằng bao
thanh toán là một loại hình tài trợ dưới dạng tín dụng chuyển nhượng nợ. Một
công ty chuyển toàn bộ hay một phần khoản nợ cho một công ty tài chính
chuyên nghiệp (công ty mua nợ, thông thường là một công ty trực thuộc ngân
hàng). Công ty này đảm nhận việc thu các khoản nợ và theo dõi các khoản
phải thu để hưởng thủ tục phí và có lúc ứng trước các khoản nợ. Thông
thường công ty mua nợ phải chịu rủi ro mất khả năng thanh toán của món nợ.
Tại Việt Nam hiện nay văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động bao
thanh toán của tổ chức tín dụng, theo Quyết định số 1096/2004/QĐ-NHNN
ngày 06 tháng 09 năm 2004 về Quy chế hoạt động bao thanh toán của các
TCTD và Quyết định số 30/2008/QĐ-NHNN sửa đổi bổ sung một số điều của
Quy chế hoạt động bao thanh toán của các tổ chức tín dụng, định nghĩa: “Bao
thanh toán là một hình thức cấp tín dụng của tổ chức tín dụng cho bên bán
hàng thông qua việc mua lại các khoản phải thu phát sinh từ việc mua bán
hàng hóa, cung ứng dịch vụ đã được bên bán hàng và bên mua hàng thỏa
thuận trong hợp đồng mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ”[7]. Cũng theo
các Quyết định này các TCTD được thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán là các
tổ chức tín dụng thành lập và hoạt động theo Luật Các tổ chức tín dụng bao
gồm:
- Ngân hàng thương mại nhà nước;
- Ngân hàng thương mại cổ phần;
- Ngân hàng liên doanh;
- Ngân hàng 100% vốn nước ngoài;
18. - Công ty tài chính;
- Công ty cho thuê tài chính;
- Ngân hàng nước ngoài được mở chi nhánh tại Việt Nam theo Luật
Các tổ chức tín dụng.
Tuy nhiên, sau khi Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 được ban hành,
tại khoản 17 Điều 4 có quy định “Bao thanh toán là hình thức cấp tín dụng
cho bên bán hàng hoặc bên mua hàng thông qua việc mua lại có bảo lưu
quyền truy đòi các khoản phải thu hoặc các khoản phải trả phát sinh từ việc
mua, bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ theo hợp đồng mua, bán hàng hoá,
cung ứng dịch vụ” [1, Điều 4]. Đây được xem như là khái niệm chung nhất
hiện nay tại Việt Nam. Khái niệm này đã mở rộng phạm vi chủ thể trong
BTT, không chỉ gói gọn về “bên mua hàng” mà cả “bên bán hàng” đều có thể
là chủ thể đề nghị, đồng thời đã nêu rõ bản chất của BTT.
Mặc dù có nhiều cách diễn đạt song qua các khái niệm ở trên ta thấy
được một số nét đặc trưng của hoạt động bao thanh toán.
i, Đối tượng của bao thanh toán là các khoản phải thu phát sinh từ việc
mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ.
ii, Trong hoạt động bao thanh toán thông thường sẽ có sự xuất hiện của
ít nhất ba bên là: đơn vị bao thanh toán là NHTM, khách hàng được NHTM
bao thanh toán (bên bán) và con nợ của tổ chức được bao thanh toán (bên
mua). Đối với hoạt động bao thanh toán xuất nhập khẩu, mối quan hệ này sẽ
phức tạp hơn do có hai đơn vị bao thanh toán sẽ đứng ra thực hiện bao thanh
toán, một đơn vị ở nước của nhà xuất khẩu và một đơn vị ở nước của nhà
nhập khẩu. Ngoài ra, khi một khách hàng ký kết hợp đồng bao thanh toán họ
sẽ bán không phải một mà là một số các khoản phải thu từ nhiều khách hàng
19. 11
khác nhau nên hoạt động bao thanh toán có thể có rất nhiều con nợ của tổ
chức được bao thanh toán.
iii, Trong hoạt động bao thanh toán miễn truy đòi, toàn bộ rủi ro của
việc thu tiền hàng từ bên mua đã được chuyển giao từ bên bán sang đơn vị
bao thanh toán.
1.1.1.2. Đặc điểm của bao thanh toán
Dịch vụ bao thanh toán thông thường sẽ có sự xuất hiện của ít nhất ba
bên:
* Đơn vị bao thanh toán: là ngân hàng, công ty tài chính chuyên thực
hiện việc mua bán nợ và các dịch vụ khác liên quan đến mua bán nợ.
Trong nghiệp vụ bao thanh toán quốc tế sẽ có hai đơn vị bao thanh toán, một
đơn vị bao thanh toán tại nước của nhà xuất khẩu và một đơn vị bao thanh
toán tại nước của nhà nhập khẩu.
* Người bán hay nhà xuất khẩu: các doanh nghiệp sản xuất hàng hóa
hoặc kinh doanh dịch vụ có những khoản nợ của khách hàng nhưng chưa
đến hạn thanh toán.
* Người mua hàng hay nhà nhập khẩu: hay còn gọi là người phải trả
tiền, đó chính là người mua hàng hóa hay nhận các dịch vụ cung ứng.
BTT có 3 đặc điểm như sau:
- Đơn vị BTT ứng trước tiền dựa trên các khoản phải thu.
- Đơn vị BTT thu hồi các khoản nợ thay cho khách hàng của mình.
- Đơn vị BTT chịu các rủi ro tín dụng về người mua (trường hợp miễn
truy đòi).
20. 1.1.2. Lợi ích của các bên khi sử dụng bao thanh toán
1.1.2.1. Đối với người bán
Khi tham gia quan hệ bao thanh toán người bán được cải thiện dòng
tiền mặt, được cung cấp nguồn tài chính để đảm bảo hoạt động sản xuất
kinh doanh ổn định. BTT truyền thống cho phép khách hàng vay tiền ngay
lập tức dựa trên số lượng bán hàng của họ, trong khi đồng thời cũng cho
phép khách hàng giữ thời hạn bán hàng bình thường. Kết quả là, dòng tiền
mặt của bên bán hàng tăng do thời hạn bán hàng được duy trì. Điều này
cho phép bên bán được tận dụng lợi thế chiết khấu khi bán hàng, đương đầu
với nhu cầu hàng hóa lưu kho tăng cao và đáp ứng được những yêu cầu tài
trợ mang tính thời vụ. Người bán cũng loại trừ được những khoản nợ xấu.
Nguyên nhân là do đơn vị BTT luôn dự trù một khoản tổn thất tín dụng
phòng trừ khả năng không trả được nợ của bên mua, và có trách nhiệm tư
vấn những rủi ro trong quan hệ mua bán cho bên bán, theo dõi sổ sách thu
hồi công nợ,... Vì vậy, bên bán sẽ được bảo vệ khỏi những rủi ro nợ xấu.
Việc này rất có lợi cho bên bán hàng khi quan hệ mua bán được thực hiện ra
khỏi phạm vi một quốc gia hay là đối với những ngành công nghiệp mới.
Người bán có thể giảm chi phí quản lý trong việc theo dõi sổ sách công nợ.
BTT đánh đổi chi phí cố định cao do duy trì hoạt động dự phòng tín dụng và
thu nợ, lấy chi phí bất biến dựa trên khối lượng doanh thu. Ngoài ra, các đơn
vị BTT còn có thể lập các báo cáo quản lý thu nợ và bán hàng mà không
phải khách hàng được bao thanh tóan nào cũng có thể thực hiện được.Người
bán có được những lợi thế nhất định trong kinh doanh và quan hệ thương
mại. Khoản ứng trước của đơn vị BTT trong việc cấp tín dụng và dự trù rủi
ro tín dụng thường cho phép khách hàng giao thêm nhiều hàng hóa cho
người mua hơn. Cũng như vậy, khách hàng có thể chọn lựa gia hạn thời
gian bán hàng cho người mua, cho phép họ tiến hành công việc kinh doanh
21. 13
mới hoặc là tiến hành nhiều phi vụ kinh doanh hơn với các khách hàng hiện
tại. Điều đó đồng nghĩa với việc bên bán có thể tận dụng cơ hội kinh doanh
của mình một cách hiệu quả nhất, tạo được nhiều lợi thế trong kinh doanh
và nâng cao tầm ảnh hưởng, uy tín của mình đối với các đối tác. Người bán
có thể giải quyết được nhu cầu cấp bách về vốn nhưng bị hạn chế về tài sản
đảm bảo. Đây có thể được xem là vấn đề rất quan trọng đối với những
quốc gia mà công nghệ NH chưa phát triển đến trình độ cao, việc quyết định
cấp tín dụng hay không phần lớn phụ thuộc vào tài sản đảm bảo của khách
hàng. Ở những nước đang phát triển, nhu cầu về vốn họat động đối với các
doanh nghiệp luôn là vấn đề quan tâm hàng đầu. Tuy nhiên, do trình độ phát
triển NH ở những quốc gia này và không phải doanh nghiệp nào cũng có tài
sản đảm bảo, nên việc NH cấp tín dụng cho doanh nghiệp hoạt động còn
nhiều hạn chế và kéo dài, đôi khi bỏ phí những cơ hội kinh doanh của
doanh nghiệp. Vì vậy, BTT phần nào giải quyết được những hạn chế nêu
trên, các đơn vị BTT sẽ thẩm định các quan hệ mua bán và quyết định có
cấp số tiền ứng trước hay không một cách nhanh chóng. Nguyên nhân là do
các đơn vị BTT thường liên quan nhiều đến khả năng trả nợ của bên mua,
chất lượng của hàng hóa dịch vụ của bên bán hơn là khả năng tài chính của
bên bán và tài sản đảm bảo của họ. [3]
Ngoài ra, người bán có cơ hội tiếp cận với những giao thương quốc
tế mới khi bao thanh tóan được áp dụng rộng rãi, được sự tư vấn của đơn vị
BTT để hạn chế những rủi ro trong quan hệ mua bán với các nước khác tới
mức thấp nhất.
