1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
MẠC THỊ LỆ
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO Ở TỈNH CAO BẰNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
HÀ NỘI, 2014
2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
MẠC THỊ LỆ
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO Ở TỈNH CAO BẰNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Mã số : 60.22.85
Người hướng dẫn khoa học: TS Trần Ngọc Liêu
HÀ NỘI, 2014
3. LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn thạc sỹ với đề tài “Thực hiện chính sách
xóa đói giảm nghèo ở tỉnh Cao Bằng” là công trình nghiên cứu của riêng cá
nhân tôi và những kết quả nghiên cứu trong luận văn này hoàn toàn trung thực.
Hà Nội, tháng 7 năm 2014
Tác giả Luận văn
Mạc Thị Lệ
4. LỜI CẢM ƠN
Luận văn với đề tài “Thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo ở tỉnh
Cao Bằng” được hoàn thành tại trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân
văn, Đại học Quốc gia Hà nội. Để hoàn thành luận văn, bên cạnh những nỗ lực
của bản thân, tác giả luận văn đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của nhiều cá
nhân, tập thể.
Trước tiên, với tình cảm chân thành, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu
sắc tới TS. Trần Ngọc Liêu, thầy đã nhiệt tình hướng dẫn khoa học cho tác
giả để luận văn được hoàn thành.
Tác giả xin được gửi lời cảm ơn tới Ban Giám hiệu, quý thầy cô, các
cán bộ, công chức của Phòng, Ban, Khoa, Thư viện trường Đại học Khoa học
Xã hội và Nhân văn đã hết sức giúp đỡ tác giả trong quá trình hoàn thành luận
văn.
Tác giả xin gửi lời cảm ơn gia đình, người thân, bạn bè và đồng nghiệp
đã luôn quan tâm, động viên và giúp đỡ tác giả trong suốt quá trình hoàn thành
Luận văn thạc sỹ của mình.
Xin trân trọng cảm ơn!
Tác giả Luận văn
Mạc Thị Lệ
5. 1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 3
1. Lý do chọn đề tài....................................................................................... 3
2. Tình hình nghiên cứu.................................................................................. 5
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu................................................................. 8
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................... 9
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ............................................... 9
6. Ý nghĩa của luận văn................................................................................... 9
7. Kết cấu của luận văn.................................................................................10
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐÓI NGHÈO VÀ CHÍNH
SÁCH XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO...............................................................11
1.1. Khái luận chung về đói nghèo và chính sách xóa đói giảm nghèo............11
1.1.1. Một số vấn đề lý luận về đói nghèo. ....................................................11
1.1.2. Một số vấn đề lý luận về chính sách xóa đói giảm nghèo..................19
1.2. Tính tất yếu của việc thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo........23
1.2.1. Tính tất yếu về mặt lý luận. .................................................................23
1.2.2. Tính tất yếu về mặt thực tiễn. ..............................................................30
Chương 2: TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH XÓA ĐÓI GIẢM
NGHÈO Ở TỈNH CAO BẰNG....................................................................42
2.1.2. Nguyên nhân đói nghèo ở tỉnh Cao Bằng ..........................................49
2.2. Thực trạng thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo ở Cao Bằng.......56
2.2.1. Mục tiêu thực hiện chính sách............................................................56
2.2.2. Nội dung và những thành tựu đạt được trong việc thực hiện chính
sách xóa đói giảm nghèo................................................................................60
2.3. Những hạn chế và nguyên nhân hạn chế trong việc thực hiện chính
sách xóa đói giảm nghèo ở Cao Bằng..........................................................73
2.3.1. Hạn chế. .................................................................................................73
2.3.2.Nguyênnhâncủahạnchế............................................................................82
6. 2
Chương 3: GIẢI PHÁP THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH XÓA ĐÓI GIẢM
NGHÈO Ở TỈNH CAO BẰNG....................................................................87
3.1. Giải pháp về quan điểm nhận thức........................................................87
3.2. Giải pháp về hoạch định chính sách xóa đói giảm nghèo....................89
3.3. Giải pháp về hoàn thiện chính sách xóa đói giảm nghèo.....................99
KẾT LUẬN..................................................................................................109
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................111
7. 3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bước vào thể kỷ XXI, xã hội loài người đang trên đà phát triển mạnh cả
về kinh tế và xã hội, điều này làm cho một số nước trên thế giới cũng như
Việt Nam đang đứng trước những thay đổi lớn lao có ý nghĩa bước ngoặt.
Những thay đổi ấy tạo ra những cơ hội và thách thức đối với đường lối, chính
sách phát triển.
Trong những năm qua, nền kinh tế – xã hội của nước ta đạt được những
thành tựu quan trọng, tuy nhiên với điểm xuất phát thấp nên nước ta vẫn là
một nước nghèo. Vì vậy, công cuộc xóa đói giảm nghèo là một trong những
chính sách ưu tiên hàng đầu trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội của
Việt Nam
Với sự phát triển kinh tế của đất nước, nhìn chung đại bộ phận đời sống
nhân dân đã được nâng cao rõ rệt, con người không những được đáp ứng đầy
đủ vật chất hàng ngày mà còn có điều kiện để nghiên cứu, học tập và phát huy
năng lực cá nhân trong môi trường phát triển theo xu thế chung của nhân loại.
Tuy nhiên, đối ngược với những thành tựu đó vẫn còn tồn tại một bộ phận
không ít dân cư, đặc biệt là dân cư ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa vẫn chưa có
điều kiện để tự nâng cao đời sống của mình, vật chất vẫn còn thiếu thốn, đói
nghèo vẫn còn hoành hành, những điều kiện tối thiểu của cuộc sống như ăn,
ở, mặc, đi lại, vẫn còn nhiều khó khăn. Hệ lụy của sự mất cân bằng này trong
xã hội đã tạo nên sự phân hoá giàu nghèo, chênh lệch trong phát triển cả về
vật chất lẫn tinh thần. Vì vậy, Vấn đề đói nghèo không chỉ là mối quan tâm
hàng đầu của những nước có nền kinh tế phát triển, mà đối với nước ta khi
nền kinh tế đang có những biến chuyển thì vấn đề phân hoá giàu nghèo lại là
vấn đề cần phải được chú trọng hơn.
Để phát triển đất nước theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa thì một trong những điều đầu tiên cần được quan tâm là cân bằng về
8. 4
chất lượng cuộc sống trong xã hội và xóa bỏ sự phân hóa về giàu nghèo.
Trong đó, thực hiện xoá đói giảm nghèo để có thể rút ngắn được khoảng cách
chênh lệch trong xã hội, nâng cao đời sống đối với người dân xóa bỏ nạn đói
nghèo là công việc quan trọng. Như vậy, xóa đói giảm nghèo không chỉ là
nhiệm vụ của các cấp, các ngành, ở từng địa phương mà còn là nhiệm vụ của
tất cả mọi người, của toàn thể nhân dân.
Trong những năm qua, với những thay đổi trong phát triển kinh tế đã tạo
ra những cơ hội và thách thức đối với đường lối và chính sách phát triển của
Đảng và Nhà nước ta. Chính sách xóa đói giảm nghèo đã trở thành một chủ
trương lớn và là một nội dung quan trọng của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với quan điểm xuyên suốt trong cương lĩnh
phát triển đất nước của Đảng ta là tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng thời kỳ và từng chính sách phát
triển. Từ quan điểm ấy, nhiều năm qua xóa đói giảm nghèo đã trở thành một
chính sách xã hội trọng điểm trong suốt quá trình phát triển kinh tế và xã hội.
Cao Bằng là một tỉnh miền núi phía bắc nằm trong danh sách năm tỉnh
nghèo nhất cả nước, với hơn 95% đồng bào là người dân tộc thiểu số và hơn
70% số xã nằm trong diện đặc biệt khó khăn, là tỉnh vùng cao có đường biên
giới khá dài, lại nằm xa khu trung tâm kinh tế của cả nước nên kinh tế chủ
yếu là nông - lâm nghiệp, nặng tính tự cung, tự cấp, sản xuất hàng hoá và dịch
vụ chưa phát triển, cơ sở hạ tầng yếu kém nên tỷ lệ hộ nghèo ở các xã đặc biệt
khó khăn còn cao. Vì vậy, tỉnh Cao Bằng thực hiện chính sách xoá đói giảm
nghèo là thực hiện một trong những chính sách xã hội cơ bản hướng vào phát
triển con người, nhất là người nghèo, tạo cơ hội cho họ tham gia vào quá trình
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, để cho người nghèo có cơ hội và điều
kiện tiếp cận các dịch vụ xã hội phát triển sản xuất tự vươn lên thoát khỏi đói
nghèo. Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ, mục tiêu chiến lược xóa đói giảm
9. 5
nghèo thì trong những năm qua tỉnh Cao Bằng đã tích cực triển khai thực hiện
các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Tuy nhiên, công cuộc thực hiện xóa đói giảm nghèo ở tỉnh Cao Bằng
vẫn còn nhiều hạn chế và gặp nhiều trở ngại. Nhận thấy vấn đề xóa đói giảm
nghèo ở tỉnh Cao Bằng là một vấn đề cấp thiết. Chính vì vậy tác giả đã chọn
đề tài “Thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo ở tỉnh Cao Bằng” làm đề tài
nghiên cứu của mình.
2. Tình hình nghiên cứu.
Từ trước đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề xóa đói
giảm nghèo, các công trình ấy ít nhiều đã tổng hợp, phân tích, làm rõ về quan
niệm, các yếu tố dẫn đến đói nghèo và những giải pháp về xóa đói giảm
nghèo và được tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau:
Các công trình do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chủ biên như: Đói
nghèo ở Việt Nam (Hà Nội, 1993); Nhận diện đói nghèo ở nước ta (Hà Nội,
1993), Xóa đói giảm nghèo (Hà Nội, 1996), Xóa đói giảm nghèo với tăng
trưởng kinh tế (Nxb Lao động, 1997). Các công trình nghiên cứu này làm rõ
các vấn đề lý luận về đói nghèo và phân tích rõ về các yếu tố ảnh hưởng đến đói
nghèo ở nước ta, từ đó đưa những giải pháp nhằm xóa đói giảm nghèo nói chung.
Các công trình nghiên cứu là tài liệu tham khảo phù hợp cho các địa
phương thuộc khu vực miền núi nói chung.
Sách chuyên khảo của Hà Quế Lâm “Xóa đói giảm nghèo ở vùng dân
tộc thiểu số nước ta hiện nay – thực trạng và giải pháp” (Nxb Chính trị quốc
gia, Hà nội, 2002) đã cho người đọc thấy được tình trạng đói nghèo ở nhiều
vùng dân tộc thiểu số ở nước ta. Đồng thời tác giả còn nêu ra những nguyên nhân
cơ bản về tình trạng đói nghèo và đưa ra những khuyến nghị về định hướng và
một số giải pháp xóa đói, giảm nghèo ở vùng dân tộc thiểu số ở nước ta.
Một số sách chuyên khảo chỉ đi sâu nghiên cứu thực trạng đói nghèo ở
riêng một địa phương như: Tiến sỹ Hoàng Văn Cường với sách chuyên khảo
10. 6
“Xóa đói giảm nghèo ở huyện Từ Liêm” (Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, 2004)
cũng đã nêu rõ đặc trưng về tình hình đói nghèo ở huyện Từ Liêm nói riêng.
