SlideShare a Scribd company logo
1 of 30
Download to read offline
AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG?
- HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG –
I. Tác giả
1. Tiểu sử, cuộc đời
- Hoàng Phủ Ngọc Tường sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937, tại thành phố Huế, nhưng quê gốc lại ở làng
Bích Khê, xã Triệu Long, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
- Thời niên thiếu ông sinh sống và học tập tại Huế. Sau khi học hết bậc trung học, ông di chuyển vào
TP HCM để học tại trường Đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1960, ông tốt nghiệp khóa I ban Việt Hán
trường Đại học Sư phạm Sài Gòn.
- Sau đó ông quay trở lại Huế và tiếp tục sự nghiệp học hành của mình tại trường Đại học Văn khoa
Huế. Năm 1964, ông chính thức tốt nghiệp và nhận bằng Cử nhân triết tại ngôi trường này.
- Trong khoảng thời gian từ năm 1960 – 1966,ông dạy tại trường Quốc Học Huế và tham gia rất tích
cực vào các phong trào học sinh, sinh viên và giáo chức chống Mĩ – Ngụy đòi độc lập, thống nhất Tổ
quốc.
- Năm 1966 – 1975, Hoàng Phủ Ngọc Tường tình nguyện thoát ly gia đình và di chuyển lên các chiến
khu để góp sức vào cuộc kháng chiến chống Mỹ bằng các hoạt động cách mạng trên mặt trận văn
nghệ.
- Ông viết văn và viết báo từ khi còn rất trẻ nhưng đến năm 1978 ông mới kết nạp vào Hội Nhà văn
Việt Nam.
-> Hoàng Phủ Ngọc Tường rất am hiểu về thiên nhiên, lịch sử, văn hóa và con người nơi đây. Bởi
vậy, những trang viết của ông luôn gắn với vùng đất Huế ruột thịt và chứa đựng những giá trị thẩm
mỹ đặc biệt.
“Bút ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường là một cuộc đi tìm cội nguồn, một sự phát hiện bề dày văn hoá
và lịch sử của các điều kiện đời sống… Văn anh giàu những tư liệu lấy từ sử sách tri thức khoa học
và huyền thoại kí ức cá nhân loé lên những ánh sáng bất ngờ… Cái mới của Hoàng Phủ Ngọc Tường
là khám phá bình diện văn hoá với tư liệu lịch sử phong phú và một tâm hồn Huế nồng nàn”. (Trần
Đình Sử)
2. Sự nghiệp văn chương
- Hoàng Phủ Ngọc Tường là một nhà văn vô cùng tài hoa, là nhà văn chuyên viết bút kí với phong
cách nghệ thuật độc đáo.
- Nét đặc sắc trong sáng tác của ông là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và chất trữ tình,
giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức phong phú về triết học,
văn hóa, lịch sử, địa lý, phong tục tập quán, … . Tất cả được thể hiện qua lối liên tưởng phóng
khoáng, lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm và tài hoa.
“Hoàng Phủ Ngọc Tường có một phong cách viết bút kí văn học của riêng mình. Thế mạnh của ông
là tri thức văn học, triết học, lịch sử hay địa lý… sâu và rộng, gần như đụng đến vấn đề gì, ở thời
điểm nào và ở đâu thì ông vẫn có thể tung hoành thoải mái ngòi bút được”. “Dù là viết lịch sử đã xảy
ra cách nay hàng ngàn năm, từ thuở Âu Cơ và Lạc Long Quân, từ thời của các vua Hùng dựng nước
và mở cõi, hay viết về không gian đa chiều trong nghệ thuật tạo hình hiện đại của nghệ sĩ Lê Bá
Đảng ở bên Pháp thì cái rốn của tư duy, cái trằn trọc trong tâm tưởng và tâm hồn nhà văn Hoàng
Phủ Ngọc Tường bao giờ cũng dồn vào tình yêu đất nước, tình yêu dân tộc” (Hoàng Cát)
- Những sáng tác của ông hấp dẫn người đọc ở lối hành văn hướng nội, súc tích và tấm lòng nhân
văn sâu sắc, trí tuệ uyên bác cùng chất Huế quyến rũ.
- Ngoài thể loại bút kí, Hoàng Phủ Ngọc Tường còn sáng tác thơ. Thơ của ông cũng được rất nhiều
yêu thích nhờ có nhiều nét đặc sắc trong sáng tác. Các tập thơ của ông đều mang vẻ đẹp của nỗi
buồn hoài niệm cùng những suy ngẫm về lẽ sống, cái chết,... có ảnh hưởng rất sâu sắc đến tâm hồn
người đọc.
- Hoàng Phủ Ngọc Tường được biết đến như là một nhà văn của những dòng sông và sự nghiệp văn
chương của ông cũng giống như là một dòng sông vậy, luôn chăm chỉ , miệt mài sáng tác không nghỉ
ngơi để đóng góp cho đời những áng văn thơ hay.
2. Tác phẩm
1. Xuất xứ
- “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” là bài bút kí xuất sắc, viết tại Huế, ngày 4/1/1981, in trong tập sách
cùng tên.
- Bối cảnh ra đời: Sau ngày đại thắng mùa xuân 1975, văn học giai đoạn 1976 – 1986 phát triển trong
âm vang của một khí thế chống giặc hào hùng, rất sôi nổi, rộn rã, nó như còn đang hừng hực một
bầu khí quyển trong lành của kỉ nguyên “độc lập, tự do”. Đó là nguyên do để trong bút kí này HPNT
phủ đầy yếu tố lịch sử cũng như tình yêu quê hương, đất nước tha thiết của ông về Huế.
- Bài bút kí có ba phần:
+ Phần một nói về cảnh quan thiên nhiên của sông Hương
+ Phần 2 và 3 là phương diện lịch sử và văn hóa của sông Hương
- Đoạn trích này nằm ở phần một cộng với lời kết của tác phẩm.
2. Thể loại (Bút kí)
- Bút kí là “một thể loại thuộc nhóm thể tài kí nhằm ghi lại sự việc, con người, cảnh vật… mà nhà
văn mắt thấy tai nghe, thường là trong một chuyến đi, một lần tìm hiểu nào đó […] không sử dụng
hư cấu vào việc phản ánh hiện thực, có những nhận xét, suy nghĩ, liên tưởng, nhưng ít phóng túng
triền miên, mà tập trung thể hiện một tư tưởng chủ đạo nhất định”
- Đó là sự “kết hợp linh hoạt các phương thức tự sự, trữ tình, chính luận với các thao tác tư duy khoa
học”. Trong một tác phẩm kí, có những ghi chép, tường thuật về cảnh, vật, việc và con người với vai
trò nhân vật, “thổi sức sống” cho tác phẩm (phương thức tự sự); tác phẩm kí thể hiện một cảm quan
nghệ thuật về hiện thực của tác giả, bày tỏ những suy nghiệm chủ quan của tác giả về đối tượng ghi
chép, thể hiện một nhận thức về giá trị nhân sinh (phương thức trữ tình và chính luận); bên cạnh đó,
tác phẩm kí còn chứa đựng nhưng thông tin, tri thức ở nhiều lĩnh vực (văn hoá, xã hội, lịch sử, địa
lí,…) xoay quanh đối tượng ghi chép (tính khoa học).
- Tác giả “hoá thân” thành một nhân vật trong tác phẩm, giữ vai trò tự thuật, trò chuyện với các
nhân vật khác, trình bày các sự kiện bằng việc sử dụng cảm quan nghệ thuật để quan sát, liên tưởng
và tưởng tượng, bộc lộ những ấn tượng, ý kiến, tình cảm của mình, dẫn người đọc tiếp cận đối tượng
ghi chép theo một hướng nào đó, tạo ra sự thống nhất các phần trong bài kí. “Kí là sự soi sáng cuộc
sống bằng bó đuốc của những hiểu biết, tư tưởng, tình cảm của tác giả” và qua tác phẩm kí người đọc
cảm nhận được cái tôi của tác giả.
- Hoàng Phủ Ngọc Tường với kí: Trong những gương mặt viết kí tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện
đại, HPNT nổi lên như một hiện tượng đáng chú ý với một phong cách viết vừa trữ tình, lãng mạn,
vừa thâm trầm, triết lí đồng thời cũng rất độc đáo, tài hoa. Ông đã được ghi nhận là một “cây kí” độc
đáo của văn học Việt Nam hiện đại. Trong sự nghiệp sáng tác của ông, mảng sáng tác thuộc thể loại
kí có vai trò quan trọng, có nhiều thành công đáng kể. Sáng tác của ông mang đậm bản sắc riêng,
thể hiện phong cách nghệ thuật khá đặc sắc…. Chính vì thế, những trang kí phẩm HPNT thực sự đã
khẳng định được giá trị của mình theo thời gian, gây được sự chú ý cho công chúng và những nhà
phê bình, nghiên cứu văn học.
3. Ý nghĩa nhan đề
- Mượn câu hỏi bâng khuâng của một nhà thơ từ Hà Nội vào: Ai đã đặt tên cho dòng sông?
-> Lưu ý người đọc về cội nguồn tên gọi của dòng sông: sông hương, sông thơm
-> Tâm thế một người luôn khao khát kiếm tìm cái đẹp dưới lớp trầm tích văn hóa lịch sử
-> Tâm hồn luôn biết xao xuyến trước cái đẹp của quê hương đất nước
- Cả bài tùy bút dường như là cuộc hành trình kiếm tìm câu trả lời cho câu hỏi đầy khắc khoải “Ai đã
đặt tên cho dòng sông?”. Và cuộc tìm kiếm, lí giải cái tên của dòng sông đã trở thành cuộc kiếm tìm
đầy hào hứng và say mê không chỉ vẻ đẹp diện mạo, hình hài mà còn là độ lắng sâu của tâm hồn và
lớp trầm tích văn hóa.
- Con sôn xứ Huế hiện lên trong cuộc tìm kiếm của HPNT đã không chỉ là con sông địa lí mà là một
sinh thể, một con người “sông Hương quả thực là Kiều, rất Kiều” vừa xinh đẹp, vừa tài hoa, vừa
thăng trầm chìm nổi cùng lịch sử lại vừa đằm thắm lắng sâu với nền văn hóa riêng của nó.
* Kí ức về “dòng sông” trong nhà văn
Nói đến Hoàng Phủ Ngọc Tường, ta nhớ ngay đến một nhà văn của những dòng sông. Chính ông đã
chia sẻ rằng “Những dòng sông luôn mang lại cảm xúc sáng tác cho tôi, đã nuôi dưỡng tâm hồn cho
tôi, đã nuôi dưỡng tâm hồn văn học tối từ nhỏ cho đến bây giờ là mãi mãi sau này”. Nhà văn kể lại
tuổi thơ của mình: “Ngoài những giờ lên lớp, mỗi ngày tôi đều cùng với nhóm bạn học, ngày nào
không ra sông lại thấy hụt hẫng như thiếu một điều gì đó”. Ông khẳng định rằng, chính sông Hương
đã nuôi mạch văn chương trong con người ông, giúp những mạch máu ấy lan tỏa và sống mãi cho
đến hôm nay: “Những kỷ niệm thời ấu thơ như những đêm nghe ca Huế dù đã cách nay hơn nửa thế
kỷ nhưng tôi vẫn không quên. Ngày đó những đêm ca Huế không sân khấu đèn màu, không micro,
người nghe ngồi bệt dưới nền đất để thưởng thức âm nhạc... Những kỷ niệm dung dị đó đã ám ảnh
suốt những năm tháng tôi xa sông Hương sau này, để bài ký đầu tiên trong cuộc đời sáng tác của tôi
là con sông quê hương”. Chính vì lẽ đó, mà suốt những năm cuối đời, dù phải nằm trên giường bệnh
những nhà văn vẫn ngóng xa xăm, rồi trầm tư: “Mười ba năm nay, nhờ có những dòng sông trong ký
ức, nên dù phải ngồi một chỗ nhưng tâm hồn tôi lúc nào cũng hướng ra bên ngoài, vui cùng cuộc
sống. Bảy cuốn bút ký viết trên giường bệnh của tôi có đóng góp lớn nhờ hoài niệm về những dòng
sông. Mỗi khi mệt mỏi chực gục ngã, tôi lại thúc mình phải vươn lên như những đợt sóng vỗ mãi
không mỏi”.
Yêu những dòng sông đến hơi thở cuối cùng, nên trong sự nghiệp cầm bút của mình, hầu hết mọi
trang hoa thơm thảo của Hoàng Phủ Ngọc Tường để lại cho đời, luôn lấp lánh hình ảnh dòng sông.
Nhờ đi nhiều, chiêm nghiệm nhiều, nên ông đặc biệt quan tâm đến những dòng sông khắp mọi miền
Tổ quốc và cả những dòng sông nổi tiếng trên thế giới, để thấy quê mình vẫn là đẹp nhất. Đó cũng là
nguyên do để mở đầu bài ký, nhà văn khẳng định: “Trong những dòng sông đẹp ở các nước mà tôi
thường nghe nói đến hình như chỉ sông Hương là thuộc về một thành phố duy nhất”. Điều đó có
nghĩa là sông Hương đã gắn liền với không gian - địa lý, văn hóa, lịch sử của một thành phố duy
nhất: đó chính là mảnh đất cố đô Huế thân yêu. Nếu tách riêng sông Hương ra khỏi thành phố Huế
thì nó chỉ còn là một dòng nước chảy giữa đôi bờ vô tri vô giác. Và cũng trong lời mở đầu nồng nàn
ấy, nhà văn đã đặt vị trí của sông Hương ngang bằng với những dòng sông đẹp” khác trên thế giới -
nhưng trên hết tác giả khẳng định điều đặc biệt chỉ có ở nàng Hương “là dòng sông thuộc về một
thành phố duy nhất”. Lời khẳng định ấy cũng chính là niềm tự hào của tác giả về dòng sông quê
hương - dòng thi ca đất mẹ, và đây cũng chính là điểm nhìn nghệ thuật độc đáo của bài kí qua cái
nhìn tinh tế của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Cảm hứng về dòng sông trong thi ca
Các dòng sông và đặc biệt là sông Hương đã trở thành niềm thương, nỗi nhớ trong lòng của không ít
nhà văn, nhà thơ từ xưa đến nay:
“Đò trôi rời bến một chiều
Sông Hương đau thắt tim yêu bao ngày
Gió xào xạc khóc trên cây
Cầu Tràng Tiền nghẹn vơi đầy nhớ thương”
(Nỗi buồn sông Hương)
“Sông Hương nước chảy lững lờ
Đôi bờ rủ bóng mộng mơ ảo huyền
Xuôi dòng ngắm cảnh du thuyền
Ta như lạc cõi thần tiên phiêu bồng”
(Hò thuyền sông Hương)
“Thủa nước non đến hồi non nước
Sông Hương đành xuôi ngược đông tây
[…] Sông Hương hỡi, xuân vừa tơ liễu
Cả trăm hoa hàm tiếu nhởn nhơ”
(Đêm khuya tự tình với sông Hương – Hàn Mặc Tử)
=> Có thể thấy, Sông Hương không phải lần đầu tiên đi vào các trang thơ, trang văn thế nhưng với
mỗi người nghệ sĩ, hình ảnh sông Hương lại được khám phá với những góc nhìn riêng, vẻ đẹp riêng.
[Góc độ địa lí]
(Thượng nguồn) [...] Trong những dòng sông đẹp ở các nước mà tôi thường nghe nói đến, hình như
chỉ sông Hương là thuộc về một thành phố duy nhất. Trước khi về đến vùng châu thổ êm đềm, nó là
một bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác,
cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn, và cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa
những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng. Giữa lòng Trường Sơn, sông Hương đã sống
một nửa cuộc đời của mình như một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại. Rừng già đã hun đúc
cho nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng. Nhưng chính rừng già nơi đây, với
cấu trúc đặc biệt có thể lý giải được về mặt khoa học, đã chế ngự sức mạnh bản năng ở người con gái
của mình để khi ra khỏi rừng, sông Hương nhanh chóng mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở
thành người mẹ phù sa của một vùng văn hoá xứ sở. Nếu chỉ mải mê nhìn ngắm khuôn mặt kinh
thành của nó, tôi nghĩ rằng người ta sẽ không hiểu một cách đầy đủ bản chất của sông Hương với
cuộc hành trình gian truân mà nó đã vượt qua, không hiểu thấu phần tâm hồn sâu thẳm của nó mà
dòng sông hình như không muốn bộc lộ, đã đóng kín lại ở mọi cửa rừng và ném chìa khoá trong
những hang đá dưới chân núi Kim Phụng.
Trong tâm thức của mỗi người, dù có đi qua trăm núi, ngàn sông, thì dòng sông quê Hương
vẫn luôn là dòng nhớ, dòng thương vô tận. Với tình yêu sâu nặng dành cho con sông xứ sở,
Hoàng Phủ Ngọc Tường đã nhìn dòng sông bằng cái nhìn đầy ưu ái, có chút "thiên vị" trong
câu văn đầu tiên của bài bút kí. Nhà văn chẳng ngại ngần khi xếp sông Hương ngang hàng
cùng những dòng sông đẹp trên thế giới. Không những vậy, sông Hương còn thuộc về duy
nhất thành phố Huế. Đó là điểm riêng biệt của dòng Hương: Tạo hóa sinh ra sông Hương là
để dành riêng cho thành phố Huế.
- Nhận xét mang đậm tính chủ quan: Trong những dòng sông đẹp ở các nước mà tôi
thường nghe nói đến, hình như chỉ sông Hương là thuộc về một thành phố duy nhất.
(Bình luận: Không phải ngẫu nhiên Hoàng Phủ Ngọc Tường trong suốt bài kí này đã nhất
quán trong việc khắc họa con sông như đã đi cùng Huế bằng cả một mối tình trọn vẹn,
nhìn sông Hương và Huế như một cặp tình nhân lí tưởng, gắn bó với nhau trong một tình
yêu muôn thuở: “Nếu như chẳng có dòng Hương/ Câu thơ xứ Huế nửa đường đánh rơi”
(Nếu như chẳng có sông Hương – Huy Tập))
-> Cảm giác sở hữu đầy thương mến dành cho dòng sông quê hương
-> Niềm tự hào sâu sắc khi mặc nhiên đặt sông Hương ngang hàng với những dòng sông
đẹp trên thế giới
-> Niềm kiêu hãnh khi khẳng định sự độc đáo của dòng sông quê hương
(Liên hệ: Cũng giống như HPNT, Nguyễn Tuân – người nghệ sĩ luôn khát khao kiếm tìm
cái đẹp độc đáo trên hành trình sáng tác nghệ thuật cũng đã khám phá ra nét riêng biệt
chỉ riêng sông Đà mới có “Chúng thủy giai đông tẩu/ Đà giang độc bắc lưu”)
- Đặt dòng sông trong mối quan hệ với dãy Trường Sơn xa xôi
-> Khao khát ngược dòng không gian, tìm về cội nguồn của rừng đại ngàn, khám phá
những vẻ đẹp bí ẩn, những sức mạnh tiềm tàng được đóng kín trong “phần tâm hồn sâu
thẳm” của dòng sông trước khi nó về tới Huế.
-> Nhà văn đã thể hiện những cảm hứng khám phá, cắt nghĩa và lí giải trong cái nhìn
sâu sắc về cội nguồn – và đó cũng là một cảm hứng quen thuộc của tình yêu.
- Như bản trường ca của rừng già
(Bình luận: Để mang đến cái nhìn trọn vẹn hơn về dòng sông xứ sở, Hoàng Phủ Ngọc
Tường đã "lội" ngược dòng sông Hương để tìm về khúc thượng nguồn của nó, rồi đắm say,
mê mẩn, tạc nó vào trang văn như tạc một bức họa tuyệt mĩ. Nếu con sông Đà của
Nguyễn Tuân hiện lên dữ dội qua những câu văn có kết cấu điệp trùng như “nước xô đá,
đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ
xuýt bất cứ người lái đò Sông Đà nào tóm được qua đấy” thì con sông Hương của HPNT
lại hiện lên với những câu văn tạo ra âm hưởng hùng tráng rất riêng cho bản trường ca
rầm rộ của rừng già.)
+ Bản hùng ca tráng lệ
o Giữa đại ngàn, sông Hương hiện lên như một "bản trường ca của rừng già".
"Trường ca" là định danh chỉ áng thơ hay bản nhạc có dung lượng lớn và mang âm
hưởng hùng tráng. Khi được dùng để so sánh với sông Hương, câu văn đã mang
đến những liên tưởng thú vị, tạo ấn tượng về dòng sông Hương khúc thượng nguồn
với vẻ đẹp kì vĩ, tráng lệ. Nó hiện lên với chiều dài chiều rộng hùng vĩ và dòng
chảy cuộn trào mãnh liệt. Không những vậy, khi chảy giữa "rừng già" bí ẩn, dòng
sông còn mang trên mình vẻ đẹp của sự hoang dại, nguyên sơ.
-> Sông Hương hiện ra với cả chiều dài rộng hùng vĩ và dòng chảy mạnh liệt trong
sự ngưỡng mộ và niềm say mê của nhà văn.
o Dòng sông chảy qua dãy Trường Sơn đã nhận vào dòng chảy của nó tất cả những
sắc thái phong phú, đa dạng của rừng già khi "rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn", khi
"mãnh liệt qua những ghềnh thác", khi "cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực
bí ẩn",...
-> Câu văn dài với nhiều vế ngắt liên tiếp đã gợi dậy cái dư vang của trường ca,
cái âm thầm của rừng già.
-> Các danh từ cho thấy sự hoang sơ, bí ẩn, phép điệp cấu trúc cùng những động
từ, tính từ rất giàu sắc thái biểu cảm như tái hiện âm hưởng hung tráng, mạnh mẽ
của con sông giữa những cánh rừng đại ngàn.
➢ Dòng sông chảy qua dãy Trường Sơn đã nhận vào dòng chảy nó tất cả những sắc thái
phong phú đa dạng của rừng già.
➢ Dòng sông với những lớp sóng hung hãn cuộn trào bởi sự tiếp sức của thác ghềnh sóng
gió, những xoáy hút dữ dội tiềm ẩn nỗi kinh hoàng của vực sâu – trạng thái dữ dội
như Đà giang, nhưng không khiến người ta thấy gai ghê.
+ Bản tình ca say đắm: khi lại "dịu dàng say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của
hoa đỗ quyên rừng"…
-> Mang trong mình những miên man da diết của cỏ cây hoa lá nơi rừng đại ngàn.
➢ Cách miêu tả uyển chuyển tài hoa thông qua những hình ảnh đối lập giúp nhà văn
làm hiện lên hình ảnh dòng sông Hương nơi thượng nguồn với đồng thời cả sức mạnh
và vẻ đẹp; vừa tràn đầy sức mạnh hoang sơ, man dại, vừa khơi gợi những bí ẩn say mê,
vừa ngời sáng vẻ đẹp rực rỡ, kiêu sa.
- Phép nhân hóa
+ Như một cô gái Di – gan “phóng khoáng và man dại", "bản lĩnh gan dạ", "tâm hồn tự do
và trong sáng", cái mạnh mẽ phóng khoáng của một bộ tộc yêu thích cuộc sống tự do lang
thang nay đây mai đó được gắn cho dòng chảy hoang dã khiến sông Hương nơi thượng
nguồn càng trở nên quyến rũ đắm say.
+ Mang sắc đẹp dịu dàng, trí tuệ của người mẹ phù sa; đã đóng kín lại một phần tâm hồn
sâu thẳm, mãnh liệt (ném chìa khóa trong những hang đá dưới chân núi Kim Phượng).
-> Nhà văn lý giải sự tương phản của sông Hương ở hai khúc thượng lưu và hạ lưu, không
phải bằng những kiến thức địa lý thông thường. Trong cái nhìn suy tư của nhà văn, sông
Hương như một người con gái vốn mang sức mạnh hoang dã của rừng già nay đã được
chế ngự để nhanh chóng tạo cho mình một "sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ" khi về đến Huế.
Trong cảm nhận của nhà văn, sông Hương khi về tới Huế đã hoàn toàn trở thành người
mẹ phù sa của "một vùng văn hóa xứ sở" - những thét gào man dại, những phóng túng tự
do nay đằm lắng trong sự bồi đắp dịu dàng, thương mến của đồng bằng châu thổ. Những
hình ảnh phong phú, ấn tượng, những liên tưởng tài hoa và thủ pháp nhân hóa đặc sắc đã
làm hiện lên dòng sông Hương khúc thượng nguồn với vẻ đẹp của một sức sống mãnh liệt
đầy cá tính, qua đó cho thấy cách cảm nhận suy tư có bề sâu trí tuệ của nhà văn.
-> Vẻ đẹp dịu dàng như bến đỗ bình yên sau những thác ghềnh bão táp; sự bản lĩnh, trí
tuệ của người từng trải muốn giấu kín gian truân sóng gió trong vẻ êm đềm bình, bình
lặng; vẻ đẹp kín đáo bí ẩn của cô gái muốn giấu kín một phần đời riêng tư giữa đại ngàn
trước khi đi tìm người tình mong đợi, đi gặp thành phố tương lai của mình.
Tiểu kết
+ Với những hình ảnh phong phú, ấn tượng, những liên tưởng tài hoa và thủ pháp nhân
hóa đặc sắc, HPNT đã trao cho sông Hương tâm hồn, tính cách, vẻ đẹp của một người con
gái cá tính, hoang dại mà vẫn tiềm ẩn sự dịu dàng, sâu lắng, trí tuệ.
+ Cái tôi tác giả: say mê, khám phá, cảm nhận lãng mạn và bề sâu trí tuệ. Là nhà văn
nặng lòng với Huế, gắn bó với dòng sông từ thuở còn thơ, hơn ai hết, Hoàng Phủ Ngọc
Tường hiểu từng ngóc ngách của dòng sông, ông không muốn người đọc hay bất kì ai tò
mò về sông Hương, mà nhìn nhận nó ở một góc độ nên ông đã trực tiếp đưa quan điểm
của mình vào để thức tỉnh người đọc: “Nếu chỉ mải mê ngắm nhìn khuôn mặt kinh thành,
tôi nghĩ rằng người ta sẽ không hiểu một cách đầy đủ bản chất của sông Hương với cuộc
hành trình gian truân mà nó đã trải qua”.
(Ngoại vi) Phải nhiều thế kỉ qua đi, người tình mong đợi mới đến đánh thức người gái đẹp nằm ngủ
mơ màng giữa đồng Châu Hoá đầy hoa dại. Nhưng ngay từ đầu vừa ra khỏi vùng núi, sông Hương
đã chuyển dòng một cách liên tục, vòng giữa khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong
thật mềm, như một cuộc tìm kiếm có ý thức để đi tới nơi gặp thành phố tương lai của nó. Từ ngã ba
Tuần, sông Hương theo hướng nam bắc qua điện Hòn Chén; vấp Ngọc Trản, nó chuyển hướng sang
tây bắc, vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán rồi đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về
phía đông bắc, ôm lấy chân đồi thiên Mụ, xuôi dần về Huế. Từ Tuần về đây, sông Hương vẫn đi
trong dư vang của Trường Sơn, vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản sắc nước trở
nên xanh thẳm, và từ đó nó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách, với những điểm cao
đột ngột như Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo mà từ đó, người ta luôn luôn nhìn thấy dòng sông
mềm như tấm lụa, với những chiếc thuyền xuôi ngược chỉ bé vừa bằng con thoi. Những ngọn đồi này
tạo nên những mảng phản quang nhiều màu sắc trên nền trời tây nam thành phố, “sớm xanh, trưa
vàng, chiều tím” như người Huế thường miêu tả. Giữa đám quần sơn lô xô ấy, là giấc ngủ nghìn
năm của những vua chúa được phong kín trong lòng những rừng thông u tịch và niềm kiêu hãnh âm
u của những lăng tẩm đồ sộ toả lan khắp cả một vùng thượng lưu “Bốn bề núi phủ mây phong -
Mảnh trăng thiên cổ bóng tùng Vạn Niên”. Đó là vẻ đẹp trầm mặc nhất của sông Hương, như triết
lí, như cổ thi, kéo dài mãi đến lúc mặt nước phẳng lặng của nó gặp tiếng chuông chùa Thiên Mụ
ngân nga tận bờ bên kia, giữa những sớm làng trung du bát ngát tiếng gà...
Đây là chặng đường rất đáng nhớ, chuẩn bị tiền đề cho một thay đổi lớn: sông Hương từ “cô
gái Di – gan phóng khoáng và man dại” trở thành “người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ
sở”.
- Vẻ đẹp của dòng chảy uyển chuyển, sống động, gợi cảm
+ So sánh + Nhân hóa: sông Hương như “người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa đồng
Châu Hoá đầy hoa dại” chờ “người tình mong đợi” đến đánh thức.
-> Vẻ đẹp duyên dáng, yêu kiều, dịu dàng, e ấp của một cô gái đẹp mong chờ một tình yêu
lãng mãn, cổ tích.
+ Bắt đầu chuyển dòng một cách liên tục: Nam bắc – tây bắc – đông bắc, rồi xuôi dần về
Huế.
(Bình luận: Vậy vì sao mà con sông phải chuyển dòng liên tục, có phải chăng HPNT muốn
nói rằng cuộc tìm kiếm một người tình trong mộng là không hề dễ dàng, có thể đôi bàn
chân phải bôn ba trên khắp các nẻo đường như dân gian đã từng viết :
“Anh đến tìm hoa
Thì hoa đã nở
Anh đến tìm đò
Thì đò đã sang sông
Anh đến tìm em thì em đã lấy chồng”
Và sông Hương trong cuộc hành trình tìm kiếm người yêu đích thực của mình cũng vậy.
Nó phải Chuyển dòng một cách liên tục, vòng những khúc quanh đột ngột thì mới gặp
được Huế.)
-> Trong cái nhìn tình tứ và lãng mạn của nhà văn, dòng chảy miên man của nhà văn,
dòng chảy miên man của sông Hương từ thượng nguồn về tới Huế giống như một “cuộc
tìm kiếm có ý thức” người tình đích thực của cô gái đẹp trong một câu chuyện cổ tích về
tình yêu. Trong thủy trình gian truân ấy, người con gái sông Hương có cơ hội khoe tất cả
những vẻ đẹp của mình, từ đường cong tuyệt mĩ trên thân hình kiều diễm đến những
khao khát, đắm say trong tâm hồn.
+ Dáng sông: “Chuyển dòng một cách liên tục, vòng những khúc quanh đột ngột, uốn
mình theo những đường cong thật mềm, rồi đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về phía
đông – bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ”; “vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc
Trản sắc nước trở nên xanh thẳm, và từ đó nó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như
thành quách”.
o Những câu văn dài nối tiếp nhau làm nên dòng chảy miên man vừa mạnh mẽ với
“những dư vang của Trường Sơn” như còn phảng phất, vừa duyên dáng đầy nữ
tính trong những khúc lượn vòng mềm mại. Hành trình tìm kiếm của dòng sông
để đến với vẻ đẹp bình lặng “dịu dàng, trí tuệ” đã cho thấy sự mạnh mẽ của niềm
khát khao, của bản lĩnh kiên cường, giấu mình trong vẻ dịu dàng, duyên dáng của
người con gái bừng thức sức sống trẻ trung.
o Liên hệ: Đọc đoạn văn này, người yêu văn lại liên tưởng đến Nguyễn Tuân khi
miêu tả con sông Đà ở hạ lưu với những câu văn đẹp: “con sông Đà tuôn dài tuôn
dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc
bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương
xuân” hay dòng sông Đuống “Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì”
(Hoàng Cầm). Sông Hương của HPNT mang trong mình vẻ đẹp mềm mại, trữ tình,
đài các, sang trọng của con sông mang khuôn mặt kinh thành, con sông của riêng
đất trời xứ Huế.
- Vẻ đẹp mềm mại, thướt tha đầy biến ảo - Màu nước: “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”
+ Sớm xanh: trời quang mây tạnh, mặt sông phẳng lặng như gương, sắc trời lồng sắc nước
+ Trưa vàng: lộng lẫy sắc nắng miền Trung
+ Chiều tím: Sắc tím ấy phải chăng là sắc tím của những bông hoa lạ giữa dòng trong thơ
Thanh Hải
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc”
Hay đó là màu của hoa lục bình trong thơ của Lê Anh Xuân:
“Con sông nhỏ tuổi thơ ta tắm
Vẫn còn đây nước chẳng đổi dòng
