Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Vai trò của Luật sư trong tố tụng dân sự.pdf
1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
PHẠM THỊ HƯỜNG
VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ TRONG
TỐ TỤNG DÂN SỰ
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Hà Nội – 2013
2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
PHẠM THỊ HƯỜNG
VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ TRONG
TỐ TỤNG DÂN SỰ
Chuyên ngành : Luật dân sự
Mã số : 603830
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS.TRẦN ANH TUẤN
Hà Nội – 2013
3. LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học
của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm
bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa
học của Luận văn chưa từngđược ai công bố trong bất kỳ công
trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Phạm Thị Hường
4. MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ LUẬT SƯ VÀ VỊ TRÍ,
VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ 8
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VỀ LUẬT SƯ VÀ Ý NGHĨA VỀ SỰ THAM
GIA TỐ TỤNG CỦA LUẬT SƯ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ 8
1.1.1 Khái niệm Luật sư 8
1.1.2. Đặc điểm của Luật sư 14
1.1.3. Ý nghĩa về sự tham gia của Luật sư trong tố tụng dân sự 17
1.2 VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ 20
1.2.1 Vị trí của Luật sư trong tố tụng dân sự 20
1.2.2 Vai trò của Luật sư trong tố tụng dân sự 21
1.3. LƯỢC SỬ CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ VAI
TRÒ CỦA LUẬT SƯ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ 24
1.3.1 Thời kỳ trước Cách mạng Tháng 8 năm 1945 24
1.3.2 Thời kỳ sau cách mạng tháng 8 năm 1945 đến nay 25
1.4. PHÁP LUẬT CỦA MỘT SỐ NƯỚC VỀ VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ 36
1.4.1. Những hệ thống luật cơ bản trên thế giới liên quan đến vai trò của
Luật sư trong tố tụng dân sự 36
1.4.2 Quy định của pháp luật một số nước đại diện cho các hệ thống Luật cơ
bản về vai trò của Luật sư trong tố tụng dân sự 41
5. CHƯƠNG 2: VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
THEO PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH 51
2.1. LUẬT SƯ VỚI VAI TRÒ ĐẠI DIỆN THEO ỦY QUYỀN CỦA
ĐƯƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ 51
2.1.1. Về điều kiện thực hiện vai trò đại diện theo ủy quyền 51
2.1.2. Về quyền và nghĩa vụ tố tụng của Luật sư khi tham gia với vai trò đại
diện theo ủy quyền 54
2.2. LUẬT SƯ VỚI VAI TRÒ BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP
CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ 57
2.2.1. Về điều kiện thực hiện vai trò bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự 57
2.2.2. Về quyền và nghĩa vụ tố tụng của Luật sư khi tham gia với vai trò bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự 59
2.3. VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ TRONG CÁC GIAI ĐOẠN TỐ TỤNG DÂN SỰ 63
2.3.1. Vai trò của Luật sư tại Tòa án cấp sơ thẩm 63
2.3.2. Vai trò Luật sư tại Tòa án cấp phúc thẩm 81
2.3.3. Vai trò Luật sư tại thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm 82
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VÀ KIẾN NGHỊ 86
3.1. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN VAI TRÒ HOẠT ĐỘNG CỦA LUẬT SƯ
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ 86
3.1.1. Những kết quả đạt được của việc thực hiện vai trò hoạt động của Luật
sư trong tố tụng dân sự 86
3.1.2. Những hạn chế, bất cập của việc thực hiện vai trò hoạt động của Luật
sư trong tố tụng dân sự 91
3.2. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ 107
6. 3.2.1. Nâng cao nhận thức về vai trò của Luật sư trong tố tụng dân sự 107
3.2.2. Hoàn thiện các quy định liên quan đến vai trò của Luật sư trong tố
tụng dân sự 110
3.2.3. Chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ của
Luật sư 116
3.2.4. Về tăng cường quản lý nhà nước, phát huy vai trò tự quản và giám sát
việc tuân thủ quy tắc đạo đức nghề nghiệp của Luật sư. 117
3.2.5. Về tăng cường hội nhập quốc tế về Luật sư trong tố tụng dân sự 119
KẾT LUẬN 122
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 123
7. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
1. BLDS : Bộ luật dân sự
2. BLTTDS : Bộ luật Tố tụng dân sự
3. XHCN: Xã hội chủ nghĩa
4. PLTTGQCVADS : Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự
5. TTDS : Tố tụng dân sự
8. 1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Nghề Luật sư là một nghề cao quý trong xã hội, ngày càng được tôn
vinh và có vai trò quan trọng trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền của
dân, do dân và vì dân, phấn đấu xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, Đất nước ta đang trong tiến trình hội
nhập kinh tế quốc tế và hoà mình vào dòng chảy chung của xu thế toàn cầu
hoá. Vai trò của Luật sư nói chung cũng như vai trò của Luật sư trong tố tụng
dân sự là không thể thiếu được trong xã hội và ngày càng trở nên quan trọng
hơn bao giờ hết.
Quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp là một trong những quyền dân
sự của công dân đã được pháp luật xác định thành một nguyên tắc cơ bản
trong tố tụng dân sự. Đó là nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự.
Cá nhân, cơ quan, tổ chức khi tham gia tố tụng dân sự với tư cách là đương sự
có thể tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc nhờ Luật sư bảo vệ.
Tòa án có trách nhiệm bảo đảm cho đương sự thực hiện quyền bảo vệ của họ.
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đòi hỏi Đất nước phải xây
dựng được một đội ngũ Luật sư tài năng và đạo đức. Đó chính là lời phát biểu
của nguyên Chủ tịch nước Trần Đức Lương tại Hội nghị tổng kết 4 năm thực
hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 2/01/2002 của Bộ Chính trị về “Một số
nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới”: “…Tiếp tục
thực hiện tốt chủ trương nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên toà…đội
ngũ Luật sư cần xác định rõ vai trò của mình để phấn đấu vươn lên không chỉ
về trình độ nghề nghiệp mà còn cả trong việc giữ gìn đạo đức hành nghề ”.
Đồng thời Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ chính trị về “Chiến lược cải cách
tư pháp đến năm 2020” cũng nêu rõ: “Đào tạo, phát triển đội ngũ Luật sư đủ
9. 2
về số lượng, có phẩm chất chính trị, đạo đức, có trình độ chuyên môn. Hoàn
thiện cơ chế để Luật sư thực hiện tốt tranh tụng tại phiên toà, đồng thời xác
định rõ chế độ trách nhiệm đối với Luật sư. Nhà nước tạo điều kiện về pháp lý
để phát huy chế độ tự quản của Luật sư đối với các tổ chức thành viên của
mình”.[6]
Trong thời gian gần đây, số lượng Luật sư tham gia tố tụng để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự ngày một nhiều hơn. Với sự am hiểu
pháp luật, với kinh nghiệm và kỹ năng nghề nghiệp, Luật sư đã góp phần
không nhỏ vào việc làm sáng tỏ sự thật khách quan, giúp Tòa án giải quyết
đúng đắn các vụ việc dân sự, bảo vệ hiệu quả quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự, góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được cũng phải nhận thấy
rằng, vai trò hoạt động của Luật sư trong tố tụng dân sự vẫn còn gặp rất nhiều
khó khăn, bất cập. Nhận thức về vai trò của Luật sư trong tố tụng dân sự là
chưa thống nhất. Nhiều người vẫn chưa có cách nhìn đúng đắn về vai trò của
Luật sư trong tố tụng dân sự, kể cả những người tiến hành tố tụng. Họ thường
quan niệm Luật sư như những “người giúp việc”, cho rằng Luật sư tham gia
vào hoạt động tố tụng dân sự chỉ gây khó khăn, phiền hà cho cơ quan tiến
hành tố tụng; hiệu quả, vai trò hoạt động của Luật sư trong tố tụng dân sự trên
thực tế đạt được chưa cao; chất lượng đội ngũ Luật sư trong tố tụng dân sự
chưa đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập kinh tế, quốc tế; đạo
đức nghề nghiệp và kỷ luật hành nghề của Luật sư vẫn chưa được nhận thức
đầy đủ, chưa trở thành ý thức tự giác đối với mỗi cá nhân Luật sư trong hành
nghề và trong cuộc sống.
Với thực trạng của việc thực hiện vai trò của Luật sư trong tố tụng dân
sự trước yêu cầu cải cách tư pháp và xu hướng hội nhập quốc tế, việc nghiên
cứu nâng cao vai trò của Luật sư trong tố tụng dân sự là một đòi hỏi cấp thiết
10. 3
của một nền công lý và dân chủ Xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Cũng chính vì
vậy, tác giả lựa chọn đề tài: “Vai trò của Luật sư trong trong tố tụng dân sự”
làm đề tài nghiên cứu luận văn của mình với mong muốn sẽ có cách nhìn toàn
diện và sâu sắc hơn về thực trạng thực hiện vai trò của Luật sư trong lĩnh vực
tố tụng dân sự. Qua đó, có thể đánh giá được vai trò của Luật sư trong tố tụng
dân sự đối với công cuộc cải cách tư pháp cũng như trong đời sống xã hội.
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, tác giả đưa ra các kiến nghị nhằm khắc phục
những hạn chế, tiêu cực, từng bước nâng cao và khẳng định vai trò của Luật
sư trong tố tụng dân sự.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu vị trí, vai trò và hoạt động của luật sư trong tố tụng
dân sự là rất quan trọng. Không chỉ có ý nghĩa trong chiến lược cải cách Tư
pháp mà còn có ý nghĩa rất lớn với chính đội ngũ Luật sư. Trong thời gian
vừa qua, đã có nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến các khía cạnh khác
nhau dưới các mức độ khác nhau về vai trò của Luật sư trong tố tụng dân sự.
Có thể điểm qua một số công trình nghiên cứu và các bài viết có liên quan
đến vai trò của Luật sư trong tố tụng dân sự như sau: “Đạo đức & kỹ năng
của Luật sư trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”,
PGS.TS Lê Hồng Hạnh, Nxb Đại học sư phạm, năm 2002; “Chuyên đề về
Pháp lệnh Luật sư năm 2001”, Bộ Tư pháp, Tạp chí Dân chủ & pháp luật,
tháng 12/2001; “Chuyên đề về Luật sư”, Bộ Tư pháp, Tạp chí Dân chủ &
pháp luật, Hà nội năm 2006, tháng 12/2001; “Bút ký luật sư” tập 1, TS.LS
Phan Trung Hoài, NXB Tư pháp, Hà Nội 2005; “Vị trí và vai trò của Luật sư
trong tố tụng dân sự”, Luận văn thạc sĩ, Trần Phương Thảo, Đại học Luật Hà
Nội, năm 2004; “Mối quan hệ giữa Luật sư với các cơ quan tiến hành tố tụng
và người tiến hành tố tụng”, của tác giả Nguyễn Tiến Đạm, Tạp chí dân chủ
& pháp luật, số 11 năm 2002; “Luật sư – một nghề khó khăn”, Phan Trung
11. 4
Hoài, Tạp chí dân chủ & pháp luật, số 01 năm 1999; “Vai trò của Luật sư
trong tố tụng dân sự”, Đinh Văn Thanh; Báo cáo tham luận tại Hội thảo về
tranh tụng trong tố tụng dân sự, Hà Nội, ngày 13/03/2004...v.v.
Các công trình nghiên cứu trên chủ yếu đề cập đến khái niệm Luật sư,
quá trình phát triển của nghề Luật sư, cũng như vị trí, vai trò của Luật sư
trong tố tụng dân sự một cách chung chung mà chưa đi sâu vào nghiên cứu
phân tích về pháp luật hiện hành về vai trò Luật sư, thực trạng thực hiện vai
trò của Luật sư trong TTDS. Ngoài ra, một số công trình được thực hiện trước
khi ban hành Luật Luật sư và Luật Luật sư sửa đổi nên không còn tính thời
sự. Do vậy, đề tài“Vai trò của Luật sư trong trong tố tụng dân sự” rất cần
được tiếp tục nghiên cứu và luận giải sâu sắc hơn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
a. Mục đích nghiên cứu luận văn:
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về vai trò của Luật sư trong
TTDS.
