SlideShare a Scribd company logo
1 of 107
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TRẦN DUY ĐỨC
Thu thËp, ®¸nh gi¸ chøng cø trong LuËt tè tông h×nh sù
(Trªn c¬ së sè liÖu thùc tiÔn ®Þa bµn tØnh §¾k L¾k)
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TRẦN DUY ĐỨC
Thu thËp, ®¸nh gi¸ chøng cø trong LuËt tè tông h×nh sù
(Trªn c¬ së sè liÖu thùc tiÔn ®Þa bµn tØnh §¾k L¾k)
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN VĂN TUÂN
HÀ NỘI - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận văn là trung thực.
Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai
công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Trần Duy Đức
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THU THẬP, ĐÁNH GIÁ
CHỨNG CỨ TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM...... 8
1.1. Khái niệm và các thuộc tính của chứng cứ...................................... 8
1.1.1. Khái niệm chứng cứ ............................................................................. 8
1.1.2. Các thuộc tính của chứng cứ..............................................................10
1.1.3. Nguồn chứng cứ.................................................................................13
1.2. Khái niệm, mục đích và ý nghĩa thu thập, đánh giá chứng cứ ....16
1.2.1. Khái niệm thu thập, đánh giá chứng cứ .............................................16
1.2.2. Mục đích, ý nghĩa thu thập, đánh giá chứng cứ.................................26
1.3. Chủ thể, trình tự, thủ tục và phương pháp thu thập, đánh giá
chứng cứ.............................................................................................27
1.3.1. Chủ thể thu thập, đánh giá chứng cứ..................................................27
1.3.2. Trình tự, thủ tục thu thập chứng cứ và phương pháp thu thập,
đánh giá chứng cứ ..............................................................................30
1.4. Thu thập và đánh giá chứng cứ trong luật tố tụng hình sự của
một số nước trên thế giới.................................................................32
Chương 2: NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH
SỰ VỀ THU THẬP, ĐÁNH GIÁ CHỨNG CỨ VÀ THỰC
TIỄN ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK...................... 35
2.1. Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thu thập,
đánh giá chứng cứ ............................................................................35
2.1.1. Thu thập, đánh giá chứng cứ là vật chứng .........................................35
2.1.2. Thu thập, đánh giá chứng cứ là lời khai của người làm chứng,
người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người bị tạm giữ,
bị can, bị cáo.......................................................................................38
2.1.3. Thu thập, đánh giá chứng cứ là biên bản hoạt động điều tra, xét
xử và các tài liệu, đồ vật khác ............................................................41
2.1.4. Thu thập, đánh giá chứng cứ là kết luận giám định...........................43
2.2. Thực tiễn áp dụng việc thu thập, đánh giá chứng cứ trên địa
bản tỉnh Đắk Lắk..............................................................................45
2.2.1. Tình hình giải quyết vụ án hình sự của cơ quan tiến hành tố tụng
trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk trong những năm gần đây.........................45
2.2.2. Những kết quả đạt được trong việc áp dụng quy định của pháp
luật tố tụng hình sự về thu thập, đánh giá chứng cứ trên địa bàn
tỉnh Đắk Lắk ......................................................................................47
2.2.3. Những tồn tại, hạn chế trong việc áp dụng quy định của pháp luật
tố tụng hình sự về thu thập, đánh giá chứng cứ trên địa bàn tỉnh
Đắk Lắk và nguyên nhân....................................................................53
Chương 3: NHỮNG YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG
CAO HIỆU QUẢ CỦA VIỆC THU THẬP, ĐÁNH GIÁ
CHỨNG CỨ TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ....................63
3.1. Cải cách tư pháp và sự cần thiết nâng cao hiệu quả thu thập,
đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự..............................63
3.2. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thu thập, đánh giá
chứng cứ trong tố tụng hình sự.......................................................69
3.2.1. Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự về thu thập, đánh giá chứng
cứ trong tố tụng hình sự .....................................................................69
3.2.2. Các giải pháp khác .............................................................................79
KẾT LUẬN....................................................................................................96
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................99
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu bảng Tên bảng Trang
Bảng 2.1: Thống kê số liệu về việc giải quyết các vụ việc hình
sự trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk trong năm 2014 46
Bảng 2.2: Tổng hợp số liệu án hủy và sửa của Tòa án nhân dân
cấp tỉnh Đắk Lắk từ năm 2010 đến 2014 48
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đấu tranh phòng chống tội phạm là nhiệm vụ rất quan trọng, có ý nghĩa
to lớn mà Đảng và Nhà nước ta đã đặt ra. Để thực hiện nhiệm vụ này, Nhà
nước đã áp dụng nhiều biện pháp, trong đó việc ban hành Bộ luật tố tụng hình
sự hoàn chỉnh, đáp ứng được nhu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm là một
yêu cầu cấp thiết đặt ra. Ở phương diện pháp lý tố tụng hình sự, việc phát
hiện, khám phá chính xác, nhanh chóng, kịp thời mọi hành vi phạm tội không
để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân có ý nghĩa quan trọng trong tình hình nước ta hiện nay,
nhằm duy trì trật tự xã hội và phát triển đất nước. Muốn thực hiện tốt được
vấn đề này thì cần phải có chứng cứ. Nói cách khác, chứng cứ được coi là
phương tiện duy nhất được các cơ quan tiến hành tố tụng sử dụng để xác định
sự thật khách quan của vụ án. Bởi chứng cứ được coi là một trong những chế
định quan trọng trong Luật tố tụng hình sự. Chế định này vừa mang tính lý
luận, vừa mang tính thực tiễn cao. Để giải quyết đúng đắn, khách quan vụ án
hình sự thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án phải xác định sự việc
phạm tội và người thực hiện hành vi phạm tội. Quá trình thực hiện hành vi
phạm tội là quá trình đã xảy ra trong quá khứ. Do vậy, muốn hình dung và tái
hiện được diễn biến của nó thì cơ quan tiến hành tố tụng phải dựa vào chứng
cứ của vụ án. Vì vậy, xét về bản chất thì chứng cứ là những thông tin, tài liệu
hay những gì có thật được cơ quan tiến hành tố tụng thu thập, kiểm tra và
đánh giá theo quy định của pháp luật nhằm phục vụ cho việc giải quyết đúng
đắn vụ án hình sự.
Thực tế hiện nay đã và đang xảy ra rất nhiều vụ án hình sự có tính chất
phức tạp, có tổ chức chặt chẽ, có tính đồng phạm cao, có sự móc nối liên hệ
2
phạm tội bằng các phương tiện thông tin liên lạc hiện đại... đã và đang gây
không ít khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng. Mặc dù hiện nay, Bộ
luật tố tụng hình sự nước ta đã có khái niệm về chứng cứ, quy định về thu
thập, đánh giá chứng cứ một cách rõ ràng, chặt chẽ theo một trình tự thủ tục
tố tụng nghiệm ngặt. Qua đó, các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến
hành tố tụng phải tuân theo. Tuy nhiên, trong không ít một số vụ án hình sự
thì vẫn còn để xảy ra oan, sai hay bỏ lọt tội phạm, mà nguyên nhân bắt nguồn
từ việc thu thập và đánh giá chứng cứ không khách quan, đầy đủ, không thực
hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nguyên tắc kiểm tra chứng cứ trong quá
trình chứng minh của các cơ quan tiến hành tố tụng, hoặc đánh giá chứng cứ
một cách phiến diện.
Cho đến nay, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu, các bài viết liên
quan đến vấn đề này, nhưng hầu hết những công trình nghiên cứu đó chỉ
mang tính chất về mặt lý luận mà chưa đi sâu vào nghiên cứu về mặt thực tiễn
trong các giai đoạn tố tụng. Hiện nay, trên địa bàn cả nước nói chung, địa bàn
tỉnh Đắk Lắk nói riêng, các cơ quan tiến hành tố tụng còn mắc những sai sót
nhất định trong việc thu thập, đánh giá chứng cứ vụ án hình sự. Do đó, việc
nghiên cứu, xác định các sự kiện, tình tiết của vụ án được tiến hành trên cơ sở
của các chứng cứ và chỉ bằng cách dựa vào các chứng cứ mới làm sáng tỏ
được những vấn đề cần chứng minh trong vụ án hình sự. Thông qua việc phát
hiện chứng cứ, xem xét và ghi nhận chứng cứ về mặt thủ tục tố tụng, kiểm tra
tính xác thực của những loại chứng cứ được bắt từ nguồn chứng cứ nào, đánh
giá chứng cứ, cơ quan tiến hành tố tụng có thể nghiên cứu đầy đủ và toàn diện
các tình tiết của vụ án, xác định sự phù hợp của chúng với hiện thực từ đó tìm
ra chân lý khách quan của vụ án. Chính vì vậy, ở một góc độ nào đó việc chưa
đánh giá, xem xét đầy đủ, toàn diện, khách quan của chứng cứ dẫn đến hiệu
quả đấu tranh phòng và chống tội phạm còn chưa cao.
3
Với những lý lẽ trên, học viên nhận thấy cần phải nghiên cứu một cách
toàn diện và có hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn về việc thu thập,
đánh giá chứng cứ trong tố tụng hình sự là một yêu cầu cấp thiết nhằm hiểu rõ
và tạo cơ sở cho việc thu thập và đánh giá chứng cứ.
Vì vậy, từ những lý do đã nêu trên, học viên quyết định chọn đề tài:
"Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự (Trên cơ sở số
liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk)” làm luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Qua nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy đã có một số công trình nghiên
cứu trực tiếp và gián tiếp về chứng cứ trong vụ án hình sự theo pháp luật tố
tụng hình sự trên các sách báo pháp lý hình sự ở trong và ngoài nước. Còn
riêng ở Việt Nam, đáng chú ý là một số công trình tiêu biểu sau đây:
1/ TS. Nguyễn Ngọc Chí. Chương VII. Chứng cứ. Trong sách: Giáo
trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam. Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Tập thế tác giả do TS Nguyễn Ngọc Chí chủ biên. NXB Đại học Quốc gia, Hà
Nội, 2001.
2/ TS. Trần Quang Tiệp, Chế định chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự
Việt Nam. NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004.
3/ PGS. TS. Nguyễn Thủ Thanh (chủ biên). Giáo trình khoa học điều
tra hình sự. NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2003.
4/ GS. TS. Đỗ Ngọc Quang, Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam
(dành cho hệ đào tạo sau đại học). Học viện Cảnh sát nhân dân, Hà Nội, 2003.
5/ Vương Văn Bép, Những vấn đề lý luận và thực tiễn về chế định
chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam. Luận án tiến sỹ Luật học,
Khoa Luật, Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2013.
6/ Đỗ Văn Đương. Chứng cứ và chứng minh trong vụ án hình sự, NXB
tư pháp Hà Nội, 2007.
4
7/ Nguyễn Văn Cừ, chứng cứ trong luật tố tụng hình sự Việt Nam,
NXB tư pháp Hà Nội, 2005.
Tuy nhiên, ngoài những công trình tiêu biểu nói trên, còn nhiều các
công trình khác nghiên cứu về chứng cứ nhưng cho đến nay việc nghiên cứu
về thu thập, đánh giá chứng cứ trong tố tụng hình sự cả về mặt lý luận và thực
tiếp áp dụng, cũng như đánh giá thực tiễn áp dụng trên địa bàn một tỉnh cụ thể
còn hạn chế và chưa thật sự mang tính thực tiễn cao, đặc biệt, đối với một tỉnh
có tình hình an ninh, trật tự rất cần ổn định là địa bàn tỉnh Đắk Lắk. Vì vậy,
việc học viên lựa chọn đề tài "Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố
tụng hình sự trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk” làm luận
văn thạc sĩ luật học của mình là có tính cấp bách.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài.
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn có mục đích góp phần làm sáng tỏ về mặt lý luận các quy
định về thu thập, đánh giá chứng cứ trong tố tụng hình sự và việc áp dụng vào
thực tiễn trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, từ đó đưa ra kiến nghị hoàn thiện lý luận
về việc thu thập, đánh giá chứng cứ trong tố tụng hình sự, cũng như kiến nghị
giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả thực tiễn áp dụng các hoạt động thu
thập, đánh giá chứng cứ trong vụ án hình sự.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn có nhiệm vụ nghiên cứu sau đây:
1) Làm rõ khái niệm chứng cứ, thu thập, đánh giá chứng cứ, phân tích
các đặc điểm cơ bản của chứng cứ, thu thập, đánh giá chứng cứ.
2) Những căn cứ về thu thập, đánh giá chứng cứ trong luật tố tụng hình
sự Việt Nam;
3) Nghiên cứu so sánh với luật tố tụng hình sự một số nước trên thế
giới để rút ra nhận xét, đánh giá về thu thập, đánh giá chứng cứ;
5
4) Phân tích các quy định về thu thập, đánh giá chứng cứ trong tố tụng
hình sự Việt Nam hiện hành và đánh giá thực tiễn áp dụng biện pháp thu thập,
đánh giá chứng cứ trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk của các cơ quan tiến hành tố
tụng, từ đó chỉ ra các tồn tại, hạn chế và những nguyên nhân cơ bản;
5) Những yêu cầu và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc thu
thập, đánh giá chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam;
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn có đối tượng nghiên cứu là phương pháp thu thập, đánh giá
chứng cứ trong tố tụng hình sự Việt Nam và thực tiễn áp dụng trên địa bàn
tỉnh Đắk Lắk.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trên cơ sở mục đích nghiên cứu đã nêu, luận văn có phạm vi nghiên
cứu là những vấn đề lý luận và thực tiễn về các quy định liên quan đến thu
thập, đánh giá chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự. (Các khái niệm,
nguyên tắc, cơ sở nghiên cứu về phương pháp thu thập, đánh giá chứng cứu,
kinh nghiệm trong hoạt động thu thập, đánh giá chứng cứ ở một số quốc gia),
đồng thời đánh giá thực tiễn áp dụng về biện pháp thu thập, đánh giá chứng
cứ trong một số vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, từ đó chỉ ra một số
tồn tại, hạn chế và các nguyên nhân cơ bản để đưa ra những yêu cầu, giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các biện pháp thu thập, đánh giá chứng
cứ trong vụ án hình sự. Đồng thời, đề xuất hoàn thiện một số quy định trong
Bộ luật tố tụng hình sự trong hoạt động thu thập, đánh giá chứng cứ.
5. Cơ sở lý luận và các phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh về nhà nước và pháp luật, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
6
nước ta trong đấu tranh phòng và chống tội phạm, giáo dục, cải tạo người
phạm tội. Đồng thời dựa trên những thành tựu của khoa học như: triết học,
luật hình sự, luật tố tụng hình sự, tội phạm học...
5.2. Các phương pháp nghiên cứu
Để làm sáng tỏ nội dung các biện pháp thu thập và đánh giá chứng cứ ở
cả phương diện lý luận và thực tiễn, luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở
phương pháp duy vật biện chứng. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương
pháp nghiên cứu như: phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, hệ
thống… để tổng hợp các tri thức khoa học luật hình sự và luận chứng các vấn
đề tương ứng được nghiên cứu. Đồng thời, việc nghiên cứu đề tài còn dựa vào
thực tiễn điều tra, truy tố và xét xử các vụ án hình sự của các cơ quan tiến
hành tố tụng trong những năm gần đây trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Dựa trên những phân tích, đánh giá về công tác thu thập và đánh giá
chứng cứ trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk và đưa ra những nguyên nhân, khó khăn
còn tồn tại, luận văn đưa ra những ý kiến đóng góp nhằm hướng đến hoàn
thiện về lý luận mà cụ thể là các quy định của pháp luật chưa phù hợp hiện
nay. Đồng thời thông qua những phân tích đó, luận văn cũng cho thấy rõ tình
hình thực tiễn, với những khó khăn vướng mắc trên địa bàn tỉnh, từ đó đưa ra
những kiến nghị nhằm đưa ra những phương án để nâng cao chất lượng công
tác đấu tranh phòng chống tội phạm của tỉnh Đắk Lắk.
7. Những điểm mới của luận văn
Với những phân tích, tổng hợp dựa trên những số liệu và tình huống
xảy ra thực tế ở địa bàn tỉnh Đắk Lắk, luận văn đưa ra những đóng góp mới
về cải cách hệ thống tư pháp, sửa đổi và bổ sung những quy định của pháp
luật trong việc nâng cao vai trò của người thu thập và đánh giá chứng cứ trong
quá trình tố tụng.
7
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm ba chương với tên gọi như sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về thu thập, đánh giá chứng cứ trong
Luật tố tụng hình sự Việt Nam.
Chương 2: Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thu thập,
đánh giá chứng cứ và thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh
Đắk Lắk.
Chương 3: Những yêu cầu và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của
việc thu thập, đánh giá chứng cứ trong tố tụng hình sự.
8
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THU THẬP, ĐÁNH GIÁ CHỨNG CỨ
TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm và các thuộc tính của chứng cứ
1.1.1. Khái niệm chứng cứ
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 nêu rõ mục đích chính của tố tụng
hình sự là “chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát hiện chính xác,
nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt
tội phạm, không làm oan người vô tội” [20, Điều 1]. Để phát hiện và xử lý
chính xác tội phạm, việc chứng minh trong tố tụng hình sự nhằm làm sáng tỏ
các tình tiết của vụ án có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Tố tụng hình sự của Nhà nước ta lấy chủ nghĩa duy vật biện chứng làm
cơ sở của chứng cứ. Lý luận nhận thức khẳng định rằng: “Nhận thức là sự
phản ánh biện chứng tích cực, trong thế giới khách quan thì không có gì con
người không nhận thức được, chỉ có những điều chưa nhận thức được nhưng
dần dần cũng sẽ nhận thức được”. Chính vì vậy, trong vụ án hình sự, dù
người phạm tội có dùng mọi thủ đoạn tinh vi đến đâu để nhằm mục đích che
dấu hành vi của mình thì tội phạm cũng được phản ánh lại bằng những dấu
vết của nó, và trước sau dấu vết đó cũng bị phát hiện. Những dấu vết đó được
phản ánh qua các thông tin, tài liệu phản ánh sự kiện phạm tội, phản ánh các
yếu tố khách quan, chủ quan của tội phạm và các yếu tố liên quan đến người
phạm tội. Hay nói cách khác, chứng cứ là phương tiện duy nhất được cơ quan
tiến hành tố tụng sử dụng để chứng minh trong tố tụng hình sự.
Với vai trò quan trọng như vậy trong hoạt động tố tụng, Bộ luật tố
tụng hình sự đã đưa ra khái niệm về chứng cứ như sau:
9
Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự,
thủ tục do Bộ luật này quy định mà cơ quan điều tra, viện kiểm
sát, toà án dùng làm căn cứ để xác định có hay không hành vi
phạm tội cũng như tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết
đúng đắn vụ án [20, Điều 64, Khoản 1].
Theo đó, dựa vào chứng cứ, sự thật khách quan mới được làm sáng tỏ,
đồng thời loại bỏ những gì không có thật.
Như vậy, chứng cứ là những thông tin có ý nghĩa đối với việc giải
quyết vụ án, được xác định bằng các vật chứng, lời khai của những người
tham gia tố tụng (nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người làm chứng, người
bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người bị bắt,
người bị tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo), các kết luận giám định, biên bản
về hoạt động điều tra và xét xử, các tài liệu, đồ vật khác (theo khoản 2 Điều
64 Bộ luật tố tụng hình sự).
Chứng cứ vụ án phải đảm bảo được thu thập một cách kịp thời, khách
quan chẳng hạn việc xem xét hiện trường phải thể hiện được hiện trường còn
nguyên vẹn hay không nguyên vẹn, việc khám xét, khám nghiệm không được
bỏ sót dấu vết, đồ vật quan trọng liên quan đến vụ án, việc lấy dấu vết phải sử
dụng các phương tiện kỹ thuật đảm bảo không bị biến dạng, phân huỷ,… và
các chứng cứ này phải được thể hiện trên biên bản do người có thẩm quyền
đứng ra thiết lập. Các cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm tiếp nhận
những tài liệu, đồ vật lời khai do các tổ chức, cá nhân cung cấp và phải thể
hiện tài liệu xác định việc giao nhận, phản ánh; đồng thời phải chủ động tiến
hành xác minh, điều tra, thu thập để làm rõ vụ án.
Trong khoa học luật tố tụng hình sự Việt Nam, chứng cứ được phân
loại thành dựa trên các tiêu chí khác nhau:
10
* Dựa trên giá trị chứng minh của chứng cứ thì chứng cứ được chia
thành hai loại đó là: chứng cứ trực tiếp và chứng cứ gián tiếp;
* Căn cứ vào ý nghĩa pháp lý hình sự của chứng cứ gồm: chứng cứ
buộc tội và chứng cứ gỡ tội;
* Căn cứ vào xuất xứ của thông tin, tư liệu thu thập được, chứng cứ
được phân thành: chứng cứ gốc, chứng cứ thuật lại (hay còn gọi là chứng cứ
sao chép).
1.1.2. Các thuộc tính của chứng cứ
Xuất phát từ khái niệm chứng cứ được nêu ra trong Bộ luật tố tụng hình
sự năm 2003 có thể thấy các thuộc tính cần và đủ cho chứng cứ gồm: tính
khách quan, tính liên quan và tính hợp pháp.
Thứ nhất, tính khách quan của chứng cứ: Đây là thuộc tính quan trọng
của chứng cứ. Chứng cứ là những gì có thật, có nghĩa rằng chứng cứ là
những thông tin, tài liệu, đồ vật tồn tại khách quan, độc lập, không phụ
thuộc vào ý thức chủ quan của con người, và những chứng cứ đó liên quan
trực tiếp đến các tình tiết của vụ án đang được chứng minh. Những người
tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng chỉ cung cấp, thu thập, nghiên cứu
chứng cứ chứ không tạo ra chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ án. Tại
Điều 66 của Bộ luật tố tụng hình sự, tính khách quan của chứng cứ còn được
gọi là tính xác thực của chứng cứ.
Trong quy định tại khoản 2 Điều 64 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003
có quy định một trong các nguồn của chứng cứ là lời khai của người tham gia
tố tụng. Theo một số quan điểm cho rằng việc lấy chứng cứ là lời khai của
người tham gia tố tụng dù ít hay nhiều đều bị ảnh hưởng của những yếu tố
chủ quan, ý chí của người khai báo mà không thể phản ánh một cách chính
xác những thông tin về tội phạm. Chính vì vậy các thông tin này không đảm
bảo thuộc tính này của chứng cứ. Tuy vậy, về bản chất, việc cung cấp thông
11
tin là khách quan và trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan
tố tụng, vì vậy các cơ quan này cũng đồng thời phải có trách nhiệm phối hợp
việc điều tra và thu thập thông tin để xác định liệu thông tin đó có chính xác
hay không. Mọi thông tin, sự vật thu thập được dù tồn tại trên thực tế, nhưng
bị xuyên tạc, bóp méo hay bị làm giả theo ý chí của chủ quan thì không còn
mang tính khách quan. Và những thông tin, tài liệu đó cũng không thể là
chứng cứ của vụ án.
Thứ hai, tính liên quan của chứng cứ: Tính liên quan của chứng cứ
được thể hiện ở mối liên hệ khách quan của các thông tin, tài liệu với các tình
tiết của vụ án cần được xác định. Mối quan hệ này có thể là trực tiếp hoặc
gián tiếp. Mối quan hệ trực tiếp ở đây được hiểu là việc chứng cứ được dùng
làm căn cứ để giải quyết thực chất của vụ án, đó là những căn cứ quan trọng
và chủ yếu để xác định hành vi phạm tội, người phạm tội, lỗi của người phạm
tội, các tình tiết có ý nghĩa quan trọng đối với việc quyết định hình phạt,…
Mối quan hệ gián tiếp là trong trường hợp thông tin, tài liệu đó không thể làm
căn cứ để giải quyết thực chất vụ án, nhưng lại đóng góp một phần nhất định
vào việc chứng minh phạm tội. Chẳng hạn lời khai của người làm chứng rằng
vào thời điểm tội phạm xảy ra đã chứng kiến sự có mặt của người bị tạm giữ.
Như vậy, dù việc nhìn thấy sự có mặt của người bị tạm giữ không có ý nghĩa
trong việc quyết định liệu rằng người bị tam giữ có phải là người phạm tội
hay không, nhưng lại đóng vai trò quan trọng đối với các cơ quan điều tra
trong việc lập phương án điều tra làm sáng tỏ sự việc.
Trong hoạt động tố tụng, cơ quan điều tra cũng như viện kiểm sát, toà án
phải xem xét về tính liên quan của chứng cứ ở cả hai mối quan hệ này để xác
định một thông tin, tài liệu hay đồ vật liệu có được coi là chứng cứ hay không.
Thứ ba, tính hợp pháp của chứng cứ: Đó là sự phù hợp với các quy
định của pháp luật tố tụng hình sự về chứng cứ. Tính hợp pháp của chứng cứ
12
được thể hiện qua quá trình cung cấp, thu thập, nghiên cứu, bảo quản theo
trình tự của pháp luật quy định. Nó được thể hiện ở các mặt sau:
* Chứng cứ được xác định bằng nguồn nhất định theo quy định của pháp
luật. Theo khoản 2 Điều 64 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, nguồn chứng cứ
bao gồm: (i) vật chứng; (ii) lời khai của người tham gia tố tụng; (iii) Kết luận
giám định; (iv) Biên bản về hoạt động điều tra, xét xử và các tài liệu, đồ vật
khác. Các nguồn này phải được lưu giữ bằng nguồn tương ứng xác định.
Ví dụ: Kết quả giám định phải được thể hiện bằng văn bản, và trong
trường hợp có ý kiến khác nhau thì mỗi người phải ghi riêng ý kiến của mình
vào bản kết luận riêng (khoản 1 Điều 73 Bộ luật tố tụng hình sự 2003); các
trường hợp kết quả giám định thể hiện bằng ghi âm hay thu hình hoặc bằng
lời nói thì không được coi là chứng cứ. Trong khi đó, đối với lời khai của
người tham gia tố tụng được thể hiện trong các bản tự khai, biên bản lấy lời
khai, biên bản hỏi cung hoặc biên bản phiên toà; tất cả lời khai thu thập được
bằng cách ghi âm, ghi hình thì không được coi là chứng cứ.
* Chứng cứ phải được thu thập theo đúng trình tự, thủ tục do Bộ luật tố
tụng hình sự quy định. Tùy thuộc vào tính chất đặc điểm của chứng cứ mà Bộ
luật tố tụng hình sự quy định trình tự, thủ tục thu thập chứng cứ để nhằm đảm
bảo được tính khách quan và giá trị chứng minh của chứng cứ.
Ví dụ: Điều 67 quy định lời khai của người làm chứng “không được
dùng làm chứng cứ những tình tiết do người bị hại trình bày, nếu họ không
thể nói rõ vì sao họ biết được tình tiết đó”. Hay đối với trường hợp quy định
