BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
NHỮNG dược LIỆU có TIỀM NĂNG KHAI THÁC TINH dầu ở VIỆT NAM
1. BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC DƯỢC HÀ NỘI
NHỮNG DƯỢC LIỆU CÓ TIỀM NĂNG KHAI
THÁC TINH DẦU Ở VIỆT NAM
Họ tên: Nguyễn Văn Thắng
Hà Nội – 03/2016
2. ĐẶT VẤN ĐỀ
Tinh dầu xuất hiện và phát triển theo nền văn minh của nhân loại. Từ xa xưa con
người đã biết sử dụng trực tiếp các loại cây cỏ, hoa lá có mùi thơm trong các nghi lễ
tôn giáo. Đến thời kì cổ trung đại tại Châu âu, những hợp chất thiên nhiên mới được sử
dụng rộng rãi. Hiện nay tinh dầu đang là nguyên liệu của nhiều ngành công nghiệp
trên thế giới và ngày càng được ứng dụng trong nhiều sản phẩm từ những sản phẩm
đắt tiền như các loại nước hoa cao cấp đến những mặt hàng rẻ tiền như một nồi xông
trị cảm ta đều bắt gặp sự hiện diện của tinh dầu. Người ta xem tinh dầu như là “vàng
lỏng” và nó sẽ trở thành nguồn tài nguyên vô hạn nếu con người biết khai thác, sử
dụng một cách hợp lý. Một đặc điểm quan trọng không thể thay thế của tinh dầu với
các hợp chất hữu cơ tổng hợp khác là nó không gây hại môi trường và dễ phân hủy.
Do có những công dụng thực tiễn như vậy nên ngày càng có nhiều các nghiên cứu
cũng như khai thác tinh dầu trên toàn thế giới. Hằng năm thế giới sản xuất ra khoảng
20.000 tấn tinh dầu thiên nhiên chủ yếu từ thực vật.
Nước ta nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, điều kiện tự nhiên rất thuận lợi cho việc
hình thành và phát triển các loài thực vật, đặc biệt là các loại cây tinh dầu có giá trị
cao. Do đó nguồn tài nguyên thực vật có tinh dầu có tiềm năng rất lớn. Cho tới nay,
chúng ta mới khai thác tự nhiên hoặc đưa vào gây trồng khoảng 20 loài (chiếm khoảng
3% số loài tinh dầu đã biết) để lấy tinh dầu.
Vấn đề đặt ra là phải khai thác, sử dụng và nuôi trồng các thực vật có tinh dầu
như thế nào cho hợp lý và hiệu quả, đem lại hiệu quả kinh tế và giá trị sử dụng trong
chữa bệnh ngày càng cao.
Với mong muốn đó, bài tiểu luận “Những dược liệu có tiềm năng khai thác
tinh dầu ở Việt Nam” sẽ tập trung vào các nội dung chính sau:
1. Tổng quan về tinh dầu và nguồn dược liệu chứa tinh dầu ở Việt Nam
2. Một số nguồn dược liệu chứa tinh dầu quý tại Việt Nam, giá trị sử dụng và tiềm
năng khai thác.
3. Hướng khai thác, trồng trọt và thu hái nguồn dược liệu chứa tinh dầu ở Việt
Nam
3. I. Tổng quan về tinh dầu và nguồn dược liệu chứa tinh dầu ở Việt Nam:
1. Tổng quan về tinh dầu:
* Khái niệm về tinh dầu:
Tinh dầu là hỗn hợp của nhiều hợp chất thiên nhiên, có mùi đặc trưng gặp nhiều
trong thực vật, có trong động vật, bay hơi ngoài không khí ở nhiệt độ thường, không
để lại vết trên giấy, có thể điều chế từ thảo mộc bằng phương pháp cất kéo hơi nước.
Tinh dầu rất ít tan trong nước, tan tốt trong dầu béo và các dung môi hữu cơ.
Tinh dầu có thể sử dụng trực tiếp hoặc chế ra các chất thơm khác đáp ứng các nhu cầu
xã hội (Thuốc, chất thơm thực phẩm, nước hoa...)