- Làm rõ những điểm hạn chế, bất cập trong các quy định của pháp luật
luật Việt Nam hiện hành về vai trò của Luật sư trong TTDS và những vướng
mắc trong quá trình thực hiện vai trò của Luật sư trong thực tiễn.
- Tìm ra những giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện vai
trò của Luật sư trong quá trình tham gia TTDS tại các cấp Tòa án.
b. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Xây dựng khái niệm Luật sư, đặc điểm, ý nghĩa về sự tham gia tố tụng
của Luật sư trong TTDS. Đồng thời nghiên cứu lược sử các quy định của
pháp luật về vai trò của Luật sư trong TTDS và điểm lại các quy định pháp
luật về vai trò của Luật sư ở một số nước đại diện cho các hệ thống pháp luật
cơ bản trên thế giới.
12. 5
- Phân tích cụ thể để làm rõ vai trò của Luật sư trong TTDS theo pháp
luật hiện hành.
- Làm rõ thực trạng hoạt động của Luật sư, phân tích nguyên nhân để
từ đó đưa ra các kiến nghị nhằm nâng cao hơn nữa vai trò của Luật sư trong
TTDS
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Dựa trên cơ sở mục tiêu nghiên cứu của đề tài, đối tượng và phạm vi
nghiên cứu của đề tài được xác định là:
- Nghiên cứu các quy định của pháp luật TTDS Việt Nam về Luật sư
với vai trò đại diện theo ủy quyền của đương sự hoặc Luật sư với vai trò là
người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của đương sự.
- Nghiên cứu một số quy định của pháp luật TTDS của một số nước
trên thế giới về vai trò của Luật sư trong TTDS để có thể so sánh với các quy
định của pháp luật Việt Nam, từ đó làm rõ hơn vai trò của Luật sư trong
TTDS Việt Nam.
- Nghiên cứu thực trạng hoạt động của Luật sư trong TTDS, kiến nghị
các giải pháp nâng cao hơn nữa vai trò của Luật sư trong TTDS.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận:
Luận văn được hoàn thành dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác – Lê Nin về Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng cộng sản
Việt Nam về cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam
XHCN. Do đó, các kiến nghị về hoàn thiện pháp luật đều dựa trên các quan
điểm chỉ đạo nêu trên.
- Phương pháp nghiên cứu:
Để hoàn thiện đề tài nghiên cứu của mình, Tác giả sử dụng kết hợp các
phương pháp:
13. 6
- Phương pháp phân tích được sử dụng nhằm làm rõ những vấn đề về lý
luận và thực tiễn về Luật sư và vị trí, vai trò của Luật sư trong tố tụng dân sự.
- Nghiên cứu lịch sử được sử dụng nhằm nghiên cứu rõ hơn các quy
định của pháp luật Việt Nam về vai trò của Luật sư trong tố tụng dân sự đã
được ghi nhận trong các văn bản pháp luật trước đây.
- Phương pháp so sánh được sử dụng đối chiếu, so sánh với pháp luật
của một số nước trên thế giới nhằm tham khảo, tiếp thu kinh nghiệm.
- Phương pháp thống kê được sử dụng trong việc thống kê các số liệu
trong thực tiễn hoạt động hành nghề của Luật sư làm cơ sở cho việc đưa ra
những nhận xét, kết luận và kiến nghị các biện pháp nâng cao vai trò của
Luật sư.
- Phương pháp tổng hợp được sử dụng trong việc tổng hợp các vấn đề
đã nghiên cứu nhằm đưa ra những nhận định và những kết luận.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu có tính hệ thống về những vấn đề
liên quan đến vai trò của Luật sư trong tố tụng dân sự. Khái niệm, các đặc
trưng và ý nghĩa về sự tham gia của Luật sư trong tố tụng dân sự được phát
hiện và phân tích một cách đầy đủ, sâu sắc, làm cơ sở cho việc luận giải
những vấn đề có liên quan đến vai trò của Luật sư trong tố tụng dân sự. Trên
cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận về vai trò của Luật sư khi tham gia tố
tụng dân sự, Luận văn đã phân tích làm rõ thực trạng pháp luật hiện hành về
vai trò của Luật sư, về điều kiện tham gia tố tụng, các hoạt động cụ thể của
Luật sư cũng như quyền và nghĩa vụ của Luật sư trong tố tụng dân sự.
- Luận văn phân tích, đánh giá một cách toàn diện và sâu sắc những kết
quả đã đạt được cũng như những hạn chế vướng mắc Luật sư gặp phải trong
quá trình thực hiện vai trò của mình khi tham gia tố tụng dân sự. Từ những
nghiên cứu này Luận văn đã chỉ rõ những hạn chế, bất cập trong các quy định
14. 7
của pháp luật cũng như những vướng mắc Luật sư gặp phải khi thực hiện vai
trò đại diện hay bảo vệ quyền lợi cho đương sự tại Tòa án. Trên cơ sở tổng
hợp kết quả nghiên cứu, Luận văn đã đề xuất các giải pháp có giá trị nhằm
nâng cao hiệu quả thực hiện vai trò của Luật sư trong tố tụng dân sự.
7. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Luận văn là công trình khoa học nghiên cứu chuyên sâu về vai trò của
Luật sư trong tố tụng dân sự. Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng
làm tài liệu tham khảo trong việc áp dụng các quy định pháp luật về vai trò
của Luật sư được thống nhất và chính xác. Đồng thời những phát hiện, đóng
góp của luận văn cũng là tài liệu có giá trị cho các cơ quan lập pháp trong quá
trình xây dựng, hoàn thiện pháp luật, là tài liệu tham khảo cho Tòa án, các
Thẩm phán có hiểu biết sâu sắc thêm về vai trò của Luật sư trong TTDS. Kết
quả nghiên cứu của Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong
công tác nghiên cứu, giảng dạy, học tập về pháp luật tại Việt Nam.
8. Về bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn được cơ cấu thành 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về Luật sư và vị trí, vai trò của Luật
sư trong tố tụng dân sự
Chương 2 : Vai trò của Luật sư trong tố tụng dân sự theo pháp luật hiện
hành
Chương 3 : Thực trạng thực hiện vai trò của Luật sư trong tố tụng dân
sự và kiến nghị.
15. 8
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ LUẬT SƯ VÀ VỊ TRÍ,
VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VỀ LUẬT SƯ VÀ Ý NGHĨA VỀ SỰ
THAM GIA TỐ TỤNG CỦA LUẬT SƯ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1.1 Khái niệm Luật sư
Có thể nói Luật sư không phải là một khái niệm quá mới, và khái niệm
này đã được các nhà nghiên cứu tiếp cận từ nhiều bình diện khác nhau nên có
thể hiểu khái niệm này từ nhiều góc độ khác nhau. Vì vậy, hiện nay chưa có
một sự thống nhất nào về định nghĩa Luật sư. Sự khác nhau trong cách hiểu
về luật sư không chỉ thể hiện trong khoa học pháp lý giữa các quốc gia, mà
còn thể hiện ngay chính trong các văn bản pháp lý và văn bản liên quan đến
khoa học pháp lý của Việt Nam. Khi nhắc đến Luật sư thì có thể hiểu đó là
danh từ chỉ người, một chức danh tư pháp độc lập, hoạt động trong lĩnh vực
pháp luật và cũng có thể hiểu Luật sư là một nghề thuộc các ngành dịch vụ
trong hệ thống ngành nghề quốc gia. Thực tế hiện nay cho thấy, có nhiều
quan điểm khác nhau về khái niệm Luật sư :
- Quan điểm thứ nhất: Theo các tác giả của Trung tâm ngôn ngữ và văn
học Việt Nam thuộc Bộ giáo dục và đào tạo thì Luật sư được hiểu là “người
chuyên bào chữa cho đương sự trước Tòa án theo pháp luật hoặc làm cố vấn
về pháp luật nói chung” [9;tr.591].
Khái niệm trên đã chỉ ra được đặc điểm của Luật sư là người chuyên
dựa vào pháp luật, căn cứ theo pháp luật để tham gia tố tụng tại Tòa án hoặc
cố vấn cho khách hàng. Như vậy, trong khái niệm này đã chỉ được rõ hai hoạt
động chính yếu nhất của Luật sư là hoạt động tranh tụng và hoạt động tư vấn.
Khái niệm này được xuất phát từ thực tiễn hành nghề Luật sư được gắn bó
16. 9
chặt chẽ với hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử của Tòa án
nhất là các vụ án hình sự. Đây cũng là khái niệm có phần chính xác nếu chúng
ta đặt nó vào giai đoạn đầu tiên khi hình thành nghề Luật sư.
Tuy nhiên, khái niệm về Luật sư nói trên vẫn còn chưa thực sự đầy đủ
về mặt ngữ nghĩa, chưa đủ rộng để bao quát các hoạt động của Luật sư, bởi
các lý do sau đây:
Thứ nhất, “bào chữa” là hoạt động của Luật sư khi tham gia tố tụng
hình sự. Khi tham gia tố tụng hình sự thì Luật sư có vị trí là người bào chữa
cho bị can, bị cáo. Còn để bảo vệ quyền và lợi ích cho “đương sự” trong tố
tụng dân sự thì Luật sư không thực hiện vai trò “bào chữa” trước Tòa án, mà
bằng quyền tranh luận và tranh tụng tại phiên tòa, Luật sư “bảo vệ quyền lợi
cho đương sự”. Do vậy, khái niệm trên chưa thể hiện được hết vai trò của
Luật sư trong việc bảo vệ quyền lợi cho các chủ thể theo luật định.
Thứ hai, khi khẳng định là “người làm cố vấn pháp luật nói chung” thì
không chỉ ra được đặc thù của Luật sư để phân biệt với khái niệm Luật gia.
Luật gia (Jurist) là người có kiến thức về pháp luật, chuyên gia luật. Có thể
hiểu đó là tất cả những người tốt nghiệp đại học luật (cử nhân luật trở lên);
hoặc vận dụng ở Việt Nam có thể bao gồm cả những người tuy không có bằng
cử nhân luật, nhưng có kiến thức về pháp luật và đang hoạt động trên các lĩnh
vực pháp luật, trong đó có cả các Luật sư. Hội viên Hội luật gia Việt Nam
được hiểu theo nghĩa này. Luật sư (Lawyer), là luật gia được đào tạo thêm về
kỹ năng hành nghề, được gia nhập Đoàn Luật sư, qua đó được công nhận là
Luật sư để hành nghề chuyên nghiệp trong lĩnh vực tranh tụng và tư vấn pháp
luật. Như vậy, Luật sư có thể là thành viên Hội luật gia, nhưng luật gia thì
chưa hẳn đã phải là Luật sư.
17. 10
- Quan điểm thứ hai: Theo GS.TS Lê Hồng Hạnh thì “Luật sư là
chuyên gia pháp luật; là cố vấn pháp lý mà ở họ có kỹ năng nghề nghiệp thực
thụ” [8;tr.14].
Với quan điểm thứ hai này, khái niệm Luật sư cho thấy tác giả đã bổ
sung thêm yếu tố kỹ năng hành nghề - yếu tố rất quan trọng của một Luật sư.