về việc thu thập và bảo quản vật chứng, thì vật chứng phải được mô tả đúng
thực trạng và được đưa vào hồ sơ vụ án (Điều 75 Bộ luật tố tụng hình sự).
Trong thực tiễn điều tra, truy tố và xét xử có không ít các trường hợp
cơ quan tiến hành tố tụng thu giữ đồ vật, tài liệu không đúng thủ tục rồi sau
đó mới tiến hành hợp pháp hoá các tài liệu đó để đưa vào hồ sơ vụ án, hoặc
13
thu thập lời khai bằng cách đánh đập, đe doạ, mớm cung… Điều này dẫn đến
các chứng cứ thu thập được bị thiếu tính hợp pháp, không có giá trị chứng
minh trong tố tụng hình sự, và đôi khi dẫn đến các trường hợp án oan, xác
định sai tội phạm, người phạm tội.
Tóm lại, tính khách quan, tính liên quan và tính hợp pháp là các thuộc
tính quan trọng của chứng cứ, giữa chúng có mối liên hệ chặt chẽ và cũng độc
lập với nhau trong việc thể hiện các khía cạnh của chứng cứ. Khi xem xét bất
cứ vật chứng, tài liệu gì để sử dụng làm chứng cứ cho vụ án thì cũng cần phải
xem xét đầy đủ ba thuộc tính này, nếu thiếu đi bất kỳ thuộc tính nào đều ảnh
hưởng nghiêm trọng đến giá trị chứng minh của chứng cứ.
1.1.3. Nguồn chứng cứ
Nguồn chứng cứ là một chế định quan trọng và cần thiết trong quá
trình giải quyết vụ án hình sự, việc hiểu đúng và đầy đủ về khái niệm
nguồn chứng cứ là tiền đề nghiên cứu nguồn chứng cứ, những quy định
trong lý luận và thực tiễn.
Theo từ điểm tiếng Việt năm 1992 của Viện khoa học xã hội Việt Nam
– Viện ngôn ngữ thì nguồn được hiểu: “Là nơi bắt đầu, nơi phát ra hoặc nơi
có thể cung cấp”. Theo đó có thể nói, nguồn chứng cứ là nơi chứa đựng
chứng cứ, từ đó chứng cứ được rút ra để giải quyết một vấn đề nào đó cần
được làm sáng tỏ trong vụ án hình sự. Cũng giống như chứng cứ, nguồn
chứng cứ tồn tại song song với việc đấu tranh chống tội phạm, nó đóng vai trò
hết sức quan trọng là cung cấp chứng cứ, cung cấp thông tin để giải quyết mọi
vụ án. Đó là cách hiểu chung nhất trong phạm vi rộng lớn về nguồn chứng cứ.
Đặc biệt, trong từng quốc gia, theo từng hệ thống pháp luật... nguồn chứng cứ
được thể hiện như thế nào, bản chất ra sao, bao gồm nội dung nào? Các vấn
đề này được thể hiện khác nhau.
Hiện nay, trong khoa học pháp lý tố tụng hình sự, mặc dù nguồn
14
chứng cứ được đề cập, sử dụng từ rất lâu và đã được quy định trong Bộ luật
tố tụng hình sự nhưng chưa có một khái niệm hoàn chỉnh về nguồn chứng
cứ. Để tạo nên một cách hiểu thống nhất mang ý nghĩa khoa học mà vẫn có
nhiều quan điểm, ý kiến khác nhau xoay quanh vấn đề này. Nêu lên nguồn,
nói về nguồn mà không đưa ra khái niệm nguồn chứng cứ là gì? Hoặc có
đưa ra nhưng không hoàn chỉnh, nhìn từ góc độ khác nhau thể hiện một cách
đơn lẻ, không chính xác.
Trong khoa học nói chung, khoa học pháp lý tố tụng hình sự nói riêng,
khi nói đến khái niệm thì phải nói đến tính khái quát của nó, thể hiện cho
được khái niệm đó cái gì ta cần nói. Nguyên nhân của vấn đề này còn tồn tại
đến ngày nay ở chỗ nguồn chứng cứ là một khái niệm còn mới mẻ, là một vấn
đề khó, chưa được đầu tư nghiên cứu thích đáng, chưa đi vào chiều sâu của
nó, chưa thấy được vai trò, vị trí cực kỳ quan trọng của nguồn chứng cứ trong
tố tụng hình sự như thế nào.
Nguồn chứng cứ được quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự quy định:
Chứng cứ được xác định bằng:
* Vật chứng;
* Lời khai của người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn
dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến
vụ án, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo;
* Kết luận giám định;
* Biên bản về hoạt động điều tra, xét xử và các tài liệu đồ vật
khác [20, Điều 64, Khoản 2].
`Các nguồn chứng cứ này được dùng để nhằm mục đích tìm ra sự thật
khách quan của vụ án. Như đã phân tích, chứng cứ trong vụ án hình sự là
những gì có thật liên quan đến vụ án hình sự mà dựa vào nó, các cơ quan tiến
hành tố tụng dùng làm căn cứ để xác định có hay không hành vi phạm tội,
15
mức độ, tính chất của hành vi. Còn nguồn chứng cứ chính là hình thức, nơi
chứa đựng những gì có thật liên quan đến vụ án. Nói cách khác, chứng cứ
chính là nội dung, còn nguồn chứng cứ là hình thức chứa đựng những nội
dung đó. Chính vì vậy, nguồn chứng cứ có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan
trọng để giải quyết vụ án hình sự một cách khách quan, chính xác và tuân
theo pháp luật.
Giữa chứng cứ và nguồn chứng cứ luôn có mối quan hệ mật thiết
và chặt chẽ.
- Thứ nhất: Mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng. Nguồn chứng cứ
là nơi chứa đựng, cung cấp chứng cứ nên nguồn là cái chung, hay còn gọi là
hình thức, cái bao trùm với chứng cứ. Chứng cứ là cái riêng, hay còn gọi là
nội dung, chứng cứ luôn chứa đựng trong nguồn, từ cái thật, cái thực chất có
trong nguồn. Đó là cách hiểu chung nhất giữa chứng cứ và nguồn chứng cứ.
Nguồn chứng cứ được phân thành nhiều loại, chứng cứ có thể được rút ra rừ
một nguồn hoặc nhiều nguồn khác nhau, một nguồn có thể được rút ra nhiều
chứng cừ. Trong một nguồn có thể rút ra nhiều loại chứng cứ, chứng cứ trực
tiếp hoặc chứng cứ gián tiếp; chứng cứ gốc hay chứng cứ sao chép lại, thuật
lại; chứng cứ buộc tội hay chứng cứ gỡ tội.
- Thứ hai: Nguồn chứng cứ là tiền đề của chứng cứ. Muốn có chứng
cứ trước hết phải có nguồn chứng cứ. Tức là trên thực tế phải có nguồn
chứng cứ được phản ánh lại và nguồn chứng cứ đó phải được pháp luật tố
tụng hình sự quy định. Nếu những thông tin, tài liệu nào được rút ra ngoài
những nguồn mà luật tố tụng hình sự quy định thì không phải là chứng cứ
pháp lý. Nói như vậy, không có nghĩa có nguồn chứng cứ là có chứng cứ,
điều đó còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Trước hết, nguồn đó có được phát
hiện thu thập hay không và chứng cứ được rút ra từ nguồn có đảm bảo ba
đặc điểm của nó hay không.
16
- Thứ ba: Mối quan hệ pháp lý tố tụng hình sự. Việc quy định nguồn
chứng cứ cũng như các hoạt động thu thập, bảo quản nguồn chứng cứ bởi cơ
quan tiến hành tố tụng chính là bảo vệ cho chứng cứ, để chứng cứ được rút ra
từ nguồn có giá trị pháp lý và giá trị chứng minh.
Từ những khái quát đặc điểm trên, tác giả có thể đưa ra khái niệm về
nguồn chứng cứ như sau: “Nguồn chứng cứ là nơi chứa đựng, cung cấp
chứng cứ để cơ quan tiến hành tố tụng rút ra là cơ sở cho việc giải quyết
vụ án hình sự”.
1.2. Khái niệm, mục đích và ý nghĩa thu thập, đánh giá chứng cứ
1.2.1. Khái niệm thu thập, đánh giá chứng cứ
* Khái quát lịch sử những quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt
Nam về thu thập, đánh giá chứng cứ
Gắn liền với luật tố tụng hình sự, hoạt động thu thập, đánh giá chứng
cứ ở nước ta đã trải qua một quá trình phát triển lâu dài, lịch sử thành văn
chứa đựng nhiều sử lược cho phép chúng ta khẳng định hoạt động thu thập,
đánh giá chứng cứ ở nước ta đã tồn tại trong các triều đại phong kiến cho đến
khi Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 được ban hành. Tuy nhiên, hoạt động
thu thập, đánh giá chứng cứ với tư cách là những bước quan trọng của quá
trình chứng minh sự thật khách quan của vụ án, được quy định cụ thể trong
các điều luật như ngày nay thì chưa có trong thời kỳ đó. Khái niệm và các quy
định về hoạt động thu thập, đánh giá chứng cứ đã dân được hoàn thiện qua
các giai đoạn và đến nay, được quy định trong các điều luật khác nhau chủ
yếu là luật hình sự và luật tố tụng hình sự.
Trước khi Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 ra đời, việc thu thập, đánh
giá chứng cứ được tiến hành hoàn toàn bởi các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền. Người tham gia tố tụng, trong đó có luật sư thực hiện việc bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho thân chủ của mình bằng việc đọc hồ sơ, ghi
17
chép tài liệu, chứng cứ đã được ghi sẵn trong hồ sơ. Trong thời gian này, vai
trò của luật sư khá mờ nhạt, và chủ yếu việc thu thập, đánh giá chứng cứ được
thực hiện bởi một phía – đó chính là cơ quan Nhà nước có thẩm quyền [31].
Ví dụ như trong thời kỳ phong kiến có nhiều bộ luật được ban hành để
duy trì quyền lực của giai cấp thống trị như: Hình Thư thời Lý, Hình
Thư thời Trần, Quốc Triều hình luật thời Lê, Hoàng Việt luật lệ nhà
Nguyễn. Đặc biệt, là Quốc Triều hình luật thời Lê, Hoàng Việt luật lệ
nhà Nguyễn thì giữa hai bộ luật này không có sự phân biệt giữa dân
luật và hình luật, tất cả sự vi phạm vào các điều luật đều bị coi là tội
phạm và bị chế tài hình sự, việc thu thập, đánh giá chứng cứ trong hai
bộ luật này không rõ ràng. Trong Quốc triều hình luật của nhà Lê, Điều
665 quy định: “...chỉ cần căn cứ vào lời khai của người làm chứng để
định tội...” Tức là căn cứ vào lời khai của người làm chứng để xác định
sự thật của vụ án trên cơ sở đó định tội danh, hoặc Điều 666 quy định:
“Khi lấy lời cung các phạm nhân, thì phải xét cẩn thận căn cứ vào lời
khai ban đầu...”
Năm 1954, đế quốc Mỹ xâm lược miền Nam Việt Nam, đất nước ta tạm
thời chia cắt thành hai miền Nam – Bắc. Miền Bắc dưới sự lãnh đạo của Đảng
tiến lên xã hội chủ nghĩa, miền Nam dưới sự thống trị của chế độ Mỹ - ngụy.
Đất nước lúc bấy giờ bị chia cắt thành hai miền, hai chế độ chính trị, hai pháp
luật khác nhau. Cho đến năm 1975, đất nước ta hoàn toàn thống nhất và đến
năm 1976 đổi tên nước thành nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bộ
luật tố tụng hình sự Cộng hòa là Bộ luật tố tụng hình sự đầu tiên ở Việt Nam
do chính quyền Sài Gòn cũ ban hành với mục đích quy trì chế độ ngụy quyền
trên đất nước ta. Nhìn chung bộ luật này quy định việc thu thập hay đánh giá
chứng cứ nhưng cũng giống như các bộ luật trước đó chưa được quy định cụ
thể trong cùng một điều luật, ví dụ như Điều 181 quy định: “Vụ thẩm cứu xét
18
có hay không có đủ tội chứng cấu thành tội trạng nếu các sự kiện không đủ
cấu thành trọng tội, khinh tội hay tội vi cảnh hoặc nếu không đủ chứng, dự
thẩm ra án lệnh miễn tố, bị can bị tạm giam phải được phóng khích...” Trên
cơ sở các chứng cứ thu thập được vụ thẩm nghiên cứu, xem xét có đủ cơ sở
cấu thành một tội cụ thể hay không. Như vậy, hoạt động đánh giá chứng cứ đã
được quy định trong luật tố tụng Cộng hòa, Điều 185 quy định: “Nếu thấy sự
kiện cấu thành trọng tội, vụ thẩm ra lệnh chuyển giao hồ sơ và kê khai tang
vật sang Biện Lý, để gửi ngay lên Chưởng Lý Hầu đưa ra phòng luận tội”.
Khi Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 ra đời đã đánh dấu nhiều bước
quan trọng trong quá trình thu thập và đánh giá chứng cứ. Trong đó, tại Điều
48, 49 Bộ luật này đã thừa nhận cho phép “Chứng cứ có thể do người tham
gia tố tụng, cơ quan, tổ chức hoặc bất kỳ cá nhân nào đều có thể đưa ra tài
liệu, đồ vật và trình bày đến những vấn đề liên quan trong vụ án”.
Hoặc tại Điều 50 của Bộ luật này quy định: “Điều tra viên, Kiểm sát
viên, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xác định và đánh giá mọi chứng cứ
với đầy đủ tinh thần trách nhiệm, sau khi nghiên cứu một cách tổng hợp,
khách quan, toàn diện và đầy đủ tất cả các tình tiết của vụ án”.
Đồng thời quy định cụ thể các trình tự, thủ tục về việc thu thập, và đánh
giá chứng cứ, cũng như quy định về trách nhiệm và thẩm quyền của các chủ thể.
Tuy vậy, do đã được xây dựng quá lâu và trên thực tế không còn phù
hợp so với bối cảnh nền kinh tế - xã hội hiện nay. Chính vì vậy, Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2003 ra đời và thay thế Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988.
Theo đó, các quy định và các nguyên tắc cơ bản của thu thập và đánh giá
chứng cứ vẫn được giữ nguyên nội dung, chỉ thay đổi về mặt câu chữ để chặt
chẽ hơn. Tuy nhiên, trong lần sửa đổi này, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003
đã có những quy định mới, cụ thể hơn trong trình tự, thủ tục tiến hành thu
thập và đánh giá chứng cứ.
19
* Về khái niệm thu thập chứng cứ
Về phương diện lập pháp, trong Bộ luật tố tụng hình sự không có khái
niệm thu thập chứng cứ. Mà Bộ luật tố tụng hình sự chỉ quy định phương thức
pháp lý để thu thập chứng cứ, đó là triệu tập, hỏi và nghe người làm chứng
trình bày, trưng cầu giám định, tiến hành khám xét, khám nghiệm... Vì thế,
dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau về thu thập chứng cứ. Nhiều người cho
rằng, thu thập chứng cứ là thu giữ vật chứng, dấu vết, lời khai... tức là thu
nguồn chứng cứ. Hiểu theo quan điểm này tức là đồng nhất chứng cứ với
nguồn chứng cứ sẽ dẫn đến nhiều bất cập. Chẳng hạn, khi hiểu chứng cứ đồng
nhất với nguồn chứng cứ cho nên khi thu được các nguồn chứng cứ có nghĩa
là hoạt động thu thập chứng cứ đã kết thúc, cơ quan điều tra và Viện kiểm sát
sẽ làm hồ sơ vụ án và ra quyết định truy tố một cách nhanh chóng và không
cần thiết phải thu thập thêm bất cứ một tình tiết, sự kiện nào khác. Tác hại của
nó là dễ bỏ sót các chứng cứ, trong khi các thông tin có giá trị chứng minh
trong nguồn chứng cứ rất nhiều, nếu biết khai thác triệt để những thông tin đó,
thì các cơ quan tiến hành tố tụng sẽ tìm được sự thật khách quan của vụ án.
Hiện nay có nhiều quan điểm về thu thập chứng cứ. Chẳng hạn, trong
giáo trình của trường Đại học Luật Hà Nội: “thu thập chứng cứ là tổng hợp
các hành vi phát hiện, ghi nhận, thu giữ và bảo quản chứng cứ”. Như vậy,
hiểu theo nghĩa này thì hoạt động thu thập chứng cứ chỉ bao gồm hành vi phát
hiện, thu giữ và bảo quản chứng cứ, dễ dẫn đến bỏ sót các chứng cứ hoặc khi
phát hiện thì các cơ quan tiến hành tố tụng chỉ đơn giản là ghi nhận chứng cứ,
thu giữ và bảo quản nó để sử dụng khi cần thiết mà không phải là kiểm tra
chứng cứ, củng cố chứng cứ để cho nó có giá trị chứng minh vững chắc trong
vụ án. Hay, có quan điểm khác đã hiểu hoạt động thu thập chứng cứ theo
nghĩa rộng hơn. Thu thập chứng cứ bao gồm phát hiện, thu giữ, củng cố
chứng cứ, kiểm tra chứng cứ và bảo vệ chứng cứ.
20
Tại Điều 65 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 quy định về việc thu thập
chứng cứ như sau:
1. Để thu thập chứng cứ, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và
Toà án có quyền triệu tập những người biết về vụ án để hỏi và nghe
họ trình bày về những vấn đề có liên quan đến vụ án, trưng cầu giám
định, tiến hành khám xét, khám nghiệm và các hoạt động điều tra khác
theo quy định của Bộ luật này; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung
cấp tài liệu, đồ vật, trình bày những tình tiết làm sáng tỏ vụ án.
2. Những người tham gia tố tụng, cơ quan, tổ chức hoặc bất
cứ cá nhân nào đều có thể đưa ra tài liệu, đồ vật và trình bày những
vấn đề có liên quan đến vụ án [20, Điều 65].
Như vậy, có thể thấy hoạt động thu thập chứng cứ có thể được tiến
hành dưới hai hình thức: Một, hình thức chủ động là việc cơ quan tiến hành tố
tụng triệu tập những người biết về vụ án để hỏi và nghe họ trình bày các
thông tin liên quan đến vụ án, hoặc chủ động tìm hiểu, điều tra. Hai, hình thức
thụ động là việc để các tổ chức, cá nhân, người tham gia tố tụng tự mình đưa
ra các tài liệu, đồ vật hoặc các vấn đề liên quan đến vụ án và được cơ quan
tiến hành tố tụng ghi nhận. Dù được cung cấp dưới hình thức nào thì các
thông tin, tư liệu liên quan đến vụ án đều phải được lưu giữ và đưa vào hồ sơ
vụ án theo đúng trình tự, thủ tục quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự.
Kết quả việc thu thập chứng cứ phải thể hiện đầy đủ các loại tài liệu,
chứng cứ kể cả chứng cứ gỡ tội và chứng cứ buộc tội, tránh phiến diện, chủ
quan, chỉ thu thập và đưa vào hồ sơ những tài liệu, chứng cứ theo đánh giá
chủ quan của người tiến hành tố tụng. Có như vậy các cơ quan tiến hành tố
tụng mới đưa ra được đánh giá, phân tích để đưa ra giải quyết, truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với bị can, bị cáo theo đúng quy định tại Điều 66 Bộ luật tố
tụng hình sự. Nhiệm vụ của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án phải
chứng minh các nội dung sau:
21
1. Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm
và những tình tiết khác của hành vi phạm tội;
2. Ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không
có lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay
không; mục đích, dộng cơ phạm tội;
3. Những tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự của bị can, bị cáo và những đặc điểm về nhân thân của bị
can, bị cáo;
4. Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tôi gây ra.
Trong quá trình tham gia tố tụng, bị can, bị cáo, người bị hại và
những người có liên quan có quyền cung cấp chứng cứ, đồ vật để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Đặc biệt là những chứng cứ, đồ vật,
quan điểm, lập luận mà luật sư tham gia tranh tụng cũng là những căn cứ
hết sức quan trọng mà các cơ quan tiến hành tố tụng phải xem xét cụ thể,
khách quan để đảm bảo cho việc xử lý được đúng người, đúng tội, đúng
quy định của pháp luật.
Thu thập chứng cứ là giai đoạn đầu tiên của quá trình chứng minh. Để
đảm bảo cho chứng cứ đảm bảo được giá trị chứng minh, hoạt động thu thập
chứng cứ phải được thực hiện theo các nguyên tắc nhất định.
Thứ nhất, bất kỳ cơ quan, tổ chức hay cá nhân nào cũng có thể đưa ra
các tài liệu, đồ vật và trình bày các vấn đề liên quan đến vụ án. Đó có thể là bị
can, bị cáo, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ, người liên quan,
người làm chứng,… Tất cả các thông tin này đều phải được cơ quan tiến hành
tố tụng tiếp nhận và đảm bảo được lưu trữ theo đúng quy định của pháp luật
tương ứng đối với từng nguồn chứng cứ nhất định.
Thứ hai, chỉ những người có thẩm quyền do pháp luật tố tụng hình sự
quy định mới có quyền thu thập chứng cứ. Theo quy định của Bộ luật tố tụng
22
hình sự năm 2003, chỉ những người sau đây mới có thẩm quyền áp dụng các
biện pháp thu thập, đánh giá chứng cứ:
* Thủ trưởng, phó thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp; Viện trưởng,
phó Viện trưởng Viện kiểm sát các cấp; Chánh án, phó Chánh án Toà án các
cấp có thẩm quyền ra lệnh áp dụng các biện pháp như: ra lệnh khám xét, phê
chuẩn lệnh khám xét, ra quyết định trưng cầu giám định, quyết định khai quật
tử thi, triệu tập người tham gia tố tụng để hỏi cung, lấy lời khai, đối chất,…
* Người trực tiếp thực hiện các biện pháp thu thập chứng cứ là Điều tra
viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký phiên toà, cán
bộ giám định, người được mời tham gia khám nghiệm.
Ngoài ra trong một số lĩnh vực cụ thể có sự tham gia của cơ quan Hải
quan, Kiểm lâm, Bộ đội biên phòng, Cảnh sát giao thông, Cảnh sát phòng
cháy chữa cháy,… cũng được quyền thực hiện một số biện pháp thu thập
chứng cứ. Theo quy định tại Điều 82 Bộ luật tố tụng hình sự quy định, người
bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã được giải đến
cơ quan Công an, Viện kiểm sát hoặc Uỷ ban nhân dân gần nhất thì các cơ
quan này phải lập biên bản, và ghi nhận những thông tin ban đầu về tội phạm
thì biên bản này cũng được coi là chứng cứ trong quá trình tố tụng.
Thứ ba, việc thu thập chứng cứ phải được thực hiện khi thực hiện theo
đúng trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Chỉ được áp
dụng các biện pháp thu thập chứng cứ được quy định tại Điều 65 của Bộ luật
hình sự năm 2003.
Như vậy, theo quan điểm của tác giả thì, thu thập chứng cứ là hoạt động
của cơ quan tiến hành tố tụng phát hiện, thu giữ, bảo quản các thông tin, tư liệu
liên quan đến vụ án theo các trình tự, thủ tục mà pháp luật tố tụng quy định.
* Đánh giá chứng cứ
Đánh giá chứng cứ là hoạt động tư duy logic của cơ quan tiến hành tố
23
tụng và những người có thẩm quyền trên cơ sở các quy định của pháp luật
nhằm xác định các thuộc tính của chứng cứ và giá trị chứng minh của tổng
hợp các chứng cứ đã thu thập được trong vụ án hình sự.
Như vậy, đánh giá chứng cứ là giai đoạn cuối cùng của quá trình chứng
minh nhằm rút ra các kết luận về việc giải quyết vụ án trên cơ sở đánh giá các
chứng cứ đã được thu thập trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử.
Việc đánh giá chứng cứ ảnh hưởng đến chất lượng sử dụng chứng cứ, đó là cơ
sở để nhận định và kết luận về các vấn đề cụ thể mà ta cần giải quyết để làm
rõ vụ án hình sự. Đây là công việc được tiến hành thường xuyên trong suốt
quá trình tiến hành tố tụng đối với vụ án và là yếu tố có ý nghĩa quyết định
đối với việc giải quyết vụ án. Chứng cứ được đánh giá theo quy định của pháp
luật và mặt khác những kết luận được rút ra từ việc đánh giá chứng cứ lại là
cơ sở để cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án ra các quyết định, áp dụng
các điều khoản để giải quyết vụ án.
Việc đánh giá chứng cứ hướng đến trả lời các câu hỏi: Chứng cứ cụ thể
có đáp ứng được đầy đủ các thuộc tính theo quy định để được sử dụng chứng
minh hay không? Các chứng cứ thu thập được đã đủ để xác định được tất cả
các tình tiết của vụ án để phục vụ cho việc giải quyết thực chất vụ án và ra
quyết định tố tụng hay chưa?
Chứng cứ chỉ được đánh giá sau khi đã trải qua quá trình thu thập
chứng cứ. Việc đánh giá chứng cứ là cơ sở để thu thập thêm chứng cứ mới và
đồng thời cũng là biện pháp để kiểm tra chứng cứ.
Ví dụ: Trong bãi chiếu phim có đám đánh nhau lộn xộn. A bị một vết
thương trên đỉnh chẩm trái có đặc điểm: Vết thương hình tam giác cân, đỉnh
tam giác nằm phía bên trên. Cơ quan điều tra nhận định vết thương của A là
do B dùng côn lục lăng đánh. Viện kiểm sát nhận định B không dùng côn
đánh A. Vết thương của A là do C cầm cục gạch ném.
24
Thực nghiệm bằng cách: Lấy một bánh xà phòng loại 72% hình chữ
nhật, lấy một côn lục lăng và 1/3 viên gạch (còn góc vuông). Đem đầu côn và
góc viên gạch ép vào bánh xà phòng.
Kết quả: Đỉnh tam giác nằm phía dưới do côn
Đỉnh tam giác nằm phía trên do viên gạch
Từ thực nghiệm trên chứng minh giả thuyết cho rằng C dùng gạch ném
A bị thương là phù hợp.
Như vậy, trong trường hợp này, việc phân tích, đánh giá chứng cứ từ
kết quả thu thập chứng cứ, cơ quan tiến hành tố tụng đã đưa ra hướng điều tra
để tìm ra người gây thương tích, từ đó để xác định lỗi và hậu quả của hành vi
do từng người gây ra.
Căn cứ vào quyền và nghĩa vụ của chủ thể đánh giá chứng cứ được
phân thành hai nhóm:
Nhóm thứ nhất: Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm
nhân dân. Những người này có nghĩa vụ chứng minh, do vậy việc đánh giá
chứng cứ là nghĩa vụ của người tiến hành tố tụng. Việc đánh giá chứng cứ của
họ ảnh hưởng trực tiếp đến việc ra quyết định tố tụng, giải quyết thực chất vụ
án. Do vậy, pháp luật đòi hỏi những người này phải tuân thủ đầy đủ các
nguyên tắc của việc đánh giá chứng cứ.
Nhóm thứ hai: Người tham gia tố tụng có quyền, lợi ích hợp pháp liên
quan đến việc giải quyết vụ án có quyền chứng minh nói chung và đánh giá
chứng cứ nói riêng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Nguyên tắc đánh giá chứng cứ được quy định trong Bộ luật tố tụng
hình sự và được thể hiện ở một số điểm cơ bản sau:
Một là, việc đánh giá chứng cứ độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
Nguyên tắc này xuất phát từ nguyên tắc hiến định về sự độc lập xét xử của toà
án. Không ai được can thiệp cũng như xác định trước giá trị chứng minh của
25
bất kỳ chứng cứ nào khi các cơ quan tiến hành tố tụng chưa tiến hành việc
đánh giá và có kết luận cụ thể về vụ án.
Hai là, đánh giá chứng cứ phải trên cơ sở quy định của pháp luật hình
sự cũng như pháp luật tố tụng hình sự. Chỉ trên cơ sở các quy định của Bộ
luật hình sự về tội phạm và cấu thành tội phạm cụ thể mới xác định đúng đối
tượng chứng minh và giới hạn chứng minh; trên cơ sở quy định của Bộ luật tố
tụng hình sự để đảm bảo được tính xác thực, tính hợp pháp và tính liên quan
của chứng cứ.
Ba là, việc đánh giá chứng cứ phải được đánh giá một cách tổng hợp,
khách quan, đầy đủ theo quy định tại khoản 2 Điều 66 Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2003. Để đáp ứng được nguyên tắc này, cần phải sử dụng phương pháp
đánh giá đối với từng chứng cứ trước khi đánh giá toàn bộ chứng cứ, có như
vậy mới xem xét vụ án một cách khách quan, hạn chế được sự suy đoán
không cần thiết, gây lạc hướng cho vấn đề điều tra, sau đó mới tiến hành tổng
hợp, liên hệ với nhau trên cơ sở thống nhất để đưa ra những suy luận logic
nhằm giải quyết vụ án một cách nhanh chóng nhất.
Bốn là, đánh giá chứng cứ riêng lẻ để xác định được tính khách quan,
tính liên quan và tính hợp pháp của chứng cứ.
Năm là, tổng hợp chứng cứ sau khi đánh giá xong từng chứng cứ. Việc
đánh giá tổng hợp chứng cứ nằm xác định đúng đắn giới hạn chứng minh và
kết luận về các vấn đề của vụ án.
Như vậy, đánh giá chứng cứ trong tố tụng hình sự là hoạt động tư duy
của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân được tiến
hành dưới dạng logic biện chứng trên cơ sở các quy định của pháp luật, ý thức
pháp luật xã hội chủ nghĩa, niềm tin nội tâm và kinh nghiệm bản thân nhằm
nghiên cứu, đánh giá độ tin cậy, giá trị của từng chứng cứ cũng như tổng thể
các chứng cứ và nguồn chứng cứ, trên cơ sở đó rút ra kết luận phù hợp về vụ
án nói chung và các tình tiết cụ thể cụ vụ án nói riêng.
26
1.2.2. Mục đích, ý nghĩa thu thập, đánh giá chứng cứ
* Mục đích của đánh giá chứng cứ
Đánh giá chứng cứ là một trong những bước quan trọng không thể bỏ
qua trong hoạt động chứng minh của cơ quan tố tụng. Thu thập chứng cứ là
bước đầu tiên để thu thập các luồng thông tin mang tính nhiều chiều, đó có
thể là chứng cứ trực tiếp, chứng cứ gián tiếp hoặc cũng có thể không phải là
chứng cứ (do không đảm bảo một thuộc tính nào đó của chứng cứ),… Khi đó
cần phải có bước đánh giá chứng cứ để xác định xem đó có thoả mãn điều
kiện của một chứng cứ theo quy định của pháp luật tố tụng hay không và
chứng cứ đó liệu đã chứng minh, làm sáng tỏ tất cả các tình tiết của vụ án và
giải quyết được thực chất của vụ án hay chưa. Đó chính là mục đích của việc
đánh giá chứng cứ. Đây là bước quan trọng trong việc xác định đúng phương
hướng cho hoạt động tố tụng, đưa ra những quyết định đúng đắn trong quá
trình thực hiện quyền công tố và tố tụng của người tiến hành tố tụng.
Phát hiện, thu thập chứng cứ là hoạt động của các cơ quan tiến hành tố
