SlideShare a Scribd company logo
1 of 185
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Minh Thu
NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT TRONG
TIỂU THUYẾT CỦA TRẦN DẦN
(Qua Người người lớp lớp và Những ngã
tư và những cột đèn)
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh – 2012
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Minh Thu
NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT TRONG
TIỂU THUYẾT CỦA TRẦN DẦN
(Qua Người người lớp lớp và Những ngã
tư và những cột đèn)
Chuyên ngành : Văn học Việt Nam
Mã số : 60 22 34
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. PHÙNG QUÝ NHÂM
Thành phố Hồ Chí Minh – 2012
LỜI CẢM ƠN

Đề tài này được thực hiện dưới sự hướng dẫn, giúp đỡ tận
tình của PGS. TS. Phùng Quý Nhâm cùng sự góp ý của của
Giáo sư, Tiến sĩ phản biện, các thầy cô và các bạn khoa Ngữ
văn Đại học Sư Phạm TP.HCM. Chúng tôi xin chân thành
cảm ơn những sự giúp đỡ chân tình và quý báu đó.
Dù đã cố gắng hết sức nhưng do khả năng và thời gian có
hạn nên luận văn không tránh khỏi có những thiếu sót. Kính
mong nhận được sự góp ý chân thành của các Giáo sư, Tiến
sĩ, các thầy cô và bạn bè.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 10 tháng 2 năm 2012
Người thực hiện
Nguyễn Minh Thu
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cảm ơn
MỤC LỤC........................................................................................................1
MỞ ĐẦU ..........................................................................................................1
Chương 1: CUỘC ĐỜI, SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC VÀ QUAN NIỆM
NGHỆ THUẬT CỦA TRẦN DẦN..............................................................20
1.1.Sơ lược về cuộc đời, sự nghiệp sáng tác của Trần Dần............20
1.2.Quan niệm nghệ thuật của Trần Dần ........................................27
1.2.1.Khái niệm quan niệm nghệ thuật.....................................27
1.2.2.Những nét chính trong quan niệm nghệ thuật của Trần
Dần .......................................................................................28
1.2.3.Cơ sở của những quan niệm nghệ thuật của Trần Dần....49
Chương 2: CHỦ THỂ TRẦN THUẬT VÀ KẾT CẤU TRẦN THUẬT
TRONG TIỂU THUYẾT TRẦN DẦN .......................................................57
2.1. Chủ thể trần thuật trong tiểu thuyết Trần Dần.........................57
2.1.1. Chủ thể trần thuật trong tác phẩm tự sự .........................57
2.1.2. Chủ thể trần thuật trong tiểu thuyết Trần Dần................61
2.2. Kết cấu trần thuật trong tiểu thuyết Trần Dần.........................88
2.2.1. Kết cấu trần thuật trong tác phẩm tự sự..........................88
2.2.2. Các kiểu kết cấu trần thuật trong tiểu thuyết Trần Dần..90
Chương 3: NGÔN TỪ NGHỆ THUẬT VÀ GIỌNG ĐIỆU TRẦN
THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT CỦA TRẦN DẦN ............................111
3.1. Ngôn từ nghệ thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần..............111
3.1.1. Khái niệm ngôn từ nghệ thuật ......................................111
3.1.2. Sự độc sáng về ngôn từ nghệ thuật trong tiểu thuyết của
Trần Dần.......................................................................112
3.2. Giọng điệu trần thuật trong tiểu thuyết Trần Dần .................131
3.2.1. Giọng điệu trần thuật trong tác phẩm tự sự..................131
3.2.2. Các giọng điệu trần thuật chủ yếu trong tiểu thuyết của
Trần Dần.......................................................................133
KẾT LUẬN..................................................................................................151
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..........................................................................156
PHỤ LỤC.........................................................................................................1
1
MỞ ĐẦU
Khi nhắc đến Trần Dần, người ta luôn cảm thấy có một màn sương huyền
thoại bao phủ lên cuộc đời và tác phẩm của ông. Người ta cũng bị kích thích
bởi sự bí ẩn khơi gợi khám phá trong thơ văn Trần Dần. Suốt một thời gian
dài, tên tuổi Trần Dần chìm trong sự im lặng cho đến cách đây hơn mười
năm. Cùng với sự nhìn nhận lại các vấn đề chính trị, trả lại sự trong sạch cho
Trần Dần là sự bộc phá những cách tân về cả nội dung lẫn hình thức trong nền
văn học nước nhà. Bên cạnh đó, sự xuất hiện của các lý thuyết phương Tây
hiện đại cũng đem đến một cái nhìn thông suốt hơn cho văn học đương đại
Việt Nam, trong đó có cả những vần thơ của Trần Dần. Tuy được sáng tác
cách đây mấy chục năm, nhưng thơ Trần Dần vẫn làm người đọc ngỡ ngàng
bởi sự mới mẻ, hiện đại của nó. Không chỉ dừng lại ở đó, khi tiểu thuyết
Những ngã tư và những cột đèn của ông được xuất bản vào cuối năm 2010
thì Trần Dần đã thực sự khơi dậy một làn sóng trong diễn đàn văn học nước
nhà. Người ta bắt đầu tìm hiểu tác phẩm của ông một cách thận trọng và tỉ mỉ
hơn. Người ta ngạc nhiên trước những thể nghiệm mới mẻ của ông và những
cách tân vượt bậc của ông so với thời điểm tác phẩm ra đời và so với ngay cả
hiện tại. Sáng tác của Trần Dần như một dòng suối mát chảy vào văn học
nước nhà đang khan nước, nó có sức khơi gợi sự thích thú đối với những nhà
nghiên cứu khó tính nhất. Vì vậy, nghiên cứu Trần Dần vừa là sự thú vị vừa là
một thách thức đối với người viết trong thời điểm hiện nay.