Hoa lục bình tím cả bờ sông”
Có lẽ màu “tím” trong chữ “chiều tím” của Hoàng Phủ Ngọc Tường là tím Huế, sắc màu
đặc trưng của không gian Huế “mà chẳng nơi nào có được” – sắc của sương của khói.
-> Nếu sông Hương đổi sắc màu theo ngày thì sông Đà của Nguyễn Tuân lại đổi sắc màu
theo tháng trong năm. Mùa xuân nước sông Đà xanh màu “xanh ngọc bích” chứ không
“xanh màu canh hến của sông Gâm sông Lô”. Mỗi độ xuân về, nước sông lại “lừ lừ chín đỏ
như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa”.
-> Dòng sông như được phản chiếu những vẻ đẹp phong phú của cảnh sắc đôi bờ sông:
sông Hương đã góp nhặt sắc núi Ngọc Trản để đem đến cho mình màu “xanh thẳm”; sông
Hương hiền dịu lượn quanh những Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo để trở nên “mềm như
một tấm lụa”’ lấy ánh phản quang của những ngọn đồi “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”
để rực rỡ, kiêu sa.
➢ Biến hóa một cách “đỏng đảnh” nhưng tình tứ, như để tự làm đẹp, làm mới mình. Nàng
Hương ấy điệu đà mà chuẩn bị để đi gặp người tình trong mộng: nàng chuẩn bị cho mình
ba sắc áo nàng yêu thích nhất: xanh, vàng, tím để làm duyên, làm dáng với tình nhân.
Dòng sông thật yểu điệu trong con mắt của HPNT.
- Vẻ đẹp cổ kính hài hòa với cuộc sống hằng thường
+ Khi đi qua những rừng thông u tịch, những lăng tẩm kiêu hãnh, âm u, sông Hương thấm
vào lòng mình vẻ đẹp “ u tịch” của rừng thông, vẻ đẹp “trầm mặc” và niềm kiêu hãnh âm
u tỏa ra từ “giấc ngủ nghìn năm” của những vua chúa trong khu lăng tẩm Vạn Niên đồ sộ
-> Hàng loạt ấn tượng về “đám quần sơn”, về “những lăng tẩm đồ sộ”, “những rừng thông
u tịch” cùng “núi phủ, mây phong, mảnh trăng thiên cổ” - “Bốn bề núi phủ mây phong/
Mảnh trăng thiên cổ, bóng tùng Vạn Niên” quyện vào nhau. Từ ngữ chỉ đặc điểm của đối
tượng này cũng đồng thời ám gợi đặc điểm của đối tượng khác, tạo nên một vùng cảm
giác phức hợp soi chiếu vào nhau.
-> Đây là một kiểu biểu đạt rất thơ: trùng điệp, luyến láy và biến hóa; vừa tô đậm, xoáy
sâu, vừa tạo ra những vùng nhòe, mờ, mở rộng không gian và khả năng liên tưởng cho
người đọc.
-> Cái đẹp nhìn dưới góc độ văn hóa sâu thẳm
(Liên hệ: Nếu so sánh sông Hương như một bản trường ca thì có lẽ, sông Hương khi chảy
qua quãng này chính là những nốt trầm sâu lắng nhất của bản trường ca kia. Phải chăng,
chính vẻ trầm mặc đó của sông Hương, của xứ Huế đã khơi nguồn cảm xúc để những giai
điệu da diết ngân lên trong nhạc phẩm "Huế tình yêu của tôi":
“Đã đôi lần đến với Huế mộng mơ
Tôi ôm ấp một tình yêu dịu ngọt
Vẻ đẹp Huế chẳng nơi nào có được
Nét dịu dàng pha lẫn trầm tư.”
Cái tài của Hoàng Phủ Ngọc Tường thể hiện ở chỗ, từ một con sông chảy giữa tự nhiên,
giữa đời thường.. ông đã nhìn thấy thần thái của nó, rồi nảy một vài từ "trầm mặc nhất
của sông Hương, như triết lý, như cổ thi" – chính xác đến vô cùng để người đọc có thể
hình dung rõ ràng vẻ đẹp tinh tế ấy của dòng sông.)
+ Mang hơi thở cuộc sống với những thanh âm hằng thường: Dòng sông đã như bừng sáng
tươi tắn khi gặp mênh mang “tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia”, giữa
những “xóm làng trung du bát ngát tiếng gà”. Cái hư vô tịch mịch của tiếng chuông chùa
hòa quyện với chất thơ ấm áp của tiếng gà nơi thôn quê đã đưa dòng sông trôi đi giữa
mộng và thực, giữa đạo và đời, như thực như mơ…
-> Cái đẹp trẻ trung gần gũi của hiện tại
(Liên hệ: Đặt trong văn cảnh cả bài kí, ta có thể lý giải vẻ trầm mặc của dòng sông như
một chút lo lắng, bồn chồn của người con gái trước khi đối diện với người tình mong đợi.
Dòng sông – người con gái như băn khoăn trong lòng: Liệu đã tìm đúng đường về? Vậy
nên, vẻ trầm mặc ấy "kéo dài mãi đến lúc mặt nước phẳng lặng của nó gặp tiếng chuông
chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia, giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng
gà.." mới tiếp chuyển sang một trạng thái khác.)
Tiểu kết
+ Đoạn văn thể hiện sự tài hoa và am tường kiến thức địa lí cú HPNT qua bút pháp kể và tả
được kết hợp nhuần nhuyễn, cách sử dụng một loạt động từ diễn tả dòng chảy sống động qua
những địa danh khác nhau của Huế, phối cảnh hài hòa với thiên nhiên xứ Huế. Vẻ đẹp của
sông Hương chính là sự hắt bóng kì diệu vẻ đẹp của quần thể thiên nhiên mơ mộng xứ Huế.
+ Câu văn mang âm hưởng thơ, có sức luyến láy (nhờ những điệp từ, từ láy, so sánh, trùng
điệp) vừa gợi được dòng chảy miên man của dòng sông đoạn ở ngoại vi thành phố vừa gợi lên
cái hồn thẳm sâu của cảnh sắc và con người xứ Huế.
+ HPNT đã dõi theo hành trình của con sông với tất cả sự đam mê để khám phá vẻ đẹp phong
phú của nó: vừa mơ màng, vừa mạnh mẽ, khi bừng bừng sức trẻ lúc lại cổ kính, trầm mặc.
(Trong lòng thành phố) Từ đây, như đã tìm đúng đường về, sông Hương vui tươi hẳn lên giữa những
biền bãi xanh biếc của những vùng ngoại ô Kim Long, kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng
tân nam - đông bắc, phía đó, nơi cuối đường, nó đã nhìn thấy chiếc cầu trắng của thành phố in
ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non. Giáp mặt thành phố ở Cồn Giã Viên, sông
Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến; đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn
đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu. Và như vậy, giống như sông Xen của Pa-ri, sông
Đa-nuýp của Bu-đa-pét; sông Hương nằm ngay giữa lòng thành phố yêu quý của mình; Huế trong
tổng thể vẫn giữ nguyên dạng một đô thị cổ, trải dọc hai bờ sông. Đầu và cuối ngõ thành phố, những
nhánh sông đào mang nước sông Hương toả đi khắp phố thị, với những cây đa, cây cừa cổ thụ toả
vầng lá u sầm xuống những xóm thuyền xúm xít; từ những nơi ấy, vẫn lập loè trong đêm những ánh
lửa thuyền chài của một linh hồn mô tê xưa cũ mà không một thành phố hiện đại nào còn nhìn thấy
được. Những chi lưu ấy, cùng với hai hòn đảo nhỏ trên sông đã làm giảm hẳn lưu tốc của dòng nước,
khiến cho sông Hương khi qua thành phố đã trôi đi chậm, thực chậm, cơ đồ chỉ là một mặt hồ yên
tĩnh. Tôi đã đến Lê-nin-grát, có lúc đứng nhìn sông Nê-va cuốn trôi những đám băng lô xô, nhấp
nháy trăm màu dưới ánh sáng của mặt trời mùa xuân; mỗi phiến băng chở một con hải âu nghịch
ngợm đứng co lên một chân, thích thú với chiếc thuyền xinh đẹp của chúng; và đoàn tàu tốc hành lạ
lùng ấy với những hành khách tí hon của nó băng băng lướt qua trước cung điện Pê-téc-bua cũ để ra
bể Ban-tích. Tôi vừa từ trong khói lửa miền Nam đến đây, lâu năm xa Huế, và chính Lê-nin-grát đã
đánh thức trong tâm hồn tôi giấc mơ lộng lẫy của tuổi dại; ôi, tôi muốn hoá làm một con chim như
đứng co một chân trên con tàu thuỷ tinh để đi ra biển. Tôi cuống quýt vỗ tay, nhưng sông Nê-va đã
chảy nhanh quá, không kịp cho lũ hải âu nói một điều gì với người bạn của chúng đang ngẩn ngơ
trông theo. Hai nghìn năm trước, có một người Hi Lạp tên là Hê-ra-clít, đã khóc suốt đời vì những
dòng sông trôi đi quá nhanh, thế vậy! Lúc ấy, tôi nhớ lại con sông Hương của tôi, chợt thấy quý điệu
chảy lặng lờ của nó khi ngang qua thành phố... Đấy là điệu slow tình cảm dành riêng cho huế, có thể
cảm nhận được bằng thị giác trăm qua trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh vào những đêm hội rằm
tháng Bảy từ điện Hòn Chén trôi về, qua Huế bỗng ngập ngừng như muốn đi muốn ở, chao nhẹ trên
mặt nước như những vấn vương của một nỗi lòng.
Sông Hương khi chảy vào thành phố được tác giả miêu tả bằng một lối văn trữ tình, hướng
nội, độc đáo và tài hoa. Với cái nhìn tinh tế, đầy cảm xúc và đầy sáng tạo của nhà văn, dòng
sông Hương khi chảy vào thành phố Huế hiện lên với những đặc trưng riêng của nó mà
không có dòng sông nào có được.
- Tín hiệu gặp gỡ của sông Hương và Huế: Chiếc cầu trắng như vành trăng non
-> Một tín hiệu nên thơ, thân thuộc của riêng Huế như đang vẫy gọi, đang chờ đợi dòng
sông. Nếu nhà thơ Nguyễn Bính so sánh cầu Tràng Tiền như chiếc lược ngà “Cầu cong
như chiếc lược ngà/ Sông dài mái tóc cung Nga buông hờ” thì Hoàng Phủ Ngọc Tường lại
so sánh với vành trăng non – một hình ảnh so sánh độc đáo gợi ra vấn đề tinh khôi,
duyên dáng của cầu Tràng Tiền.
- Dáng sông
+ Nhân hóa: Sông Hương “vui tươi hẳn lên”, “kéo một nét thẳng thực yên tâm”
-> Cảm giác hạnh phúc bình yên của dòng sông khi tìm thấy chính mình, tìm thấy tình
yêu của mình khi về với thành phố mà thành phố ấy hình như chỉ dành riêng cho nó, tồn
tại vì nó, một thành phố luôn đợi chờ, luôn tin vào dòng sông thân yêu từ miền thăm
thẳm đại ngàn xa xôi.
-> Tác giả dùng cả tiếng nói tình tứ, thủy chung của một trái tim yêu để cảm nhận sự gắn
bó của dòng sông giống như người con gái mãi nặng lòng với Huế.
+ So sánh: “uốn một cánh cung rất nhẹ” sang đến Cồn Hến, đường cong này làm cho dòng
sông “mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu”, gợi nhớ đến cái lắc
đầu đầy nữ tính của người phụ nữ khi yêu trong thơ Xuân Quỳnh
“Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau”
Dòng sông lúc này như đã trở thành người tình nhân vừa biết phô khoe vẻ đẹp hình thể
của một dòng chảy nhiều uốn lượn như đường cong đầy nữ tính của người phụ nữ. Đồng
thời, qua đó cũng cho thấy vẻ đẹp dịu dàng,e lệ kín đáo của dòng Hương.
-> Phép so sánh thật ngọt ngào làm cho dòng sông giống như một cô gái dịu dàng, e ấp
mà vẫn lãng mạn, đắm say.
-> Kín đáo, ý nhị, trẻ trung
- Màu sắc: Màu sắc của dòng sông là màu “xanh thẳm” của chính nó, màu rực rỡ của trăm
nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh trong đêm hội trên sông, lung linh sắc màu phong phú
của cảnh vật bến bờ: từ những mảng phản quang nhiều màu sắc của núi đồi “sớm xanh,
trưa vàng, chiều tím” đến những “biền bãi xanh biếc của ngoại ô Kim Long”; từ màu
thanh khiết nõn nà của “chiếc cầu trắng in ngần trên nền trời”, nhỏ nhắn như những
vầng trăng non đến sắc “u trầm” của những vầng cổ thụ, ánh “lập lòe” của lửa thuyền
chài, rồi lại là màu xanh biếc của tre trúc, của cau thôn Vĩ Dạ cùng sắc “mơ màng sương
khói” của Cồn Hến…
-> Sông Hương đã hiện ra như một bức tranh tuyệt đẹp trong thành Huế với những nét vẽ
huyền ảo, những sắc màu thơ mộng.
-> Khung cảnh bên sông vừa gần gũi đời thường, vừa xa xăm miên viễn như cổ thi.
“Những cây đa, cay cừa cổ thụ tỏa vầng lá u sầm xuống những xóm thuyền xúm xít”.
Hình ảnh này khiến sông Hương vừa gần gũi với cuộc đời thường vừa có cái xa xăm của
Đường thi, gợi nhớ đến thơ Trương Kế: Giang phong ngư hỏa đối sầu miên (Cây phong bên
sông cùng ngọn lửa thuyền chài nhìn nhau trong giấc ngủ buồn)
-> Sông Hương với Huế như hòa vào làm một, mọi hình ảnh, sắc màu trên dòng sông đều
là sự phản chiếu của Huế.
- Điệu chảy
+ Âm hưởng, nhịp điệu của ngôn từ: nhịp điệu dòng chảy của sông Hương
o Những câu văn dài nối tiếp, với rất ít dấu ngắt và rất nhiều thanh bằng,
o Sự giãn cách trong nhịp trầm tư sâu lắng của những suy ngẫm, những liên tưởng
mênh mang trong không gian, thăm thẳm trong thời gian.
o Từ nhịp ngắt, các yếu tố điệp cho đến so sánh đều góp phần làm đậm thêm nhịp
chảy chậm rãi, yên ả của dòng sông
+ Địa lí:
o Dòng sông giảm lưu tốc, “một dòng sông trôi đi chậm, thực chậm, cơ hồ chỉ còn là
một mặt hồ yên tĩnh”
-> Tác giả dùng cả kiến thức địa lí để lí giải sự giảm lưu tốc của dòng chảy do sức
cản của hai hòn đảo nhỏ trên sông.
-> Phép điệp ngữ "chậm", "thực chậm" cùng với hình ảnh so sánh giàu sức gợi "mặt
hồ yên tĩnh" đã khắc họa một trong những vẻ đẹp riêng biệt của sông Hương là
dòng chảy yên bình, lặng lẽ.
(Bình luận: Không giống với sông Hương vùng thượng nguồn, lúc "rầm rộ giữa
bóng cây đại ngàn", lúc "mãnh liệt vượt qua ghềnh thác", khi "cuộn xoáy như cơn
lốc vào những đáy vực bí ẩn", sông Hương khi chảy qua thành phố Huế mang diện
mạo hoàn toàn khác. Điều đặc biệt là Hoàng phủ Ngọc Tường không lí giải quá sâu
đặc điểm này của sông Hương về mặt khoa học, mà qua cách thể hiện của mình,
ông đã mang đến cho người đọc một liên tưởng thú vị. Sở dĩ, dòng sông "dùng
dằng", "không chảy" bởi nó dành riêng cho Huế một tình cảm lắng sâu, đằm thắm.
Nó muốn neo lại thật lâu bên người tình mong đợi, người tình mà phải trải qua cả
một hành trình gian truân mới có thể tìm gặp, làm sao nỡ vội rời xa?)
o So sánh tương đồng: Điệu Slow tình cảm dành riêng cho Huế.
o So sánh tương phản: So sánh điệu chảy “băng băng” của sông Nê – va lúc xuân về
>< “điệu chảy lặng tờ” của dòng sông xứ Huế
-> Tình yêu thiên vị của tác giả với sông Hương, cho rằng chỉ dòng chảy êm lặng
ấy mới giúp con người cảm nhận được tâm hồn dịu dàng, đa cảm của một dòng
sông “ngập ngừng như muốn đi, muốn ở, chao nhẹ trên mặt nước như những vấn
vương của một nỗi lòng”.
➢ Dòng sông như một cô gái đang say đắm trong tình yêu, lưu luyến người tình mơ ước
trước lúc chia xa.
+ Dưới góc độ văn học: điệu chảy êm đềm của sông Hương trong thi ca muôn đời
o Hàn thi sĩ cảm nhận cái lững lờ trong dòng chảy của Hương Giang tựa như nỗi
buồn ngưng trệ của một con người đang cảm nhận sự sống dần buông lơi và dời xa
mình “Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay” (Đây thôn Vĩ Dạ).
o Thu Bồn đã hoá thân để cảm được cái chùng chình của dòng chảy như tâm trạng
người thương nửa đi nửa ở:
“Con sông dùng dằng, con sông không chảy
Sông chảy vào lòng, nên Huế rất sâu” (Thu Bồn)
o Tố Hữu tha thiết với dòng sông êm đềm như tha thiết với người thương:
“Hương Giang ơi dòng sông êm
Quả tim ta vẫn ngày đêm tự tình” (Tố Hữu)
+ Dưới góc độ khoa học: So sánh tương phản để chỉ ra sự khác biệt giữa “dòng chảy chậm,
thực chậm, cơ hồ như mặt hồ yên tĩnh” của Hương Giang với “đoàn tàu tốc hành băng
băng lao ra biển Ban tích” của dòng sông xứ người (sông Nê va mùa băng tan xứ tuyết)
-> thấy yêu thêm điệu chảy lặng lờ của sông Hương
+ Dưới góc độ triết học: Nhìn dòng chảy của dòng trôi mà thấy dòng đời. Đi xa để mong
được về gần, đến với những con sông xứ người để yêu thêm con sông xứ sở.
-> Phản chiếu cuộc sống của người Huế: vừa sống vừa lắng nghe, cảm nhận
- Âm thanh của chính dòng sông và cảnh sắc đôi bờ
+ Đó là âm thanh gợi cõi vô thường huyễn hoặc của “tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân
nga tận bờ bên kia”, âm thanh nồng ấm thân yêu của “những xóm làng trung du bát ngát
tiếng gà”, âm thanh không lời của một tình yêu e ấp, âm thanh của chính dòng sông được
ví như “người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”, “tiếng nước rơi bán âm”, tiếng “những mái
chèo khua đập nước”…; và chất nhạc đặc biệt được hiện ra trong những liên tưởng tới
“nền âm nhạc cổ điển Huế”– một giá trị văn hóa đặc sắc của cố đô, luôn gắn bó và làm
nên một phần linh hồn của dòng sông xứ Huế.
+ Những so sánh, nhân hóa đặc sắc, những liên tưởng mang đậm chất trữ tình khiến dòng
sông Hương hiện ra thủy chung và tình tứ giữa thành phố quê hương, vừa dịu dàng mềm
mại như một bức tranh lụa huyền ảo, vừa tha thiết đắm say như một bản nhạc êm đềm.
Tiểu kết:
Hoàng Phủ Ngọc Tường đã quyện hòa cả tâm hồn, trí tuệ và sự tài hoa trong ngòi bút để
tạo nên những so sánh liên tiếp, độc đáo kết hợp với những kiến giải bất ngờ cả về lí và
tình. Qua bàn tay của người nghệ sĩ tài ba, dòng sông Hương hiện lên với đầy đường nét
quyến rũ, sắc màu hài hòa, màu biêng biếc của hàng cau, bóng trúc, lung linh trong trăm
nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh trên sông và đặc biệt là cây cầu trắng in ngần trên nền
trời, nhỏ nhắn như một vầng trăng non. Những ánh hoa đăng bồng bềnh trôi trên sông
bỗng ngập ngừng như muốn đi, muốn ở, chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương
của một nỗi lòng. Phải là người yêu quê hương, yêu dòng sông Hương, yêu mảnh đất Huế
đến nhường nào thì HPNT mới viết lên được áng văn lay động lòng người đến vậy. Qua
cảm quan của người nhạc sĩ, HPNT đã cảm nhận sông Hương qua liên tưởng độc đáo và
thú vị. Sông Hương như một điệu nhạc tình cảm dành riêng cho Huế. Dòng sông chảy
chậm như điệu chảy lững lờ vì nó quá yêu thành phố Huế. Đó là tình cảm của sông
Hương dành cho thành phố Huế và cũng là tình cảm của tác giả dành cho dòng sông
Hương, cho mảnh đất cố đô này. Đôi mắt sâu sắc của nhà văn đã nhìn ra mối quan hệ
biện chứng giữa dòng sông Hương mềm mại với con người xứ Huế. Sông Hương dịu dàng,
duyên dáng như đã góp phần hình thành nên tính cách nết na, ý nhị của người con gái cố
đô.
(Dòng sông văn hóa - Âm nhạc) Hình như trong khoảnh khắc chùng lại của sông nước ấy, sông
Hương đã trở thành một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya. Đã nhiều lần tôi thất vọng khi nghe
nhạc Huế giữa ban ngày, hoặc trên sân khấu nhà hát. Quả đúng như vậy, toàn bộ nền âm nhạc cổ
điển Huế đã được sinh thành trên mặt nước của dòng sông này, trong một khoang thuyền nào đó,
giữa tiếng nước rơi bám âm của những mái chèo khuya. Nguyễn Du đã bao năm lênh đênh trên
quãng sông này, với một phiến trăng sầu. Và từ đó, những bản đàn đã đi suốt đời Kiều. Tôi đã chứng
kiến một người nghệ nhân già, chơi đàn hết nửa thế kỷ, một buổi tối ngồi nghe con gái đọc Kiều:
“Trong như tiếng hạc bay qua - Đục như tiếng suối mới sa nửa vời”... Đến câu ấy, người nghệ nhân
chợt nhổm dậy vỗ đùi, chỉ vào trang sách Nguyễn Du mà thốt lên: “Đó chính là Tứ đại cảnh!”.
- Không phải ngẫu nhiên mà “ca Huế” trên sông Hương lại được UNESCO công nhận là Di
sản văn hóa phi vật thể quốc gia, mà ở đó là “cả một nền âm nhạc cổ điển được hình
thành và phát triển song hành với những sinh hoạt âm nhạc cung đình từ đời các vua
chúa thời Nguyễn trải dài suốt mấy thế kỉ”. HPNT thật tài tình khi khắc họa sông Hương
như “một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”, một hình ảnh vừa thể hiện được vẻ đẹp
bí ẩn, âm vang của nàng Hương dưới cái khoảnh khắc trùng lại của vùng sông nước, vừa
thể hiện vẻ tài hoa, sâu lắng của mảnh đất cố đô và tâm hồn của con người cùng cuộc
sống nơi đây.
- Ai đã từng có dịp đến Huế thưởng thức nền âm nhạc Huế, được xem các nghệ sĩ biểu diễn
âm nhạc trên sông vào những đêm khuya mới thấy hết vẻ đẹp của âm nhạc và màu sắc
văn hoá đặc trưng ở nơi đây. Toàn bộ nền âm nhạc ấy, trong cảm nhận của tác giả, chỉ
thực sự là chính nó khi “sinh thành trên mặt nước” của Hương Giang “trong một khoang
thuyền nào đó, giữa những tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khuya". Ở đây có
cái thú vị, cái sắc điệu riêng trong cách trình diễn âm nhạc của người Huế nhưng cũng có
quy luật của nghệ thuật biểu diễn trên không gian sông nước. Trong Tì Bà hành, Bạch Cư
Dị đã từng viết :
“Thuyền mấy lá đông tây lặng ngắt
Một vầng trăng trong vắt lòng sông”
Nguyễn Du cũng đã từng miêu tả tiếng đàn của Thúy Kiều:
“Trong như tiếng hạc bay qua,
Đục như tiếng suối mới sa nửa vời”
Dẫn ra câu chuyện về một người nghệ nhân già chơi đàn hết nửa thế kỉ khi nghe người
con gái đọc câu thơ trên nhổm dậy vỗ đùi chỉ vào trang sách của Nguyễn Du mà thốt lên:
"Đó là Tứ đại cảnh". (“Tứ đại cảnh” là tên một bản nhạc cổ Huế, tương truyền do vua Tự
Đức sáng tác nói về 4 giai đoạn trong cuộc đời con người: Sinh – Lão – Bệnh – Tử. Vua Tự
Đức là vị vua giỏi thơ văn, chữ nghĩa nhất, được xếp vào trong 10 vị vua giỏi thơ văn của
nước nhà. Tuy các vì vua triều Nguyễn thiên về Nho học, nhưng đồng thời những ảnh
hưởng của Lão, Phật, truyền thống thờ Tổ tiên vẫn rất lớn đối với triều Nguyễn, thời gian
nhà Nguyễn trị vì, rất nhiều chùa chiền, đền miếu đã được lập hoặc trùng tu. Cho nên
vua Tự Đức làm thơ về triết lý Phật giáo tôi nghĩ cũng là bình thường).
➢ Một lần nữa, bằng ngòi bút tài hoa cộng với sự rung cảm mạnh mẽ hòa cùng tình yêu tha
thiết của tác giả, bóng dáng nàng Kiều năm nào dưới ngòi bút của đại thi hào Nguyễn Du
lại xuất hiện: “bao năm lênh đênh trên quãng sông này với một phiến trăng sầu. Và từ
đó, những bản đàn đã đi suốt đời Kiều”. Đây là một cách liên tưởng độc đáo, tài hoa đến
lạ kì nó mang đến cho người đọc những xao xuyến, bồi hồi thật khó lý giải.
➢ Sự liên tưởng độc đáo cho thấy vẻ đẹp sông Hương: đẹp trong dáng vẻ quyến rũ, gợi cảm;
đẹp trong tâm hồn vừa mạnh mẽ cá tính vừa dịu dàng, lắng sâu tài hoa.
(Rời xa kinh thành) Rời khỏi kinh thành, sông Hương chếch về hướng chính bắc, ôm lấy đảo Cồn Hến
quanh năm mơ màng trong sương khói, đang xa dần thành phố để lưu luyến ra đi giữa màu xanh
của tre trúc và của những vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ. Và rồi, như sực nhớ lại một điều gì chưa kịp
nói, nó đột ngột đổi dòng, rẽ ngoặt sang hướng đông tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn
Bao Vinh xưa cổ. Đối với Huế, nơi đây chính là chỗ chia tay dõi xa ngoài mười dặm trường đình.
Riêng với sông Hương, vốn đang xuôi chảy giữa cánh đồng phù sa êm ái của nó, khúc quanh này
thực bất ngờ biết bao. Có một cái gì rất lạ với tự nhiên và rất giống con người ở đây; và để nhân
cách hoá nó lên, tôi gọi đây là nỗi vương vấn, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu. Và giống như
nàng Kiều trong đêm tình tự, ở ngã rẽ này, sông Hương đã chí tình trở lại tìm Kim Trọng của nó, để
nói một lời thề trước khi về biển cả: “Còn non, còn nước, còn dài, còn về, còn nhớ...”. Lời thề ấy vang
vọng khắp lưu vực sông Hương thành giọng hò dân gian; ấy là tấm lòng người dân nơi Châu Hoá
xưa mãi mãi chung tình với quê hương Xứ Sở.
Sông Hương yêu Huế bằng tình yêu sâu đậm như vậy nên khi rời khỏi thành phố - rời xa tình
yêu của mình hòa vào biển lớn mênh mông dĩ nhiên sẽ lưu luyến khôn nguôi. Thực ra, tâm
trạng ấy là sản phẩm của trí tưởng tượng Hoàng Phủ Ngọc Tường. Còn trong tự nhiên, sông
Hương chảy về hướng chính bắc, qua đảo Cồn Hến, xuôi ngoại ô Vĩ Dạ rồi rẽ ngoặt sang
hướng đông tây, chạm thành phố ở góc thị trấn Bao Vinh rồi xuôi ra biển. Nếu chỉ dừng lại ở
cách miêu tả "thuần" miêu tả ấy, thì sông Hương đầu còn là dòng sông đắm say, mãnh liệt
như nó đã chảy từ đầu trang bút kí. Nhà văn đã không để sông Hương "ra đi" một cách nhạt
nhòa như thế. Ông một lần nữa tạo hồn cho sông Hương - tâm hồn của người con gái sâu
nặng ân tình.
- Dáng điệu
+ Một cái ôm thật chặt trước khi chia li: ôm lấy đảo Cồn Hến quanh năm mơ màng trong
sương khói
+ Sự ngập ngừng, không muốn rời đi: Trước khi xa dần thành phố, dòng sông đã lưu luyến
ra đi giữa màu xanh biếc của tre trúc và của những vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ với màu
nắng tinh khiết tinh khôi mà đã từng bước vào thơ Hàn Mặc Tử:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Dù vấn vương, dù lưu luyến không muốn rời xa nhưng đâu ai “tắm được hai lần trên một
dòng sông” – Hương giang phải chia tay thành phố thân yêu, người tình trong mộng của
mình.
- Hướng chảy
+ Nó đột ngột đổi dòng, rẽ ngoặt sang hướng đông tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc
thị trấn Bao Vinh xưa cổ.
(Bình luận: Khúc rẽ ngoặt ấy đơn giản chỉ là khúc cua lượn rất tự nhiên của bất cứ dòng
sông nào khi gặp chướng ngại giữa hành trình “Có bao giờ sông chảy thẳng đâu em/ Sống
lượn khúc, lượn dòng mà tới biển”. Ấy vậy mà Hoàng Phủ Ngọc Tường đã trao cho nó
trạng thái "giật mình", "đột ngột" để tạo hồn cho sông Hương. Chia tay mà còn có điều
chưa kịp nói thì sao có thể yên tâm rời đi? Nên người con gái sông Hương trở về gặp
thành phố tình yêu của nó lần cuối để trao gửi chút ân tình còn vương vấn. Và thị trấn
Bao Vinh nơi sông Hương gặp thành phố lần cuối ấy đã trở thành không gian lãng mạn
của tình yêu qua cảm nhận của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Điểm gặp cuối này giống như
giếng nước, gốc đa, sân đình của những chàng trai, cô gái trong ca dao xưa.
“Cây đa bến cũ năm xưa
Chữ tình ta cũng đón đưa trọn đời.”
“Hôm qua tát nước đầu đình
Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen…”)
+ Giống như cuộc chia li Kim – Kiều: hẹn thề “còn non, còn nước, còn dài, còn về, còn
nhớ”. Sự vương vấn, ngập ngừng đầy tình tứ của dòng sông lúc này được nhà văn gọi
thành “nỗi vương vấn, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu”. Lời thề ấy của dòng
Hương chung thủy để đến nay nó vẫn còn vang vọng khắp lưu vực sông thành điệu hò
dân gian dìu dặt: Nam ai, Nam bình, Mái nhì, Mái đẩy. Hay đó cũng là tấm lòng chung
tình của người dân Châu Hóa xưa mãi mãi chung tình với quê hương xứ sở, của HPNT với
xứ Huế yêu thương.
Tiểu kết:
+ Hoàng Phủ đã cảm nhận sông Hương qua lịch sử, địa lí, qua cả thơ ca, nhạc, hoạ.
+ Cái tôi nhà văn hiện lên rõ nét:
o Cái tôi vừa trực tiếp quan sát, miêu tả vừa hồi ức, liên tưởng, bày tỏ suy tưởng.
o Cái tôi uyên bác, tài hoa, mê đắm với cảnh sắc và linh hồn Huế: Tình yêu sâu
đậm, hiểu biết tường tận về dòng sông và lối tư duy sắc bén trong niềm xúc cảm
say mê, để rồi thăng hoa trong cảm hứng nghệ thuật:
“Sao thèm một điệu gì xưa lắm
Thèm đọc một đoạn văn Hoàng Phủ Ngọc Tường
Có ai đó rót chiều vào chén ngọc
Huế dịu dàng xây bằng khói và sương.” (Nguyễn Trọng Tạo)
“Nếu như chẳng có dòng Hương
Câu thơ xứ Huế Đánh rơi nữa chừng” (Huy Tập)
[Góc độ lịch sử]
[...] Hiển nhiên là sông Hương đã sống những thế kỷ quang vinh với nhiệm vụ lịch sử của nó, từ thuở
nó còn là một dòng sông biên thuỳ xa xôi của đất nước các vua Hùng. Trong sách địa dư của
Nguyễn Trãi, nó mang tên là Linh Giang, dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên
giới phía nam của Tổ quốc Đại Việt qua những thế kỉ trung đại. Thế kỉ mười tám, nó vẻ vang soi
bóng kinh thành Phú xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ; nó sống hết lịch sử bi tráng của thế kỉ
mười chín với máu của những cuộc khởi nghĩa, và từ đấy sông Hương đã đi vào thời đại Cách mạng
tháng Tám bằng những chiến công rung chuyển. Cùng với niềm cổ vũ nồng nhiệt dành cho nó trong
mùa xuân Mậu Thân, Huế đã nhận được những lời chia buồn sâu sắc nhất của thế giới về sự tàn
phá mà đế quốc Mĩ đã chụp lên những di sản văn hoá của nó. “Các trung tâm lớn của chúng ta về
