Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Niềm bi cảm (aware) trong Truyện Genji của Murasaki Shikibu
1. MỞ ĐẦU
1. Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Nhắc đến văn học Nhật Bản, người ta nghĩ ngay đến một xứ sở
văn học diệu kỳ của những bài thơ ngắn đến bất ngờ (thơ haiku) và cuốn
tiểu thuyết trường thiên dài cũng bất ngờ (Truyện Genji). Truyện Genji
được xem là một tiểu thuyết dài độc đáo, ra đời trong khoảng thời gian
những năm đầu của thế kỷ XI(1004-1011) của nhà văn Murasaki
Shikibu(978?-1016?). Tiểu thuyết đã phản ánh những cung bậc đời sống
xã hội phức tạp của con người thuộc tầng lớp quý tộc thời Heian. Xuyên
suốt tác phẩm là tư duy thẫm mĩ độc đáo: niềm bi cảm(aware). Cảm thức
aware trong tác phẩm mang đến những xúc cảm tinh tế về thiên nhiên,
con người, về nỗi buồn, cái đẹp của vạn vật. Đó chính là đặc trưng mỹ
cảm truyền thống của Nhật Bản và cũng là chủ đề chính của tác phẩm.
Đề tài “Niềm bi cảm(aware) trong Truyện Genji của Murasaki
Shikibu” có ý nghĩa khoa học thiết thực và cần thiết. Một mặt nó góp
phần giúp các nhà nghiên cứu và bạn đọc Việt Nam hiểu rõ hơn cơ sở mỹ
cảm làm nên nét độc đáo của văn học Nhật Bản. Mặt khác, cũng từ cơ sở
này, chúng ta có thể lí giải phần nào các hiện tượng, các đường nét riêng
của văn học hiện đại Nhật Bản.
1.2. Đề tài nghiên cứu về niềm bi cảm góp phần làm rõ hơn cái đẹp
của Truyện Genji, có thể còn là một tư liệu chuyên về văn học Nhật Bản
trong nhà trường. Từ đó góp phần tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa
hai nền văn hoá, văn học Việt - Nhật, tăng cường tình hữu nghị và hợp
tác phát triển của hai quốc gia trong kỷ nguyên toàn cầu hoá kinh tế và
văn hoá của nhân loại.
1
2. 2. MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ CỦA LUẬN VĂN
Mục đích của luận văn là phân tích bình luận tác phẩm, các mối
quan hệ trong tác phẩm để làm rõ phạm trù bi cảm, một phạm trù mỹ học
thời Heian của Nhật Bản. Từ đó có thể thấy quan niệm về cái đẹp, những
biểu hiện của cái đẹp trong văn học Nhật Bản trung cổ làm nên tính duy
cảm, duy mỹ độc đáo của người Nhật.
Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ của luận văn là khảo sát và
phân tích cái bi cảm trong số phận của các nhân vật, trong cái đẹp vô
thường của cảnh vật thiên nhiên.
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để đạt được hiệu quả tốt, luận văn sử dụng phương pháp khảo sát,
phân tích các mối quan hệ để triển khai và làm nổi bật vấn đề nghiên cứu.
4. PHẠM VI VĂN BẢN SỬ DỤNG
Sử dụng “Truyện kể Genji”, bản dịch ra tiếng Việt do Nguyễn Đức
Diệu chủ biên, gồm hai tập của nhà xuất bản Khoa Học Xã hội xuất bản
năm 1991 làm đối tượng nghiên cứu chính, bên cạnh đó còn tham khảo
bản tài liệu tiếng Anh của Arthur Waley, Edward G. Seidensticker, bản
tóm tắt tiếng Anh của tác giả: Mari Nagase từ nguồn UNESCO.
5. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
5.1 Tài liệu tiếng Anh
Trong cuốn: “A reader’s guide to Japanese Literature”(Hướng
dẫn độc giả làm quen văn học Nhật Bản)[81]. Tác giả J.Thomas Rimer
đã đánh giá tác phẩm trên ba khía cạnh cơ bản: tính hiện thực, cảm quan
Phật giáo và niềm bi cảm tồn tại trong toàn bộ tác phẩm.