Qua đó cũng nêu giải pháp và kiến nghị nhằm xóa đói giảm nghèo ngay tại
huyện Từ Liêm. Đây là sách để các tỉnh lân cận khu vực ngoại thành Hà Nội
và các tỉnh miền bắc nói chung có thể nghiên cứu, tham khảo trong việc xóa
đói giảm nghèo cho người dân.
Một số công trình nghiên cứu khác cũng đưa ra những cách thức,
phương pháp để người dân có thể tham khảo, vận dụng, tự xóa đói giảm
nghèo và tự thoát nghèo bằng nhiều cách khác nhau, đó là: “Làm ăn có kế
hoạch để xóa đói giảm nghèo” của nhóm tác giả Vi Hồng Nhân – Ngô Quang
Hưng – Trịnh Thị Thủy (Nxb Văn hóa dân tộc, 2007), “Những điển hình tiên
tiến trong xóa đói giảm nghèo” của nhóm tác giả Đinh Viết Vinh – Phạm Văn
Khánh – Viết Hồng (Nxb Lao động xã hội, 2006), tài liệu của nhóm tác giả
Trần Văn Ơn – Tô Xuân Phúc – Nguyễn Tất Cảnh,“Thương mại hóa sản
phẩm bản địa: hướng đi mới nhằm xóa đói giảm nghèo cho miền núi Việt
Nam” (Nxb Nông nghiệp, 2008). Nhìn chung, các công trình nghiên cứu này
là tài liệu tham khảo phù hợp cho các địa phương thuộc khu vực miền núi và
vùng dân tộc thiểu số ở nước ta.
Các bài viết công bố trên các tạp chí cũng đã đề cập tới việc thực hiện
xóa đói giảm nghèo.
Để thấy được tình hình đói nghèo ở tỉnh Cao Bằng nói riêng, tác giả
Nguyễn Thị Nương với bài viết “Cao Bằng tập trung nguồn lực đầu tư phát
triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số”, tạp chí Cộng Sản số 812 (2010) cho
thấy hiệu quả công tác dân tộc và chính sách dân tộc đã góp phần tạo ra sự
chuyển biến mạnh mẽ về đời sống vật chất và tinh thần của dân tộc thiểu số ở
Cao Bằng. Đồng thời, đưa ra một số chủ trương lớn để tập trung nguồn lực
phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số của tỉnh Cao Bằng trong giai đoạn
tiếp theo.
11. 7
Một số bài có thể là tài liệu tham khảo trong việc đưa ra những giải
pháp xóa đói giảm nghèo như: “Trợ giá, trợ cước ở Cao Bằng: Tiếp sức cho
xoá đói giảm nghèo” của Bằng Giang, (theo Báo Dân tộc & Phát triển - Số
45/2009), bài viết đã cho thấy thực tế về cuộc sống thiếu thốn của người dân
tại Cao Bằng, đồng thời bài viết cũng cho thấy rõ một số giải pháp được tỉnh
đề ra để nhằm giúp đỡ cuộc sống của người dân địa phương.
Nhằm đưa ra các giải pháp trong việc thực hiện một số chính sách xã
hội và thực hiện an sinh xã hội ở địa phương thì bài viết “Cơ sở lý luận và
thực tiễn để xây dựng và thực hiện hệ thống chính sách an sinh xã hội trong
điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc
tế”, tạp chí Cộng sản số 834 (2012) của tác giả Nguyễn Hữu Dũng là một
trong những tài liệu tham khảo nghiên cứu sâu sắc về vấn đề thực hiện hệ
thống chính sách an sinh xã hội trong giai đoạn hiện nay.
Bài viết “Thực hiện một số chính sách xã hội ở vùng dân tộc thiểu số
trong hội nhập và phát triển” của tác giả Sơn Phước Hoan trong tạp chí cộng
sản số 805 (2009) đã cho thấy được nguyên nhân dẫn đến đói nghèo ở vùng
dân tộc thiểu số nói chung, qua đó đưa ra những chính sách và đưa ra những
giải pháp nhằm xóa đói giảm nghèo và phát triển trong qua trình hội nhập và
phát triển trong giai đoạn hiện nay.
Trong những năm gần đây có các những công trình nghiên cứu là các
Luận văn thạc sỹ như: “An sinh xã hội đối với nông dân tỉnh Cao Bằng trong
giai đoạn hiện nay” của tác giả Nông Văn Dũng, (Đại học khoa học xã hội và
nhân văn, (2011)). Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề an sinh xã
hội đối với nông dân tỉnh Cao Bằng từ năm 2011 đến nay, luận văn đi sâu
nghiên cứu về thực trạng và giải pháp thực hiện bảo hiểm xã hội, trợ giúp xã
hội, xóa đói giảm nghèo và vấn đề giải quyết việc làm tăng thu nhập cho
người nông dân tỉnh Cao Bằng.
12. 8
Luận văn thạc sỹ của tác giả Hoàng Thị Ngọc Hà “Đảng bộ tỉnh Cao
Bằng lãnh đạo công tác xóa đói, giảm nghèo từ năm 2001 đến năm 2010”.
Đại học quốc gia Hà Nội, (2012). Luận văn chủ yếu đi sâu nghiên cứu sự lãnh
đạo công tác xóa đói, giảm nghèo của Đảng bộ tỉnh Cao bằng trên địa bàn của
tỉnh, từ đó đưa ra một số nhận xét và bài học kinh nghiệm trong quá trình lãnh
đạo của Đảng bộ tỉnh Cao Bằng.
Nhìn chung, các công trình ở trên đã đề cập đến vấn đề đói nghèo dưới
các góc độ khác nhau cả về lý luận và thực tiễn. Một số bài viết nghiên cứu cụ
thể về các vấn đề đói nghèo của người dân ở tỉnh Cao Bằng, cho thấy đời
sống hàng ngày của người dân còn nghèo khó cả về vật chất và tinh thần, qua
đó cũng đề ra các hướng giải pháp nhằm để thực hiện xóa đói giảm nghèo.
Nhận thấy việc thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo mang tính thiết
thực và quan trọng nên tôi lựa chọn vấn đề Thực hiện chính sách xóa đói giảm
nghèo ở tỉnh Cao Bằng làm đề tài nghiên cứu cho luận văn của mình.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích:
Từ việc làm rõ vấn đề lý luận về đói nghèo, chính sách xóa đói giảm
nghèo, quan điểm và đường lối của Đảng và Nhà nước ta về xóa đói giảm
nghèo, luận văn khảo sát và đánh giá tình hình thực hiện chính sách xóa đói
giảm nghèo ở tỉnh Cao Bằng. Từ đó đưa ra giải pháp về xóa đói giảm nghèo
nhằm nâng cao việc xóa đói giảm nghèo bền vững ở Cao bằng.
- Nhiệm vụ:
Để đạt được mục đích trên luận văn tập trung giải quyết những nhiệm
vụ cơ bản sau:
+ Làm rõ một số vấn đề lý luận về đói nghèo và chính sách xóa đói
giảm nghèo.
+ Luận giải về tính tất yếu của việc xóa đói giảm nghèo.
13. 9
+ Khảo sát và đánh giá việc thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo ở
tỉnh Cao Bằng.
+ Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao việc xóa đói giảm nghèo
bền vững trong những năm gần đây.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng:
Luận văn đi sâu nghiên cứu về vấn đề đói nghèo, chính sách xóa đói
giảm nghèo và việc thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo.
- Phạm vi: Luận văn nghiên cứu việc thực hiện chính sách xóa đói
giảm nghèo ở tỉnh Cao Bằng từ năm 2006 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận:
Luận văn thực hiện trên cơ sở vận dụng lý luận duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về đói nghèo
và đường lối, quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước về xóa đói giảm
nghèo.
- Phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình nghiên cứu luận văn chủ yếu sử dụng các phương pháp
của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, phương pháp phân tích,
tổng hợp, logic, lịch sử, quy nạp, diễn dịch nhằm thực hiện mục đích, nhiệm
vụ đề tài đặt ra.
6. Ý nghĩa của luận văn.
Luận văn đóng góp một phần cho việc làm rõ thêm cơ sở lý luận về Đói
nghèo, chính sách xóa đói giảm nghèo. Luận văn đánh giá khách quan thực
trạng đói nghèo và tình hình thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo ở tỉnh
Cao Bằng.
Luận văn góp phần cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc hoạch
định chính sách xóa đói giảm nghèo trên địa bàn tỉnh Cao Bằng. Luận văn có
14. 10
thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu vấn đề xóa đói giảm nghèo ở
các địa bàn có đặc thù tương tự như cao Bằng làm tư liệu giảng dạy và là tài
liệu tham khảo cho việc hoạch định chính sách và quản lý trong vấn đề xóa
đói giảm nghèo.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung luận
văn gồm 3 chương và 8 tiết.
15. 11
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐÓI NGHÈO
VÀ CHÍNH SÁCH XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO
1.1. Khái luận chung về đói nghèo và chính sách xóa đói giảm nghèo.
1.1.1. Một số vấn đề lý luận về đói nghèo.
Trong những năm qua, vấn đề đói nghèo luôn được cả cộng đồng quốc
tế quan tâm, tại hội nghị thượng đỉnh thiên niên kỷ của Liên Hợp quốc năm
2000, có 189 quốc gia thành viên tham gia đã nhất trí thông qua tuyên bố
thiên niên kỷ và cam kết đạt mục tiêu thiên niên kỷ vào năm 2015 [10, tr. 9].
Điều này thể hiện sự đồng thuận chưa từng có trong lịch sử của các nhà lãnh
đạo trên thế giới về những thách thức lớn trên toàn cầu trong thế kỷ XXI cũng
như cam kết chung về việc giải quyết thách thức này. Tuyên bố thiên niên kỷ
và các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ tạo ra lộ trình và tầm nhìn về một thế
giới mà ở đó không còn đói nghèo, ai cũng được học hành, sức khỏe của
người dân được cải thiện, môi trường được bảo vệ một cách bền vững, mọi
người đều được hưởng các quyền tự do, bình đẳng và công bằng [10, tr. 9].
Từ trước đến nay có đã nhiều quan điểm khác nhau về đói nghèo, tuy
nhiên, để xác định đói nghèo có thể xem xét ở nhiều góc độ khác nhau.
Trước hết, về kinh tế, nhìn chung được thể hiện qua thu nhập của họ từ
các công việc mà họ hoạt động để đáp ứng những nhu cầu cơ bản về: ăn, mặc,
ở, y tế, giáo dục, văn hóa và các giao tiếp xã hội. Đồng thời tương ứng với
kinh tế đó là mức sống của họ trong xã hội. Vì vậy, khi xem xét hiện tượng
đói nghèo ở lĩnh vực kinh tế thì những nhu cầu cơ bản, tối thiểu về đời sống
vật chất cần phải được quan tâm.
Các khoản tiêu dùng từ thu nhập phản ánh mức độ thỏa mãn các nhu
cầu tối thiểu để xem đối tượng đói nghèo đã phải chi cho ăn uống như thế
nào, chiếm tỷ lệ bao nhiêu trong cơ cấu tiêu dùng của họ. Từ đó thấy được
16. 12
thực trạng nghèo đói và độ chệnh lệch có tính chất vùng hoặc khu vực giữa
các đối tượng khác nhau.
Thu nhập từ kinh tế quyết định mức sống hàng ngày của người nghèo.