lịch sử, văn hoá, học thuật và về chính quyền rất nhiều. Phải hiểu rằng Huế là một thành phố kết
hợp tất cả những cái đó, giống như các thành phố Luân Đôn, Pa-ri và Béc-lin... Một số trong các di
sản đó đã bị phá huỷ lúc Thành Nội Huế bị ném bom. Không thể so sánh sự mất mát này với sự mất
mát của một viện bảo tàng hay một thư viện ở Mỹ. Sự phá huỷ những di sản này cũng có tính chất
giống như sự mất mát xảy ra đối với nền văn minh châu Âu khi một số công trình của nền văn
minh Hy Lạp và La Mã cổ đại bị đổ nát vì các nhà thờ bị phá hoại”. Đó là sự đánh giá đầy phẫn nộ
của chính người Mỹ, Ra-pha-en Li-tao-ơ, Noóc-man U-phốp và nhóm giáo sư Đại học Coóc-nen,
trong một tác phẩm khoa học đầy mùi thuốc nổ và hoá chất độc mang tên Cuộc chiến tranh không
quân ở Đông Dương.
Tháng trước, tôi được dịp có mặt trong cuộc tiếp đón ở Thành uỷ Huế chào mừng đoàn đại biểu của
Hội nghị tổng kết chiến tranh, tại thành phố. Thay mặt Quân uỷ Trung ương, đồng chí Đại tướng
phát biểu: “Lịch sử Đảng đã ghi bằng nét son tên của thành phố Huế, thành phố tuy nhỏ nhưng đã
cống hiến rất xứng đáng cho Tổ quốc” ... Đồng chí nói, đầu cúi xuống ngực, hai bàn tay chắp lại
trong cử chỉ kính cẩn của người già mắt ngấn lệ; và người nghe, tất cả đều lặng đi trong cảm xúc
đột ngột của một lời thề.
(Lịch sử ngân vang) Sông Hương là vậy, là dòng sông của thời gian ngân vang, của sử thi viết giữa
màu cỏ lá xanh biếc. Khi nghe lời gọi, nó biết cách tự hiến đời mình làm một chiến công, để rồi nó
trở về với cuộc sống bình thường, làm một người con gái dịu dàng của đất nước. Thỉnh thoảng, tôi
vẫn còn gặp trong những ngày nắng đem ra phơi, một sắc áo cưới của Huế ngày xưa, rất xưa: màu
áo điều lục với loại vải vân thưa màu xanh chàm lồng lên một màu đỏ ở bên trong, tạo thành một
màu tím ẩn hiện, thấp thoáng theo bóng người, thuở ấy các cô dâu trẻ vẫn mặc sau tiết sương giáng.
Đấy cũng chính là màu của sương khói trên sông Hương, giống như tấm voan huyền ảo của thiên
nhiên, sau đó ẩn giấu khuôn mặt thực của dòng sông...
Hương giang không chỉ mang trong mình nét đẹp tự nhiên với những đường nét mềm mịn và
mượt mà, không riêng gì điển hình nổi bật trên nền văn hóa cổ kính, trì trệ dần mà còn khiến
tác giả ấn tượng can đảm và mạnh mẽ về bề dày lịch sử của nó. Dòng sông vừa là thiên anh
hùng ca hào tráng, lại vừa là khúc tình ca tươi mát, dịu dàng.
- Sông Hương là thiên anh hùng ca
+ Trong thời chiến, dòng sông anh hùng “tự biết hiến đời mình làm một chiến công”
o Từ xa xưa: dòng sông biên thuỳ xa xôi của đất nước các vua Hùng
o Thời Nguyễn Trãi: dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới
phía nam của Tổ quốc Đại Việt qua những thế kỉ trung đại
o Thời Nguyễn Huệ: nó vẻ vang soi bóng kinh thành Phú xuân
o Thế kỉ XIX: sống hết lịch sử bi tráng của thế kỉ mười chín với máu của những cuộc
khởi nghĩa
o Đi vào Cách mạng tháng Tám bằng những chiến công rung chuyển
o Thời chống Mĩ: kiên cường chịu đựng nỗi đâu của những mất mát không thể bù
đắp khi thành phố Huế bị bom Mĩ tàn phá, khi những di sản văn hóa bị hủy hoại
+ Hình ảnh liên tưởng: Sông Hương là “dòng sông của thời gian ngân vang”
-> Từng nhánh rẽ của dòng sông, đến “những cây đa, cây cừa cổ thụ” cũng mang một
phần lịch sử. Biết bao chiến công oanh liệt của lịch sử dân tộc đã giấu mình dưới dòng
chảy êm đềm, bình lặng của sông Hương. Sông Hương mang vẻ đẹp sử thi, như một chứng
nhân lịch sử, gắn liền với những chặng đường đau thương mà hào hùng của dân tộc.
-> Niềm tự hào sâu xa về lịch sử một dòng sông có cái tên mềm mại, dịu dàng nhưng kiên
cường, kiêu hãnh qua thăng trầm lịch sử. HPNT không chỉ điểm mà còn bình về lịch sử để
nhận thấy rằng trong hoàn cảnh nào khi nghe tiếng gọi của đất nước, sông Hương cũng
biết cách “tự hiến đời mình làm một chiến công”
+ Liên hệ
o HPNT không đặt sông Hương trong những biến cố lịch sử lớn lao mà khai thác vẻ
đẹp anh hùng của nó từ những sự kiện còn vang bóng trong tâm hồn mỗi người
con đất Huế - “sự kiện của tâm hồn”.
o Sông Đà được đặt trong biến thiên thăng trầm của bao triều đại để khẳng định
tính bất biến của nó còn sông Hương của HPNT lại đổi thay để gắn liền với sự
hưng thịnh, suy vong, nụ cười, nước mắt của thời đại.
- Sông Hương là khúc tình ca
+ Trong cuộc sống đời thường, sông Hương “làm một người con gái dịu dàng của đất
nước”, đó là phẩm chất ngàn đời của con người Việt Nam
“Lưng đeo gươm, tay mềm mại bút hoa”
“Đạp quân thù xuống đất đen
Súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa”
-> Sông Hương là sự hòa quyện giữa chất hùng tráng và trữ tình, là bản hùng ca mà cũng
là bản tình ca dịu dàng tươi mát, “là dòng sông của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc”.
(Bình luận: Phải chăng khi viết về những dòng sử thi giữa màu cỏ lá xanh biếc, nhà văn
đã nghe vọng về từ trong sâu thẳm câu hò Huế của Ưng Bình Thúc Dạ Thị mang chứa nỗi
niềm của con người vùng cố đô
“Chiều chiều trước bến Văn Lâu
Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm
Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông
Thuyền ai thấp thoáng trên sông,
Đưa câu mái đẩy chạnh lòng nước non.”)
+ Liên hệ: Đất nước Việt Nam có rất nhiều dòng sông chảy qua mọi miền xứ sở, và nó đã
kịp chảy vào trong những vần thơ, trang văn tuyệt vời. Bạn đọc từng xót xa với Hoàng
Cầm khi nghe tin sông Đuống bị quân thù chiếm đóng “Sông Đuống cuồn cuộn trôi/ Để
nó cuốn phăng ra bể/ Bao nhiêu đồn giặc tơi bời/ Bao nhiêu nước mắt/ Bao nhiêu mồ
hôi/Bao nhiêu bóng tối/ Bao nhiêu nỗi đời”. Công chúng yêu văn cũng đã chiêm ngưỡng
vẻ đẹp của một dòng sông Mã “gầm lên khúc độc hành” qua ngôn từ Phạm Tiến Duật. Giờ
chúng ta lại tìm đến với sông Hương – dòng sông chỉ tự thu mình khiêm tốn trong lãnh
địa Thừa Thiên Huế, nhưng qua những trang kí tài hoa của HPNT sông Hương hiện ra
với những vẻ đẹp dịu dàng, tinh tế, góp phần làm cho Huế trở nên một bức tranh sơn thuỷ
hữu tình.
[Góc độ văn hóa]
- Sông Hương gắn với những phong tục, nét đẹp tâm hồn của người dân xứ Huế: màu của
sương khói trên sông Hương, giống như màu áo điều lục, một sắc áo cưới của các cô dâu
trẻ trong tiết sương giáng.
(Dòng sông của thi ca) Có một dòng thi ca về sông Hương, và tôi hi vọng đã nhận xét một cách công
bằng về nó khi nói rằng dòng sông ấy không bao giờ tự lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ.
Mỗi nhà thơ đều có một khám phá riêng về nó: từ xanh biếc thường ngày, nó bỗng thay màu thực
bất ngờ, “Dòng sông trắng - lá cây xanh” trong cái nhìn tinh tế của Tản Đà, từ tha thướt mơ màng
nó chợt nhiên hùng tráng lên “như kiếm dựng trời xanh” trong khí phách của Cao Bá Quát; từ nỗi
quan hoài vạn cổ với bóng chiều bảng lảng trong hồn thơ Bà Huyện Thanh Quan, nó đột khởi thành
sức mạnh phục sinh của tâm hồn trong thơ Tố Hữu. Và ở đây, một lần nữa, sông Hương quả thực là
Kiều, rất Kiều, trong cái nhìn thắm thiết tình người của tác giả Từ ấy.
- Nhiều ý kiến cho rằng: Hoàng Phủ Ngọc Tường tuy không sinh ra ở Huế nhưng đã gắn bó
với mảnh đất này từ sớm nên ông ưu ái cho sông Hương với những cảm hứng, những
khám phá độc đáo là lẽ thường tình. Nhưng không, mỗi nhà thơ khi đặt chân đến Huế đều
có một khám phá riêng về dòng sông này, để nhận xét một cách công bằng thì “dòng sông
ấy không bao giờ tự lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ”.
- Bản thân sông Hương đã mang những vẻ đẹp phong phú, đầy biến ảo, luôn biết cách làm
mới mình, khơi gợi cảm hững vô tận cho các nghệ sĩ: khi là cô gái Di – gan phóng khoáng
và man dại, có lúc lại là người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở. Thời chiến, sông tự
hiến đời mình làm một chiến công, rồi lại trở về cuộc sống bình thường, làm một người
con gái dịu dàng của đất nước.
- Là vẻ đẹp tinh tế, mơ màng trong cái nhìn của Tản Đà “Dòng sông trắng lá cây xanh/
Xuân giang xuân thụ cho mình nhớ ai”.
- Là vẻ đẹp hùng tráng “như kiếm dựng trời xanh” trong thơ Cao Bá Quát.
- Là “nỗi quan hoài vạn cổ” trong thơ Bà huyện Thanh Quan
- Là vẻ đẹp “quả thực là Kiều, rất Kiều” trong cái nhìn thắm thiết tình người của tác giả
“Từ ấy”
“Cô gái thẫn thờ vê áo mỏng,
Nghiêng nghiêng vành nón dáng chờ ai
Ven bờ sông phẳng con đò mộng
Lả lướt đi về trong gió mai...” (Dửng dưng)
(Niềm trân trọng đã khiến một danh từ chỉ tên nhân vật trở thành tính từ để ngợi ca vẻ
đẹp đa đoan, say người của một dòng sông trong veo có thể thanh lọc tâm hồn con người
và cuốn đi tất cả những ô uế của cuộc đời)
+ Là sức mạnh phục sinh tâm hồn trong thơ Tố Hữu “Ngày mai bao lớp đời dơ/ Sẽ tan
như đám mây mờ đêm nay…”
+ Liên hệ
o Hàn Mặc Tử thì lại so sánh tôn vinh sông Hương như sông ngân hà: “Thuyền ai
đậu bến sông trăng đó/Có chở trăng về kịp tối nay”.
o Và với Nguyễn Trọng Tạo, Hương Giang lãng đãng một bầu khí quyển huyền thoại
thi ca giúp nhà thơ thăng hoa những vần mê đắm:
“Con sông đám cưới Huyền Trân
Bỏ quên dải lụa phù vân trên nguồn
Hèn chi thơm thảo nỗi buồn
Niềm riêng nhuộm tím hoàng hôn đến giờ
Con sông nửa thực nửa mơ
Nửa mong Lí Bạch, nửa chờ Khuất Nguyên”
➢ Nếu như đến với sông Đà, người sau kẻ trước không phân biệt ở lòng mến thương thì đến
với sông Hương, vẻ đẹp phong phú đầy biến ảo của sông Hương đã đem lại nguồn cảm
hứng bất tận, mới mẻ cho các thi nhân.
(Kết bài bút kí) Có một nhà thơ từ Hà Nội đã đến đây, tóc bạc trắng, lặng ngắm dòn “Dòng sông,
ném mẩu thuốc lá xuống chân cầu hỏi với trời, với đất, một câu thật bâng khuâng:
- Ai đã đặt tên cho dòng sông?
- Bài kí khép lại bằng một huyền thoại đẹp về tên gọi của dòng sông: Người làng Thành Trung
có nghề trồng rau thơm. Ở đây kể lại rằng vì yêu quý con sông xinh đẹp, nhân dân hai bờ
sông đã nấu nước của trăm loài hoa đổ xuống dòng sông cho làn nước thơm tho mãi mãi.
-> Huyền thoại ấy đã trả lời câu hỏi “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”. Sông Hương chính là
sông thơm. Con sông mang hương thơm quyến rũ của ngàn hoa, hương thơm thấm vào từng
thớ đất, đượm trong mỗi giọt nước.
- Đặt tiêu đề và kết thúc bằng câu hỏi “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”
-> Lưu ý người đọc về cái tên đẹp của dòng sông
-> Ca ngợi vẻ đẹp, chất thơ của dòng sông. Đó là vẻ đẹp còn mãi với thời gian: vĩnh hằng +
danh thơm muôn thuở.
(Bình luận: Đọc văn HPNT ta thấm thía ý nghĩa thâm trầm và ấm cúng trong một khúc đoạn
trường ca của Nguyễn Khoa Điềm:
“Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về đất nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền, vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”)
(Tóm tắt phần thứ hai : Những thành đại khảo cổ học cho biết, nằm dưới lòng đất làng Thành Trung
ngày nay, nơi ngã ba Sình, phía tả ngạn sông Hương, những di tích của thành cổ Hoá Châu được
xây dựng từ thời viễn cổ. Đây là một địa điểm có vị trí chiến lược quan trọng nơi biên giới phía Nam
của nước Việt cổ, từng chứng kiến nhiều chiến công chống xâm lược rất oanh liệt của nhân dân ta
qua nhiều triều đại phong kiến. Hoá ra sông Hương và thành phố Huế có cả một bề dày lịch sử hết
sức oai hùng.
Tóm tắt phần thứ ba : Người làng Thành Trung có nghề trồng rau thơm. Ở đây có một huyền thoại
kể rằng, vì yêu quý con sông xinh đẹp, nhân dân hai bờ sông Hương đã nấu nước của trăm loài hoa
đổ xuống dòng sông cho làn nước thơm tho mãi mãi.
Ai đã đặt tên cho dòng sông? Có lẽ huyền thoại trên đã giải đáp câu hỏi ấy chăng?)
- Tổng kết
+ Nội dung
o Bài kí là kết tinh và tổng hòa đẹp đẽ của một tình yêu say đắm đối với dòng sông quê
hương, đối với xứ sở và tài năng của một cây bút giàu tài năng, trí tuệ, am hiểu sâu
rộng về văn hóa, lịch sử, địa lí và văn chương cùng một sức liên tưởng, tưởng tượng
phong phú, độc đáo.
o Ngòi bút tài hoa của HPNT đã làm hiện lên những vẻ đẹp khác nhau của sông Hương,
chất thơ của cảnh sắc thiên nhiên xứ Huế, bề dày văn hóa của Huế và những nét đằm
thắm, duyên dáng riêng của tâm hồn con người đất cố đô.
+ Nghệ thuật
o Tác giả đã soi bằng tâm hồn mình và tình yêu quê hương xứ sở vào sông Hương khiến
đối tượng trở nên lung linh, đa dạng như đời sống tâm hồn con người.
o Sự liên tưởng, tưởng tượng phong phú cộng với sự uyên bác về các phương diện địa lí,
lịch sử, văn hóa, nghệ thuật đã tạo nên áng văn đặc sắc này.
o Ngôn ngữ phong phú, giàu hình ảnh, bộc lộ cảm xúc, sử dụng nhiều biện pháp tu từ
như so sánh, ẩn dụ, nhân hóa.
o Có sự kết hợp hài hòa giữa cảm xúc và trí tuệ, chủ quan và khách quan. Chủ quan là
sự trải nghiệm của bản thân. Khách quan là đối tượng miêu tả - dòng sông Hương.
+ So sánh, liên hệ: Nét độc đáo của kí Hoàng Phủ Ngọc Tường, khác với kí của các nhà văn
khác như Vũ Bằng hay Nguyễn Tuân
o Trong “Thương nhớ Mười Hai” - một tác phẩm tiêu biểu của Vũ Bằng, ta bắt gặp
những trang kí rất đỗi trữ tình, giàu chất thơ, hướng vào biểu hiện nội tâm, hướng vào
phong cảnh thiên nhiên bốn mùa xứ sở với những câu văn tràn đầy cảm xúc, cảm
giác tinh tế. Vũ Bằng chọn nghiêng mình tìm về đất Bắc với nỗi nhớ da diết của một
người con xa quê, ở tận bên kia “giới tuyến”. Như nhà văn Triệu Xuân đã từng ca ngợi:
“Viết về Hà Nội, viết về đất nước quê hương, không ai có thể hơn Vũ Bằng. Bởi Vũ
Bằng yêu Hà Nội, yêu đất nước quê hương khi ông đang sống ở Sài Gòn, cách Hà Nội
chưa đầy mười hai giờ bay mà vời vợi ngàn trùng. Nỗi nhớ ấy là tuyệt vọng!”
o Hay như Nguyễn Tuân với Hoàng Phủ Ngọc Tường - đều là những con người hết mực
uyên bác, tài hoa, có tình yêu lớn với cái đẹp, với quê hương đất nước - ta vẫn nhận
thấy sự khác biệt trong những áng văn của họ. Nếu như Nguyễn Tuân- cây bút viết kí
cự phách lôi cuốn người đọc bằng cái đẹp phi thường “đèo cao thác dữ”, “cuồng phong
bão táp” thì những trang kí của Hoàng Phủ lại gây ấn tượng bằng cái đẹp mơ mộng
dịu dàng như sông Hương, như cô gái Huế tình tứ mà kín đáo,e ấp.
-> Cứ thế Hoàng Phủ Ngọc Tường đã góp thêm cho kí Việt một tiếng nói rất riêng của
một nhà văn rất Huế.
Cái tôi của tác giả
- Một cái tôi tài hoa
+ Nói đến sự tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường, thiết nghĩ trước hết phải nói đến cách nhìn
nhận và phát hiện của nhà văn về vẻ đẹp của dòng sông. Ở đây, sông Hương không hiện lên
với một vẻ đẹp thuần nhất mà hiện ra trong những vẻ đẹp khác nhau và hết sức phong phú.
Mỗi vẻ đẹp lại đem đến một cảm nhận riêng thú vị cho độc giả. Chỉ riêng việc hình dung vẻ
đẹp của sông Hương như vẻ đẹp của người thiếu nữ, ta đã thấy ít nhất năm lần trong đoạn
trích này sông Hương mang những nét quyến rũ riêng: “cô gái Di – gan phóng khoáng và
man dại”; “người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại”; “người
tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”; giống như nàng Kiều trong đêm tình tự”; “người con gái dịu
dàng của đất nước”. Ngoài những“mệnh đề” đã được khái quát như thể chỉ dành riêng cho
sông Hương, các đoạn miêu tả dòng chảy uốn lượn của con sông đều đem đến cảm nhận về vẻ
đẹp gợi cảm, đáng yêu của người thiếu nữ.Khi thì giống như những đường cong trên thân thể
người con gái : “sông Hương đã chuyển dòng liên tục, vòng giữa những khúc quanh đột ngột,
uốn mình theo những đường cong thật mềm”; khi thì như tấm lụa mềm mại “dòng sông mềm
như tấm lụa”; có lúc lại giống cái dáng vẻ yêu kiều là tiếng nói dễ thương của người gái đẹp :
“sông Hương uốn một cánh cũng rất nhẹ sang đến Cồn Hến, đường cong ấy làm cho dòng
sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu”…
+ Có thể thấy, trí tưởng tượng phong phú và những liên tưởng mạnh mẽ đã cung cấp cho tác
giả những cách nhìn khác nhau về sông Hương. Không những thế, nó còn cung cấp nguyên
liệu cho những suy cảm của cái tôi trữ tình về con sông yêu dấu. Trong những suy cảm ấy,
không ít suy cảm sao mà đẹp, mà đầy chất thơ và độc đáo, cuốn hút đến lạ thường. Chẳng hạn
như khi cái tôi tác giả hình dung sông Hương ở thượng nguồn như “cô gái Di - gan phóng
khoáng và man dại”. Ai cũng biết những cô gái Di - gan hay Bô - hê- miêng là những người
thích sống lang thang, tự do và yêu ca hát. Họ mang trong mình vẻ đẹp nguyên sơ, bản năng,
tự nhiên đầy quyến rũ. Ví sông Hương như những cô gái Di - gan, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã
khắc vào tâm trí người đọc một ấn tượng mạnh về vẻ đẹp hoang dã nhưng cũng rất tình tứ
của con sông xứ Huế. Đặc biệt, trong cách nhìn và cách nghĩ về Hương giang, nhà văn rất
hay liên tưởng sông Hương với những trang Kiều Nguyễn Du. Chẳng hạn, ông đã nhìn thấy
sự tương đồng giữa những bức tranh phong cảnh trong truyện Kiều với khung cảnh thiên
nhiên hữu tình của Huế, của dòng sông Hương thơ mộng : “dòng sông đáy nước in trời và nội
cỏ thơm, nắng vàng khói biếc, nỗi u hoài của dương liễu và sắc đẹp nồng nàn của hoa trà mi,
những mùa thu quan san, những vầng trăng thắm thiết”. Ông đã thấy“sông Hương và thành
phố của nó” như hình ảnh “của cặp tình nhân lý tưởng của truyện Kiều”, như đôi tài tử giai
nhân Thúy Kiều – Kim Trọng “tìm kiếm và đuổi bắt, hào hoa và đam mê, thi ca và âm nhạc”.
Điều này, thậm chí, còn được lặp lại một lần nữa khi nhà văn tưởng tượng chỗ rẽ của dòng
sông để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ với “nỗi vương vấn” của
nàng Kiều “chí tình” trở lại tìm Kim Trọng “để nói một lời thề trước khi về biển cả”. Vậy đó,
địa thế của con sông, khúc đổi chiều của dòng nước đã được nhà văn hình dung như nỗi
niềm, tâm sự của con người, của Thúy Kiều trong trang sách của Nguyễn Du…
+ Sẽ thật là thiếu sót nếu nói đến sự tài hoa của cái tôi Hoàng Phủ Ngọc Tường mà không
nhắc đến vẻ đẹp của ngôn ngữ. Bởi văn học là nghệ thuật của ngôn từ. Chữ nghĩa chính là nơi
phô bày tất cả tài nghệ của nhà văn. Sự tinh xảo của nhà văn khi chạm khắc nên những
tượng đài nghệ thuật bằng ngôn từ phải nằm ở con chữ. Chính chữ chứ không phải là cái gì
khác sẽ “bầu” lên nhà văn, sẽ lưu danh nhà văn trong cuốn sổ vàng của nền văn học. Chẳng
thế mà những nghệ sĩ lớn thường hay trăn trở, sống chết với chữ nghĩa. Xưa, Đỗ Phủ, nhà thơ
Trung Quốc nổi tiếng đời Đường Từng nói : “Tự bất kinh nhân tử bất hưu”. Giả Đảo, một nhà
khác cũng từng phải thốt lên “Lưỡng cú tam niên đắc” (ba năm làm được hai câu thơ). Sau
này, nhà văn Nguyễn Tuân cũng từng tâm sự một cách chân thành và thấm thía : “Đêm
thanh vắng còn gì dễ sợ bằng trang giấy cứ trắng nguyên như thế cho tới gần hết đêm. Mà
canh này nối cành khác, đêm cứ trôi đều trên cái trắng bằng ấy[…]. Thấy nguyền rủa bè lũ
hình tượng chữ nghĩa nó hè nhau từ giã mình, mình bỗng chốc là kẻ cùng đường bên dòng
sông chữ quạnh vắng thê lương”. Còn nhà thơ Xuân Diệu thì phát biểu : “Một bài thơ phải tự
nó tuyên truyền cho nó, tác giả không cần phải giải thích thêm nữa, như thế mới là thơ hay.
Khi mình đứng bên cạnh người đọc thơ, thì mình còn giải thích được cho người đọc hiểu,chứ
lúc mình đi vắng ai giảng thơ mình ? Hơn nữa, lúc mình chết đi, thì ai bênh vực nó ? Thơ là
mực đen giấy trắng, phải làm thế nào cho những bài thơ của mình tự nó sống”. Cho nên, chỉ
có chữ nghĩa trong tác phẩm sẽ cho biết nhà văn định nói gì, là người thế nào, cả cái tâm lẫn
cái tài, cả hiện thực miêu tả và thái độ, tình cảm của ông ta trước hiện thực ấy.
+ Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng không phải là ngoại lệ. Sự tài hoa của cái tôi tác giả hiện hiện
rõ trên từng câu chữ. Ở đây, dường như có bao nhiêu góc nhìn, điểm nhìn về sông Hương thì
có bấy nhiêu kiểu chữ nghĩa được huy động để đặc tả cho thật ấn tượng, thật sắc, thật tinh
hình hài và tâm hồn của con sông xứ Huế. Thậm chí, từng đường đi nước bước của con sông
cũng được cái kho ngôn ngữ giàu có và tài hoa ấy làm cho thỏa mãn. Chẳng hạn như đoạn
nhà văn miêu tả con sông Hương ở thượng lưu : “rầm rộ giữa những bóng cây đại ngàn,
mãnh liệt qua những ghềnh thác,cuộn xoáy như những cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn, và
cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ
quyên rừng”. Hay như đoạn nhà văn miêu tả sông Hương rời khỏi vùng núi xuôi về đồng
bằng chuẩn bị vào lòng thành phố Huế : “qua điện Hòn Chén, vấp Ngọc Trản, nó chuyển
hướng sang tây bắc, vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quan rồi đột ngột vẽ một
hình cung thật tròn về phía đông bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ xuôi dần về Huế. Từ Tuần
về đây, sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn, vượt qua một lòng vực sâu dưới
chân núi Ngọc Trản để sắc nước trở nên xanh thẳm, và từ đó nó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng
sững như thành quách”. Đây là hai trong số những đoạn văn tiêu biểu trong bài kí. Chúng cho
thấy bút lực dồi dào của nhà văn. Đó là một lối hành văn uyển chuyển, ngôn từ đa dạng và
giàu hình ảnh. Từng từ, cụm từ, từng vế trong câu văn giống như một nét vẽ tài hoa của
người họa sĩ,một động tác chạm khắc tinh xảo của nhà điêu khắc mà sau mỗi đường cọ, mỗi
động tác nhào nặn, vẻ đẹp của sông Hương lại hiện ra một cách đặc sắc, đem đến cảm giác
bất ngờ, ngỡ ngàng cho người đọc. Bên những đoạn văn như thế, ta không khó để bắt gặp
trong thiên tùy bút này (mà ở đây mới chỉ là đoạn trích) những cách diễn đạt của một “phu
chữ”, của người đã cất công lựa chọn trong cái vốn ngôn ngữ toàn dân những từ, ngữ hay
nhất có thể, rồi tổ chức, sắp đặt chúng theo một lối riêng nhằm tạo ra những ý văn hay,
những câu văn đẹp. Chẳng hạn: “như đã tìm đúng đường về, sông Hương vui tươi hẳn lên
giữa những biền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long[…], nơi cuối đường, nó đã nhìn
thấy chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng
non. Giáp mặt thành phố ở Cồn Giã Viên, sông Hương uốn một cánh cũng rất nhẹ sang đến
Cồn Hến; đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng”không nói ra
của tình yêu”. Đó là chưa kể đến những ý văn đẹp như một ý thơ: “những xóm làng trung du
bát ngát tiếng gà”; “những vấn vương của một nỗi lòng”; “đảo Cồn Hến quanh năm mơ màng
trong sương khói”;… Có thể khẳng định đây không phải là lối diễn đạt thông thường của văn
xuôi, nhất là ở thể kí mà là những kiểu chữ nghĩa thường thấy trong thơ ca, thậm chí còn thơ
hơn nhiều bài thơ mà ta đã đọc đâu đó.
+ Nói đến tài hoa của cái tôi Hoàng Phủ Ngọc Tường về ngôn ngữ, cũng không nên quên các
thủ pháp nghệ thuật mà nhà văn đã sử dụng rất thành công. Tiêu biểu hơn cả là nhân hóa và
so sánh. Với nhân hóa, nhà văn đã thổi hồn vào sông Hương, biến con sông vô tri vô giác
thành một sinh thể có tính cách, có nỗi niềm, tâm trạng như con người. Con sông ấy lúc “rầm
rộ” và “mãnh liệt”, lúc “dịu dàng” và “say đắm”; khi thì “nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng
Châu Hóa đầy hoa dại”; khi thì “vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc của vùng
ngoại ô Kim Long”; khi là “người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”, khi “trở thành một
người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”…Không chỉ có thế, chính nhà văn trong bài kí này đã
giãi tỏ trực tiếp về cái thủ pháp nhân hóa mà mình sử dụng – cái thủ pháp mà dường như
ông không thể không dùng đến khi khám phá, phát hiện ra những vẻ đẹp bất ngờ, thú vị của
sông Hương : “Có một cái gì rất lạ với tự nhiên và rất giống con người ở đây; và để nhân cách
hóa nó lên, tôi gọi đấy là nỗi vương vấn, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu”. Có thể nói,
thủ pháp nhân hóa đã được nhà văn sử dụng rất hiệu quả trong bài kí. Nhờ nó mà hành trình
về xuôi của sông Hương đã trở thành hành trình tâm hồn của người con gái tìm đến người
tình mà nó mong đợi. Cũng nhờ thủ pháp ấy mà những kiến thức địa lý, lịch sử,văn hóa đã
được thăng hoa để trở thành những tri thức nghệ thuật đẹp về đất nước, con người, về dòng
sông yêu thương của Huế.
+ Bên cạnh thủ pháp nhân hóa, nhà văn cũng đã sử dụng rất thành công biện pháp so sánh.Ở
đây, so sánh được thực hiện trên cơ chế của liên tưởng, tưởng tượng mà trong bài kí này, sức
liên tưởng, tưởng tượng của nhân vật tôi là rất mạnh mẽ, với nhiều bất ngờ, thú vị. Chính
những liên tưởng ấy đã giúp nhà văn xây dựng được nhiều hình ảnh so sánh độc đáo, đưa đến
những cảm nhận mới mẻ, đặc sắc về sông Hương. Chẳng hạn, nhân vật tôi đã so sánh cái hữu
hình, hữu ảnh của dòng sông với cái vô hình, vô ảnh của cảm xúc nội tâm con người: “đường
cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu”.
Hay chỗ rẽ của sông Hương ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ được ví như “nỗi vương vấn, cả
một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu”… Chưa hết, bài kí còn có những hình ảnh so sánh đẹp
như một hình ảnh thơ : “chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như
những vành trăng non”. Đặc biệt, để làm nổi bật dòng chảy trôi lững lờ của sông Hương như
một “điệu slow tình cảm”, cái tôi trong bài kí đã so sánh bằng một hồi ức. Ấy là khi tác giả
đến Lê – nin - grát, đứng nhìn sông Nê - va băng băng lướt qua trước cung điện Pê -téc - bua
ra biển Ban - tích. So sánh này càng trở nên thú vị khi nhà văn đã gián tiếp đặc tả dòng chảy
rất nhanh của sông Nê - va qua hình ảnh của những chú hải âu đứng co một chân trên
những phiến băng mà không kịp nói điều gì với người bạn của chúng…
- Một cái tôi uyên bác, giàu tri thức về lịch sử, địa lý, văn hóa Huế
+ Ai đã đặt tên cho dòng sông ? là một bài bút kí. Tuy nó nghiêng nhiều hơn về phía tùy
bút,tức là thiên về chất trữ tình và sự phóng khoáng nhưng cái hồn cốt của thể loại không vì
thế mà mất đi. Bản chất của kí là ghi chép và người viết kí chính là thư kí trung thành nhất
của thời đại.Hoàng Phủ Ngọc Tường là một “thư kí” như thế, thậm chí còn là một “thư kí”
AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG.pdf
AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG.pdf