1. Lí do chọn đề tài
Từ buổi sơ khai đến nay, cuộc sống của nhân loại không bằng phẳng, yên
ả mà luôn phải đối mặt với những cuộc xung đột lớn nhỏ khác nhau. Từ
những cuộc đấu tranh mở rộng phạm vi bộ lạc của thời kỳ nguyên thủy xa
xưa, đến những trận chiến phân chia lãnh thổ săn bắn, canh tác và ngày nay là
cuộc chiến giành quyền thống trị thế giới. Văn học như một tấm gương phản
2
chiếu của cuộc sống, cũng đã xuất hiện đề tài chiến tranh từ rất lâu như một
tất yếu. Trước khi có chữ viết, nhà thơ mù Homere của Hy Lạp cổ xưa đã đi
khắp nơi và hát lên những khúc ca hoành tráng về cuộc chiến thành Troy qua
hai sử thi Iliad và Odyssey. Phương Đông huyền bí cũng không hề thua kém
với Ramayana và Mahabharata cũng có kể về những cuộc chiến tranh. Một
trong tứ đại kỳ thư có thể sánh với mọi thời đại của Trung Quốc là Tam Quốc
diễn nghĩa – tác phẩm viết về cuộc chiến của ba nhà Ngụy-Thục-Ngô thời
Chiến quốc. Hay thậm chí là chiến tranh trong nội bộ đất nước qua “kỳ thư”
thứ hai Thủy Hử. Trong cuộc kháng chiến vĩ đại của Nga, hai bộ tiểu thuyết
đồ sộ về đề tài này được ra đời Chiến tranh và hòa bình (Lev Tolstoi), Sông
Đông êm đềm (Mikhail Solokhov) đã có một vị trí quan trọng trong nền văn
học Nga – Xô viết. Và ở Việt Nam ta, như người ta thường nói “không có lúc
nào là không có bóng giặc” thì đề tài chiến tranh lại càng xuất hiện đậm đặc
trong văn học. Chúng ta từng có những lời thơ căm thù giặc trong ca dao - thể
loại vốn chứa đựng rất nhiều ngọt ngào; cũng biết đến hàng loạt thơ văn hừng
hực hào khí Đông A thời Trần trong kháng chiến chống Nguyên – Mông. Thơ
văn kháng chiến đã làm nên diện mạo văn học giai đoạn 1945-1975 với hàng
loạt các tên tuổi: Nguyễn Minh Châu, Nguyên Ngọc, Phạm Tiến Duật,
Nguyễn Thi, Lâm Thị Mỹ Dạ,… Hiện nay, chiến tranh đã lùi xa nhưng chúng
ta vẫn day dứt với Nỗi buồn chiến tranh cùng Bảo Ninh – như một hồi ức
không thể nào quên. Hòa trong không khí đó của thế giới và dân tộc, hơn nữa
lại trực tiếp tham gia kháng chiến chống Pháp cứu nước, nhà thơ – nhà văn
Trần Dần cũng có nhiều tác phẩm viết về đề tài này. Với thơ, chúng ta sẽ còn
lưu giữ âm điệu hùng tráng, dồn dập của Đi! Đây Việt Bắc! kể về những ngày
“gian nan đời vẫn ca vang núi đèo” của các chiến sĩ cách mạng. Hay nỗi xót
xa trước đau thương cùng niềm tin vào tương lai tươi sáng của dân tộc và
cuộc sống con người trong Nhất định thắng. Trong văn xuôi, Trần Dần mang
3
lại một luồng gió mới cho văn học, khi một mình ông chiếm lĩnh một chân
trời – cũng với đề tài chiến tranh nhưng ông viết về những sự kiện, nhân vật
hoàn toàn khác lạ so với thơ văn thời ấy. Tiểu thuyết đầu tay của Trần Dần,
Người người lớp lớp tái hiện chiến dịch Điện Biên Phủ - đây là tiểu thuyết
duy nhất lúc bấy giờ viết về chiến dịch vĩ đại này của dân tộc – hoàn thành
ngay khi vừa kết thúc chiến dịch. Một tác phẩm khác của Trần Dần cũng về
đề tài này nhưng vẫn mang đến sự kinh ngạc cho người đọc bởi Những ngã
tư và những cột đèn là tác phẩm duy nhất viết về hình ảnh người lính ngụy
binh trong cuộc sống sau giải phóng. Có thể thấy, Trần Dần để lại cho chúng
ta nhiều ấn tượng sâu sắc, mới lạ không chỉ trong thơ mà còn trong văn xuôi.
Từ khi tự sự học ra đời, nghiên cứu về nghệ thuật trần thuật của một văn
bản ngày càng phát triển. Thông qua việc tìm hiểu “cách kể” của nhà văn
trong tác phẩm mà chúng ta có thể đi sâu khám phá những tầng lớp sâu xa của
nội dung, tư tưởng. Đồng thời cũng bộc lộ tài năng quan trọng của nhà văn,
tài năng kể chuyện hấp dẫn và giúp xác định được phong cách nghệ thuật của
nhà văn. Người người lớp lớp và Những ngã tư và những cột đèn của Trần
Dần đã được nghiên cứu trên nhiều phương diện: đề tài, nội dung, thế giới
nhân vật, ngôn ngữ, chủ thể, kết cấu trần thuật,… Thế nhưng, hai tiểu thuyết
của Trần Dần chưa được nghiên cứu, tìm hiểu nhiều. Vì tác phẩm Người
người lớp lớp tuy lúc mới ra đời nhận được sự ủng hộ nhiệt liệt của đông đảo
bạn đọc, nhưng ngay sau đó đã phải chịu sự im lặng cùng với số phận tác giả
của nó. Còn tác phẩm Những ngã tư và những cột đèn chỉ mới được xuất
bản gần đây (năm 2010) dù ra đời đã hơn bốn mươi năm, nó phải chịu số
phận “bản thảo nằm”. Người người lớp lớp viết trong khí thế cuộc chiến đấu
nên chịu ảnh hưởng nhiều của tiểu thuyết theo khuynh hướng sử thi và cảm
hứng lãng mạn thời đó. Còn Những ngã tư và những cột đèn viết sau đó và
đặc biệt lại viết về lính ngụy quân nên tác phẩm này thiên về “chiêm nghiệm,
4
đắm đuối và suy tư”. Khi tiếp cận hai tác phẩm này của Trần Dần, chúng tôi
nhận thấy từ Người người lớp lớp đến Những ngã tư và những cột đèn có sự
kế thừa và cách tân trong nghệ thuật trần thuật. Trong đó, những nghiên cứu
về nghệ thuật trần thuật chiếm ưu thế, đặc biệt là những thể nghiệm về nghệ
thuật trần thuật của Trần Dần ở Những ngã tư và những cột đèn. Người viết
chọn đề tài NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT CỦA
TRẦN DẦN với mong muốn nghiên cứu nghệ thuật trần thuật của Trần Dần
theo một hệ thống các yếu tố về chủ thể trần thuật, kết cấu trần thuật, ngôn từ
và giọng điệu trần thuật. Trong tác phẩm, các yếu tố này có mối tương quan
với nhau. Yếu tố này là nét riêng nhưng cũng là tiền đề cho yếu tố sau. Yếu tố
sau là hệ quả tất yếu của yếu tố trước. Trong đó, nổi bật lên vai trò chủ đạo
của chủ thể trần thuật và tầm quan trọng của kết cấu trần thuật. Nghiên cứu về
nghệ thuật trần thuật, luận văn đem đến cái nhìn tổng quan về phương diện
tiểu thuyết trong sáng tác của Trần Dần. Đây là phương diện chưa được
nghiên cứu nhiều của tác giả. Hành trình thơ của Trần Dần đã được nghiên
cứu nhưng hành trình sáng tạo văn xuôi của ông (đặc biệt là tiểu thuyết) thì
chưa. Luận văn mong muốn tái hiện lại hành trình đó từ Người người lớp lớp
đến Những ngã tư và những cột đèn.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Như đã nói ở trên, tiểu thuyết Người người lớp lớp của Trần Dần nhận
được sự đón nhận nhiệt liệt của độc giả từ lúc mới ra đời. Bởi đó là quyển tiểu
thuyết duy nhất lúc đó viết về chiến thắng Điện Biên Phủ huy hoàng của dân
tộc ngay sau khi chiến dịch kết thúc. Tuy thế, cuốn sách có một số phận
không may mắn cùng với cha đẻ của nó trên văn đàn suốt mấy chục năm.