Mức sống bao gồm các loại chi tiêu trong đời sống hàng ngày và có liên hệ
mật thiết đến chế độ dinh dưỡng, năng lượng (calo) trên đầu người trong một
ngày. Chi tiêu và thu nhập luôn tồn tại cùng nhau trong hoạt động sống. Thu
nhập của người nghèo nhìn chung rất thấp và không ổn định, chính vì vậy mà
thiếu thốn cả về vật chất lẫn tinh thần là điều tất yếu. Đối với người nghèo, do
nguồn thu nhập ít ỏi nên hầu như phần lớn thu nhập chủ yếu được sử dụng để
đáp ứng nhu cầu ăn uống thường ngày, còn nhu cầu về tinh thần thì rất ít hoặc
cũng có thể không có điều kiện để đáp ứng. Chính vì thế, đói nghèo được thể
hiện rõ nét khi không được đáp ứng trong các tiêu chí định tính được thể hiện
ở một vài khía cạnh như nhà ở, giáo dục, chăm sóc sức khoẻ, việc làm (khả
năng nắm bắt và chuyển đổi), vốn xã hội (quan hệ, thông tin…).
Thứ hai, xét về góc độ văn hóa – xã hội, tình trạng hoặc mức độ đói
nghèo được thể hiện rõ trong việc tiếp cận của người nghèo đối với các vấn đề
văn hóa, xã hội như: y tế, giáo dục, văn hóa, thông tin, tín dụng…còn hạn chế.
Sự thiếu thốn trong lĩnh vực giáo dục đã làm cho trình độ dân trí của họ
có sự cách biệt đáng kể, khả năng tham gia vào các hoạt động của một xã hội
hiện đại là hạn chế.
Đối với việc tiếp cận các dịch vụ y tế, vấn đề chăm sóc sức khỏe của
người nghèo nhìn chung ở mức độ thấp. Đa số những người nghèo thường ít
đến các bệnh viện khám chữa bệnh, vì hạn chế trong vấn đề nhận thức nên họ
thường tự chữa bệnh bằng các phương pháp dân gian hoặc áp dụng một số hủ
tục lạc hậu gây nên những kết quả đáng tiếc xảy ra đối với tính mạng. Sự tiếp
cận đối với các hoạt động khám chữa bệnh định kỳ, tiêm chủng mở rộng,
nhận thức trong việc bảo vệ sức khỏe bà mẹ và trẻ em… đều hạn chế.
17. 13
Đối với các vấn đề thông tin truyền thông, thông tin thời sự hàng ngày
của người nghèo cập nhật còn ở mức độ thấp nên sự hiểu biết và mức độ
hưởng thụ còn hạn chế. Mức độ tiếp nhận văn hóa – thông tin, phát thanh
truyền hình vẫn chưa được đáp ứng đối với các nhu cầu hàng ngày của họ, các
thông tin kinh tế thị trường, tiến bộ khoa học kỹ thuật, kinh nghiệm về sản
xuất giỏi…cập nhật ở mức độ yếu kém.
Các vấn đề về chuyển giao khoa học – kỹ thuật và chuyển dịch cơ cấu
sản xuất hầu hết đều hạn chế trong việc áp dụng. Họ vẫn giữ các hình thức
canh tác truyền thồng lạc hậu, sử dụng những kỷ thuật đơn giản trong hoạt
động sản xuất hàng ngày. Chính vì vậy, kết quả thu được luôn kém hiệu quả
về kinh tế.
Như vậy, cần có cách nhìn nhận tổng thể về đói nghèo và xem xét các
đặc trưng, tiêu chí về đói nghèo trong sự tương tác lẫn nhau mới có thể xác
định chính xác sự tác động của các yếu tố khác nhau đến tình trạng đói nghèo,
từ đó có chiến lược giảm nghèo thích hợp.
Một số nhà khoa học, kinh tế học cũng đã đưa ra những quan điểm của
mình về đói nghèo.
Để có một cái nhìn tổng quan về các vấn đề của các nước đang phát
triển, Robert McNamara, khi là giám đốc của Ngân hàng Thế giới, đã đưa ra
khái niệm nghèo tuyệt đối. Trong đó ông cho rằng, nghèo ở mức độ tuyệt đối
là sống ở ranh giới ngoài cùng của tồn tại. Điều đó có nghĩa là thu nhập thực
tế của họ không đảm bảo đủ cho họ được hưởng cái mà xã hội cho phép họ
được hưởng mức tối thiểu để duy trì được tái sản xuất sức lao động. Theo quan
niệm này thì nghèo tuyệt đối thường chỉ tồn tại ở các nước chậm phát triển.
Như vậy, có thể hiểu rằng, nghèo tuyệt đối là tình trạng thiếu thốn
những điều kiện tối thiểu để duy trì cuộc sống, tiếp cận những nhu cầu về các
vấn đề dinh dưỡng, giáo dục và các dịch vụ y tế. Việc xác định đối tượng là
nghèo tuyệt đối hay không phải dựa vào chuẩn nghèo của quốc gia và của thế giới.
18. 14
Trên mức nghèo tuyệt đối thì khái niệm nghèo tương đối được sử dụng
và tồn tại ở tất cả các nước, kể cả các nước phát triển. Nghèo tương đối là một
bộ phận dân cư hoặc một cá nhân có thu nhập thấp hơn thu nhập và mức sống
trung bình của xã hội, do đó họ thiếu cơ hội để tạo thu nhập, thiếu tài sản để
tiêu dùng, dễ bị tổn thương khi rủi ro.
Nghèo tương đối có thể được xem như là việc cung cấp không đầy đủ
các tiềm lực vật chất và phi vật chất cho những người thuộc về một số tầng
lớp xã hội nhất định so với sự sung túc của xã hội đó. So với mức sống trung
bình của một quốc gia, bộ phận dân cư có mức sống dưới mức sống trung
bình được coi là nghèo khổ. Sự chênh lệch về mức sống của các tầng lớp dân
cư tạo ra nghèo tương đối. Nhìn chung các quốc gia trên thế giới đều tồn tại
sự bất bình đẳng trong thu nhập và phân phối thu nhập. Dựa vào nhiều số liệu
thống kê khác nhau trong một xã hội thì có thể biết được ranh giới của nghèo
tương đối. Tỷ lệ nghèo tương đối của một xã hội, một đất nước có thể dao
động thường xuyên và thường thì sẽ có mức chuẩn cho việc xác định nghèo
tuyệt đối và nghèo tương đối. Các ranh giới nghèo tương đối và nghèo tuyệt đối
đều không có thể xác định được nếu như không có trị số tiêu chuẩn cho trước.
Hiện nay, người ta còn áp dụng phương pháp xác định đói nghèo theo
Tổng cục Thống kê, Ngân hàng thế giới xác định và được thực hiện trong các
cuộc khảo sát mức sống dân cư.
Đường đói nghèo ở mức thấp gọi là đường đói nghèo về lương thực, thực
phẩm. Đây là phương pháp chung nhất mà các quốc gia cũng như các tổ chức
quốc tế xác định đói nghèo là dựa vào nhu cầu chi tiêu cho nhu cầu lương
thực, thực phẩm. Đường đói nghèo về lương thực, thực phẩm được xác định
theo chuẩn mà hầu hết các nước đang phát triển cũng như Tổ chức Y tế Thế
giới và các cơ quan khác đã xây dựng mức Calo tối thiểu cần thiết cho mỗi
thể trạng con người, là chuẩn về nhu cầu 2.100 Calo/người/ngày. Những
19. 15
người có mức chi tiêu dưới mức chi cần thiết để đạt được lượng Calo này gọi
là nghèo về lương thực, thực phẩm [16, tr. 9].
Đường đói nghèo thứ hai ở mức cao hơn gọi là đường đói nghèo chung,
bao gồm cả mặt hàng lương thực, thực phẩm và phi lương thực, thực phẩm.
So với đường đói nghèo ở mức thấp thì đường đói nghèo chung được
tính thêm các chi phí cho các mặt hàng phi lương thực, thực phẩm. Tính cả
chi phí này với đường đói nghèo về lương thực, thực phẩm ta có đường đói
nghèo chung. Tuy nhiên, kinh tế càng phát triển thì tỷ lệ chi cho nhu cầu
lương thực, thực phẩm ngày một giảm mà chi cho nhu cầu phi lương thực,
thực phẩm ngày một tăng.
Để xác định đói nghèo thì chuẩn nghèo không chỉ là cơ sở quan trọng
nhất để xác định các hộ gia đình đưa vào chương trình xóa đói giảm nghèo mà
còn phải phản ảnh thực chất nghèo của dân cư, giúp cho các nhà quản lý và
các nhà khoa học một cái nhìn căn cơ hơn về thực chất tình trạng nghèo.
Chuẩn nghèo mới phải tiến thêm một bước về nguyên tắc, đảm bảo được các
yêu cầu: đảm bảo nhu cầu tối thiểu về dinh dưỡng (đủ ăn và có chất), chỗ ở,
và các dịch vụ y tế, xã hội.
Có thể thấy, chuẩn nghèo là một khái niệm động, nó biến động theo
không gian và thời gian. Về không gian, nó biến đổi theo trình độ phát triển
kinh tế - xã hội của từng vùng và từng quốc gia. Về thời gian, chuẩn nghèo có
sự biến động lớn và nó biển đổi theo trình độ phát triển kinh tế - xã hội và nhu
cầu của con người theo từng giai đoạn lịch sử, vì kinh tế, xã hội phát triển thì
đời sống của con người được cải thiện hơn.
Đối với Việt Nam, thừa nhận định nghĩa về đói nghèo tại Hội nghị về
chống đói nghèo do Ủy ban Kinh tế xã hội khu vực Châu Á Thái Bình Dương
(ESCAP) tổ chức tại Bangkok, Thái Lan vào tháng 9/1993, các quốc gia trong
khu vực đã thống nhất cao và cho rằng: “Nghèo đói là tình trạng một bộ phận
dân cư không có khả năng thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của con người mà
20. 16
những nhu cầu ấy phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội, phong tục tập
quán của từng vùng và những phong tục ấy được xã hội thừa nhận” [10, tr. 20].
Điểm cốt lõi của định nghĩa này là ở nhu cầu cơ bản của con người,
căn cứ xác định đói hay nghèo là ở chỗ đối với nhu cầu cơ bản ấy con người
có thể được hưởng và thỏa mãn hay không. Nhu cầu cơ bản chính là cái thiết yếu,
tối thiểu để duy trì sự tồn tại của con người như những vấn đề ăn, mặc, ở, đi lại.
Căn cứ vào tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và hiện
trạng đời sống trung bình phổ biến của cư dân hiện nay mà đưa ra chuẩn
nghèo chung cho cả nước. Chuẩn nghèo Việt Nam là một tiêu chuẩn để đo
lường mức độ nghèo của các hộ dân tại Việt Nam. Chuẩn nghèo khác với
chuẩn nghèo bình quân trên thế giới. Tuy nhiên, do có sự khác nhau về mức
sống và giá cả theo thời gian và theo địa phương nên tiêu chuẩn xác định đói
nghèo cũng được thay đổi theo từng thời kỳ và từng vùng.
Căn cứ vào mức sống cụ thể của các địa phương, Bộ Lao động – Thương
binh và Xã hội đã công bố chuẩn nghèo tính theo thu nhập bình quân đầu người
cho các giai đoạn cụ thể khác nhau: Giai đoạn 1993 – 1995, giai đoạn 1996 –
2000 và giai đoạn 2001 – 2005, giai đoạn 2006 – 2010. Chuẩn nghèo được tính
được tính toán dựa vào mức thu nhập tối thiểu/người/ngày tính ra đơn vị lương
thực quy gạo hay tiền Việt Nam và khác nhau giữa các vùng.