tụng nhằm tìm ra và thu giữ những sự kiện chứng minh hoặc những nguồn
chứng cứ theo đúng trình tự, thủ tục luật định, để từ đó khai thác những sự kiện
chứng minh. Việc xây dựng được bộ khung pháp lý chặt chẽ về thu thập chứng
cứ và cơ chế đảm bảo cho việc thu thập chứng cứ sẽ tạo điều kiện cho quá trình
thu thập chứng cứ trên thực tiễn được tiến hành thuận lợi, bảo đảm cho quá trình
chứng minh tội phạm được nhanh chóng, khách quan góp phần vào công cuộc
đấu tranh phòng chống tội phạm. Xét trên góc độ thông tin, thì phát hiện, thu
thập chứng cứ là quá trình thu thập thông tin để làm căn cứ xác định sự thật của
vụ án. Nếu không có thu thập chứng cứ, thì cũng không có kiểm tra, đánh giá và
sử dụng chứng cứ. Việc thu thập, đánh giá chứng cứ có ảnh hưởng trực tiếp
đến sự sai lầm trong một loạt các giai đoạn tiếp theo, nếu việc thu thập, đánh
giá chứng cứ không đáp ứng được các nguyên tắc cơ bản như khách quan,
đúng trình tự - thủ tục tố tụng hình sự thì sẽ ảnh hưởng trực tiếp là yếu tố có
ảnh hưởng trực tiếp đến việc khởi tố, truy tố, xét xử sai.
27
Việc thu thập các thông tin, các tài liệu chứng cứ trong vụ án hình sự có
ý nghĩa quan trọng. Song nếu chỉ có thu thập tốt những thông tin vẫn chưa đủ,
nếu như trong khi phân tích đánh giá các tài liệu chứng cứ chúng ta chủ quan,
duy ý chí, không tuân thủ các quy luật tự nhiên trong quá trình chứng minh và
giải thích và giải thích, không chịu khó tư duy phán đoán, tư duy logic khi
nhìn nhận phân tích đánh giá một sự vật, một hiện tượng sẽ dẫn đến các kết
luận của chúng ta khó chính xác, trái với quy định của pháp luật.
* Ý nghĩa của đánh giá chứng cứ
Đánh giá chứng cứ trong hoạt động tố tụng hình sự có ý nghĩa quan
trọng trong việc chứng minh tội phạm, người phạm tội và giải quyết các vụ án
hình sự. Trong đó, có thể nêu ra một vài ý nghĩa của hoạt động này như sau:
* Đánh giá chứng cứ có ý nghĩa đối với quá trình chứng minh và đồng
thời cũng là cơ sở quan trọng cho việc thu thập, kiểm tra chứng cứ. Việc đánh
giá chứng cứ giúp cho việc xác định giới hạn chứng minh, cho việc đưa ra các
giả thiết và kết luận trong quá trình chứng minh;
* Đánh giá chứng cứ có vai trò quan trọng trong việc xác định sự thật
khách quan của vụ án.
* Đánh giá chứng cứ là căn cứ để đi đến các kết luận và ra quyết định
giải quyết thực chất vụ án hình sự
Với các ý nghĩa nêu trên, việc đánh giá chứng cứ là một trong các hoạt
động không thể thiếu trong quá trình chứng minh tội phạm của cơ quan tiến
hành tố tụng.
1.3. Chủ thể, trình tự, thủ tục và phương pháp thu thập, đánh giá
chứng cứ
1.3.1. Chủ thể thu thập, đánh giá chứng cứ
1.3.1.1. Chủ thể tiến hành thu thập chứng cứ
Như đã phân tích ở phần trên: “Thu thập chứng cứ là hoạt động của cơ
quan tiến hành tố tụng phát hiện, thu giữ, bảo quản các thông tin, tư liệu có liên
28
quan đến vụ án theo các trình tự, thủ tục mà pháp luật tố tụng quy định” [12].
Từ khái niệm này có thể thấy chỉ những người có thẩm quyền do pháp luật tố
tụng hình sự quy định mới có quyền tiến hành thu thập chứng cứ. Những
người đó bao gồm Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm và
những người có thẩm quyền của cơ quan được giao thẩm quyền điều tra trong
những trường hợp nhất định. Đó là các vụ án có liên quan đến biên giới, hải
đảo thì để thuận tiện cho công tác điều tra và xét xử được đúng đắn, những
người thuộc các cơ quan như Hải quan, Kiểm lâm, Bộ đội biên phòng, Cảnh
sát biển cũng được giao thẩm quyền tham gia hoạt động thu thập chứng cứ
theo quy định của pháp luật. Hoặc trong một số trường hợp cần thiết liên quan
đến hoạt động điều tra còn nhờ đến các cơ quan khác của lực lượng cảnh sát
nhân dân, các đơn vị quân đội.
Theo quy định tại Điều 65 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 thì hoạt
động thu thập chứng cứ bao gồm:
- Hình thức chủ động: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa
án chủ động tiến hành các hoạt động thu thập chứng cứ đó là triệu
tập người biết về vụ án để nghe họ trình bày; được quyền trưng cầu
giám định, tiến hành khám xét, khám xét, khám nghiệm, yêu cầu cơ
quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật và các hoạt động
điều tra khác.
- Hình thức thụ động: Đó là do người tham gia tố tụng, cơ
quan, tổ chức, cá nhân tự mình đưa ra đồ vật, tài liệu, trình bày các
vấn đề liên quan đến các vụ án và được cơ quan tiến hành tố tụng
ghi nhận [20].
Như vậy, từ những quy định này cho thấy, người tham gia tố tụng như
bản thân bị can, bị cáo, người bào chữa và những người liên quan cũng có thể
tự mình thu thập và đưa ra các tài liệu, đồ vật để chứng minh. Tuy vậy, các tài
29
liệu, đồ vật đó chỉ được coi là chứng cứ khi được các cơ quan tiến hành tố
tụng xem xét và chấp nhận, do vậy giá trị chứng minh của các tài liệu, đồ vật
này khi được cung cấp thường có giá trị không cao.
1.3.1.2. Chủ thể tiến hành đánh giá chứng cứ
Đánh giá chứng cứ là hoạt động tư duy logic của Điều tra viên, Kiểm
sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân và những người có thẩm quyền theo
quy định của pháp luật nhằm xác định chính xác các thuộc tính của chứng cứ
và giá trị chứng minh của tổng hợp các chứng cứ đã thu thập được trong quá
trình điều tra và xét xử vụ án.
Chủ thể đánh giá chứng cứ được phân thành hai nhóm dựa trên quyền,
nghĩa vụ của chủ thể đó, cụ thể:
- Theo quy định tại Điều 10 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, nghĩa
vụ chứng minh thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Vì vậy, việc đánh
giá chứng cứ là nghĩa vụ của người tiến hành tố tụng. Do việc đánh giá
chứng cứ là cơ sở quan trọng để cơ quan tiến hành tố tụng ra quyết định tố
tụng, nên việc đánh giá chứng cứ cần tuân theo đúng, đầy đủ các trình tự
mà pháp luật quy định.
- Người tham gia tố tụng có quyền và lợi ích hợp pháp liên quan đến
việc giải quyết vụ án có quyền đưa ra các tài liệu, đồ vật để chứng minh và
đánh giá chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích của mình. Do những người này
đưa ra việc đánh giá chứng cứ là để bảo vệ quyền và lợi ích của họ, nên pháp
luật không quy định chặt chẽ đối với trình tự, thủ thục và các điều kiện,
nguyên tắc đánh giá đối với họ.
Tuy nhiên cũng như đối với việc thu thập chứng cứ, việc đánh giá
chứng cứ của người tham gia tố tụng cũng chỉ được chấp nhận thì có sự xem
xét và chấp thuận của cơ quan tiến hành tố tụng. Và cơ quan tiến hành tố tụng
dựa vào những đánh giá đó, kết hợp với việc nghiên cứu, đánh giá lại theo
30
quy định của pháp luật để xem xét về giá trị pháp lý của chứng cứ đó đối với
vụ án hình sự.
1.3.2. Trình tự, thủ tục thu thập chứng cứ và phương pháp thu thập,
đánh giá chứng cứ
* Về trình tự, thủ tục:
Bộ luật tố tụng hình sự quy định về biện pháp thu thập chứng cứ đối
với mỗi loại chứng cứ với trình tự, thủ tục không giống nhau. Tuy nhiên, thủ
tục của các biện pháp thu thập chứng cứ cần phải có các nội dung và sắp xếp
theo trình tự bao gồm: (i) Thủ tục ra văn bản áp dụng; (ii) Thủ tục tiến hành
thu thập chứng cứ; (iii) Thủ tục lập biên bản.
Về thủ tục thu thập chứng cứ: Trong thực tế của quá trình tiến hành tố
tụng, các thủ tục thu thập chứng cứ thường được áp dụng bao gồm:
* Thủ tục giải thích quyền và nghĩa vụ cho đối tượng bị áp dụng: Thủ
tục này được áp dụng trong các biện pháp hỏi cung; lấy lời khai của người bị
bắt, người bị tạm giữ, người làm chứng, người bị hại; khi tiến hành đối chất,
nhận dạng, khám người, khám nơi làm việc, khám chỗ ở, địa điểm.
* Thủ tục chứng kiến: Trong một số trường hợp, pháp luật quy định
việc áp dụng biện pháp thu thập chứng cứ phải có sự chứng kiến của người
khác, đó có thể là láng giềng, đại diện chính quyền cấp cơ sở, đại diện cơ
quan, tổ chức,... Thủ tục này nhằm bảo đảm cho các hoạt động tố tụng được
tiến hành đúng luật, khách quan, vô tư; bảo đảm giá trị chứng minh của các
tài liệu chứng cứ thu thập được. Thành phần người chứng kiến trong các hoạt
động tố tụng được quy định không giống nhau. Chẳng hạn biện pháp khám
chỗ ở, nơi làm việc, địa điểm đòi hỏi phải có người láng giềng, đại diện chính
quyền địa phương (nơi làm việc thì đại diện cơ quan, tổ chức nơi người đó
làm việc) chứng kiến; trong khi đó, biện pháp thu giữ thư tín, điện tín bưu
phẩm tại bưu điện thì phải có sự chứng kiến của đại diện cơ quan bưu điện.
31
* Thủ tục thông báo cho Viện kiểm sát: Được áp dụng trong trường hợp
khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, theo quy định tại Điều 150, 151
Bộ luật tố tụng hình sự; trường hợp thu giữ thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu
phẩm tại bưu điện theo quy định tại Điều 144 Bộ luật tố tụng hình sự.
* Thủ tục lập biên bản: Khi tiến hành các hoạt động tố tụng, bắt buộc
phải lập biên bản theo mẫu quy định thống nhất theo quy định tại Điều 95 Bộ
luật tố tụng hình sự. Trong trường hợp tạm giữ đồ vật, tài liệu thì ngoài biên
bản khám xét phải lập biên bản về việc tạm giữ đồ vật, tài liệu. Biên bản này
được lập 4 bản một bản được giao cho chủ đồ vật, tài liệu; một bản đưa vào
hồ sơ vụ án; một bản được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp và một bản giao
cho cơ quan quản lý đồ vật, tài liệu bị tạm giữ.
* Thủ tục ra văn bản áp dụng: Đối với một số biện pháp thu thập chứng
cứ luật đòi hỏi thủ tục ra văn bản áp dụng đối với một số trường hợp như biện
pháp khám xét: Khám người, chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm (Điều 141, Điều
142 và Điều 143 BLTTHS). Đối với trường hợp trưng cầu giám định và
trường hợp cần phải khai quật tử thi để khám nghiệm, thì cũng phải ra quyết
định bằng văn bản trước khi thi hành. Các trường hợp khám nghiệm hiện
trường, khám nghiệm tử thi chưa chôn cất, xem xét dấu vết trên thân thể, thực
nghiệm điều tra pháp luật thực định không quy định phải có quyết định.
Ngoài các thủ tục trên còn phải tuân thủ những thủ tục khác như:
Không được hỏi cung vào ban đêm (trừ khi không thể trì hoãn); thủ tục tách
riêng từng người hỏi cung, lấy lời khai, thủ tục tham dự của người đại diện
trong trường hợp người làm chứng dưới 16 tuổi; thủ tục tham gia tố tụng của
người giám hộ trong trường hợp bị can, bị cáo là người chưa thành niên…
* Phương pháp thu thập chứng cứ
Phân chia theo nguồn chứng cứ thì phương pháp thu thập chứng cứ bao gồm:
* Lấy lời khai của người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị
32
đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người bị bắt, người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003;
* Trưng cầu giám định: Việc giám định phải được tiến hành bởi người
có trình độ chuyên môn về vấn đề khoa học, kỹ thuật tương ứng liên quan đến
vụ án hình sự được cơ quan tiến hành tố tụng trưng cầu. Phạm vi kết luận
giám định được giới hạn trong quyết định trưng cầu giám định của cơ quan
tiến hành tố tụng.
* Thông qua hoạt động điều tra, xét xử và các tài liệu, đồ vật thu thập
được tại hiện trường xảy ra vụ án, hoặc trên các phương tiện, dụng cụ được sử
dụng để gây án,…
Phân theo hoạt động thu thập chứng cứ thì chia làm hai loại: Chủ động
thu thập chứng cứ (do người tiến hành tố tụng tiến hành tổ chức thực hiện các
biện pháp thu thập chứng cứ); thu thập chứng cứ thụ động (do người tham gia
tố tụng hình sự thực hiện việc tự mình đưa ra tài liệu, vật chứng hoặc trình
bày các vấn đề liên quan đến vụ án).
1.4. Thu thập và đánh giá chứng cứ trong luật tố tụng hình sự của
một số nước trên thế giới
Với những ý nghĩa và vai trò quan trọng của chứng cứ trong công tác
phòng chống tội phạm, pháp luật các nước trên thế giới đều có những ghi nhận
về việc thu thập, đánh giá chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự của mình.
Điều 74 Bộ luật tố tụng hình sự Liên bang Nga năm 2001 quy định:
Chứng cứ trong vụ án hình sự là bất cứ thông tin nào mà Toà
án, Công tố viên, Dự thẩm viên, Nhân viên điều tra ban đầu dùng
làm căn cứ, theo trình tự do Bộ luật này quy định, xác định sự tồn
tại hay không tồn tại của những tình tiết cần phải chứng minh trong
quá trình tố tụng và những tình tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án.
Như vậy, cũng tương tự như pháp luật Việt Nam, các chứng cứ phải là
33
các thông tin do người tiến hành tố tụng thu thập, sử dụng làm căn cứ để
chứng minh các tình tiết trong quá trình tố tụng.
Bộ luật hình sự năm 1996 Cộng hoà nhân dân Trung Hoa quy định:
“Mọi sự thật chứng minh những tình tiết đúng đắn của vụ án đều là chứng
cứ” [16, Điều 42]. Như vậy, chỉ cần chứng minh tình tiết đó là có thật, tồn tại
khách quan thì đều được coi là chứng cứ, mà không giới hạn chủ thể cung cấp
thông tin, tài liệu đó.
Hay ở các quốc gia không có quy định cụ thể về chứng cứ như ở Pháp
lại không nêu rõ khái niệm chứng cứ thành một quy phạm định nghĩa cụ thể
mà lại quy định dẫn chiếu đến các loại chứng cứ và phương thức để xác định
chứng cứ tuỳ từng giai đoạn của việc Tố tụng hình sự.
Mỗi quốc gia có những quy định khác nhau về chứng cứ, tuy vậy, nó
đều là những sự kiện, hiện tượng có thật, tồn tại khách quan và không phụ
thuộc vào ý chí chủ quan của con người. Và hoạt động động thu thập, đánh
giá chứng cứ phải dựa trên những quy định của pháp luật, đồng thời đáp ứng
được tính đúng đắn, logic phục vụ cho hoạt động tố tụng.
Hiện nay, cùng với việc nền kinh tế toàn cầu hoá, các quốc gia cũng có
sự hợp tác liên minh nhất định trong việc giải quyết các vụ án hình sự mang
tính liên quốc gia, hoặc có yếu tố nước ngoài. Các quốc gia trong đó có Việt
Nam cùng nhau ký các hiệp định tương trợ tư pháp, thông qua đó, các cơ quan
tiến hành tố tụng có thể gửi yêu cầu phía Nhà nước bên được yêu cầu giúp đỡ
trong việc thu thập, đánh giá chứng cứ đối với những trường hợp cụ thể.
Đồng thời các hiệp định này cũng ghi nhận việc các cơ quan tố tụng thừa
nhận giá trị pháp lý của các chứng cứ này nếu đáp ứng đầy đủ các yếu tố theo
quy định pháp luật của nước có yêu cầu.
Chẳng hạn Điều 12 Hiệp định tương trợ trợ tư pháp về các vấn đề dân
34
sự và hình sự giữa Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hoà nhân
dân Trung Hoa quy định về việc điều tra, thu thập chứng cứ như sau:
1. Theo yêu cầu, hai bên ký kết sẽ tương trợ cho nhau trong
việc điều tra, thu thập chứng cứ và thực hiện các hành vi tố tụng
cần thiết để tiến hành điều tra, thu thập chứng cứ.
2. Ngoài việc phải tuân theo quy định tại Điều 7 của Hiệp
định này, yêu cầu điều tra, thu thập chứng cứ còn phải bao gồm các
nội dung sau:
1) Các câu hỏi dùng để lấy lời khai của đương sự hoặc thông
báo về những vụ việc cần lấy lời khai;
2) Giấy tờ hoặc tài sản cần được kiểm tra.
3. Bên ký kết được yêu cầu sẽ thông báo bằng văn bản cho
Bên ký kết yêu cầu kết quả thực hiện yêu cầu điều tra, thu thập
chứng cứ, kèm theo các tài liệu thu được có tính chất chứng cứ.
Tuy nhiên, việc thừa nhận chứng cứ của nước ngoài cung cấp hay
không thì các cơ quan tố tụng cũng như các quốc gia bên ngoài không ảnh
hưởng đến phán xét, việc ra quyết định giải quyết vụ án của cơ quan tố
tụng Việt Nam.
Như vậy, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều cần đến chứng cứ và
hoạt động thu thập, đánh giá chứng cứ để chứng minh hành vi phạm tội của
người phạm tội.
35
Chương 2
NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ
THU THẬP, ĐÁNH GIÁ CHỨNG CỨ VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK
2.1. Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thu thập,
đánh giá chứng cứ
2.1.1. Thu thập, đánh giá chứng cứ là vật chứng
Theo từ điển tiếng Việt, “vật” được hiểu là những thứ có hình khối, kích
thước, trọng lượng mà con người có thể nhận biết được thông qua các giác
quan như nhìn, sờ, cầm, nắm, cảm giác được to, nhỏ, nặng, nhẹ. Như vậy, tất cả
các sự vật mang tính hữu hình cụ thể đều thuộc khái niệm “vật” [31].
“Vật chứng” trong vụ án hình sự là vật thể được thu thập theo thủ tục
do pháp luật tố tụng hình sự quy định chứa đựng các thông tin có ý nghĩa đối
với việc giải quyết vụ án. Theo quy định tại Khoản 2 Điều 64 Bộ luật tố tụng
hình sự thì vật chứng được coi là một nguồn của chứng cứ, có nghĩa vật
chứng là một hình thức tồn tại của chứng cứ, là một phần của chứng cứ chứng
minh cho các tình tiết của vụ án được rút ra từ vật chứng.
Với đặc điểm vật chứng là những vật vô tri, không bị chi phối bởi các
yếu tố tình cảm, tâm lý như các loại nguồn chứng cứ khác, do vậy chúng
mang tính khách quan, tồn tại ngoài ý muốn của con người nên nó phản ánh
một cách nguyên si, trung thực về những tình tiết, sự việc xảy ra. Như vậy,
vật chứng có vị trí đặc biệt quan trong trong quá trình chứng minh vụ án hình
sự, mà thông qua nó, chúng ta có thể chứng minh được các tình tiết xảy ra
trong vụ án, và một số trường hợp nó còn có ý nghĩa quyết định trong việc
điều tra, xử lý tội phạm và người phạm tội. Mặc dù tính khách quan cao như
vậy, nhưng vật chứng cũng rất dễ bị ảnh hưởng bởi các tác động của điều kiện
tự nhiên, bị làm giả, làm sai lệch…
36
Theo quy định tại Điều 74 Bộ luật tố tụng hình sự, vật chứng bao gồm
các loại:
* Vật chứng được dùng làm phương tiện, công cụ phạm tội: đây là những
vật, phương tiện được dùng để hỗ trợ cho việc gây án như dao, gậy, súng,…
* Vật mang dấu vết tội phạm như dấu vân tay, vết máu, dấu giày,..
* Vật là đối tượng của tội phạm mà thông qua việc tác động vào vật đó,
người phạm tội gây ra thiệt hại cho các quan hệ xã hội nhất định. Ví dụ như
tiền giả, giấy tờ giả, tài sản bị chiếm đoạt,..
* Tiền bạc và vật khác không thuộc các loại trên nhưng có giá trị chứng
minh tội phạm và người phạm tội. Ví dụ như tiền bạc tịch thu được từ vụ
đánh bạc,..
Do đặc điểm của vật chứng là dễ bị ảnh hưởng bởi các điều kiện tự nhiên,
dễ bị làm giả nên việc thu thập vật chứng phải được tiến hành kịp thời, đầy đủ,
và được mô tả đúng thực trạng khi thu thập để đưa vào hồ sơ vụ án. Đối với vật
chứng không thể đưa vào hồ sơ vụ án thì phải chụp ảnh và có ghi hình để đưa
vào hồ sơ. Việc thu thập vật chứng phải được lập thành biên bản cụ thể.
Tại Bộ luật tố tụng hình sự quy định cụ thể trình tự, thủ tục niêm phong
và bảo quản vật chứng như sau:
a) Đối với vật chứng cần được niêm phong thì phải niêm
phong ngay sau khi thu thập. Việc niêm phong, mở niêm phong
phải được tiến hành theo quy định của pháp luật và phải lập biên
bản để đưa vào hồ sơ vụ án;
b) Vật chứng là tiền, vàng, bạc, kim khí quý, đá quý, đồ cổ,
chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ phải được giám định
ngay sau khi thu thập và phải chuyển ngay để bảo quản tại ngân
hàng hoặc các cơ quan chuyên trách khác;
c) Đối với vật chứng không thể đưa về cơ quan tiến hành tố
37
tụng để bảo quản thì cơ quan tiến hành tố tụng giao vật chứng đó
cho chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp đồ vật, tài sản hoặc người
thân thích của họ hoặc chính quyền địa phương, cơ quan, tổ chức
nơi có vật chứng bảo quản
d) Đối với vật chứng là hàng hoá mau hỏng hoặc khó bảo
quản nếu không thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 76
của Bộ luật này thì cơ quan có thẩm quyền quy định tại khoản 1
Điều 76 của Bộ luật này trong phạm vi quyền hạn của mình quyết
định bán theo quy định của pháp luật và chuyển tiền đến tài
khoản tạm giữ của cơ quan có thẩm quyền tại kho bạc nhà nước
để quản lý [20, Điều 75, khoản 2]
Đối với chứng cứ là vật chứng thì bước thu thập chứng cứ có ảnh
hưởng lớn đến việc đánh giá chứng cứ và giải quyết vụ việc. Vật chứng chỉ
được đánh giá đúng khi được thu thập đầy đủ, chính xác theo đúng trình tự,
thủ tục để đảm bảo được tính khách quan, tính liên quan và tính hợp pháp của
chứng cứ. Bởi lẽ việc đánh giá chứng cứ là vật chứng được tiến hành một
cách khách quan, dựa vào những căn cứ có thực liên quan đến vụ án. Chẳng
hạn trong một vụ án giết người bằng dao phay, thì ngoài xem xét hiện trường,
vết thương trên thi thể nạn nhân thì nếu việc thu thập được chiếc dao phay
được dùng làm hung khí gây án sẽ là điều quan trọng. Bởi căn cứ vào đó sẽ
thu thập được dấu vân tay hoặc vết tích do hung thủ để lại.
Việc thu thập chứng cứ là vật chứng đúng có ảnh hưởng rất lớn đến
hướng điều tra vụ án. Ví dụ: trong vụ án Trương Ngọc Minh bị giết chết tại
thành phố Hồ Chí Minh. Khi điều tra vụ án, cơ quan điều tra đã không thu
giữ một số vật chứng quan trọng như chiếc thang tre được cho là bị dùng để
thực hiện hành vi phạm tội nên không thể thực nghiệm hiện trường. Bên cạnh
đó, khi tiến hành thu lượm các chất gây cháy làm ông Minh chết, cơ quan
điều tra có thu phía sau phòng bị can 01 lon loại 0,8 lít còn dính dầu và loại
38
01 lít còn dính xăng, thu bên phòng ông Minh một lon thiếc, dung tích 1 lít bị
cháy ám khói. Nhưng bị can lại khai nhà bị can chỉ có 01 chiếc lon loại 01 lít
đựng dầu mà công an đã thu giữ. Cách thu lượm này đã không xác định được
chiếc lon loại 0,8 lít có hay không; chiếc lon loại 01 lít thực chất đựng dầu
hay xăng. Vụ án càng điều tra càng bế tắc do không xác định được chất gây
cháy trong vụ án này là chất gì, và việc điều tra đã mất rất nhiều thời gian,
công sức nhưng vẫn không giải quyết được.
Khi thu thập vật chứng, cơ quan tố tụng phải ghi cụ thể trong biên bản
các nội dung sau:
+ Tên vật thu được: Ví dụ con dao phay, khẩu súng AK, hay công cụ
phương tiện khác, nếu là xe máy thì phải ghi rõ biển số, số khung, số máy,…
Trường hợp vật chứng không phải là vật thông dụng, khó đặt tên, thì có thể
đặt tên dạng mô tả hình dạng, kích thước, màu sắc, vật liệu...
+ Tùy thuộc vào đặc điểm của vật mà có cách mô tả cụ thể, nhưng nhìn
chung phải thể hiện được các nội dung: Số lượng, chất lượng, trọng lượng,
khối lượng, hình dạng kích thước, màu sắc, mùi vị, tính nguyên vẹn và trạng
thái mới, cũ của vật.
+ Những dấu vết của tội phạm để lại trên vật chứng. Ví dụ như vết máu,
vết nứt, gãy,.. Trường hợp trên vật chứng có dấu vết thì phải mô tả từng dấu vết,
kích thước của dấu vết, màu sắc của dấu vết, chiều hướng của dấu vết,…
+ Nơi tìm thấy vật: cần phải nêu rõ nơi tìm thấy vật và cách thức giấu
vật trong biên bản.
2.1.2. Thu thập, đánh giá chứng cứ là lời khai của người làm chứng,
người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo
Lời khai thể hiện các thông tin về vụ án được lưu giữ trong ý thức
người tham gia tố tụng, chính vì vậy các thông tin đó được thu thập thông qua
lời khai của người tham gia tố tụng.
39
Đặc điểm là được lưu giữ trong ý thức chủ quan của con người, nên lời
khai thường bị ảnh hưởng bởi một số yếu tố như: hoàn cảnh khách quan, năng
lực tâm sinh lý của con người khi thu nhận, lưu giữ thông tin; ảnh hưởng bởi
những lợi ích cá nhân, mối quan hệ của người tham gia tố tụng trong vụ án
hình sự. Với những yếu tố ảnh hưởng này, dễ dẫn đến việc làm sai lệch những
thông tin mà người đó biết được và cung cấp cho cơ quan chức năng.
* Lời khai của người làm chứng
Những người biết được tình tiết liên quan đến vụ án được cơ quan tiến
hành tố tụng triệu tập để làm chứng. Trong lời khai của mình, người làm
chứng trình bày những gì họ biết về vụ án, thân nhân của người bị bắt, bị tạm
giữ, bị can, bị cáo, người bị hại. Đồng thời Bộ luật tố tụng hình sự cũng quy
định người làm chứng phải khai báo về mối quan hệ của họ với người bị bắt,
bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại, và người làm chứng khác.
Với những ảnh hưởng đó, khi tiến hành thu thập và đánh giá lời
khai của người làm chứng, cơ quan tiến hành tố tụng cũng cần chú ý ở
một số điểm sau:
Một, cách ly người làm chứng để lấy lời khai trong trường hợp có
nhiều người làm chứng: việc này nhằm mục đích tránh sự ảnh hưởng của
những người làm chứng với nhau, từ đó sẽ ảnh hưởng đến tính khách quan
của lời khai đó.
Hai, cần phải cân nhắc đặc điểm tâm sinh lý, khả năng nhận thúc, tiếp
nhận thông tin của người làm chứng. Trong trường hợp người làm chứng dưới
16 tuổi, khi lấy lời khai của người dưới 16 tuổi thì phải có mặt của cha, mẹ,
hoặc người đại diện hợp pháp khác. Trong những trường hợp nhất định thì
cần trưng cầu giám định để xác định trạng thái tâm thần của người đó theo
quy định của pháp luật.
Ba, cân nhắc xuất xứ thông tin mà người làm chứng biết được. Trong
40
trường hợp người làm chứng không thể nói rõ vì sao họ biết được tình tiết đó
thì sẽ không được dùng thông tin do họ cung cấp để làm chứng.
Bốn, xem xét mối quan hệ của họ với với người bị bắt, bị tạm giữ, bị
can, bị cáo, người bị hại, người làm chứng khác. Đồng thời giải thích cho họ
biết rằng hành vi từ chối khai báo, cung cấp các tình tiết mà họ biết về vụ án
cũng như cố tình khai báo sai sự thật đều cấu thành tội phạm theo quy định tại
Điều 307, 308 của Bộ luật hình sự năm 1999 [13].
* Lời khai của người bị hại
Khi thu thập lời khai của người bị hại, cơ quan tiến hành tố tụng cũng
cần lưu ý các điểm như đối với lời khai của người làm chứng. Tuy vậy, do
xuất phát là người trong cuộc, là người trực tiếp bị tội phạm gây thiệt hại, vì
vậy khi tiếp nhận thong tin về vụ án, người bị hại trong trạng thái tâm lý xúc
động, mất bình tĩnh và không tránh khỏi những khai báo mang tính chủ quan.
Vì vậy, khi lấy lời khai của người bị hại cần làm thế nào để người bị hại khai
báo toàn bộ các tình tiết của vụ án mà họ biết, kể cả chứng cứ buộc tội, cả
chứng cứ gỡ tội.
* Lời khai của nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan đến vụ án
Do xuất phát là người không trực tiếp liên quan đến việc phạm tội
nhưng có quyền và lợi ích hợp pháp liên quan đến vụ án, vì vậy phạm vi khai
báo của họ chỉ là những tình tiết liên quan đến bồi thường thiệt hại hoặc
những tình tiết liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ trong vụ án hình sự.
Nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
đến vụ án có thể là cơ quan, tổ chức hoặc là cá nhân. Trong trường hợp họ là
cơ quan, tổ chức thì lời khai phải do người đại diện theo pháp luật hoặc người
ủy quyền cung cấp.
Với những đặc điểm đó, khi thu thập chứng cứ và đánh giá chứng cứ từ
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng, HAY