Quyển tiểu thuyết không được người người lớp lớp tìm đọc và nghiên cứu.
Do đó, những bài viết về tiểu thuyết này cũng rất ít ỏi.
5
Cũng như Người người lớp lớp, tiểu thuyết Những ngã tư và những cột
đèn gây nên một “hiện tượng” trong văn học nước nhà khi nó được xuất bản
vào năm 2010, khi mà quyển tiểu thuyết viết cách đây hơn 40 năm lại được
nhận định là có một “cách viết đi trước thời đại rất xa”. Để chứng minh Trần
Dần đã “thể nghiệm cả” những cách viết được xem là mới mẻ hiện nay, các
nhà nghiên cứu tập trung chủ yếu ở nghệ thuật trần thuật của tiểu thuyết này.
Nhận định chung về nghệ thuật trần thuật của tác phẩm này, có rất nhiều ý
kiến.
Trong “Im lặng trong cô đơn để viết tương lai”, Công Tú nhận ra rằng:
“những cách tân theo lối phương Tây thường được dùng như lời khen tặng
với các nhà văn ham tìm tòi của Việt Nam thời đang sống, Trần Dần đều đã
“thể nghiệm” cả” [128]. Quả thật, khi đọc Những ngã tư và những cột đèn
của Trần Dần, ta ngạc nhiên bởi sự hiện đại của nó trên nhiều phương diện
trần thuật. Trần Dần từ những năm 1966 đã làm được những điều mà các nhà
văn Việt Nam hôm nay mới chạm tới.
Hoài Nam trong “Một cuộc thử nghiệm ngôn ngữ”, cũng đề cao Trần Dần
khi viết: “Bằng sáng tác của mình, ông gây hấn, ông tấn công và đập phá
không thương tiếc những đường biên nghệ thuật tưởng đã rất sâu gốc bền rễ”
[96]. Đường biên ấy là những quy phạm, công thức, quan niệm nghệ thuật
bén rễ sâu vào tư duy của người nghệ sĩ, khiến họ khó lòng thoát ra khỏi
những ràng buộc cố hữu để tự do viết theo ý mình. Từ dùng của Hoài Nam
“gây hấn” cũng rất hợp với quyết liệt trong sáng tạo của Trần Dần.
Phạm Xuân Nguyên không chỉ bàn về nghệ thuật mà còn nói đến nội dung
chứa đựng trong nghệ thuật ấy: “bút pháp hiện đại, kĩ thuật siêu việt và tư
tưởng nhân văn sâu sắc” [102]. Phạm Xuân Nguyên cũng lí giải tại sao có
được điều đó ở Trần Dần: “Chỉ khi nhà văn dám sống chết với từng con chữ
thì mới mong tìm tòi được cái mới” [102].
6
Nguyễn Vĩnh Nguyên trong “Viết, để được sống” cũng nhận xét chung về
nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần là: “Những thủ pháp như
liên văn bản, phân mảnh tự sự, giễu nhại… của phương pháp hậu hiện đại đã
được Trần Dần sử dụng nhuần nhuyễn từ rất sớm với một ý thức cao” [101].
Như vậy, tác giả không chỉ dừng lại ở việc xem tiểu thuyết của Trần Dần có
tính hiện đại mà các nhà nghiên cứu còn thấy thấp thoáng trong đó bóng dáng
của cảm quan và bút pháp hậu hiện đại.
Trên đây là những nhận định chung về nghệ thuật trần thuật trong tiểu
thuyết của Trần Dần. Có thể thấy rằng tất cả các ý kiến trên đều tập trung vào
tiểu thuyết mới xuất bản của Trần Dần. Nguyên nhân của vấn đề này, theo
chúng tôi, là do Người người lớp lớp ngay sau khi ra đời đã phải chịu số phận
im lặng cùng với Trần Dần. Hơn nữa, chủ nghĩa cấu trúc (nền tảng lí thuyết
để nghiên cứu một tác phẩm ở phương diện nghệ thuật trần thuật) cũng chỉ
mới phát triển ở Việt Nam thời gian gần đây. Tuy không được nhắc đến một
cách tổng quan về nghệ thuật trần thuật như trong Những ngã tư và những
cột đèn, nhưng vẫn có một số ý kiến rải rác về Người người lớp lớp. Để tiện
cho việc nghiên cứu, chúng tôi chia các ý kiến về nghệ thuật trần thuật của hai
tác phẩm theo những vấn đề như: chủ thể trần thuật, kết cấu trần thuật, ngôn
từ và giọng điệu trần thuật. Đây cũng là hướng triển khai của luận văn.
Về chủ thể trần thuật
Bàn đến chủ thể trần thuật của Những ngã tư và những cột đèn, Lại
Nguyên Ân trong bài báo “Tôi thán phục tiểu thuyết của Trần Dần” nhận
định: Trần Dần: “đã dùng kỹ thuật tự sự đa chủ thể (nhiều nhân vật cùng kể
chuyện) - một kỹ thuật rất tiên tiến của văn chương thế giới cùng thời” [12].
Cùng thời - ở đây được hiểu là vào thời điểm tác phẩm được sáng tác – năm
1966. Theo chúng tôi, kể chuyện theo kiểu này không chỉ có tác dụng hấp dẫn
7
độc giả mà còn làm cho một sự việc được soi chiếu dưới nhiều góc độ khác
nhau. Từ đó, đối tượng được soi tỏ, lí giải sâu sắc hơn.