Concrete oil: Sản phẩm chiết xuất hương thơm thu được từ thực vật khi dùng phương
pháp chiết xuất với dung môi, sau khi bốc hơi dung môi phần còn lại được gọi là
Concrete oil thường có chứa sáp và ở thể đặc.
Pomade: Chất béo thơm được lấy từ các loại hoa bằng phương pháp chiết lạnh hay
chiết nóng
Absolute oil: Khi hoà tan Concrete oil, Pomade trong cồn nồng độ cao, để lạnh phần
sáp bị đông đặc, lọc loại bỏ phần này, phần còn lại đem cất kéo hơi nước, sản phẩm
thu được có tên Absolute oil
Water absolute oil: Một số trường hợp khi cất kéo hơi nước một lượng đáng kể tinh
dầu nằm trong nước ở dạng nhũ dịch. Tinh dầu này được chiết ra bằng dung môi, sau
khi bốc hơi thu được "Water absolute oil"
Rhodinol, Rhodinal: Rhodinol là hỗn hợp các thành phần có nhóm chức alcol trong
tinh dầu, Rhodinal là hỗn hợp các thành phần có nhóm chức aldehyd trong tinh dầu.
* Phân loại:
- Tinh dầu có thành phần là các hợp chất aliphatic.
- Tinh dầu có thành phần là các terpen và những dẫn chất của chúng.
- Tinh dầu có thành phần là các dẫn chất có nhân thơm.
- Tinh dầu có thành phần pha tạp.
* Tính chất lý, hoá của tinh dầu
Thể chất: Ða số là chất lỏng ở nhiệt độ thường, một số thành phần ở thể rắn: Menthol,
borneol, camphor, vanilin, heliotropin.
4. Màu sắc: Thường không màu hoặc màu vàng nhạt.
Mùi: Ðặc biệt, đa số có mùi thơm dễ chịu, một số có mùi hắc, khó chịu (tinh dầu
giun). Vị: cay, một số có vị ngọt: Tinh dầu quế, hồi.
Tỷ trọng: Ða số nhỏ hơn 1. Một số lớn hơn 1: Quế, đinh hương, hương nhu.
Ðộ tan: Không tan, hay đúng hơn ít tan trong nước, tan trong alcol và các dung môi
hữu cơ khác.
Ðộ sôi: Phụ thuộc vào thành phần cấu tạo, có thể dùng phương pháp cất phân đoạn để
tách riêng từng thành phần trong tinh dầu.
* Phân bố tinh dầu trong tự nhiên.
Tinh dầu có trong tất cả các bộ phận của cây: Lá: Bạc hà, Tràm, Bạch đàn. Bộ phận
trên mặt đất: Bạc hà, Hương nhu. Hoa: Hoa hồng, Hoa nhài, Hoa bưởi. Nụ hoa: Ðinh
hương. Quả: Sa nhân, Thảo quả, Hồi. Vỏ quả: Cam, Chanh. Vỏ thân: Quế. Gỗ: Long
não, Vù hương. Rễ: Thiên niên kiện, Thạch xương bồ. Thân rễ: Gừng, Nghệ. Tinh dầu
thường được tạo thành trong các bộ phận tiết của cây
* Các phương pháp chiết xuất tinh dầu: Có 4 phương pháp được áp dụng để chế tạo
tinh dầu:
- Phương pháp cất kéo hơi nước.
- Phương pháp chiết xuất bằng dung môi.
- Phương pháp ướp.
- Phương pháp ép.
* Ứng dụng tinh dầu và dược liệu chứa tinh dầu
Một số tinh dầu và dược liệu chứa tinh dầu được dùng làm thuốc. Tác dụng của tinh
dầu được thể hiện:
- Tác dụng trên đường tiêu hoá: Kích thích tiêu hoá (Gừng, Riềng, Tía tô, Kinh giới...),
lợi mật, thông mật
- Tác dụng kháng khuẩn và diệt khuẩn: Tác dụng trên đường hô hấp như tinh dầu bạch
đàn, bạc hà. Tác dụng trên đường tiết niệu như tinh dầu hoa cây Barosma betulina.