1.1.2.2. Đối với người mua/nhà nhập khẩu
Hiện nay L/C vẫn là phương thức thanh toán được chấp nhận phổ
biến nhất trên toàn cầu, bảo đảm rằng nhà xuất khẩu sẽ cung cấp hàng đúng
22. như quy định trong L/C và nhà nhập khẩu sẽ thực hiện nghĩa vụ thanh toán
của mình. Nhưng nếu hàng đến chậm hay ghé vào nơi không định trước,
không theo lệ thường thì L/C sẽ gây khó khăn rất lớn cho nhà nhập khẩu.
Nói tóm lại, sử dụng bao thanh toán quốc tế, nhà nhập khẩu có những lợi ích
sau đây:
- Được mua chịu hàng dễ dàng; không cần phải mở L/C;
- Tăng sức mua hàng mà vẫn không vượt quá hạn mức tín dụng cho
phép;
- Có thể nhanh chóng đặt hàng mà không bị trì hoãn, không tốn phí
mở L/C, hay phí thương lượng;
- Các cản ngại về ngôn ngữ được giải quyết bởi đơn vị bao thanh
toán,... [4]
1.1.2.3. Đối với đơn vị bao thanh toán
Thực hiện nghiệp vụ BTT, các khoản tiền thu được như lãi suất,
phí,... là một phần quan trọng giúp doanh thu hoạt động hàng năm của đơn
vị thực hiện BTT tăng lên nhanh chóng. Việc gia tăng doanh thu đồng
nghĩa với việc gia tăng lợi nhuận hoạt động. Trên cơ sở đó, các quỹ trích
lập được gia tăng và nguồn vốn họat động ngày càng được mở rộng. Đây
là điều rất quan trọng đối với các định chế tài chính trung gian. Trên cơ sở
nguồn vốn hoạt động gia tăng, dòng tiền mặt của đơn vị BTT được củng cố,
khả năng đầu tư kinh doanh và tính thanh khoản cao giúp đơn vị BTT có
nhiều chọn lựa trong kinh doanh. Thực hiện nghiệp vụ BTT góp phần tạo
nên sự đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ cho các đơn vị BTT (thông
thường là các NHTM, công ty tài chính,…). Giúp đơn vị thực hiện BTT
không những có nhiều nguồn thu mà còn nâng cao hình ảnh thương hiệu,
tăng sức cạnh tranh của mình. Có thể nhận thấy rằng, hiện tại sản phẩm
23. 15
BTT đã không đơn thuần là một sản phẩm dịch vụ tạo nguồn thu cho NH
mà còn là một yếu tố quan trọng, mang tính “marketing” giúp các NH
nâng cao khả năng cạnh tranh, mục tiêu rất quan trọng của ngành nghề NH.
Các đơn vị BTT có thể lọai trừ được các khoản nợ xấu thông qua
việc thực hiện BTT có quyền truy đòi. Ngoài ra, quy trình thực hiện sản
phẩm BTT đều yêu cầu đơn vị BTT xem xét đến khả năng tài chính của
bên bán và bên mua, hoạt động mua bán phải thực hiện đúng những thỏa
thuận và không trái pháp luật; đây là cơ sở vững chắc trong việc thu hồi các
khoản phải thu sau khi đơn vị BTT đã mua lại từ bên bán.
Trên cơ sở ước tính các khoản chi phí liên quan đến sản phẩm dịch
vụ, lợi nhuận mong đợi, kiểm tra tín dụng và chấp nhận rủi ro tín dụng;
các NH sẽ quyết định một tỷ lệ ứng trước phù hợp với từng lần BTT. Điều
này cho phép NH có thể hạn chế những rủi ro tín dụng đến mức có thể.
Thực hiện nghiệp vụ BTT đồng nghĩa với việc NH cung cấp tài chính
để đổi lấy các khoản phải thu, lưu giữ sổ cái bán hàng và tiến hành thu nợ
các hóa đơn bán hàng chưa thanh toán. Nếu thực hiện hoạt động BTT
thường xuyên, NH có thể kiểm soát chặt chẽ hoạt động kinh doanh của các
khách hàng hiện có, mở rộng quy mô hoạt động và có thể tiếp thị được
những khách hàng tiềm năng trong tương lai. [3]
* Lợi thế của bao thanh toán so với một số hình thức cấp tín dụng
khác:
- Lợi thế của bao thanh toán so với chiết khấu hóa đơn:
Bao Thanh Toán Chiết khấu hóa đơn
Đối tượng của bao thanh toán
là các khoản phải thu.
Đối tượng của chiết khấu hóa
đơn là hối phiếu và giấy tờ có giá.
24. Bao Thanh Toán Chiết khấu hóa đơn
Quan hệ có sự ràng buộc của ba
bên: bên mua, bên bán,và đơn vị bao
thanh toán.
Quan hệ tài trợ mang tính độc
lập có sự ràng buộc giữa hai bên: bên
bán và bên mua.
Bên bán gửi thông báo về hợp
đồng bao thanh toán cho bên mua,
bên mua phải xác nhận đồng ý thanh
toán khoản nợ đó cho Ngân Hàng.
Bên mua thường không được
thông báo về ngân hàng tài trợ khoản
phải thu cho người bán. Người bán
không cần xác nhận đồng ý thanh toán
qua ngân hàng.
Ngân hàng sẽ quản lý sổ sách
bán hàng theo dõi và thu khoản phải
thu cho bên bán hàng
Ngân hàng không quản lý sổ
sách của bên bán, bên bán hàng sẽ trực
tiết quản lý số sách.
Ngân hàng quản lý bên mua
hàng chặt chẽ và ngân hàng sẽ thu hộ
tiền từ bên mua, hoặc phải chịu rủi ro
tín dụng.
Ngân hàng không quản lý bên
mua,vì người bán là người chịu trách
nhiệm cuối cùng về thu nợ từ người
mua.
Việc tài trợ cho bên bán có thể
xét theo hạn mức hoặc từng lần.
Việc tài trợ cho bên bán thường
được áp dụng theo phương thức từng
lần.
Bên bán phải có tài khoản tại
ngân hàng.
Bên bán không cần có tài khoản tại
ngân hàng.
Đối với chiết khấu hóa, ngân hàng không quản lý sổ sách của bên bán,
bên bán hàng sẽ trực tiết quản lý số sách. Do vậy, bên bán phải tốn thêm chi
phí quản lý sổ sách, trong khi đó đối với nghiệp vụ bao thanh toán thì ngân
hàng trực tiếp quản lý sổ sách, theo dõi và thu khoản phải thu cho bên bán
25. 17
hàng, vừa giảm chi phí quản lý số sách mà còn đảm bảo có thể thu hồi được
các khoản phải thu, hạn chế rủi ro tín dụng. Ngoài ra, đối với nghiệp vụ chiết
khấu hóa đơn ngân hàng không quản lý bên mua,vì người bán là người chịu
trách nhiệm cuối cùng về thu nợ từ người mua, trong khi đó đối với nghiệp vụ
bao thanh toán ngân hàng quản lý bên mua hàng chặt chẽ và ngân hàng sẽ thu
hộ tiền từ bên mua, hoặc phải chịu rủi ro tín dụng. Với khoản ứng trước có thể
đạt 80-90% giá trị khoản phải thu, nên đáp ứng nhu cầu tái sản xuất cho người
bán , tiết kiệm được thời gian, tăng nguồn vốn lưu động phục vụ sản xuất kinh
doanh. Bên cạnh đó khách hàng có thể chủ động trong việc lập kế hoạch tài
chính vì dự đoán được dòng tiền vào. Chiết khấu hóa đơn tính trên giá trị khoản
phải thu, thời gian tài trợ và lãi suất tái chiết khấu nên lãi suất hiệu dụng cao
hơn lãi suất chiết khấu. Còn bao thanh toán lãi tính trên số tiền ứng trước, thời
gian tài trợ và lãi suất. Phí tính trên giá trị khoản phải thu. Chiết khấu được
quyền truy đòi theo pháp luật. Còn bao thanh toán có thể truy đòi hoặc miễn
truy đòi tùy thỏa thuận.
- Lợi thế của bao thanh toán so với đi vay thông thường:
Bao Thanh Toán Cho vay thông thƣờng
Có với hai chủ thể gắn liền với
khoản tín dụng: Bên bán và bên mua.
Có một chủ thể gắn liền với
khoản tín dụng đó là người đi vay.
Việc cấp hạn mức tín dụng
dựa trên năng lực giữa bên bán và
bên mua.
Việc cấp hạn mức tín dụng
dựa vào năng lực của người đi vay.
Ngân hàng ứng trước tiền cho
người bán dựa trên hóa đơn bán
hàng.
Ngân hàng cấp vốn cho người
đi vay dựa trên tài sản đảm bảo.
26. Bao Thanh Toán Cho vay thông thƣờng
Thu nợ từ bên mua hàng. Thu nợ từ bên đi vay.
Ngân hàng theo dõi việc bán
hàng và các khoản phải thu của bên
mua.