More Related Content

What's hot

What's hot (20)

Luận văn: Định tội danh tội giết người theo pháp luật hình sự, 9đ
Luận văn: Định tội danh tội giết người theo pháp luật hình sự, 9đLuận văn: Định tội danh tội giết người theo pháp luật hình sự, 9đ
Luận văn: Định tội danh tội giết người theo pháp luật hình sự, 9đ
 
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự, HOT
 
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam Định
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam ĐịnhLuận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam Định
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam Định
 
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAYĐề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Những loại người đồng phạm trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Những loại người đồng phạm trong luật hình sự Việt NamLuận văn: Những loại người đồng phạm trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Những loại người đồng phạm trong luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội
Luận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tộiLuận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội
Luận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội
 
Luận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
Luận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tộiLuận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
Luận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
 
Luận văn: Kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố vụ án hình sự
Luận văn: Kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố vụ án hình sựLuận văn: Kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố vụ án hình sự
Luận văn: Kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố vụ án hình sự
 
Luận văn: Kê biên tài sản trong thi hành án dân sự theo Luật thi hành án dân ...
Luận văn: Kê biên tài sản trong thi hành án dân sự theo Luật thi hành án dân ...Luận văn: Kê biên tài sản trong thi hành án dân sự theo Luật thi hành án dân ...
Luận văn: Kê biên tài sản trong thi hành án dân sự theo Luật thi hành án dân ...
 