- Một số có tác dụng kích thích thần kinh trung ương: Dược liệu chứa tinh dầu giàu
anethol: Ðại hồi...
- Một số có tác dụng diệt ký sinh trùng: Trị giun, sán
5. - Rất nhiều tinh dầu có tác dụng chống viêm, làm lành vết thương, sinh cơ v.v.. khi sử
dụng ngoài da (Tinh dầu Tràm).
Một số dùng làm thuốc.vừa ở dạng dược liệu vừa sử dụng dạng tinh dầu như Quế, Hồi,
Đinh hương, Tiểu hồi, Bạc hà, Hạt mùi, Bạch đàn Nhưng cũng có những dược liệu chỉ
sử dụng tinh dầu như: Long não, Màng tang, Dầu giun v.v.. Và cũng có rất nhiều dược
liệu chứa tinh dầu chỉ sử dụng dược liệu để làm thuốc mà không sử dụng tinh dầu như
Đương qui, Bạch truật, Thương truật, phòng phong v.v..
Kỹ nghệ thực phẩm:
- Một lượng lớn dược liệu chứa tinh dầu được tiêu thụ trên thị trường thế giới dưới
dạng gia vị: Quế, Hồi, Đinh hương, Hạt cải, Mùi, Thì là, Thảo quả, Hạt tiêu v.v.. Tác
dụng của những dược liệu này là bảo quản thực phẩm, làm cho thực phẩm có mùi
thơm, kích thích dây thần kinh vị giác giúp ăn ngon miệng. Ngoài ra còn kích thích tiết
dịch vị giúp cho sự tiêu hoá thức ăn dễ dàng.
- Một số tinh dầu và thành phần tinh dầu được dùng làm thơm bánh kẹo, các loại mứt,
đồ đóng hộp ...: vanilin, menthol, eucalyptol v.v..
- Một số dùng để pha chế rượu mùi: Tinh dầu hồi, Tinh dầu đinh hương...
- Một số được dùng trong kỹ nghệ pha chế đồ uống: Tinh dầu vỏ cam, chanh ...
- Một số tinh dầu được dùng trong kỹ nghệ sản xuất chè, thuốc lá: Tinh dầu Bạc hà,
hoa nhài, hạt mùi...
2. Nguồn dược liệu chứa tinh dầu ở Việt Nam.
Theo thống kê của Phan Kế Lộc ( 1998) thì số loài thực vật bậc cao có mặt trong
hệ thực vật nước ta hiện có 10.386 loài thuộc 2.257 chi và 305 họ. Theo số liệu của Lã
Đình Mỡi ( 2001) thì số loài có chứa tinh dầu trong hệ thực vật nước ta gồm 657 loài
thuộc 357 chi và 114 họ ( Chiếm 6,3% tổng số loài, 15,8% tổng số chi, 37,8% số họ).
Tinh dầu được phân bố rất rộng ở trong hệ thực vật, đặc biệt tập trung nhiều ở một số
họ: Họ Cần - Apiaceae, họ Cúc - Asteraceae, họ Bạc hà - Lamiaceae, họ Long não -
Lauraceae, họ Sim - Myrtaceae, họ Cam - Rutaceae, họ Gừng - Zingiberaceae v.v..
Một số động vật cũng có chứa tinh dầu: Hươu xạ, cà cuống...
Theo luận án nghiên cứu sinh bảo vệ ở Liên Xô năm 1969, Phan Kế Lộc thống
kê tập hợp điều tra bằng cách vò, ngửi, thấy nước ta có khoảng 500 cây có tinh dầu
thuộc 93 họ.
6. Lê Văn Giai thống kê được 77 cây có tinh dầu trong tài liệu “Sơ khảo danh mục
đặc sản Việt Nam” do Tổng cục Lâm nghiệp công bố năm 1962.