Do đó khái niệm Luật sư này đã bao gồm được hai đặc điểm đặc trưng cần có
của người Luật sư nói chung. Đó là sự am hiểu pháp luật và kỹ năng hành
nghề. Vì hiện nay, các quốc gia trên thế giới đều quan niệm Luật sư là một
nghề, và đã là một nghề thì yêu cầu về tiêu chuẩn hành nghề và đào tạo nghề
là rất cần thiết, do đó yêu cầu nhất thiết đối với các Luật sư là có kỹ năng
hành nghề thành thục. Kỹ năng này được đào tạo trong thực tế. Một Luật sư
thường phải có các kỹ năng cần thiết như kỹ năng phán đoán, kỹ năng tư duy
khái quát, kỹ năng phân tích, tổng hợp, đánh giá sự việc, kỹ năng thuyết trình
hùng biện, nghệ thuật đặt câu hỏi, đàm phán thương lượng... Tại Việt Nam,
sau khi tốt nghiệp đại học chuyên ngành luật thì các sinh viên có thể đi làm và
trở thành luật gia. Tuy nhiên muốn trở thành Luật sư thì nhất thiết phải trải
qua một lớp đào tạo hành nghề Luật sư tại Học viện Tư pháp. Ngoài học lý
thuyết, các học viên còn phải trải qua một thời gian là 18 tháng tập sự hành
nghề Luật sư.
Tuy nhiên, hai đặc điểm đặc trưng của Luật sư trên đây chỉ là những
yếu tố cần mà chưa đủ để xây dựng một khái niệm Luật sư hoàn chỉnh bởi
vẫn chưa đưa ra được đặc điểm đặc biệt quan trọng của người Luật sư mà
những nước có nghề Luật sư lâu đời đều quy định là “phẩm chất đạo đức
nghề nghiệp của Luật sư”. Ngoài các yêu cầu về kiến thức, kỹ năng thì yêu
cầu đạo đức nghề nghiệp cũng rất quan trọng.
Nghề Luật sư cũng như một số nghề khác như nghề y, nghề dạy học ...
luôn luôn được xã hội tôn trọng. Như Platon, một nhà triết học Hy Lạp nổi
18. 11
tiếng đã nói: “Những kiến thức chuyên môn của bác sỹ giúp họ cứu chữa cho
người bệnh nhưng cũng có thể đầu độc người bệnh”. Chủ tịch Hồ Chí Minh
cũng khẳng định “Có tài mà không có đức là người vô dụng, có đức mà
không có tài thì làm việc gì cũng khó”. Nghề Luật sư cũng như bất kỳ một
nghề chuyên môn nào khác cũng có những mặt trái. Do vậy, Luật sư cũng
phải biết sử dụng kiến thức chuyên môn của mình sao cho vừa bảo vệ khách
hàng lại vừa tôn trọng sự thật khách quan của vụ việc. Bên cạnh những tiêu
chuẩn về chuyên môn nghề nghiệp thì đạo đức nghề nghiệp là yếu tố rất quan
trọng với Luật sư, đây là tiêu chuẩn không thể thiếu khi xây dựng một tiêu
chuẩn Luật sư trong thời kỳ đổi mới. Có như thế Luật sư mới đảm bảo tốt
được sứ mệnh mà mình gánh vác.
Ngoài hai quan điểm nêu trên còn có nhiều cách giải thích khác nhau
về nghề Luật sư. Có quan niệm cho rằng Luật sư là người trợ lý pháp luật cho
khách hàng, là người đồng hành pháp lý với Tòa án, là người trợ thủ pháp
luật xã hội hoặc Luật sư là người phụ tá của công lý, tham gia vào sự điều
hành của nền công lý ... Các quan niệm này có lẽ được xuất phát từ vai trò, ý
nghĩa của người Luật sư khi hành nghề với những hình thức khác nhau: tư
vấn, tranh tụng…dựa trên cơ sở tuyệt đối tuân thủ pháp luật. Những quan
điểm này quá trừu tượng không giúp chúng ta nhận biết được đặc điểm của
người Luật sư và không phân biệt được Luật sư với những người khác trong
xã hội. Việc quá đề cao vị trí, vai trò của Luật sư đến mức coi Luật sư là
người “phụ tá”, người “điều hành công lý” … giống như người điều hành bộ
máy tư pháp, theo chúng tôi cũng là không chính xác. Bởi Luật sư dù có thể
gọi theo nhiều tên khác nhau, song suy cho cùng Luật sư không có vị trí
ngang hàng với người tiến hành tố tụng.
Cho đến nay, mặc dù có nhiều quan niệm khác nhau, song vẫn có thể
khẳng định vẫn chưa có được một khái niệm chính xác, đầy đủ về Luật sư. Có
19. 12
một số quan điểm khác đáng chú ý như theo quan điểm của Thạc sỹ Trần
Phương Thảo thì Luật sư được hiểu “là khái niệm pháp lý dùng để chỉ một
chức danh tư pháp độc lập; theo đó những người có đủ điều kiện hành nghề
Luật sư theo quy định của pháp luật Việt Nam được Bộ Tư Pháp Việt Nam
công nhận quyền tham gia tố tụng; tư vấn pháp luật và thực hiện các dịch vụ
pháp lý khác nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức và
bảo vệ pháp chế XHCN” [4;tr.22]. Trong khái niệm trên, tác giả Trần
Phương Thảo đã nêu một khái niệm về Luật sư. Khái niệm này khá thống
nhất với những điều kiện, tiêu chuẩn về Luật sư theo quy định của các văn
bản pháp luật về Luật sư. Theo đó, luật sư phải là người đáp ứng các tiêu
chuẩn sau đây:
- Tốt nghiệp đại học luật hoặc chuyên ngành luật.
- Không vi phạm pháp luật hoặc trong tình trạng nghi vấn có hành vi
vi phạm pháp luật.
- Đạt độ tuổi nhất định
- Trải qua các khóa đào tạo Luật sư và có thời gian tập sự đầy đủ theo
quy định.
Đây là điều kiện bắt buộc đối với Luật sư ở bất cứ quốc gia nào. Điều
này xuất phát từ tính chất đặc thù của nghề Luật sư là một nghề đòi hỏi sự đúc
kết kinh nghiệm và thông qua thực tế rất lớn. Để có thể vận dụng những kiến
thức sách vở, những quy định cứng nhắc vào hoàn cảnh khác nhau, biến
chúng thành những phương án linh hoạt, sử dụng chúng như công cụ đắc lực
đem lại lợi ích cho khách hàng, đòi hỏi người Luật sư phải có sự học hỏi từ
những người đi trước và có thời gian thực hành khá nhuần nhuyễn. Do vậy,
đây được xem như giai đoạn mang tính chất quyết định để một người chứng
minh mình có quyết tâm và khả năng mình có thể trở thành một Luật sư, một
luật gia giỏi hay không.
20. 13
Ngoài những điều kiện cơ bản nêu trên, pháp luật mỗi quốc gia có thể
đặt ra những quy định riêng khác về điều kiện trở thành Luật sư.
Góc nhìn nghiên cứu này về các điều kiện về tiêu chuẩn Luật sư và
điều kiện hành nghề Luật sư ở Việt Nam được thể hiện khá cụ thể tại các điều
10, 11,12 của Luật Luật sư. Theo đó, người có đủ điều kiện trở thành Luật sư
chỉ được gọi là Luật sư và được phép hành nghề khi hội tụ đủ hai điều kiện:
được cấp chứng chỉ hành nghề Luật sư và đã gia nhập một Đoàn Luật sư do
mình lựa chọn.
Việc pháp luật có sự điều chỉnh cần thiết về điều kiện tiêu chuẩn Luật
sư và điều kiện hành nghề Luật sư không những bảo đảm sự thống nhất về tiêu
chuẩn đối với các chức danh tư pháp, mà còn tạo cơ sở để gắn kết quá trình đào
tạo nghề và hoạt động nghề nghiệp của Luật sư với các chức danh tư pháp
khác. Việc quy định cụ thể tiêu chuẩn Luật sư góp phần tạo điều kiện thuận lợi
cho việc xem xét cấp Chứng chỉ hành nghề Luật sư, thu hồi Chứng chỉ hành
nghề Luật sư, cho đăng ký gia nhập Đoàn Luật sư. Mặt khác, quy định cụ thể
về tiêu chuẩn Luật sư cũng nhằm mục tiêu nâng cao chất lượng của đội ngũ
Luật sư, tiếp tục phát triển hoạt động Luật sư theo hướng chuyên nghiệp hoá
thành một nghề. Xét theo luật thực định thì Luật Luật sư 2006 đã bỏ đi cụm từ
“Bằng hoạt động của mình, Luật sư góp phần bảo vệ công lý, công bằng xã hội
và pháp chế XHCN” thay vào đó là một khái niệm xúc tích nhưng lại phản ảnh
đầy đủ nội hàm của khái niệm Luật sư theo hướng một nghề dịch vụ xã hội
theo quy định chung của các quốc gia khác trên thế giới. Việc thay đổi như vậy
không làm giảm đi vị thế của Luật sư bởi vì Luật sư là một bộ phận cơ bản cấu
thành nên các thiết chế dân chủ trong hệ thống tư pháp. Hơn nữa, Việt Nam
luôn quán triệt xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì
dân, bên cạnh bảo vệ quyền lợi khách hàng thì Luật sư luôn phải có ý thức xây
dựng pháp chế XHCN như một nghĩa vụ tất yếu.
21. 14
Dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn đã phân tích, luận giải trên đây, tác
giả mạnh dạn đưa ra một định nghĩa về Luật sư như sau: Luật sư là một khái
niệm pháp lý dùng để chỉ một chức danh pháp lý độc lập, theo đó những
người có đủ các điều kiện về năng lực chủ thể, kiến thức pháp lý, kỹ năng
hành nghề được Cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận tư cách trong
việc tiến hành các hoạt động nghề nghiệp theo yêu cầu của khách hàng trên
cơ sở tôn trọng pháp luật và đạo đức nghề nghiệp.
1.1.2. Đặc điểm của Luật sư
Từ khái niệm Luật sư đã được trình bày và phân tích ở phần trên có thể
thấy so với các chức danh Tư pháp khác Luật sư có những đặc điểm sau:
- Luật sư là một chức danh tư pháp độc lập
Khi tham gia vào hoạt động tố tụng dân sự (là một trong những hoạt
động chủ yếu của hoạt động tư pháp) Luật sư tham gia với vai trò là người
tham gia tố tụng. Luật sư không phải là “nhân viên” Nhà nước, không chịu
sự điều chỉnh bởi các “mệnh lệnh” hành chính. Cũng giống như Việt Nam,
các Luật sư Nhật Bản thường tự gọi mình là “các luật gia không có quyền
lực” và gọi Thẩm phán và Công tố viên là “luật gia có quyền lực”
[38,Tr.152]. Xuất phát từ việc không có quyền lực như vậy mới đảm bảo
tính độc lập của Luật sư.
- Luật sư là người có đủ các điều kiện về năng lực chủ thể, kiến thức
pháp lý, kỹ năng hành nghề được Cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận
Luật sư hành nghề bằng kiến thức pháp luật, kỹ năng nghề nghiệp của
cá nhân Luật sư. Nói cách khác, phẩm chất và năng lực cá nhân của Luật sư là
yếu tố quyết định trong nghề Luật sư. Người muốn hành nghề Luật sư phải
được công nhận là Luật sư. Tiêu chuẩn phổ biến của các nước để được công
nhận là Luật sư và được cấp chứng chỉ hành nghề bao gồm: Là công dân của
nước sở tại; có bằng cử nhân luật; có phẩm chất đạo đức tốt. Bên cạnh đó là
22. 15
các điều kiện khác như: phải trải qua khóa đào tạo Luật sư, kỳ thi công nhận
Luật sư; có thời gian tập sự hành nghề... Đây là những điều kiện cơ bản. Tuy
nhiên, theo quy định của pháp luật một số quốc gia Hồi giáo như A rập- xê-út
thì những người muốn làm Luật sư phải theo học một khóa “thần học”
[43;Tr.112] mà không đào tạo tại các trường đào tạo chức danh tư pháp như
truyền thống của các quốc gia trên thế giới.