Nhã Thuyên trong “Trần Dần giữa những cơn mưa” cũng nói về chủ thể
trần thuật trong tác phẩm này với ý “ông là nhà thơ mọi lúc” khi mà “cá tính
các nhân vật (dù được xây dựng với lời kể từ ngôi thứ nhất, xưng “tôi”)
dường như bị xóa nhòa, đúng hơn, bị đồng nhất với cái Tôi – Trần Dần”
[150]. Như thế Những ngã tư và những cột đèn đích thị là “một bài thơ-
trường thiên”. Và “nhân vật thực sự của cuốn tiểu thuyết–thơ này là một Tôi
đa nhân cách: một Tôi luôn “sinh sự” với Bóng, với Sọ, với Chữ” [150].
Tác giả Phạm Thị Phương trong bài viết “Cuộc vượt biên hệ hình nghệ
thuật hiện thực xã hội chủ nghĩa của Trần Dần trong tiểu thuyết Những ngã
tư và những cột đèn” đưa ra ba nguyên tắc xây dựng điểm nhìn của tiểu
thuyết hiện thực xã hội chủ nghĩa để rồi khẳng định rằng Trần Dần đã “phá vỡ
cả ba nguyên tắc” đó qua Những ngã tư và những cột đèn. Tác giả chỉ rõ
Trần Dần đã tổ chức “điểm nhìn trùng phức với những người kể chuyện đa
thức”. Và nhận xét đó là một “mô hình trần thuật hiện đại, đem đến tính dân
chủ, bình đẳng cho các nhân vật, gia tăng tính đối thoại […] khiến tiểu thuyết
gần với một văn bản đa thanh” [116, 966]. Cũng giống các nhà phê bình
khác, tác giả Phạm Thị Phương chú ý đến sự đa phân, lưỡng phân đối thoại ở
chủ thể xưng tôi Dưỡng. Bà cho rằng, điểm nhìn khi Dưỡng phân thân đối
thoại là điểm nhìn từ bên ngoài vào bản thân mình, đó là “cái nhìn tự đào sâu
vào bản thể và bản ngã của mình” [116, 970].
Cũng bàn về chủ thể trần thuật của Những ngã tư và những cột đèn,
nhưng tác giả Nguyễn Thành Thi trong bài viết “Tiếng nói của “cái tôi bị
chấn thương” và tính khả dụng của yếu tố nhật kí, trinh thám trong tiểu
thuyết (nhân đọc Những ngã tư và những cột đèn của Trần Dần)” lại đưa ra
nhận xét rằng cái tôi của Dưỡng mới là cái tôi nắm giữ điểm nhìn chủ đạo.
8
Tác giả cũng có ý kiến về chức năng của một chủ thể kể chuyện xưng tôi khác
– nhà văn trong tác phẩm – là người “không có chức năng thay thế mà giữ vai
trò bổ sung tư liệu, sao chép hay sắp xếp lại bản thảo, hoặc bình luận thuyết
minh thêm” [141, 236].
Còn Đoàn Cầm Thi trong bài viết “Những ngã tư và những cột đèn: đi tìm
thời đang mất” lại băn khoăn về mối liên hệ giữa nhân vật nhà văn trong tác
phẩm và Trần Dần. Liệu có phải chính Trần Dần đã hóa thân thành nhà văn
trong tác phẩm hay không?
Điểm lại các ý kiến trên, chúng tôi nhận thấy mọi nghiên cứu đều chỉ ra
được điểm nổi bật nhất trong chủ thể trần thuật của tác phẩm Những ngã tư
và những cột đèn: đó là tự sự đa chủ thể, đa điểm nhìn. Chính lối trần thuật
này đã ảnh hưởng không nhỏ đến các yếu tố khác của trần thuật như: kết cấu,
giọng điệu, ngôn từ,…
Về kết cấu trần thuật
“Đọc Những ngã tư và những cột đèn”, Nguyễn Chí Hoan chỉ ra trong
tiểu thuyết này có “một mạng không gian nhiều chiều hiển hiện” tạo ra “một
không gian phức hợp thật sự”. Ông cho rằng đây là một “tiểu thuyết không
cốt truyện với một cái kết mở thênh thang”. Rõ ràng, tiểu thuyết này của Trần
Dần được chú ý nhiều đến phương diện không – thời gian trong kết cấu trần
thuật. Đây cũng là phương diện lạ của tác phẩm, khi nhiều lúc không – thời
gian trùng khít và hòa lẫn vào nhau, có những tính từ thể hiện xáo trộn nhau.
Trong bài “Trần Dần và Dostoevsky” Cao Việt Dũng cũng chú ý đến “sự
dịch chuyển không gian vô cùng nhỏ bé” và nhận xét “nhân vật của Trần Dần
mắc kẹt trong thời gian, nhiều khi không thực sự còn có ý thức về thời gian,
có những lúc với họ thời gian không trôi đi nữa, mà đứng yên, bất động” [34].
Đó là những lúc nhân vật của ông trôi miên man trong dòng tâm trạng tạo nên
kết cấu tâm lý cho tác phẩm. Vì thế, đôi khi ta cảm thấy đây là “một tác phẩm
9
bất khả tóm tắt” như Nhã Thuyên nhận định.
Trong Lời mở đầu quyển tiểu thuyết Những ngã tư và những cột đèn,
ông Vũ Văn Kha cũng nhấn mạnh đến yếu tố thời gian qua cảm nhận của hai
nhân vật Dưỡng và nhà văn: “Họ xử sự với thời gian cùng một cách. Dưỡng
tính thời gian theo lối của riêng anh: để gọi tên mùa thu là mùa đông, để
ngày tiếp quản tháng Mười trở thành mồng một Tết. Anh nhà văn đi tìm
những định nghĩa về thời gian, luôn luôn nhầm lẫn giữa tuần lễ bảy ngày và
Chủ nhật” [72, 7]. Tác giả Phạm Thị Phương cũng có cùng một ý kiến như
thế về thời gian trong Những ngã tư và những cột đèn: “thời gian được ghi
nhận bằng những tính từ chỉ sự mơ hồ, bất định. Đó là thời gian thử nghiệm,
thời gian tâm trạng, được trải nhờ trên khung thời gian vật lí” [116, 956].