More Related Content

What's hot

CƠ SỞ NGÔN NGỮ HỌC VÀ TIẾNG VIỆT
CƠ SỞ NGÔN NGỮ HỌC VÀ TIẾNG VIỆT CƠ SỞ NGÔN NGỮ HỌC VÀ TIẾNG VIỆT
CƠ SỞ NGÔN NGỮ HỌC VÀ TIẾNG VIỆT nataliej4
 
Vai trò của nhà văn đối với đời sống văn học.
Vai trò của nhà văn đối với đời sống văn học.Vai trò của nhà văn đối với đời sống văn học.
Vai trò của nhà văn đối với đời sống văn học.Jackson Linh
 
ĐỀ TÀI HÌNH TƯỢNG MA NỮ TRONG TRUYỀN KỲ MẠN LỤC.pdf
ĐỀ TÀI HÌNH TƯỢNG MA NỮ TRONG TRUYỀN KỲ MẠN LỤC.pdfĐỀ TÀI HÌNH TƯỢNG MA NỮ TRONG TRUYỀN KỲ MẠN LỤC.pdf
ĐỀ TÀI HÌNH TƯỢNG MA NỮ TRONG TRUYỀN KỲ MẠN LỤC.pdfNuioKila
 
Ngôn ngữ văn chương
Ngôn ngữ văn chươngNgôn ngữ văn chương
Ngôn ngữ văn chươngChamcham239
 
Chng1ttnghchinh 121023115826-phpapp02
Chng1ttnghchinh 121023115826-phpapp02Chng1ttnghchinh 121023115826-phpapp02
Chng1ttnghchinh 121023115826-phpapp02Vũ Thanh
 
Phong Cách Thơ Haiku của Matsuo Basho, Yosa Buson và Kobayashi Issa
Phong Cách Thơ Haiku của Matsuo Basho, Yosa Buson và Kobayashi IssaPhong Cách Thơ Haiku của Matsuo Basho, Yosa Buson và Kobayashi Issa
Phong Cách Thơ Haiku của Matsuo Basho, Yosa Buson và Kobayashi IssaNguyễn Duy Bình
 

What's hot (20)

Luận văn: Văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Đàn hương hình, HAY
Luận văn: Văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Đàn hương hình, HAYLuận văn: Văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Đàn hương hình, HAY
Luận văn: Văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Đàn hương hình, HAY
 
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh ChâuLuận văn: Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu
 
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đLuận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
 
CƠ SỞ NGÔN NGỮ HỌC VÀ TIẾNG VIỆT
CƠ SỞ NGÔN NGỮ HỌC VÀ TIẾNG VIỆT CƠ SỞ NGÔN NGỮ HỌC VÀ TIẾNG VIỆT
CƠ SỞ NGÔN NGỮ HỌC VÀ TIẾNG VIỆT
 
Đề tài: Ứng xử vợ chồng của người Việt qua ca dao Nam bộ, HAY
Đề tài: Ứng xử vợ chồng của người Việt qua ca dao Nam bộ, HAYĐề tài: Ứng xử vợ chồng của người Việt qua ca dao Nam bộ, HAY
Đề tài: Ứng xử vợ chồng của người Việt qua ca dao Nam bộ, HAY
 
Vai trò của nhà văn đối với đời sống văn học.
Vai trò của nhà văn đối với đời sống văn học.Vai trò của nhà văn đối với đời sống văn học.
Vai trò của nhà văn đối với đời sống văn học.
 