2
3. Cuốn “A dictionary of Japanese culture”(Từ điển văn hoá Nhật
Bản) [76] của Seisuko Kojima và Gene A.Crane cũng đưa ra hai vấn đề
chính trong Truyện Genji: âm hưởng Phật giáo và mỹ quan thẩm mĩ
William J. Puett trong cuốn “Guide to the Tale of Genji”(Hướng
dẫn về tác phẩm Truyện Genji)[84] đề cập khái niệm aware được hiểu
trong nhiều hoàn cảnh, trên nhiều phương diện và từ nhiều ý kiến tranh
luận khác nhau
Trên trang web http://www.inform.umd.edu[75], Pin Fang Su đã có
bài thảo luận về nhân vật Genji.
Ở một nghiên cứu khác, đăng tải trên web-site http://www.wsu.edu
[68], viết về cơ sở văn học của mono no aware được trình bày bắt nguồn
từ ý thức của người Nhật.
Kondo Tomie trong cuốn: 105 key words for understanding
Japan(105 từ khoá để hiểu đất nước Nhật Bản) [67] đã xác định thuật
ngữ aware là kết tinh quan niệm thẩm mĩ thời kì Heian. Con người thời
Heian say mê cái đẹp, đặc biệt là nữ giới trong cung đình.
Trong bài báo: Genji monogatari: a romance in three parts
(Truyện Genji: tác phẩm lãng mạn gồm ba phần) [65], Leslie Inamasu đã
trình bày quan điểm của mình về tình yêu trong ba người phụ nữ với ba
tính cách, số phận khác nhau nhưng cả ba hợp lại thì trở thành một người
phụ nữ hoàn hảo.
5.2 Tài liệu tiếng Việt
Công trình “Lịch sử văn học Nhật Bản” [44] của Suichi Kato do
Trần Hải Yến dịch. Trong phần viết về Truyện kể Genji, tác giả cuốn
sách đã phân tích những giá trị về hình thức lẫn nội dung, phong cách,
thể loại và cảm thức về thời gian trong tác phẩm.
3
4. Trong “Cảm nhận mới về văn hoá và văn học Trung Quốc”[44],
Lê Huy Tiêu đã so sánh tác phẩm “Truyện kể Genji” với tác phẩm“Hồng
Lâu Mộng”.
“Văn học Nhật Bản từ khởi thuỷ đến 1868”[5] của Nhật Chiêu.
Ông cho rằng thời kì Heian là thời kì của cái đẹp và Truyện Genji thể
hiện thế giới của niềm bi cảm.
Cuốn “Văn học Nhật Bản từ cổ đến cận đại”[42] của N.I.Kônrat
do Trịnh Bá Đĩnh dịch.
6. CẤU TRÚC LUẬN VĂN
Ngoài mở đầu (12 trang), kết luận (4 trang) và thư mục tài liệu
tham khảo (6 trang), luận văn được cấu trúc thành ba chương:
Chương I: Thời đại Heian và khái niệm niềm bi cảm(aware) (23 trang)
Chương II: Niềm bi cảm với số phận các nhân vật (37 trang)
Chương III: Niềm bi cảm với thiên nhiên tươi đẹp (20 trang)
4
5. CHƯƠNG I
THỜI ĐẠI HEIAN VÀ KHÁI NIỆM
NIỀM BI CẢM(AWARE)
I.1 Thời đại Heian
Thời kì Heian kéo dài từ năm 794 đến năm 1185. Năm 781, Thiên
hoàng Kammu lên ngôi và dời kinh đô từ Nara về kinh Heian vào năm 794
đánh dấu đất nước bước sang một thời đại mới kéo dài khoảng 400 năm.
Đây được xem là thời kì văn hoá, xã hội phát triển mạnh mẽ và đa dạng.