Đoàn Cầm Thi cũng cho rằng khi Dưỡng và nhà văn trên hành trình “đi tìm
thời đang mất” bằng cách tác động vào thời gian thì đã khiến cho thời gian
trong tiểu thuyết này xáo trộn, mơ hồ, thuần cảm giác. Hành trình đó là sự
dịch chuyển thời gian mà Vũ Văn Kha cũng đề cập tới: “Thời gian của toàn
bộ tiểu thuyết di chuyển liên tục, từ 11 năm trước, đến 11 năm sau, rồi lại về
11 năm trước” [72, 7]. Theo chúng tôi, chính sự dịch chuyển này đã làm nên
kết cấu đan xen hiện tại – quá khứ – hiện tại của tác phẩm.
Với tiểu thuyết Người người lớp lớp, cốt truyện được xây dựng theo kiểu
truyền thống của văn học theo khuynh hướng sử thi 1945 – 1975 với “mở đầu
bằng những cuộc hành quân đầy khí thế, kết thúc là sự toàn thắng với cuộc
sống mới đang hồi sinh và những người lính lại chuẩn bị bước vào một cuộc
chiến đấu mới” [81]. Chính vì cốt truyện đó mà nhiều khi “thời gian trần
thuật phải vội vàng để theo kịp thời gian sự kiện” [50] và cũng ảnh hưởng
không nhỏ đến giọng điệu trần thuật của tác phẩm mà chúng tôi sẽ đề cập đến
ở phần sau.
10
Về ngôn từ nghệ thuật
Nhắc đến các ý kiến bàn về ngôn ngữ trong tiểu thuyết Những ngã tư và
những cột đèn của Trần Dần phải kể đến đầu tiên là nhận định của Hoài Nam
trong bài viết “Một cuộc thử nghiệm ngôn ngữ”. Đây là bài viết có tính chất
xác định những cách tân cũng như đóng góp to lớn về ngôn ngữ của Trần Dần
cho sự đổi mới về nghệ thuật tiểu thuyết của nước nhà. Hoài Nam quyết liệt:
“Nếu xét về cốt truyện, cách xây dựng nhân vật hay nghệ thuật trần thuật, đọc
Những ngã tư và những cột đèn ở thời điểm này không khiến ta thấy lạ (mặc
dù đó vẫn thực sự là thứ của hiếm trong văn chương Việt Nam những năm
1960, thậm chí 1970). Nhưng nếu xét về nghệ thuật ngôn ngữ, đoan quyết là
đến tận bây giờ cũng ít ai làm giống như Trần Dần” [96]. Hoài Nam cũng
đưa ra ví dụ để chứng minh cho nhận định của mình bằng một sự lạ trong
ngôn ngữ của Trần Dần. Đó là những dấu phẩy thừa. Hoài Nam cũng nhận
xét không chỉ xuất hiện sự lặp lại của những dấu phẩy thừa mà còn điệp các
từ, cụm từ, cấu trúc câu,… chính điều này đã tạo nên nhịp điệu đặc biệt cho
tác phẩm của Trần Dần. Nhịp điệu riêng đó là gì, trong phần sau chúng tôi sẽ
nói rõ. Cuối cùng, Hoài Nam kết luận: Trần Dần là người biết “tự mua vui
cho chính mình bằng cách bắt ngôn ngữ phải khiêu vũ theo những điệu chưa
từng có” [96].
Nhã Thuyên có cùng ý kiến với với Hoài Nam về tầm cao của sự đổi mới
ngôn ngữ trong Những ngã tư và những cột đèn khi cho rằng tiểu thuyết này
“Trần Dần đến từng dấu phẩy”. Nhã Thuyên cũng đánh giá không thấp cốt
truyện, nhân vật, tâm lý,… trong quyển tiểu thuyết này nhưng vẫn nghĩ rằng
người đọc nên tạm gạt hết để “thưởng thức sự phong phú và độc đáo của
ngôn từ, cả lối trình bày chữ riêng biệt, như trong các bài thơ của ông” [150].
Trong bài viết “Kinh ngạc Trần Dần văn xuôi” tổng hợp lại những ý kiến
đánh giá, phát biểu trong buổi tọa đàm về tiểu thuyết Những ngã tư và
11
những cột đèn của Trần Dần, Toan Toan đã dẫn lại ý của Lê Minh Khuê:
“Tiểu thuyết không được viết một cách điềm đạm, bình tĩnh, không phải là sự
dễ dàng của một người kể chuyện. Nhà văn chọn cách viết, trong đó các nhân
vật đi qua sắc như một nhát chém. Từ những trang đầu đã có cảm giác ông
làm khó chữ nghĩa, có những đoạn lủng củng một cách cố ý” [126]. Hay lời
phát biểu của Dương Tường – một bạn văn của Trần Dần: “Đọc Trần Dần,
người ta thấy khoái cảm chữ, tiếng. Cuốn tiểu thuyết như bữa tiệc ngôn ngữ.
Có nhiều trang, chương như thơ” [126]. Những đánh giá này cũng đã lưu tâm
người viết đến khía cạnh quan trọng trong tác phẩm của Trần Dần cả về thơ
và tiểu thuyết: sự đổi mới ngôn từ nghệ thuật. Và chất thơ, những đặc điểm
của thơ dường như thấm đẫm trong văn xuôi Trần Dần.
Nhà phê bình Lại Nguyên Ân đã đưa ngôn từ trong tiểu thuyết này của
Trần Dần lên một tầm cao khi ông đánh giá: “nhà văn sử dụng ngôn ngữ điêu
luyện đến độ tôi chỉ có thể thán phục một cách sung sướng vì được thưởng
thức kỹ thuật của một bậc thầy” [12]. Để minh họa, ông lấy dẫn chứng đoạn
Dưỡng đến nhà mẹ đẻ xin đón vợ về sau khi bị vợ giận bỏ đi. Ông phân tích tỉ
mỉ để đi đến kết luận: “Ngôn ngữ ở đây ra hết chất của "cao bồi thành thị"
mà nhà văn Việt Nam ta ít có người am hiểu và viết kỹ như Trần Dần” [12].
Nhà phê bình này cũng có cùng ý kiến với Dương Tường đã nói ở trên về vẻ
đẹp giàu chất thơ của trang văn Trần Dần.
Cũng cùng ý kiến với Lại Nguyên Ân về ngôn ngữ cao bồi thành thị và
chất thơ của ngôn từ trong tiểu thuyết của Trần Dần là Nguyễn Chí Hoan
trong “Đọc Những ngã tư và những cột đèn”. Nguyễn Chí Hoan cho rằng
Trần Dần có lối văn bạch thoại, các dấu ngắt câu tạo nhịp điệu như thơ. Vì
vậy mà “thật hết sức ngạc nhiên khi sau gần nửa thế kỷ từ ngày hoàn thành
mới được công bố xuất bản, tiểu thuyết này hiện ra không một chút xa lạ với
văn chương tiểu thuyết đương đại, nếu không nói nó vẫn tiếp tục là một bậc
12
thầy vượt trội” [62]. Tác giả cũng chỉ ra sự lặp lại của một ngữ đoạn “I như
trong thánh kinh” trong nhật ký của Dưỡng và ý nghĩa biểu tượng của sự
trùng lặp này. Đây cũng là một hướng khơi gợi cho luận văn đi sâu tìm hiểu.