Ngân hàng theo dõi và kiểm
tra tinh hình sử dụng vốn của bên đi
vay.
Bên bán không cần lập
phương án kinh doanh
Bên đi vay phải lập phương án
kinh doanh, ngân hàng kiểm tra và
thẩm định kĩ.
Đối với cho vay thông thường, bên đi vay phải lập phương án kinh
doanh, ngân hàng kiểm tra và thẩm định kĩ, đồng thời phải có tài sản đảm bảo,
tuy nhiên đối với bao thanh toán, bên bán không cần lập phương án kinh
doanh, thủ tục đơn giản tiết kiệm được thời gian và chi phí, tài sản đảm bảo
cũng chính là các khoản phải thu.
1.1.2.4. Đối với các quốc gia áp dụng BTT
BTT có thể tạo ra lợi thế cạnh tranh và thu hút giao thương quốc tế
trong điều kiện quốc gia đó còn nhiều hạn chế về Luật thương mại và thực
thi Luật thương mại, hệ thống luật phá sản và kinh nghiệm quản lý.
Đối với những quốc gia áp dụng BTT, sự hạn chế về pháp luật, hành
lang pháp lý vững chắc và trình độ kinh nghiệm là trở ngại lớn cho hoạt
động giao thương trong và ngoài nước. Đăc biệt là trong hoạt động giao
thương quốc tế, các bên bán rất hạn chế giao dịch với đối với bên mua tại
các quốc gia có Luật thương mại yếu kém vì cơ sở giao dịch không được
bảo đảm. Điều này đồng nghĩa với sự phát triển của quốc gia đó gặp nhiều
hạn chế, sự hấp dẫn đầu tư cũng giảm sút. Thông qua việc áp dụng BTT,
vấn đề này được cải thiện rất nhiều. Với vai trò hoạt động của mình, các
27. 19
đơn vị BTT phải có trách nhiệm tư vấn, kiểm tra những nghiệp vụ mua bán
chung nhằm đảm bảo có thể kiểm soát theo dõi chặt chẽ khoản phải thu
trong tương lai và loại trừ được nợ xấu. Điều này cũng góp phần cải thiện
hình ảnh của bên mua tại những quốc gia có Luật thương mại kém đối với
bên bán, nhờ vào sự đảm bảo về mặt tài chính và uy tín của các đơn vị BTT
(thông thường là các NH hay các công ty tài chính chuyên nghiệp). Việc áp
dụng sản phẩm BTT thường xuyên và hiệu quả sẽ giúp tăng cao lợi thế
cạnh tranh và thu hút giao thương quốc tế. BTT đem lại lợi thế đối với
việc tài trợ các khoản phải thu giữa các quốc gia. Trong xu thế toàn cầu hóa,
hội nhập hóa như hiện nay thì việc giao thương mua bán giữa các quốc gia,
giữa các công ty của quốc gia này với các công ty của các quốc gia khác,
khu vực khác là điều rất thường xuyên. Thông qua sản phẩm BTT, quốc gia
của bên bán có thể tăng cường tài trợ trực tiếp cho bên bán để tăng cường
phát triển kinh tế nhưng đồng thời đảm bảo nguồn thu ngoại tệ cho đất nước.
Ngoài ra, chính phủ các nước có thể tham gia tài trợ qua các liên
minh BTT quốc tế nhằm tăng cường cơ hội giao thương quốc tế và củng
cố vị thế đất nước trong khu vực nói riêng và toàn cầu nói chung. Điển
hình nhất cho liên minh BTT quốc tế là tổ chức FCI (mạng lưới BTT quốc
tế). Tổ chức này được thành lập năm 1968 và phát triển thành mạng lưới
BTT lớn nhất thế giới. Khái niệm FCI được hình thành trên cơ sở sự hiểu
biết khu vực sở tại và sự năng động về cách tiếp cận. Mỗi nước hoạt động
theo một cách riêng, nhạy cảm với tập quán và văn hóa sở tại, bổ sung
một khía cạnh độc đáo cho hoạt động BTT quốc tế. Tuy nhiên, điều quan
trọng là đều sử dụng một hệ thống thông tin liên lạc tiêu chuẩn hoạt động
theo quy tắc hành nghề toàn cầu. Các thành viên trong FCI phải tuân thủ
nghiêm ngặt các tiêu chí về năng lực tài chính và tiêu chuẩn dịch vụ cao. [4]
28. 1.1.3.Cácloạihìnhbaothanhtoán
1.1.3.1. Phân loại theo phạm vi địa lý
1.1.3.1.1. BTT trong nước:
BTT trong nước là dịch vụ BTT được cung cấp cho người bán và
người mua ở trong cùng một quốc gia, có hoạt động mua bán hàng hóa/
dịch vụ diễn ra trong phạm vi địa giới hành chính của một quốc gia.
1.1.3.1.2. BTT quốc tế:
BTT quốc tế là dịch vụ BTT được cung cấp cho người xuất khẩu và
người nhập khẩu ở hai quốc gia khác nhau, có hoạt động mua bán hàng
vượt qua địa giới của một quốc gia.
Về cơ bản, trình tự của dịch vụ BTT quốc tế cũng tương tự như trình
tự của dịch vụ BTT trong nước. Điểm khác biệt là khả năng có sự tham gia
của hệ thống hai đại lý (hai đơn vị BTT đứng ra làm đại lý cho nhau để
cung cấp dịch vụ cho người xuất khẩu và người nhập khẩu). Các đại lý
thường có trụ sở tại nước của người xuất khẩu và nước của người nhập
khẩu. BTT quốc tế thường được chia làm hai loại: BTT xuất khẩu và BTT
nhập khẩu.
BTT NK trực tiếp là dịch vụ BTT mà trong đó người XK chuyển
nhượng các khoản phải thu cho một ĐVBTT ở nước người NK. Đây là
dịch vụ BTT thường xuyên được áp dụng trong trường hợp dung lượng XK
lớn đối với một nước NK cụ thể. Phương án này rẻ và tiết kiệm thời gian
thu nợ nhưng không phục vụ mục đích cung cấp tài chính cho người XK.
ĐVBTT chỉ cung cấp dịch vụ thu nợ và bảo hiểm rủi ro khi người NK mất
khả năng thanh toán.
BTT XK trực tiếp là dịch vụ BTT mà người XK chuyển nhượng nợ
29. 21
cho một ĐVBTT ở ngay nước người XK. ĐVBTT cung cấp chức năng tài trợ
và bảo hiểm rủi ro khi người NK mất khả năng thanh toán để bảo hiểm rủi
ro, ĐVBTT phải mua bảo hiểm tín dụng của công ty bảo hiểm. Ưu điểm của
loại BTT này là chi phí thấp, liên lạc giữa người XK và ĐVBTT chặt chẽ,
nhưng nhược điểm là khả năng nắm bắt thông tin về người NK, luật pháp
và tập quán của nước NK kém. Trên thực tế, việc khó liên lạc với người
NK, rủi ro tín dụng và tranh chấp phát sinh là những vấn đề nghiêm trọng
trong thanh toán XK nên chi phí của loại BTT này thực ra có thể không
rẻ chút nào. Thông thường, BTT XK trực tiếp chỉ áp dụng đối với các thị
trường XK láng giềng.
1.1.3.2. Phân loại theo chức năng hoạt động
1.1.3.2.1. Chiết khấu hóa đơn (invoice discounting):
Chiết khấu hóa đơn là dịch vụ BTT chỉ cung cấp chức năng tài trợ
(tạm ứng trước) mà không cung cấp các chức năng còn lại. Người bán tự
theo dõi sổ sách bán hàng, thu nợ từ người mua, và chuyển tiền thanh toán
cho ĐVBTT. Người bán tự chịu rủi ro khi người mua không thanh toán. Đôi
khi, người ta còn gọi chiết khấu hóa đơn là BTT kín vì người mua không
hề hay biết về việc người bán đã chuyển nhượng các khoản phải thu cho
ĐVBTT.
1.1.3.2.2. BTT trung gian:
BTT trung gian tương tự như dịch vụ chiết khấu hóa đơn, nhưng
người mua được thông báo về việc người bán đã chuyển nhượng các
khoản phải thu cho ĐVBTT để tăng mức độ an toàn cho ĐVBTT. Sở dĩ nó
được gọi là BTT trung gian vì người bán hàng đứng ra làm trung gian giữa
người mua và ĐVBTT để theo dõi sổ sách bán hàng và thu nợ từ người mua
hàng. Trong một số trường hợp, người mua được yêu cầu thanh toán trực
30. tiếp cho ĐVBTT. Thường thì hình thức này được sử dụng đối với người
bán hàng có nhiều người mua hàng nhỏ nhưng không đủ tiên chuẩn để sử
dụng dịch vụ chiết khấu hóa đơn. Một biến tấu của BTT trung gian là
ĐVBTT theo dõi sổ sách bán hàng nhưng cho phép người bán thực hiện
chức năng thu nợ.
1.1.3.2.3. BTT đến hạn:
BTT đến hạn là dịch vụ BTT cung cấp tất cả các chức năng BTT
trừ chức năng tài trợ.
1.1.3.2.4. BTT thu hộ:
BTT thu hộ là dịch vụ BTT chỉ cung cấp chức năng thu hộ các khoản
thu phát sinh trong một khoảng thời gian nhất định trước ngày ĐVBTT đồng
ý cung cấp dịch vụ. Người bán có trách nhiệm theo dõi sổ sách và thu nợ
cho tới tận ngày đó. ĐVBTT chỉ thu hộ tất cả các khoản phải thu hiện có
tại thời điểm đồng ý cung cấp dịch vụ và sẽ không thu những khoản phải thu
phát sinh sau thời điểm này.