Năm 1969, Lâm Quang Thanh thống kê được 135 cây có tinh dầu trong cuốn
“Cơ sở sản xuất tinh dầu ở địa phương” do Nhà xuất bản Công nghiệp xuất bản.
Đến 1969, Viện Dược liệu có công bố công trình nghiên cứu của Nguyễn Văn
Đàn và Lê Hồng, thống kê được 97 cây có tinh dầu trong số các cây thuốc.
Tại Hội nghị nghiên cứu khoa học của Trường Đại học Y Dược (1963), Vũ
Ngọc Lộ báo cáo đã điều tra 50 cây có tinh dầu, có ghi hàm lượng cho từng cây.
Trong nhiều công trình tốt nghiệp dược sỹ đại học bảo vệ các năm từ 1970-
1971, Nguyễn Bảo Cường, Nguyễn Thị Chắt, Trần Thị Phương tiếp tục điều tra các
cây thuốc có tinh dầu, có ghi hàm lượng cho từng cây và sơ bộ xác định bằng sắc ký
lớp mỏng với 162 cây thuốc, thuộc 30 họ thực vật.
Với thống kê, điều tra ở từng địa phương, báo Dược học số 4 năm 1972 có đăng
công trình của kỹ sư Đặng Minh báo cáo có trên 79 loài cây chứa tinh dầu riêng ở
miền Trung Trung Bộ,…
Những dược liệu có tinh dầu đã được trồng và khai thác ở Việt Nam
Stt Tên
Việt Nam
Tên khoa học Trữ lượng khai thác Phân bố
11
Trầm hương
(Gió bầu)
Aquilaria crasna
Pierre,
họ Thymeleaceae)
Năm 1980-1990 khai
thác tự nhiên 32 tấn/năm.
Hiện nay đang có dự án
xây dựng Nhà máy
chưng cất tinh dầu Trầm
hương. Chính phủ cho
phép xuất khẩu trầm (cây
xóa đói giảm nghèo, góp
phần bảo vệ môi trường)
Mọc nhiều ở Nghệ An, Hà
Tĩnh, Quảng Bình,…
Hiện nay :trồng ở Quảng
Trị, Quảng Nam, Khánh
Hòa, Gia Lai, Bình Phước,
Kiên Giang,…Với khoảng
20.000 hecta và mỗi năm
cả nước tăng thêm gần
2.000 hecta.
22 Pơ mu Fokienia hodginsii
Khai thác tự nhiên Mọc tự nhiên ở các tỉnh
Bắc Giang, Hà Giang, Hà
Tĩnh, Hòa Bình, Sơn La.
33 Hoàng đàn Uniperus virginiana
Có sản phẩm tinh dầu
hoàng đàn trên thị trường
44 Xá xi
Cinnamomum
parthenoxylon
Khai thác tự nhiên hàng
ngàn tấn
Lâm Đồng, Đồng Nai
55 Quế
Cinnamomum cassia
(Lauraceae)
Năm 2002 xuất 14 tấn x
6 USD/kg.
Hiện nay đạt mức 200-
300 tấn/năm
Trồng nhiều ở Yên Bái
(10.000 ha), Thanh Hóa
(6.000 ha), Quảng Nam,
Đà Nẵng (6.000 ha). Quế
cho tinh dầu tốt nhất là ở
Trà My ( Quảng Nam).
66 Đại hồi Illicium verum 5.000-6.000 tấn hồi Trồng nhiều ở Lạng Sơn
7. Họ Hồi (Illiciaceae)
khô/năm. Giá xuất 200-
400 USD/kg hạt quả hồi
(50.000 ha), Quảng Ninh,
Cao Bằng, Bắc Cạn.
77 Màng tang
Litsea cubeba
Họ Bạc hà Lauraceae
Có sản phẩm tinh dầu
Màng tang trên thị trường
Khai thác tự nhiên tại Yên
Bái, Lào Cai, Vĩnh Phúc
88 Bạc hà
Mentha arvensis
Họ Hoa môi
Lamiaceae
Năm 2000 xuất cho Nhất
10 tấn tinh dầu x 15
USD/kg
Sản lượng 50 tấn/năm
Trồng nhiều ở Hưng Yên
(60 ha), Nam Định, Lâm
Đồng.