Yếu tố văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Việt Nam (1986 - 2000)
Yếu tố văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Việt Nam (1986 - 2000)Yếu tố văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Việt Nam (1986 - 2000)
Yếu tố văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Việt Nam (1986 - 2000)
 
ĐỀ TÀI HÌNH TƯỢNG MA NỮ TRONG TRUYỀN KỲ MẠN LỤC.pdf
ĐỀ TÀI HÌNH TƯỢNG MA NỮ TRONG TRUYỀN KỲ MẠN LỤC.pdfĐỀ TÀI HÌNH TƯỢNG MA NỮ TRONG TRUYỀN KỲ MẠN LỤC.pdf
ĐỀ TÀI HÌNH TƯỢNG MA NỮ TRONG TRUYỀN KỲ MẠN LỤC.pdf
 
Luận văn: Thơ ngôn chí của tác giả nhà nho hành đạo nửa sau XIX
Luận văn: Thơ ngôn chí của tác giả nhà nho hành đạo nửa sau XIXLuận văn: Thơ ngôn chí của tác giả nhà nho hành đạo nửa sau XIX
Luận văn: Thơ ngôn chí của tác giả nhà nho hành đạo nửa sau XIX
 
Luận văn: Từ ngữ địa phương trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc
Luận văn: Từ ngữ địa phương trong tác phẩm của Bình Nguyên LộcLuận văn: Từ ngữ địa phương trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc
Luận văn: Từ ngữ địa phương trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc
 
Ngôn ngữ văn chương
Ngôn ngữ văn chươngNgôn ngữ văn chương
Ngôn ngữ văn chương
 
Luận án: Nghiên cứu một số truyện thơ của dân tộc Thái ở Việt Nam
Luận án: Nghiên cứu một số truyện thơ của dân tộc Thái ở Việt NamLuận án: Nghiên cứu một số truyện thơ của dân tộc Thái ở Việt Nam
Luận án: Nghiên cứu một số truyện thơ của dân tộc Thái ở Việt Nam
 
Luận văn: Biểu tượng nước và đá trong thơ Hồ Xuân Hương, 9đ
Luận văn: Biểu tượng nước và đá trong thơ Hồ Xuân Hương, 9đLuận văn: Biểu tượng nước và đá trong thơ Hồ Xuân Hương, 9đ
Luận văn: Biểu tượng nước và đá trong thơ Hồ Xuân Hương, 9đ
 
Luận văn: Bản sắc văn hóa Tây Nguyên trong văn xuôi H’Linh Niê
Luận văn: Bản sắc văn hóa Tây Nguyên trong văn xuôi H’Linh NiêLuận văn: Bản sắc văn hóa Tây Nguyên trong văn xuôi H’Linh Niê
Luận văn: Bản sắc văn hóa Tây Nguyên trong văn xuôi H’Linh Niê
 
Chng1ttnghchinh 121023115826-phpapp02
Chng1ttnghchinh 121023115826-phpapp02Chng1ttnghchinh 121023115826-phpapp02
Chng1ttnghchinh 121023115826-phpapp02
 
Phong Cách Thơ Haiku của Matsuo Basho, Yosa Buson và Kobayashi Issa
Phong Cách Thơ Haiku của Matsuo Basho, Yosa Buson và Kobayashi IssaPhong Cách Thơ Haiku của Matsuo Basho, Yosa Buson và Kobayashi Issa
Phong Cách Thơ Haiku của Matsuo Basho, Yosa Buson và Kobayashi Issa
 
Luận văn: Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từ góc nhìn thi pháp, HAY
Luận văn: Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từ góc nhìn thi pháp, HAYLuận văn: Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từ góc nhìn thi pháp, HAY
Luận văn: Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từ góc nhìn thi pháp, HAY
 
Khóa luận: Nhân vật nữ trong truyền thuyết dân gian người Việt, HAY
Khóa luận: Nhân vật nữ trong truyền thuyết dân gian người Việt, HAYKhóa luận: Nhân vật nữ trong truyền thuyết dân gian người Việt, HAY
Khóa luận: Nhân vật nữ trong truyền thuyết dân gian người Việt, HAY
 
Luận văn: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự, HOT
Luận văn: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự, HOTLuận văn: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự, HOT
Luận văn: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự, HOT
 
Ai đã đặt tên cho dòng sông
Ai đã đặt tên cho dòng sôngAi đã đặt tên cho dòng sông
Ai đã đặt tên cho dòng sông
 

Similar to AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG.pdf

Luan van (van) chuẩn cuối cungx 2
Luan van (van) chuẩn cuối cungx 2Luan van (van) chuẩn cuối cungx 2
Luan van (van) chuẩn cuối cungx 2hach nguyen phan
 
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdf
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdfNGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdf
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdfHanaTiti
 
Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại Chân Dung Và Phong Cách
Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại Chân Dung Và Phong Cách Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại Chân Dung Và Phong Cách
Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại Chân Dung Và Phong Cách nataliej4
 
Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại Chân Dung Và Phong Cách
Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại Chân Dung Và Phong Cách Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại Chân Dung Và Phong Cách
Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại Chân Dung Và Phong Cách nataliej4
 
Xuân diệu về tác gia và tác phẩm
Xuân diệu về tác gia và tác phẩmXuân diệu về tác gia và tác phẩm
Xuân diệu về tác gia và tác phẩmjackjohn45
 
Th s33.006 thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của vi hồng
Th s33.006 thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của vi hồngTh s33.006 thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của vi hồng
Th s33.006 thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của vi hồnghttps://www.facebook.com/garmentspace
 
Ngôn Ngữ Nghệ Thuật Trong Tiểu Thuyết Mười Lẻ Một Đêm Của Hồ Anh Thái.pdf
Ngôn Ngữ Nghệ Thuật Trong Tiểu Thuyết Mười Lẻ Một Đêm Của Hồ Anh Thái.pdfNgôn Ngữ Nghệ Thuật Trong Tiểu Thuyết Mười Lẻ Một Đêm Của Hồ Anh Thái.pdf
Ngôn Ngữ Nghệ Thuật Trong Tiểu Thuyết Mười Lẻ Một Đêm Của Hồ Anh Thái.pdfHanaTiti
 
AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG NÂNG CAO – Phần 1.pptx
AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG NÂNG CAO – Phần 1.pptxAI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG NÂNG CAO – Phần 1.pptx
AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG NÂNG CAO – Phần 1.pptxHunhNamKhnhV1
 
Skkn dạy tác phẩm văn học dân gian trong mối quan hệ với văn hóa dân gian
Skkn dạy tác phẩm văn học dân gian trong mối quan hệ với văn hóa dân gianSkkn dạy tác phẩm văn học dân gian trong mối quan hệ với văn hóa dân gian
Skkn dạy tác phẩm văn học dân gian trong mối quan hệ với văn hóa dân giannataliej4
 
PHÊ BÌNH NGHIÊN CỨU VĂN HỌC
PHÊ BÌNH NGHIÊN CỨU VĂN HỌC PHÊ BÌNH NGHIÊN CỨU VĂN HỌC
PHÊ BÌNH NGHIÊN CỨU VĂN HỌC nataliej4
 
BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI CHUYÊN SÂU MÔN NGỮ VĂN 7 DÙNG CHUNG 3 BỘ SÁCH NĂM 202...
BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI CHUYÊN SÂU MÔN NGỮ VĂN 7 DÙNG CHUNG 3 BỘ SÁCH NĂM 202...BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI CHUYÊN SÂU MÔN NGỮ VĂN 7 DÙNG CHUNG 3 BỘ SÁCH NĂM 202...
BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI CHUYÊN SÂU MÔN NGỮ VĂN 7 DÙNG CHUNG 3 BỘ SÁCH NĂM 202...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Tô Hoài.pdf
Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Tô Hoài.pdfNghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Tô Hoài.pdf
Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Tô Hoài.pdfHanaTiti
 
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdf
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdfNGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdf
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdfNuioKila
 
Tailieu.vncty.com the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_t...
Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_t...Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_t...
Tailieu.vncty.com the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_t...Trần Đức Anh
 

Similar to AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG.pdf (20)

Luan van (van) chuẩn cuối cungx 2
Luan van (van) chuẩn cuối cungx 2Luan van (van) chuẩn cuối cungx 2
Luan van (van) chuẩn cuối cungx 2
 
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdf
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdfNGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdf
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdf
 
Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại Chân Dung Và Phong Cách
Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại Chân Dung Và Phong Cách Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại Chân Dung Và Phong Cách
Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại Chân Dung Và Phong Cách
 
Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại Chân Dung Và Phong Cách
Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại Chân Dung Và Phong Cách Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại Chân Dung Và Phong Cách
Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại Chân Dung Và Phong Cách
 
Xuân diệu về tác gia và tác phẩm
Xuân diệu về tác gia và tác phẩmXuân diệu về tác gia và tác phẩm
Xuân diệu về tác gia và tác phẩm
 
Th s33.006 thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của vi hồng
Th s33.006 thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của vi hồngTh s33.006 thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của vi hồng
Th s33.006 thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của vi hồng
 
Ngôn Ngữ Nghệ Thuật Trong Tiểu Thuyết Mười Lẻ Một Đêm Của Hồ Anh Thái.pdf
Ngôn Ngữ Nghệ Thuật Trong Tiểu Thuyết Mười Lẻ Một Đêm Của Hồ Anh Thái.pdfNgôn Ngữ Nghệ Thuật Trong Tiểu Thuyết Mười Lẻ Một Đêm Của Hồ Anh Thái.pdf
Ngôn Ngữ Nghệ Thuật Trong Tiểu Thuyết Mười Lẻ Một Đêm Của Hồ Anh Thái.pdf
 
AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG NÂNG CAO – Phần 1.pptx
AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG NÂNG CAO – Phần 1.pptxAI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG NÂNG CAO – Phần 1.pptx
AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG NÂNG CAO – Phần 1.pptx
 
Skkn dạy tác phẩm văn học dân gian trong mối quan hệ với văn hóa dân gian
Skkn dạy tác phẩm văn học dân gian trong mối quan hệ với văn hóa dân gianSkkn dạy tác phẩm văn học dân gian trong mối quan hệ với văn hóa dân gian
Skkn dạy tác phẩm văn học dân gian trong mối quan hệ với văn hóa dân gian
 
PHÊ BÌNH NGHIÊN CỨU VĂN HỌC
PHÊ BÌNH NGHIÊN CỨU VĂN HỌC PHÊ BÌNH NGHIÊN CỨU VĂN HỌC
PHÊ BÌNH NGHIÊN CỨU VĂN HỌC
 
BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI CHUYÊN SÂU MÔN NGỮ VĂN 7 DÙNG CHUNG 3 BỘ SÁCH NĂM 202...
BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI CHUYÊN SÂU MÔN NGỮ VĂN 7 DÙNG CHUNG 3 BỘ SÁCH NĂM 202...BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI CHUYÊN SÂU MÔN NGỮ VĂN 7 DÙNG CHUNG 3 BỘ SÁCH NĂM 202...
BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI CHUYÊN SÂU MÔN NGỮ VĂN 7 DÙNG CHUNG 3 BỘ SÁCH NĂM 202...
 
Đề tài: Yếu tố văn hóa dân gian trong sáng tác của một số nhà thơ thuộc phong...
Đề tài: Yếu tố văn hóa dân gian trong sáng tác của một số nhà thơ thuộc phong...Đề tài: Yếu tố văn hóa dân gian trong sáng tác của một số nhà thơ thuộc phong...
Đề tài: Yếu tố văn hóa dân gian trong sáng tác của một số nhà thơ thuộc phong...
 
Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Tô Hoài.pdf
Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Tô Hoài.pdfNghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Tô Hoài.pdf
Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Tô Hoài.pdf
 
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdf
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdfNGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdf
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdf
 
Tailieu.vncty.com the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_t...
Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_t...Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_t...
Tailieu.vncty.com the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_t...
 
Ai đã đặt tên cho dòng sông
Ai đã đặt tên cho dòng sôngAi đã đặt tên cho dòng sông
Ai đã đặt tên cho dòng sông
 
Luận văn: Đặc điểm truyện ngắn Lưu Trọng Lư, HAY, 9đ
Luận văn: Đặc điểm truyện ngắn Lưu Trọng Lư, HAY, 9đLuận văn: Đặc điểm truyện ngắn Lưu Trọng Lư, HAY, 9đ
Luận văn: Đặc điểm truyện ngắn Lưu Trọng Lư, HAY, 9đ
 
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ ngành lý luận văn học, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ ngành lý luận văn học, HAY, 9 ĐIỂMBÀI MẪU Luận văn thạc sĩ ngành lý luận văn học, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ ngành lý luận văn học, HAY, 9 ĐIỂM
 
Chân dung nph.docyyy
Chân dung nph.docyyyChân dung nph.docyyy
Chân dung nph.docyyy
 
Lele
LeleLele
Lele
 

Recently uploaded

PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANG
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANGPHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANG
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANGhoinnhgtctat
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docxTHAO316680
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfVyTng986513
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfTrnHoa46
 
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxpowerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxAnAn97022
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoámyvh40253
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdfTrnHoa46
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (20)

PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANG
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANGPHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANG
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANG
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
 
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxpowerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 

AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG.pdf

  • 1. AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG? - HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG – I. Tác giả 1. Tiểu sử, cuộc đời - Hoàng Phủ Ngọc Tường sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937, tại thành phố Huế, nhưng quê gốc lại ở làng Bích Khê, xã Triệu Long, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. - Thời niên thiếu ông sinh sống và học tập tại Huế. Sau khi học hết bậc trung học, ông di chuyển vào TP HCM để học tại trường Đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1960, ông tốt nghiệp khóa I ban Việt Hán trường Đại học Sư phạm Sài Gòn. - Sau đó ông quay trở lại Huế và tiếp tục sự nghiệp học hành của mình tại trường Đại học Văn khoa Huế. Năm 1964, ông chính thức tốt nghiệp và nhận bằng Cử nhân triết tại ngôi trường này. - Trong khoảng thời gian từ năm 1960 – 1966,ông dạy tại trường Quốc Học Huế và tham gia rất tích cực vào các phong trào học sinh, sinh viên và giáo chức chống Mĩ – Ngụy đòi độc lập, thống nhất Tổ quốc. - Năm 1966 – 1975, Hoàng Phủ Ngọc Tường tình nguyện thoát ly gia đình và di chuyển lên các chiến khu để góp sức vào cuộc kháng chiến chống Mỹ bằng các hoạt động cách mạng trên mặt trận văn nghệ. - Ông viết văn và viết báo từ khi còn rất trẻ nhưng đến năm 1978 ông mới kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam. -> Hoàng Phủ Ngọc Tường rất am hiểu về thiên nhiên, lịch sử, văn hóa và con người nơi đây. Bởi vậy, những trang viết của ông luôn gắn với vùng đất Huế ruột thịt và chứa đựng những giá trị thẩm mỹ đặc biệt. “Bút ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường là một cuộc đi tìm cội nguồn, một sự phát hiện bề dày văn hoá và lịch sử của các điều kiện đời sống… Văn anh giàu những tư liệu lấy từ sử sách tri thức khoa học
  • 2. và huyền thoại kí ức cá nhân loé lên những ánh sáng bất ngờ… Cái mới của Hoàng Phủ Ngọc Tường là khám phá bình diện văn hoá với tư liệu lịch sử phong phú và một tâm hồn Huế nồng nàn”. (Trần Đình Sử) 2. Sự nghiệp văn chương - Hoàng Phủ Ngọc Tường là một nhà văn vô cùng tài hoa, là nhà văn chuyên viết bút kí với phong cách nghệ thuật độc đáo. - Nét đặc sắc trong sáng tác của ông là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và chất trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức phong phú về triết học, văn hóa, lịch sử, địa lý, phong tục tập quán, … . Tất cả được thể hiện qua lối liên tưởng phóng khoáng, lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm và tài hoa. “Hoàng Phủ Ngọc Tường có một phong cách viết bút kí văn học của riêng mình. Thế mạnh của ông là tri thức văn học, triết học, lịch sử hay địa lý… sâu và rộng, gần như đụng đến vấn đề gì, ở thời điểm nào và ở đâu thì ông vẫn có thể tung hoành thoải mái ngòi bút được”. “Dù là viết lịch sử đã xảy ra cách nay hàng ngàn năm, từ thuở Âu Cơ và Lạc Long Quân, từ thời của các vua Hùng dựng nước và mở cõi, hay viết về không gian đa chiều trong nghệ thuật tạo hình hiện đại của nghệ sĩ Lê Bá Đảng ở bên Pháp thì cái rốn của tư duy, cái trằn trọc trong tâm tưởng và tâm hồn nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường bao giờ cũng dồn vào tình yêu đất nước, tình yêu dân tộc” (Hoàng Cát) - Những sáng tác của ông hấp dẫn người đọc ở lối hành văn hướng nội, súc tích và tấm lòng nhân văn sâu sắc, trí tuệ uyên bác cùng chất Huế quyến rũ. - Ngoài thể loại bút kí, Hoàng Phủ Ngọc Tường còn sáng tác thơ. Thơ của ông cũng được rất nhiều yêu thích nhờ có nhiều nét đặc sắc trong sáng tác. Các tập thơ của ông đều mang vẻ đẹp của nỗi buồn hoài niệm cùng những suy ngẫm về lẽ sống, cái chết,... có ảnh hưởng rất sâu sắc đến tâm hồn người đọc. - Hoàng Phủ Ngọc Tường được biết đến như là một nhà văn của những dòng sông và sự nghiệp văn chương của ông cũng giống như là một dòng sông vậy, luôn chăm chỉ , miệt mài sáng tác không nghỉ ngơi để đóng góp cho đời những áng văn thơ hay.
  • 3. 2. Tác phẩm 1. Xuất xứ - “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” là bài bút kí xuất sắc, viết tại Huế, ngày 4/1/1981, in trong tập sách cùng tên. - Bối cảnh ra đời: Sau ngày đại thắng mùa xuân 1975, văn học giai đoạn 1976 – 1986 phát triển trong âm vang của một khí thế chống giặc hào hùng, rất sôi nổi, rộn rã, nó như còn đang hừng hực một bầu khí quyển trong lành của kỉ nguyên “độc lập, tự do”. Đó là nguyên do để trong bút kí này HPNT phủ đầy yếu tố lịch sử cũng như tình yêu quê hương, đất nước tha thiết của ông về Huế. - Bài bút kí có ba phần: + Phần một nói về cảnh quan thiên nhiên của sông Hương + Phần 2 và 3 là phương diện lịch sử và văn hóa của sông Hương - Đoạn trích này nằm ở phần một cộng với lời kết của tác phẩm. 2. Thể loại (Bút kí) - Bút kí là “một thể loại thuộc nhóm thể tài kí nhằm ghi lại sự việc, con người, cảnh vật… mà nhà văn mắt thấy tai nghe, thường là trong một chuyến đi, một lần tìm hiểu nào đó […] không sử dụng hư cấu vào việc phản ánh hiện thực, có những nhận xét, suy nghĩ, liên tưởng, nhưng ít phóng túng triền miên, mà tập trung thể hiện một tư tưởng chủ đạo nhất định” - Đó là sự “kết hợp linh hoạt các phương thức tự sự, trữ tình, chính luận với các thao tác tư duy khoa học”. Trong một tác phẩm kí, có những ghi chép, tường thuật về cảnh, vật, việc và con người với vai trò nhân vật, “thổi sức sống” cho tác phẩm (phương thức tự sự); tác phẩm kí thể hiện một cảm quan nghệ thuật về hiện thực của tác giả, bày tỏ những suy nghiệm chủ quan của tác giả về đối tượng ghi chép, thể hiện một nhận thức về giá trị nhân sinh (phương thức trữ tình và chính luận); bên cạnh đó, tác phẩm kí còn chứa đựng nhưng thông tin, tri thức ở nhiều lĩnh vực (văn hoá, xã hội, lịch sử, địa lí,…) xoay quanh đối tượng ghi chép (tính khoa học).
  • 4. - Tác giả “hoá thân” thành một nhân vật trong tác phẩm, giữ vai trò tự thuật, trò chuyện với các nhân vật khác, trình bày các sự kiện bằng việc sử dụng cảm quan nghệ thuật để quan sát, liên tưởng và tưởng tượng, bộc lộ những ấn tượng, ý kiến, tình cảm của mình, dẫn người đọc tiếp cận đối tượng ghi chép theo một hướng nào đó, tạo ra sự thống nhất các phần trong bài kí. “Kí là sự soi sáng cuộc sống bằng bó đuốc của những hiểu biết, tư tưởng, tình cảm của tác giả” và qua tác phẩm kí người đọc cảm nhận được cái tôi của tác giả. - Hoàng Phủ Ngọc Tường với kí: Trong những gương mặt viết kí tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại, HPNT nổi lên như một hiện tượng đáng chú ý với một phong cách viết vừa trữ tình, lãng mạn, vừa thâm trầm, triết lí đồng thời cũng rất độc đáo, tài hoa. Ông đã được ghi nhận là một “cây kí” độc đáo của văn học Việt Nam hiện đại. Trong sự nghiệp sáng tác của ông, mảng sáng tác thuộc thể loại kí có vai trò quan trọng, có nhiều thành công đáng kể. Sáng tác của ông mang đậm bản sắc riêng, thể hiện phong cách nghệ thuật khá đặc sắc…. Chính vì thế, những trang kí phẩm HPNT thực sự đã khẳng định được giá trị của mình theo thời gian, gây được sự chú ý cho công chúng và những nhà phê bình, nghiên cứu văn học. 3. Ý nghĩa nhan đề - Mượn câu hỏi bâng khuâng của một nhà thơ từ Hà Nội vào: Ai đã đặt tên cho dòng sông? -> Lưu ý người đọc về cội nguồn tên gọi của dòng sông: sông hương, sông thơm -> Tâm thế một người luôn khao khát kiếm tìm cái đẹp dưới lớp trầm tích văn hóa lịch sử -> Tâm hồn luôn biết xao xuyến trước cái đẹp của quê hương đất nước - Cả bài tùy bút dường như là cuộc hành trình kiếm tìm câu trả lời cho câu hỏi đầy khắc khoải “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”. Và cuộc tìm kiếm, lí giải cái tên của dòng sông đã trở thành cuộc kiếm tìm đầy hào hứng và say mê không chỉ vẻ đẹp diện mạo, hình hài mà còn là độ lắng sâu của tâm hồn và lớp trầm tích văn hóa.
  • 5. - Con sôn xứ Huế hiện lên trong cuộc tìm kiếm của HPNT đã không chỉ là con sông địa lí mà là một sinh thể, một con người “sông Hương quả thực là Kiều, rất Kiều” vừa xinh đẹp, vừa tài hoa, vừa thăng trầm chìm nổi cùng lịch sử lại vừa đằm thắm lắng sâu với nền văn hóa riêng của nó. * Kí ức về “dòng sông” trong nhà văn Nói đến Hoàng Phủ Ngọc Tường, ta nhớ ngay đến một nhà văn của những dòng sông. Chính ông đã chia sẻ rằng “Những dòng sông luôn mang lại cảm xúc sáng tác cho tôi, đã nuôi dưỡng tâm hồn cho tôi, đã nuôi dưỡng tâm hồn văn học tối từ nhỏ cho đến bây giờ là mãi mãi sau này”. Nhà văn kể lại tuổi thơ của mình: “Ngoài những giờ lên lớp, mỗi ngày tôi đều cùng với nhóm bạn học, ngày nào không ra sông lại thấy hụt hẫng như thiếu một điều gì đó”. Ông khẳng định rằng, chính sông Hương đã nuôi mạch văn chương trong con người ông, giúp những mạch máu ấy lan tỏa và sống mãi cho đến hôm nay: “Những kỷ niệm thời ấu thơ như những đêm nghe ca Huế dù đã cách nay hơn nửa thế kỷ nhưng tôi vẫn không quên. Ngày đó những đêm ca Huế không sân khấu đèn màu, không micro, người nghe ngồi bệt dưới nền đất để thưởng thức âm nhạc... Những kỷ niệm dung dị đó đã ám ảnh suốt những năm tháng tôi xa sông Hương sau này, để bài ký đầu tiên trong cuộc đời sáng tác của tôi là con sông quê hương”. Chính vì lẽ đó, mà suốt những năm cuối đời, dù phải nằm trên giường bệnh những nhà văn vẫn ngóng xa xăm, rồi trầm tư: “Mười ba năm nay, nhờ có những dòng sông trong ký ức, nên dù phải ngồi một chỗ nhưng tâm hồn tôi lúc nào cũng hướng ra bên ngoài, vui cùng cuộc sống. Bảy cuốn bút ký viết trên giường bệnh của tôi có đóng góp lớn nhờ hoài niệm về những dòng sông. Mỗi khi mệt mỏi chực gục ngã, tôi lại thúc mình phải vươn lên như những đợt sóng vỗ mãi không mỏi”. Yêu những dòng sông đến hơi thở cuối cùng, nên trong sự nghiệp cầm bút của mình, hầu hết mọi trang hoa thơm thảo của Hoàng Phủ Ngọc Tường để lại cho đời, luôn lấp lánh hình ảnh dòng sông. Nhờ đi nhiều, chiêm nghiệm nhiều, nên ông đặc biệt quan tâm đến những dòng sông khắp mọi miền Tổ quốc và cả những dòng sông nổi tiếng trên thế giới, để thấy quê mình vẫn là đẹp nhất. Đó cũng là nguyên do để mở đầu bài ký, nhà văn khẳng định: “Trong những dòng sông đẹp ở các nước mà tôi thường nghe nói đến hình như chỉ sông Hương là thuộc về một thành phố duy nhất”. Điều đó có nghĩa là sông Hương đã gắn liền với không gian - địa lý, văn hóa, lịch sử của một thành phố duy nhất: đó chính là mảnh đất cố đô Huế thân yêu. Nếu tách riêng sông Hương ra khỏi thành phố Huế thì nó chỉ còn là một dòng nước chảy giữa đôi bờ vô tri vô giác. Và cũng trong lời mở đầu nồng nàn
  • 6. ấy, nhà văn đã đặt vị trí của sông Hương ngang bằng với những dòng sông đẹp” khác trên thế giới - nhưng trên hết tác giả khẳng định điều đặc biệt chỉ có ở nàng Hương “là dòng sông thuộc về một thành phố duy nhất”. Lời khẳng định ấy cũng chính là niềm tự hào của tác giả về dòng sông quê hương - dòng thi ca đất mẹ, và đây cũng chính là điểm nhìn nghệ thuật độc đáo của bài kí qua cái nhìn tinh tế của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Cảm hứng về dòng sông trong thi ca Các dòng sông và đặc biệt là sông Hương đã trở thành niềm thương, nỗi nhớ trong lòng của không ít nhà văn, nhà thơ từ xưa đến nay: “Đò trôi rời bến một chiều Sông Hương đau thắt tim yêu bao ngày Gió xào xạc khóc trên cây Cầu Tràng Tiền nghẹn vơi đầy nhớ thương” (Nỗi buồn sông Hương) “Sông Hương nước chảy lững lờ Đôi bờ rủ bóng mộng mơ ảo huyền Xuôi dòng ngắm cảnh du thuyền Ta như lạc cõi thần tiên phiêu bồng” (Hò thuyền sông Hương) “Thủa nước non đến hồi non nước Sông Hương đành xuôi ngược đông tây […] Sông Hương hỡi, xuân vừa tơ liễu Cả trăm hoa hàm tiếu nhởn nhơ” (Đêm khuya tự tình với sông Hương – Hàn Mặc Tử) => Có thể thấy, Sông Hương không phải lần đầu tiên đi vào các trang thơ, trang văn thế nhưng với mỗi người nghệ sĩ, hình ảnh sông Hương lại được khám phá với những góc nhìn riêng, vẻ đẹp riêng.
  • 7. [Góc độ địa lí] (Thượng nguồn) [...] Trong những dòng sông đẹp ở các nước mà tôi thường nghe nói đến, hình như chỉ sông Hương là thuộc về một thành phố duy nhất. Trước khi về đến vùng châu thổ êm đềm, nó là một bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn, và cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng. Giữa lòng Trường Sơn, sông Hương đã sống một nửa cuộc đời của mình như một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại. Rừng già đã hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng. Nhưng chính rừng già nơi đây, với cấu trúc đặc biệt có thể lý giải được về mặt khoa học, đã chế ngự sức mạnh bản năng ở người con gái của mình để khi ra khỏi rừng, sông Hương nhanh chóng mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hoá xứ sở. Nếu chỉ mải mê nhìn ngắm khuôn mặt kinh thành của nó, tôi nghĩ rằng người ta sẽ không hiểu một cách đầy đủ bản chất của sông Hương với cuộc hành trình gian truân mà nó đã vượt qua, không hiểu thấu phần tâm hồn sâu thẳm của nó mà dòng sông hình như không muốn bộc lộ, đã đóng kín lại ở mọi cửa rừng và ném chìa khoá trong những hang đá dưới chân núi Kim Phụng. Trong tâm thức của mỗi người, dù có đi qua trăm núi, ngàn sông, thì dòng sông quê Hương vẫn luôn là dòng nhớ, dòng thương vô tận. Với tình yêu sâu nặng dành cho con sông xứ sở, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã nhìn dòng sông bằng cái nhìn đầy ưu ái, có chút "thiên vị" trong câu văn đầu tiên của bài bút kí. Nhà văn chẳng ngại ngần khi xếp sông Hương ngang hàng cùng những dòng sông đẹp trên thế giới. Không những vậy, sông Hương còn thuộc về duy nhất thành phố Huế. Đó là điểm riêng biệt của dòng Hương: Tạo hóa sinh ra sông Hương là để dành riêng cho thành phố Huế. - Nhận xét mang đậm tính chủ quan: Trong những dòng sông đẹp ở các nước mà tôi thường nghe nói đến, hình như chỉ sông Hương là thuộc về một thành phố duy nhất. (Bình luận: Không phải ngẫu nhiên Hoàng Phủ Ngọc Tường trong suốt bài kí này đã nhất quán trong việc khắc họa con sông như đã đi cùng Huế bằng cả một mối tình trọn vẹn, nhìn sông Hương và Huế như một cặp tình nhân lí tưởng, gắn bó với nhau trong một tình yêu muôn thuở: “Nếu như chẳng có dòng Hương/ Câu thơ xứ Huế nửa đường đánh rơi” (Nếu như chẳng có sông Hương – Huy Tập)) -> Cảm giác sở hữu đầy thương mến dành cho dòng sông quê hương -> Niềm tự hào sâu sắc khi mặc nhiên đặt sông Hương ngang hàng với những dòng sông đẹp trên thế giới -> Niềm kiêu hãnh khi khẳng định sự độc đáo của dòng sông quê hương (Liên hệ: Cũng giống như HPNT, Nguyễn Tuân – người nghệ sĩ luôn khát khao kiếm tìm cái đẹp độc đáo trên hành trình sáng tác nghệ thuật cũng đã khám phá ra nét riêng biệt chỉ riêng sông Đà mới có “Chúng thủy giai đông tẩu/ Đà giang độc bắc lưu”) - Đặt dòng sông trong mối quan hệ với dãy Trường Sơn xa xôi
  • 8. -> Khao khát ngược dòng không gian, tìm về cội nguồn của rừng đại ngàn, khám phá những vẻ đẹp bí ẩn, những sức mạnh tiềm tàng được đóng kín trong “phần tâm hồn sâu thẳm” của dòng sông trước khi nó về tới Huế. -> Nhà văn đã thể hiện những cảm hứng khám phá, cắt nghĩa và lí giải trong cái nhìn sâu sắc về cội nguồn – và đó cũng là một cảm hứng quen thuộc của tình yêu. - Như bản trường ca của rừng già (Bình luận: Để mang đến cái nhìn trọn vẹn hơn về dòng sông xứ sở, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã "lội" ngược dòng sông Hương để tìm về khúc thượng nguồn của nó, rồi đắm say, mê mẩn, tạc nó vào trang văn như tạc một bức họa tuyệt mĩ. Nếu con sông Đà của Nguyễn Tuân hiện lên dữ dội qua những câu văn có kết cấu điệp trùng như “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò Sông Đà nào tóm được qua đấy” thì con sông Hương của HPNT lại hiện lên với những câu văn tạo ra âm hưởng hùng tráng rất riêng cho bản trường ca rầm rộ của rừng già.) + Bản hùng ca tráng lệ o Giữa đại ngàn, sông Hương hiện lên như một "bản trường ca của rừng già". "Trường ca" là định danh chỉ áng thơ hay bản nhạc có dung lượng lớn và mang âm hưởng hùng tráng. Khi được dùng để so sánh với sông Hương, câu văn đã mang đến những liên tưởng thú vị, tạo ấn tượng về dòng sông Hương khúc thượng nguồn với vẻ đẹp kì vĩ, tráng lệ. Nó hiện lên với chiều dài chiều rộng hùng vĩ và dòng chảy cuộn trào mãnh liệt. Không những vậy, khi chảy giữa "rừng già" bí ẩn, dòng sông còn mang trên mình vẻ đẹp của sự hoang dại, nguyên sơ. -> Sông Hương hiện ra với cả chiều dài rộng hùng vĩ và dòng chảy mạnh liệt trong sự ngưỡng mộ và niềm say mê của nhà văn. o Dòng sông chảy qua dãy Trường Sơn đã nhận vào dòng chảy của nó tất cả những sắc thái phong phú, đa dạng của rừng già khi "rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn", khi "mãnh liệt qua những ghềnh thác", khi "cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn",... -> Câu văn dài với nhiều vế ngắt liên tiếp đã gợi dậy cái dư vang của trường ca, cái âm thầm của rừng già. -> Các danh từ cho thấy sự hoang sơ, bí ẩn, phép điệp cấu trúc cùng những động từ, tính từ rất giàu sắc thái biểu cảm như tái hiện âm hưởng hung tráng, mạnh mẽ của con sông giữa những cánh rừng đại ngàn. ➢ Dòng sông chảy qua dãy Trường Sơn đã nhận vào dòng chảy nó tất cả những sắc thái phong phú đa dạng của rừng già. ➢ Dòng sông với những lớp sóng hung hãn cuộn trào bởi sự tiếp sức của thác ghềnh sóng gió, những xoáy hút dữ dội tiềm ẩn nỗi kinh hoàng của vực sâu – trạng thái dữ dội như Đà giang, nhưng không khiến người ta thấy gai ghê. + Bản tình ca say đắm: khi lại "dịu dàng say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng"…
  • 9. -> Mang trong mình những miên man da diết của cỏ cây hoa lá nơi rừng đại ngàn. ➢ Cách miêu tả uyển chuyển tài hoa thông qua những hình ảnh đối lập giúp nhà văn làm hiện lên hình ảnh dòng sông Hương nơi thượng nguồn với đồng thời cả sức mạnh và vẻ đẹp; vừa tràn đầy sức mạnh hoang sơ, man dại, vừa khơi gợi những bí ẩn say mê, vừa ngời sáng vẻ đẹp rực rỡ, kiêu sa. - Phép nhân hóa + Như một cô gái Di – gan “phóng khoáng và man dại", "bản lĩnh gan dạ", "tâm hồn tự do và trong sáng", cái mạnh mẽ phóng khoáng của một bộ tộc yêu thích cuộc sống tự do lang thang nay đây mai đó được gắn cho dòng chảy hoang dã khiến sông Hương nơi thượng nguồn càng trở nên quyến rũ đắm say. + Mang sắc đẹp dịu dàng, trí tuệ của người mẹ phù sa; đã đóng kín lại một phần tâm hồn sâu thẳm, mãnh liệt (ném chìa khóa trong những hang đá dưới chân núi Kim Phượng). -> Nhà văn lý giải sự tương phản của sông Hương ở hai khúc thượng lưu và hạ lưu, không phải bằng những kiến thức địa lý thông thường. Trong cái nhìn suy tư của nhà văn, sông Hương như một người con gái vốn mang sức mạnh hoang dã của rừng già nay đã được chế ngự để nhanh chóng tạo cho mình một "sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ" khi về đến Huế. Trong cảm nhận của nhà văn, sông Hương khi về tới Huế đã hoàn toàn trở thành người mẹ phù sa của "một vùng văn hóa xứ sở" - những thét gào man dại, những phóng túng tự do nay đằm lắng trong sự bồi đắp dịu dàng, thương mến của đồng bằng châu thổ. Những hình ảnh phong phú, ấn tượng, những liên tưởng tài hoa và thủ pháp nhân hóa đặc sắc đã làm hiện lên dòng sông Hương khúc thượng nguồn với vẻ đẹp của một sức sống mãnh liệt đầy cá tính, qua đó cho thấy cách cảm nhận suy tư có bề sâu trí tuệ của nhà văn. -> Vẻ đẹp dịu dàng như bến đỗ bình yên sau những thác ghềnh bão táp; sự bản lĩnh, trí tuệ của người từng trải muốn giấu kín gian truân sóng gió trong vẻ êm đềm bình, bình lặng; vẻ đẹp kín đáo bí ẩn của cô gái muốn giấu kín một phần đời riêng tư giữa đại ngàn trước khi đi tìm người tình mong đợi, đi gặp thành phố tương lai của mình. Tiểu kết + Với những hình ảnh phong phú, ấn tượng, những liên tưởng tài hoa và thủ pháp nhân hóa đặc sắc, HPNT đã trao cho sông Hương tâm hồn, tính cách, vẻ đẹp của một người con gái cá tính, hoang dại mà vẫn tiềm ẩn sự dịu dàng, sâu lắng, trí tuệ. + Cái tôi tác giả: say mê, khám phá, cảm nhận lãng mạn và bề sâu trí tuệ. Là nhà văn nặng lòng với Huế, gắn bó với dòng sông từ thuở còn thơ, hơn ai hết, Hoàng Phủ Ngọc Tường hiểu từng ngóc ngách của dòng sông, ông không muốn người đọc hay bất kì ai tò mò về sông Hương, mà nhìn nhận nó ở một góc độ nên ông đã trực tiếp đưa quan điểm của mình vào để thức tỉnh người đọc: “Nếu chỉ mải mê ngắm nhìn khuôn mặt kinh thành, tôi nghĩ rằng người ta sẽ không hiểu một cách đầy đủ bản chất của sông Hương với cuộc hành trình gian truân mà nó đã trải qua”. (Ngoại vi) Phải nhiều thế kỉ qua đi, người tình mong đợi mới đến đánh thức người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa đồng Châu Hoá đầy hoa dại. Nhưng ngay từ đầu vừa ra khỏi vùng núi, sông Hương
  • 10. đã chuyển dòng một cách liên tục, vòng giữa khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm, như một cuộc tìm kiếm có ý thức để đi tới nơi gặp thành phố tương lai của nó. Từ ngã ba Tuần, sông Hương theo hướng nam bắc qua điện Hòn Chén; vấp Ngọc Trản, nó chuyển hướng sang tây bắc, vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán rồi đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về phía đông bắc, ôm lấy chân đồi thiên Mụ, xuôi dần về Huế. Từ Tuần về đây, sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn, vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản sắc nước trở nên xanh thẳm, và từ đó nó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách, với những điểm cao đột ngột như Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo mà từ đó, người ta luôn luôn nhìn thấy dòng sông mềm như tấm lụa, với những chiếc thuyền xuôi ngược chỉ bé vừa bằng con thoi. Những ngọn đồi này tạo nên những mảng phản quang nhiều màu sắc trên nền trời tây nam thành phố, “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” như người Huế thường miêu tả. Giữa đám quần sơn lô xô ấy, là giấc ngủ nghìn năm của những vua chúa được phong kín trong lòng những rừng thông u tịch và niềm kiêu hãnh âm u của những lăng tẩm đồ sộ toả lan khắp cả một vùng thượng lưu “Bốn bề núi phủ mây phong - Mảnh trăng thiên cổ bóng tùng Vạn Niên”. Đó là vẻ đẹp trầm mặc nhất của sông Hương, như triết lí, như cổ thi, kéo dài mãi đến lúc mặt nước phẳng lặng của nó gặp tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia, giữa những sớm làng trung du bát ngát tiếng gà... Đây là chặng đường rất đáng nhớ, chuẩn bị tiền đề cho một thay đổi lớn: sông Hương từ “cô gái Di – gan phóng khoáng và man dại” trở thành “người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”. - Vẻ đẹp của dòng chảy uyển chuyển, sống động, gợi cảm + So sánh + Nhân hóa: sông Hương như “người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa đồng Châu Hoá đầy hoa dại” chờ “người tình mong đợi” đến đánh thức. -> Vẻ đẹp duyên dáng, yêu kiều, dịu dàng, e ấp của một cô gái đẹp mong chờ một tình yêu lãng mãn, cổ tích. + Bắt đầu chuyển dòng một cách liên tục: Nam bắc – tây bắc – đông bắc, rồi xuôi dần về Huế. (Bình luận: Vậy vì sao mà con sông phải chuyển dòng liên tục, có phải chăng HPNT muốn nói rằng cuộc tìm kiếm một người tình trong mộng là không hề dễ dàng, có thể đôi bàn chân phải bôn ba trên khắp các nẻo đường như dân gian đã từng viết : “Anh đến tìm hoa Thì hoa đã nở Anh đến tìm đò Thì đò đã sang sông Anh đến tìm em thì em đã lấy chồng” Và sông Hương trong cuộc hành trình tìm kiếm người yêu đích thực của mình cũng vậy. Nó phải Chuyển dòng một cách liên tục, vòng những khúc quanh đột ngột thì mới gặp được Huế.) -> Trong cái nhìn tình tứ và lãng mạn của nhà văn, dòng chảy miên man của nhà văn, dòng chảy miên man của sông Hương từ thượng nguồn về tới Huế giống như một “cuộc
  • 11. tìm kiếm có ý thức” người tình đích thực của cô gái đẹp trong một câu chuyện cổ tích về tình yêu. Trong thủy trình gian truân ấy, người con gái sông Hương có cơ hội khoe tất cả những vẻ đẹp của mình, từ đường cong tuyệt mĩ trên thân hình kiều diễm đến những khao khát, đắm say trong tâm hồn. + Dáng sông: “Chuyển dòng một cách liên tục, vòng những khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm, rồi đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về phía đông – bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ”; “vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản sắc nước trở nên xanh thẳm, và từ đó nó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách”. o Những câu văn dài nối tiếp nhau làm nên dòng chảy miên man vừa mạnh mẽ với “những dư vang của Trường Sơn” như còn phảng phất, vừa duyên dáng đầy nữ tính trong những khúc lượn vòng mềm mại. Hành trình tìm kiếm của dòng sông để đến với vẻ đẹp bình lặng “dịu dàng, trí tuệ” đã cho thấy sự mạnh mẽ của niềm khát khao, của bản lĩnh kiên cường, giấu mình trong vẻ dịu dàng, duyên dáng của người con gái bừng thức sức sống trẻ trung. o Liên hệ: Đọc đoạn văn này, người yêu văn lại liên tưởng đến Nguyễn Tuân khi miêu tả con sông Đà ở hạ lưu với những câu văn đẹp: “con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân” hay dòng sông Đuống “Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì” (Hoàng Cầm). Sông Hương của HPNT mang trong mình vẻ đẹp mềm mại, trữ tình, đài các, sang trọng của con sông mang khuôn mặt kinh thành, con sông của riêng đất trời xứ Huế. - Vẻ đẹp mềm mại, thướt tha đầy biến ảo - Màu nước: “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” + Sớm xanh: trời quang mây tạnh, mặt sông phẳng lặng như gương, sắc trời lồng sắc nước + Trưa vàng: lộng lẫy sắc nắng miền Trung + Chiều tím: Sắc tím ấy phải chăng là sắc tím của những bông hoa lạ giữa dòng trong thơ Thanh Hải “Mọc giữa dòng sông xanh Một bông hoa tím biếc” Hay đó là màu của hoa lục bình trong thơ của Lê Anh Xuân: “Con sông nhỏ tuổi thơ ta tắm Vẫn còn đây nước chẳng đổi dòng Hoa lục bình tím cả bờ sông” Có lẽ màu “tím” trong chữ “chiều tím” của Hoàng Phủ Ngọc Tường là tím Huế, sắc màu đặc trưng của không gian Huế “mà chẳng nơi nào có được” – sắc của sương của khói. -> Nếu sông Hương đổi sắc màu theo ngày thì sông Đà của Nguyễn Tuân lại đổi sắc màu theo tháng trong năm. Mùa xuân nước sông Đà xanh màu “xanh ngọc bích” chứ không “xanh màu canh hến của sông Gâm sông Lô”. Mỗi độ xuân về, nước sông lại “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa”.