Tiêu chí đánh giá đói nghèo được dựa vào chuẩn đánh giá nghèo do Bộ
Lao động Thương binh và xã hội ban hành lần thứ nhất vào năm 1993 quy
định: Chia hộ đói nghèo trong cả nước làm hai loại là hộ đói và hộ nghèo,
chia cả nước làm 2 vùng đói nghèo là thành thị và nông thôn, trong đó: Hộ
đói là hộ có thu nhập lương thực quy gạo bình quân dưới 8 kg/người/tháng
đối với khu vực nông thôn và dưới 13 kg/người/tháng đối với khu vực thành
thị. Hộ nghèo là hộ có thu nhập lương thực quy gạo bình quân dưới 15
kg/người/tháng đối với khu vực nông thôn và dưới 20 kg/người/tháng đối với
khu vực thành thị.
21. 17
Để đánh giá phù hợp với sự thay đổi của điều kiện kinh tế xã hội năm
1995 chuẩn nghèo lần thứ hai được ban hành: Chia hộ đói nghèo trong cả nước
thành hai loại là hộ đói và hộ nghèo, chia cả nước thành 3 vùng đói nghèo là:
Nông thôn, miền núi và hải đảo; nông thôn, đồng bằng và trung du; khu vực
thành thị. Trong đó, hộ đói là hộ có thu nhập lương thực quy gạo bình quân dưới
13 kg/người/tháng, tính cho mọi vùng. Hộ nghèo là hộ có thu nhập lương thực
quy gạo bình quân dưới 15 kg/người/tháng đối với khu vực nông thôn, miền núi
và hải đảo, dưới 20 kg/người/tháng đối với khu vực nông thôn đồng bằng và
trung du và dưới 25 kg/người/tháng đối với khu vực thành thị.
Thông báo số 1751/ LĐTBXH năm 1997 quy định chuẩn nghèo lần thứ
ba: Chia hộ đói nghèo trong cả nước thành hai loại là hộ đói và hộ nghèo, chia
cả nước thành 3 vùng đói nghèo là: nông thôn miền núi và hải đảo; nông thôn
đồng bằng và trung du; thành thị. Trong đó, hộ đói là hộ có mức thu nhập
bình quân quy gạo dưới 13 kg/người/tháng, tương đương 45.000 đồng, tính
cho mọi vùng. Hộ nghèo là hộ có thu nhập bình quân quy gạo dưới 15
kg/người/tháng, tương đương 70.000 đồng, tính cho khu vực nông thôn đồng
bằng, và dưới 25 kg/người/tháng, tương đương với 90.000 đồng, tính cho khu
vực thành thị.
Để phù hợp với điều kiện và bối cảnh phát triển kinh tế xã hội chung của
đất nước trong giai đoạn mới, cuối năm 2000 Bộ Lao động Thương binh và xã
hội đã điều chỉnh mức chuẩn nghèo mới tăng lên gấp 1,5 lần so với mức chuẩn
nghèo cũ (tại Thông báo số 1143/LĐTBXH ngày 1-11-2000), quy định: Bỏ
tiêu chí xác định hộ đói, giữ lại tiêu chí xác định hộ nghèo, không dựa vào thu
nhập lương thực quy gạo mà dựa vào thu nhập tính theo tiền Việt Nam, trong
đó: Hộ nghèo là hộ có thu nhập bình quân dưới 80.000 đồng/người/tháng, tính
cho khu vực nông thôn miền núi và hải đảo, dưới 100.000 đồng/người/tháng
tính cho khu vực nông thôn đồng bằng, và dưới 150.000 đồng/người/tháng tính
cho khu vực thành thị.
22. 18
Theo Quyết định số 170/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày
8 tháng 7 năm 2005 về việc ban hành chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn
2006-2010 thì ở khu vực nông thôn những hộ có mức thu nhập bình quân từ
200.000 đồng/người/tháng (2.400.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ
nghèo, ở khu vực thành thị những hộ có thu nhập bình quân từ 260.000
đồng/người/tháng (dưới 3.120.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo.
Hiện nay, theo số liệu mới nhất, chuẩn nghèo mới áp dụng cho giai
đoạn 2011-2015 theo Chỉ thị số 1752/CT-TTg ngày 21-9-2010 của Thủ tướng
Chính phủ, mức chuẩn nghèo và cận nghèo được xác định, những hộ có thu nhập
bình quân từ 400.000 đồng/người/tháng trở xuống là hộ nghèo (khu vực nông
thôn), đối với khu vực thành thị hộ nghèo là những hộ có mức thu nhập bình
quân 500.000 đồng/người/tháng; Hộ cận nghèo là những hộ có mức thu nhập
bình quân từ 401.000 đồng đến 520.000 đồng/người/tháng (khu vực nông thôn),
đối với khu vực thành thị là từ 501.000 đồng đến 650.000 đồng/người/tháng.
(Chỉ thị: về việc tổ chức tổng điều tra hộ nghèo trên toàn quốc …)
Hiện nay, đói nghèo vẫn diễn ra trên tất cả các châu lục với những mức
độ khác nhau. Ở các nước kém phát triển và các nước đang phát triển thì tình
trạng nghèo tuyệt đối vẫn còn tồn tại ở mức độ phổ biến, sự đói nghèo của
dân cư đang là một vấn đề nhức nhối rất cấp bách phải tháo gỡ nhưng cũng vô
cùng khó khăn trong việc thực hiện xóa đói giảm nghèo. Không chỉ ở nông
thôn hay những vùng xa trung tâm mà ngay cả thành thị vẫn còn tồn tại tình
trạng nghèo tuyệt đối này. Có rất nhiều các tổ chức của Liên Hợp Quốc và
của cộng đồng quốc tế thực hiện sứ mệnh vẻ vang là chống và hỗ trợ đói
nghèo trên phạm vi hành tinh. Người ta đã tổ chức những chiến dịch lớn với
hàng vạn tấn lương thực, hàng triệu USD để cứu giúp những người hoạn nạn
ở các nước châu Phi, châu Á. Sự giúp đỡ về vật chất và tinh thần là rất đáng
kể. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, dù đây là công việc mà toàn cầu quan tâm
nhưng việc chống đói cho các nước đói nghèo thì thành quả đạt được vẫn còn
23. 19
ở mức hạn chế, sự trợ giúp của cộng đồng đối với một bộ phận dân cư khốn
khó cũng vẫn còn hạn chế.
Như vậy, nghèo khổ hay đói nghèo là một hiện tượng xã hội, vừa là vấn
đề lịch sử để lại, vừa là vấn đề của phát triển, thường xuất hiện trong quá trình
phát triển mà quốc gia nào cũng vấp phải. Nó ảnh hưởng trực tiếp tới cuộc sống
của con người, từ cá nhân, gia đình đến cộng đồng. Mỗi quốc gia ở các mức độ
khác nhau đều phải quan tâm đến việc giải quyết vấn đề đói nghèo để vượt qua
những trở ngại cho sự phát triển phồn thịnh về kinh tế và từng bước đạt tới
công bằng xã hội. Tuy nhiên, ở các chế độ xã hội khác nhau thì mục đích và
mức độ quan tâm cũng khác nhau. Song đây là vấn đề toàn cầu nên nó cũng thu
hút sự quan tâm, phối hợp các nỗ lực giải quyết của cộng đồng quốc tế.
1.1.2. Một số vấn đề lý luận về chính sách xóa đói giảm nghèo.
Trong phạm vi quốc gia, nếu vấn đề đói nghèo không được giải quyết
thì không một mục tiêu nào mà cộng đồng quốc gia đặt ra như hòa bình, ổn
định, công bằng xã hội…có thể giải quyết được. Không chỉ riêng Việt Nam
mà hầu hết các quốc gia trên thế giới đều đưa ra những hoạch định, chính
sách, các biện pháp xóa đói giảm nghèo nhằm đưa đất nước thoát khỏi tình
trạng đói nghèo, ổn định xã hội.
Xóa đói giảm nghèo là tổng thể các biện pháp, chính sách của Nhà
nước và xã hội đối với những đối tượng thuộc diện đói nghèo, nhằm tạo điều
kiện để họ tăng thu nhập, thoát khỏi tình trạng thu nhập không đáp ứng được
những nhu cầu tối thiểu trên cơ sở chuẩn nghèo được quy định theo từng địa
phương, khu vực, quốc gia.
Chính sách xóa đói giảm nghèo là tập hợp các chủ trương, các biện
pháp khuyến khích đối tượng phụ thuộc vào chính sách nhằm đạt được mục
đích của chủ thể ra chính sách. Chính sách xóa đói giảm nghèo bao gồm các
chương trình, dự án và các quyết định hướng tới xóa đói giảm nghèo.
24. 20
Như vậy, Chính sách bao gồm những dự định lập kế hoạch, hướng dẫn,
phát động, tài trợ hoặc thông qua các dự án, chương trình, những hoạt động
đang được thực hiện của chính phủ. Chính sách là những quyết định, quy định
của nhà nước (tức là các cấp chính quyền từ trung ương đến địa phương) được
cụ thể hoá thành các chương trình, dự án cùng các nguồn lực, vật lực, các thể
thức, quy trình hay cơ chế thực hiện nhằm tác động vào đối tượng có liên
quan, thay đổi trạng thái của đối tượng theo hướng mà nhà nước mong muốn.
Chính sách xóa đói giảm nghèo có thể được hiểu là những quyết định,
quy định của nhà nước được cụ thể hoá trong các chương trình, dự án cùng
với nguồn lực, vật lực, các thể thức, qui trình hay cơ chế thực hiện nhằm tác
động vào các đối tượng cụ thể như người nghèo, hộ nghèo hay xã nghèo với
mục đích cuối cùng là xóa đói giảm nghèo.
Để thực hiện tốt công cuộc xóa đói giảm nghèo, Đảng và Nhà nước ra
đã đưa ra những nội dung nằm trong các chính sách xóa đói giảm nghèo như:
tạo điều kiện cho người nghèo có điều kiện phát triển sản xuất gia tăng thu
nhập bằng các biện pháp; cấp tín dụng ưu đãi cho người nghèo: cho vay lãi
thấp, giúp họ có vốn sản xuất và từ đó có thể thoát nghèo; hỗ trợ cho họ đất
sản xuất bằng cách giảm các thuế đất; thực hiện hỗ trợ đầu tư các cơ sở hạ
tầng về đường sá, các công trình thủy lợi, tạo điều kiện cho người dân tham
gia sản xuất, nâng cao năng suất lao động để thoát nghèo; dựa trên từng cơ sở,
vùng miền, xác định đc thế mạnh và có kế hoạch phát triển từng ngành nghề
giúp giải quyết các tình trạng thoát nghèo, thất nghiệp, tăng thu nhập cho
người nghèo; tạo điều kiện cho người dân có điều kiện học hỏi kỹ thuật canh
tác sản xuất bằng cách mở các lớp sản xuất, phổ biến kiến thức tới thôn bản,
nâng cao lao động cho người nghèo; tạo điều kiện cho người nghèo có cơ hội
được tiếp cận với các dịch vụ cơ bản như; y tế, giáo dục, nước sạch, vệ sinh;
hỗ trợ về y tế bằng việc cấp thẻ bảo hiểm y tế, cấp thuốc miễn phí cho người
nghèo thông qua các chương trình mục tiêu quốc gia; hỗ trợ về giáo dục: miễn
25. 21
giảm học phí cho các con em thuộc diện đói nghèo; hỗ trợ vể nhà ở; hỗ trợ về
nước sạch. Tạo điều kiện cho họ có cơ hội tiếp cận với các dịch vụ an sinh xã
hội… Xóa đói giảm nghèo là một phần quan trọng nằm trong chính sách an
sinh xã hội của mỗi quốc gia. Cùng với các chính sách khác tạo ra một tấm
lưới toàn diện bảo vệ cho các thành viên xã hội.