Ở nước ta hiện nay thì tiêu chuẩn trở thành Luật sư bao gồm những
điều kiện là: Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc; tuân thủ Hiến pháp
và pháp luật; có phẩm chất đạo đức tốt; có bằng cử nhân luật; đã được đào tạo
nghề Luật sư, đã qua thời gian tập sự hành nghề Luật sư; có sức khoẻ bảo
đảm hành nghề Luật sư và gia nhập một Đoàn luật sư.
Như vậy, quy định của pháp luật Việt Nam về tiêu chuẩn, điều kiện
hành nghề Luật sư cũng có sự tương đồng với quy định của các nước có nghề
Luật sư đang phát triển.
- Luật sư được tiến hành các hoạt động nghề nghiệp theo yêu cầu của
khách hàng trên cơ sở tôn trọng pháp luật và đạo đức nghề nghiệp
Luật sư tiến hành các hoạt động nghề nghiệp trên cơ sở yêu cầu của
khách hàng trong phạm vi hành nghề mà pháp luật quy định. Theo đó phạm
vi hành nghề của Luật sư là rất rộng với các công việc sau:
+ Tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện hoặc người bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan trong các vụ án về tranh chấp dân sự, hôn nhân, gia đình, kinh
doanh, thương mại, lao động, hành chính, việc về yêu cầu dân sự, hôn nhân,
gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và các vụ việc khác theo quy định
của pháp luật
+ Thực hiện tư vấn pháp luật.
23. 16
+ Đại diện ngoài tố tụng cho khách hàng để thực hiện các công việc có
liên quan đến pháp luật
+ Thực hiện dịch vụ pháp lý khác theo quy định của pháp luật
Khi thực hiện các hoạt động nghề nghiệp của mình Luật sư phải tôn
trọng pháp luật và đạo đức nghề nghiệp
Phẩm chất đạo đức là một trong những tiêu chuẩn quan trọng đối với
Luật sư. Luật sư là người hành nghề pháp luật, giúp đỡ về mặt pháp lý cho cơ
quan, tổ chức, cá nhân. Do vậy, Luật sư trước hết phải là người có ý thức tuân
thủ pháp luật, quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp. Để duy trì uy tín và
danh dự nghề nghiệp, Luật sư còn phải là người trung thực trong cuộc sống,
có bản lĩnh nghề nghiệp. Đồng thời khi hành nghề Luật sư luôn phải kết hợp
việc bảo vệ quyền lợi cho cá nhân, tổ chức với việc bảo vệ lợi ích của Nhà
nước và của xã hội.
- Luật sư là chức danh bất khả kiêm nhiệm:
Theo quy định của Pháp lệnh 1987 thì Luật sư có thể là cán bộ, công
chức trong cơ quan nhà nước hay là giảng viên trong các trường giảng dạy
pháp lý... Tuy nhiên, theo quy định của Luật Luật sư hiện nay, Luật sư không
thể kiêm nhiệm nhiều chức danh. Điều này giúp hoạt động Luật sư thực sự là
một hoạt động độc lập. Luật sư không bị chi phối bởi nhiều yếu tố bên ngoài
đặc biệt là yếu tố quản lý hành chính nhà nước. Luật sư chỉ chịu sự điều chỉnh
của Hiệp hội nghề nghiệp là Liên đoàn Luật sư Việt Nam và Đoàn Luật sư mà
Luật sư đó tham gia. Quy định như vậy giúp Luật sư an tâm hơn khi tham gia
tố tụng, không chịu áp lực “Cơm, áo, gạo, tiền” nên có thể tập trung chuyên
môn vào hoạt động nghề nghiệp của mình.
Do đó, đặc điểm bất khả kiêm nhiệm của Luật sư hiện nay không chỉ
bảo đảm hoạt động này mang tính chuyên nghiệp, Luật sư hoạt động được độc
lập mà còn góp phần nâng cao vị trí, vai trò của Luật sư trong xã hội, đồng thời
24. 17
cũng tạo điều kiện để Luật sư có thể chuyên tâm với nghề nghiệp, đáp ứng nhu
cầu giúp đỡ pháp lý ngày càng phong phú và phức tạp của nhân dân.
- Luật sư phải tham gia Đoàn luật sư mới được hành nghề
Đây là đặc thù của nghề luật sư so với các nghề tự do khác như kế toán,
kiểm toán, bác sĩ ... Có quy định như vậy nhằm để kiểm soát hoạt động của
Luật sư về đạo đức nghề nghiệp và kỷ luật hành nghề. Mặt khác giúp các Luật
sư có thể đoàn kết trong một tổ chức xã hội nghề nghiệp, qua đó tiếng nói của
“giới Luật sư” cũng như vai trò của Luật sư ngày càng được nâng cao trong
xã hội. Khi tham gia vào Đoàn Luật sư giúp các Luật sư nâng cao cả thế và
lực. Bên cạnh đó các Luật sư cũng có điều kiện nâng cao hơn kiến thức pháp
lý, chuyên môn nghề nghiệp bởi vì được cọ sát, trao đổi kinh nghiệm với các
Luật sư khác khi tham gia vào Đoàn Luật sư.
- Luật sư độc lập, tự chịu trách nhiệm trong hành nghề
Luật sư độc lập, tự chịu trách nhiệm trong hành nghề, trong đó có trách
nhiệm bồi thường thiệt hại vật chất mà Luật sư gây ra cho khách hàng; trách
nhiệm vật chất của Luật sư là trách nhiệm vô hạn. Để bảo đảm quyền lợi của
khách hàng, Công ty luật có nghĩa vụ mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp
cho Luật sư của mình để bồi thường thiệt hại gây ra cho khách hàng. Những
Luật sư hành nghề tự do cũng phải mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp
cho mình.
1.1.3. Ý nghĩa về sự tham gia của Luật sư trong tố tụng dân sự
Trên thế giới, nghề Luật sư được tổ chức theo nhiều hình thức và rất đa
dạng, xuất phát từ đặc điểm lịch sử, văn hóa, hệ thống pháp luật của mỗi quốc
gia. Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau về nghề Luật sư nhưng đều có
chung một cách nhìn nhận: Luật sư là một nghề trong xã hội, là công cụ hữu
hiệu góp phần bảo vệ công lý. Tùy thuộc vào điều kiện của mỗi quốc gia mà
có sự nhận thức khác nhau về vai trò, vị trí của Luật sư. Nghề Luật sư và vai
25. 18
trò của Luật sư luôn có sự thay đổi phụ thuộc vào sự phát triển khách quan
của nền kinh tế xã hội. Ở Việt nam hiện nay, nhiệm vụ của Luật sư trước hết
góp phần bảo vệ pháp chế XHCN bằng việc hướng dẫn cho khách hàng hiểu
biết và thi hành đúng pháp luật, phục vụ công lý, bảo vệ những quyền của
công dân đã được Hiến Pháp và pháp luật quy định. Sự tham gia của Luật sư
trong tố tụng dân sự sẽ mang lại ý nghĩa rất quan trọng:
- Giúp các đương sự có được sự cân bằng trong “cuộc đấu tranh
pháp lý”:
Trong cuộc sống hàng ngày người dân có rất nhiều mối quan hệ với
nhau và mối quan hệ với các cơ quan tổ chức. Có quan hệ nghĩa là có sự tác
động qua lại, không thể tránh khỏi mâu thuẫn, xung đột quyền lợi giữa các
bên. Những mâu thuẫn khi phải giải quyết tại Tòa án thì thường là sự đụng
chạm nhạy cảm nhất đến quyền công dân. Nhiều đương sự là người bị hạn
chế bởi trình độ văn hóa, nhất là hiểu biết pháp luật nên mặc dù pháp luật quy
định cho họ các quyền được thực hiện để tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình, nhưng trên thực tế bản thân đương sự khó mà tự bảo vệ quyền lợi
của mình một cách đầy đủ và toàn diện. Tổ chức Luật sư được thành lập để
giúp cho công dân về mặt pháp lý. Luật sư là người am hiểu pháp luật có kinh
nghiệm trong hoạt động pháp luật, họ sẽ là người giúp cho người dân về mặt
pháp lý một cách hiệu quả nhất khi có vụ việc xảy ra liên quan đến pháp luật,
đặc biệt là những vụ việc phải nhờ đến sự giải quyết của Tòa án. Luật sư là
người hướng dẫn đương sự về những vấn đề liên quan đến pháp luật, giúp họ
thực hiện các quyền mà pháp luật quy định cho họ cũng như nhắc nhở đương
sự xử xự theo đúng quy định của pháp luật. Việc tư vấn pháp luật cho đương
sự của Luật sư góp phần không nhỏ cho việc giải quyết các tranh chấp xảy ra
trong đời sống xã hội, ngăn chặn những hành vi vi phạm pháp luật, giảm bớt
26. 19
phiền hà cho cơ quan nhà nước khi người dân thiếu hiểu biết, đi khiếu kiện,
khiếu nại vô căn cứ.
- Giúp khách hàng tránh được những khiếu kiện vô căn cứ không
đáng có:
Thông thường khi khách hàng tìm đến với Luật sư, họ thường đặt lòng
tin trông chờ vào Luật sư sẽ giúp được cho họ những vướng mắc mà họ đang
giải quyết. Sự việc họ kể lại thường không đầy đủ, thậm chí có thể có cả sự
suy diễn và nhận thức chủ quan của họ. Bởi vậy, Luật sư không chỉ đánh giá
sự việc qua lời kể của khách hàng mà phải có những biện pháp nghề nghiệp
giúp đương sự trình bày đầy đủ, trung thực qua đó Luật sư nắm bắt được thực
chất của sự việc và có tư vấn đúng cho khách hàng.
Trong hoạt động nghề nghiệp Luật sư, tiêu chí đầu tiên là nhìn vào hiệu
quả thực tế mà Luật sư mang lại cho đương sự. Trong trường hợp có cơ sở,
Luật sư có thể khuyến khích cho đương sự thỏa hiệp hay chấp nhận đề nghị
của đối phương nhằm mang lại cho thân chủ những lợi ích thiết thực, tránh
cho thân chủ bị lôi vào vòng kiện tụng phiền toái vô ích. Nếu khách hàng tỏ ra
không hiểu tình trạng hoặc bản chất đích thực của vấn đề tranh chấp, ngoài
việc đưa ra ý kiến, Luật sư sẽ cung cấp cho khách hàng những giải thích cần
thiết, phù hợp với mục đích cuối cùng là khách hàng hiểu ra tình trạng của họ.
- Tuyên truyền, giáo dục pháp luật:
Ngoài việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, là người
hiểu biết pháp luật thông qua việc hành nghề, Luật sư còn dùng kiến thức
kinh nghiệm thực tế của mình để góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Trong quá trình hoạt động của mình Luật sư sẽ chú ý tới những hạn chế trong
việc thực thi pháp luật, những tiêu cực trong cơ quan hành pháp, cơ quan tố
tụng, từ đó có ý kiến, kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và góp phần nâng
cao trình độ, trách nhiệm của những người thực thi pháp luật.
27. 20
1.2 VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
Vị trí, vai trò của Luật sư trong tố tụng dân sự là một vấn đề quan trọng
cần nghiên cứu trước khi xem xét hoạt động cụ thể của Luật sư khi tham gia
tố tụng. Luật sư trong tố tụng dân sự (TTDS) một mặt giống Luật sư ở những
lĩnh vực khác nhưng cũng có những điểm đặc thù. Luật sư trong tố tụng dân
sự được hiểu là hoạt động nghề nghiệp của các Luật sư tiến hành với vai trò
đại diện hay với vai trò là người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự.
Như chúng ta đã biết, hoạt động tố tụng dân sự là một hoạt động tư
pháp được quy định chặt chẽ bởi BLTTDS. Do vậy, yêu cầu đặt ra là mọi hoạt
động tố tụng đều phải tuân thủ chặt chẽ những quy định của pháp luật. Khi
tham gia tố tụng không chỉ Luật sư mà các thành phần khác cũng đều có một
vị trí và vai trò nhất định. Chính vị trí, vai trò đó quyết định hoàn toàn đến
hoạt động của các cá nhân, cơ quan, tổ chức khi tham gia tố tụng.