  • 12. -> Dòng sông như được phản chiếu những vẻ đẹp phong phú của cảnh sắc đôi bờ sông: sông Hương đã góp nhặt sắc núi Ngọc Trản để đem đến cho mình màu “xanh thẳm”; sông Hương hiền dịu lượn quanh những Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo để trở nên “mềm như một tấm lụa”’ lấy ánh phản quang của những ngọn đồi “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” để rực rỡ, kiêu sa. ➢ Biến hóa một cách “đỏng đảnh” nhưng tình tứ, như để tự làm đẹp, làm mới mình. Nàng Hương ấy điệu đà mà chuẩn bị để đi gặp người tình trong mộng: nàng chuẩn bị cho mình ba sắc áo nàng yêu thích nhất: xanh, vàng, tím để làm duyên, làm dáng với tình nhân. Dòng sông thật yểu điệu trong con mắt của HPNT. - Vẻ đẹp cổ kính hài hòa với cuộc sống hằng thường + Khi đi qua những rừng thông u tịch, những lăng tẩm kiêu hãnh, âm u, sông Hương thấm vào lòng mình vẻ đẹp “ u tịch” của rừng thông, vẻ đẹp “trầm mặc” và niềm kiêu hãnh âm u tỏa ra từ “giấc ngủ nghìn năm” của những vua chúa trong khu lăng tẩm Vạn Niên đồ sộ -> Hàng loạt ấn tượng về “đám quần sơn”, về “những lăng tẩm đồ sộ”, “những rừng thông u tịch” cùng “núi phủ, mây phong, mảnh trăng thiên cổ” - “Bốn bề núi phủ mây phong/ Mảnh trăng thiên cổ, bóng tùng Vạn Niên” quyện vào nhau. Từ ngữ chỉ đặc điểm của đối tượng này cũng đồng thời ám gợi đặc điểm của đối tượng khác, tạo nên một vùng cảm giác phức hợp soi chiếu vào nhau. -> Đây là một kiểu biểu đạt rất thơ: trùng điệp, luyến láy và biến hóa; vừa tô đậm, xoáy sâu, vừa tạo ra những vùng nhòe, mờ, mở rộng không gian và khả năng liên tưởng cho người đọc. -> Cái đẹp nhìn dưới góc độ văn hóa sâu thẳm (Liên hệ: Nếu so sánh sông Hương như một bản trường ca thì có lẽ, sông Hương khi chảy qua quãng này chính là những nốt trầm sâu lắng nhất của bản trường ca kia. Phải chăng, chính vẻ trầm mặc đó của sông Hương, của xứ Huế đã khơi nguồn cảm xúc để những giai điệu da diết ngân lên trong nhạc phẩm "Huế tình yêu của tôi": “Đã đôi lần đến với Huế mộng mơ Tôi ôm ấp một tình yêu dịu ngọt Vẻ đẹp Huế chẳng nơi nào có được Nét dịu dàng pha lẫn trầm tư.” Cái tài của Hoàng Phủ Ngọc Tường thể hiện ở chỗ, từ một con sông chảy giữa tự nhiên, giữa đời thường.. ông đã nhìn thấy thần thái của nó, rồi nảy một vài từ "trầm mặc nhất của sông Hương, như triết lý, như cổ thi" – chính xác đến vô cùng để người đọc có thể hình dung rõ ràng vẻ đẹp tinh tế ấy của dòng sông.) + Mang hơi thở cuộc sống với những thanh âm hằng thường: Dòng sông đã như bừng sáng tươi tắn khi gặp mênh mang “tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia”, giữa những “xóm làng trung du bát ngát tiếng gà”. Cái hư vô tịch mịch của tiếng chuông chùa hòa quyện với chất thơ ấm áp của tiếng gà nơi thôn quê đã đưa dòng sông trôi đi giữa mộng và thực, giữa đạo và đời, như thực như mơ… -> Cái đẹp trẻ trung gần gũi của hiện tại
  • 13. (Liên hệ: Đặt trong văn cảnh cả bài kí, ta có thể lý giải vẻ trầm mặc của dòng sông như một chút lo lắng, bồn chồn của người con gái trước khi đối diện với người tình mong đợi. Dòng sông – người con gái như băn khoăn trong lòng: Liệu đã tìm đúng đường về? Vậy nên, vẻ trầm mặc ấy "kéo dài mãi đến lúc mặt nước phẳng lặng của nó gặp tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia, giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà.." mới tiếp chuyển sang một trạng thái khác.) Tiểu kết + Đoạn văn thể hiện sự tài hoa và am tường kiến thức địa lí cú HPNT qua bút pháp kể và tả được kết hợp nhuần nhuyễn, cách sử dụng một loạt động từ diễn tả dòng chảy sống động qua những địa danh khác nhau của Huế, phối cảnh hài hòa với thiên nhiên xứ Huế. Vẻ đẹp của sông Hương chính là sự hắt bóng kì diệu vẻ đẹp của quần thể thiên nhiên mơ mộng xứ Huế. + Câu văn mang âm hưởng thơ, có sức luyến láy (nhờ những điệp từ, từ láy, so sánh, trùng điệp) vừa gợi được dòng chảy miên man của dòng sông đoạn ở ngoại vi thành phố vừa gợi lên cái hồn thẳm sâu của cảnh sắc và con người xứ Huế. + HPNT đã dõi theo hành trình của con sông với tất cả sự đam mê để khám phá vẻ đẹp phong phú của nó: vừa mơ màng, vừa mạnh mẽ, khi bừng bừng sức trẻ lúc lại cổ kính, trầm mặc. (Trong lòng thành phố) Từ đây, như đã tìm đúng đường về, sông Hương vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc của những vùng ngoại ô Kim Long, kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng tân nam - đông bắc, phía đó, nơi cuối đường, nó đã nhìn thấy chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non. Giáp mặt thành phố ở Cồn Giã Viên, sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến; đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu. Và như vậy, giống như sông Xen của Pa-ri, sông Đa-nuýp của Bu-đa-pét; sông Hương nằm ngay giữa lòng thành phố yêu quý của mình; Huế trong tổng thể vẫn giữ nguyên dạng một đô thị cổ, trải dọc hai bờ sông. Đầu và cuối ngõ thành phố, những nhánh sông đào mang nước sông Hương toả đi khắp phố thị, với những cây đa, cây cừa cổ thụ toả vầng lá u sầm xuống những xóm thuyền xúm xít; từ những nơi ấy, vẫn lập loè trong đêm những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn mô tê xưa cũ mà không một thành phố hiện đại nào còn nhìn thấy được. Những chi lưu ấy, cùng với hai hòn đảo nhỏ trên sông đã làm giảm hẳn lưu tốc của dòng nước, khiến cho sông Hương khi qua thành phố đã trôi đi chậm, thực chậm, cơ đồ chỉ là một mặt hồ yên tĩnh. Tôi đã đến Lê-nin-grát, có lúc đứng nhìn sông Nê-va cuốn trôi những đám băng lô xô, nhấp nháy trăm màu dưới ánh sáng của mặt trời mùa xuân; mỗi phiến băng chở một con hải âu nghịch ngợm đứng co lên một chân, thích thú với chiếc thuyền xinh đẹp của chúng; và đoàn tàu tốc hành lạ lùng ấy với những hành khách tí hon của nó băng băng lướt qua trước cung điện Pê-téc-bua cũ để ra bể Ban-tích. Tôi vừa từ trong khói lửa miền Nam đến đây, lâu năm xa Huế, và chính Lê-nin-grát đã đánh thức trong tâm hồn tôi giấc mơ lộng lẫy của tuổi dại; ôi, tôi muốn hoá làm một con chim như đứng co một chân trên con tàu thuỷ tinh để đi ra biển. Tôi cuống quýt vỗ tay, nhưng sông Nê-va đã chảy nhanh quá, không kịp cho lũ hải âu nói một điều gì với người bạn của chúng đang ngẩn ngơ trông theo. Hai nghìn năm trước, có một người Hi Lạp tên là Hê-ra-clít, đã khóc suốt đời vì những dòng sông trôi đi quá nhanh, thế vậy! Lúc ấy, tôi nhớ lại con sông Hương của tôi, chợt thấy quý điệu
  • 14. chảy lặng lờ của nó khi ngang qua thành phố... Đấy là điệu slow tình cảm dành riêng cho huế, có thể cảm nhận được bằng thị giác trăm qua trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh vào những đêm hội rằm tháng Bảy từ điện Hòn Chén trôi về, qua Huế bỗng ngập ngừng như muốn đi muốn ở, chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của một nỗi lòng. Sông Hương khi chảy vào thành phố được tác giả miêu tả bằng một lối văn trữ tình, hướng nội, độc đáo và tài hoa. Với cái nhìn tinh tế, đầy cảm xúc và đầy sáng tạo của nhà văn, dòng sông Hương khi chảy vào thành phố Huế hiện lên với những đặc trưng riêng của nó mà không có dòng sông nào có được. - Tín hiệu gặp gỡ của sông Hương và Huế: Chiếc cầu trắng như vành trăng non -> Một tín hiệu nên thơ, thân thuộc của riêng Huế như đang vẫy gọi, đang chờ đợi dòng sông. Nếu nhà thơ Nguyễn Bính so sánh cầu Tràng Tiền như chiếc lược ngà “Cầu cong như chiếc lược ngà/ Sông dài mái tóc cung Nga buông hờ” thì Hoàng Phủ Ngọc Tường lại so sánh với vành trăng non – một hình ảnh so sánh độc đáo gợi ra vấn đề tinh khôi, duyên dáng của cầu Tràng Tiền. - Dáng sông + Nhân hóa: Sông Hương “vui tươi hẳn lên”, “kéo một nét thẳng thực yên tâm” -> Cảm giác hạnh phúc bình yên của dòng sông khi tìm thấy chính mình, tìm thấy tình yêu của mình khi về với thành phố mà thành phố ấy hình như chỉ dành riêng cho nó, tồn tại vì nó, một thành phố luôn đợi chờ, luôn tin vào dòng sông thân yêu từ miền thăm thẳm đại ngàn xa xôi. -> Tác giả dùng cả tiếng nói tình tứ, thủy chung của một trái tim yêu để cảm nhận sự gắn bó của dòng sông giống như người con gái mãi nặng lòng với Huế. + So sánh: “uốn một cánh cung rất nhẹ” sang đến Cồn Hến, đường cong này làm cho dòng sông “mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu”, gợi nhớ đến cái lắc đầu đầy nữ tính của người phụ nữ khi yêu trong thơ Xuân Quỳnh “Sóng bắt đầu từ gió Gió bắt đầu từ đâu Em cũng không biết nữa Khi nào ta yêu nhau” Dòng sông lúc này như đã trở thành người tình nhân vừa biết phô khoe vẻ đẹp hình thể của một dòng chảy nhiều uốn lượn như đường cong đầy nữ tính của người phụ nữ. Đồng thời, qua đó cũng cho thấy vẻ đẹp dịu dàng,e lệ kín đáo của dòng Hương. -> Phép so sánh thật ngọt ngào làm cho dòng sông giống như một cô gái dịu dàng, e ấp mà vẫn lãng mạn, đắm say. -> Kín đáo, ý nhị, trẻ trung - Màu sắc: Màu sắc của dòng sông là màu “xanh thẳm” của chính nó, màu rực rỡ của trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh trong đêm hội trên sông, lung linh sắc màu phong phú của cảnh vật bến bờ: từ những mảng phản quang nhiều màu sắc của núi đồi “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” đến những “biền bãi xanh biếc của ngoại ô Kim Long”; từ màu
  • 15. thanh khiết nõn nà của “chiếc cầu trắng in ngần trên nền trời”, nhỏ nhắn như những vầng trăng non đến sắc “u trầm” của những vầng cổ thụ, ánh “lập lòe” của lửa thuyền chài, rồi lại là màu xanh biếc của tre trúc, của cau thôn Vĩ Dạ cùng sắc “mơ màng sương khói” của Cồn Hến… -> Sông Hương đã hiện ra như một bức tranh tuyệt đẹp trong thành Huế với những nét vẽ huyền ảo, những sắc màu thơ mộng. -> Khung cảnh bên sông vừa gần gũi đời thường, vừa xa xăm miên viễn như cổ thi. “Những cây đa, cay cừa cổ thụ tỏa vầng lá u sầm xuống những xóm thuyền xúm xít”. Hình ảnh này khiến sông Hương vừa gần gũi với cuộc đời thường vừa có cái xa xăm của Đường thi, gợi nhớ đến thơ Trương Kế: Giang phong ngư hỏa đối sầu miên (Cây phong bên sông cùng ngọn lửa thuyền chài nhìn nhau trong giấc ngủ buồn) -> Sông Hương với Huế như hòa vào làm một, mọi hình ảnh, sắc màu trên dòng sông đều là sự phản chiếu của Huế. - Điệu chảy + Âm hưởng, nhịp điệu của ngôn từ: nhịp điệu dòng chảy của sông Hương o Những câu văn dài nối tiếp, với rất ít dấu ngắt và rất nhiều thanh bằng, o Sự giãn cách trong nhịp trầm tư sâu lắng của những suy ngẫm, những liên tưởng mênh mang trong không gian, thăm thẳm trong thời gian. o Từ nhịp ngắt, các yếu tố điệp cho đến so sánh đều góp phần làm đậm thêm nhịp chảy chậm rãi, yên ả của dòng sông + Địa lí: o Dòng sông giảm lưu tốc, “một dòng sông trôi đi chậm, thực chậm, cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh” -> Tác giả dùng cả kiến thức địa lí để lí giải sự giảm lưu tốc của dòng chảy do sức cản của hai hòn đảo nhỏ trên sông. -> Phép điệp ngữ "chậm", "thực chậm" cùng với hình ảnh so sánh giàu sức gợi "mặt hồ yên tĩnh" đã khắc họa một trong những vẻ đẹp riêng biệt của sông Hương là dòng chảy yên bình, lặng lẽ. (Bình luận: Không giống với sông Hương vùng thượng nguồn, lúc "rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn", lúc "mãnh liệt vượt qua ghềnh thác", khi "cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn", sông Hương khi chảy qua thành phố Huế mang diện mạo hoàn toàn khác. Điều đặc biệt là Hoàng phủ Ngọc Tường không lí giải quá sâu đặc điểm này của sông Hương về mặt khoa học, mà qua cách thể hiện của mình, ông đã mang đến cho người đọc một liên tưởng thú vị. Sở dĩ, dòng sông "dùng dằng", "không chảy" bởi nó dành riêng cho Huế một tình cảm lắng sâu, đằm thắm. Nó muốn neo lại thật lâu bên người tình mong đợi, người tình mà phải trải qua cả một hành trình gian truân mới có thể tìm gặp, làm sao nỡ vội rời xa?) o So sánh tương đồng: Điệu Slow tình cảm dành riêng cho Huế. o So sánh tương phản: So sánh điệu chảy “băng băng” của sông Nê – va lúc xuân về >< “điệu chảy lặng tờ” của dòng sông xứ Huế
  • 16. -> Tình yêu thiên vị của tác giả với sông Hương, cho rằng chỉ dòng chảy êm lặng ấy mới giúp con người cảm nhận được tâm hồn dịu dàng, đa cảm của một dòng sông “ngập ngừng như muốn đi, muốn ở, chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của một nỗi lòng”. ➢ Dòng sông như một cô gái đang say đắm trong tình yêu, lưu luyến người tình mơ ước trước lúc chia xa. + Dưới góc độ văn học: điệu chảy êm đềm của sông Hương trong thi ca muôn đời o Hàn thi sĩ cảm nhận cái lững lờ trong dòng chảy của Hương Giang tựa như nỗi buồn ngưng trệ của một con người đang cảm nhận sự sống dần buông lơi và dời xa mình “Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay” (Đây thôn Vĩ Dạ). o Thu Bồn đã hoá thân để cảm được cái chùng chình của dòng chảy như tâm trạng người thương nửa đi nửa ở: “Con sông dùng dằng, con sông không chảy Sông chảy vào lòng, nên Huế rất sâu” (Thu Bồn) o Tố Hữu tha thiết với dòng sông êm đềm như tha thiết với người thương: “Hương Giang ơi dòng sông êm Quả tim ta vẫn ngày đêm tự tình” (Tố Hữu) + Dưới góc độ khoa học: So sánh tương phản để chỉ ra sự khác biệt giữa “dòng chảy chậm, thực chậm, cơ hồ như mặt hồ yên tĩnh” của Hương Giang với “đoàn tàu tốc hành băng băng lao ra biển Ban tích” của dòng sông xứ người (sông Nê va mùa băng tan xứ tuyết) -> thấy yêu thêm điệu chảy lặng lờ của sông Hương + Dưới góc độ triết học: Nhìn dòng chảy của dòng trôi mà thấy dòng đời. Đi xa để mong được về gần, đến với những con sông xứ người để yêu thêm con sông xứ sở. -> Phản chiếu cuộc sống của người Huế: vừa sống vừa lắng nghe, cảm nhận - Âm thanh của chính dòng sông và cảnh sắc đôi bờ + Đó là âm thanh gợi cõi vô thường huyễn hoặc của “tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia”, âm thanh nồng ấm thân yêu của “những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà”, âm thanh không lời của một tình yêu e ấp, âm thanh của chính dòng sông được ví như “người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”, “tiếng nước rơi bán âm”, tiếng “những mái chèo khua đập nước”…; và chất nhạc đặc biệt được hiện ra trong những liên tưởng tới “nền âm nhạc cổ điển Huế”– một giá trị văn hóa đặc sắc của cố đô, luôn gắn bó và làm nên một phần linh hồn của dòng sông xứ Huế. + Những so sánh, nhân hóa đặc sắc, những liên tưởng mang đậm chất trữ tình khiến dòng sông Hương hiện ra thủy chung và tình tứ giữa thành phố quê hương, vừa dịu dàng mềm mại như một bức tranh lụa huyền ảo, vừa tha thiết đắm say như một bản nhạc êm đềm. Tiểu kết: Hoàng Phủ Ngọc Tường đã quyện hòa cả tâm hồn, trí tuệ và sự tài hoa trong ngòi bút để tạo nên những so sánh liên tiếp, độc đáo kết hợp với những kiến giải bất ngờ cả về lí và tình. Qua bàn tay của người nghệ sĩ tài ba, dòng sông Hương hiện lên với đầy đường nét quyến rũ, sắc màu hài hòa, màu biêng biếc của hàng cau, bóng trúc, lung linh trong trăm
  • 17. nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh trên sông và đặc biệt là cây cầu trắng in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như một vầng trăng non. Những ánh hoa đăng bồng bềnh trôi trên sông bỗng ngập ngừng như muốn đi, muốn ở, chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của một nỗi lòng. Phải là người yêu quê hương, yêu dòng sông Hương, yêu mảnh đất Huế đến nhường nào thì HPNT mới viết lên được áng văn lay động lòng người đến vậy. Qua cảm quan của người nhạc sĩ, HPNT đã cảm nhận sông Hương qua liên tưởng độc đáo và thú vị. Sông Hương như một điệu nhạc tình cảm dành riêng cho Huế. Dòng sông chảy chậm như điệu chảy lững lờ vì nó quá yêu thành phố Huế. Đó là tình cảm của sông Hương dành cho thành phố Huế và cũng là tình cảm của tác giả dành cho dòng sông Hương, cho mảnh đất cố đô này. Đôi mắt sâu sắc của nhà văn đã nhìn ra mối quan hệ biện chứng giữa dòng sông Hương mềm mại với con người xứ Huế. Sông Hương dịu dàng, duyên dáng như đã góp phần hình thành nên tính cách nết na, ý nhị của người con gái cố đô. (Dòng sông văn hóa - Âm nhạc) Hình như trong khoảnh khắc chùng lại của sông nước ấy, sông Hương đã trở thành một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya. Đã nhiều lần tôi thất vọng khi nghe nhạc Huế giữa ban ngày, hoặc trên sân khấu nhà hát. Quả đúng như vậy, toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế đã được sinh thành trên mặt nước của dòng sông này, trong một khoang thuyền nào đó, giữa tiếng nước rơi bám âm của những mái chèo khuya. Nguyễn Du đã bao năm lênh đênh trên quãng sông này, với một phiến trăng sầu. Và từ đó, những bản đàn đã đi suốt đời Kiều. Tôi đã chứng kiến một người nghệ nhân già, chơi đàn hết nửa thế kỷ, một buổi tối ngồi nghe con gái đọc Kiều: “Trong như tiếng hạc bay qua - Đục như tiếng suối mới sa nửa vời”... Đến câu ấy, người nghệ nhân chợt nhổm dậy vỗ đùi, chỉ vào trang sách Nguyễn Du mà thốt lên: “Đó chính là Tứ đại cảnh!”. - Không phải ngẫu nhiên mà “ca Huế” trên sông Hương lại được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, mà ở đó là “cả một nền âm nhạc cổ điển được hình thành và phát triển song hành với những sinh hoạt âm nhạc cung đình từ đời các vua chúa thời Nguyễn trải dài suốt mấy thế kỉ”. HPNT thật tài tình khi khắc họa sông Hương như “một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”, một hình ảnh vừa thể hiện được vẻ đẹp bí ẩn, âm vang của nàng Hương dưới cái khoảnh khắc trùng lại của vùng sông nước, vừa thể hiện vẻ tài hoa, sâu lắng của mảnh đất cố đô và tâm hồn của con người cùng cuộc sống nơi đây. - Ai đã từng có dịp đến Huế thưởng thức nền âm nhạc Huế, được xem các nghệ sĩ biểu diễn âm nhạc trên sông vào những đêm khuya mới thấy hết vẻ đẹp của âm nhạc và màu sắc văn hoá đặc trưng ở nơi đây. Toàn bộ nền âm nhạc ấy, trong cảm nhận của tác giả, chỉ thực sự là chính nó khi “sinh thành trên mặt nước” của Hương Giang “trong một khoang thuyền nào đó, giữa những tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khuya". Ở đây có cái thú vị, cái sắc điệu riêng trong cách trình diễn âm nhạc của người Huế nhưng cũng có quy luật của nghệ thuật biểu diễn trên không gian sông nước. Trong Tì Bà hành, Bạch Cư Dị đã từng viết :
  • 18. “Thuyền mấy lá đông tây lặng ngắt Một vầng trăng trong vắt lòng sông” Nguyễn Du cũng đã từng miêu tả tiếng đàn của Thúy Kiều: “Trong như tiếng hạc bay qua, Đục như tiếng suối mới sa nửa vời” Dẫn ra câu chuyện về một người nghệ nhân già chơi đàn hết nửa thế kỉ khi nghe người con gái đọc câu thơ trên nhổm dậy vỗ đùi chỉ vào trang sách của Nguyễn Du mà thốt lên: "Đó là Tứ đại cảnh". (“Tứ đại cảnh” là tên một bản nhạc cổ Huế, tương truyền do vua Tự Đức sáng tác nói về 4 giai đoạn trong cuộc đời con người: Sinh – Lão – Bệnh – Tử. Vua Tự Đức là vị vua giỏi thơ văn, chữ nghĩa nhất, được xếp vào trong 10 vị vua giỏi thơ văn của nước nhà. Tuy các vì vua triều Nguyễn thiên về Nho học, nhưng đồng thời những ảnh hưởng của Lão, Phật, truyền thống thờ Tổ tiên vẫn rất lớn đối với triều Nguyễn, thời gian nhà Nguyễn trị vì, rất nhiều chùa chiền, đền miếu đã được lập hoặc trùng tu. Cho nên vua Tự Đức làm thơ về triết lý Phật giáo tôi nghĩ cũng là bình thường). ➢ Một lần nữa, bằng ngòi bút tài hoa cộng với sự rung cảm mạnh mẽ hòa cùng tình yêu tha thiết của tác giả, bóng dáng nàng Kiều năm nào dưới ngòi bút của đại thi hào Nguyễn Du lại xuất hiện: “bao năm lênh đênh trên quãng sông này với một phiến trăng sầu. Và từ đó, những bản đàn đã đi suốt đời Kiều”. Đây là một cách liên tưởng độc đáo, tài hoa đến lạ kì nó mang đến cho người đọc những xao xuyến, bồi hồi thật khó lý giải. ➢ Sự liên tưởng độc đáo cho thấy vẻ đẹp sông Hương: đẹp trong dáng vẻ quyến rũ, gợi cảm; đẹp trong tâm hồn vừa mạnh mẽ cá tính vừa dịu dàng, lắng sâu tài hoa. (Rời xa kinh thành) Rời khỏi kinh thành, sông Hương chếch về hướng chính bắc, ôm lấy đảo Cồn Hến quanh năm mơ màng trong sương khói, đang xa dần thành phố để lưu luyến ra đi giữa màu xanh của tre trúc và của những vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ. Và rồi, như sực nhớ lại một điều gì chưa kịp nói, nó đột ngột đổi dòng, rẽ ngoặt sang hướng đông tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ. Đối với Huế, nơi đây chính là chỗ chia tay dõi xa ngoài mười dặm trường đình. Riêng với sông Hương, vốn đang xuôi chảy giữa cánh đồng phù sa êm ái của nó, khúc quanh này thực bất ngờ biết bao. Có một cái gì rất lạ với tự nhiên và rất giống con người ở đây; và để nhân cách hoá nó lên, tôi gọi đây là nỗi vương vấn, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu. Và giống như nàng Kiều trong đêm tình tự, ở ngã rẽ này, sông Hương đã chí tình trở lại tìm Kim Trọng của nó, để nói một lời thề trước khi về biển cả: “Còn non, còn nước, còn dài, còn về, còn nhớ...”. Lời thề ấy vang vọng khắp lưu vực sông Hương thành giọng hò dân gian; ấy là tấm lòng người dân nơi Châu Hoá xưa mãi mãi chung tình với quê hương Xứ Sở. Sông Hương yêu Huế bằng tình yêu sâu đậm như vậy nên khi rời khỏi thành phố - rời xa tình yêu của mình hòa vào biển lớn mênh mông dĩ nhiên sẽ lưu luyến khôn nguôi. Thực ra, tâm trạng ấy là sản phẩm của trí tưởng tượng Hoàng Phủ Ngọc Tường. Còn trong tự nhiên, sông Hương chảy về hướng chính bắc, qua đảo Cồn Hến, xuôi ngoại ô Vĩ Dạ rồi rẽ ngoặt sang hướng đông tây, chạm thành phố ở góc thị trấn Bao Vinh rồi xuôi ra biển. Nếu chỉ dừng lại ở
  • 19. cách miêu tả "thuần" miêu tả ấy, thì sông Hương đầu còn là dòng sông đắm say, mãnh liệt như nó đã chảy từ đầu trang bút kí. Nhà văn đã không để sông Hương "ra đi" một cách nhạt nhòa như thế. Ông một lần nữa tạo hồn cho sông Hương - tâm hồn của người con gái sâu nặng ân tình. - Dáng điệu + Một cái ôm thật chặt trước khi chia li: ôm lấy đảo Cồn Hến quanh năm mơ màng trong sương khói + Sự ngập ngừng, không muốn rời đi: Trước khi xa dần thành phố, dòng sông đã lưu luyến ra đi giữa màu xanh biếc của tre trúc và của những vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ với màu nắng tinh khiết tinh khôi mà đã từng bước vào thơ Hàn Mặc Tử: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc Lá trúc che ngang mặt chữ điền” Dù vấn vương, dù lưu luyến không muốn rời xa nhưng đâu ai “tắm được hai lần trên một dòng sông” – Hương giang phải chia tay thành phố thân yêu, người tình trong mộng của mình. - Hướng chảy + Nó đột ngột đổi dòng, rẽ ngoặt sang hướng đông tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ. (Bình luận: Khúc rẽ ngoặt ấy đơn giản chỉ là khúc cua lượn rất tự nhiên của bất cứ dòng sông nào khi gặp chướng ngại giữa hành trình “Có bao giờ sông chảy thẳng đâu em/ Sống lượn khúc, lượn dòng mà tới biển”. Ấy vậy mà Hoàng Phủ Ngọc Tường đã trao cho nó trạng thái "giật mình", "đột ngột" để tạo hồn cho sông Hương. Chia tay mà còn có điều chưa kịp nói thì sao có thể yên tâm rời đi? Nên người con gái sông Hương trở về gặp thành phố tình yêu của nó lần cuối để trao gửi chút ân tình còn vương vấn. Và thị trấn Bao Vinh nơi sông Hương gặp thành phố lần cuối ấy đã trở thành không gian lãng mạn của tình yêu qua cảm nhận của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Điểm gặp cuối này giống như giếng nước, gốc đa, sân đình của những chàng trai, cô gái trong ca dao xưa. “Cây đa bến cũ năm xưa Chữ tình ta cũng đón đưa trọn đời.” “Hôm qua tát nước đầu đình Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen…”) + Giống như cuộc chia li Kim – Kiều: hẹn thề “còn non, còn nước, còn dài, còn về, còn nhớ”. Sự vương vấn, ngập ngừng đầy tình tứ của dòng sông lúc này được nhà văn gọi thành “nỗi vương vấn, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu”. Lời thề ấy của dòng Hương chung thủy để đến nay nó vẫn còn vang vọng khắp lưu vực sông thành điệu hò dân gian dìu dặt: Nam ai, Nam bình, Mái nhì, Mái đẩy. Hay đó cũng là tấm lòng chung tình của người dân Châu Hóa xưa mãi mãi chung tình với quê hương xứ sở, của HPNT với xứ Huế yêu thương.
  • 20. Tiểu kết: + Hoàng Phủ đã cảm nhận sông Hương qua lịch sử, địa lí, qua cả thơ ca, nhạc, hoạ. + Cái tôi nhà văn hiện lên rõ nét: o Cái tôi vừa trực tiếp quan sát, miêu tả vừa hồi ức, liên tưởng, bày tỏ suy tưởng. o Cái tôi uyên bác, tài hoa, mê đắm với cảnh sắc và linh hồn Huế: Tình yêu sâu đậm, hiểu biết tường tận về dòng sông và lối tư duy sắc bén trong niềm xúc cảm say mê, để rồi thăng hoa trong cảm hứng nghệ thuật: “Sao thèm một điệu gì xưa lắm Thèm đọc một đoạn văn Hoàng Phủ Ngọc Tường Có ai đó rót chiều vào chén ngọc Huế dịu dàng xây bằng khói và sương.” (Nguyễn Trọng Tạo) “Nếu như chẳng có dòng Hương Câu thơ xứ Huế Đánh rơi nữa chừng” (Huy Tập) [Góc độ lịch sử] [...] Hiển nhiên là sông Hương đã sống những thế kỷ quang vinh với nhiệm vụ lịch sử của nó, từ thuở nó còn là một dòng sông biên thuỳ xa xôi của đất nước các vua Hùng. Trong sách địa dư của Nguyễn Trãi, nó mang tên là Linh Giang, dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía nam của Tổ quốc Đại Việt qua những thế kỉ trung đại. Thế kỉ mười tám, nó vẻ vang soi bóng kinh thành Phú xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ; nó sống hết lịch sử bi tráng của thế kỉ mười chín với máu của những cuộc khởi nghĩa, và từ đấy sông Hương đã đi vào thời đại Cách mạng tháng Tám bằng những chiến công rung chuyển. Cùng với niềm cổ vũ nồng nhiệt dành cho nó trong mùa xuân Mậu Thân, Huế đã nhận được những lời chia buồn sâu sắc nhất của thế giới về sự tàn phá mà đế quốc Mĩ đã chụp lên những di sản văn hoá của nó. “Các trung tâm lớn của chúng ta về lịch sử, văn hoá, học thuật và về chính quyền rất nhiều. Phải hiểu rằng Huế là một thành phố kết hợp tất cả những cái đó, giống như các thành phố Luân Đôn, Pa-ri và Béc-lin... Một số trong các di sản đó đã bị phá huỷ lúc Thành Nội Huế bị ném bom. Không thể so sánh sự mất mát này với sự mất mát của một viện bảo tàng hay một thư viện ở Mỹ. Sự phá huỷ những di sản này cũng có tính chất giống như sự mất mát xảy ra đối với nền văn minh châu Âu khi một số công trình của nền văn minh Hy Lạp và La Mã cổ đại bị đổ nát vì các nhà thờ bị phá hoại”. Đó là sự đánh giá đầy phẫn nộ của chính người Mỹ, Ra-pha-en Li-tao-ơ, Noóc-man U-phốp và nhóm giáo sư Đại học Coóc-nen, trong một tác phẩm khoa học đầy mùi thuốc nổ và hoá chất độc mang tên Cuộc chiến tranh không quân ở Đông Dương. Tháng trước, tôi được dịp có mặt trong cuộc tiếp đón ở Thành uỷ Huế chào mừng đoàn đại biểu của Hội nghị tổng kết chiến tranh, tại thành phố. Thay mặt Quân uỷ Trung ương, đồng chí Đại tướng phát biểu: “Lịch sử Đảng đã ghi bằng nét son tên của thành phố Huế, thành phố tuy nhỏ nhưng đã cống hiến rất xứng đáng cho Tổ quốc” ... Đồng chí nói, đầu cúi xuống ngực, hai bàn tay chắp lại trong cử chỉ kính cẩn của người già mắt ngấn lệ; và người nghe, tất cả đều lặng đi trong cảm xúc đột ngột của một lời thề.