1.1.3.2.5. BTT có truy đòi:
BTT có truy đòi là dịch vụ BTT có tất cả các chức năng BTT trừ
chức năng bảo hiểm rủi ro tín dụng. Nếu các khoản phải thu (đã được
chuyển nhượng) đến hạn mà ĐVBTT không đòi được từ người mua hàng thì
ĐVBTT có quyền truy đòi lại số tiền đã ứng trước/ thanh toán cho người bán
hàng.
1.1.3.2.6. BTT miễn truy đòi:
BTT miễn truy đòi là dịch vụ BTT cung cấp chức năng bảo hiểm rủi
ro tín dụng, ĐVBTT phải chịu rủi ro không thu được tiền thanh toán với
điều kiện không có tranh chấp giữa người bán và người mua. ĐVBTT
31. 23
không có quyền đòi lại số tiền đã ứng trước/thanh toán cho người bán hàng
và phải thanh toán đầy đủ 100% trị giá hóa đơn. Dịch vụ BTT đầy đủ và BTT
đến hạn chính là BTT miễn truy đòi.
1.1.3.3. Phân loại theo phạm vi áp dụng đối với người mua/bán
1.1.3.3.1. Theo phạm vi áp dụng BTT đối với số lượng hóa đơn của 1
người bán:
- BTT toàn bộ:
BTT toàn bộ là dịch vụ BTT áp dụng đối với toàn bộ các hóa đơn
thương mại phát hành ra của một người bán hàng hoặc toàn bộ hóa đơn
thương mại của người bán hàng phát ra để đòi tiền một hoặc một số người
mua hàng.
- BTT một phần:
BTT một phần là dịch vụ BTT áp dụng đối với một số hóa đơn phát
hành của người bán hàng đòi tiền một hoặc một số người mua hàng.
1.1.3.3.2. Theo phạm vi giao dịch của ĐVBTT với người mua:
- BTT kín:
BTT kín là dịch vụ BTT cung cấp cho người bán, nhưng người mua
không hay biết về việc người bán đã chuyển nhượng các khoản phải thu
cho ĐVBTT. Người mua thanh toán tiền hàng cho người bán hàng như
thông lệ và người bán chuyển số tiền hàng này cho ĐVBTT. Một biến tấu
của BTT kín là sự kết hợp giữa chức năng tài trợ và chức năng bảo hiểm rủi
ro tín dụng.
- BTT công khai:
BTT công khái là dịch vụ BTT được cung cấp cho người bán, đồng
32. thời người mua được thông báo về việc người bán chuyển nhượng các
khoản phải thu cho ĐVBTT. Người mua thanh toán số tiền hàng trực tiếp
cho ĐVBTT.
1.1.3.4. Phân loại theo sự liên kết hoạt động
BTT giáp lưng: là một thỏa thuận phù hợp nhất đối với các khoản
nợ giữa các nhà phần phối độc quyền (đồng thời là người NK) và nhà
cung cấp sản phẩm (người XK). Người XK vẫn ký hợp đồng bình thường
với ĐVBTT XK. Nhưng giữa ĐVBTT NK và nhà phân phối (nhà NK) tồn
tại một hợp đồng BTT độc lập, trong đó quy định quyền bù trừ giữa những
khoản phải thu phát sinh từ việc bán hàng trong nước của nhà phân phối và
các khoản nợ của nhà phân phối (người NK) đối với người XK (người
cung cấp bán hàng). Điều này có nghĩa ĐVBTT NK đồng thời cung cấp
dịch vụ BTT trong nước cho nhà phân phối.
1.1.3.5. Phân loại theo thời gian
1.1.3.5.1. BTT ứng trước:
BTT ứng trước là loại hình BTT theo đó đơn vị BTT chiết khấu các
khoản phải thu trước ngày đáo hạn và ứng trước tiền cho đơn vị bán hàng
(có thể đến 80% giá trị hóa đơn).
1.1.3.5.2. BTT khi đến hạn:
BTT khi đến hạn là loại BTT theo đó đơn vị BTT sẽ trả cho các
khách hàng của mình (người bán hàng) số tiền bằng giá mua của các khoản
BTT khi đáo hạn.
33. 25
1.2. Sự cần thiết và nhận diện mô hình pháp luật điều chỉnh
quanhệ bao thanh toán
1.2.1. Sự cần thiết về pháp luật điều chỉnh quan hệ bao thanh toán
Ngoài những lợi ích nhiều mặt của BTT, hoạt động này cũng tồn tại
những mặt trái đòi hỏi phải có sự điều chỉnh của pháp luật. Bởi lẽ, đây là hình
thức thanh toán không cần sử dụng đến hối phiếu hay L/C, hai bên mua và
bán chỉ cần bàn bạc ký kết hợp đồng với nhau với điều khoản thanh toán
thông qua tổ chức BTT hoặc NH với nghiệp vụ BTT. Bất kỳ một nghiệp vụ
nào cũng có rủi ro của nó, BTT cũng thế nó cũng có những rủi ro tác
nghiệp. Rủi ro trong nghiệp vụ này cho khách hàng chúng ta có thể nhận thấy
được từ các bên như sau:
Trong hình thức tài trợ BTT này khách hàng có thể là người mua,
người NK hoặc người bán, người XK. Vì thế rủi ro khách hàng là rủi ro phát
sinh từ phía người mua và người bán.
Trong nghiệp vụ BTT miễn truy đòi, người bán (nhà XK) hầu như
không chịu rủi ro phát sinh vì đã bán toàn bộ khoản nợ cho NH. Trong
nghiệp vụ BTT có truy đòi thì bên XK vẫn còn chịu trách nhiệm hay chịu
rủi ro từ phía nhà NK. Khi nhà NK mất khả năng thanh toán, bên XK có
trách nhiệm hoàn trả lại số tiền đã ứng trước cho tổ chức BTT.
Đối với người mua sẽ chịu rủi ro từ phía người bán gây ra chẳng hạn
như hàng hoá giao không đúng chất lượng, không đúng quy cách.
Trong nghiệp vụ BTT, NH là người chịu hoàn toàn rủi ro do đã mua
lại các KPT từ người bán. Những rủi ro NH thường gặp có thể kể đến như
sau:
Người bán bán toàn bộ KPT cũng đồng nghĩa với việc chuyển giao
34. toàn bộ những rủi ro cho NH. Trong trường hợp NH chấp nhận BTT có
quyền truy đòi người bán, NH phải nắm vững thông tin về phía người bán
như tình hình tài chính, khả năng thu hồi khoản tài trợ. Nếu một doanh
nghiệp không đủ khả năng đảm bảo cho khoản tài trợ, rủi ro về phía NH sẽ
rất lớn. Bởi vì, nếu NH không thu hồi được nợ từ người mua thì cũng sẽ
khó khăn trong việc truy đòi người bán. Do đó, khi thực hiện BTT đối với
người bán thì NH cần phải thẩm định người bán về tình hình tài chính, về
tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, về hàng hoá được giao
dịch hay nói cách khác là thẩm định KPT.
Rủi ro cao nhất có thể xảy ra khi NH cung cấp dịch vụ BTT khi có rủi
ro phát sinh từ người mua, bởi vì trách nhiệm trả nợ thuộc về người mua.
Nếu đánh giá không đúng chất lượng KPT, có thể NH sẽ không thu hồi
được nợ và chịu toàn bộ rủi ro cho khoản BTT. Vì thế, việc thẩm định
người mua (nhà NK) là một việc làm cần thiết và đặc biệt được NH quan
tâm. Khi NH quyết định BTT cho một KPT, NH tiến hành thẩm định khách
hàng về khả năng thanh toán KPT khi đến hạn của người mua. Cụ thể là
thẩm định chất lượng người mua như thẩm định về tình hình tài chính của
DN, uy tín, quá trình hoạt động kinh doanh của DN. Bởi vì, chất lượng
người mua thấp sẽ gây ra khó khăn cho việc thu hồi các KPT.
Bên cạnh đó, tổ chức BTT cũng cần thẩm định khả năng thu hồi của
KPT. Bởi vì, đây chính là yếu tố quyết định việc thu hồi nợ khi đến hạn.
Chất lượng KPT có thể bao gồm các yếu tố sau: hàng hoá giao dịch có
được thị trường chấp nhận hay không? Và thị trường tiêu thụ của DN ra
sao? Thời gian thu hồi nợ dài hay ngắn? Thời gian thu hồi nợ quá dài cũng sẽ
gây khó khăn cho đơn vị BTT thu hồi nợ.
Tổ chức BTT sẽ không gánh chịu rủi ro về chính trị cũng như rủi ro
35. 27
do chủ quan của nhà XK như chủ trương quản lý ngoại tệ, chính sách phong
toả kinh tế của chính phủ. Vì những lý do này nhà NK không thể thanh
toán được hoặc không thể nhập hàng được. Để khắc phục rủi ro này, tổ
chức BTT đòi hỏi nhà XK phải có bảo hiểm và để lại từ 10% đến 30% giá
trị khoản BTT vào tài khoản khống chế. Đây là cơ sở an toàn cho nghiệp vụ
BTT của tổ chức BTT.