*Tôn giáo
Phật giáo đóng vai trò quan trọng trong suy tư của người Nhật về
thực tại tối hậu, viễn tượng Phật giáo về cái vô thường, vô ngã, duyên
khởi nghiệp. Nghệ thuật Phật giáo ở Nhật ảnh hưởng đến cảm quan thẩm
mĩ người Nhật. Quan niệm về cái đẹp rất đơn giản nhưng rất khó biểu
hiện. Phật giáo nắm bắt một cảm nhận sâu xa của trải nghiệm niết bàn
trong khoảnh khắc ngay giữa đời sống tự nhiên để diễn tả cảm thức về
cái vô thường. Chính vì vậy tất cả “niềm bi cảm” bị chi phối bởi thế giới
quan Phật giáo, đậm đặc ở Thiền Zen.
Thần đạo là một tín ngưỡng tôn giáo bản địa xuất phát từ Nhật
Bản, tuy vậy nó vẫn có ảnh hưởng của Phật giáo và mối quan hệ đó qua
lại lẫn nhau. Quan niệm Thần đạo cho rằng: các thành tố tự nhiên đều là
những đứa con thanh khiết, đẹp của Kami(Thần), Sự hiện diện của Kami
không chỉ qua lời nói mà còn thể hịên qua năng lực nhận thức thẩm mĩ
về cái đẹp trong giới tự nhiên. Điều này gần gũi với cách cảm thụ cái đẹp
trong quan niệm thẩm mĩ aware. Nhân sinh quan của Thần đạo đã mang
lại cho hình thức nghệ thuật ý thức về tính giản dị, tự nhiên, sự phản ánh
5
6. trái tim trong sáng và chân thật. Con người, thiên nhiên và thần linh luôn
có mối quan hệ gần gũi trong đời sống cộng đồng, trong nghệ thuật cũng
như trong tư tưởng thẩm mĩ mọi thời đại ở Nhật.
* Phong tục
Quan niệm thẩm mĩ của người Nhật có nét độc đáo riêng biệt. Ảnh
hưởng mạnh nhất đối với nghệ thuật là quan niệm về cái đẹp, cách cảm
nhận, thưởng thức và sáng tạo cái đẹp của người Nhật. Ở Nhật, cái đẹp
gắn với nỗi buồn, với sự mong manh, yếu đuối, khó nắm bắt. Như phù du
trong cuộc đời, cái đẹp có thể xuất hiện trong khoảnh khắc nhưng cũng
mất đi trong giây lát, để rồi nó vẫn còn tồn tại mãi trong nhân gian về
một cái đẹp vĩnh hằng.
Có thể thấy người Nhật có tính duy mỹ. Vậy nên, con người giữa
thế giới này bình tâm, tự tại mà sống, không cần bám vào bất cứ cái gì
nhưng vẫn tha thiết với cuộc đời, sống hết mình với cuộc đời. Aware là
một phạm trù, trạng thái của cái đẹp, do chủ quan tạo ra hơn là kinh
nghiệm khách quan mang đến, một trạng thái cơ bản bên trong hơn là
trạng thái bên ngoài.
*Truyền thống văn học
Có thể xem Vạn diệp tập là tập thơ đánh dấu những bước đi của
aware trước thời Genji monogatari Tập thơ ghi rõ nhiều trạng thái tình
cảm của con người rất chân thật và sinh động. Tất cả tạo nên một nguồn
sống mới cho cảm thức thẩm mĩ sau này của văn học: aware.
Nếu Vạn diệp tập biểu hiện bao quát toàn bộ cuộc sống với những
cung bậc tình cảm hồn nhiên, phong phú thì đến thời Heian,
Kokinshu(Cổ kim tập) thể hiện tài năng sáng tạo mang tính nghệ thuật
cao hơn. Tập thơ được xem như: “một núi đá rêu phong, cổ kính và hùng
vĩ trong nền thơ ca trữ tình Nhật Bản”[5,79].
6
7. Trong thời đại này, trào lưu văn học nữ giới bắt đầu xuất hiện. Các
tác phẩm tiêu biểu như: Phù du nhật kí, Nhật kí Izumi Shikibu, Nhật kí
Murasaki, Nhật Ký thời ở Sarashina, Truyện Genji, Sách Gối Đầu.