  • 21. (Lịch sử ngân vang) Sông Hương là vậy, là dòng sông của thời gian ngân vang, của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc. Khi nghe lời gọi, nó biết cách tự hiến đời mình làm một chiến công, để rồi nó trở về với cuộc sống bình thường, làm một người con gái dịu dàng của đất nước. Thỉnh thoảng, tôi vẫn còn gặp trong những ngày nắng đem ra phơi, một sắc áo cưới của Huế ngày xưa, rất xưa: màu áo điều lục với loại vải vân thưa màu xanh chàm lồng lên một màu đỏ ở bên trong, tạo thành một màu tím ẩn hiện, thấp thoáng theo bóng người, thuở ấy các cô dâu trẻ vẫn mặc sau tiết sương giáng. Đấy cũng chính là màu của sương khói trên sông Hương, giống như tấm voan huyền ảo của thiên nhiên, sau đó ẩn giấu khuôn mặt thực của dòng sông... Hương giang không chỉ mang trong mình nét đẹp tự nhiên với những đường nét mềm mịn và mượt mà, không riêng gì điển hình nổi bật trên nền văn hóa cổ kính, trì trệ dần mà còn khiến tác giả ấn tượng can đảm và mạnh mẽ về bề dày lịch sử của nó. Dòng sông vừa là thiên anh hùng ca hào tráng, lại vừa là khúc tình ca tươi mát, dịu dàng. - Sông Hương là thiên anh hùng ca + Trong thời chiến, dòng sông anh hùng “tự biết hiến đời mình làm một chiến công” o Từ xa xưa: dòng sông biên thuỳ xa xôi của đất nước các vua Hùng o Thời Nguyễn Trãi: dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía nam của Tổ quốc Đại Việt qua những thế kỉ trung đại o Thời Nguyễn Huệ: nó vẻ vang soi bóng kinh thành Phú xuân o Thế kỉ XIX: sống hết lịch sử bi tráng của thế kỉ mười chín với máu của những cuộc khởi nghĩa o Đi vào Cách mạng tháng Tám bằng những chiến công rung chuyển o Thời chống Mĩ: kiên cường chịu đựng nỗi đâu của những mất mát không thể bù đắp khi thành phố Huế bị bom Mĩ tàn phá, khi những di sản văn hóa bị hủy hoại + Hình ảnh liên tưởng: Sông Hương là “dòng sông của thời gian ngân vang” -> Từng nhánh rẽ của dòng sông, đến “những cây đa, cây cừa cổ thụ” cũng mang một phần lịch sử. Biết bao chiến công oanh liệt của lịch sử dân tộc đã giấu mình dưới dòng chảy êm đềm, bình lặng của sông Hương. Sông Hương mang vẻ đẹp sử thi, như một chứng nhân lịch sử, gắn liền với những chặng đường đau thương mà hào hùng của dân tộc. -> Niềm tự hào sâu xa về lịch sử một dòng sông có cái tên mềm mại, dịu dàng nhưng kiên cường, kiêu hãnh qua thăng trầm lịch sử. HPNT không chỉ điểm mà còn bình về lịch sử để nhận thấy rằng trong hoàn cảnh nào khi nghe tiếng gọi của đất nước, sông Hương cũng biết cách “tự hiến đời mình làm một chiến công” + Liên hệ o HPNT không đặt sông Hương trong những biến cố lịch sử lớn lao mà khai thác vẻ đẹp anh hùng của nó từ những sự kiện còn vang bóng trong tâm hồn mỗi người con đất Huế - “sự kiện của tâm hồn”. o Sông Đà được đặt trong biến thiên thăng trầm của bao triều đại để khẳng định tính bất biến của nó còn sông Hương của HPNT lại đổi thay để gắn liền với sự hưng thịnh, suy vong, nụ cười, nước mắt của thời đại.
  • 22. - Sông Hương là khúc tình ca + Trong cuộc sống đời thường, sông Hương “làm một người con gái dịu dàng của đất nước”, đó là phẩm chất ngàn đời của con người Việt Nam “Lưng đeo gươm, tay mềm mại bút hoa” “Đạp quân thù xuống đất đen Súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa” -> Sông Hương là sự hòa quyện giữa chất hùng tráng và trữ tình, là bản hùng ca mà cũng là bản tình ca dịu dàng tươi mát, “là dòng sông của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc”. (Bình luận: Phải chăng khi viết về những dòng sử thi giữa màu cỏ lá xanh biếc, nhà văn đã nghe vọng về từ trong sâu thẳm câu hò Huế của Ưng Bình Thúc Dạ Thị mang chứa nỗi niềm của con người vùng cố đô “Chiều chiều trước bến Văn Lâu Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông Thuyền ai thấp thoáng trên sông, Đưa câu mái đẩy chạnh lòng nước non.”) + Liên hệ: Đất nước Việt Nam có rất nhiều dòng sông chảy qua mọi miền xứ sở, và nó đã kịp chảy vào trong những vần thơ, trang văn tuyệt vời. Bạn đọc từng xót xa với Hoàng Cầm khi nghe tin sông Đuống bị quân thù chiếm đóng “Sông Đuống cuồn cuộn trôi/ Để nó cuốn phăng ra bể/ Bao nhiêu đồn giặc tơi bời/ Bao nhiêu nước mắt/ Bao nhiêu mồ hôi/Bao nhiêu bóng tối/ Bao nhiêu nỗi đời”. Công chúng yêu văn cũng đã chiêm ngưỡng vẻ đẹp của một dòng sông Mã “gầm lên khúc độc hành” qua ngôn từ Phạm Tiến Duật. Giờ chúng ta lại tìm đến với sông Hương – dòng sông chỉ tự thu mình khiêm tốn trong lãnh địa Thừa Thiên Huế, nhưng qua những trang kí tài hoa của HPNT sông Hương hiện ra với những vẻ đẹp dịu dàng, tinh tế, góp phần làm cho Huế trở nên một bức tranh sơn thuỷ hữu tình. [Góc độ văn hóa] - Sông Hương gắn với những phong tục, nét đẹp tâm hồn của người dân xứ Huế: màu của sương khói trên sông Hương, giống như màu áo điều lục, một sắc áo cưới của các cô dâu trẻ trong tiết sương giáng. (Dòng sông của thi ca) Có một dòng thi ca về sông Hương, và tôi hi vọng đã nhận xét một cách công bằng về nó khi nói rằng dòng sông ấy không bao giờ tự lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ. Mỗi nhà thơ đều có một khám phá riêng về nó: từ xanh biếc thường ngày, nó bỗng thay màu thực bất ngờ, “Dòng sông trắng - lá cây xanh” trong cái nhìn tinh tế của Tản Đà, từ tha thướt mơ màng nó chợt nhiên hùng tráng lên “như kiếm dựng trời xanh” trong khí phách của Cao Bá Quát; từ nỗi quan hoài vạn cổ với bóng chiều bảng lảng trong hồn thơ Bà Huyện Thanh Quan, nó đột khởi thành sức mạnh phục sinh của tâm hồn trong thơ Tố Hữu. Và ở đây, một lần nữa, sông Hương quả thực là Kiều, rất Kiều, trong cái nhìn thắm thiết tình người của tác giả Từ ấy.
  • 23. - Nhiều ý kiến cho rằng: Hoàng Phủ Ngọc Tường tuy không sinh ra ở Huế nhưng đã gắn bó với mảnh đất này từ sớm nên ông ưu ái cho sông Hương với những cảm hứng, những khám phá độc đáo là lẽ thường tình. Nhưng không, mỗi nhà thơ khi đặt chân đến Huế đều có một khám phá riêng về dòng sông này, để nhận xét một cách công bằng thì “dòng sông ấy không bao giờ tự lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ”. - Bản thân sông Hương đã mang những vẻ đẹp phong phú, đầy biến ảo, luôn biết cách làm mới mình, khơi gợi cảm hững vô tận cho các nghệ sĩ: khi là cô gái Di – gan phóng khoáng và man dại, có lúc lại là người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở. Thời chiến, sông tự hiến đời mình làm một chiến công, rồi lại trở về cuộc sống bình thường, làm một người con gái dịu dàng của đất nước. - Là vẻ đẹp tinh tế, mơ màng trong cái nhìn của Tản Đà “Dòng sông trắng lá cây xanh/ Xuân giang xuân thụ cho mình nhớ ai”. - Là vẻ đẹp hùng tráng “như kiếm dựng trời xanh” trong thơ Cao Bá Quát. - Là “nỗi quan hoài vạn cổ” trong thơ Bà huyện Thanh Quan - Là vẻ đẹp “quả thực là Kiều, rất Kiều” trong cái nhìn thắm thiết tình người của tác giả “Từ ấy” “Cô gái thẫn thờ vê áo mỏng, Nghiêng nghiêng vành nón dáng chờ ai Ven bờ sông phẳng con đò mộng Lả lướt đi về trong gió mai...” (Dửng dưng) (Niềm trân trọng đã khiến một danh từ chỉ tên nhân vật trở thành tính từ để ngợi ca vẻ đẹp đa đoan, say người của một dòng sông trong veo có thể thanh lọc tâm hồn con người và cuốn đi tất cả những ô uế của cuộc đời) + Là sức mạnh phục sinh tâm hồn trong thơ Tố Hữu “Ngày mai bao lớp đời dơ/ Sẽ tan như đám mây mờ đêm nay…” + Liên hệ o Hàn Mặc Tử thì lại so sánh tôn vinh sông Hương như sông ngân hà: “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó/Có chở trăng về kịp tối nay”. o Và với Nguyễn Trọng Tạo, Hương Giang lãng đãng một bầu khí quyển huyền thoại thi ca giúp nhà thơ thăng hoa những vần mê đắm: “Con sông đám cưới Huyền Trân Bỏ quên dải lụa phù vân trên nguồn Hèn chi thơm thảo nỗi buồn Niềm riêng nhuộm tím hoàng hôn đến giờ Con sông nửa thực nửa mơ Nửa mong Lí Bạch, nửa chờ Khuất Nguyên” ➢ Nếu như đến với sông Đà, người sau kẻ trước không phân biệt ở lòng mến thương thì đến với sông Hương, vẻ đẹp phong phú đầy biến ảo của sông Hương đã đem lại nguồn cảm hứng bất tận, mới mẻ cho các thi nhân.
  • 24. (Kết bài bút kí) Có một nhà thơ từ Hà Nội đã đến đây, tóc bạc trắng, lặng ngắm dòn “Dòng sông, ném mẩu thuốc lá xuống chân cầu hỏi với trời, với đất, một câu thật bâng khuâng: - Ai đã đặt tên cho dòng sông? - Bài kí khép lại bằng một huyền thoại đẹp về tên gọi của dòng sông: Người làng Thành Trung có nghề trồng rau thơm. Ở đây kể lại rằng vì yêu quý con sông xinh đẹp, nhân dân hai bờ sông đã nấu nước của trăm loài hoa đổ xuống dòng sông cho làn nước thơm tho mãi mãi. -> Huyền thoại ấy đã trả lời câu hỏi “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”. Sông Hương chính là sông thơm. Con sông mang hương thơm quyến rũ của ngàn hoa, hương thơm thấm vào từng thớ đất, đượm trong mỗi giọt nước. - Đặt tiêu đề và kết thúc bằng câu hỏi “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” -> Lưu ý người đọc về cái tên đẹp của dòng sông -> Ca ngợi vẻ đẹp, chất thơ của dòng sông. Đó là vẻ đẹp còn mãi với thời gian: vĩnh hằng + danh thơm muôn thuở. (Bình luận: Đọc văn HPNT ta thấm thía ý nghĩa thâm trầm và ấm cúng trong một khúc đoạn trường ca của Nguyễn Khoa Điềm: “Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu Mà khi về đất nước mình thì bắt lên câu hát Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền, vượt thác Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”) (Tóm tắt phần thứ hai : Những thành đại khảo cổ học cho biết, nằm dưới lòng đất làng Thành Trung ngày nay, nơi ngã ba Sình, phía tả ngạn sông Hương, những di tích của thành cổ Hoá Châu được xây dựng từ thời viễn cổ. Đây là một địa điểm có vị trí chiến lược quan trọng nơi biên giới phía Nam của nước Việt cổ, từng chứng kiến nhiều chiến công chống xâm lược rất oanh liệt của nhân dân ta qua nhiều triều đại phong kiến. Hoá ra sông Hương và thành phố Huế có cả một bề dày lịch sử hết sức oai hùng. Tóm tắt phần thứ ba : Người làng Thành Trung có nghề trồng rau thơm. Ở đây có một huyền thoại kể rằng, vì yêu quý con sông xinh đẹp, nhân dân hai bờ sông Hương đã nấu nước của trăm loài hoa đổ xuống dòng sông cho làn nước thơm tho mãi mãi. Ai đã đặt tên cho dòng sông? Có lẽ huyền thoại trên đã giải đáp câu hỏi ấy chăng?) - Tổng kết + Nội dung o Bài kí là kết tinh và tổng hòa đẹp đẽ của một tình yêu say đắm đối với dòng sông quê hương, đối với xứ sở và tài năng của một cây bút giàu tài năng, trí tuệ, am hiểu sâu rộng về văn hóa, lịch sử, địa lí và văn chương cùng một sức liên tưởng, tưởng tượng phong phú, độc đáo.
  • 25. o Ngòi bút tài hoa của HPNT đã làm hiện lên những vẻ đẹp khác nhau của sông Hương, chất thơ của cảnh sắc thiên nhiên xứ Huế, bề dày văn hóa của Huế và những nét đằm thắm, duyên dáng riêng của tâm hồn con người đất cố đô. + Nghệ thuật o Tác giả đã soi bằng tâm hồn mình và tình yêu quê hương xứ sở vào sông Hương khiến đối tượng trở nên lung linh, đa dạng như đời sống tâm hồn con người. o Sự liên tưởng, tưởng tượng phong phú cộng với sự uyên bác về các phương diện địa lí, lịch sử, văn hóa, nghệ thuật đã tạo nên áng văn đặc sắc này. o Ngôn ngữ phong phú, giàu hình ảnh, bộc lộ cảm xúc, sử dụng nhiều biện pháp tu từ như so sánh, ẩn dụ, nhân hóa. o Có sự kết hợp hài hòa giữa cảm xúc và trí tuệ, chủ quan và khách quan. Chủ quan là sự trải nghiệm của bản thân. Khách quan là đối tượng miêu tả - dòng sông Hương. + So sánh, liên hệ: Nét độc đáo của kí Hoàng Phủ Ngọc Tường, khác với kí của các nhà văn khác như Vũ Bằng hay Nguyễn Tuân o Trong “Thương nhớ Mười Hai” - một tác phẩm tiêu biểu của Vũ Bằng, ta bắt gặp những trang kí rất đỗi trữ tình, giàu chất thơ, hướng vào biểu hiện nội tâm, hướng vào phong cảnh thiên nhiên bốn mùa xứ sở với những câu văn tràn đầy cảm xúc, cảm giác tinh tế. Vũ Bằng chọn nghiêng mình tìm về đất Bắc với nỗi nhớ da diết của một người con xa quê, ở tận bên kia “giới tuyến”. Như nhà văn Triệu Xuân đã từng ca ngợi: “Viết về Hà Nội, viết về đất nước quê hương, không ai có thể hơn Vũ Bằng. Bởi Vũ Bằng yêu Hà Nội, yêu đất nước quê hương khi ông đang sống ở Sài Gòn, cách Hà Nội chưa đầy mười hai giờ bay mà vời vợi ngàn trùng. Nỗi nhớ ấy là tuyệt vọng!” o Hay như Nguyễn Tuân với Hoàng Phủ Ngọc Tường - đều là những con người hết mực uyên bác, tài hoa, có tình yêu lớn với cái đẹp, với quê hương đất nước - ta vẫn nhận thấy sự khác biệt trong những áng văn của họ. Nếu như Nguyễn Tuân- cây bút viết kí cự phách lôi cuốn người đọc bằng cái đẹp phi thường “đèo cao thác dữ”, “cuồng phong bão táp” thì những trang kí của Hoàng Phủ lại gây ấn tượng bằng cái đẹp mơ mộng dịu dàng như sông Hương, như cô gái Huế tình tứ mà kín đáo,e ấp. -> Cứ thế Hoàng Phủ Ngọc Tường đã góp thêm cho kí Việt một tiếng nói rất riêng của một nhà văn rất Huế. Cái tôi của tác giả - Một cái tôi tài hoa + Nói đến sự tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường, thiết nghĩ trước hết phải nói đến cách nhìn nhận và phát hiện của nhà văn về vẻ đẹp của dòng sông. Ở đây, sông Hương không hiện lên với một vẻ đẹp thuần nhất mà hiện ra trong những vẻ đẹp khác nhau và hết sức phong phú. Mỗi vẻ đẹp lại đem đến một cảm nhận riêng thú vị cho độc giả. Chỉ riêng việc hình dung vẻ đẹp của sông Hương như vẻ đẹp của người thiếu nữ, ta đã thấy ít nhất năm lần trong đoạn trích này sông Hương mang những nét quyến rũ riêng: “cô gái Di – gan phóng khoáng và man dại”; “người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại”; “người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”; giống như nàng Kiều trong đêm tình tự”; “người con gái dịu
  • 26. dàng của đất nước”. Ngoài những“mệnh đề” đã được khái quát như thể chỉ dành riêng cho sông Hương, các đoạn miêu tả dòng chảy uốn lượn của con sông đều đem đến cảm nhận về vẻ đẹp gợi cảm, đáng yêu của người thiếu nữ.Khi thì giống như những đường cong trên thân thể người con gái : “sông Hương đã chuyển dòng liên tục, vòng giữa những khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm”; khi thì như tấm lụa mềm mại “dòng sông mềm như tấm lụa”; có lúc lại giống cái dáng vẻ yêu kiều là tiếng nói dễ thương của người gái đẹp : “sông Hương uốn một cánh cũng rất nhẹ sang đến Cồn Hến, đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu”… + Có thể thấy, trí tưởng tượng phong phú và những liên tưởng mạnh mẽ đã cung cấp cho tác giả những cách nhìn khác nhau về sông Hương. Không những thế, nó còn cung cấp nguyên liệu cho những suy cảm của cái tôi trữ tình về con sông yêu dấu. Trong những suy cảm ấy, không ít suy cảm sao mà đẹp, mà đầy chất thơ và độc đáo, cuốn hút đến lạ thường. Chẳng hạn như khi cái tôi tác giả hình dung sông Hương ở thượng nguồn như “cô gái Di - gan phóng khoáng và man dại”. Ai cũng biết những cô gái Di - gan hay Bô - hê- miêng là những người thích sống lang thang, tự do và yêu ca hát. Họ mang trong mình vẻ đẹp nguyên sơ, bản năng, tự nhiên đầy quyến rũ. Ví sông Hương như những cô gái Di - gan, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã khắc vào tâm trí người đọc một ấn tượng mạnh về vẻ đẹp hoang dã nhưng cũng rất tình tứ của con sông xứ Huế. Đặc biệt, trong cách nhìn và cách nghĩ về Hương giang, nhà văn rất hay liên tưởng sông Hương với những trang Kiều Nguyễn Du. Chẳng hạn, ông đã nhìn thấy sự tương đồng giữa những bức tranh phong cảnh trong truyện Kiều với khung cảnh thiên nhiên hữu tình của Huế, của dòng sông Hương thơ mộng : “dòng sông đáy nước in trời và nội cỏ thơm, nắng vàng khói biếc, nỗi u hoài của dương liễu và sắc đẹp nồng nàn của hoa trà mi, những mùa thu quan san, những vầng trăng thắm thiết”. Ông đã thấy“sông Hương và thành phố của nó” như hình ảnh “của cặp tình nhân lý tưởng của truyện Kiều”, như đôi tài tử giai nhân Thúy Kiều – Kim Trọng “tìm kiếm và đuổi bắt, hào hoa và đam mê, thi ca và âm nhạc”. Điều này, thậm chí, còn được lặp lại một lần nữa khi nhà văn tưởng tượng chỗ rẽ của dòng sông để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ với “nỗi vương vấn” của nàng Kiều “chí tình” trở lại tìm Kim Trọng “để nói một lời thề trước khi về biển cả”. Vậy đó, địa thế của con sông, khúc đổi chiều của dòng nước đã được nhà văn hình dung như nỗi niềm, tâm sự của con người, của Thúy Kiều trong trang sách của Nguyễn Du… + Sẽ thật là thiếu sót nếu nói đến sự tài hoa của cái tôi Hoàng Phủ Ngọc Tường mà không nhắc đến vẻ đẹp của ngôn ngữ. Bởi văn học là nghệ thuật của ngôn từ. Chữ nghĩa chính là nơi phô bày tất cả tài nghệ của nhà văn. Sự tinh xảo của nhà văn khi chạm khắc nên những tượng đài nghệ thuật bằng ngôn từ phải nằm ở con chữ. Chính chữ chứ không phải là cái gì khác sẽ “bầu” lên nhà văn, sẽ lưu danh nhà văn trong cuốn sổ vàng của nền văn học. Chẳng thế mà những nghệ sĩ lớn thường hay trăn trở, sống chết với chữ nghĩa. Xưa, Đỗ Phủ, nhà thơ Trung Quốc nổi tiếng đời Đường Từng nói : “Tự bất kinh nhân tử bất hưu”. Giả Đảo, một nhà khác cũng từng phải thốt lên “Lưỡng cú tam niên đắc” (ba năm làm được hai câu thơ). Sau này, nhà văn Nguyễn Tuân cũng từng tâm sự một cách chân thành và thấm thía : “Đêm thanh vắng còn gì dễ sợ bằng trang giấy cứ trắng nguyên như thế cho tới gần hết đêm. Mà
  • 27. canh này nối cành khác, đêm cứ trôi đều trên cái trắng bằng ấy[…]. Thấy nguyền rủa bè lũ hình tượng chữ nghĩa nó hè nhau từ giã mình, mình bỗng chốc là kẻ cùng đường bên dòng sông chữ quạnh vắng thê lương”. Còn nhà thơ Xuân Diệu thì phát biểu : “Một bài thơ phải tự nó tuyên truyền cho nó, tác giả không cần phải giải thích thêm nữa, như thế mới là thơ hay. Khi mình đứng bên cạnh người đọc thơ, thì mình còn giải thích được cho người đọc hiểu,chứ lúc mình đi vắng ai giảng thơ mình ? Hơn nữa, lúc mình chết đi, thì ai bênh vực nó ? Thơ là mực đen giấy trắng, phải làm thế nào cho những bài thơ của mình tự nó sống”. Cho nên, chỉ có chữ nghĩa trong tác phẩm sẽ cho biết nhà văn định nói gì, là người thế nào, cả cái tâm lẫn cái tài, cả hiện thực miêu tả và thái độ, tình cảm của ông ta trước hiện thực ấy. + Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng không phải là ngoại lệ. Sự tài hoa của cái tôi tác giả hiện hiện rõ trên từng câu chữ. Ở đây, dường như có bao nhiêu góc nhìn, điểm nhìn về sông Hương thì có bấy nhiêu kiểu chữ nghĩa được huy động để đặc tả cho thật ấn tượng, thật sắc, thật tinh hình hài và tâm hồn của con sông xứ Huế. Thậm chí, từng đường đi nước bước của con sông cũng được cái kho ngôn ngữ giàu có và tài hoa ấy làm cho thỏa mãn. Chẳng hạn như đoạn nhà văn miêu tả con sông Hương ở thượng lưu : “rầm rộ giữa những bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác,cuộn xoáy như những cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn, và cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”. Hay như đoạn nhà văn miêu tả sông Hương rời khỏi vùng núi xuôi về đồng bằng chuẩn bị vào lòng thành phố Huế : “qua điện Hòn Chén, vấp Ngọc Trản, nó chuyển hướng sang tây bắc, vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quan rồi đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về phía đông bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ xuôi dần về Huế. Từ Tuần về đây, sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn, vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản để sắc nước trở nên xanh thẳm, và từ đó nó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách”. Đây là hai trong số những đoạn văn tiêu biểu trong bài kí. Chúng cho thấy bút lực dồi dào của nhà văn. Đó là một lối hành văn uyển chuyển, ngôn từ đa dạng và giàu hình ảnh. Từng từ, cụm từ, từng vế trong câu văn giống như một nét vẽ tài hoa của người họa sĩ,một động tác chạm khắc tinh xảo của nhà điêu khắc mà sau mỗi đường cọ, mỗi động tác nhào nặn, vẻ đẹp của sông Hương lại hiện ra một cách đặc sắc, đem đến cảm giác bất ngờ, ngỡ ngàng cho người đọc. Bên những đoạn văn như thế, ta không khó để bắt gặp trong thiên tùy bút này (mà ở đây mới chỉ là đoạn trích) những cách diễn đạt của một “phu chữ”, của người đã cất công lựa chọn trong cái vốn ngôn ngữ toàn dân những từ, ngữ hay nhất có thể, rồi tổ chức, sắp đặt chúng theo một lối riêng nhằm tạo ra những ý văn hay, những câu văn đẹp. Chẳng hạn: “như đã tìm đúng đường về, sông Hương vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long[…], nơi cuối đường, nó đã nhìn thấy chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non. Giáp mặt thành phố ở Cồn Giã Viên, sông Hương uốn một cánh cũng rất nhẹ sang đến Cồn Hến; đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng”không nói ra của tình yêu”. Đó là chưa kể đến những ý văn đẹp như một ý thơ: “những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà”; “những vấn vương của một nỗi lòng”; “đảo Cồn Hến quanh năm mơ màng trong sương khói”;… Có thể khẳng định đây không phải là lối diễn đạt thông thường của văn
  • 28. xuôi, nhất là ở thể kí mà là những kiểu chữ nghĩa thường thấy trong thơ ca, thậm chí còn thơ hơn nhiều bài thơ mà ta đã đọc đâu đó. + Nói đến tài hoa của cái tôi Hoàng Phủ Ngọc Tường về ngôn ngữ, cũng không nên quên các thủ pháp nghệ thuật mà nhà văn đã sử dụng rất thành công. Tiêu biểu hơn cả là nhân hóa và so sánh. Với nhân hóa, nhà văn đã thổi hồn vào sông Hương, biến con sông vô tri vô giác thành một sinh thể có tính cách, có nỗi niềm, tâm trạng như con người. Con sông ấy lúc “rầm rộ” và “mãnh liệt”, lúc “dịu dàng” và “say đắm”; khi thì “nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại”; khi thì “vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long”; khi là “người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”, khi “trở thành một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”…Không chỉ có thế, chính nhà văn trong bài kí này đã giãi tỏ trực tiếp về cái thủ pháp nhân hóa mà mình sử dụng – cái thủ pháp mà dường như ông không thể không dùng đến khi khám phá, phát hiện ra những vẻ đẹp bất ngờ, thú vị của sông Hương : “Có một cái gì rất lạ với tự nhiên và rất giống con người ở đây; và để nhân cách hóa nó lên, tôi gọi đấy là nỗi vương vấn, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu”. Có thể nói, thủ pháp nhân hóa đã được nhà văn sử dụng rất hiệu quả trong bài kí. Nhờ nó mà hành trình về xuôi của sông Hương đã trở thành hành trình tâm hồn của người con gái tìm đến người tình mà nó mong đợi. Cũng nhờ thủ pháp ấy mà những kiến thức địa lý, lịch sử,văn hóa đã được thăng hoa để trở thành những tri thức nghệ thuật đẹp về đất nước, con người, về dòng sông yêu thương của Huế. + Bên cạnh thủ pháp nhân hóa, nhà văn cũng đã sử dụng rất thành công biện pháp so sánh.Ở đây, so sánh được thực hiện trên cơ chế của liên tưởng, tưởng tượng mà trong bài kí này, sức liên tưởng, tưởng tượng của nhân vật tôi là rất mạnh mẽ, với nhiều bất ngờ, thú vị. Chính những liên tưởng ấy đã giúp nhà văn xây dựng được nhiều hình ảnh so sánh độc đáo, đưa đến những cảm nhận mới mẻ, đặc sắc về sông Hương. Chẳng hạn, nhân vật tôi đã so sánh cái hữu hình, hữu ảnh của dòng sông với cái vô hình, vô ảnh của cảm xúc nội tâm con người: “đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu”. Hay chỗ rẽ của sông Hương ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ được ví như “nỗi vương vấn, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu”… Chưa hết, bài kí còn có những hình ảnh so sánh đẹp như một hình ảnh thơ : “chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non”. Đặc biệt, để làm nổi bật dòng chảy trôi lững lờ của sông Hương như một “điệu slow tình cảm”, cái tôi trong bài kí đã so sánh bằng một hồi ức. Ấy là khi tác giả đến Lê – nin - grát, đứng nhìn sông Nê - va băng băng lướt qua trước cung điện Pê -téc - bua ra biển Ban - tích. So sánh này càng trở nên thú vị khi nhà văn đã gián tiếp đặc tả dòng chảy rất nhanh của sông Nê - va qua hình ảnh của những chú hải âu đứng co một chân trên những phiến băng mà không kịp nói điều gì với người bạn của chúng… - Một cái tôi uyên bác, giàu tri thức về lịch sử, địa lý, văn hóa Huế + Ai đã đặt tên cho dòng sông ? là một bài bút kí. Tuy nó nghiêng nhiều hơn về phía tùy bút,tức là thiên về chất trữ tình và sự phóng khoáng nhưng cái hồn cốt của thể loại không vì thế mà mất đi. Bản chất của kí là ghi chép và người viết kí chính là thư kí trung thành nhất của thời đại.Hoàng Phủ Ngọc Tường là một “thư kí” như thế, thậm chí còn là một “thư kí”