Có thể thấy rằng, xóa đói giảm nghèo vừa là một đòi hỏi tất yếu khách
quan, vừa là một đòi hỏi tự thân và cấp bách cho sự hình thành và phát triển
của chủ nghĩa xã hội.
Ở nước ta, ngay từ những ngày đầu giành được độc lập dân tộc, Hồ Chí
Minh đã coi công việc xóa đói giảm nghèo quan trọng và cấp bách. Người đã
chỉ rõ đói nghèo là một trong ba thứ giặc cần phải diệt và giao nhiệm vụ cho
nhân dân toàn quốc: “diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm”. Người
chủ trương làm cho người nghèo thì đủ ăn, người đủ ăn thì khá giả lên, người
khá giả thì giàu thêm. Hồ Chí Minh đã đưa ra mục tiêu phấn đấu để nhân dân
thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn, việc làm, ấm no và đời
sống hành phúc.
Hồ Chí Minh coi đói nghèo là giặc, đã thể hiện và hàm chứa hết tinh
thần và tư tưởng vĩ đại của người trong một triết lý phát triển. Với việc nỗ lực
xóa đói, giảm nghèo, quyết tâm “đánh đuổi” đói nghèo đã giúp cho xã hội
phát triển ngày một giàu mạnh và phồn vinh. Không sợ đói nghèo ở đây chỉ
có thể được hiểu là ta không sợ kẻ thù, không sợ hoàn cảnh đói nghèo thực
tại, còn chắc chắn chúng ta phải nỗ lực để “tiêu diệt” đói nghèo để đưa đời
sống của mỗi người dân, của cả đất nước ngày một ấm no hơn.
Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến vấn đề tăng gia sản xuất và tiết kiệm
để xóa đói giảm nghèo. Người đề nghị hội đồng chính phủ phát động một
chiến dịch tăng gia sản xuất và mở những cuộc vận động cứu đói, phong trào
để dành một nắm gạo nhỏ theo từng buổi đã được nhân rộng thành phong trào
tiết kiệm gạo khắp cả nước. Điều đó đã nói lên sự coi trọng và việc làm cụ thể
26. 22
của Người đối với công tác xóa đói giảm nghèo. Có vậy mới đảm bảo chắc
chắn lâu dài công cuộc xóa đói. Về lâu dài phải hướng dẫn họ cách thức làm
ăn, trợ giúp về vốn, kỹ thuật... để họ tự vươn lên phát triển sản xuất mới có
thể xóa đói giảm nghèo một cách hiệu quả. Xóa đói giảm nghèo là làm cho
người nghèo thì đủ ăn, người đủ ăn thì khá giàu, người giàu thì giàu thêm.
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, trong một đất nước mà người dân còn
nghèo, có người còn sống trong cảnh bữa được, bữa mất, bữa đói, bữa no thì
ở đó xã hội còn chưa yên. Xóa đói giảm nghèo là một nhiệm đặc biệt quan
trọng đối với mỗi nước khi đặt mục tiêu phát triển bền vững.
Hồ Chí Minh luôn cho rằng, trong một đất nước mà người dân còn
nghèo, có người vẫn còn sống trong cảnh túng quẫn thì xã hội đó còn chưa
yên. Xóa đói giảm nghèo là một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng đối với mỗi
nước khi đặt mục tiêu là phát triển bền vững. Ở đâu còn tồn tại sự bất công,
còn đói nghèo thì ở đó chưa thể có sự phát triển. Đói nghèo sẽ làm cho các
thành quả đạt được trở nên thiếu bền vững và có thể nó sẽ làm hỏng đi những
thành quả đó. Đói nghèo làm cho con người khó có thể đạt được hoài bão của
mình, đói nghèo sẽ làm mất đi hạnh phúc cần có của người dân.
Thấm nhuần triết lý phát triển trong tư tưởng của Hồ Chí Minh về xóa
đói giảm nghèo, Đảng và Nhà nước ta luôn coi việc xóa đói giảm nghèo là
một trong những thước đo quan trọng cho sự đúng đắn của đường lối, chính
sách và giải pháp trong xây dựng và phát triển đất nước.
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã coi vấn đề xóa đói,
giảm nghèo là mục tiêu xuyên suốt trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội
của đất nuớc. Đảng và Nhà nước ta luôn giữ vững quan điểm xóa đói giảm
nghèo là sự nghiệp cách mạng của toàn dân, là một chính sách xã hội cơ bản,
là hướng ưu tiên trong toàn bộ các chính sách kinh tế - xã hội. Quan điểm
xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta là phát triển kinh tế đi đôi với thực hiện
xóa đói giảm nghèo bền vững, gắn xóa đói giảm nghèo với phát triển kinh tế
27. 23
nông nghiệp, nông thôn, kinh tế hộ, dịch vụ, ngành nghề, lồng ghép xóa đói
giảm nghèo với các chương trình mục tiêu quốc gia và an sinh xã hội. Xác
định rõ các vùng trọng điểm, các hoạt động ưu tiên để tập trung nguồn lực đầu
tư có hiệu quả. Gắn xóa đói giảm nghèo và giải quyết việc làm với việc thực
hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Tạo cơ hội và điều kiện cho người nghèo, hộ
nghèo, xã nghèo tiếp cận với các dịch vụ xã hội cơ bản.
Đảng và Nhà nước ta luôn có chủ trương nhất quán về xóa đói giảm
nghèo qua các lần Đại hội Đảng và khẳng định: cùng với quan điểm đổi mới
toàn diện, tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với xóa đói giẳm nghèo, thực hiện
công bằng xã hội, bình đẳng giới, giảm sự phân hóa giàu nghèo. Khuyến
khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói giảm nghèo bền vững, chủ trọng
phát triển nông nghiệp nông thôn và các dịch vụ xã hội cơ bản. Tập trung các
nguồn lực để xóa cơ bản các hộ đói, giảm nhanh các hộ nghèo, phát triển cơ
sở hạ tầng ở các xã đặc biệt khó khăn.
1.2. Tính tất yếu của việc thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo.
1.2.1. Tính tất yếu về mặt lý luận.
Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã lãnh đạo toàn dân đấu tranh giành độc lập, thống nhất đất nước, dựng
nên nhà nước dân chủ cộng hòa, tiến hành công cuộc cách mạng xã hội chủ
nghĩa, nhằm thực hiện lý tưởng cao đẹp của toàn Đảng, toàn dân là xây dựng
Việt Nam thành một nước xã hội chủ nghĩa.
Tư tưởng về chủ nghĩa xã hội do các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác -
Lênin vạch ra đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo và có kết quả
vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Xã hội không có áp
bức bóc lột; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, làm theo năng
lực, phân phối theo lao động; đời sống vật chất và tinh thần cao; con người
được phát triển toàn diện; xã hội công bằng, bình đẳng; có chế độ công hữu
về tư liệu sản xuất; nhà nước của toàn dân.
28. 24
Các đặc trưng của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng được nêu
trong Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung, phát triển) là thành quả của công cuộc đổi
mới, trước hết là thành quả của đổi mới nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội,
trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
phù hợp với thực tiễn Việt Nam trong điều kiện hiện nay để tạo nên mô hình
chủ nghĩa xã hội Việt Nam.
Những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng
đã thể hiện tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội Việt Nam.
Đặc trưng thứ nhất, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Đây là đặc trưng phổ quát, có tính bản chất của xã hội xã hội chủ nghĩa,
nó thể hiện sự khác nhau căn bản, sự tiến bộ hơn hẳn so với các chế độ xã hội
trước đó. Xây dựng xã hội “dân chủ, công bằng, văn minh” là quá trình vô
cùng khó khăn, gian khổ và lâu dài trong hoàn cảnh và điều kiện Việt Nam là
một đất nước còn nghèo, đang phát triển. Để trở thành xã hội xã hội chủ nghĩa
với những đặc trưng nêu trên thì toàn Đảng, toàn dân ta phải nỗ lực sáng tạo,
chiếm lĩnh các đỉnh cao của xã hội.
Đặc trưng thứ hai, do nhân dân làm chủ.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta; với bản chất nêu
trên, nó vừa là mục tiêu, lại vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Để có
một xã hội do nhân dân thực sự làm chủ, chúng ta phải nhanh chóng xây dựng
và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa để bảo đảm tất cả quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân; mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân.
Đặc trưng thứ 3, có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản
xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp.
Nền kinh tế phát triển là cơ sở để có được một xã hội giàu mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh. Kinh tế là lực lượng vật chất, nguồn sức mạnh để
quyết định sự vững vàng và phát triển của xã hội. Trên cơ sở đó thiết lập quan
29. 25
hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa tiến bộ phù hợp để thúc đẩy lực lượng sản xuất
phát triển. Từ đó, Đảng ta đã tập trung phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, mà trước mắt là hoàn thiện thể chế của nó; đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, nhằm xây
dựng một lực lượng sản xuất hiện đại để có một nền kinh tế phát triển cao -
điều kiện bảo đảm cho sự phát triển bền vững xã hội xã hội chủ nghĩa.
Đặc trưng thứ tư, có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Đặc trưng này thể hiện khái quát, nhân văn của văn hóa nhân loại ở
việc giữ gìn bản sắc dân tộc về những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc
Việt Nam, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, truyền thống đoàn kết và nhân ái, ý
thức về độc lập, tự do, tự cường dân tộc.
Đặc trưng thứ năm, Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc,
có điều kiện phát triển toàn diện.
Về phương diện con người, chủ nghĩa xã hội đồng nghĩa với chủ nghĩa
nhân văn, nhân đạo: tất cả vì con người, cho con người và phát triển con
người toàn diện. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Muốn xây dựng chủ nghĩa
xã hội thì phải có con người xã hội chủ nghĩa. Để có con người xã hội chủ
nghĩa phải xác định và hiện thực hóa hệ giá trị phản ánh nhu cầu chính đáng
của con người trong xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng.
Nhu cầu, nguyện vọng thiết thực của con người Việt Nam hiện nay là: có
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân.
Đặc trưng thứ sáu, các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng,
đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển.
Đặc trưng này đòi hỏi những yếu tố thiết yếu cho sự tồn tại bền vững
của xã hội lành mạnh. Bình đẳng và đoàn kết chính là nền tảng của sự tôn
trọng và giúp nhau cùng phát triển. Tôn trọng và giúp nhau không chỉ là tình
thương, lòng nhân đạo, mà thực sự là đòi hỏi, yêu cầu, trách nhiệm và điều
kiện thiết yếu cho sự phát triển của từng cá nhân, cộng đồng, dân tộc; là một
30. 26
tiêu chuẩn quan trọng của xã hội phát triển. Đoàn kết toàn dân, tôn trọng và
giúp đỡ nhau giữa các dân tộc đã làm nên thành công của cách mạng Việt
Nam, tinh thần đó, phương châm đó sẽ là những nét đặc sắc của giá trị xã hội
xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Đặc trưng thứ bảy, Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng thể hiện trong tính ưu
việt của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân, thực hiện ý chí, quyền lực của nhân dân, do Đảng Cộng sản Việt
Nam lãnh đạo.