99 Húng quế
Ocimum basilicum
Họ Hoa môi
Lamiaceae
Năm 2000 xuất cho Pháp
10 tấn tinh dầu x 15
USD/kg
Trồng nhiều ở Hưng Yên
100 ha
110 Sả Java
Cymbopogon
winterianus
Họ lúa Poaceae.
Năm 2000 xuất khẩu 150
tấn. Năm 2002 xuất 250
tấn x 4,5 USD/kg.
Trồng nhiều ở Tuyên
Quang
111 Sả chanh
Cypbopogon citratus
Họ lúa Poaceae.
9-10 USD/kg
Hàng trăm ha được trồng ở
phía Bắc
112 Sả hoa hồng
Cymbopogon martinii
Họ lúa Poaceae.
10-15 USD/kg Trồng ở Lào Cai 10 ha
113 Tràm
Melaleuca cajuputi
Họ Sim Myrtaceae
Giai đoạn từ 1997-2003
Long An trồng mới đến
4.000-5.000 ha/năm. Cà
Mau 4.000 ha/năm, Sóc
Trăng 2.000 ha/năm. Chưa
kể, con số không nhỏ từ
nhiều địa phương khác.
114 Thông đo Taxus wallichiana
Lâm Đồng chỉ còn khoảng
300 cây thông đỏ tự nhiên
Trung tâm Nghiên cứu
trồng và chế biến cây
thuốc Đà Lạt đã trồng
được 100.000 cây.
II. Một số dược liệu cho tinh dầu tại Việt Nam và tiềm năng khai thác.
Nước ta hiện có nhiều loại tinh dầu nổi tiếng và quý không những được sử dụng
trong nước mà còn xuất khẩu sang nước ngoài.
Theo thống kê có một số tinh dầu sau: Trầm hương, hồi, bạc hà, tràm, sả, quế, màng
tang, pơ mu, hương nhu, hoàng đàn, húng quế, xá xị...
2.1. Trầm hương
8. TINH DẦU TRẦM HƯƠNG
Trầm hương là phần gỗ của cây Gió bầu. Một số loại Gió (tên khoa học là
Aquilaria) trong quá trình sinh trưởng, do những tác động nào đó, gây ra những tổn
thương/nhiễm bệnh, lâu ngày cây tích tụ một chất dạng nhựa (dầu), rồi lan dần ra, làm
biến đổi các phần từ gỗ, tạo nên nhiều màu sắc (đen, nâu, chàm, xám,…), nhiều tính
chất (cứng, mềm, dẻo, giòn,…), nhiều mùi vị (đắng, cay, chua, ngọt,…), nhiều hình
dáng (tròn, xoắn, nhọn, dài,…) ở nhiều vị trí (thân, cành, rễ) trong cây dó. Đó chính là
trầm hương, có tên giao dịch thương mại Quốc tế là Agarwood oil hay Eaglewood oil.
Đặc điểm và phân loại:
Đặc điểm nổi bật của trầm hương là tỏa mùi thơm đặc biệt lúc đốt hoặc chưa
đốt. Khi hàm lượng dầu lớn hơn 25%, trầm hương có thể chìm trong nước. Loại trầm
hương cao cấp của thể đạt hàm lượng dầu 60-80%. Căn cứ mức độ nhiễm dầu, màu
sắc, hương vị, hình dáng, trọng lượng, xuất xứ,…mà trầm hương có các tên gọi khác
nhau như: Trầm mắt tử, trầm mắt đào, trầm bọ sánh, trầm bông, trầm da báo, trầm điệp
lá, trầm điệp trai, trầm kiến xanh, trầm kiến lọn, trầm rục, trầm sanh,…Theo phẩm cấp,
trầm hương được xếp thành 3 hạng và mỗi hạng chia thành nhiều loại, như sau:
Hạng nhất là kỳ nam hay còn gọi là kỳ:
Là loại trầm hương có phẩm cấp cao nhất, cho nhiều dầu, nhẹ, mềm, dẻo,
nhuyễn, khi nếm có đủ vị chua, cay, đắng, ngọt, tỏa mùi thơm tự nhiên, khi đốt có
hương thơm đặc biệt, khói xanh, bay thẳng và dài lên không trung. Kỳ nam được chia
làm 4 loại:
9. Bạch kỳ: sắc trắng ngà, xám nhạt, vô cùng quý hiếm, ít khi có, giá thành đắt
nhất.