Luận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAY
Luận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAYLuận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAY
Luận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAY
 
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
 
Luận án: Thực hành quyền công tố trong điều tra các tội giết người
Luận án: Thực hành quyền công tố trong điều tra các tội giết ngườiLuận án: Thực hành quyền công tố trong điều tra các tội giết người
Luận án: Thực hành quyền công tố trong điều tra các tội giết người
 
Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy theo Luật hình sự, HOT
Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy theo Luật hình sự, HOTTội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy theo Luật hình sự, HOT
Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy theo Luật hình sự, HOT
 
Tội mua bán trái phép chất ma túy theo pháp luật hình sự, 9đ
Tội mua bán trái phép chất ma túy theo pháp luật hình sự, 9đTội mua bán trái phép chất ma túy theo pháp luật hình sự, 9đ
Tội mua bán trái phép chất ma túy theo pháp luật hình sự, 9đ
 
Luận văn: Phòng ngừa tội cướp giật tài sản tại quận Thủ Đức, 9đ
Luận văn: Phòng ngừa tội cướp giật tài sản tại quận Thủ Đức, 9đLuận văn: Phòng ngừa tội cướp giật tài sản tại quận Thủ Đức, 9đ
Luận văn: Phòng ngừa tội cướp giật tài sản tại quận Thủ Đức, 9đ
 
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Phòng ngừa tội phạm quận Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng
Luận văn: Phòng ngừa tội phạm quận Cẩm Lệ, TP Đà NẵngLuận văn: Phòng ngừa tội phạm quận Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng
Luận văn: Phòng ngừa tội phạm quận Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng
 
Mô tả công việc của sinh viên thực tập tại tòa án quận, huyện
Mô tả công việc của sinh viên thực tập tại tòa án quận, huyệnMô tả công việc của sinh viên thực tập tại tòa án quận, huyện
Mô tả công việc của sinh viên thực tập tại tòa án quận, huyện
 
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sự
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sựLuận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sự
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sự
 
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Điện Biên
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Điện BiênLuận văn: Các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Điện Biên
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Điện Biên
 

Similar to Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng, HAY

Luận án: Chứng minh trong tố tụng hình sự tỉnh Đồng Nai, HAY - Gửi miễn phí ...
Luận án: Chứng minh trong tố tụng hình sự tỉnh Đồng Nai, HAY  - Gửi miễn phí ...Luận án: Chứng minh trong tố tụng hình sự tỉnh Đồng Nai, HAY  - Gửi miễn phí ...
Luận án: Chứng minh trong tố tụng hình sự tỉnh Đồng Nai, HAY - Gửi miễn phí ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Chức năng của Viện Kiểm sát nhân dân trong điều tra vụ án hình sự mà bị can l...
Chức năng của Viện Kiểm sát nhân dân trong điều tra vụ án hình sự mà bị can l...Chức năng của Viện Kiểm sát nhân dân trong điều tra vụ án hình sự mà bị can l...
Chức năng của Viện Kiểm sát nhân dân trong điều tra vụ án hình sự mà bị can l...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 

Similar to Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng, HAY (20)

Luận án: Chứng minh trong tố tụng hình sự tỉnh Đồng Nai, HAY - Gửi miễn phí ...
Luận án: Chứng minh trong tố tụng hình sự tỉnh Đồng Nai, HAY  - Gửi miễn phí ...Luận án: Chứng minh trong tố tụng hình sự tỉnh Đồng Nai, HAY  - Gửi miễn phí ...
Luận án: Chứng minh trong tố tụng hình sự tỉnh Đồng Nai, HAY - Gửi miễn phí ...
 
Hỏi Cung Bị Can Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HAY.docx
Hỏi Cung Bị Can Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HAY.docxHỏi Cung Bị Can Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HAY.docx
Hỏi Cung Bị Can Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HAY.docx
 
Hỏi Cung Bị Can Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HAY.docx
Hỏi Cung Bị Can Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HAY.docxHỏi Cung Bị Can Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HAY.docx
Hỏi Cung Bị Can Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HAY.docx
 
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAYLuận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
 
Luận văn: Hỏi cung bị can trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Hỏi cung bị can trong luật tố tụng hình sự Việt NamLuận văn: Hỏi cung bị can trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Hỏi cung bị can trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Chứng minh trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Chứng minh trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, HAYLuận văn: Chứng minh trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Chứng minh trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, HAY
 
Luận án: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HAY
Luận án: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HAYLuận án: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HAY
Luận án: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm, HOT
Luận văn: Kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm, HOTLuận văn: Kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm, HOT
Luận văn: Kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm, HOT
 
Đề tài: Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án, HAY
Đề tài: Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án, HAYĐề tài: Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án, HAY
Đề tài: Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án, HAY
 
Luận văn: Yêu cầu điều tra của viện kiểm sát tỉnh Thái Nguyên
Luận văn: Yêu cầu điều tra của viện kiểm sát tỉnh Thái NguyênLuận văn: Yêu cầu điều tra của viện kiểm sát tỉnh Thái Nguyên
Luận văn: Yêu cầu điều tra của viện kiểm sát tỉnh Thái Nguyên
 
Luận văn: Nguyên tắc giám đốc việc xét xử trong luật tố tụng hình sự
Luận văn: Nguyên tắc giám đốc việc xét xử trong luật tố tụng hình sựLuận văn: Nguyên tắc giám đốc việc xét xử trong luật tố tụng hình sự
Luận văn: Nguyên tắc giám đốc việc xét xử trong luật tố tụng hình sự
 
Luận văn: Nguyên tắc giám đốc việc xét xử trong luật tố tụng, HAY
Luận văn: Nguyên tắc giám đốc việc xét xử trong luật tố tụng, HAYLuận văn: Nguyên tắc giám đốc việc xét xử trong luật tố tụng, HAY
Luận văn: Nguyên tắc giám đốc việc xét xử trong luật tố tụng, HAY
 
Đề tài: Vai trò của Kiểm sát viên trong giải quyết vụ án hình sự, HAY
Đề tài: Vai trò của Kiểm sát viên trong giải quyết vụ án hình sự, HAYĐề tài: Vai trò của Kiểm sát viên trong giải quyết vụ án hình sự, HAY
Đề tài: Vai trò của Kiểm sát viên trong giải quyết vụ án hình sự, HAY
 
Chức năng của Viện Kiểm sát nhân dân trong điều tra vụ án hình sự mà bị can l...
Chức năng của Viện Kiểm sát nhân dân trong điều tra vụ án hình sự mà bị can l...Chức năng của Viện Kiểm sát nhân dân trong điều tra vụ án hình sự mà bị can l...
Chức năng của Viện Kiểm sát nhân dân trong điều tra vụ án hình sự mà bị can l...
 
Đề tài: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong điều tra, HAY
Đề tài: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong điều tra, HAYĐề tài: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong điều tra, HAY
Đề tài: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong điều tra, HAY
 
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAYLuận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
 
Luận văn: Xét xử sơ thẩm theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Xét xử sơ thẩm theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Xét xử sơ thẩm theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Xét xử sơ thẩm theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Giám định tư pháp hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự
Luận văn: Giám định tư pháp hình sự theo pháp luật tố tụng hình sựLuận văn: Giám định tư pháp hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự
Luận văn: Giám định tư pháp hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự
 
Luận văn thạc sĩ: Kiểm sát hoạt động điều tra, HOT
Luận văn thạc sĩ: Kiểm sát hoạt động điều tra, HOTLuận văn thạc sĩ: Kiểm sát hoạt động điều tra, HOT
Luận văn thạc sĩ: Kiểm sát hoạt động điều tra, HOT
 
Luận văn: Kiểm sát hoạt động điều tra - lí luận và thực tiễn, HOT
Luận văn: Kiểm sát hoạt động điều tra - lí luận và thực tiễn, HOTLuận văn: Kiểm sát hoạt động điều tra - lí luận và thực tiễn, HOT
Luận văn: Kiểm sát hoạt động điều tra - lí luận và thực tiễn, HOT
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoámyvh40253
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfTrnHoa46
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdfTrnHoa46
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (20)