Nhà nước pháp quyền là một hình thức quản lý nhà nước trên một trình
độ cao và hiệu quả. Nó điều hành hoạt động của các cơ quan nhà nước và xã
hội bằng pháp luật. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là nhà nước quản
lý và điều hành đất nước và xã hội bằng pháp luật thể hiện quyền lợi và ý chí
của nhân dân; vì vậy, là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Đặc trưng thứ tám, Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các
nước trên thế giới.
Việt Nam luôn luôn khẳng định quan hệ hữu nghị và hợp tác giữ nhân
dân ta và nhân dân các nước trên thế giới. Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy
của các nước trong cộng đồng quốc tế…Đảng và Nhà nước ta chủ trương hợp
tác bình đẳng, cùng có lợi với tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính
trị - xã hội khác nhau trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của Hiến chương
Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế.
Việc chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, tham gia tích cực vào các tổ
chức, diễn đàn quốc tế và khu vực đã chứng minh một cách sinh động tính ưu
việt của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng, thể hiện trong đặc
trưng về quan hệ đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta.
31. 27
Tiến lên chủ nghĩa xã hội là một quá trình vận động, chuyển hóa liên
tục. Điều đó đặt ra cho Đảng ta trọng trách là phải không ngừng đổi mới tư
duy, tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận để vừa tiếp tục khám phá ra những
vấn đề, những nội dung, những đặc trưng mới, vừa sáng suốt lãnh đạo toàn
dân ta xây dựng xã hội đạt tới các phẩm chất và các giá trị, vươn tới các đặc
trưng mới của xã hội xã hội chủ nghĩa trong tương lai.
Tuy nhiên, để xây dựng một xã hội phồn thịnh như vậy thì điều tất yếu
là phát triển kinh tế thị trường một nhiệm vụ kinh tế cấp bách để chuyển nền
kinh tế lạc hậu của nước ta thành nền kinh tế hiện đại, hội nhập vào sự phân
công lao động quốc tế. Đó là con đường đúng đắn để phát triển lực lượng sản
xuất, khai thác có hiệu quả tiềm năng của đất nước vào sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá.
Thực tiễn những năm đổi mới đã chứng minh rằng, việc chuyển sang
nền kinh tế thị trường nhiều thành phần là hoàn toàn đúng đắn. Nhờ phát triển
nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, chúng ta đã bước đầu khai thác được
tiềm năng trong nước và thu hút được vốn, kỹ thuật, công nghệ của nước
ngoài, giải phóng được năng lực sản xuất, góp phần quyết định vào việc bảo
đảm tăng trưởng kinh tế với nhịp độ tương đối cao trong thời gian qua.
Kinh tế thị trường đã phát huy những ưu điểm của nó, cơ chế thị trường
kích thích hoạt động của chủ thể kinh tế và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt
động tự do của họ. Do đó, làm cho nền kinh tế phát triển năng động, có hiệu
quả; sự tác động của cơ chế thị trường sẽ đưa đến sự thích ứng tự phát giữa
khối lượng và cơ cấu của sản xuất với khối lượng và cơ cấu nhu cầu của xã
hội. Nhờ đó ta có thể thoả mãn tốt nhu cầu tiêu dùng cá nhân về hàng ngàn,
hàng vạn sản phẩm khác nhau. Nhiệm vụ này nếu để Nhà nước làm sẽ phải
thực hiện một số công việc rất lớn, có khi không thực hiện được và đòi hỏi chi
phí cao trong quá trình ra các quyết định; cơ chế thị trường kích thích đổi mới
kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất. Sức ép của cạnh tranh buộc những người sản
32. 28
xuất phải giảm chi phí sản xuất cá biệt đến mức tối thiểu bằng cách áp dụng
phương pháp sản xuất tốt nhất như không ngừng đổi mới kỹ thuật và công
nghệ sản xuất, đổi mới sản phẩm, đổi mới tổ chức sản xuất và quản lý kinh
doanh, nâng cao hiệu quả; cơ chế thị trường thực hiện phân phối các nguồn
lực kinh tế một cách tối ưu. Trong nền kinh tế thị trường, việc lưu động, di
chuyển, phân phối các yếu tố sản xuất, vốn đều tuân theo nguyên tắc của thị
trường; chúng sẽ chuyển đến nơi được sử dụng với hiệu quả cao nhất, do đó
các nguồn lực kinh tế được phân bố một cách tối ưu; sự điều tiết của cơ chế
thị trường mềm dẻo hơn sự điều chỉnh của cơ quan nhà nước và có khả năng
thích nghi cao hơn trước những điều kiện kinh tế biến đổi, làm thích ứng kịp
thời giữa sản xuất xã hội với nhu cầu xã hội.
Cơ chế thị trường là cơ chế tốt nhất điều tiết nền kinh tế thị trường, tuy
nhiên cơ chế thị trường cũng có những hạn chế vốn có của nó.
Thứ nhất, cơ chế thị trường chỉ phát huy tác dụng đầy đủ khi có cạnh
tranh hoàn hảo, khi xuất hiện cạnh tranh không hoàn hảo, thì hiệu lực của cơ
chế thị trường bị giảm. Chẳng hạn xuất hiện độc quyền, các nhà độc quyền có
thể giảm sản lượng, tăng giá để thu lợi nhuận cao, mặt khác, khi xuất hiện độc
quyền, thì không có sức ép của cạnh tranh đối với việc đổi mới kỹ thuật.
Thứ hai, mục đích hoạt động của các doanh nghiệp là lợi nhuận tối đa,
vì vậy họ có thể lạm dụng tài nguyên của xã hội, gây ô nhiễm môi trường
sống của con người, do đó hiệu quả kinh tế - xã hội không được bảo đảm.
Thứ ba, phân phối thu nhập không công bằng, vì vậy sự tác động của
cơ chế thị trường sẽ dẫn đến sự phân hoá giàu nghèo, sự phân cực về của cải,
tác động xấu đến đạo đức và tình người.
Thứ tư, một nền kinh tế do cơ chế thị trường thuần tuý điều tiết khó tránh
khỏi những thăng trầm, khủng hoảng kinh tế có tính chu kỳ và thất nghiệp.
33. 29
Do cơ chế thị trường có một loạt các nhược điểm vốn có của nó, nên
trong thực tế không tồn tại cơ chế thị trường thuần tuý, mà thường có sự can
thiệp của Nhà nước để sửa chữa những thất bại của cơ chế thị trường.
Cơ chế thì trường cũng đã phân chia xã hội thành các nhóm xã hội có
điều kiện kinh tế và chất lượng sống khác biệt nhau, sự phân tầng xã hội chủ
yếu về mặt kinh tế, thể hiện sự chênh lệch giữa các nhóm này về tài sản, thu
nhập, mức sống.
Sự phân tầng xã hội đã tác động nhất định của nó đối với kinh tế- xã
hội Việt Nam. Nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển, đời sống của nhân dân từng
bước được cải thiện, nhưng đồng thời cũng tạo ra sự chênh lệch về thu nhập,
mức sống ngày càng rõ nét hơn, trong đó phân hóa giàu nghèo giửa thành thị
và nông thôn đang là một trong những vấn đề xã hội bức xúc hiện nay.
Phân hóa giàu nghèo lại chứa đựng nhiều mặt tiêu cực là dẫn đến bất
bình đẳng trong xã hội, những người giàu thì giàu thêm còn những người
nghèo thì ngày càng nghèo đi.
Phân hoá giàu nghèo còn gây ra sự chênh lệch và mâu thuẫn về văn hóa
trong xã hội. Ngoài sự chênh lệch về vất chất, những người nghèo còn thiệt
thòi về giá trị tinh thần, họ không có hoặc rất ít để được tiếp cận các loại hình
dịch vụ văn hoá tiên tiến, đặt biệt là vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, miền
núi và hải đảo.
Nước ta đang trong thời kỳ hóa độ lên chủ nghĩa xã hội, hướng tới một
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, để xóa bỏ những bất công như phân hóa
giàu, nghèo hiện nay là điều tất yếu. Đảng và Nhà nước ta đang phấn đấu đến
năm 2020 đưa nước ta trở thành một nước có nền công nghiệp hiện đại, việc
giải quyết tình trạng phân hóa giàu nghèo càng trở nên khó khăn. Trong
những năm qua Đảng và Nhà nước ta đang nỗ lực và làm hết sức mình để thu
hẹp và xóa bỏ những bất công tồn tại trong xã hội như : xóa đói giảm nghèo,
34. 30
có sự ưu tiên và quan tâm và sâu sắc hơn đối với người nghèo, các gia đình
chính sách…Trong tương lai, việc thực hiện xóa đói giảm nghèo cần có
những hệ thống chính sách của Đảng và Nhà nước, cần sự chung tay góp sức
của cả cộng đồng, sự ủng hộ cả về vật chất lẩn tinh thần để họ có điều kiện
vươn lên trong cuộc sống.
1.2.2. Tính tất yếu về mặt thực tiễn.
Ở nước ta, đời sống của nhân dân là một trong những vấn đề được
Đảng và Nhà nước quan tâm hàng đầu. Các nghị quyết trong văn kiện đại hội
Đảng từ Đại hội I đến Đại hội X, các bản Hiến pháp của Nhà nước năm 1946,
năm 1959, năm 1992 đều đề cập đến vấn đề xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời
sống cho dân tộc trên tinh thần coi vấn đề phát triển kinh tế cho nhân dân và
ra những chỉ thị về xóa đói giảm nghèo là những vấn đề có vị trí chiến lược
lâu dài trong sự nghiệp cách mạng nước ta.
Công tác xóa đói giảm nghèo dưới sự lãnh đạo của Đảng trong những
năm vừa qua đã thu được nhiều thành tựu đáng kể trên mọi mặt của cuộc sống
như: chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội. Đời sống kinh tế ở nông thôn vùng
dân tộc đã có nhiều thay đổi, từ cuộc sống còn thiếu thốn và khó khăn nay đời
sống đại đa số các gia đình trong nông thôn phần nào đã được cải thiện hơn.
Sự đổi mới này thật sự là rất lớn lao và đó chính là thành quả của việc thực
hiện chính sách xóa đói giảm nghèo của Đảng, nhất là sau đổi mới, đồng thời
đó cũng là kết quả lao động cần cù, gian khổ của đồng bào.
Ngay từ khi chiến tranh kết thúc đã để lại cho đất nước ta những hậu
quả nặng nề ảnh hưởng tới nhiều mặt của đời sống người dân. Từ những cấm
vận của các nước đế quốc, sự cắt giảm viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa
đến những sai lầm về các chính sách kinh tế như áp dụng trong một thời gian
dài mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp. Do vậy, tự sản
xuất không thể đáp ứng được tiêu dùng thiết yếu vì năng suất chất lượng thì bị
35. 31
giảm sút nghiêm trọng, kéo theo đó lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo
của Đảng và Nhà nước bị suy giảm.