1.2.1 Vị trí của Luật sư trong tố tụng dân sự
Theo Từ điển tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học của nhà xuất bản Đà
Nẵng năm 2003 khái niệm vị trí được hiểu là “chỗ xác định dành riêng cho
người nào, vật nào đó” [49; Tr.1114]. Vậy xác định vị trí của người Luật sư
trong tố tụng dân sự chính là việc xác định chỗ được dành cho Luật sư trong
tụng dân sự khi Tòa án giải quyết một vụ việc dân sự.
Theo quy định tại Điều 64 Bộ luật Tố tụng dân sự thì Luật sư có vị trí là
người tham gia tố tụng; có vai trò bảo vệ quyền lợi cho đương sự hay đại diện
cho đương sự khi tham gia hoạt động tố tụng dân sự. Ứng với vị trí đó thì
Luật sư có quyền tham gia tố tụng từ khi khởi kiện hoặc bất cứ giai đoạn nào
trong quá trình tố tụng, có quyền tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ và
cung cấp chứng cứ cho Toà án, nghiên cứu hồ sơ vụ án; tham gia việc hoà
giải, tham gia phiên toà hoặc có văn bản bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự.
28. 21
Ở Việt Nam, mặc dù Luật sư mới được chính thức thừa nhận năm 1987
tại Pháp lệnh tổ chức Luật sư, nhưng các Luật sư đã hoạt động rất tích cực,
chứng tỏ tầm quan trọng và hiệu quả hoạt động của mình. Càng ngày Luật sư
càng đáp ứng được nguyện vọng và niềm tin mà Đảng, Nhà nước và nhân dân
giao cho. Do vậy, xác định đúng vị trí của Luật sư là một việc cần thiết và có
ý nghĩa quan trọng. Lĩnh vực chủ yếu của Luật sư là tham gia tố tụng. Tuy
nhiên, bên cạnh đó cũng có những mối quan hệ pháp lý khác. Với mỗi đối
tượng khác nhau thì ý nghĩa vị trí của Luật sư là khác nhau. Xét từ góc độ cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thì Luật sư là người tham gia
tố tụng. Việc đánh giá đúng vị trí của Luật sư sẽ tạo ra sự phối hợp giữa Tòa
án với Luật sư trong việc tìm ra sự thật khách quan của vụ việc. Bằng việc
cung cấp, đánh giá chứng cứ, tranh luận tại phiên tòa, Luật sư có thể mô tả
chính xác nội dung của vụ việc.
Trong thực tế, rất nhiều vụ việc được giải quyết nhanh chóng, đúng
pháp luật nhờ sự lắng nghe và tôn trọng các chứng cứ mà Luật sư cung cấp từ
phía Tòa án. Đối với mỗi người dân nói chung khi thực sự coi trọng vị trí của
Luật sư khi tham gia tố tụng sẽ giúp họ biết được cách thức bảo vệ mình, tìm
đến Luật sư bảo vệ quyền lợi của mình khi cần thiết và tin tưởng vào hiệu quả
hoạt động của Luật sư. Đối với bản thân mỗi Luật sư cũng cần xác định đúng
vị trí của mình trong tố tụng dân sự. Việc xác định đúng vị trí của mình giúp
Luật sư tự tin hơn, chủ động hơn trong việc bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp
của khách hàng.
1.2.2 Vai trò của Luật sư trong tố tụng dân sự
Cũng theo như cách giải thích trong cuốn Từ điển nêu trên khái niệm
“vai trò” được hiểu là “tác dụng chức năng trong hoạt động, sự phát triển
của cái gì đó” [49;Tr.1095].
29. 22
Nói tới vai trò của Luật sư trong tố tụng dân sự là nói tới những tác
động, ảnh hưởng của Luật sư đối với các cá nhân, tổ chức trong quá trình hoạt
động của mình đối với xã hội thông qua các chức năng cao quý của nghề
nghiệp, góp phần vào quá trình xây dựng và phát triển dân chủ, tạo lập công
bằng xã hội. Khẳng định vai trò của Luật sư trong công cuộc xây dựng nhà
nước pháp quyền là khẳng định nguyên tắc “Thượng tôn pháp luật”, coi pháp
luật là thước đo giá trị công bằng, chuẩn mực ứng xử của chủ thể trong xã hội.
Là người có kiến thức pháp luật, Luật sư là cầu nối chuyển tải pháp luật vào
đời sống phục vụ hiệu quả cho việc quản lý nhà nước. Đội ngũ Luật sư
chuyên nghiệp được hình thành sẽ là một bộ phận quan trọng góp phần tạo thế
ổn định trong phát triển xã hội, bộ máy nhà nước có được sự trợ giúp pháp lý
để vận hành và quyết sách đúng đắn, tố tụng tư pháp có được sự đối trọng cần
thiết tạo ra bản chất dân chủ trong hoạt động, người dân có được chỗ dựa về
mặt pháp lý bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước các biểu hiện
xâm phạm.
Trong pháp luật Tố tụng dân sự vai trò của Luật sư được thể hiện trên
những khía cạnh sau :
- Vai trò của Luật sư trong việc đại diện cho các đương sự trong tố
tụng dân sự
Người đại diện cho đương sự trong tố tụng có nhiều loại: Đại diện theo
pháp luật (hay là đại diện đương nhiên) trong trường hợp nếu đương sự là
người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần; hay
đại diện theo chỉ định của Tòa án (phát sinh từ quyết định của Tòa án) và đại
diện theo ủy quyền. Tuy nhiên, trên thực tế, Luật sư thường tham gia tố tụng
dân sự với tư cách là người đại diện theo ủy quyền là chủ yếu.
Trong thực tiễn xét xử của Tòa án trước đây phần lớn các đương sự
trực tiếp tham gia vào tố tụng dân sự để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình.
30. 23
Chỉ trong trường hợp vì lý do khách quan nào đó như: sức khỏe, điều kiện
công tác, nghề nghiệp...khiến họ không thể trực tiếp tham gia tố tụng được thì
họ mới ủy quyền cho người mà họ tin tưởng làm đại diện cho mình tham gia
tố tụng. Tuy vậy, do điều kiện kinh tế, xã hội hiện nay đã phát triển và yêu
cầu của việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có sự thay đổi
nên đương sự đã ủy quyền cho Luật sư tham gia tố tụng nhiều hơn. Việc Luật
sư được đương sự ủy quyền tham gia tố tụng là do đương sự nhận thức được
về trình độ văn hóa, sự thiếu hiểu biết pháp luật của mình, họ tự thấy mình
không đủ hiểu biết pháp luật, không thể biết hết các thủ tục cần làm nên để
đảm bảo quyền lợi của họ trước Tòa án, họ đã nhờ Luật sư làm đại diện cho
mình tham gia các quá trình tố tụng. Do đó vai trò đại diện của Luật sư càng
ngày càng được coi trọng.
- Vai trò của Luật sư trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
các đương sự trước Toà
Cùng với vai trò là đại diện của đương sự, Luật sư còn giữ vai trò là
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự trước Tòa án. Với vai
trò này pháp luật quy định cho Luật sư những quyền và nghĩa vụ cụ thể để họ
thực hiện tốt vai trò của mình. Điều này được thể hiện rõ nhất là tại phiên tòa
xét xử, thông qua việc xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa. Luật sư được hỏi
đương sự và những người tham gia tố tụng khác về những vấn đề của vụ án.
Khi tranh luận, Luật sư phân tích, lập luận đưa ra những lý lẽ để bảo vệ cho
thân chủ của mình…
Trong thời gian qua, hoạt động tham gia tố tụng của Luật sư với vai trò
là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự đã bảo đảm thực
hiện tốt nguyên tắc tranh tụng tại phiên toà, góp phần quan trọng trong việc
thực hiện nhiệm vụ trọng tâm của cải cách tư pháp. Thực tiễn cho thấy, việc
tham gia tố tụng của các Luật sư trong tố tụng dân sự không những bảo đảm
31. 24
tốt hơn quyền bảo vệ quyền và lợi ích cho các đương sự, mà còn giúp các cơ
quan tiến hành tố tụng phát hiện, sửa chữa những thiếu sót, làm rõ sự thật
khách quan, bảo vệ pháp chế XHCN. Thông qua hoạt động bảo vệ, tranh tụng
tại Tòa án, Luật sư đã góp phần làm giảm thiểu các vụ án có sai lầm, vi phạm,
đã xuất hiện nhiều tấm gương Luật sư xuất sắc trên diễn đàn “Pháp đình”, vị
thế của Luật sư trong xã hội cũng ngày càng được nâng cao.
1.3. LƯỢC SỬ CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ
VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.3.1 Thời kỳ trước Cách mạng Tháng 8 năm 1945
Trước khi Việt Nam bị Thực Dân Pháp xâm chiếm, việc xét xử của nước
ta do quan lại phong kiến tiến hành, không có sự tham gia của Luật sư.
Sau khi thiết lập bộ máy cai trị trên toàn lãnh thổ Việt Nam, năm 1884
Toàn quyền Pháp ký sắc lệnh thành lập Luật sư đoàn tại Sài Gòn và Hà Nội
gồm có Luật sư pháp và Luật sư Việt Nam đã nhập quốc tịch Pháp. Các Luật
sư chỉ biện hộ cho người Pháp trước Tòa án Pháp hoặc người có quốc tịch
Pháp. Sắc lệnh ngày 30/01/1911, nhà cầm quyền Pháp đã mở rộng cho người
Việt Nam không có quốc tịch Pháp được làm Luật sư. Sắc lệnh cuối cùng của
người Pháp về Luật sư là Sắc lệnh ngày 25/5/1930 về tổ chức Luật sư Đoàn ở
Hà Nội, Sài Gòn và Đà Nẵng. Sắc lệnh này đã mở rộng Luật sư không chỉ
biện hộ ở Tòa án Pháp mà cả trước tòa Nam án, không chỉ bào chữa cho
người có quốc tịch Pháp mà bào chữa cho cả người không có quốc tịch Pháp.
Theo sắc lệnh này, thực dân Pháp tổ chức hội đồng Luật sư ở Hà Nội và Sài
Gòn có người Việt Nam tham gia biện hộ với các điều kiện:
+ Phải tốt nghiệp đại học khoa luật
+ Phải tập sự trong một văn phòng biện hộ của Luật sư tập sự với thời
gian 5 năm
32. 25
Sau đó phải qua sát hạch và được Hội đồng Luật sư công nhận thì mới
trở thành Luật sư chính thức, có quyền mở văn phòng tập sự và nhận khách
hàng riêng. Trước khi vào tập sự cũng như công nhận chính thức, người Luật
sư phải tuyên thệ trước Tòa án thực dân không được làm điều gì trái với pháp
luật và triệt để trung thành với chế độ thực dân.
1.3.2 Thời kỳ sau cách mạng tháng 8 năm 1945 đến nay
1.3.2.1 Thời kỳ từ 1945 đến 1975
Sau Cách mạng tháng tám năm 1945 thành công, Nhà nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa ra đời, bộ máy tư pháp được tổ chức lại. Là người luôn
quan tâm đến nghề Luật sư trong việc bảo vệ quyền và lợi ích của mỗi người
dân, đặc biệt là quyền tự do bào chữa của công dân nên chỉ sau 11 ngày kể từ
ngày đọc bản Tuyên ngôn độc lập Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh 33C
ngày 13/09/1945 về việc thành lập Tòa án quân sự trong đó khẳng định “Bị
cáo có quyền tự bào chữa hay nhờ một người khác bênh vực cho mình”. Tiếp
đó ngày 10/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 46/SL về tổ
chức Đoàn Luật sư, theo Sắc lệnh này, tổ chức các đoàn Luật sư trong nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa được tạm giữ như Sắc lệnh ngày 25/5/1930 của
người Pháp, nhưng có một số quy định quan trọng phù hợp với chế độ mới.