BTT quốc tế thông thường được thực hiện giữa hai quốc gia khác
nhau. Do đó, việc thẩm định khách hàng là người mua ở quốc gia khác là rất
khó khăn cho đơn vị BTT. Vì thế, rủi ro mà NH gánh chịu từ nghiệp vụ này
rất cao. Để khắc phục khó khăn này tổ chức BTT trong nước phải thông qua
một tổ chức BTT ở quốc gia người NK để tiến hành thẩm định. Các ĐVBTT
vì vậy cần liên kết với nhau thành tổ chức FCI.
ĐVBTT có thể gặp khó khăn về tính thanh khoản khi luồng tiền ra và
luồng tiền vào của đơn vị không tương xứng, cả về lượng và thời gian. Khi đó
ĐVBTT sẽ không thể ứng trước cho người bán cho đến khi thu được nợ.
Khi ứng trước cho người bán hoặc khi thu nợ từ người mua bằng ngoại
tệ, lợi nhuận của ĐVBTT có thể bị ảnh hưởng khi tỷ giá hối đoái thay đổi.
Chính sự tồn tại nhiều rủi ro trong hoạt động BTT, một hình thức cấp
tín dụng của tổ chức tín dụng và là hình thức cung ứng dịch vụ tài chính trong
nền kinh tế nên sự can thiệp của nhà nước thông qua công cụ pháp luật đối
với hoạt động này là cần thiết để đảm bảo an toàn cho hệ thống tài chính – tín
dụng, ổn định nền kinh tế vĩ mô.
1.2.2. Nhận diện mô hình hoạt động bao thanh toán ở một số nƣớc
trên thế giới và khái niệm pháp luật bao thanh toán
Để tồn tại và phát triển, phải đáp ứng các yêu cầu của thị trường,
do đó nghiều công ty BTT của Mỹ cung cấp tất cả các dịch vụ bao gồm:
36. BTT, bảo đảm tín dụng, kế toán các khoản phải thu, dịch vụ nhờ thu, tài trợ
trên cơ sở các khoản phải thu và kho thành phẩm, khách hàng chọn lọc,
quản lý các khoản phải thu, bán buôn các khoản phải thu, bao thanh toán
xuất nhập khẩu, bảo đảm vốn lưu động xuất khẩu, tài trợ các đơn mua hàng,
L/C.
Ở Pháp, các công ty BTT trực thuộc ngân hàng có lợi thế hơn trên
thị trường. Các công ty trực thuộc tập đoàn ngân hàng và các tổ chức tài
chính nước ngoài cũng đang dần dần chiếm lĩnh thị phần. BTT ở Pháp chủ
yếu đáp ứng nhu cầu của các tập đoàn lớn và các công ty vừa và nhỏ trong
kinh doanh với các nước Châu Âu khác. Trước đây BTT tập trung chủ yếu
vào các công ty có nhân công từ 50 đến 200 người, nhưng bây giờ đã mở
rộng áp dụng cho tất cả các phân đoạn khác của thị trường. Các công ty
vừa và nhỏ là khách hàng mục tiêu, đặc biệt là BTT trong nước và những
công ty có khối lượng xuất khẩu lớn.
Sự thành công của nghiệp vụ BTT ở Italy nhờ vào nỗ lực của các
công ty BTT trong việc làm hài lòng khách hàng bằng cách nâng cao chất
lượng dịch vụ của mình (thân mật hơn, giảm thủ tục, thực hiện qua
mạng,…). Họ chú ý đầu tư vào công nghệ thông tin hiện đại và đạt tốc độ
tăng quy mô của BTT trên toàn quốc là đáng kể. Có ba nhóm công ty BTT
trên thị trường Italy: nhóm ngân hàng (banking), nhóm công nghiệp
(captive), nhóm độc lập (independent). Nhóm công nghiệp được hình thành
bởi những tập đoàn công nghiệp lớn, hoạt động BTT với các nhà cung cấp
và chính các tập đoàn đã hình thành nên nó. Luật pháp ủng hộ họ, cho phép
khách hàng ngăn cản các nhà cung cấp ký hợp đồng BTT với các đơn vị
BTT không thuộc tập đoàn của mình. Tuy nhiên BTT của ngành ngân hàng
vẫn hiệu quả hơn: do nguồn vốn dồi dào, mạng lưới phân phối, sản phẩm
dịch vụ đa dạng, công nghệ cao,...
37. 29
Hoạt động BTT tại Nhật Bản được cung cấp bởi các công ty chuyên
ngành ngân hàng, hoạt động theo luật ngân hàng. Qua những cuộc sáp
nhập mới đây của các Ngân hàng lớn ở Nhật Bản, các công ty BTT cũng
được tác cơ cấu lại và trở nên tập trung hơn. Mỹ là thị trường BTT lớn nhất
của Nhật Bản, còn ở châu Á là Hàn Quốc và Đài Loan. Ở Nhật Bản đang
có sự chuyển dần từ các phương thức thanh toán truyền thống như L/C,
D/A, D/P sang BTT. Hiệp hội BTT Nhật Bản mới chỉ giới hạn ở chỗ trao
đổi kinh nghiệm chuyên môn, chứ chưa thực sự phát huy vai trò của nó.
Ở Hồng Kong, BTT thường được coi là phương thức tài trợ cuối cùng.
Tuy nhiên BTT cũng đang dần dần được coi là một dịch vụ ngân hàng bình
thường vì có nhiều ngân hàng cung cấp dịch vụ này. Khách hàng của BTT
ở HongKong là các ngành điện tử, đồ chơi, sản phẩm viễn thông liên lạc,
máy tính, thực phẩm, in và giấy, điện lực, giao nhận vận tải và tư vấn. Các
loại BTT được cung cấp là: BTT trong nước miễn hoặc có truy đòi, chiết
khấu hóa đơn, BTT kín, BTT xuất nhập khẩu và BTT giáp lưng.
Đạo luật về BTT các khoản nợ theo hóa đơn thương mại và công
nghiệp của Ấn Độ được ban hành, quy định quyền của đơn vị BTT là
người được chuyển nhượng khoản nợ và được pháp luật bảo vệ. Các ngành
phụ tùng ô tô, hóa chất giấy và bao bì, dệt may, thương mại, phần cứng máy
tính, điện, điện tử,...là khách hàng sử dụng BTT. Những lý do khiến BTT
Ấn Độ chưa phát triển mạnh là: đơn vị BTT chưa tiếp cận được với bảo
hiểm tín dụng để dựa vào đó cung cấp BTT miễn truy đòi cho khách hàng;
khuôn khổ luật Ấn Độ chưa buộc được người mua phải thanh toán tiền hàng
cho công ty BTT (chứ không phải cho người bán); các ngân hàng có thái độ
coi các đơn vị BTT là đối thủ cạnh tranh của họ; các đơn vị BTT phải vay
vốn của ngân hàng để tài trợ nên chi phí BTT cao hơn các chi phí dịch vụ
ngân hàng khác.
38. Từ đó, nhận diện BTT là một hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín
dụng nên có thể xác định những nét cơ bản của mô hình pháp luật điều chỉnh
quan hệ BTT trên những mặt chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, quan hệ BTT giữa tổ chức tín dụng với khách hàng là bên
mua, bên bán là quan hệ tư. Do đó, nền tảng pháp luật điều chỉnh quan hệ này
là pháp luật tư, trong đó Bộ Luật Dân sự (ở một số nước là Bộ luật Dân sự -
Thương mại hay Bộ luật Thương mại) đóng vai trò quan trọng nhất.
Thứ hai, là hoạt động cấp tín dụng nên hoạt động BTT của tổ chức tín
dụng chịu sự điều chỉnh của pháp luật chuyên ngành là pháp luật ngân hàng.
Thứ ba, trong điều kiện toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới các quan hệ
thanh toán, bao thanh toán không chỉ bó hẹp trong phạm vi mỗi quốc gia.
Pháp luật về BTT là bộ phận pháp luật điều chỉnh quan hệ xã hội gắn với các
tác nghiệp kinh tế - tài chính. Do đó, pháp luật của quốc gia bao giờ cũng
chịu sự ảnh hưởng lớn của các điều ước, tập quán và thông lệ quốc tế về
BTT.
Tóm lại, từ bản chất của quan hệ bao thanh toán và cơ cấu chủ thể có
thể biểu đạt khái niệm về pháp luật bao thanh toán như sau:
Pháp luật bao thanh toán là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều
chỉnh quan hệ cấp tín dụng giữa tổ chức tín dụng với khách hàng, theo đó tổ
chức tín dụng mua lại có bảo lưu quyền truy đòi các khoản phải thu hoặc các
khoản phải trả phát sinh từ việc mua, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ theo
hợp đồng.
Trong điều kiện kinh tế phát triển mạnh mẽ trong thời gian gần đây
tại nhiều quốc gia trên thế giới, các sản phẩm dịch vụ tài chính ngân hàng
ngày một đa dạng và phát triển mạnh mẽ, các quốc gia có những đặc điểm
riêng biệt về lãnh thổ, con người, điều kiện kinh tế… do đó bao thanh toán
39. 31
tại các nước cũng có những đặc điểm riêng biệt. Không phải quốc gia nào
cũng áp dụng một cách đầy đủ và chính thống các nghiệp vụ bao thanh
toán. Ở Châu Âu, nền kinh tế phát triển mạnh mẽ và mức độ uy tín của các
doanh nghiệp được đảm bảo, việc áp dụng dịch vụ bao thanh toán được mở
rộng với điều kiện dễ dàng. Còn ở các nước Châu Á như Trung Quốc, Hàn
Quốc, Ấn Độ nghiệp vụ này chưa được áp dụng đầy đủ, thường hạn chế ở
một số ngành hàng và một số đối tượng khách hàng nhất định hoặc cho
quyền truy đòi người bán trong trường hợp người mua không trả nợ cho đơn
vị bao thanh toán. Đối với thị trường Việt Nam, nơi mà có mức độ rủi ro thị
trường còn cao, thì pháp luật có vai trò quan trọng nhất vì nó hạn chế rủi ro
có thể xảy đến cho tất cả các bên tham gia nghiệp vụ.
40. KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
1. Với quá trình phát triển lâu dài với những lợi ích ưu việt, nghiệp vụ
bao thanh tóan trở thành một sản phẩm quan trọng trong lĩnh vực hoạt động
ngân hàng. Nhận thức được tầm quan trọng và lợi ích tất yếu phải phát triển
dịch vụ bao thanh toán nên việc tìm hiểu những khái niệm, các loại hình
nhiệp vụ bao thanh toán, quy trình thực hiện, các lợi ích của nghiệp vụ
mang lại cũng như những rủi ro, hạn chế của nhiệp vụ bao thanh toán,…là
cơ sở giúp cho các tổ chức bao thanh toán có thể xây dựng quy trình, thủ tục
áp dụng nghiệp vụ bao thanh toán phù hợp với tình hình thực tiễn của mỗi
quốc gia.
2. Pháp luật về bao thanh toán là một bộ phận của pháp luật tư, quy
định các tác nghiệp mang tính kỹ thuật kinh tế rất cao. Do đó, việc xây dựng,
hoàn thiện bộ phận pháp luật này cần tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm
quốc tế.
41. 33
CHƢƠNG 2- THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN HOẠT
ĐỘNG VỀ BAO THANH TOÁN CỦA TỔ CHỨC TÍN DỤNG TẠI
VIỆT NAM
2.1. Thực trạng pháp luật về hoạt động bao thanh toán của tổ chức
tín dụng ở Việt Nam
2.1.1. Cơ sở pháp lý, các nguyên tắc, phân loại và phƣơng thức bao
thanh toán theo pháp luật Việt Nam
2.1.1.1. Cơ sở pháp lý
Bao thanh toán là hình thức cấp tín dụng thông qua hệ thống ngân hàng
và các công ty tài chính. Trong phạm vi chương này chỉ đề cập đến hoạt
động bao thanh toán tại các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay.
Theo định nghĩa của Ngân hàng Nhà nước, bao thanh toán là hình thức
cấp tín dụng nên sản phẩm này chịu sự chi phối bởi Luật các tổ chức tín
dụng do Quốc hội ban hành và các quy định, quy chế của Ngân hàng Nhà
nước.
Một số văn bản pháp luật hướng dẫn thực hiện và điều chỉnh nghiệp
vụ bao thanh toán hiện nay như:
1/. Luật các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 ngày 16/6/2010.
2/. Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Ngân
hàng Nhà nước về việc ban hành qui chế cho vay của các tổ chức tín dụng;
Quyết định sửa đổi bổ sung quy chế cho vay số 127/2005/QĐ-NHNN ngày
03/02/2005.
3/. Quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN ngày 19/04/2005 của Ngân
hàng Nhà nước ban hành Quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt
động của tổ chức tín dụng.
42. 4/. Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 của Ngân
hàng Nhà nước về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi
ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng.
5/. Công văn số 676/NHNN-CSTT ngày 28/06/2005 của Ngân hàng
Nhà nước về việc cơ cấu lại thời hạn trả nợ, chuyển nợ quá hạn đối với
hoạt động bao thanh toán của tổ chức tín dụng.
6/. Quyết định số 1096/2004/QĐ-NHNN ngày 06/09/2004 của Thống
đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành quy chế hoạt động bao thanh toán của các
Tổ chức tín dụng.
7/. Quyết định 30/2008/QĐ-NHNN ngày 16/10/2008 của Thống đốc
Ngân hàng Nhà nước về sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế hoạt
động bao thanh toán của các Tổ chức tín dụng ban hành kèm theo Quyết
định số 1096/2004/QĐ-NHNN ngày 06/09/2004 của Thống đốc Ngân hàng
Nhà nước.
Quyết định số 1096/2004/QĐ-NHNN (gọi tắt là Quyết định 1096 hoặc
Quy chế 1096, Quy chế bao thanh toán) và Quyết định 30/2008/QĐ-NHNN
là cơ sở pháp lý rõ ràng và riêng biệt cho hoạt động bao thanh toán hiện nay.
Tất cả các đơn vị bao thanh toán trong và ngoài nước đều phải dựa vào quy
định này để thực hiện.
2.1.1.2. Nguyên tắc thực hiện bao thanh toán
Nguyên tắc thực hiện BTT là những quy định chung nhất, bắt buộc
phải tuân thủ khi tham gia hoạt động BTT của các chủ thể. Theo Điều 3
Quyết định số 1096/2004/QĐ-NHNN quy định về nguyên tắc thực hiện BTT
như sau:
43. 35
- Đảm bảo an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng được thực hiện
bao thanh toán và phù hợp với qui định của pháp luật Việt Nam;
- Đảm bảo các quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của các bên tham
gia vào hợp đồng bao thanh toán và các bên có liên quan đến khoản phải thu;
- Khoản phải thu được bao thanh toán phải có nguồn gốc từ các hợp
đồng mua, bán hàng phù hợp với qui định của pháp luật liên quan. [7, Điều 3]
2.1.1.3. Phân loại các hình thức bao thanh toán theo pháp luật Việt
Nam
Ở chương 1, ta đã nghiên cứu các cách phân loại BTT trên phương diện
lý luận, ở phần nay, xin đưa ra cách phân loại chung nhất và các loại hình
BTT phổ biến thường gặp, được quy định tại Điều 11 Quyết định số
1096/2004/QĐ-NHNN:
* Đơn vị bao thanh toán được thực hiện các hình thức bao thanh toán
sau:
- Bao thanh toán có quyền truy đòi: đơn vị bao thanh toán có quyền
đòi lại số tiền đã ứng trước cho bên bán hàng khi bên mua hàng không có khả
năng hoàn thành nghĩa vụ thanh toán khoản phải thu.
- Bao thanh toán không có quyền truy đòi: đơn vị bao thanh toán chịu
toàn bộ rủi ro khi bên mua hàng không có khả năng hoàn thành nghĩa vụ
thanh toán khoản phải thu. Đơn vị bao thanh toán chỉ có quyền đòi lại số tiền
đã ứng trước cho bên bán hàng trong trường hợp bên mua hàng từ chối thanh
toán khoản phải thu do bên bán hàng giao hàng không đúng như thoả thuận
tại hợp đồng mua, bán hàng hoặc vì một lý do khác không liên quan đến khả
năng thanh toán của bên mua hàng.
44. * Đơn vị bao thanh toán được thực hiện bao thanh toán trong nước và
bao thanh toán xuất - nhập khẩu. [7, Điều 11]
2.1.1.4. Phương thức thanh toán
Bên cạnh những quy định về loại hình BTT, tại Quyết định
1096/2004/QĐ-NHNN còn quy đinh về Phương thức bao thanh toán được
phép hoạt động ở Việt Nam, được chia làm 3 phương thức như sau:
- Bao thanh toán từng lần: Đơn vị bao thanh toán và bên bán hàng thực
hiện các thủ tục cần thiết và ký hợp đồng bao thanh toán đối với các khoản
phải thu của bên bán hàng.
- Bao thanh toán theo hạn mức: Đơn vị bao thanh toán và bên bán hàng
thoả thuận và xác định một hạn mức bao thanh toán duy trì trong một khoảng
thời gian nhất định.
- Đồng bao thanh toán: hai hay nhiều đơn vị bao thanh toán cùng thực
hiện hoạt động bao thanh toán cho một hợp đồng mua, bán hàng, trong đó một
đơn vị bao thanh toán làm đầu mối thực hiện việc tổ chức đồng bao thanh
toán. [7]
2.1.2. Chủ thể của quan hệ bao thanh toán
2.1.2.1. Bên bao thanh toán (đơn vị bao thanh toán)
Bên bao thanh toán là tổ chức tín dụng (TCTD) được cấp phép để tiến
hành cấp tín dụng cho khách hàng của mình dưới hình thức mua lại các khoản
phải thu thương mại.
Theo quy định tại điểm 2.1, khoản 2, Điều 1 Quyết định số
1096/2004/QĐ-NHNN loại hình TCTD được thực hiện bao thanh toán:
- Ngân hàng thương mại nhà nước
45. 37
- Ngân hàng thương mại cổ phần
- Ngân hàng liên doanh
- Ngân hàng 100% vốn nước ngoải
- Chi nhánh ngân hàng nước ngoài
- Công ty tài chính.
Tuy nhiên, đến Quyết định số 30/2008/QĐ-NHNN đã mở rộng phạm vi
chủ thể là đơn vị bao thanh toán thêm công ty cho thuê tài chính, với sự mở
rộng này, đã tăng chức năng hoạt động của Công ty cho thuê tài chính, đồng
thời có thêm sự lựa chọn cho các doanh nghiệp.