Thanh kỳ: sắc xanh xám, ánh lục, rất quý hiếm, đắt giá sau bạch kỳ.
Huỳnh kỳ: sắc vàng sẫm, vàng nâu, quý hiếm, và đắt giá sau thanh kỳ.
Hắc kỳ: sắc đen chàm, hắc ín, quý và đắt giá sau huỳnh kỳ.
Hạng hai là trầm:
Là loại trầm hương ít dầu, nặng, vị đắng, hầu hết khi đốt mới tỏa mùi thơm,
khói màu trắng bay quanh rồi tan ngay. Theo phẩm cấp, trầm được xếp thành 6 loại:
Loại 1: sức sáp trắng, giá trị cao nhất trong 6 loại trầm.
Loại 2: sắc xanh đầu vịt, giá trị sau loại 1
Loại 3: sắc sáp xanh, giá trị sau loại 2
Loại 4: sắc sáp vàng, giá trị sau loại 3
Loại 5: sắc vằn lông hổ, giá trị sau loại 4
Loại 6: sắc vàng đốm dầu, giá trị thấp nhất trong 6 loại trầm
Hạng ba là tốc:
Phần lớn tốc có mức nhiễm dầu ít hơn trầm, chủ yếu là từ bên ngoài và dài theo
thớ gỗ. Có khoảng vài chục loại tốc, với các tên gọi như: tốc kiến, tốc đá, tốc cá ngừ,
tốc hương, tốc lọn, tốc dây, tốc đỉa,….Tuy nhiên, có thể xếp các dạng tốc thành 4
nhóm như sau:
Tốc đỉa: có mức độ nhiễm dầu nhiều trong các thớ gỗ, dạng nhỏ, cờ ngón tay,
đầu đũa con hoặc như con đỉa.
Tốc dây: mức độ nhiễm dầu xen, tạo nhiều vòng giữa các thớ gỗ, thường có
dạng tròn, dài, dáng rễ cây.
Tốc hương: mức độ nhiễm dầu dạng mảnh, mùi thơm nổi trội hơn các loại tốc
khác.
Tóc pi: mức độ nhiễm dầu mỏng, bao quanh bên ngoài các thớ gỗ theo dạng
hình tháp, hình ống lớn.
Trong 4 nhóm tốc, thì tốc đỉa được đánh giá cao hơn về chất lượng, tuy nhiên
việc xếp nhóm tốc không nhất thiết tuân theo thứ bậc phẩm cấp.
Tính chất đặc biệt của trầm hương:
10. Tinh dầu được chiết xuất từ trầm hương hoặc từ gỗ cây dó đã tạo trầm hương,
là chất lỏng sánh, nhớt, dẻo, màu vàng hoặc màu hổ phách, có mùi thơm đặc trưng.
Tinh dầu tốt được chiết xuất từ trầm hương loại tốt và ngược lại.
Công dụng của trầm hương:
Theo Đông y: trầm hương là vị thuốc quý hiếm, có vị cay, tính ôn, quy vào 3
kinh: tỳ, vị, thận. Có tác dụng giáng khí, nạp thận, bình can, tráng nguyên dương, chữa
các bệnh đau bụng, đau ngực, nôn mửa, hen suyễn, lợi tiểu, giảm đau, trấn tĩnh, hạ sốt,
cấm khẩu, thổ huyết, khỏ thở, kích dục,…
Theo Tây y: Trầm hương có tính kháng sinh, tạo ra kháng thể mạnh (diệt
khuẩn, làm lành vết thương), có tác dụng chữa một số bệnh về tim mạch (suy tim, đau
ngực), bệnh về hô hấp (hen suyễn), bệnh về thần kinh (an thần, mất ngủ, giảm đau,
trấn tĩnh,…), bệnh về tiêu hóa (đau bụng, buồn nôn, tiêu chảy), bệnh về tiết niệu (bí
tiểu tiện). Đặc biệt có thể dùng trầm hương để chữa ung thư tuyến giáp.