Sắc lệnh số 46/SL là Sắc lệnh đầu tiên về Luật sư của Việt Nam dân chủ cộng
hòa, đã thể hiện sự quan tâm của chính phủ cách mạng lâm thời và Chủ tịch
Hồ Chí Minh đối với chế định Luật sư ở nước ta. Tuy nhiên ngay sau đó, dân
tộc ta tiến hành cuộc kháng chiến chống Pháp trường kỳ, một số Luật sư đã
tham gia kháng chiến, một số Luật sư khác chuyển sang hoạt động ở lĩnh vực
khác. Số Luật sư ở chế độ cũ chuyển sang phục vụ chế độ mới và có điều kiện
tham gia tố tụng còn rất ít. Vì vậy, vào thời kỳ này hoạt động của Luật sư hầu
như bị ngừng lại do đó vai trò của Luật sư cũng không được thể hiện.
33. 26
Mặc dù vậy, văn bản quan trọng của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
là Hiến pháp đầu tiên được Quốc Hội thông qua ngày 09/11/1946 quy định
không quên khẳng định các quyền con người, trong đó quy định “Các phiên
tòa đều xét xử công khai, trừ trường hợp đặc biệt, người bị cáo có quyền bào
chữa lấy hoặc nhờ Luật sư” [22; đ67]. Cho tới thời gian này dù chưa có quy
định riêng về sự tham gia của Luật sư trong tố tụng dân sự, nhưng cũng cho
thấy ngay từ giai đoạn sơ khai của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, từ
những văn bản pháp luật đầu tiên về thủ tục xét xử đã có sự xuất hiện của
Luật sư trong giai đoạn tố tụng. Vì vậy, vai trò, vị trí của người Luật sư Việt
Nam cũng không được thể hiện rõ nét trong giai đoạn này.
Ngày 19/12/1946, cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Trong kháng
chiến các Luật sư đều tham gia công tác tại các cơ quan quân, dân, chính,
đảng. Để khắc phục tình trạng thiếu luật, Sắc lệnh số 69/SL ngày 18/6/1949
quy định chế định bào chữa viên cho các bị cáo tại các Tòa án. Đặc biệt trong
lĩnh vực tố tụng dân sự, Sắc lệnh số 144/SL ngày 22/12/1949 mở rộng cho
người không phải là Luật sư cũng được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
các đương sự trong vụ án dân sự. Để cụ thể hóa Sắc lệnh số 69/SL, Bộ tư
pháp đã ban hành nghị định số 1/NĐ-VY ngày 12/1/1950 ấn định điều kiện để
trở thành bào chữa viên và quy định cả về chế độ phụ cấp của bào chữa viên
theo Sắc lệnh và Nghị định trên thì:
- Người bào chữa do đương sự và bị can tự chọn, nếu không phải là
Luật sư thì phải được Tòa án công nhận.
- Điều kiện để trở thành người bào chữa do đương sự, bị can mời hoặc
do Tòa án cử bao gồm: có quốc tịch Việt Nam, ít nhất 21 tuổi, hạnh kiểm tốt
và không can án.
Sau khi Bộ Tư Pháp giải tán năm 1960, công tác hành chính tư pháp do
Tòa án tối cao đảm nhiệm, trong đó có công tác bào chữa. Năm 1963 văn
34. 27
phòng Luật sư thí điểm được thành lập lấy tên là văn phòng Luật sư Hà Nội.
Văn phòng này được quy định nhiệm vụ như sau:
- Bào chữa cho bị cáo trong vụ án hình sự và bảo vệ quyền lợi hợp
pháp cho các bên đương sự trong vụ án dân sự
- Giải đáp pháp luật cho nhân dân và cán bộ
- Làm giúp đương sự những đơn từ và các văn kiện pháp luật như hợp
đồng, khế ước…
- Góp phần tuyên truyền pháp luật thông qua xét xử tại phiên tòa.
Sau khi văn phòng Luật sư Hà Nội ra đời, nhu cầu có Luật sư bào chữa
và Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự trước tòa ngày
càng tăng, vai trò của Luật sư ngày càng được thể hiện. Ban đầu các Luật sư
hầu như chỉ nhận được những vụ việc từ sự chỉ định của Tòa án, nhưng dần
dần người dân bắt đầu quan tâm đến sự hiện diện của Luật sư và họ bắt đầu tự
tìm đến Luật sư bằng cách trực tiếp đến văn phòng Luật sư yêu cầu sự trợ
giúp.
Năm 1972, Ủy ban pháp chế của Chính phủ được thành lập. Năm 1974,
Tòa án nhân dân tối cao chuyển giao văn phòng Luật sư sang ủy ban pháp chế
của Chính Phủ theo chức năng quy định tại Nghị định số 190/CP.
Thời kỳ cả nhân dân miền Bắc và miền Nam tiến hành cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước. Tại Miền Nam, chính quyền Việt Nam cộng hòa
(chính quyền Ngô Đình Diệm) cũng ban hành Luật số 1/62 ngày 08/01/1962
ấn định Quy chế Luật sư và tổ chức Luật sư đoàn, trong đó có quy định về
điều kiện trở thành Luật sư và điều kiện hành nghề Luật sư.
1.3.2.2 Thời kỳ từ 1975 đến năm 1987
Sau chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử toàn thắng ngày 30/4/1975, Đất
nước thống nhất. Hiến pháp năm 1980 của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam
quy định: Quyền bào chữa của bị cáo được bảo đảm; tổ chức Luật sư được
35. 28
thành lập để giúp bị cáo và các đương sự khác về mặt pháp lý [23; đ133]. Cụ
thể hóa Hiến pháp năm 1980, Luật tổ chức Tòa án năm 1981 quy định tại
Điều 9: “các đương sự có quyền nhờ Luật sư bảo vệ quyền lợi của mình”.
Đây có thể coi là một điểm mốc quan trọng ghi nhận lại sự khôi phục của Tổ
chức Luật sư nước ta sau một thời gian dài bị gián đoạn.
Ngày 20/11/1981, Bộ Tư pháp được thành lập lại. Bộ Tư pháp có
nhiệm vụ hoạt động hành chính tư pháp, trong đó các chức năng quản lý hoạt
động Luật sư. Ngày 31/10/1983, Bộ tư pháp ban hành thông tư số
691/QLTPK hướng dẫn về công tác bào chữa. Luật tổ chức Chính phủ quy
định việc quản lý nhà nước đối với hoạt động Luật sư, tư vấn pháp luật thuộc
chức năng của Chính phủ [24; đ18].
Tuy nhiên, trong suốt thời gian từ khi thành lập nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa năm 1945 đến năm 1987, ở nước ta không có tổ chức Luật
sư mà thay vào đó là tổ chức bào chữa viên. Mặc dù vậy, tổ chức bào chữa
viên trên thực tế đã thực hiện một phần chức năng quan trọng của Luật sư
bào chữa cho bị cáo và bênh vực cho các đương sự trong vụ án hình sự và
dân sự. Trong lĩnh vực tố tụng dân sự, tổ chức bào chữa trong thời gian này
đã góp phần tích cực vào việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân, hỗ trợ đắc lực cho hoạt động xét xử của Tòa án, góp phần bảo vệ và
tăng cường pháp chế XHCN.
1.3.2.3 Thời kỳ từ 1987 đến năm 2001
Ngày 18/12/1987, Hội đồng Nhà nước đã thông qua Pháp lệnh tổ chức
Luật sư. Đây là văn bản pháp luật đầu tiên quy định tương đối chi tiết và hoàn
chỉnh về tổ chức, hoạt động của Luật sư, tạo môi trường vững chắc hơn cho
Luật sư thực hiện nhiệm vụ của mình. Pháp lệnh này là sự cụ thể hóa Điều
133 Hiến pháp năm 1980 đồng thời được chỉ đạo bởi tư tưởng đổi mới của
Đảng năm 1986. Trong Pháp lệnh tổ chức Luật sư năm 1987 ngay tại Điều 2
36. 29
vai trò của tổ chức Luật sư đã được khẳng định : “Bằng hoạt động của mình
tổ chức Luật sư góp phần tích cực bảo vệ pháp chế XHCN, tăng cường quản
lý kinh tế và quản lý xã hội theo pháp luật; bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của
công dân và các tổ chức; góp phần giải quyết vào vụ án được khách quan,
đúng pháp luật; thực hiện dân chủ XHCN; giáo dục công dân tuân theo Hiến
pháp, pháp luật, tôn trọng các quy tắc của cuộc sống XHCN”. Hoạt động của
Luật sư không chỉ bào chữa trong các vụ án hình sự mà còn tham gia các hoạt
động khác như tham gia tố tụng tại Tòa theo yêu cầu của đương sự trong vụ
kiện dân sự, tư vấn pháp lý và các dịch vụ pháp lý khác. Cụ thể Điều 13 Pháp
lệnh tổ chức Luật sư quy định:
- Tham gia tố tụng với tư cách là bào chữa cho bị can, bị cáo hoặc đại
diện cho người bị hại và các đương sự khác trong các vụ án hình sự, kể cả các
vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của tòa quân sự; đại diện cho các bên đương
sự trong các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, các vụ án lao động;
- Làm tư vấn pháp luật cho các tổ chức kinh tế nhà nước, tập thể và tư
nhân, kể cả các tổ chức kinh tế nước ngoài;
- Làm các dịch vụ pháp lý khác cho công dân và tổ chức
Pháp lệnh cụ thể hóa quy định của Hiến Pháp về chế định Luật sư, tạo
cơ sở cho việc hình thành và phát triển đội ngũ Luật sư ở Việt Nam. Có thể
nói từ khi thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đến nay, đây là văn bản
pháp luật tương đối hoàn chỉnh quy định về tổ chức và hoạt động Luật sư.
Pháp lệnh chứa đựng những quy định cơ bản liên quan đến tổ chức và
hoạt động của Luật sư với nội dung phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của
Việt Nam lúc đó. Pháp lệnh tổ chức Luật sư đầu tiên của Nhà nước ta ban
hành đã tạo cơ sở pháp lý cho việc hình thành và phát triển tổ chức Luật sư
chuẩn bị bước vào công cuộc đổi mới kinh tế, xã hội. Pháp lệnh đã đáp ứng
một phần quan trọng vào hoạt động của các đoàn Luật sư trong cả nước, tạo
37. 30
điều kiện cho Luật sư thể hiện vai trò của mình trong việc đáp ứng một phần
quan trọng nhu cầu giúp đỡ pháp lý của công dân, tổ chức trong tư vấn và bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp, đồng thời giúp Tòa án và cơ quan tiến hành tố
tụng khác giải quyết các vụ án khách quan, chính xác, đúng pháp luật. Pháp
lệnh cũng đã xây dựng được các quyền và nghĩa vụ của Luật sư một cách khá
cụ thể.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, Pháp lệnh tổ chức Luật sư năm
1987 đã bộc lộ những bất cập không còn phù hợp với thực tế sống động của
đời sống xã hội trong giai đoạn mới của Đất nước. Chính vì vậy, những quy
định trong pháp lệnh lại trở thành rào cản, làm cho hoạt động của Luật sư
chưa đáp ứng được nhu cầu giúp đỡ pháp lý ngày càng cao của xã hội, những
hạn chế chủ yếu đó là:
- Pháp lệnh không phân biệt tổ chức và hoạt động của Hội nghề nghiệp
Luật sư và tổ chức hành nghề Luật sư. Do vậy, vừa gây lúng túng cho tổ chức
và hoạt động của đoàn Luật sư, của cá nhân các Luật sư. Mặt khác, khiến
công tác quản lý của Nhà nước gặp nhiều khó khăn do không phân định rõ
phạm vi quản lý nghề nghiệp và thẩm quyền quản lý của Nhà nước. Cá nhân
Luật sư và Văn phòng Luật sư hay Công ty luật là những chủ thể hoàn toàn
khác nhau.