Đoàn Cầm Thi cũng nhận xét rằng Những ngã tư và những cột đèn như
“một bài thơ ám ảnh” ở sự đăng đối, tương xứng nhịp nhàng giữa hai vế của
tựa đề, ở cấu trúc của tác phẩm như “cấu trúc của một bài thơ với 9 điệp
khúc” [140]. Trần Dần sáng tác Những ngã tư và những cột đèn nhưng bằng
một cái tôi đầy tính trữ tình của một thi sĩ khi thường xuyên bị những con chữ
“lôi kéo ra khỏi câu chuyện, làm ông quên lãng cốt truyện, để mặc ông với
những thi hứng đầy bất ngờ” [140].
Một độc giả 9X cũng góp lời về sự biến âm của Trần Dần trong Những
ngã tư và những cột đèn (ví dụ như chữ yêu thành iêu, ý kiến thành í kiến,…)
đã làm nên “ấn tượng ở giọng điệu vui, cách thể hiện câu chữ “hiện đại như
một blogger” [126]. Bước đầu, chưa thể xác định lời nhận xét ấy có giá trị
như thế nào đối với tiểu thuyết của Trần Dần, nhưng ít nhất cũng khiến chúng
tôi hiểu rằng Trần Dần thu hút, tạo nên sự thích thú với mọi người, đặc biệt là
giới trẻ và những cách tân của ông cũng được họ chú ý, đón nhận.
Trong bài “Trần Dần vượt nhiều “ngã tư”, đến sớm nửa thế kỷ”, Vi Thùy
Linh dẫn lại lời nhà nghiên cứu Phạm Xuân Nguyên: “Trần Dần rất kỹ chữ.
[…]Trần Dần tạo khoái cảm bằng chữ và tiếng, chữ của ông không nằm trên
mặt phẳng, không dẹt, nó cựa quậy giàu sức gợi. Đọc ông, là được hưởng
bữa tiệc ngôn ngữ” [87]. Lời nhận định ấy đã phần nào nói lên sự sống động,
mới mẻ trong ngôn ngữ của Trần Dần, khơi gợi nhiều hứng thú cho độc giả.
Trong một bài phỏng vấn khác, nhà nghiên cứu này cũng từ sự sáng tạo đó
của Trần Dần mà ưu tư về nghề viết: “Chỉ khi nhà văn dám sống chết với từng
con chữ thì mới mong tìm tòi được cái mới” [102]. Trần Dần có lẽ là người đã
dám sống chết như thế.
13
Tác giả Phạm Thị Phương trong bài viết đã nêu trên cũng đưa ra những
cách tân của Trần Dần về mặt ngôn ngữ trong Những ngã tư và những cột
đèn để chỉ ra sự vượt biên về hệ hình của Trần Dần so với văn học hiện thực
xã hội chủ nghĩa thời đó khi mà tiểu thuyết này có những “kết hợp lạ mắt lạ
tai, cách ví von sinh động” [116, 976]. Bà cũng chú ý đến “những dấu phụ tu
từ” như một kiểu “dấu ngắt nhịp chủ tâm” và “sự lặp lại gián cách một số câu
hoặc mệnh đề, để chúng vang lên như những vọng âm” [116, 978]. Ngoài ra,
còn một số lượng lớn các “từ ngữ đường phố, chợ búa, cao bồi thành thị,
tiếng lóng, tiếng Tây bồi được bung ra một cách công nhiên” [116, 980] trong
tiểu thuyết này cũng góp phần khẳng định nét riêng của Trần Dần so với văn
học lúc đó.
Về ngôn ngữ trong tiểu thuyết Người người lớp lớp, tác giả Phạm Ngọc
Hiền trong bài viết “Giọng điệu anh hùng ca trong tiểu thuyết “Người người
lớp lớp” của Trần Dần” cho rằng trong tác phẩm này Trần Dần sử dụng “từ
ngữ rất đắc địa”. Bên cạnh đó, cũng như trong Những ngã tư và những cột
đèn, biện pháp điệp là một điểm đáng lưu ý của tác phẩm này. Biện pháp điệp
được thể hiện ở nhiều cấp độ: từ ngữ, hình ảnh, điệp câu, cú pháp câu và đặc
biệt là điệp cú pháp đoạn – “hình thức rất hiếm thấy trong văn xuôi hiện đại”
khi lối viết truyện theo chương hồi không còn nữa. Cùng với từ láy tượng
hình, tượng thanh làm nên giọng điệu sử thi cho tác phẩm.
Về giọng điệu trần thuật
Như đã nói ở trên, ngôn ngữ của Trần Dần đã làm nên một giọng điệu rất
riêng cho tác phẩm của ông. Nhiều nhà phê bình cũng lưu ý đến vấn đề này
của tác phẩm. Tiêu biểu như:
Nguyễn Chí Hoan cho rằng “truyện kể nhiều giọng điệu với phức hợp các
“hình thức của diễn đạt” - nhật ký, tâm lý, trinh thám, xoay quanh một đoạn
đời của nhân vật Dưỡng” [62]. Từ đó, ta có thể thấy Nguyễn Chí Hoan cho
14
rằng chính sự đa dạng của hình thức diễn đạt đã làm nên sự phức hợp giọng
điệu của tác phẩm này.
Hoài Nam cũng nhận xét rằng Trần Dần đã tạo ra “Một nhịp điệu không
bằng phẳng, không cân đối. Nó trúc trắc, gập ghềnh, xô lệch, đầy sự bất ngờ
và đầy nỗi bất an” [96]. Nhịp điệu ấy như tâm trạng rối bời của Dưỡng trong
những ngày tranh sáng tranh tối. Và như vậy, có thể nói “nhịp điệu của câu
văn xuôi chính là yếu tố tạo nên “siêu nghĩa” cho tác phẩm” [96]. Hoài Nam
cũng đồng thời chỉ ra với việc sáng tạo nhịp điệu như thế, Trần Dần thể hiện
rất rõ vai trò của một nhà thơ trong tiểu thuyết của mình vì ““Chơi” với nhịp
điệu, thực ra đó là công việc của nhà thơ nhiều hơn nhà văn xuôi” [96].