* Murasaki Shikibu với niềm bi cảm cuộc đời
Nhà văn nữ Murasaki Shikibu(978?-1016?) từ nhỏ sớm bộc lộ tài
năng học vấn, làm vợ lẽ cho Fujiwara Nobutaka. Sau khi chồng chết, bà
ở một mình nuôi con nhỏ. Năm 1005, Thiên hoàng Ichijô triệu bà vào
cung và được đãi ngộ như một nữ học sĩ. Trong thời gian này Murasaki
Shikibu viết Nhật kí(Murasaki nikki) và vẫn viết tiếp Truyện Genji. Năm
1013, bà không làm việc nữa và mất sau đó khoảng năm 1016 khi đó
mới ngoài 40 tuổi.
Trong Nhật kí Murasaki Shikibu, một nỗi buồn mênh mang bao
trùm mà nguyên do cơ bản là nỗi cô đơn khôn cùng xâm chiếm cả tâm
hồn nhạy cảm của nhà văn. Bà cho rằng “Tôi nhớ cuộc sống trước kia
của mình như một người lữ khách lang thang trên những nẻo mộng đời,
và tôi chán ghét mình đã quá quen thuộc với nếp sống cung đình…”[35],
“định mệnh của tôi là cô đơn”[35].
I.2 Khái niệm về niềm bi cảm(aware)
Theo nghĩa gốc thì aware có nghĩa là buồn. Nó đã được nhiều học
giả định nghĩa theo nhiều cách khác nhau như: Morris, Valey,
Seidensticker, Morinaga, Kondotomie, Nhật Chiêu…
Tóm lại, thuật ngữ aware xuất hiện sớm, trước thời Heian, thường
dùng để chỉ thái độ, xúc cảm ngạc nhiên, vui thích hay buồn bã trước
hoàn cảnh nào đó mà con người không kiểm soát được cảm xúc của mình
và thốt nên lời: aware! Đến thời Heian, aware dùng để chỉ xúc cảm,
nhạy cảm. Trong nghĩa rộng hơn, là những cảm xúc sâu kín được gợi lên
7
8. bởi sự tác động của đối tượng bên ngoài như hoàn cảnh, thiên nhiên, con
người đóng vai trò đồng cảm, bị tương tác. Trên thực tế, aware có nghĩa
phổ biến là một cảm giác buồn nhất thời. Aware được hiểu là niềm bi
cảm trước vẻ đẹp phù du. Đến thế kỷ XVIII, học giả nổi tiếng: Motoori
Norinaga (1730-1801) đã phát triển aware thành mono no aware: cảm
xúc xao xuyến, nỗi niềm bi cảm trước sự vật hay trước cái đẹp bị tàn
phai, mất đi.
Bên cạnh đó, cảm quan thẩm mĩ của người Nhật còn được biểu
hiện qua các thuật ngữ khác. Yugen- nỗi u huyền; Sabi- cô tịch, cô liêu;
Iki và sui thời hiện đại thể hiện vẻ đẹp kiểu tư sản, hợp thời trang, thanh
lịch mang sắc thái gợi cảm.
8
Tải bản FULL (20 trang): https://bit.ly/3b4jyP4
Dự phòng: fb.com/TaiHo123doc.net
9. CHƯƠNG II
NIỀM BI CẢM VỚI SỐ PHẬN CÁC NHÂN VẬT
II.1 Bi cảm với thời gian đã mất của các nhân vật
II.1.1 Thời gian trôi chảy
Trong Truyện Genji, thời gian của cảm xúc u buồn, mất mát, sầu
khổ và tiếc nuối. Thời gian cuốn theo tuổi thanh xuân, sự sống tươi trẻ,
bao vinh hoa trên cõi đời. Hệ thống nhân vật trong tác phẩm luôn bị chi
phối bởi thời gian. Hai mối quan hệ thời gian và nhân vật có sự tương tác
lẫn nhau không tách rời. Thời gian dài, xuất hiện rõ nhất với các nhân vật
chính như: Genji và Kaoru. Bên cạnh đó, còn có những người phụ nữ
xuất hiện trong cuộc đời họ.