- Về tiêu chuẩn, điều kiện để trở thành Luật sư, Pháp lệnh quy định
những người có trình độ tương đương đại học Luật cũng được gia nhập Đoàn
Luật sư để hành nghề Luật sư. Đây là biện pháp tình thế phản ánh thực trạng
đội ngũ Luật sư những năm đầu đổi mới nhưng sau 15 năm quy định này
không còn phù hợp nữa. Xã hội đòi hỏi khắt khe hơn về chất lượng của đội
ngũ Luật sư.
- Về vấn đề Luật sư kiêm nghiệm: thông lệ hành nghề của Luật sư trên
thế giới là “bất khả kiêm nhiệm”, thậm trí có quốc gia cấm Luật sư kinh
38. 31
doanh bằng các nghành nghề khác. Đội ngũ Luật sư kiêm nhiệm của Việt
Nam lại chiếm phần lớn là cán bộ, công chức đang công tác tại cơ quan hành
chính, sự nghiệp của Nhà nước, do vậy trên thực tế cũng không còn phù hợp
với thực tế phát triển đội ngũ Luật sư và cả hệ thống pháp luật hiện hành.
- Về quản lý tổ chức, hoạt động Luật sư: Pháp lệnh chưa xác định rõ
hoạt động Luật sư là một nghề, từ đó chưa quy định rõ nội dung quản lý nhà
nước đối với hoạt động Luật sư, xử lý chưa phù hợp quan hệ quản lý nhà
nước và vai trò tự quản của tổ chức Luật sư. Đây là một trong những nguyên
nhân quan trọng dẫn đến sự bất cập trong công tác quản lý nhà nước cũng như
việc nâng cao vai trò hoạt động của Luật sư.
Từ những hạn chế của Pháp lệnh tổ chức Luật sư năm 1987, ngày
29/11/1989 Hội đồng Nhà nước thông qua PLTTGQCVADS. Đây là văn bản
có giá trị pháp lý cao nhất từ trước đến nay quy định một cách có hệ thống về
trình tự, thủ tục giải quyết các vụ án dân sự. Những quy định vai trò của Luật
sư trong việc giải quyết các vụ án dân sự đã được ghi nhận đúng mức và quy
định một cách cụ thể hơn. Người Luật sư trong tố tụng dân sự không chỉ được
công nhận với tư cách là người đại diện cho đương sự mà còn có thể có tư
cách là người bảo vệ quyền lợi của đương sự. Điều 24 PLTTGQCVADS quy
định “Đương sự có thể nhờ Luật sư, bào chữa viên nhân dân hoặc người khác
được Tòa án chấp nhận bảo vệ quyền lợi cho mình. Một người có thể bảo vệ
quyền lợi cho nhiều đương sự trong cùng một vụ án nếu quyền lợi của những
người đó không đối lập nhau”.
Như vậy, so với Pháp lệnh tổ chức luật sư năm 1987, PLTTGQCVADS
có quy định khác mà cụ thể là tư cách, phạm vi hoạt động cũng như vai trò
của Luật sư trong tố tụng dân sự được mở rộng hơn, quyền và nghĩa vụ của
người Luật sư khi tham gia tố tụng với tư cách là người bảo vệ quyền lợi của
đương sự cũng được quy định cụ thể hơn tại Điều 25. Đó là những quyền và
39. 32
nghĩa vụ cơ bản của Luật sư như quyền được tham gia tố tụng từ khi khởi
kiện, quyền được đề nghị thay đổi thẩm phán, hội thẩm, kiểm sát viên, thư
ký Tòa án, người phiên dịch, quyền cung cấp chứng cứ, đọc hồ sơ, tham dự
hòa giải, tham gia phiên tòa …và nghĩa vụ sử dụng những biện pháp theo
luật định.
Tiếp tục khẳng định quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, Hiến pháp
năm 1992 một lần nữa lại xác định nhiệm vụ, chức năng của Luật sư trong xã
hội. Điều 132 khẳng định :"…Tổ chức Luật sư được thành lập để giúp bị cáo
và các đương sự khác, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình góp phần
bảo vệ pháp chế XHCN”. Quy định này ngay sau đó được nhắc lại trong Luật
tổ chức Tòa án nhân dân năm 1992: “Tòa án bảo đảm quyền bào chữa của bị
can, bị cáo, quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự” (Điều 9)
Vào những năm sau khi Pháp lệnh tổ chức Luật sư và
PLTTGQCVADS có hiệu lực, do nhu cầu cần giúp đỡ pháp lý ngày càng cao
đòi hỏi tổ chức và hoạt động Luật sư phải mềm dẻo, năng động nên nhiều quy
định trong Pháp lệnh tổ chức Luật sư được ban hành vào những năm đầu của
công cuộc đổi mới không còn phù hợp, thậm chí nhiều quy định trở thành gò
bó, khép kín, hạn chế vai trò của Luật sư. Đó là quy định về thủ tục và điều
kiện công nhận Luật sư, hình thức hành nghề và vấn đề quản lý nhà nước đối
với hoạt động Luật sư. Thực tế này chính là cơ sở thực tiễn của việc ban hành
Pháp lệnh Luật sư năm 2001.
Như vậy, trong khoảng thời gian từ khi Pháp lệnh tổ chức Luật sư năm
1987 có hiệu lực đến khi ban hành Pháp lệnh Luật sư mới năm 2001, chế
định Luật sư có những bước phát triển đáng ghi nhận. Với những văn bản
pháp luật ban hành trong thời gian này đã chứng tỏ bản chất của chế độ dân
chủ, vì dân của Nhà nước ta. Mặc dù Pháp lệnh tổ chức Luật sư năm 1987 còn
nhiều quy định chưa phù hợp và không cụ thể nhưng nó thực sự là cơ sở pháp
40. 33
lý rất quan trọng cho các Luật sư thể hiện vai trò hoạt động của mình và chính
vì vậy nó đã giúp Luật sư bảo vệ tương đối có hiệu quả các quyền và lợi ích
hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong xã hội.
1.3.2.4 Thời kỳ từ năm 2001 đến nay
Cùng với sự phát triển của Đất nước, nhu cầu đổi mới “khung pháp
luật” [9] cho tổ chức và hoạt động của Luật sư trở thành cấp thiết. Pháp lệnh
Luật sư mới được Ủy ban thường vụ quốc hội thông qua ngày 25/7/2001 và
có hiệu lực ngày 01/10/2001 đã nhấn mạnh đến vai trò quan trọng của nhân
vật trung tâm là Luật sư thể hiện một bước phát triển mới trong quá trình xây
dựng và hoàn thiện chế định Luật sư, làm cho nghề Luật sư ở nước ta được
mở ra một triển vọng mới. Pháp lệnh Luật sư mới ban hành đã đưa vai trò, vị
trí của Luật sư lên một tầm cao mới trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Quan
trọng hơn nữa, việc Pháp lệnh Luật sư ra đời cũng đồng nghĩa với việc Luật
sư được chính thức công nhận là một nghề nghiệp mang tính chuyên nghiệp
và mang tính đặc thù chuyên môn. Pháp lệnh Luật sư ra đời đã tạo nên quanh
nó rất nhiều những ý kiến khác nhau, nhưng cơ bản vẫn là sự đón nhận nhiệt
tình từ phía nhân dân, từ phía các Luật sư và từ cả các cơ quan tiến hành tố
tụng. Luật sư lúc này đã trở thành một trong những ngành không thể thiếu và
có ảnh hưởng lớn đến nhiều mặt, nhiều lĩnh vực trong xã hội.
Pháp lệnh Luật sư năm 2001 được xây dựng trên cơ sở kế thừa các quy
định của Pháp lệnh tổ chức Luật sư năm 1987 và đã được thực tế kiểm
nghiệm. Đặc biệt, Pháp lệnh Luật sư năm 2001 khắc phục được những hạn
chế bất cập mà Pháp lệnh tổ chức Luật sư năm 1987 mắc phải. Cụ thể là:
- Pháp lệnh Luật sư 2001 là một bước tiến quan trọng nâng cao chất
lượng và chuyên môn hóa đội ngũ Luật sư Việt Nam bằng việc khẳng định
Luật sư là một nghề mang tính chuyên nghiệp, người muốn hành nghề thì
phải học nghề. Về tiêu chuẩn chuyên môn Pháp lệnh đưa ra đòi hỏi cao hơn,
41. 34
quy định người muốn công nhận là Luật sư bắt buộc phải tốt nghiệp đại học
Luật (không chấp nhận trình độ tương đương) và phải qua khóa đào tạo Luật
sư [46; Điều 8], Pháp lệnh cũng không cho tồn tại đội ngũ Luật sư kiêm
nhiệm mà đòi hỏi một đội ngũ Luật sư chuyên nghiệp hoàn toàn.
- Pháp lệnh Luật sư năm 2001 phân định rõ tổ chức xã hội - nghề
nghiệp của Luật sư và tổ chức hành nghề Luật sư, tạo điều kiện cho các Luật
sư tự do thực hiện quyền tự do nghề nghiệp, tự chịu trách nhiệm trong hành
nghề, đồng thời đổi mới và nâng cao hiệu quả quản lý của đoàn Luật sư.
- Đồng thời với việc mở rộng đáng kể quyền của Luật sư, Pháp lệnh
Luật sư năm 2001 đặc biệt quan tâm đến việc bảo vệ quyền lợi chính đáng
của các cá nhân, tổ chức hưởng dịch vụ của Luật sư (khách hàng). Pháp lệnh
thay đổi quy định về cách tính thù lao của Luật sư [46; Điều 29]. Những quy
định bảo vệ quyền lợi của khách hàng trong Pháp lệnh Luật sư năm 2001đã
khắc phục “sự mất cân đối” của Pháp lệnh tổ chức Luật sư năm 1987, tạo cơ
sở pháp lý để khách hàng an tâm, tin tưởng vào dịch vụ của Luật sư.
- Pháp lệnh Luật sư đã thể chế hóa chủ trương của Đảng “kết hợp sự
quản lý của Nhà nước với sự tự quản của tổ chức nghề nghiệp” thể hiện ngay
từ quy định về điều kiện hành nghề Luật sư [46; Điều 7,8,10,13].
Pháp lệnh Luật sư năm 2001 đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng
trong sự phát triển nghề Luật sư ở Việt Nam, mở đầu cho quá trình hội nhập
về nghề Luật sư khu vực và thế giới. Tiếp theo pháp lệnh Luật sư năm 2001,
một loạt các sửa đổi về các bộ Luật có liên quan đến sự tham gia của Luật sư
trong tố tụng như Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2003, BLTTDS năm 2004 lần
lượt có hiệu lực. Trong đó, dù chưa nhiều, nhưng vai trò, vị trí và sự tham gia
của Luật sư đã nhận được sự quan tâm nhất định. Những sửa đổi về sự tham
gia của Luật sư được thực hiện theo chiều hướng tăng cường và tạo điều kiện
42. 35
để Luật sư thực hiện tốt nhất nhiệm vụ của mình, tránh tối đa sự quan liêu và
“đóng cửa” của các cơ quan tiến hành tố tụng với Luật sư.
Như đã phân tích ở trên thì trong tố tụng dân sự, sau khi ban hành Pháp
lệnh về tổ chức Luật sư năm 1987, một văn bản quan trọng là
PLTTGQCVADS năm 1989 ra đời, đánh dấu sự “chính quy” của Luật sư
tham gia tố tụng dân sự trong vai trò người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho
đương sự. Tiếp đó là các văn bản pháp luật tố tụng quan trọng khác như Pháp
lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các
tranh chấp lao động ra đời đã đưa hoạt động của Luật sư trong tố tụng dân sự
trở thành hoạt động mang tính chuyên nghiệp, được thừa nhận bởi những văn
bản mang tính pháp lý cao trong lĩnh vực tố tụng.