Đồng thời, bên bao thanh toán phải được ngân hàng Nhà nước Việt
Nam cho phép thực hiện hoạt động bao thanh toán.Theo khoản 1, Điều 7
Quyết định số 1096/2004/QĐ-NHNN quy định điều kiện hoạt động của các tổ
chức bao thanh toán:
- Có nhu cầu hoạt động bao thanh toán;
- Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ cho vay tại thời điểm cuối tháng của
3 tháng gần nhất dưới 5%; không vi phạm các quy định về an toàn hoạt động
ngân hàng;
- Không thuộc đối tượng đang bị xem xét xử lý vi phạm hành chính
trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng hoặc đã bị xử lý vi phạm hành chính trong
lĩnh vực tài chính, ngân hàng nhưng đã khắc phục được hành vi vi phạm.
Theo Điều 20 Quyết định số 1096/2004/QĐ-NHNN quy định về an
toàn như sau:
- Hoạt động bao thanh toán phải bảo đảm các quy định về an toàn tại
Luật các Tổ chức tín dụng và các văn bản hướng dẫn của Ngân hàng Nhà
nước;
46. - Tổng số dư bao thanh toán cho một khách hàng không được vượt quá
15% vốn tự có của đơn vị bao thanh toán. Đối với chi nhánh ngân hàng nước
ngoài, tổng số dư bao thanh toán cho một khách hàng không được vượt quá
15% vốn tự có của ngân hàng nước ngoài.
- Số dư các khoản phải thu mà đơn vị bao thanh toán nhập khẩu bảo
lãnh thanh toán cho 01 bên nhập khẩu phải nằm trong giới hạn tổng số dư bảo
lãnh của tổ chức tín dụng cho 01 khách hàng theo quy định tại Quy chế Bảo
lãnh ngân hàng.
- Trường hợp nhu cầu bao thanh toán của một khách hàng vượt quá
15% vốn tự có của đơn vị bao thanh toán thì các đơn vị bao thanh toán
được thực hiện đồng bao thanh toán cho khách hàng theo quy định của Ngân
hàng Nhà nước.
- Tổng số dư bao thanh toán không được vượt quá vốn tự có của đơn vị
bao thanh toán. [7, Điều 20]
Như vậy, các tổ chức tín dụng trọng tâm là các ngân hàng thương mại
khi tham gia vào thị trường bao thanh toán cần tuân thủ đầy đủ các quy định
của pháp luật nhằm ổn định, phát triển và được đảm bảo quyền lợi khi có các
tranh chấp xảy ra.
2.1.2.2. Bên được bao thanh toán
Bên được bao thanh toán là bên bán hàng có các khoản phải thu phát
sinh đã được thỏa thuận theo hợp đồng mua, bán hàng hóa với bên mua.
Về tư cách pháp lý: chỉ có các tổ chức kinh tế Việt Nam và tổ chức
kinh tế nước ngoài cung ứng hàng hóa và được thụ hưởng các khoản phải thu
mới có thể trở thành bên được bao thanh toán (Quy định tại điểm 2.2 khoản 2,
Điều 1 Quyết định số 1096/2004/QĐ-NHNN). Quy định trên giúp xác định
47. 39
đối tượng của hợp đồng bao thanh toán, các tiêu chí pháp lý gắn liền với tư
cách pháp lý.
Về quyền sở hữu và chuyển nhượng các khoản phải thu của bao thanh
toán, pháp luật hiện hành không có quy định trực tiếp vấn đề này. Một số khía
cạnh pháp lý:
- Bên được bao thanh toán là bên bán hàng trong hợp đồng mua, bán
hàng hóa.
- Bên được bao thanh toán phải là chủ sở hữu hợp pháp các khoản phải
thu và được quyền chuyển nhượng các khoản phải thu này, không bị giới hạn
bởi hợp đồng mua bán hàng hóa cũng như bởi pháp luật.
- Bên được bao thanh toán chưa chuyển nhượng các khoản phải thu này
cho bất kỳ ai trước đó.
2. 1.3. Đối tƣợng của quan hệ bao thanh toán
Đối tượng của quan hệ bao thanh toán là các khoản phải thu thương
mại. Khoản phải thu được xác định là khoản tiền bên bán hàng được phép thu
từ bên mua hàng theo hợp đồng mua, bán nhưng người mua chưa đến hạn
phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Theo pháp luật Việt Nam, các khoản phải
thu là đối tượng của hoạt động bao thanh toán được điều chỉnh theo những nội
dung sau:
- Một là, về tính chất thương mại của các khoản phải thu, theo pháp luật
hiện hành có phạm vi hẹp:
+ Các khoản phải thu được bao thanh toán phát sinh từ quan hệ mua
bán hàng hóa và đã được các bên thỏa thuận trong hợp đồng mua bán hàng
hóa là đối tượng của quan hệ bao thanh toán (các KPT phát sinh từ các hoạt
động TM như cung ứng dịch vụ, cho thuê tài sản sẽ không trở thành đối tượng
được bao thanh toán).
48. + Các khoản phải thu được xác định gắn liền với việc thực hiện các
quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa.
+ Hệ quả là khi vi phạm nghĩa vụ này, bên bán hàng sẽ phải gánh chịu
trách nhiệm bồi hoàn các khoản phải thu đã được bao thanh toán ngay cả
trong trường hợp là bao thanh toán có quyền truy đòi, và tương tự, bên mua
hàng có khả năng từ chối thanh toán cho tổ chức bao thanh toán.
- Hai là, về tính thời hạn các khoản phải thu, do mục đích của quan hệ
bao thanh toán là 1 hình thức tài trợ vốn lưu động cho bên được bao thanh
toán, nên pháp luật chỉ qui định các khoản phải thu có thời hạn thanh toán còn
lại không quá 180 ngày mới đủ điều kiện là đối tượng được bao thanh toán
(thực tế, tổ chức bao thanh toán thường chỉ chấp nhận BTT cho các KPT còn
thời hạn trong vòng 90 ngày).
- Ba là, tính hợp pháp của các khoản phải thu phải phát sinh từ các giao
dịch mua, bán hàng hóa hợp pháp:
+ Đặc tính này đảm bảo việc chuyển nhượng các khoản phải thu là có
căn cứ pháp luật, hạn chế rủi ro liên quan đến quá trình thực hiện hợp đồng
mua, bán và thanh toán.
+ Hệ quả là các khoản phải thu phát sinh từ hợp đồng mua, bán hàng
hóa bị pháp luật cấm hoặc từ các giao dịch, thỏa thuận bất hợp pháp hoặc giao
dịch có tranh chấp sẽ không thuộc đối tượng của bao thanh toán.
- Bốn là, xét tính độc lập của các khoản phải thu, do quyền lợi của các
bên bao thanh toán chỉ có thể được đảm bảo bởi nghĩa vụ thanh toán của
người mua hàng, nên thông thường bên bao thanh toán được xác lập quyền tối
cao trong việc thu nhận các khoản phải thu.
+ Các khoản phải thu không thuộc đối tượng của bất kỳ giao dịch nào
khác.
49. 41
+ Các khoản phải thu được xác định chắc chắn tại thời điểm hợp đồng
bao thanh toán được ký kết
* Theo luật Việt Nam Điều 19 của 1096/2004/QĐ-NHNN thì các khoản
phải thu không được bao thanh toán là:
- Phát sinh từ hợp đồng mua, bán hàng hoá bị pháp luật cấm;
- Phát sinh từ các giao dịch, thoả thuận bất hợp pháp;
- Phát sinh từ các giao dịch, thoả thuận đang có tranh chấp;
- Phát sinh từ các hợp đồng bán hàng dưới hình thức ký gửi;
- Phát sinh từ hợp đồng mua, bán hàng có thời hạn thanh toán còn lại
dài hơn 180 ngày;
- Các khoản phải thu đã được gán nợ hoặc cầm cố, thế chấp;
- Các khoản phải thu đã quá hạn thanh toán theo hợp đồng mua, bán
hàng. [7, Điều 19]
2.1.4. Hợp đồng bao thanh toán
Theo điều 21 Quyết định số 1096/2004/ QĐ-NHNN, Hợp đồng bao
thanh toán được định nghĩa như sau:“ Hợp đồng bao thanh toán là văn bản
thoả thuận giữa đơn vị bao thanh toán và bên bán hàng về việc mua lại các
khoản phải thu phù hợp với các quy định của pháp luật”.
Hơn nữa, hợp đồng bao thanh toán còn được xem là sự thỏa thuận nhất
trí của các bên nếu khi tiến hành giao kết hợp đồng các bên tự do,tự
nguyện,bình đẳng,thiện chí và trung thực.
Theo Điều 22 Quyết định số 1096/2004/QĐ-NHNN có quy định cụ thể
về nội dung hợp đồng BTT như sau:
- Tên, địa chỉ, điện thoại, Fax… của các bên ký hợp đồng bao thanh
toán;
50. - Giá trị các khoản phải thu được bao thanh toán, quyền và lợi ích liên
quan đến khoản phải thu theo hợp đồng mua, bán hàng;
- Lãi và phí bao thanh toán;
- Giá mua, bán khoản phải thu: được xác định trên cơ sở giá trị khoản
phải thu sau khi trừ đi lãi và phí bao thanh toán.
- Số tiền ứng trước và phương thức thanh toán
- Thông báo về việc bao thanh toán cho bên mua hàng và các bên có
liên quan;
- Hình thức bảo đảm cho đơn vị bao thanh toán truy đòi lại số tiền đã
ứng trước, giá trị tài sản làm bảo đảm;
- Thời hạn hiệu lực của hợp đồng bao thanh toán;
- Quyền và nghĩa vụ của các bên;
- Phương thức chuyển giao hợp đồng mua, bán hàng, chứng từ bán
hàng, quyền, lợi ích và các giấy tờ liên quan đến khoản phải thu được bao
thanh toán;
- Quy định về việc truy đòi của đơn vị bao thanh toán;
- Giải quyết tranh chấp phát sinh;
- Các thoả thuận khác.