Trong suốt 54 chương của tác phẩm, cuộc đời Genji hầu như chiếm
phần lớn nội dung. Thời gian từ khi nhân vật ra đời cho đến khi trưởng
thành và trải qua các mốc sự kiện quan trọng nhất của cuộc đời qua hàng
loạt bức tranh tâm lí sống động, sâu sắc và bi ai. Tiếp nối Genji là cuộc
đời của Kaoru. “Cuộc sống của Kaoru - con trai trên danh nghĩa là của
Genji. Nhân vật này sống hít thở toàn bộ các môi trường mà Genji đã trải
qua và cũng ở chính cùng một nơi. “Cuộc sống vẫn được tiếp tục, trên
sân khấu của nó chỉ có nhân vật là thay đổi cón tất cả các quan hệ vẫn y
nguyên” dường như Murasaki muốn nói như vậy”[42,204].
Thời gian như nói hộ cảm xúc của con người. “Thời gian trong bi
cảm của Murasaki thường bôi xoá các nhân vật của nàng, để lại khoảng
trống trên bức tranh cuộn của định mệnh, hơn là kéo lê cuộc đời của họ
vào già. Đó là một thời gian nữ tính, nó thích cái chết của tuổi trẻ hơn là
sự héo hắt già cỗi. Có lẽ chính vì vậy mà Murasaki đặt hai chàng trẻ tuổi
Kaoru và Niou vào khoảng trống mà Genji để lại. Nàng không bằng lòng
9
Tải bản FULL (20 trang): https://bit.ly/3b4jyP4
Dự phòng: fb.com/TaiHo123doc.net
10. kết thúc tác phẩm với cái chết của Genji. Nàng muốn một lần nữa, tuổi
trẻ và tình yêu lại cháy sáng”[5,118].
II.1.2 Thời gian đồng hiện và dòng ý thức nhân vật
Thời gian đồng hiện không tồn tại khách quan bên ngoài mà tồn tại
ở cảm xúc bên trong của con người đồng. Khoảnh khắc hiện tại nhường
chỗ cho những mảng thời gian quá khứ hiện về với bao nỗi niềm hoài
nhớ. Đồng thời, dòng ý thức của nhân vật xuất hiện với tất cả những sự
kiện, tâm tư và cảm xúc.
Genji luôn nhớ về hình bóng người mẹ. Sau này, khi chứng kiến
cảnh Aoi chết, chàng trở về Sanjo, nghĩ đến những năm tháng họ sống
bên nhau. Còn khi Fujitsubo quyết định xuống tóc, Genji đi vào gặp nàng
và kìm được nước mắt chực trào ra, kỉ niệm về những ngày qua ùa về
trong tâm trí chàng. Khi ở Suma, nhìn mưa cắt qua dòng kí ức, chàng
không thể nào quên đi người tình của mình khi gửi một bức thư cho nữ tu
sĩ quận chúa Asagao rồi nhận được một bức thư nhỏ buộc bằng sợi dây
nghi thức của nàng, chàng nhớ lại cách đó đúng một năm vào cái đêm
đáng nhớ ở điện thờ. Cũng có khi chàng nhớ đến những kỉ niệm về một
người bạn thân và nghĩ về chuyện đời. Quyết định đi đến gặp
Oborozukiyo làm chàng nhớ lại những tháng ngày đi vụng trộm trước đó.
Sau này, khi đến thăm đền Kamo để làm lễ, trên đường trở về, Genji nhớ
lại ngày phu nhân Rokujo bị chặn ở bên ngoài khu vực làm lễ và gây sự
với Aoi. Chứng kiến cảnh Murasaki chết chàng đã nhiều lần thấy buồn
nhưng chưa bao giờ chàng cảm giác cô đơn như bây giờ, trong quá khứ
và tương lai không ai chịu nỗi buồn như chàng. Và chàng lại nhớ đến
buổi sáng khi mẹ Yugiri mất…Còn Kaoru thì trong một lần đến Uji ,
hình ảnh Ukifune gợi cho anh nhớ về Oigimi với bao kỉ niệm.
Khi dòng chảy thời gian trở đi trở lại thì nỗi ám ảnh về cuộc đời lại
xuất hiện. Và thời gian chỉ là “ngày lại qua ngày theo một chuỗi dài u
10 4132481