30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 

Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng, HAY

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN DUY ĐỨC Thu thËp, ®¸nh gi¸ chøng cø trong LuËt tè tông h×nh sù (Trªn c¬ së sè liÖu thùc tiÔn ®Þa bµn tØnh §¾k L¾k) LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN DUY ĐỨC Thu thËp, ®¸nh gi¸ chøng cø trong LuËt tè tông h×nh sù (Trªn c¬ së sè liÖu thùc tiÔn ®Þa bµn tØnh §¾k L¾k) Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN VĂN TUÂN HÀ NỘI - 2015
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Trần Duy Đức
  • 4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bảng MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THU THẬP, ĐÁNH GIÁ CHỨNG CỨ TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM...... 8 1.1. Khái niệm và các thuộc tính của chứng cứ...................................... 8 1.1.1. Khái niệm chứng cứ ............................................................................. 8 1.1.2. Các thuộc tính của chứng cứ..............................................................10 1.1.3. Nguồn chứng cứ.................................................................................13 1.2. Khái niệm, mục đích và ý nghĩa thu thập, đánh giá chứng cứ ....16 1.2.1. Khái niệm thu thập, đánh giá chứng cứ .............................................16 1.2.2. Mục đích, ý nghĩa thu thập, đánh giá chứng cứ.................................26 1.3. Chủ thể, trình tự, thủ tục và phương pháp thu thập, đánh giá chứng cứ.............................................................................................27 1.3.1. Chủ thể thu thập, đánh giá chứng cứ..................................................27 1.3.2. Trình tự, thủ tục thu thập chứng cứ và phương pháp thu thập, đánh giá chứng cứ ..............................................................................30 1.4. Thu thập và đánh giá chứng cứ trong luật tố tụng hình sự của một số nước trên thế giới.................................................................32 Chương 2: NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ THU THẬP, ĐÁNH GIÁ CHỨNG CỨ VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK...................... 35 2.1. Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thu thập, đánh giá chứng cứ ............................................................................35
  • 5. 2.1.1. Thu thập, đánh giá chứng cứ là vật chứng .........................................35 2.1.2. Thu thập, đánh giá chứng cứ là lời khai của người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.......................................................................................38 2.1.3. Thu thập, đánh giá chứng cứ là biên bản hoạt động điều tra, xét xử và các tài liệu, đồ vật khác ............................................................41 2.1.4. Thu thập, đánh giá chứng cứ là kết luận giám định...........................43 2.2. Thực tiễn áp dụng việc thu thập, đánh giá chứng cứ trên địa bản tỉnh Đắk Lắk..............................................................................45 2.2.1. Tình hình giải quyết vụ án hình sự của cơ quan tiến hành tố tụng trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk trong những năm gần đây.........................45 2.2.2. Những kết quả đạt được trong việc áp dụng quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thu thập, đánh giá chứng cứ trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk ......................................................................................47 2.2.3. Những tồn tại, hạn chế trong việc áp dụng quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thu thập, đánh giá chứng cứ trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk và nguyên nhân....................................................................53 Chương 3: NHỮNG YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA VIỆC THU THẬP, ĐÁNH GIÁ CHỨNG CỨ TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ....................63 3.1. Cải cách tư pháp và sự cần thiết nâng cao hiệu quả thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự..............................63 3.2. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thu thập, đánh giá chứng cứ trong tố tụng hình sự.......................................................69 3.2.1. Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự về thu thập, đánh giá chứng cứ trong tố tụng hình sự .....................................................................69 3.2.2. Các giải pháp khác .............................................................................79 KẾT LUẬN....................................................................................................96 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................99
  • 6. DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang Bảng 2.1: Thống kê số liệu về việc giải quyết các vụ việc hình sự trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk trong năm 2014 46 Bảng 2.2: Tổng hợp số liệu án hủy và sửa của Tòa án nhân dân cấp tỉnh Đắk Lắk từ năm 2010 đến 2014 48
  • 7. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Đấu tranh phòng chống tội phạm là nhiệm vụ rất quan trọng, có ý nghĩa to lớn mà Đảng và Nhà nước ta đã đặt ra. Để thực hiện nhiệm vụ này, Nhà nước đã áp dụng nhiều biện pháp, trong đó việc ban hành Bộ luật tố tụng hình sự hoàn chỉnh, đáp ứng được nhu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm là một yêu cầu cấp thiết đặt ra. Ở phương diện pháp lý tố tụng hình sự, việc phát hiện, khám phá chính xác, nhanh chóng, kịp thời mọi hành vi phạm tội không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân có ý nghĩa quan trọng trong tình hình nước ta hiện nay, nhằm duy trì trật tự xã hội và phát triển đất nước. Muốn thực hiện tốt được vấn đề này thì cần phải có chứng cứ. Nói cách khác, chứng cứ được coi là phương tiện duy nhất được các cơ quan tiến hành tố tụng sử dụng để xác định sự thật khách quan của vụ án. Bởi chứng cứ được coi là một trong những chế định quan trọng trong Luật tố tụng hình sự. Chế định này vừa mang tính lý luận, vừa mang tính thực tiễn cao. Để giải quyết đúng đắn, khách quan vụ án hình sự thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án phải xác định sự việc phạm tội và người thực hiện hành vi phạm tội. Quá trình thực hiện hành vi phạm tội là quá trình đã xảy ra trong quá khứ. Do vậy, muốn hình dung và tái hiện được diễn biến của nó thì cơ quan tiến hành tố tụng phải dựa vào chứng cứ của vụ án. Vì vậy, xét về bản chất thì chứng cứ là những thông tin, tài liệu hay những gì có thật được cơ quan tiến hành tố tụng thu thập, kiểm tra và đánh giá theo quy định của pháp luật nhằm phục vụ cho việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự. Thực tế hiện nay đã và đang xảy ra rất nhiều vụ án hình sự có tính chất phức tạp, có tổ chức chặt chẽ, có tính đồng phạm cao, có sự móc nối liên hệ
  • 8. 2 phạm tội bằng các phương tiện thông tin liên lạc hiện đại... đã và đang gây không ít khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng. Mặc dù hiện nay, Bộ luật tố tụng hình sự nước ta đã có khái niệm về chứng cứ, quy định về thu thập, đánh giá chứng cứ một cách rõ ràng, chặt chẽ theo một trình tự thủ tục tố tụng nghiệm ngặt. Qua đó, các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng phải tuân theo. Tuy nhiên, trong không ít một số vụ án hình sự thì vẫn còn để xảy ra oan, sai hay bỏ lọt tội phạm, mà nguyên nhân bắt nguồn từ việc thu thập và đánh giá chứng cứ không khách quan, đầy đủ, không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nguyên tắc kiểm tra chứng cứ trong quá trình chứng minh của các cơ quan tiến hành tố tụng, hoặc đánh giá chứng cứ một cách phiến diện. Cho đến nay, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu, các bài viết liên quan đến vấn đề này, nhưng hầu hết những công trình nghiên cứu đó chỉ mang tính chất về mặt lý luận mà chưa đi sâu vào nghiên cứu về mặt thực tiễn trong các giai đoạn tố tụng. Hiện nay, trên địa bàn cả nước nói chung, địa bàn tỉnh Đắk Lắk nói riêng, các cơ quan tiến hành tố tụng còn mắc những sai sót nhất định trong việc thu thập, đánh giá chứng cứ vụ án hình sự. Do đó, việc nghiên cứu, xác định các sự kiện, tình tiết của vụ án được tiến hành trên cơ sở của các chứng cứ và chỉ bằng cách dựa vào các chứng cứ mới làm sáng tỏ được những vấn đề cần chứng minh trong vụ án hình sự. Thông qua việc phát hiện chứng cứ, xem xét và ghi nhận chứng cứ về mặt thủ tục tố tụng, kiểm tra tính xác thực của những loại chứng cứ được bắt từ nguồn chứng cứ nào, đánh giá chứng cứ, cơ quan tiến hành tố tụng có thể nghiên cứu đầy đủ và toàn diện các tình tiết của vụ án, xác định sự phù hợp của chúng với hiện thực từ đó tìm ra chân lý khách quan của vụ án. Chính vì vậy, ở một góc độ nào đó việc chưa đánh giá, xem xét đầy đủ, toàn diện, khách quan của chứng cứ dẫn đến hiệu quả đấu tranh phòng và chống tội phạm còn chưa cao.
  • 9. 3 Với những lý lẽ trên, học viên nhận thấy cần phải nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn về việc thu thập, đánh giá chứng cứ trong tố tụng hình sự là một yêu cầu cấp thiết nhằm hiểu rõ và tạo cơ sở cho việc thu thập và đánh giá chứng cứ. Vì vậy, từ những lý do đã nêu trên, học viên quyết định chọn đề tài: "Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự (Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk)” làm luận văn thạc sĩ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Qua nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy đã có một số công trình nghiên cứu trực tiếp và gián tiếp về chứng cứ trong vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự trên các sách báo pháp lý hình sự ở trong và ngoài nước. Còn riêng ở Việt Nam, đáng chú ý là một số công trình tiêu biểu sau đây: 1/ TS. Nguyễn Ngọc Chí. Chương VII. Chứng cứ. Trong sách: Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam. Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội. Tập thế tác giả do TS Nguyễn Ngọc Chí chủ biên. NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2001. 2/ TS. Trần Quang Tiệp, Chế định chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam. NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004. 3/ PGS. TS. Nguyễn Thủ Thanh (chủ biên). Giáo trình khoa học điều tra hình sự. NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2003. 4/ GS. TS. Đỗ Ngọc Quang, Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam (dành cho hệ đào tạo sau đại học). Học viện Cảnh sát nhân dân, Hà Nội, 2003. 5/ Vương Văn Bép, Những vấn đề lý luận và thực tiễn về chế định chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam. Luận án tiến sỹ Luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2013. 6/ Đỗ Văn Đương. Chứng cứ và chứng minh trong vụ án hình sự, NXB tư pháp Hà Nội, 2007.
  • 10. 4 7/ Nguyễn Văn Cừ, chứng cứ trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, NXB tư pháp Hà Nội, 2005. Tuy nhiên, ngoài những công trình tiêu biểu nói trên, còn nhiều các công trình khác nghiên cứu về chứng cứ nhưng cho đến nay việc nghiên cứu về thu thập, đánh giá chứng cứ trong tố tụng hình sự cả về mặt lý luận và thực tiếp áp dụng, cũng như đánh giá thực tiễn áp dụng trên địa bàn một tỉnh cụ thể còn hạn chế và chưa thật sự mang tính thực tiễn cao, đặc biệt, đối với một tỉnh có tình hình an ninh, trật tự rất cần ổn định là địa bàn tỉnh Đắk Lắk. Vì vậy, việc học viên lựa chọn đề tài "Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk” làm luận văn thạc sĩ luật học của mình là có tính cấp bách. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài. 3.1. Mục đích nghiên cứu Luận văn có mục đích góp phần làm sáng tỏ về mặt lý luận các quy định về thu thập, đánh giá chứng cứ trong tố tụng hình sự và việc áp dụng vào thực tiễn trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, từ đó đưa ra kiến nghị hoàn thiện lý luận về việc thu thập, đánh giá chứng cứ trong tố tụng hình sự, cũng như kiến nghị giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả thực tiễn áp dụng các hoạt động thu thập, đánh giá chứng cứ trong vụ án hình sự. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn có nhiệm vụ nghiên cứu sau đây: 1) Làm rõ khái niệm chứng cứ, thu thập, đánh giá chứng cứ, phân tích các đặc điểm cơ bản của chứng cứ, thu thập, đánh giá chứng cứ. 2) Những căn cứ về thu thập, đánh giá chứng cứ trong luật tố tụng hình sự Việt Nam; 3) Nghiên cứu so sánh với luật tố tụng hình sự một số nước trên thế giới để rút ra nhận xét, đánh giá về thu thập, đánh giá chứng cứ;
  • 11. 5 4) Phân tích các quy định về thu thập, đánh giá chứng cứ trong tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành và đánh giá thực tiễn áp dụng biện pháp thu thập, đánh giá chứng cứ trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk của các cơ quan tiến hành tố tụng, từ đó chỉ ra các tồn tại, hạn chế và những nguyên nhân cơ bản; 5) Những yêu cầu và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc thu thập, đánh giá chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam; 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn có đối tượng nghiên cứu là phương pháp thu thập, đánh giá chứng cứ trong tố tụng hình sự Việt Nam và thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Trên cơ sở mục đích nghiên cứu đã nêu, luận văn có phạm vi nghiên cứu là những vấn đề lý luận và thực tiễn về các quy định liên quan đến thu thập, đánh giá chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự. (Các khái niệm, nguyên tắc, cơ sở nghiên cứu về phương pháp thu thập, đánh giá chứng cứu, kinh nghiệm trong hoạt động thu thập, đánh giá chứng cứ ở một số quốc gia), đồng thời đánh giá thực tiễn áp dụng về biện pháp thu thập, đánh giá chứng cứ trong một số vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, từ đó chỉ ra một số tồn tại, hạn chế và các nguyên nhân cơ bản để đưa ra những yêu cầu, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các biện pháp thu thập, đánh giá chứng cứ trong vụ án hình sự. Đồng thời, đề xuất hoàn thiện một số quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự trong hoạt động thu thập, đánh giá chứng cứ. 5. Cơ sở lý luận và các phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
  • 12. 6 nước ta trong đấu tranh phòng và chống tội phạm, giáo dục, cải tạo người phạm tội. Đồng thời dựa trên những thành tựu của khoa học như: triết học, luật hình sự, luật tố tụng hình sự, tội phạm học... 5.2. Các phương pháp nghiên cứu Để làm sáng tỏ nội dung các biện pháp thu thập và đánh giá chứng cứ ở cả phương diện lý luận và thực tiễn, luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, hệ thống… để tổng hợp các tri thức khoa học luật hình sự và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu. Đồng thời, việc nghiên cứu đề tài còn dựa vào thực tiễn điều tra, truy tố và xét xử các vụ án hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng trong những năm gần đây trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn Dựa trên những phân tích, đánh giá về công tác thu thập và đánh giá chứng cứ trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk và đưa ra những nguyên nhân, khó khăn còn tồn tại, luận văn đưa ra những ý kiến đóng góp nhằm hướng đến hoàn thiện về lý luận mà cụ thể là các quy định của pháp luật chưa phù hợp hiện nay. Đồng thời thông qua những phân tích đó, luận văn cũng cho thấy rõ tình hình thực tiễn, với những khó khăn vướng mắc trên địa bàn tỉnh, từ đó đưa ra những kiến nghị nhằm đưa ra những phương án để nâng cao chất lượng công tác đấu tranh phòng chống tội phạm của tỉnh Đắk Lắk. 7. Những điểm mới của luận văn Với những phân tích, tổng hợp dựa trên những số liệu và tình huống xảy ra thực tế ở địa bàn tỉnh Đắk Lắk, luận văn đưa ra những đóng góp mới về cải cách hệ thống tư pháp, sửa đổi và bổ sung những quy định của pháp luật trong việc nâng cao vai trò của người thu thập và đánh giá chứng cứ trong quá trình tố tụng.
  • 13. 7 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm ba chương với tên gọi như sau: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam. Chương 2: Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thu thập, đánh giá chứng cứ và thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. Chương 3: Những yêu cầu và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc thu thập, đánh giá chứng cứ trong tố tụng hình sự.
  • 14. 8 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THU THẬP, ĐÁNH GIÁ CHỨNG CỨ TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. Khái niệm và các thuộc tính của chứng cứ 1.1.1. Khái niệm chứng cứ Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 nêu rõ mục đích chính của tố tụng hình sự là “chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội” [20, Điều 1]. Để phát hiện và xử lý chính xác tội phạm, việc chứng minh trong tố tụng hình sự nhằm làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Tố tụng hình sự của Nhà nước ta lấy chủ nghĩa duy vật biện chứng làm cơ sở của chứng cứ. Lý luận nhận thức khẳng định rằng: “Nhận thức là sự phản ánh biện chứng tích cực, trong thế giới khách quan thì không có gì con người không nhận thức được, chỉ có những điều chưa nhận thức được nhưng dần dần cũng sẽ nhận thức được”. Chính vì vậy, trong vụ án hình sự, dù người phạm tội có dùng mọi thủ đoạn tinh vi đến đâu để nhằm mục đích che dấu hành vi của mình thì tội phạm cũng được phản ánh lại bằng những dấu vết của nó, và trước sau dấu vết đó cũng bị phát hiện. Những dấu vết đó được phản ánh qua các thông tin, tài liệu phản ánh sự kiện phạm tội, phản ánh các yếu tố khách quan, chủ quan của tội phạm và các yếu tố liên quan đến người phạm tội. Hay nói cách khác, chứng cứ là phương tiện duy nhất được cơ quan tiến hành tố tụng sử dụng để chứng minh trong tố tụng hình sự. Với vai trò quan trọng như vậy trong hoạt động tố tụng, Bộ luật tố tụng hình sự đã đưa ra khái niệm về chứng cứ như sau:
  • 15. 9 Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định mà cơ quan điều tra, viện kiểm sát, toà án dùng làm căn cứ để xác định có hay không hành vi phạm tội cũng như tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án [20, Điều 64, Khoản 1]. Theo đó, dựa vào chứng cứ, sự thật khách quan mới được làm sáng tỏ, đồng thời loại bỏ những gì không có thật. Như vậy, chứng cứ là những thông tin có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án, được xác định bằng các vật chứng, lời khai của những người tham gia tố tụng (nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người làm chứng, người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người bị bắt, người bị tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo), các kết luận giám định, biên bản về hoạt động điều tra và xét xử, các tài liệu, đồ vật khác (theo khoản 2 Điều 64 Bộ luật tố tụng hình sự). Chứng cứ vụ án phải đảm bảo được thu thập một cách kịp thời, khách quan chẳng hạn việc xem xét hiện trường phải thể hiện được hiện trường còn nguyên vẹn hay không nguyên vẹn, việc khám xét, khám nghiệm không được bỏ sót dấu vết, đồ vật quan trọng liên quan đến vụ án, việc lấy dấu vết phải sử dụng các phương tiện kỹ thuật đảm bảo không bị biến dạng, phân huỷ,… và các chứng cứ này phải được thể hiện trên biên bản do người có thẩm quyền đứng ra thiết lập. Các cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm tiếp nhận những tài liệu, đồ vật lời khai do các tổ chức, cá nhân cung cấp và phải thể hiện tài liệu xác định việc giao nhận, phản ánh; đồng thời phải chủ động tiến hành xác minh, điều tra, thu thập để làm rõ vụ án. Trong khoa học luật tố tụng hình sự Việt Nam, chứng cứ được phân loại thành dựa trên các tiêu chí khác nhau:
  • 16. 10 * Dựa trên giá trị chứng minh của chứng cứ thì chứng cứ được chia thành hai loại đó là: chứng cứ trực tiếp và chứng cứ gián tiếp; * Căn cứ vào ý nghĩa pháp lý hình sự của chứng cứ gồm: chứng cứ buộc tội và chứng cứ gỡ tội; * Căn cứ vào xuất xứ của thông tin, tư liệu thu thập được, chứng cứ được phân thành: chứng cứ gốc, chứng cứ thuật lại (hay còn gọi là chứng cứ sao chép). 1.1.2. Các thuộc tính của chứng cứ Xuất phát từ khái niệm chứng cứ được nêu ra trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 có thể thấy các thuộc tính cần và đủ cho chứng cứ gồm: tính khách quan, tính liên quan và tính hợp pháp. Thứ nhất, tính khách quan của chứng cứ: Đây là thuộc tính quan trọng của chứng cứ. Chứng cứ là những gì có thật, có nghĩa rằng chứng cứ là những thông tin, tài liệu, đồ vật tồn tại khách quan, độc lập, không phụ thuộc vào ý thức chủ quan của con người, và những chứng cứ đó liên quan trực tiếp đến các tình tiết của vụ án đang được chứng minh. Những người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng chỉ cung cấp, thu thập, nghiên cứu chứng cứ chứ không tạo ra chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ án. Tại Điều 66 của Bộ luật tố tụng hình sự, tính khách quan của chứng cứ còn được gọi là tính xác thực của chứng cứ. Trong quy định tại khoản 2 Điều 64 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 có quy định một trong các nguồn của chứng cứ là lời khai của người tham gia tố tụng. Theo một số quan điểm cho rằng việc lấy chứng cứ là lời khai của người tham gia tố tụng dù ít hay nhiều đều bị ảnh hưởng của những yếu tố chủ quan, ý chí của người khai báo mà không thể phản ánh một cách chính xác những thông tin về tội phạm. Chính vì vậy các thông tin này không đảm bảo thuộc tính này của chứng cứ. Tuy vậy, về bản chất, việc cung cấp thông
  • 17. 11 tin là khách quan và trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tố tụng, vì vậy các cơ quan này cũng đồng thời phải có trách nhiệm phối hợp việc điều tra và thu thập thông tin để xác định liệu thông tin đó có chính xác hay không. Mọi thông tin, sự vật thu thập được dù tồn tại trên thực tế, nhưng bị xuyên tạc, bóp méo hay bị làm giả theo ý chí của chủ quan thì không còn mang tính khách quan. Và những thông tin, tài liệu đó cũng không thể là chứng cứ của vụ án. Thứ hai, tính liên quan của chứng cứ: Tính liên quan của chứng cứ được thể hiện ở mối liên hệ khách quan của các thông tin, tài liệu với các tình tiết của vụ án cần được xác định. Mối quan hệ này có thể là trực tiếp hoặc gián tiếp. Mối quan hệ trực tiếp ở đây được hiểu là việc chứng cứ được dùng làm căn cứ để giải quyết thực chất của vụ án, đó là những căn cứ quan trọng và chủ yếu để xác định hành vi phạm tội, người phạm tội, lỗi của người phạm tội, các tình tiết có ý nghĩa quan trọng đối với việc quyết định hình phạt,… Mối quan hệ gián tiếp là trong trường hợp thông tin, tài liệu đó không thể làm căn cứ để giải quyết thực chất vụ án, nhưng lại đóng góp một phần nhất định vào việc chứng minh phạm tội. Chẳng hạn lời khai của người làm chứng rằng vào thời điểm tội phạm xảy ra đã chứng kiến sự có mặt của người bị tạm giữ. Như vậy, dù việc nhìn thấy sự có mặt của người bị tạm giữ không có ý nghĩa trong việc quyết định liệu rằng người bị tam giữ có phải là người phạm tội hay không, nhưng lại đóng vai trò quan trọng đối với các cơ quan điều tra trong việc lập phương án điều tra làm sáng tỏ sự việc. Trong hoạt động tố tụng, cơ quan điều tra cũng như viện kiểm sát, toà án phải xem xét về tính liên quan của chứng cứ ở cả hai mối quan hệ này để xác định một thông tin, tài liệu hay đồ vật liệu có được coi là chứng cứ hay không. Thứ ba, tính hợp pháp của chứng cứ: Đó là sự phù hợp với các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về chứng cứ. Tính hợp pháp của chứng cứ
  • 18. 12 được thể hiện qua quá trình cung cấp, thu thập, nghiên cứu, bảo quản theo trình tự của pháp luật quy định. Nó được thể hiện ở các mặt sau: * Chứng cứ được xác định bằng nguồn nhất định theo quy định của pháp luật. Theo khoản 2 Điều 64 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, nguồn chứng cứ bao gồm: (i) vật chứng; (ii) lời khai của người tham gia tố tụng; (iii) Kết luận giám định; (iv) Biên bản về hoạt động điều tra, xét xử và các tài liệu, đồ vật khác. Các nguồn này phải được lưu giữ bằng nguồn tương ứng xác định. Ví dụ: Kết quả giám định phải được thể hiện bằng văn bản, và trong trường hợp có ý kiến khác nhau thì mỗi người phải ghi riêng ý kiến của mình vào bản kết luận riêng (khoản 1 Điều 73 Bộ luật tố tụng hình sự 2003); các trường hợp kết quả giám định thể hiện bằng ghi âm hay thu hình hoặc bằng lời nói thì không được coi là chứng cứ. Trong khi đó, đối với lời khai của người tham gia tố tụng được thể hiện trong các bản tự khai, biên bản lấy lời khai, biên bản hỏi cung hoặc biên bản phiên toà; tất cả lời khai thu thập được bằng cách ghi âm, ghi hình thì không được coi là chứng cứ. * Chứng cứ phải được thu thập theo đúng trình tự, thủ tục do Bộ luật tố tụng hình sự quy định. Tùy thuộc vào tính chất đặc điểm của chứng cứ mà Bộ luật tố tụng hình sự quy định trình tự, thủ tục thu thập chứng cứ để nhằm đảm bảo được tính khách quan và giá trị chứng minh của chứng cứ. Ví dụ: Điều 67 quy định lời khai của người làm chứng “không được dùng làm chứng cứ những tình tiết do người bị hại trình bày, nếu họ không thể nói rõ vì sao họ biết được tình tiết đó”. Hay đối với trường hợp quy định về việc thu thập và bảo quản vật chứng, thì vật chứng phải được mô tả đúng thực trạng và được đưa vào hồ sơ vụ án (Điều 75 Bộ luật tố tụng hình sự). Trong thực tiễn điều tra, truy tố và xét xử có không ít các trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng thu giữ đồ vật, tài liệu không đúng thủ tục rồi sau đó mới tiến hành hợp pháp hoá các tài liệu đó để đưa vào hồ sơ vụ án, hoặc