2.2. Đại hồi (Oleum Anisi stellati)
Tinh dầu hồi lấy từ quả hồi (Illicium verum Hook.f), họ Hồi (Illiciaceae), bằng
phương pháp cất kéo hơi nước.
11. Phân bố:
Là đặc sản của nước ta, mọc hoang và trồng nhiều ở Lạng Sơn. Ngoài ra ở Cao
bằng, bắc cạn, quảng ninh cũng trồng nhiều.
Trồng trọt, thu hái:
Trồng bằng hạt. Thích nghi với đất thịt pha cát, nhiều mùn tơi xốp, độ cao 200-
700 m so với mặt biển, nhiệt độ bình quân 21-230
C.
Thu hoạch sau khi trồng 7-8 năm, tới năm thứ 15 đạt sản lượng cao. Thu hoạch
2 vụ: tháng 9-10 và tháng 4-5.
Thành phần hóa học: Chủ yếu của tinh dầu hồi là trans – anethol ( 80 – 90%),
ngoài ra còn có trên 20 hợp chất khác ( limonene, α – pinen, α – terpinen); cis –
anethol thường chỉ có hàm lượng rất nhở ( Vết – 0,1%) nhưng lại rất độc và độ độc
gấp 15 – 30 lần so với trans – anethol.
Công dụng:
Tinh dầu hồi có tác dụng chữa thấp khớp, các bệnh đường ruột, dạy dày, ho.
Còn là hương liệu dùng trong thực phẩm và rượu mùi.
Tinh dầu có anethol là nguyên liệu để tổng hợp các hormone (stilbestrol và
hexoestrol), tổng hợp hương liệu như aldehyd anitic.
Chiết xuất acid shikimic – Thành phần hóa học quan trọng của thuốc Tamiflu.
Cứ 100 kg quả hồi khô có thể chiết được 6,5 – 7.0 kg acid shikimic.
12. 2.3. Tràm .
TINH DẦU TRÀM
Tràm là một chi trong họ sim (Myrtaceae). Trên thế giới có hơn hai trăm loài, tập
trung ở úc và một số nước vùng Ðông Nam á có 3 loại tràm được xác định có tiềm
năng để phát triển ngành công nghiệp chưng cất tinh dầu là: Melaleuca alternifolia, M
cajeputi và M quinquinervia, trong đó M cajeputi tỏ ra có tính ưu việt nhất vì vùng
phân bố rộng và đặc điểm tạo dầu.
Phân bố:
Tràm (Melaleuca) là loài cây được trồng phổ biến ở đồng bằng sông Cửu Long, đặc
biệt là ở những vùng đất ngập phèn. Tiêu biểu là rừng tràm ở U Minh Thượng và ở U
Minh Hạ trước đây có hàng vạn hécta rừng tràm nguyên sinh, trải qua những cuộc
cháy rừng, trong thời gian qua diện tích tràm trên bị hao hụt nhiều tuy nhân dân và
chính quyền địa phương đã phấn đấu trồng trọt, khôi phục lại.
Đặc điểm thực vật: Cây tràm cajeputi là loài cây một thân, mọc thẳng, cao khoảng
25m lá màu xanh đục, vỏ cây từ màu xám đến màu trắng.
Bộ phận dùng: Lá và phần ngọn.
Thành phần hóa học: Tinh dầu, flavonoid.
Người ta thường chưng cất tinh dầu từ lá. Dầu cajuput chủ yếu ở thể lỏng, màu vàng
nhạt, thành phần bao gồm:
- Cineol từ 3% đến 60%, giá bán phụ thuộc vào tỷ lệ % chất này.