Nhã Thuyên cũng lưu ý đến chất thơ thể hiện qua nhịp điệu của tác phẩm
này. Ông cho rằng “cả cuốn tiểu thuyết-thơ này đậm đặc một thứ mùi, một thứ
mùa Hà Nội, ở thời ông sống mà nhịp điệu và không khí riêng biệt của nó là
“những ngã tư, những cột đèn” và nhất là những cơn mưa. Những cơn mưa,
như tiếng đàn nhịp, như sự mịt mùng, như tuyệt vọng lẫn hi vọng cùng lúc
không chỉ là phông cảnh đặc trưng cho cuốn tiểu thuyết này, cho thơ Trần
Dần, cho văn nghiệp ông, mà còn như một biểu trưng của chính số phận ông,
số phận bản thảo ông: một số phận chỉ-có-mưa-sa” [150].
Tác giả Phạm Thị Phương lại nhấn mạnh đến giọng “giễu nhại, hài hước”
trong tiểu thuyết này. Đây là giọng điệu chỉ xuất hiện trong văn học sau đổi
mới năm 1986, còn trước đó vô cùng hạn chế trong văn học sáng tác theo hiện
thực xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Giọng điệu này đem lại cho tiểu thuyết này
của Trần Dần một tính chất khác hẳn văn học thời đó, là “tính chất nước đôi,
ẩn chứa cảm hứng phê phán và hạ bệ” [116, 972].
Phạm Ngọc Hiền nói về giọng văn “cảm động một cách sử thi” trong
Người người lớp lớp là: “có khí thế sôi sục, mạnh mẽ, tạo ra “một dòng sử thi
cường tráng”” (Hêghen). Và cũng chỉ ra rằng “tác giả đã dùng hình thức kể lể
15
dài hơi giống như lối “trì hoãn sử thi’ tạo nên “âm hưởng dài hơi và điệp
khúc hùng hùng của Người người lớp lớp” [50]. Đây là cách tác giả kéo giãn
thời gian ra gần như vô tận khi Trần Dần mô tả về những khoảng khắc đợi
chờ nóng ruột, mỏi mòn của những người chiến sĩ đang ham muốn ra trận sục
sôi.
Rong ruổi qua các nẻo đường của nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết
Trần Dần cùng các nhà nghiên cứu, phê bình văn học; chúng tôi nhận thấy
mỗi tác giả đều ít nhiều đã chỉ ra một nét riêng biệt nào đó của Trần Dần dù là
ở Người người lớp lớp hay Những ngã tư và những cột đèn. Các tác giả chú
ý đến nhiều phương diện của nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết Trần Dần,
nhưng nổi bật hơn cả vẫn là chủ thể trần thuật và ngôn từ nghệ thuật. Theo
chúng tôi vì hai phương diện này thể hiện rõ phong cách của Trần Dần, sự
phá cách của ông và đồng thời là con đường giúp người đọc dễ dàng đi sâu
khám phá tiểu thuyết Trần Dần. Khi Trần Dần viết, dù với cùng đề tài, cảm
hứng như văn học đương thời (Người người lớp lớp) hay là viết theo đơn đặt
hàng của ngành công an (Những ngã tư và những cột đèn), tức là viết sao
cho giống văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa thời đó thì thực chất sâu thẳm
bên trong mỗi tác phẩm vẫn là những cách tân, thử nghiệm của Trần Dần. Và
như vậy, bằng cách viết nội dung chứ không phải kể nội dung, Trần Dần đã
tìm được cách giải một bài toán văn chương (theo cách nói của nhà phê bình
Phạm Xuân Nguyên) để có được sự hòa hợp giữa cá tính sáng tạo của bản
thân và yêu cầu của xã hội bấy giờ.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hai tiểu thuyết đã xuất bản của Trần
Dần: Người người lớp lớp và Những ngã tư và những cột đèn. Theo thống
kê thì Trần Dần có đến bốn quyển tiểu thuyết (ngoại trừ hai quyển này thì còn
16
một quyển đang ở dạng bản thảo chưa được xuất bản, một quyển đã mất bản
thảo). Chúng tôi có tham vọng muốn tìm hiểu cả bốn quyển tiểu thuyết nhưng
do thời gian và tư liệu có hạn nên chỉ khoanh vùng hai quyển này. Bên cạnh
đó, do có được bản thảo Đêm núm sen nên chúng tôi sẽ dùng tác phẩm này
như một tài liệu bổ trợ để nghiên cứu hành trình sáng tạo tiểu thuyết của Trần
Dần được hoàn thiện, trọn vẹn hơn. Trần Dần còn có tác phẩm thơ-tiểu thuyết
Cổng tỉnh – như một sự thể nghiệm về cách viết hòa trộn hai loại hình thơ và
tiểu thuyết nhưng trong luận văn, do tìm hiểu về nghệ thuật trần thuật nên sẽ
không nhắc đến.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong luận văn này, người viết chỉ khảo sát nghệ thuật trần thuật của
hai tác phẩm trên. Trong đó, người viết sẽ chú ý đến bốn yếu tố sau: Chủ thể
trần thuật, kết cấu trần thuật, ngôn từ và giọng điệu trần thuật. Đây là bốn yếu
tố mà người viết nhận thấy nổi bật nhất trong hai tiểu thuyết trên. Đó cũng là
những yếu tố thể hiện nét Trần Dần, sự độc sáng của ông rõ nhất. Với mỗi
yếu tố về nghệ thuật trần thuật của hai tác phẩm này, người viết rút ra kết luận
về sự thay đổi và cách tân trong sáng tác của Trần Dần.
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp
Trong luận văn, người viết tiến hành khảo sát, thống kê số lần xuất hiện
của những cụm từ “láo nháo”, “bàng hoàng”, “ngã tư”, “cột đèn” trong
Những ngã tư và những cột đèn. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng thống kê một
số kết hợp từ lạ và từ láy lạ mà Trần Dần đã dùng trong hai tác phẩm. Dựa
trên kết quả thống kê, người viết phân tích, lí giải ý nghĩa của điều đó nhằm
làm sáng tỏ cho một phương diện nào đó có liên quan. Phương pháp này chủ
yếu được sử dụng ở chương 3 của luận văn.
17
4.2. Phương pháp so sánh
Phương pháp so sánh được người viết vận dụng ở hai điểm chính như sau.