  • 19. 13 thu thập lời khai bằng cách đánh đập, đe doạ, mớm cung… Điều này dẫn đến các chứng cứ thu thập được bị thiếu tính hợp pháp, không có giá trị chứng minh trong tố tụng hình sự, và đôi khi dẫn đến các trường hợp án oan, xác định sai tội phạm, người phạm tội. Tóm lại, tính khách quan, tính liên quan và tính hợp pháp là các thuộc tính quan trọng của chứng cứ, giữa chúng có mối liên hệ chặt chẽ và cũng độc lập với nhau trong việc thể hiện các khía cạnh của chứng cứ. Khi xem xét bất cứ vật chứng, tài liệu gì để sử dụng làm chứng cứ cho vụ án thì cũng cần phải xem xét đầy đủ ba thuộc tính này, nếu thiếu đi bất kỳ thuộc tính nào đều ảnh hưởng nghiêm trọng đến giá trị chứng minh của chứng cứ. 1.1.3. Nguồn chứng cứ Nguồn chứng cứ là một chế định quan trọng và cần thiết trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, việc hiểu đúng và đầy đủ về khái niệm nguồn chứng cứ là tiền đề nghiên cứu nguồn chứng cứ, những quy định trong lý luận và thực tiễn. Theo từ điểm tiếng Việt năm 1992 của Viện khoa học xã hội Việt Nam – Viện ngôn ngữ thì nguồn được hiểu: “Là nơi bắt đầu, nơi phát ra hoặc nơi có thể cung cấp”. Theo đó có thể nói, nguồn chứng cứ là nơi chứa đựng chứng cứ, từ đó chứng cứ được rút ra để giải quyết một vấn đề nào đó cần được làm sáng tỏ trong vụ án hình sự. Cũng giống như chứng cứ, nguồn chứng cứ tồn tại song song với việc đấu tranh chống tội phạm, nó đóng vai trò hết sức quan trọng là cung cấp chứng cứ, cung cấp thông tin để giải quyết mọi vụ án. Đó là cách hiểu chung nhất trong phạm vi rộng lớn về nguồn chứng cứ. Đặc biệt, trong từng quốc gia, theo từng hệ thống pháp luật... nguồn chứng cứ được thể hiện như thế nào, bản chất ra sao, bao gồm nội dung nào? Các vấn đề này được thể hiện khác nhau. Hiện nay, trong khoa học pháp lý tố tụng hình sự, mặc dù nguồn
  • 20. 14 chứng cứ được đề cập, sử dụng từ rất lâu và đã được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự nhưng chưa có một khái niệm hoàn chỉnh về nguồn chứng cứ. Để tạo nên một cách hiểu thống nhất mang ý nghĩa khoa học mà vẫn có nhiều quan điểm, ý kiến khác nhau xoay quanh vấn đề này. Nêu lên nguồn, nói về nguồn mà không đưa ra khái niệm nguồn chứng cứ là gì? Hoặc có đưa ra nhưng không hoàn chỉnh, nhìn từ góc độ khác nhau thể hiện một cách đơn lẻ, không chính xác. Trong khoa học nói chung, khoa học pháp lý tố tụng hình sự nói riêng, khi nói đến khái niệm thì phải nói đến tính khái quát của nó, thể hiện cho được khái niệm đó cái gì ta cần nói. Nguyên nhân của vấn đề này còn tồn tại đến ngày nay ở chỗ nguồn chứng cứ là một khái niệm còn mới mẻ, là một vấn đề khó, chưa được đầu tư nghiên cứu thích đáng, chưa đi vào chiều sâu của nó, chưa thấy được vai trò, vị trí cực kỳ quan trọng của nguồn chứng cứ trong tố tụng hình sự như thế nào. Nguồn chứng cứ được quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự quy định: Chứng cứ được xác định bằng: * Vật chứng; * Lời khai của người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; * Kết luận giám định; * Biên bản về hoạt động điều tra, xét xử và các tài liệu đồ vật khác [20, Điều 64, Khoản 2]. `Các nguồn chứng cứ này được dùng để nhằm mục đích tìm ra sự thật khách quan của vụ án. Như đã phân tích, chứng cứ trong vụ án hình sự là những gì có thật liên quan đến vụ án hình sự mà dựa vào nó, các cơ quan tiến hành tố tụng dùng làm căn cứ để xác định có hay không hành vi phạm tội,
  • 21. 15 mức độ, tính chất của hành vi. Còn nguồn chứng cứ chính là hình thức, nơi chứa đựng những gì có thật liên quan đến vụ án. Nói cách khác, chứng cứ chính là nội dung, còn nguồn chứng cứ là hình thức chứa đựng những nội dung đó. Chính vì vậy, nguồn chứng cứ có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng để giải quyết vụ án hình sự một cách khách quan, chính xác và tuân theo pháp luật. Giữa chứng cứ và nguồn chứng cứ luôn có mối quan hệ mật thiết và chặt chẽ. - Thứ nhất: Mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng. Nguồn chứng cứ là nơi chứa đựng, cung cấp chứng cứ nên nguồn là cái chung, hay còn gọi là hình thức, cái bao trùm với chứng cứ. Chứng cứ là cái riêng, hay còn gọi là nội dung, chứng cứ luôn chứa đựng trong nguồn, từ cái thật, cái thực chất có trong nguồn. Đó là cách hiểu chung nhất giữa chứng cứ và nguồn chứng cứ. Nguồn chứng cứ được phân thành nhiều loại, chứng cứ có thể được rút ra rừ một nguồn hoặc nhiều nguồn khác nhau, một nguồn có thể được rút ra nhiều chứng cừ. Trong một nguồn có thể rút ra nhiều loại chứng cứ, chứng cứ trực tiếp hoặc chứng cứ gián tiếp; chứng cứ gốc hay chứng cứ sao chép lại, thuật lại; chứng cứ buộc tội hay chứng cứ gỡ tội. - Thứ hai: Nguồn chứng cứ là tiền đề của chứng cứ. Muốn có chứng cứ trước hết phải có nguồn chứng cứ. Tức là trên thực tế phải có nguồn chứng cứ được phản ánh lại và nguồn chứng cứ đó phải được pháp luật tố tụng hình sự quy định. Nếu những thông tin, tài liệu nào được rút ra ngoài những nguồn mà luật tố tụng hình sự quy định thì không phải là chứng cứ pháp lý. Nói như vậy, không có nghĩa có nguồn chứng cứ là có chứng cứ, điều đó còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Trước hết, nguồn đó có được phát hiện thu thập hay không và chứng cứ được rút ra từ nguồn có đảm bảo ba đặc điểm của nó hay không.
  • 22. 16 - Thứ ba: Mối quan hệ pháp lý tố tụng hình sự. Việc quy định nguồn chứng cứ cũng như các hoạt động thu thập, bảo quản nguồn chứng cứ bởi cơ quan tiến hành tố tụng chính là bảo vệ cho chứng cứ, để chứng cứ được rút ra từ nguồn có giá trị pháp lý và giá trị chứng minh. Từ những khái quát đặc điểm trên, tác giả có thể đưa ra khái niệm về nguồn chứng cứ như sau: “Nguồn chứng cứ là nơi chứa đựng, cung cấp chứng cứ để cơ quan tiến hành tố tụng rút ra là cơ sở cho việc giải quyết vụ án hình sự”. 1.2. Khái niệm, mục đích và ý nghĩa thu thập, đánh giá chứng cứ 1.2.1. Khái niệm thu thập, đánh giá chứng cứ * Khái quát lịch sử những quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về thu thập, đánh giá chứng cứ Gắn liền với luật tố tụng hình sự, hoạt động thu thập, đánh giá chứng cứ ở nước ta đã trải qua một quá trình phát triển lâu dài, lịch sử thành văn chứa đựng nhiều sử lược cho phép chúng ta khẳng định hoạt động thu thập, đánh giá chứng cứ ở nước ta đã tồn tại trong các triều đại phong kiến cho đến khi Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 được ban hành. Tuy nhiên, hoạt động thu thập, đánh giá chứng cứ với tư cách là những bước quan trọng của quá trình chứng minh sự thật khách quan của vụ án, được quy định cụ thể trong các điều luật như ngày nay thì chưa có trong thời kỳ đó. Khái niệm và các quy định về hoạt động thu thập, đánh giá chứng cứ đã dân được hoàn thiện qua các giai đoạn và đến nay, được quy định trong các điều luật khác nhau chủ yếu là luật hình sự và luật tố tụng hình sự. Trước khi Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 ra đời, việc thu thập, đánh giá chứng cứ được tiến hành hoàn toàn bởi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Người tham gia tố tụng, trong đó có luật sư thực hiện việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho thân chủ của mình bằng việc đọc hồ sơ, ghi
  • 23. 17 chép tài liệu, chứng cứ đã được ghi sẵn trong hồ sơ. Trong thời gian này, vai trò của luật sư khá mờ nhạt, và chủ yếu việc thu thập, đánh giá chứng cứ được thực hiện bởi một phía – đó chính là cơ quan Nhà nước có thẩm quyền [31]. Ví dụ như trong thời kỳ phong kiến có nhiều bộ luật được ban hành để duy trì quyền lực của giai cấp thống trị như: Hình Thư thời Lý, Hình Thư thời Trần, Quốc Triều hình luật thời Lê, Hoàng Việt luật lệ nhà Nguyễn. Đặc biệt, là Quốc Triều hình luật thời Lê, Hoàng Việt luật lệ nhà Nguyễn thì giữa hai bộ luật này không có sự phân biệt giữa dân luật và hình luật, tất cả sự vi phạm vào các điều luật đều bị coi là tội phạm và bị chế tài hình sự, việc thu thập, đánh giá chứng cứ trong hai bộ luật này không rõ ràng. Trong Quốc triều hình luật của nhà Lê, Điều 665 quy định: “...chỉ cần căn cứ vào lời khai của người làm chứng để định tội...” Tức là căn cứ vào lời khai của người làm chứng để xác định sự thật của vụ án trên cơ sở đó định tội danh, hoặc Điều 666 quy định: “Khi lấy lời cung các phạm nhân, thì phải xét cẩn thận căn cứ vào lời khai ban đầu...” Năm 1954, đế quốc Mỹ xâm lược miền Nam Việt Nam, đất nước ta tạm thời chia cắt thành hai miền Nam – Bắc. Miền Bắc dưới sự lãnh đạo của Đảng tiến lên xã hội chủ nghĩa, miền Nam dưới sự thống trị của chế độ Mỹ - ngụy. Đất nước lúc bấy giờ bị chia cắt thành hai miền, hai chế độ chính trị, hai pháp luật khác nhau. Cho đến năm 1975, đất nước ta hoàn toàn thống nhất và đến năm 1976 đổi tên nước thành nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bộ luật tố tụng hình sự Cộng hòa là Bộ luật tố tụng hình sự đầu tiên ở Việt Nam do chính quyền Sài Gòn cũ ban hành với mục đích quy trì chế độ ngụy quyền trên đất nước ta. Nhìn chung bộ luật này quy định việc thu thập hay đánh giá chứng cứ nhưng cũng giống như các bộ luật trước đó chưa được quy định cụ thể trong cùng một điều luật, ví dụ như Điều 181 quy định: “Vụ thẩm cứu xét
  • 24. 18 có hay không có đủ tội chứng cấu thành tội trạng nếu các sự kiện không đủ cấu thành trọng tội, khinh tội hay tội vi cảnh hoặc nếu không đủ chứng, dự thẩm ra án lệnh miễn tố, bị can bị tạm giam phải được phóng khích...” Trên cơ sở các chứng cứ thu thập được vụ thẩm nghiên cứu, xem xét có đủ cơ sở cấu thành một tội cụ thể hay không. Như vậy, hoạt động đánh giá chứng cứ đã được quy định trong luật tố tụng Cộng hòa, Điều 185 quy định: “Nếu thấy sự kiện cấu thành trọng tội, vụ thẩm ra lệnh chuyển giao hồ sơ và kê khai tang vật sang Biện Lý, để gửi ngay lên Chưởng Lý Hầu đưa ra phòng luận tội”. Khi Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 ra đời đã đánh dấu nhiều bước quan trọng trong quá trình thu thập và đánh giá chứng cứ. Trong đó, tại Điều 48, 49 Bộ luật này đã thừa nhận cho phép “Chứng cứ có thể do người tham gia tố tụng, cơ quan, tổ chức hoặc bất kỳ cá nhân nào đều có thể đưa ra tài liệu, đồ vật và trình bày đến những vấn đề liên quan trong vụ án”. Hoặc tại Điều 50 của Bộ luật này quy định: “Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xác định và đánh giá mọi chứng cứ với đầy đủ tinh thần trách nhiệm, sau khi nghiên cứu một cách tổng hợp, khách quan, toàn diện và đầy đủ tất cả các tình tiết của vụ án”. Đồng thời quy định cụ thể các trình tự, thủ tục về việc thu thập, và đánh giá chứng cứ, cũng như quy định về trách nhiệm và thẩm quyền của các chủ thể. Tuy vậy, do đã được xây dựng quá lâu và trên thực tế không còn phù hợp so với bối cảnh nền kinh tế - xã hội hiện nay. Chính vì vậy, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 ra đời và thay thế Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988. Theo đó, các quy định và các nguyên tắc cơ bản của thu thập và đánh giá chứng cứ vẫn được giữ nguyên nội dung, chỉ thay đổi về mặt câu chữ để chặt chẽ hơn. Tuy nhiên, trong lần sửa đổi này, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đã có những quy định mới, cụ thể hơn trong trình tự, thủ tục tiến hành thu thập và đánh giá chứng cứ.
  • 25. 19 * Về khái niệm thu thập chứng cứ Về phương diện lập pháp, trong Bộ luật tố tụng hình sự không có khái niệm thu thập chứng cứ. Mà Bộ luật tố tụng hình sự chỉ quy định phương thức pháp lý để thu thập chứng cứ, đó là triệu tập, hỏi và nghe người làm chứng trình bày, trưng cầu giám định, tiến hành khám xét, khám nghiệm... Vì thế, dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau về thu thập chứng cứ. Nhiều người cho rằng, thu thập chứng cứ là thu giữ vật chứng, dấu vết, lời khai... tức là thu nguồn chứng cứ. Hiểu theo quan điểm này tức là đồng nhất chứng cứ với nguồn chứng cứ sẽ dẫn đến nhiều bất cập. Chẳng hạn, khi hiểu chứng cứ đồng nhất với nguồn chứng cứ cho nên khi thu được các nguồn chứng cứ có nghĩa là hoạt động thu thập chứng cứ đã kết thúc, cơ quan điều tra và Viện kiểm sát sẽ làm hồ sơ vụ án và ra quyết định truy tố một cách nhanh chóng và không cần thiết phải thu thập thêm bất cứ một tình tiết, sự kiện nào khác. Tác hại của nó là dễ bỏ sót các chứng cứ, trong khi các thông tin có giá trị chứng minh trong nguồn chứng cứ rất nhiều, nếu biết khai thác triệt để những thông tin đó, thì các cơ quan tiến hành tố tụng sẽ tìm được sự thật khách quan của vụ án. Hiện nay có nhiều quan điểm về thu thập chứng cứ. Chẳng hạn, trong giáo trình của trường Đại học Luật Hà Nội: “thu thập chứng cứ là tổng hợp các hành vi phát hiện, ghi nhận, thu giữ và bảo quản chứng cứ”. Như vậy, hiểu theo nghĩa này thì hoạt động thu thập chứng cứ chỉ bao gồm hành vi phát hiện, thu giữ và bảo quản chứng cứ, dễ dẫn đến bỏ sót các chứng cứ hoặc khi phát hiện thì các cơ quan tiến hành tố tụng chỉ đơn giản là ghi nhận chứng cứ, thu giữ và bảo quản nó để sử dụng khi cần thiết mà không phải là kiểm tra chứng cứ, củng cố chứng cứ để cho nó có giá trị chứng minh vững chắc trong vụ án. Hay, có quan điểm khác đã hiểu hoạt động thu thập chứng cứ theo nghĩa rộng hơn. Thu thập chứng cứ bao gồm phát hiện, thu giữ, củng cố chứng cứ, kiểm tra chứng cứ và bảo vệ chứng cứ.
  • 26. 20 Tại Điều 65 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 quy định về việc thu thập chứng cứ như sau: 1. Để thu thập chứng cứ, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án có quyền triệu tập những người biết về vụ án để hỏi và nghe họ trình bày về những vấn đề có liên quan đến vụ án, trưng cầu giám định, tiến hành khám xét, khám nghiệm và các hoạt động điều tra khác theo quy định của Bộ luật này; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, trình bày những tình tiết làm sáng tỏ vụ án. 2. Những người tham gia tố tụng, cơ quan, tổ chức hoặc bất cứ cá nhân nào đều có thể đưa ra tài liệu, đồ vật và trình bày những vấn đề có liên quan đến vụ án [20, Điều 65]. Như vậy, có thể thấy hoạt động thu thập chứng cứ có thể được tiến hành dưới hai hình thức: Một, hình thức chủ động là việc cơ quan tiến hành tố tụng triệu tập những người biết về vụ án để hỏi và nghe họ trình bày các thông tin liên quan đến vụ án, hoặc chủ động tìm hiểu, điều tra. Hai, hình thức thụ động là việc để các tổ chức, cá nhân, người tham gia tố tụng tự mình đưa ra các tài liệu, đồ vật hoặc các vấn đề liên quan đến vụ án và được cơ quan tiến hành tố tụng ghi nhận. Dù được cung cấp dưới hình thức nào thì các thông tin, tư liệu liên quan đến vụ án đều phải được lưu giữ và đưa vào hồ sơ vụ án theo đúng trình tự, thủ tục quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự. Kết quả việc thu thập chứng cứ phải thể hiện đầy đủ các loại tài liệu, chứng cứ kể cả chứng cứ gỡ tội và chứng cứ buộc tội, tránh phiến diện, chủ quan, chỉ thu thập và đưa vào hồ sơ những tài liệu, chứng cứ theo đánh giá chủ quan của người tiến hành tố tụng. Có như vậy các cơ quan tiến hành tố tụng mới đưa ra được đánh giá, phân tích để đưa ra giải quyết, truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị can, bị cáo theo đúng quy định tại Điều 66 Bộ luật tố tụng hình sự. Nhiệm vụ của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án phải chứng minh các nội dung sau:
  • 27. 21 1. Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội; 2. Ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, dộng cơ phạm tội; 3. Những tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và những đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo; 4. Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tôi gây ra. Trong quá trình tham gia tố tụng, bị can, bị cáo, người bị hại và những người có liên quan có quyền cung cấp chứng cứ, đồ vật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Đặc biệt là những chứng cứ, đồ vật, quan điểm, lập luận mà luật sư tham gia tranh tụng cũng là những căn cứ hết sức quan trọng mà các cơ quan tiến hành tố tụng phải xem xét cụ thể, khách quan để đảm bảo cho việc xử lý được đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật. Thu thập chứng cứ là giai đoạn đầu tiên của quá trình chứng minh. Để đảm bảo cho chứng cứ đảm bảo được giá trị chứng minh, hoạt động thu thập chứng cứ phải được thực hiện theo các nguyên tắc nhất định. Thứ nhất, bất kỳ cơ quan, tổ chức hay cá nhân nào cũng có thể đưa ra các tài liệu, đồ vật và trình bày các vấn đề liên quan đến vụ án. Đó có thể là bị can, bị cáo, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ, người liên quan, người làm chứng,… Tất cả các thông tin này đều phải được cơ quan tiến hành tố tụng tiếp nhận và đảm bảo được lưu trữ theo đúng quy định của pháp luật tương ứng đối với từng nguồn chứng cứ nhất định. Thứ hai, chỉ những người có thẩm quyền do pháp luật tố tụng hình sự quy định mới có quyền thu thập chứng cứ. Theo quy định của Bộ luật tố tụng
  • 28. 22 hình sự năm 2003, chỉ những người sau đây mới có thẩm quyền áp dụng các biện pháp thu thập, đánh giá chứng cứ: * Thủ trưởng, phó thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp; Viện trưởng, phó Viện trưởng Viện kiểm sát các cấp; Chánh án, phó Chánh án Toà án các cấp có thẩm quyền ra lệnh áp dụng các biện pháp như: ra lệnh khám xét, phê chuẩn lệnh khám xét, ra quyết định trưng cầu giám định, quyết định khai quật tử thi, triệu tập người tham gia tố tụng để hỏi cung, lấy lời khai, đối chất,… * Người trực tiếp thực hiện các biện pháp thu thập chứng cứ là Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký phiên toà, cán bộ giám định, người được mời tham gia khám nghiệm. Ngoài ra trong một số lĩnh vực cụ thể có sự tham gia của cơ quan Hải quan, Kiểm lâm, Bộ đội biên phòng, Cảnh sát giao thông, Cảnh sát phòng cháy chữa cháy,… cũng được quyền thực hiện một số biện pháp thu thập chứng cứ. Theo quy định tại Điều 82 Bộ luật tố tụng hình sự quy định, người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã được giải đến cơ quan Công an, Viện kiểm sát hoặc Uỷ ban nhân dân gần nhất thì các cơ quan này phải lập biên bản, và ghi nhận những thông tin ban đầu về tội phạm thì biên bản này cũng được coi là chứng cứ trong quá trình tố tụng. Thứ ba, việc thu thập chứng cứ phải được thực hiện khi thực hiện theo đúng trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Chỉ được áp dụng các biện pháp thu thập chứng cứ được quy định tại Điều 65 của Bộ luật hình sự năm 2003. Như vậy, theo quan điểm của tác giả thì, thu thập chứng cứ là hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng phát hiện, thu giữ, bảo quản các thông tin, tư liệu liên quan đến vụ án theo các trình tự, thủ tục mà pháp luật tố tụng quy định. * Đánh giá chứng cứ Đánh giá chứng cứ là hoạt động tư duy logic của cơ quan tiến hành tố
  • 29. 23 tụng và những người có thẩm quyền trên cơ sở các quy định của pháp luật nhằm xác định các thuộc tính của chứng cứ và giá trị chứng minh của tổng hợp các chứng cứ đã thu thập được trong vụ án hình sự. Như vậy, đánh giá chứng cứ là giai đoạn cuối cùng của quá trình chứng minh nhằm rút ra các kết luận về việc giải quyết vụ án trên cơ sở đánh giá các chứng cứ đã được thu thập trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Việc đánh giá chứng cứ ảnh hưởng đến chất lượng sử dụng chứng cứ, đó là cơ sở để nhận định và kết luận về các vấn đề cụ thể mà ta cần giải quyết để làm rõ vụ án hình sự. Đây là công việc được tiến hành thường xuyên trong suốt quá trình tiến hành tố tụng đối với vụ án và là yếu tố có ý nghĩa quyết định đối với việc giải quyết vụ án. Chứng cứ được đánh giá theo quy định của pháp luật và mặt khác những kết luận được rút ra từ việc đánh giá chứng cứ lại là cơ sở để cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án ra các quyết định, áp dụng các điều khoản để giải quyết vụ án. Việc đánh giá chứng cứ hướng đến trả lời các câu hỏi: Chứng cứ cụ thể có đáp ứng được đầy đủ các thuộc tính theo quy định để được sử dụng chứng minh hay không? Các chứng cứ thu thập được đã đủ để xác định được tất cả các tình tiết của vụ án để phục vụ cho việc giải quyết thực chất vụ án và ra quyết định tố tụng hay chưa? Chứng cứ chỉ được đánh giá sau khi đã trải qua quá trình thu thập chứng cứ. Việc đánh giá chứng cứ là cơ sở để thu thập thêm chứng cứ mới và đồng thời cũng là biện pháp để kiểm tra chứng cứ. Ví dụ: Trong bãi chiếu phim có đám đánh nhau lộn xộn. A bị một vết thương trên đỉnh chẩm trái có đặc điểm: Vết thương hình tam giác cân, đỉnh tam giác nằm phía bên trên. Cơ quan điều tra nhận định vết thương của A là do B dùng côn lục lăng đánh. Viện kiểm sát nhận định B không dùng côn đánh A. Vết thương của A là do C cầm cục gạch ném.
  • 30. 24 Thực nghiệm bằng cách: Lấy một bánh xà phòng loại 72% hình chữ nhật, lấy một côn lục lăng và 1/3 viên gạch (còn góc vuông). Đem đầu côn và góc viên gạch ép vào bánh xà phòng. Kết quả: Đỉnh tam giác nằm phía dưới do côn Đỉnh tam giác nằm phía trên do viên gạch Từ thực nghiệm trên chứng minh giả thuyết cho rằng C dùng gạch ném A bị thương là phù hợp. Như vậy, trong trường hợp này, việc phân tích, đánh giá chứng cứ từ kết quả thu thập chứng cứ, cơ quan tiến hành tố tụng đã đưa ra hướng điều tra để tìm ra người gây thương tích, từ đó để xác định lỗi và hậu quả của hành vi do từng người gây ra. Căn cứ vào quyền và nghĩa vụ của chủ thể đánh giá chứng cứ được phân thành hai nhóm: Nhóm thứ nhất: Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân. Những người này có nghĩa vụ chứng minh, do vậy việc đánh giá chứng cứ là nghĩa vụ của người tiến hành tố tụng. Việc đánh giá chứng cứ của họ ảnh hưởng trực tiếp đến việc ra quyết định tố tụng, giải quyết thực chất vụ án. Do vậy, pháp luật đòi hỏi những người này phải tuân thủ đầy đủ các nguyên tắc của việc đánh giá chứng cứ. Nhóm thứ hai: Người tham gia tố tụng có quyền, lợi ích hợp pháp liên quan đến việc giải quyết vụ án có quyền chứng minh nói chung và đánh giá chứng cứ nói riêng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Nguyên tắc đánh giá chứng cứ được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự và được thể hiện ở một số điểm cơ bản sau: Một là, việc đánh giá chứng cứ độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Nguyên tắc này xuất phát từ nguyên tắc hiến định về sự độc lập xét xử của toà án. Không ai được can thiệp cũng như xác định trước giá trị chứng minh của
  • 31. 25 bất kỳ chứng cứ nào khi các cơ quan tiến hành tố tụng chưa tiến hành việc đánh giá và có kết luận cụ thể về vụ án. Hai là, đánh giá chứng cứ phải trên cơ sở quy định của pháp luật hình sự cũng như pháp luật tố tụng hình sự. Chỉ trên cơ sở các quy định của Bộ luật hình sự về tội phạm và cấu thành tội phạm cụ thể mới xác định đúng đối tượng chứng minh và giới hạn chứng minh; trên cơ sở quy định của Bộ luật tố tụng hình sự để đảm bảo được tính xác thực, tính hợp pháp và tính liên quan của chứng cứ. Ba là, việc đánh giá chứng cứ phải được đánh giá một cách tổng hợp, khách quan, đầy đủ theo quy định tại khoản 2 Điều 66 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. Để đáp ứng được nguyên tắc này, cần phải sử dụng phương pháp đánh giá đối với từng chứng cứ trước khi đánh giá toàn bộ chứng cứ, có như vậy mới xem xét vụ án một cách khách quan, hạn chế được sự suy đoán không cần thiết, gây lạc hướng cho vấn đề điều tra, sau đó mới tiến hành tổng hợp, liên hệ với nhau trên cơ sở thống nhất để đưa ra những suy luận logic nhằm giải quyết vụ án một cách nhanh chóng nhất. Bốn là, đánh giá chứng cứ riêng lẻ để xác định được tính khách quan, tính liên quan và tính hợp pháp của chứng cứ. Năm là, tổng hợp chứng cứ sau khi đánh giá xong từng chứng cứ. Việc đánh giá tổng hợp chứng cứ nằm xác định đúng đắn giới hạn chứng minh và kết luận về các vấn đề của vụ án. Như vậy, đánh giá chứng cứ trong tố tụng hình sự là hoạt động tư duy của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân được tiến hành dưới dạng logic biện chứng trên cơ sở các quy định của pháp luật, ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa, niềm tin nội tâm và kinh nghiệm bản thân nhằm nghiên cứu, đánh giá độ tin cậy, giá trị của từng chứng cứ cũng như tổng thể các chứng cứ và nguồn chứng cứ, trên cơ sở đó rút ra kết luận phù hợp về vụ án nói chung và các tình tiết cụ thể cụ vụ án nói riêng.
  • 32. 26 1.2.2. Mục đích, ý nghĩa thu thập, đánh giá chứng cứ * Mục đích của đánh giá chứng cứ Đánh giá chứng cứ là một trong những bước quan trọng không thể bỏ qua trong hoạt động chứng minh của cơ quan tố tụng. Thu thập chứng cứ là bước đầu tiên để thu thập các luồng thông tin mang tính nhiều chiều, đó có thể là chứng cứ trực tiếp, chứng cứ gián tiếp hoặc cũng có thể không phải là chứng cứ (do không đảm bảo một thuộc tính nào đó của chứng cứ),… Khi đó cần phải có bước đánh giá chứng cứ để xác định xem đó có thoả mãn điều kiện của một chứng cứ theo quy định của pháp luật tố tụng hay không và chứng cứ đó liệu đã chứng minh, làm sáng tỏ tất cả các tình tiết của vụ án và giải quyết được thực chất của vụ án hay chưa. Đó chính là mục đích của việc đánh giá chứng cứ. Đây là bước quan trọng trong việc xác định đúng phương hướng cho hoạt động tố tụng, đưa ra những quyết định đúng đắn trong quá trình thực hiện quyền công tố và tố tụng của người tiến hành tố tụng. Phát hiện, thu thập chứng cứ là hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng nhằm tìm ra và thu giữ những sự kiện chứng minh hoặc những nguồn chứng cứ theo đúng trình tự, thủ tục luật định, để từ đó khai thác những sự kiện chứng minh. Việc xây dựng được bộ khung pháp lý chặt chẽ về thu thập chứng cứ và cơ chế đảm bảo cho việc thu thập chứng cứ sẽ tạo điều kiện cho quá trình thu thập chứng cứ trên thực tiễn được tiến hành thuận lợi, bảo đảm cho quá trình chứng minh tội phạm được nhanh chóng, khách quan góp phần vào công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm. Xét trên góc độ thông tin, thì phát hiện, thu thập chứng cứ là quá trình thu thập thông tin để làm căn cứ xác định sự thật của vụ án. Nếu không có thu thập chứng cứ, thì cũng không có kiểm tra, đánh giá và sử dụng chứng cứ. Việc thu thập, đánh giá chứng cứ có ảnh hưởng trực tiếp đến sự sai lầm trong một loạt các giai đoạn tiếp theo, nếu việc thu thập, đánh giá chứng cứ không đáp ứng được các nguyên tắc cơ bản như khách quan, đúng trình tự - thủ tục tố tụng hình sự thì sẽ ảnh hưởng trực tiếp là yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp đến việc khởi tố, truy tố, xét xử sai.