Như vậy, ngoài các điều khoản tùy nghi và thường lệ, hợp đồng bao
thanh toán còn có một số điều khoản đặc biệt chủ yếu dưới đây:
- Điều khoản về chủ thể hợp đồng: điều khoản này phải phản ánh được
đầy đủ các yếu tố để xác định được tư cách pháp lí của các bên. Mặt khác
phải xác định đúng thẩm quyền của người đại diện(đại diện đương nhiên hay
51. 43
ủy quyền), là căn cứ để xác định cơ quan tài phán và luật áp dụng và đảm bảo
hiệu lực của hợp đồng bao thanh toán
- Điều khoản về quyền và nghĩa vụ của các bên: đây là cơ sở để các bên
thực hiện hợp đồng. Nội dung của quyền và nghĩa vụ các bên trong hoạt động
bao thanh toán sẽ được tìm hiểu chi tiết ở phần sau 2.5 của luận văn.
- Điều khoản về nội dung của cấp tín dụng bao thanh toán: phản ánh
các yếu tố cơ bản của quan hệ tín dụng ngân hàng, bao gồm các giá trị của các
khoản phải thu, lãi, phí bao thanh toán…
- Điều khoản về thủ tục chuyển giao các khoản phải thu: khi chuyển
giao các khoản phải thu các bên phải thỏa thuận rõ ràng và cụ thể về:
+ Các loại và phương thức chuyển giao hợp đồng mua bán hàng hóa.
+ Chứng từ bán hàng và các giấy tờ liên quan đến việc mua hàng và các
chứng từ khác có liên quan đến việc giao hàng.
+ Các yêu cầu thanh toán của bên bán hàng với bên mua hàng.
Các bên khi xác lập hợp đồng BTT, cần đặc biệt chú ý đến các điều
khoản trên, nhằm tránh xảy ra những hậu quả đáng tiếc.
* Giao kết hợp đồng bao thanh toán
Giao kết trong hợp đồng bao thanh toán là quá trình các bên bày tỏ ý
chí và kí kết hợp đồng. Quá trình giao kết hợp đồng được thực hiện theo trình
tự:
- Thứ nhất, bên bán hàng đề nghị đơn vị bao thanh toán thực hiện bao
thanh toán các khoản phải thu:
+ Về bản chất pháp lý, hành vi này của bên bán hàng được xem là một
đề nghị giao kết hợp đồng.
+ Bên bán hàng phải thể hiện rõ ý định và các căn cứ của sự đề nghị,
phải chịu sự ràng buộc về mặt nội dung đề nghị của mình.
52. Lợi ích của hoạt động bao thanh toán rất đa dạng, đặc biệt đối với các
doanh nghiệp vừa và nhỏ, giúp nhà sản xuất có vốn để tiếp tục hoạt động, vì
thế các doanh nghiệp muốn duy trì được mức nhân công và quy mô sản xuất;
giúp cho các doanh nghiệp sản xuất hàng thời vụ tiến hành hoạt động sản xuất
quanh năm, tránh hiện tượng sa thải công nhân khi hết thời vụ; giúp doanh
nghiệp phát triển với tốc độ nhanh hơn.
+ Nội dung đề nghị bao thanh toán phải thể hiện đầy đủ, rõ ràng, toàn
diện các khía cạnh pháp lý và kinh tế về các khoản phải thu cũng như tư cách
pháp lý của các bên trong giao dịch mua bán hàng hóa.
- Thứ hai, tổ chức bao thanh toán xem xét đề nghị bao thanh toán: Vì
bao thanh toán là hoạt động cấp tín dụng ẩn chứa nhiều rủi ro nên tổ chứ bao
thanh toán phải thực hiện phân tích các khoản phải thu, tình hình hoạt động và
khả năng tài chính của bên bán hàng và bên mua hàng.
Trước mắt, các tổ chức tín dụng (TCTD) được phép cũng như các
doanh nghiệp khi giao kết hợp đồng bao thanh toán cần phải lường trước vấn
đề này để quy định thật cụ thể quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng.
Đặc biệt các TCTD nên thực hiện hình thức bao thanh toán có quyền truy đòi,
quy định cụ thể TCTD có quyền đòi lại số tiền đã ứng trước cho bên bán hàng
khi bên mua hàng không có khả năng hoàn thành nghĩa vụ thanh toán khoản
phải thu. Qua đó TCTD có thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình,
đảm bảo khả năng thu hồi vốn khi cấp tín dụng dưới hình thức bao thanh toán
- Thứ ba, tổ chức bao thanh toán và bên bán hàng thỏa thuận và ký kết
hợp đồng bao thanh toán.
Về bản chất pháp lý, hoạt động bao thanh toán là một dạng đặc biệt của
chuyển giao quyền yêu cầu trong pháp luật dân sự, nhưng quyền yêu cầu ở
đây là khoản phải thu phát sinh từ một hợp đồng mua bán hàng hóa, cung ứng
53. 45
dịch vụ, và quyền yêu cầu này có thể là quyền yêu cầu trong tương lai, chưa
tồn tại ở thời điểm giao kết hợp đồng bao thanh toán. Do đó, mặc dù Quy chế
bao thanh toán không quy định cụ thể, nhưng nếu khoản phải thu được bảo
đảm thực hiện bằng biện pháp bảo đảm theo quy định của hợp đồng giao kết
giữa bên bán và bên mua, thì đơn vị bao thanh toán cũng được hưởng biện
pháp bảo đảm đó theo nguyên tắc thế quyền.
Thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm bên cuối cùng kí vào văn
bản.
*Một số điểm cần chú ý trong quá trình thực hiện hợp đồng bao thanh
toán:
- Theo quy định bao thanh toán chỉ là hình thức cấp tín dụng, nên
khoản ứng trước chỉ đơn thuần là khoản cho vay, còn khoản phải thu vẫn là
tài sản thuộc sở hữu của người bán. Pháp luật hiện nay vẫn không có quy định
liên quan đến việc xác lập mối quan hệ trong việc chuyển giao quyền đòi nợ
từ người bán sang đơn vị bao thanh toán
- Quy chế bao thanh toán không đề cập đến “khoản phải thu trong
tương lai”, tức khoản phải thu sẽ hình thành khi người bán chuyển giao hàng
hoá, dịch vụ cho người mua theo hợp đồng đã giao kết.
- Bao thanh toán ở Việt Nam chủ yếu ở dạng có truy đòi, làm hạn chế
khả năng chuyển đổi rủi ro của các doanh nghiệp.
- Quy trình hoạt động bao thanh toán theo Điều 13 của Quy chế 1096
cho thấy đơn vị bao thanh toán chỉ có thể chuyển tiền ứng trước cho bên bán
hàng sau khi khoản phải thu theo hợp đồng mua bán hàng hóa đã tồn tại. Điều
này sẽ hạn chế hoạt động bao thanh toán ở Việt Nam bởi vì theo thông lệ,
hoạt động bao thanh toán bao gồm việc mua lại các khoản phải thu đang tồn
54. tại (nhưng không có sự hiện diện của thương phiếu) hay khoản phải thu trong
tương lai miễn là khoản phải thu này có thể xác định.
- Đơn vị bao thanh toán có quyền yêu cầu các khoản phải thu phát sinh
từ một hợp đồng mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, và quyền yêu cầu này
có thể là quyền yêu cầu trong tương lai, chưa tồn tại ở thời điểm giao kết hợp
đồng bao thanh toán. Dù Quy chế bao thanh toán không quy định cụ thể,
nhưng nếu khoản phải thu được bảo đảm thực hiện bằng biện pháp bảo đảm
theo quy định của hợp đồng giao kết giữa bên bán và bên mua, thì đơn vị bao
thanh toán cũng được hưởng biện pháp bảo đảm đó.
- Khoản phải thu là một dạng tài sản vô hình, có thể chưa tồn tại tại thời
điểm giao kết hợp đồng bao thanh toán, nên người bán hàng hóa, dịch vụ có
thể cùng một lúc bán một khoản phải thu cho nhiều đơn vị bao thanh toán
hoặc vừa bán khoản phải thu, vừa cầm cố khoản phải thu đó để bảo đảm cho
một khoản vay tại một TCTD khác.
- Tại điểm d khoản 1 Điều 13 Quy chế 1096 bao thanh toán quy định
bên bán hàng và đơn vị bao thanh toán có nghĩa vụ đồng thông báo cho bên
mua hàng về hợp đồng bao thanh toán. Đồng thời, người mua hàng có nghĩa
vụ xác nhận bằng văn bản về việc đã nhận được thông báo và cam kết về việc
thanh toán cho đơn vị bao thanh toán theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều
25 Quy chế bao thanh toán. Nếu bên mua hàng đã thanh toán cho đơn vị bao
thanh toán thứ hai sau khi đã được đơn vị bao thanh toán thứ nhất thông báo
thì bên mua này sẽ vẫn tiếp tục có nghĩa vụ đối với đơn vị bao thanh toán thứ
nhất hay không sẽ là một vấn đề khó khăn. Điều này phụ thuộc vào luật ưu
tiên của từng quốc gia, từng khoản phải thu cụ thể và khả năng lừa đảo của
bên bán hay bên mua. Các bên tham gia hợp đồng có thể thông đồng để gây
khó dễ cho tổ chức tín dụng.