Trước bối cảnh đó Đảng và Nhà nước ta chủ chương đổi mới chuyển từ
nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Từ khi đổi mới đến nay, nền kinh tế nước ta đã thu
được rất nhiều thành tựu to lớn, bước đầu đạt được những kết quả đáng khích
lệ trong việc thực hiện chính sách xoá đói giảm nghèo, đồng thời, các chính
sách đó đã được bổ sung và sửa đổi qua các kỳ đại hội.
Từ Đại hội VI đến Đại hội X, Đảng ta đã có nhiều nghị quyết, nhiều
văn bản đề cập tới vấn đề thực hiện xóa đói giảm nghèo, vừa tăng nhanh tốc
độ phát triển, vừa giảm dần sự mất cân đối giữa các vùng; giảm dần khoảng
cách về thu nhập, nâng cao mức sống người dân, thực hiện tốt các vấn đề về giáo
dục, văn hóa, bảo vệ sức khỏe của các tầng lớp dân cư ở các vùng khác nhau.
Tuy nhiên, để thực hiện tốt công cuộc xóa đói giảm nghèo cần xác định rõ:
Thứ nhất, xóa đói giảm nghèo là nội dung và nhiệm vụ cần được thực
hiện thường xuyên. Thực tiễn cho thấy, có những nguyên nhân nảy sinh đói
nghèo không phải do môi trường xã hội, không do điều kiện kinh tế - địa lý,
mà do hoàn cảnh và đặc điểm của từng cá nhân, từng hộ gia đình. Những
trường hợp này luôn có khả năng xuất hiện và việc xóa đói giảm nghèo mang
tính thường trực.
Thứ hai, chủ trương của Đảng ta phát triển kinh tế nhiều thành phần
nhưng nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường luôn có xu hướng phân hóa
hai cực giàu nghèo. Vì vậy, cùng với việc tăng cường sự quản lý của Nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa thường xuyên và liên tục, lâu dài, thì
nhiệm vụ xóa đói giảm nghèo, nhất là giảm nghèo, cũng là vấn đề liên tục và
lâu dài mới giải quyết được.
Thứ ba, dân giàu nước mạnh là mục tiêu cơ bản của chủ nghĩa xã hội,
để thực hiện mục tiêu này cần xác định rõ đây là một quá trình phấn đấu gian
36. 32
khổ, lâu dài. Xóa đói giảm nghèo là vừa nhiệm vụ cơ bản, vừa là công việc
trước mắt cần thực hiện, bởi vì sự nghiệp cách mạng và công cuộc đổi mới
luôn đặt ra: mỗi bước phát triển kinh tế - xã hội là một bước cải thiện đời
sống của nhân dân; đây không chỉ là việc thực hiện truyền thống, đạo lý của
dân tộc, mà còn là nhiệm vụ để bảo đảm ổn định xã hội, củng cố khối đại
đoàn kết dân tộc.
Có những quan điểm cho rằng, muốn xóa đói giảm nghèo trước hết
phải đầu tư phát triển sản xuất để tăng trưởng kinh tế, chỉ đến khi kinh tế đã
phát triển đến giai đoạn nhất định sẽ hết đói nghèo, vì thế không nên đặt vấn
đề xóa đói giảm nghèo là nhiệm vụ lâu dài và trọng yếu. Thực ra tăng trưởng
kinh tế có ảnh hưởng đến việc giải quyết vấn đề đói nghèo, bởi vì nguyên
nhân chính yếu của đói nghèo nói chung là do kinh tế chưa phát triển. Tuy
nhiên, đói nghèo lại do nhiều nguyên nhân khác mang tính đặc thù, hơn nữa,
trong điều kiện kinh tế nước ta hiện nay, chúng ta chấp nhận kinh tế nhiều
thành phần cùng vận động, phát triển cũng là phải chấp nhận tình trạng phân
hóa giàu nghèo tương đối. Vì vậy, xóa đói giảm nghèo là nhiệm vụ cấp bách
và quan trọng. Xác định sự phân hóa giàu nghèo không thể tránh khỏi, đồng
thời cũng quyết tâm không thể để người nghèo bị bỏ rơi trong xã hội.
Đối với nước ta, quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường với xuất
phát điểm là một đất nước nghèo nàn lạc hậu, tồn tại tình trạng đói nghèo là
không thể tránh khỏi, thậm chí trầm trọng và gay gắt. Thực hiện tốt xóa đói
giảm nghèo sẽ được hạn chế các yếu tố tệ nạn xã hội, tạo sự ổn định công bằng
xã hội, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế. Người nghèo được hỗ trợ để tự
vươn lên, tạo thu nhập, từ đó làm tăng sức mua, khuyến khích sản xuất phát
triển. Vì vậy, quan điểm cơ bản của chiến lượt phát triển xã hội mà Đảng ta đã
đề ra là phát triển kinh tế ổn định và công bằng xã hội.
Cần khẳng định rằng xóa đói giảm nghèo không dừng lại ở việc thực
hiện chính sách xã hội, không phải việc riêng của ngành lao động - xã hội hay
37. 33
một số ngành khác, mà là nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa, là nhiệm vụ
chung của toàn Đảng, toàn dân. Muốn thực hiện thành công việc xóa đói giảm
nghèo, tất cả các cán bộ đảng, chính quyền đều phải quan tâm cùng giải
quyết, thực hiện các giải pháp một cách đồng bộ và phải có sự tham gia của
toàn thể cộng đồng.
Cụ thể, Đảng và Nhà nước ta xác định rõ xóa đói giảm nghèo là yếu tố
cơ bản đảm bảo công bằng xã hội và tăng trưởng bền vững. Xóa đói giảm
nghèo là vấn đề lâu dài để xây dựng một xã hội giàu mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh. Đây không chỉ là sự phân phối lại thu nhập một cách thụ
động mà tạo ra động lực tăng trưởng tại chỗ, chủ động vươn lên thoát nghèo.
Trong Hội nghị Trung Ương lần thứ 5 (khóa VII) Đảng và Nhà nước ta
đã đề ra chủ trương xóa đói giảm nghèo trong chiến lược phát triển nông thôn,
nông nghiệp và nông dân cũng như trong chiến lược phát triển chung của xã
hội và trở thành một chủ trương, chiến lược nhất quán, liên tục được bổ sung,
hoàn thiện qua các kỳ Đại hội của Đảng.
Ở nước ta, từ năm 1992, xóa đói giảm nghèo đã được triển khai ở một
số tỉnh, thành phố. Đến năm 1994 đã trở thành phong trào ở tất cả các tỉnh,
thành phố trong cả nước. Trong giai đoạn từ 1992 đến 1997, phong trào xóa
đói giảm nghèo đã được các địa phương và các tổ chức đoàn thể phát động để
trợ giúp hộ nghèo về đời sống và sản xuất. Sau khi thực hiện mô hình xóa đói
giảm nghèo trong giai đoạn này, bước đầu đã thu được nhiều thành tựu đáng
kể, nhiều mô hình xóa đói giảm nghèo thành công đã xuất hiện và được nhân
rộng. Sự phối hợp và lồng ghép các chương trình kinh tế, xã hội khác với xóa
đói giảm nghèo được áp dụng phổ biến hơn. Các hộ đói nghèo đã được hưởng
lợi từ các chương trình xóa đói giảm nghèo nên đại bộ phận dân cư bước đầu
được cải thiện, đặc biệt là nhóm hộ nghèo.
Để nhấn mạnh tầm quan trọng của công tác xóa đói giảm nghèo, trong
Đại hội lần thứ VIII, Đảng xác định phải nhanh chóng đưa các hộ nghèo thoát
38. 34
ra khỏi hoàn cảnh túng thiếu và sớm hòa nhập với sự phát triển chung của đất
nước. Đồng thời, đề ra chương trình quốc gia về xóa đói giảm nghèo trong 5
năm từ 1996 – 2000 cùng những chương trình kinh tế - xã hội khác.
Để thực hiện tốt công tác xóa đói giảm nghèo, năm 1998 Thủ tướng
Chính phủ đã ký quyết định phê duyệt "Chương trình mục tiêu quốc gia xóa
đói giảm nghèo trong giai đoạn 1998 - 2000". Chương trình bao gồm cả công
tác định canh, định cư và hỗ trợ đồng bào dân tộc đặc biệt khó khăn, nhằm tạo
ra các điều kiện thuận lợi, phù hợp để hỗ trợ người nghèo phát triển sản xuất,
tăng thu nhập, xóa đói giảm nghèo. Chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói
giảm nghèo trong giai đoạn 1998 - 2000 là một chương trình tổng hợp có tính
chất liên ngành, nằm trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước,
với mục tiêu là: giảm tỷ lệ hộ đói nghèo trong tổng số hộ của cả nước xuống
còn 10% vào năm 2000. Chương trình được thực hiện trên phạm vi cả nước.
Trong những năm đầu tập trung ưu tiên vào các xã nghèo, đặc biệt khó khăn
vùng cao, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa. và xác định đây là một trong 6
chương trình mục tiêu quốc gia, là một chủ trương lớn, một quyết sách lớn của
Đảng và Nhà nước. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội là cơ quan thường
trực giúp Chính phủ thực hiện chương trình này.
Thực hiện chương trình xóa đói giảm nghèo đã được phê duyệt, năm
2004 thủ tướng chính phủ đã ký quyết định “về một số chính sách hỗ trợ đất
sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số
nghèo, đời sống khó khăn”. Nội dung của chương trình là thực hiện một số
chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt cho hộ đồng bào
dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn, cùng với việc thực hiện các
chương trình kinh tế xã hội khác, Nhà nước trực tiếp hỗ trợ đồng bào dân tộc
thiểu số nghèo để có điều kiện phát triển sản xuất, cải thiện đời sống để sớm
thoát nghèo. Chương trình này chủ yếu dành cho đối tượng là các hộ đồng
bào dân tộc thiểu số tại chỗ, định cư thường trú tại địa phương, là hộ nghèo
39. 35
sinh sống bằng nghề nông, lâm nghiệp, chưa có hoặc chưa đủ đất sản xuất, đất
ở và có khó khăn về nhà ở, nước sinh hoạt. Sở dĩ gọi đây là Chương trình 134
vì số hiệu của Quyết định của Thủ tướng chính phủ Việt Nam phê duyệt
chương trình này là 134/2004/QĐ-TTg. Với mục tiêu cụ thể là đảm bảo mỗi
hộ dân tộc thiểu số có tối thiểu 0,5 ha đất nương, rẫy hoặc 0,25 ha đất ruộng
lúa nước một vụ hoặc 0,15 ha đất ruộng lúa nước hai vụ để sản xuất nông
nghiệp; Đảm bảo mỗi hộ dân tộc thiểu số ở nông thôn có tối thiểu tối thiểu
200 m² đất ở; Chính quyền trung ương cùng chính quyền địa phương sẽ trợ
cấp cho các hộ dân tộc thiểu số nghèo chưa có nhà ở hoặc nhà ở tạm bợ để họ
xây nhà. Đối với các thôn, bản có từ 50% số hộ là đồng bào dân tộc thiểu số
trở lên, chính quyền trung ương sẽ trợ cấp 100% kinh phí xây dựng công trình
cấp nước sinh hoạt tập trung. Đối với các thôn, bản có từ 20% đến dưới 50%
số hộ đồng bào dân tộc thiểu số, chính quyền trung ương sẽ trợ cấp 50% kinh
phí xây dựng công trình cấp nước sinh hoạt tập trung.