  • 33. 27 Việc thu thập các thông tin, các tài liệu chứng cứ trong vụ án hình sự có ý nghĩa quan trọng. Song nếu chỉ có thu thập tốt những thông tin vẫn chưa đủ, nếu như trong khi phân tích đánh giá các tài liệu chứng cứ chúng ta chủ quan, duy ý chí, không tuân thủ các quy luật tự nhiên trong quá trình chứng minh và giải thích và giải thích, không chịu khó tư duy phán đoán, tư duy logic khi nhìn nhận phân tích đánh giá một sự vật, một hiện tượng sẽ dẫn đến các kết luận của chúng ta khó chính xác, trái với quy định của pháp luật. * Ý nghĩa của đánh giá chứng cứ Đánh giá chứng cứ trong hoạt động tố tụng hình sự có ý nghĩa quan trọng trong việc chứng minh tội phạm, người phạm tội và giải quyết các vụ án hình sự. Trong đó, có thể nêu ra một vài ý nghĩa của hoạt động này như sau: * Đánh giá chứng cứ có ý nghĩa đối với quá trình chứng minh và đồng thời cũng là cơ sở quan trọng cho việc thu thập, kiểm tra chứng cứ. Việc đánh giá chứng cứ giúp cho việc xác định giới hạn chứng minh, cho việc đưa ra các giả thiết và kết luận trong quá trình chứng minh; * Đánh giá chứng cứ có vai trò quan trọng trong việc xác định sự thật khách quan của vụ án. * Đánh giá chứng cứ là căn cứ để đi đến các kết luận và ra quyết định giải quyết thực chất vụ án hình sự Với các ý nghĩa nêu trên, việc đánh giá chứng cứ là một trong các hoạt động không thể thiếu trong quá trình chứng minh tội phạm của cơ quan tiến hành tố tụng. 1.3. Chủ thể, trình tự, thủ tục và phương pháp thu thập, đánh giá chứng cứ 1.3.1. Chủ thể thu thập, đánh giá chứng cứ 1.3.1.1. Chủ thể tiến hành thu thập chứng cứ Như đã phân tích ở phần trên: “Thu thập chứng cứ là hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng phát hiện, thu giữ, bảo quản các thông tin, tư liệu có liên
  • 34. 28 quan đến vụ án theo các trình tự, thủ tục mà pháp luật tố tụng quy định” [12]. Từ khái niệm này có thể thấy chỉ những người có thẩm quyền do pháp luật tố tụng hình sự quy định mới có quyền tiến hành thu thập chứng cứ. Những người đó bao gồm Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm và những người có thẩm quyền của cơ quan được giao thẩm quyền điều tra trong những trường hợp nhất định. Đó là các vụ án có liên quan đến biên giới, hải đảo thì để thuận tiện cho công tác điều tra và xét xử được đúng đắn, những người thuộc các cơ quan như Hải quan, Kiểm lâm, Bộ đội biên phòng, Cảnh sát biển cũng được giao thẩm quyền tham gia hoạt động thu thập chứng cứ theo quy định của pháp luật. Hoặc trong một số trường hợp cần thiết liên quan đến hoạt động điều tra còn nhờ đến các cơ quan khác của lực lượng cảnh sát nhân dân, các đơn vị quân đội. Theo quy định tại Điều 65 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 thì hoạt động thu thập chứng cứ bao gồm: - Hình thức chủ động: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án chủ động tiến hành các hoạt động thu thập chứng cứ đó là triệu tập người biết về vụ án để nghe họ trình bày; được quyền trưng cầu giám định, tiến hành khám xét, khám xét, khám nghiệm, yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật và các hoạt động điều tra khác. - Hình thức thụ động: Đó là do người tham gia tố tụng, cơ quan, tổ chức, cá nhân tự mình đưa ra đồ vật, tài liệu, trình bày các vấn đề liên quan đến các vụ án và được cơ quan tiến hành tố tụng ghi nhận [20]. Như vậy, từ những quy định này cho thấy, người tham gia tố tụng như bản thân bị can, bị cáo, người bào chữa và những người liên quan cũng có thể tự mình thu thập và đưa ra các tài liệu, đồ vật để chứng minh. Tuy vậy, các tài
  • 35. 29 liệu, đồ vật đó chỉ được coi là chứng cứ khi được các cơ quan tiến hành tố tụng xem xét và chấp nhận, do vậy giá trị chứng minh của các tài liệu, đồ vật này khi được cung cấp thường có giá trị không cao. 1.3.1.2. Chủ thể tiến hành đánh giá chứng cứ Đánh giá chứng cứ là hoạt động tư duy logic của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân và những người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật nhằm xác định chính xác các thuộc tính của chứng cứ và giá trị chứng minh của tổng hợp các chứng cứ đã thu thập được trong quá trình điều tra và xét xử vụ án. Chủ thể đánh giá chứng cứ được phân thành hai nhóm dựa trên quyền, nghĩa vụ của chủ thể đó, cụ thể: - Theo quy định tại Điều 10 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, nghĩa vụ chứng minh thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Vì vậy, việc đánh giá chứng cứ là nghĩa vụ của người tiến hành tố tụng. Do việc đánh giá chứng cứ là cơ sở quan trọng để cơ quan tiến hành tố tụng ra quyết định tố tụng, nên việc đánh giá chứng cứ cần tuân theo đúng, đầy đủ các trình tự mà pháp luật quy định. - Người tham gia tố tụng có quyền và lợi ích hợp pháp liên quan đến việc giải quyết vụ án có quyền đưa ra các tài liệu, đồ vật để chứng minh và đánh giá chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích của mình. Do những người này đưa ra việc đánh giá chứng cứ là để bảo vệ quyền và lợi ích của họ, nên pháp luật không quy định chặt chẽ đối với trình tự, thủ thục và các điều kiện, nguyên tắc đánh giá đối với họ. Tuy nhiên cũng như đối với việc thu thập chứng cứ, việc đánh giá chứng cứ của người tham gia tố tụng cũng chỉ được chấp nhận thì có sự xem xét và chấp thuận của cơ quan tiến hành tố tụng. Và cơ quan tiến hành tố tụng dựa vào những đánh giá đó, kết hợp với việc nghiên cứu, đánh giá lại theo
  • 36. 30 quy định của pháp luật để xem xét về giá trị pháp lý của chứng cứ đó đối với vụ án hình sự. 1.3.2. Trình tự, thủ tục thu thập chứng cứ và phương pháp thu thập, đánh giá chứng cứ * Về trình tự, thủ tục: Bộ luật tố tụng hình sự quy định về biện pháp thu thập chứng cứ đối với mỗi loại chứng cứ với trình tự, thủ tục không giống nhau. Tuy nhiên, thủ tục của các biện pháp thu thập chứng cứ cần phải có các nội dung và sắp xếp theo trình tự bao gồm: (i) Thủ tục ra văn bản áp dụng; (ii) Thủ tục tiến hành thu thập chứng cứ; (iii) Thủ tục lập biên bản. Về thủ tục thu thập chứng cứ: Trong thực tế của quá trình tiến hành tố tụng, các thủ tục thu thập chứng cứ thường được áp dụng bao gồm: * Thủ tục giải thích quyền và nghĩa vụ cho đối tượng bị áp dụng: Thủ tục này được áp dụng trong các biện pháp hỏi cung; lấy lời khai của người bị bắt, người bị tạm giữ, người làm chứng, người bị hại; khi tiến hành đối chất, nhận dạng, khám người, khám nơi làm việc, khám chỗ ở, địa điểm. * Thủ tục chứng kiến: Trong một số trường hợp, pháp luật quy định việc áp dụng biện pháp thu thập chứng cứ phải có sự chứng kiến của người khác, đó có thể là láng giềng, đại diện chính quyền cấp cơ sở, đại diện cơ quan, tổ chức,... Thủ tục này nhằm bảo đảm cho các hoạt động tố tụng được tiến hành đúng luật, khách quan, vô tư; bảo đảm giá trị chứng minh của các tài liệu chứng cứ thu thập được. Thành phần người chứng kiến trong các hoạt động tố tụng được quy định không giống nhau. Chẳng hạn biện pháp khám chỗ ở, nơi làm việc, địa điểm đòi hỏi phải có người láng giềng, đại diện chính quyền địa phương (nơi làm việc thì đại diện cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc) chứng kiến; trong khi đó, biện pháp thu giữ thư tín, điện tín bưu phẩm tại bưu điện thì phải có sự chứng kiến của đại diện cơ quan bưu điện.
  • 37. 31 * Thủ tục thông báo cho Viện kiểm sát: Được áp dụng trong trường hợp khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, theo quy định tại Điều 150, 151 Bộ luật tố tụng hình sự; trường hợp thu giữ thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm tại bưu điện theo quy định tại Điều 144 Bộ luật tố tụng hình sự. * Thủ tục lập biên bản: Khi tiến hành các hoạt động tố tụng, bắt buộc phải lập biên bản theo mẫu quy định thống nhất theo quy định tại Điều 95 Bộ luật tố tụng hình sự. Trong trường hợp tạm giữ đồ vật, tài liệu thì ngoài biên bản khám xét phải lập biên bản về việc tạm giữ đồ vật, tài liệu. Biên bản này được lập 4 bản một bản được giao cho chủ đồ vật, tài liệu; một bản đưa vào hồ sơ vụ án; một bản được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp và một bản giao cho cơ quan quản lý đồ vật, tài liệu bị tạm giữ. * Thủ tục ra văn bản áp dụng: Đối với một số biện pháp thu thập chứng cứ luật đòi hỏi thủ tục ra văn bản áp dụng đối với một số trường hợp như biện pháp khám xét: Khám người, chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm (Điều 141, Điều 142 và Điều 143 BLTTHS). Đối với trường hợp trưng cầu giám định và trường hợp cần phải khai quật tử thi để khám nghiệm, thì cũng phải ra quyết định bằng văn bản trước khi thi hành. Các trường hợp khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi chưa chôn cất, xem xét dấu vết trên thân thể, thực nghiệm điều tra pháp luật thực định không quy định phải có quyết định. Ngoài các thủ tục trên còn phải tuân thủ những thủ tục khác như: Không được hỏi cung vào ban đêm (trừ khi không thể trì hoãn); thủ tục tách riêng từng người hỏi cung, lấy lời khai, thủ tục tham dự của người đại diện trong trường hợp người làm chứng dưới 16 tuổi; thủ tục tham gia tố tụng của người giám hộ trong trường hợp bị can, bị cáo là người chưa thành niên… * Phương pháp thu thập chứng cứ Phân chia theo nguồn chứng cứ thì phương pháp thu thập chứng cứ bao gồm: * Lấy lời khai của người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị
  • 38. 32 đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003; * Trưng cầu giám định: Việc giám định phải được tiến hành bởi người có trình độ chuyên môn về vấn đề khoa học, kỹ thuật tương ứng liên quan đến vụ án hình sự được cơ quan tiến hành tố tụng trưng cầu. Phạm vi kết luận giám định được giới hạn trong quyết định trưng cầu giám định của cơ quan tiến hành tố tụng. * Thông qua hoạt động điều tra, xét xử và các tài liệu, đồ vật thu thập được tại hiện trường xảy ra vụ án, hoặc trên các phương tiện, dụng cụ được sử dụng để gây án,… Phân theo hoạt động thu thập chứng cứ thì chia làm hai loại: Chủ động thu thập chứng cứ (do người tiến hành tố tụng tiến hành tổ chức thực hiện các biện pháp thu thập chứng cứ); thu thập chứng cứ thụ động (do người tham gia tố tụng hình sự thực hiện việc tự mình đưa ra tài liệu, vật chứng hoặc trình bày các vấn đề liên quan đến vụ án). 1.4. Thu thập và đánh giá chứng cứ trong luật tố tụng hình sự của một số nước trên thế giới Với những ý nghĩa và vai trò quan trọng của chứng cứ trong công tác phòng chống tội phạm, pháp luật các nước trên thế giới đều có những ghi nhận về việc thu thập, đánh giá chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự của mình. Điều 74 Bộ luật tố tụng hình sự Liên bang Nga năm 2001 quy định: Chứng cứ trong vụ án hình sự là bất cứ thông tin nào mà Toà án, Công tố viên, Dự thẩm viên, Nhân viên điều tra ban đầu dùng làm căn cứ, theo trình tự do Bộ luật này quy định, xác định sự tồn tại hay không tồn tại của những tình tiết cần phải chứng minh trong quá trình tố tụng và những tình tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án. Như vậy, cũng tương tự như pháp luật Việt Nam, các chứng cứ phải là
  • 39. 33 các thông tin do người tiến hành tố tụng thu thập, sử dụng làm căn cứ để chứng minh các tình tiết trong quá trình tố tụng. Bộ luật hình sự năm 1996 Cộng hoà nhân dân Trung Hoa quy định: “Mọi sự thật chứng minh những tình tiết đúng đắn của vụ án đều là chứng cứ” [16, Điều 42]. Như vậy, chỉ cần chứng minh tình tiết đó là có thật, tồn tại khách quan thì đều được coi là chứng cứ, mà không giới hạn chủ thể cung cấp thông tin, tài liệu đó. Hay ở các quốc gia không có quy định cụ thể về chứng cứ như ở Pháp lại không nêu rõ khái niệm chứng cứ thành một quy phạm định nghĩa cụ thể mà lại quy định dẫn chiếu đến các loại chứng cứ và phương thức để xác định chứng cứ tuỳ từng giai đoạn của việc Tố tụng hình sự. Mỗi quốc gia có những quy định khác nhau về chứng cứ, tuy vậy, nó đều là những sự kiện, hiện tượng có thật, tồn tại khách quan và không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của con người. Và hoạt động động thu thập, đánh giá chứng cứ phải dựa trên những quy định của pháp luật, đồng thời đáp ứng được tính đúng đắn, logic phục vụ cho hoạt động tố tụng. Hiện nay, cùng với việc nền kinh tế toàn cầu hoá, các quốc gia cũng có sự hợp tác liên minh nhất định trong việc giải quyết các vụ án hình sự mang tính liên quốc gia, hoặc có yếu tố nước ngoài. Các quốc gia trong đó có Việt Nam cùng nhau ký các hiệp định tương trợ tư pháp, thông qua đó, các cơ quan tiến hành tố tụng có thể gửi yêu cầu phía Nhà nước bên được yêu cầu giúp đỡ trong việc thu thập, đánh giá chứng cứ đối với những trường hợp cụ thể. Đồng thời các hiệp định này cũng ghi nhận việc các cơ quan tố tụng thừa nhận giá trị pháp lý của các chứng cứ này nếu đáp ứng đầy đủ các yếu tố theo quy định pháp luật của nước có yêu cầu. Chẳng hạn Điều 12 Hiệp định tương trợ trợ tư pháp về các vấn đề dân
  • 40. 34 sự và hình sự giữa Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hoà nhân dân Trung Hoa quy định về việc điều tra, thu thập chứng cứ như sau: 1. Theo yêu cầu, hai bên ký kết sẽ tương trợ cho nhau trong việc điều tra, thu thập chứng cứ và thực hiện các hành vi tố tụng cần thiết để tiến hành điều tra, thu thập chứng cứ. 2. Ngoài việc phải tuân theo quy định tại Điều 7 của Hiệp định này, yêu cầu điều tra, thu thập chứng cứ còn phải bao gồm các nội dung sau: 1) Các câu hỏi dùng để lấy lời khai của đương sự hoặc thông báo về những vụ việc cần lấy lời khai; 2) Giấy tờ hoặc tài sản cần được kiểm tra. 3. Bên ký kết được yêu cầu sẽ thông báo bằng văn bản cho Bên ký kết yêu cầu kết quả thực hiện yêu cầu điều tra, thu thập chứng cứ, kèm theo các tài liệu thu được có tính chất chứng cứ. Tuy nhiên, việc thừa nhận chứng cứ của nước ngoài cung cấp hay không thì các cơ quan tố tụng cũng như các quốc gia bên ngoài không ảnh hưởng đến phán xét, việc ra quyết định giải quyết vụ án của cơ quan tố tụng Việt Nam. Như vậy, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều cần đến chứng cứ và hoạt động thu thập, đánh giá chứng cứ để chứng minh hành vi phạm tội của người phạm tội.
  • 41. 35 Chương 2 NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ THU THẬP, ĐÁNH GIÁ CHỨNG CỨ VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK 2.1. Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thu thập, đánh giá chứng cứ 2.1.1. Thu thập, đánh giá chứng cứ là vật chứng Theo từ điển tiếng Việt, “vật” được hiểu là những thứ có hình khối, kích thước, trọng lượng mà con người có thể nhận biết được thông qua các giác quan như nhìn, sờ, cầm, nắm, cảm giác được to, nhỏ, nặng, nhẹ. Như vậy, tất cả các sự vật mang tính hữu hình cụ thể đều thuộc khái niệm “vật” [31]. “Vật chứng” trong vụ án hình sự là vật thể được thu thập theo thủ tục do pháp luật tố tụng hình sự quy định chứa đựng các thông tin có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án. Theo quy định tại Khoản 2 Điều 64 Bộ luật tố tụng hình sự thì vật chứng được coi là một nguồn của chứng cứ, có nghĩa vật chứng là một hình thức tồn tại của chứng cứ, là một phần của chứng cứ chứng minh cho các tình tiết của vụ án được rút ra từ vật chứng. Với đặc điểm vật chứng là những vật vô tri, không bị chi phối bởi các yếu tố tình cảm, tâm lý như các loại nguồn chứng cứ khác, do vậy chúng mang tính khách quan, tồn tại ngoài ý muốn của con người nên nó phản ánh một cách nguyên si, trung thực về những tình tiết, sự việc xảy ra. Như vậy, vật chứng có vị trí đặc biệt quan trong trong quá trình chứng minh vụ án hình sự, mà thông qua nó, chúng ta có thể chứng minh được các tình tiết xảy ra trong vụ án, và một số trường hợp nó còn có ý nghĩa quyết định trong việc điều tra, xử lý tội phạm và người phạm tội. Mặc dù tính khách quan cao như vậy, nhưng vật chứng cũng rất dễ bị ảnh hưởng bởi các tác động của điều kiện tự nhiên, bị làm giả, làm sai lệch…
  • 42. 36 Theo quy định tại Điều 74 Bộ luật tố tụng hình sự, vật chứng bao gồm các loại: * Vật chứng được dùng làm phương tiện, công cụ phạm tội: đây là những vật, phương tiện được dùng để hỗ trợ cho việc gây án như dao, gậy, súng,… * Vật mang dấu vết tội phạm như dấu vân tay, vết máu, dấu giày,.. * Vật là đối tượng của tội phạm mà thông qua việc tác động vào vật đó, người phạm tội gây ra thiệt hại cho các quan hệ xã hội nhất định. Ví dụ như tiền giả, giấy tờ giả, tài sản bị chiếm đoạt,.. * Tiền bạc và vật khác không thuộc các loại trên nhưng có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội. Ví dụ như tiền bạc tịch thu được từ vụ đánh bạc,.. Do đặc điểm của vật chứng là dễ bị ảnh hưởng bởi các điều kiện tự nhiên, dễ bị làm giả nên việc thu thập vật chứng phải được tiến hành kịp thời, đầy đủ, và được mô tả đúng thực trạng khi thu thập để đưa vào hồ sơ vụ án. Đối với vật chứng không thể đưa vào hồ sơ vụ án thì phải chụp ảnh và có ghi hình để đưa vào hồ sơ. Việc thu thập vật chứng phải được lập thành biên bản cụ thể. Tại Bộ luật tố tụng hình sự quy định cụ thể trình tự, thủ tục niêm phong và bảo quản vật chứng như sau: a) Đối với vật chứng cần được niêm phong thì phải niêm phong ngay sau khi thu thập. Việc niêm phong, mở niêm phong phải được tiến hành theo quy định của pháp luật và phải lập biên bản để đưa vào hồ sơ vụ án; b) Vật chứng là tiền, vàng, bạc, kim khí quý, đá quý, đồ cổ, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ phải được giám định ngay sau khi thu thập và phải chuyển ngay để bảo quản tại ngân hàng hoặc các cơ quan chuyên trách khác; c) Đối với vật chứng không thể đưa về cơ quan tiến hành tố
  • 43. 37 tụng để bảo quản thì cơ quan tiến hành tố tụng giao vật chứng đó cho chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp đồ vật, tài sản hoặc người thân thích của họ hoặc chính quyền địa phương, cơ quan, tổ chức nơi có vật chứng bảo quản d) Đối với vật chứng là hàng hoá mau hỏng hoặc khó bảo quản nếu không thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 76 của Bộ luật này thì cơ quan có thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 76 của Bộ luật này trong phạm vi quyền hạn của mình quyết định bán theo quy định của pháp luật và chuyển tiền đến tài khoản tạm giữ của cơ quan có thẩm quyền tại kho bạc nhà nước để quản lý [20, Điều 75, khoản 2] Đối với chứng cứ là vật chứng thì bước thu thập chứng cứ có ảnh hưởng lớn đến việc đánh giá chứng cứ và giải quyết vụ việc. Vật chứng chỉ được đánh giá đúng khi được thu thập đầy đủ, chính xác theo đúng trình tự, thủ tục để đảm bảo được tính khách quan, tính liên quan và tính hợp pháp của chứng cứ. Bởi lẽ việc đánh giá chứng cứ là vật chứng được tiến hành một cách khách quan, dựa vào những căn cứ có thực liên quan đến vụ án. Chẳng hạn trong một vụ án giết người bằng dao phay, thì ngoài xem xét hiện trường, vết thương trên thi thể nạn nhân thì nếu việc thu thập được chiếc dao phay được dùng làm hung khí gây án sẽ là điều quan trọng. Bởi căn cứ vào đó sẽ thu thập được dấu vân tay hoặc vết tích do hung thủ để lại. Việc thu thập chứng cứ là vật chứng đúng có ảnh hưởng rất lớn đến hướng điều tra vụ án. Ví dụ: trong vụ án Trương Ngọc Minh bị giết chết tại thành phố Hồ Chí Minh. Khi điều tra vụ án, cơ quan điều tra đã không thu giữ một số vật chứng quan trọng như chiếc thang tre được cho là bị dùng để thực hiện hành vi phạm tội nên không thể thực nghiệm hiện trường. Bên cạnh đó, khi tiến hành thu lượm các chất gây cháy làm ông Minh chết, cơ quan điều tra có thu phía sau phòng bị can 01 lon loại 0,8 lít còn dính dầu và loại
  • 44. 38 01 lít còn dính xăng, thu bên phòng ông Minh một lon thiếc, dung tích 1 lít bị cháy ám khói. Nhưng bị can lại khai nhà bị can chỉ có 01 chiếc lon loại 01 lít đựng dầu mà công an đã thu giữ. Cách thu lượm này đã không xác định được chiếc lon loại 0,8 lít có hay không; chiếc lon loại 01 lít thực chất đựng dầu hay xăng. Vụ án càng điều tra càng bế tắc do không xác định được chất gây cháy trong vụ án này là chất gì, và việc điều tra đã mất rất nhiều thời gian, công sức nhưng vẫn không giải quyết được. Khi thu thập vật chứng, cơ quan tố tụng phải ghi cụ thể trong biên bản các nội dung sau: + Tên vật thu được: Ví dụ con dao phay, khẩu súng AK, hay công cụ phương tiện khác, nếu là xe máy thì phải ghi rõ biển số, số khung, số máy,… Trường hợp vật chứng không phải là vật thông dụng, khó đặt tên, thì có thể đặt tên dạng mô tả hình dạng, kích thước, màu sắc, vật liệu... + Tùy thuộc vào đặc điểm của vật mà có cách mô tả cụ thể, nhưng nhìn chung phải thể hiện được các nội dung: Số lượng, chất lượng, trọng lượng, khối lượng, hình dạng kích thước, màu sắc, mùi vị, tính nguyên vẹn và trạng thái mới, cũ của vật. + Những dấu vết của tội phạm để lại trên vật chứng. Ví dụ như vết máu, vết nứt, gãy,.. Trường hợp trên vật chứng có dấu vết thì phải mô tả từng dấu vết, kích thước của dấu vết, màu sắc của dấu vết, chiều hướng của dấu vết,… + Nơi tìm thấy vật: cần phải nêu rõ nơi tìm thấy vật và cách thức giấu vật trong biên bản. 2.1.2. Thu thập, đánh giá chứng cứ là lời khai của người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo Lời khai thể hiện các thông tin về vụ án được lưu giữ trong ý thức người tham gia tố tụng, chính vì vậy các thông tin đó được thu thập thông qua lời khai của người tham gia tố tụng.
  • 45. 39 Đặc điểm là được lưu giữ trong ý thức chủ quan của con người, nên lời khai thường bị ảnh hưởng bởi một số yếu tố như: hoàn cảnh khách quan, năng lực tâm sinh lý của con người khi thu nhận, lưu giữ thông tin; ảnh hưởng bởi những lợi ích cá nhân, mối quan hệ của người tham gia tố tụng trong vụ án hình sự. Với những yếu tố ảnh hưởng này, dễ dẫn đến việc làm sai lệch những thông tin mà người đó biết được và cung cấp cho cơ quan chức năng. * Lời khai của người làm chứng Những người biết được tình tiết liên quan đến vụ án được cơ quan tiến hành tố tụng triệu tập để làm chứng. Trong lời khai của mình, người làm chứng trình bày những gì họ biết về vụ án, thân nhân của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại. Đồng thời Bộ luật tố tụng hình sự cũng quy định người làm chứng phải khai báo về mối quan hệ của họ với người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại, và người làm chứng khác. Với những ảnh hưởng đó, khi tiến hành thu thập và đánh giá lời khai của người làm chứng, cơ quan tiến hành tố tụng cũng cần chú ý ở một số điểm sau: Một, cách ly người làm chứng để lấy lời khai trong trường hợp có nhiều người làm chứng: việc này nhằm mục đích tránh sự ảnh hưởng của những người làm chứng với nhau, từ đó sẽ ảnh hưởng đến tính khách quan của lời khai đó. Hai, cần phải cân nhắc đặc điểm tâm sinh lý, khả năng nhận thúc, tiếp nhận thông tin của người làm chứng. Trong trường hợp người làm chứng dưới 16 tuổi, khi lấy lời khai của người dưới 16 tuổi thì phải có mặt của cha, mẹ, hoặc người đại diện hợp pháp khác. Trong những trường hợp nhất định thì cần trưng cầu giám định để xác định trạng thái tâm thần của người đó theo quy định của pháp luật. Ba, cân nhắc xuất xứ thông tin mà người làm chứng biết được. Trong
  • 46. 40 trường hợp người làm chứng không thể nói rõ vì sao họ biết được tình tiết đó thì sẽ không được dùng thông tin do họ cung cấp để làm chứng. Bốn, xem xét mối quan hệ của họ với với người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại, người làm chứng khác. Đồng thời giải thích cho họ biết rằng hành vi từ chối khai báo, cung cấp các tình tiết mà họ biết về vụ án cũng như cố tình khai báo sai sự thật đều cấu thành tội phạm theo quy định tại Điều 307, 308 của Bộ luật hình sự năm 1999 [13]. * Lời khai của người bị hại Khi thu thập lời khai của người bị hại, cơ quan tiến hành tố tụng cũng cần lưu ý các điểm như đối với lời khai của người làm chứng. Tuy vậy, do xuất phát là người trong cuộc, là người trực tiếp bị tội phạm gây thiệt hại, vì vậy khi tiếp nhận thong tin về vụ án, người bị hại trong trạng thái tâm lý xúc động, mất bình tĩnh và không tránh khỏi những khai báo mang tính chủ quan. Vì vậy, khi lấy lời khai của người bị hại cần làm thế nào để người bị hại khai báo toàn bộ các tình tiết của vụ án mà họ biết, kể cả chứng cứ buộc tội, cả chứng cứ gỡ tội. * Lời khai của nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án Do xuất phát là người không trực tiếp liên quan đến việc phạm tội nhưng có quyền và lợi ích hợp pháp liên quan đến vụ án, vì vậy phạm vi khai báo của họ chỉ là những tình tiết liên quan đến bồi thường thiệt hại hoặc những tình tiết liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ trong vụ án hình sự. Nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có thể là cơ quan, tổ chức hoặc là cá nhân. Trong trường hợp họ là cơ quan, tổ chức thì lời khai phải do người đại diện theo pháp luật hoặc người ủy quyền cung cấp. Với những đặc điểm đó, khi thu thập chứng cứ và đánh giá chứng cứ từ