Tuy nhiên, phải đến khi BLTTDS ra đời năm 2004, vai trò của Luật sư
tham gia trong tố tụng dân sự mới có bước tiến đáng kể, dù còn có những hạn
chế nhất định. Cùng với việc mở rộng quyền của đương sự trong vụ án dân
sự, sự tham gia của Luật sư trong vụ án dân sự cũng được mở rộng, Luật sư
có nhiều điều kiện hơn để làm tốt nhiệm vụ của mình thậm chí vai trò của
Luật sư trong vụ án dân sự dần trở lên khá quan trọng, đôi khi đóng vai trò
quyết định trong việc giải quyết vụ án thông qua sự tư vấn và lời khuyên họ
đưa ra cho thân chủ của mình.
Tiếp đó trong các năm 2005, 2006, 2007 Nhà nước ta đã ban hành một
số lượng lớn các đạo luật mới hoặc thay thế các đạo luật không còn phù hợp
nữa, trong đó có Luật Luật sư được Quốc hội thông qua ngày 29/06/2006 và
có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2007. Đây là văn bản pháp luật có hiệu
lực cao nhất về Luật sư tạo tiền đề cho đội ngũ Luật sư phát triển cả về số
lượng và chất lượng. Đây cũng là văn bản pháp lý đầu tiên tạo cơ sở pháp lý
cho việc thành lập các tổ chức Luật sư toàn quốc với tư cách là tổ chức xã hội
– nghề nghiệp của Luật sư trong phạm vi cả nước, đại diện cho các Luật sư,
43. 36
các đoàn Luật sư. Luật Luật sư năm 2006 đánh dấu một mốc quan trọng trên
chặng đường chuyên nghiệp hóa của nghề Luật sư ở Việt Nam.
Như vậy, qua việc nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của vai
trò Luật sư trong pháp luật Việt Nam nói chung và trong TTDS Việt Nam nói
riêng, chúng ta có thể thấy mặc dù phải trải qua những giai đoạn khó khăn vì
cuộc chiến tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất Đất nước, nhưng với quyết
tâm xây dựng một Nhà nước dân chủ, tiến bộ, luôn hướng tới một mục tiêu
cao nhất là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân, Nhà nước ta ngay
từ ngày đầu thành lập đã xác định đúng vai trò của Luật sư, rất quan tâm đến
vấn đề tồn tại và phát triển của nghề Luật sư, tạo mọi điều kiện thuận lợi để
nghề này có thể phát triển, từ đó đến nay vị trí, vai trò của Luật sư luôn được
khẳng định và nâng cao hơn.
1.4. PHÁP LUẬT CỦA MỘT SỐ NƯỚC VỀ VAI TRÒ CỦA LUẬT
SƯ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.4.1. Những hệ thống luật cơ bản trên thế giới liên quan đến vai
trò của Luật sư trong tố tụng dân sự
Tất cả các hệ thống thủ tục tố tụng trong truyền thống luật dân sự đều
có nguồn gốc chung từ luật Roman, theo đó thủ tục tố tụng dân sự là trung
tâm và nền tảng, các hệ thống thủ tục đặc biệt khác, kể cả thủ tục tố tụng hình
sự, cũng phát triển theo hướng như là sự biến đổi trên cơ sở thủ tục tố tụng
dân sự. Điểm đáng lưu ý ở đây là ngay từ những Bộ luật quy định về thủ tục
tố tụng dân sự ở giai đoạn sơ khai nhất cũng đã có sự hiện diện vai trò của
Luật sư trong đó. Hơn thế Luật sư còn là người phối hợp với Thẩm phán để
đưa phiên tòa đến kết quả cuối cùng. Vai trò của Luật sư trong tố tụng dân sự
là không thể thiếu.
Trên thế giới hiện tồn tại nhiều hệ thống pháp luật khác nhau như: hệ
thống pháp luật Châu Âu lục địa, hệ thống luật Anh-Mỹ, hệ thống pháp luật
44. 37
Xã hội chủ nghĩa như Liên Xô, Trung Quốc, Việt Nam… Tuy nhiên hầu hết
hệ thống pháp luật của các nước xã hội chủ nghĩa được xây dựng theo truyền
thống pháp luật châu Âu lục địa đều là hệ thống pháp luật có tính pháp điển
hóa rất cao, luật thực định ưu thế hơn nhiều so với luật tố tụng, Thẩm phán
không tham gia vào hoạt động lập pháp và hình thức pháp luật của hệ thống
pháp luật xã hội chủ nghĩa là hệ thống pháp luật thành văn. Vì vậy, trên thực
tế chỉ có hai hệ thống pháp luật được xem là chủ yếu gồm:
- Hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa (còn gọi là luật dân sự truyền
thống – Civil Law). Đại diện cho Luật này là các nước như: Pháp, Đức, Nhật
bản, Mỹ La-tinh, phần lớn Châu Phi và nhiều nước Trung âu và Châu Á.
- Hệ thống luật Anh-Mỹ (Common – Law). Đại diện cho hệ thống Luật
này là nước Anh và các nước từng thuộc đế chế Anh như Mỹ, Úc, Singapo,
Hồng Kong, Canada.
Tương ứng với hai hệ thống pháp luật trên là hai thủ tục tố tụng: Thủ
tục tố tụng thẩm vấn (xét hỏi) và thủ tục tố tụng tranh tụng. Trong xu thế toàn
cầu hóa hiện nay các hệ thống pháp luật ngày càng xích lại gần nhau hơn, tiếp
thu những ý kiến tích cực của nhau để phát triển, thích nghi với các nhu cầu
phát triển xã hội. Nếu như trước đây một số quốc gia chỉ áp dụng thủ tục tố
tụng thẩm vấn hoặc thủ tục tố tụng đơn thuần, thì ngày nay nhiều quốc gia đã
áp dụng cả hai thủ tục trên cơ sở phối hợp hài hòa.
Hệ thống Luật Châu Âu lục địa bắt nguồn từ luật La mã cổ đại được
cập nhật vào thế kỷ 6 sau công nguyên bởi Hoàng đế Justinian và hệ thống
pháp luật của Nhà thờ Thiên chúa giáo đóng vai trò hòa hợp hàng ngàn luật
địa phương.
Một đặc điểm của thủ tục tố tụng dân sự truyền thống là việc xét xử
bằng miệng hay bằng văn bản. Trong các nước theo hệ thống Luật dân sự,
thoạt tiên người ta có thể nghĩ rằng việc xét xử được thực hiện hoàn toàn bằng
45. 38
hình thức miệng: nhân chứng thề về những lời khai của họ và những lời khai
đó được kiểm tra đối chất bằng miệng với sự có mặt của Thẩm phán và Hội
thẩm. Các Luật sư trình bày bằng miệng về những kiến nghị và phản đối, cuối
cùng thẩm phán ra phán quyết miệng về những vấn đề đó. Nhưng thật sự quá
trình tố tụng diễn ra bằng hình thức viết chứ không chỉ bằng miệng. Chính
những câu hỏi mà Thẩm phán dùng để hỏi nhân chứng là được đưa ra trên cơ
sở câu hỏi viết mà các Luật sư đã đưa lên. Điều này đôi khi cũng làm người ta
lầm tưởng câu hỏi dành cho nhân chứng là do các thẩm phán đưa ra chứ
không phải do Luật sư đưa ra. Thực ra cả hai hệ thống luật thông pháp và luật
dân sự đều dùng hình thức“không tích cực” nghĩa là việc quyết định đưa ra
vấn đề gì, chứng cứ nào và tranh luận về cái gì gần như hoàn toàn dành cho
các bên đương sự. Ở những nơi Thẩm phán dân sự đặt câu hỏi cho nhân
chứng, họ làm như vậy là vì yêu cầu của Luật sư và họ thường giới hạn câu
hỏi của mình trong phạm vi các câu hỏi mà Luật sư đưa lên.
Tuy nhiên, đây cũng chính là nhược điểm của hệ thống luật dân sự
truyền thống. Khi mà người ta không thể để Luật sư tham gia phiên tòa bằng
lời nói. Thông thường các Luật sư muốn đặt câu hỏi cho nhân chứng trước hết
phải chuẩn bị một tuyên bố viết về “những yêu cầu và bằng chứng” miêu tả
những điều mà họ muốn hỏi nhân chứng. Những yêu cầu này được chuyển
đến cả Thẩm phán và Luật sư bên kia trước phiên họp kiểm tra nhân chứng.
Việc này khiến Luật sư bên kia (và có thể là chính nhân chứng) có thể biết
trước mình bị thẩm vấn cái gì và chuẩn bị sẵn, ảnh hưởng sâu sắc hơn đến tâm
lý Luật sư. Việc đưa trước đề nghị về chứng cứ dưới dạng câu hỏi khiến lời
khai của nhân chứng có trọng tâm và loại bỏ khả năng diễn biến bất ngờ của
vụ án. Điều này dẫn đến hoạt động cơ bản của Luật sư trong tố tụng thường
chỉ bao gồm làm những kiến nghị cho Thẩm phán, đặt trước những câu hỏi
46. 39
cho nhân chứng. Điều này được minh chứng rõ nét nhất ở hệ thống pháp luật
của hai nước: Pháp, Nhật.
Ở Pháp vai trò của Thẩm phán trong tố tụng xét hỏi là rất lớn. Hầu như
có ý nghĩa quyết định toàn bộ quá trình tố tụng. Phiên tòa trong tố tụng xét
hỏi nhiều khi rơi vào tình trạng diễn lại những gì đã có, đã thể hiện trong hồ
sơ. Vai trò của Luật sư và của những người tham gia tố tụng khác đều bị chi
phối thông qua Thẩm phán (điều này đã gần như trở thành thói quen cố hữu
của LTTDS Việt Nam). Luật sư chỉ được hỏi hoặc được phép đặt câu hỏi sau
khi Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân và đại diện Viện kiểm sát đã hỏi xong. Về
cơ bản việc xét hỏi đã được định hình theo chủ ý của Thầm phán chủ tọa
phiên tòa nói riêng và Hội đồng xét xử nói chung. Các câu hỏi của Luật sư
nhiều khi rơi vào quên lãng, ít được chú ý.
Ở Nhật Bản, theo BLTTDS Nhật Bản loại trừ tố tụng theo thủ tục rút
gọn, còn thì tranh tụng phải thực hiện bằng văn bản: các bên đương sự hoặc
Luật sư của đương sự phải chuẩn bị một tài liệu gọi là bản tóm tắt, qua đó các
bên thông báo những lời biện luận của mình. Các ý kiến tấn công, bảo vệ
hoặc lời trình bày trước yêu cầu của bên kia phải được bao hàm trong bản tóm
tắt [14; Điều 161]. Bản tóm tắt được nộp cho Tòa án và sẽ được Tòa án tống
đạt cho bên kia. Bản tóm tắt do người bị đơn hoặc đương sự kháng cáo nộp
gọi là tóm tắt trả lời.
Hệ thống Common – Law (Anh, Mỹ): Hệ thống thông luật bắt đầu phát
triển ở nước Anh gần một thiên niên kỷ trước đây. Trước khi nghị viện Anh
được thành lập, các Thẩm phán Hoàng gia Anh đã bắt đầu đưa ra phán quyết
dựa trên luật “tập tục chung” cho cả vương quốc. Tập hợp các phán quyết
được tích lũy dần, trong đó có các luật gia uy tín hỗ trợ cho quá trình này.
Trong quá trình xây dựng một hệ thống pháp luật linh hoạt và phù hợp với
bản thân mình, nước Anh ít bị tác động hơn bởi nguồn như hệ thống luật