Nhằm nâng cao hiệu quả trong thực hiện xóa đói giảm nghèo trong
những năm tiếp theo, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục quyết định phê duyệt
“Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi và
vùng sâu, vùng xa”. Đây là một trong các chương trình xóa đói giảm
nghèo ở Việt Nam do Nhà nước Việt Nam triển khai từ năm 1998. Chương
trình được biết đến rộng rãi dưới tên gọi Chương trình. Theo kế hoạch ban
đầu, chương trình sẽ kéo dài 7 năm và chia làm hai giai đoạn; giai đoạn 1
từ năm ngân sách 1998 đến năm 2000 và giai đoạn 2 từ năm 2001 đến
năm 2005. Tuy nhiên, đến năm 2006, Nhà nước Việt Nam quyết định kéo dài
chương trình này thêm 5 năm, và gọi giai đoạn 1997-2006 là giai đoạn I. Tiếp
theo là giai đoạn II (2006-2010). Mục tiêu cụ thể của Chương trình là: Nâng
cao nhanh đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào các dân tộc ở các xã đặc
biệt khó khăn miền núi và vùng sâu, vùng xa; tạo điều kiện đưa nông thôn các
vùng này thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, chậm phát triển, hòa nhập
40. 36
vào sự phát triển chung của cả nước; góp phần đảm bảo trật tự an ninh toàn xã
hội, an ninh quốc phòng. Cụ thể: phát triển sản xuất, nâng cao mức sống cho
các hộ dân tộc thiểu số; Phát triển cơ sở hạ tầng; Phát triển các dịch vụ công
cộng địa phương thiết yếu như điện, trường học, trạm y tế, nước sạch. Nâng
cao đời sống văn hóa. Có nhiều biện pháp thực hiện chương trình này, bao
gồm đầu tư ồ ạt của nhà nước, các dự án nhà nước và nhân dân cùng làm (nhà
nước và nhân dân cùng chịu kinh phí, cùng thi công), miễn giảm thuế, cung
cấp miễn phí sách giáo khoa, một số báo chí…Phê duyệt chương trình phát
triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi và vùng sâu, vùng xa
do Ủy ban Dân tộc và Miền núi là cơ quan thường trực giúp Chính phủ chỉ
đạo thực hiện.
Để Tạo sự chuyển biến nhanh hơn về đời sống vật chất, tinh thần của
người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số thuộc các huyện nghèo, bảo đảm
đến năm 2020 ngang bằng các huyện khác trong khu vực. Hỗ trợ phát triển
sản xuất nông, lâm nghiệp bền vững, theo hướng sản xuất hàng hoá, khai thác
tốt các thế mạnh của địa phương. Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội
phù hợp với đặc điểm của từng huyện; chuyển đổi cơ cấu kinh tế và các hình
thức tổ chức sản xuất có hiệu quả theo quy hoạch; xây dựng xã hội nông thôn
ổn định, giàu bản sắc văn hoá dân tộc; dân trí được nâng cao, môi trường sinh
thái được bảo vệ; bảo đảm vững chắc an ninh, quốc phòng thì năm 2008
Chính phủ Việt Nam ra Nghị quyết số 30a/2008/NQ về “chương trình Hỗ trợ
giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo”. Với mục tiêu cụ thể:
đến năm 2010, Giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống dưới 40%; cơ bản không còn hộ
dân ở nhà tạm; cơ bản hoàn thành việc giao đất, giao rừng; trợ cấp lương thực
cho người dân ở những nơi không có điều kiện tổ chức sản xuất, khu vực giáp
biên giới để bảo đảm đời sống. Tạo sự chuyển biến bước đầu trong sản xuất
nông nghiệp, lâm nghiệp, kinh tế nông thôn và nâng cao đời sống nhân dân.
Đến năm 2015, Giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống mức ngang bằng mức trung bình
41. 37
của tỉnh. Tăng cường năng lực cho người dân và cộng đồng để phát huy hiệu
quả các công trình cơ sở hạ tầng thiết yếu được đầu tư, từng bước phát huy lợi
thế về địa lý, khai thác hiệu quả tài nguyên thiên nhiên; bước đầu phát triển
sản xuất theo hướng sản xuất hàng hóa quy mô nhỏ và vừa, người dân tiếp
cận được các dịch vụ sản xuất và thị trường tiêu thụ sản phẩm một cách thuận
lợi. Đến năm 2020, Giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống mức ngang bằng mức trung
bình của khu vực.
Nhằm thực hiện đồng bộ công tác xóa đói giảm nghèo trên phạm vi cả
nước năm 2010 Thủ tướng Chính phủ quyết định “Phê duyệt Chương trình
Mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 – 2020”.
Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới được triển khai trên
địa bàn các xã trong phạm vi cả nước, nhằm phát triển nông thôn toàn diện,
với nhiều nội dung liên quan đến hầu hết các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội,
môi trường, hệ thống chính trị cơ sở. Mục tiêu của chương trình là Xây dựng
nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội từng bước hiện đại; cơ cấu
kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát
triển nhanh công nghiệp, dịch vụ; gắn phát triển nông thôn với đô thị theo quy
hoạch; xã hội nông thôn dân chủ, ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; môi
trường sinh thái được bảo vệ; an ninh trật tự được giữ vững; đời sống vật chất
và tinh thần của người dân ngày càng được nâng cao; theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Chương trình này được thực hiện trên địa bàn nông thôn của toàn quốc.
Nhận thấy tình hình trên trước hết do điều kiện đất nước còn nhiều khó
khăn, nên mặc dù Nhà nước luôn dành nguồn lực lớn cho giảm nghèo nhưng
vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu; bên cạnh đó, một số chương trình, chính
sách giảm nghèo chưa đồng bộ, còn mang tính ngắn hạn, thiếu sự gắn kết chặt
chẽ; cơ chế quản lý, chỉ đạo điều hành, phân công phân cấp còn chưa hợp lý,
việc tổ chức thực hiện mục tiêu giảm nghèo ở một số nơi chưa sâu sát. Ngoài
ra, một bộ phận người nghèo còn tâm lý ỷ lại, chưa tích cực, chủ động vươn
42. 38
lên thoát nghèo. Trong việc thực hiện xóa đói giảm nghèo thì Giảm nghèo bền
vững là một trọng tâm của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nhằm cải
thiện và từng bước nâng cao điều kiện sống của người nghèo, trước hết là ở
khu vực miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; tạo sự chuyển biến mạnh
mẽ, toàn diện ở các vùng nghèo; thu hẹp khoảng cách chênh lệch giữa thành
thị và nông thôn, giữa các vùng, các dân tộc và các nhóm dân cư nên năm
2011 Chính phủ đã ban hành Nghị quyết “Về định hướng giảm nghèo bền
vững thời kỳ từ năm 2011 đến năm 2020” với mục tiêu cụ thể là: Thu nhập
bình quân đầu người của các hộ nghèo tăng lên 3,5 lần; tỷ lệ hộ nghèo cả
nước giảm 2%/năm, riêng các huyện, xã nghèo giảm 4%/năm theo chuẩn
nghèo từng giai đoạn. Áp dụng với đối tượng là Người nghèo, hộ nghèo trên
phạm vi cả nước; ưu tiên người nghèo là người dân tộc thiểu số, người cao
tuổi, người khuyết tật, phụ nữ và trẻ em. Để thực hiện chương trình này thì
Chính phủ thống nhất quản lý, chỉ đạo điều hành thực hiện chương trình giảm
nghèo. Thủ tướng Chính phủ thành lập Ban chỉ đạo chương trình giảm nghèo do
Phó Thủ tướng Chính phủ làm Trưởng ban, thành viên là lãnh đạo các Bộ, ngành.
Ngoài ra, có nhiều chương trình hỗ trợ khác như: Chính sách hỗ trợ hộ
dân tộc đặc biệt khó khăn, các chính sách ưu tiên đối với các khu vực miền
núi, hải đảo… Nhìn chung, các chương trình này được Đảng và Nhà nước đưa
ra nhằm thực hiện xóa đói giảm nghèo trên phổ rộng cũng đã thu được nhiều
thành tựu đáng kể. Trong tương lai, các chương trình này vẫn được thực hiện
và thực hiện tích cực hơn để có kinh nghiệm trong việc áp dụng và khắc phục
những hạn chế còn tồn tại trong quá trình thực hiện các chương trình này.
Để thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo hiệu quả Chính phủ trực
tiếp chỉ đạo và bố trí vốn đầu tư hàng năm từ ngân sách Nhà nước. Chương
trình có bộ máy và cơ chế quản lý, điều hành thống nhất Trung ương đến
các tỉnh, các xã. Đối tượng hỗ trợ của chương trình là người nghèo, hộ
nghèo, xã nghèo được xây dựng các công trình hạ tầng thiết yếu ở xã bao
43. 39
gồm: đường giao thông, trường học, trạm y tế, điện sinh hoạt, nước sinh
hoạt, thủy lợi nhỏ, chợ…
Khi thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo, Đảng và Nhà nước ta
hướng đến mục tiêu là giảm tỷ lệ hộ đói nghèo, không còn hộ đói kinh niên,
đảm bảo các xã nghèo có đủ các công trình hạ tầng cơ sở thiết yếu, giải quyết
được việc làm cho những người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và
nâng cao tỷ lệ sử dụng lao động ở nông thôn. Người nghèo đảm bảo đủ nước
sinh hoạt, đảm bảo đủ phòng học và tương đối vững chắc cho trẻ em, đảm bảo
đủ chỗ chăm sóc sức khỏe và khám chữa bệnh cho người nghèo, hướng tới
không còn tình trạng du canh, du cư, cơ bản xóa tình trạng nhà dột nát, xiêu
vẹo của hộ nghèo, đủ đường giao thông đến các xã nghèo, đặc biệt khó khăn.
Để thực hiện mục tiêu xóa đói giảm nghèo bền vững, Nhà nước ta tập
trung đầu tư cho phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn, vùng kinh tế động lực
để đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao. Để làm được điều đó cần xác định:
Thứ nhất, các địa phương giàu phải có trách nhiệm chia sẻ, hỗ trợ cho
địa phương nghèo, tham gia tích cực vào thực hiện các chính sách dự án xóa
đói giảm nghèo. Đổi mới cơ chế, chính sách để thúc đẩy tạo việc làm theo
hướng sản xuất hàng hóa, xây dựng các mô hình phát triển kinh tế, nâng cao
hiệu quả sản xuất, tăng thu nhập cho người nghèo.
Thứ hai, tạo điều kiện cho người nghèo, xã nghèo tiếp cận các dịch vụ
sản xuất, dịch vụ cơ bản. Đảm bảo cho các dịch vụ hỗ trợ sản xuất, tiêu thụ
sản phẩm, khuyên nông, khuyến lâm, ngư và hướng dẫn cách làm ăn, vay
vốn, giáo dục, y tế, văn hóa… đến với người nghèo, xã nghèo, tạo điều kiện
cho người nghèo phát triển sản xuất, nâng cao dân trí. Bằng các giải pháp phù
hợp, hỗ trợ cho người nghèo về xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học, chăm
sóc sức khỏe ban đầu, khám chữa bệnh, kế hoạch hóa gia đình, tăng lỷ lệ
người nghèo được hưởng thụ các dịch vụ xã hội cơ bản và từng bước nâng
cao chất lượng các dịch vụ.