- Cồn terpen globulol (9%), vidiflorol (16%) và spathulenol (30%), các hợp chất khác
thường có với khối lượng lớn là: limonen (5%) B caryophylen (4%) humulen (2%).
13. viridifloren (0,5 đến 9%) các thành phần trong tinh dầu thay đổi tùy thuộc vào điều
kiện tự nhiên nơi trồng tràm và khâu chưng cất.
Công dụng:
Tinh dầu tràm thuộc loại không độc, sử dụng nhiều trong ngành dược phẩm để chế
các thuốc uống, dùng ngoài nhằm chữa ho, cảm lạnh, chống đau thần kinh, đau khớp.
Ngoài ra còn dùng chống côn trùng, sát trùng, diệt nấm, làm hương liệu trong sản xuất
mỹ phẩm.
Trong công nghiệp dược phẩm, tràm được dùng dưới nhiều hình thức.
- Cao lá trà : Có trong: antuss xirô của Xí nghiệp dược phẩm (XNDP) 2/9, thành phố
Hồ Chí Minh.
- Dầu gió: Dầu Cửu Long (XNDP Trung ương 3 - Hải Phòng)
Dầu khuynh diệp (XNDP Trung ương 25 - thành phố Hồ Chí Minh)
Dầu cao sao vàng (XNDP TƯ 3, XNDP TƯ 25)
Ngoài ra tinh dầu tràm còn có trong cao xoa Trường Sơn, dầu cù là Ðại Bàng và thuốc
calo - P dùng để trị bỏng hoặc sát khuẩn vết thương.
- Hoạt chất cineol có trong tinh dầu tràm:
Dùng uống:
+ Brocalyptol à la pholcodine (thuốc nước ngoài)
+ Eucalyptin le Brun (thuốc nước ngoài)
+ Pectol E của Công ty dược phẩm Sài Gòn - Sagopha
+ Sirô trẻ em: Chai 90ml. TP: cineol, natribenzoat, một số sirô: viễn chí, trần bì, húng
chanh...
+ Có dạng viên bao đường. Lọ 30v
+ Quintol (CTDPSG - Sagopha)
+ Rumafar (CTDPSG - Sagopha)
+ Dùng ngoài:
Xúc miệng: Orafen: chai 90ml. TP: cineol, menthol, methylsalicylat, acid baric,
acid benzoic. Dùng: Sát khuẩn miệng sau nhổ răng, sưng nướu răng, viêm họng, khử
hôi miệng. Không được uống.
Ông hít Hải Yến (XNDP TƯ 26)
ống hít: 6 ống một vỉ. TP: cineol, methol, long não
Tải bản FULL (file word 24 trang): bit.ly/2Ywib4t
Dự phòng: fb.com/KhoTaiLieuAZ
14. Dùng hít để thông mũi, tạo cảm giác khoan khoái khi mệt mỏi, cảm cúm. Không dùng
cho trẻ dưới 6 tuổi.
2.4. Quê
Các bộ phận dùng là vỏ quế, cành và lá nhỏ để cất tinh dầu.
Phân bố:
Ở Việt Nam có 3 loài quế được trồng và mọc hoang
Quế Thanh còn gọi là quế quỳ (Cinnamomum loureirii)
Quế quan còn gọi là quế Srilanca (Cinnamomum zeylanicum)
Quế đơn còn gọi là quế Trung Quốc (Cinnamomum cassia)
Quế đơn là loại phổ biến ở nước ta hiện nay. Các vùng trồng quế lớn ở nước ta theo
thứ tự diện tích là:
1. Yên bái: Cinnamomum cassia
2. Quảng Nam, Quảng Ngãi: Cinnamomum cassia
3. Thanh Hóa, Nghệ An: Cinnamomum loureirii
4. Quảng Ninh: Cinnamomum cassia
Trồng trọt, thu hái:
Là cây vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới. Trồng bằng hạt, có thể dùng chồi non, chiết
cành. Hạt lấy từ quả chín màu đỏ từ cây 15-0 tuổi, gieo vào tháng 3 ở đất có bón lót
3596861