Trước hết, phương pháp này được áp dụng trong chương 1 để so sánh sự
thay đổi về quan niệm nghệ thuật của Trần Dần với chính ông qua các thời kì;
và so sánh nét khác biệt của ông so với các văn nghệ sĩ đương thời. Phương
pháp này cũng được dùng trong chương 2 và chương 3 của luận văn để chỉ ra
sự tương đồng và khác biệt về nghệ thuật trần thuật của Trần Dần từ tiểu
thuyết Người người lớp lớp đến Những ngã tư và những cột đèn. Qua đó,
thấy được sự bùng nổ những cách tân nghệ thuật của Trần Dần trong hành
trình sáng tạo. Ở đây, chúng tôi cũng đối chiếu với thơ của ông, để kết luận
rằng sự cách tân – là một điều không thể thiếu trong suốt cuộc đời sáng tạo
của ông. Trần Dần xem đó như là tiêu chí đầu tiên để xác định một nghệ sĩ
thực thụ.
Phương pháp này còn được người viết vận dụng như một thao tác khi so
sánh Người người lớp lớp với những tiểu thuyết viết về chiến tranh cùng thời
để thấy được nét tương đồng trong cách thức miêu tả hiện thực cũng như sự
khác biệt về nhịp điệu trong tiểu thuyết của Trần Dần. Đồng thời, cũng so
sánh Những ngã tư và những cột đèn với đương thời lúc ông sáng tác và với
hiện tại khi tiểu thuyết này được xuất bản. Từ những so sánh đó để khẳng
định rằng Trần Dần đã “vượt nhiều ngã tư, đến sớm nửa thế kỉ” trong nghệ
thuật tiểu thuyết của văn chương nước nhà. Thao tác này được sử dụng ở
chương 2 và chương 3.
4.3. Phương pháp xã hội học
Người viết sử dụng phương pháp này với những yếu tố về thời đại sáng
tác, tiểu sử nhà văn, tâm lý sáng tác,… để làm rõ nguyên nhân của sự cách tân
của Trần Dần, cũng như vì sao tiểu thuyết của ông rơi vào im lặng trong
khoảng thời gian dài. Cũng bằng phương pháp này, người viết tìm hiểu số
18
phận của những người ngụy binh cũ trong xã hội thời đó, những người trực
tiếp chịu ảnh hưởng bởi sự thay đổi của cuộc sống từ hòa bình sang chiến
tranh và từ chiến tranh sang hòa bình. Từ đó, phần nào thấu hiểu tư tưởng mà
Trần Dần gửi gắm qua hình tượng nhân vật Dưỡng trong Những ngã tư và
những cột đèn. Phương pháp này chủ yếu vận dụng ở chương 1; chương 2,
tiểu mục 2.1 và chương 3, tiểu mục 3.1.
4.4. Phương pháp hệ thống
Đặt tiểu thuyết của Trần Dần vào trong hệ thống sáng tác của ông để thấy
được sự xuyên suốt trong quan niệm nghệ thuật cũng như phong cách sáng tác
của nhà văn. Dù có nhiều khác biệt giữa thơ và văn xuôi, giữa hai tác phẩm
tìm hiểu nhưng chúng tôi vẫn nhận thấy một sợi chỉ đỏ của ý thức sáng tạo
Trần Dần kết nối kéo dài suốt cuộc đời ông.
Bên cạnh đó, chúng tôi cũng đặt tiểu thuyết của Trần Dần trong hệ thống
những tác phẩm cùng thời để thấy được nét tương đồng cũng như nhận ra sự
khác biệt trong sáng tác của ông. Phương pháp này phần nào có liên quan với
phương pháp so sánh đã nói ở trên.
4.5. Phương pháp tự sự học
Cũng như phương pháp hệ thống, đây là phương pháp nghiên cứu được sử
dụng xuyên suốt luận văn. Như đã nói ở trên, nghệ thuật trần thuật chỉ được
tìm hiểu kĩ càng khi tự sự học ra đời. Do đó, theo chúng tôi, sử dụng phương
pháp này là một yêu cầu bắt buộc cần có trong luận văn nghiên cứu vè nghệ
thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần.
Trên đây là một số phương pháp được sử dụng chủ yếu trong luận văn.
Ngoài ra, chúng tôi còn vận dụng các phương pháp khác trong nghiên cứu
như: phương pháp ngôn ngữ học (phần 3.1), phương pháp cấu trúc (phần
2.2),… Tuy nhiên, những phương pháp này không là phương pháp chủ đạo
của luận văn.
19
5. Đóng góp của luận văn
Từ khi ra đời như đã nói ở trên, tiểu thuyết Người người lớp lớp và
Những ngã tư và những cột đèn của Trần Dần nhận được sự quan tâm của
đông đảo bạn đọc và các nhà nghiên cứu, phê bình. Có không ít những bài
báo, bài phát biểu, bài nghiên cứu về các yếu tố thuộc nghệ thuật trần thuật
trong hai tiểu thuyết này, nhưng chưa có một công trình nào nghiên cứu một
cách hệ thống về nghệ thuật trần thuật trong tác phẩm của Trần Dần. Trong
luận văn này, người viết mong muốn đem đến một cái nhìn toàn cảnh và khái
quát về nghệ thuật trần thuật trong hai tiểu thuyết đã xuất bản của Trần Dần.
Qua đó, khẳng định chỗ đứng của Trần Dần trong văn đàn sau mấy chục năm
là kẻ đứng ngoài lề văn đàn. Người viết cũng khao khát góp chút công sức
giới thiệu Trần Dần đến với đông đảo mọi người. Có thể nói, tác phẩm của
Trần Dần sâu sắc, khoáng đạt về tư tưởng; gây hứng thú, khoái cảm thẩm mĩ
về ngôn từ nhưng chưa được đông đảo mọi người biết đến. Thứ nhất vì Trần
Dần mới được phục hồi vị trí mới đây. Thứ hai vì đọc Trần Dần không dễ
hiểu. Cả với thơ và văn xuôi đều vậy. Nếu thơ Trần Dần “làm khó” người đọc
ở sự không lời, hoặc lời mở ra đến vô cùng nghĩa thì tiểu thuyết Trần Dần
đánh đố người đọc bởi tầng tầng lớp lớp mê cung ngôn từ mà không dễ dàng
để vượt qua nếu không có chìa khóa để mở cánh cửa văn chương Trần Dần.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài Mở đầu, Kết luận, Phụ lục và Tài liệu tham khảo; luận văn được
chia thành ba chương chính với nội dung như sau:
Chương 1: CUỘC ĐỜI, SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC VÀ QUAN NIỆM
NGHỆ THUẬT CỦA TRẦN DẦN
Chương 2: CHỦ THỂ TRẦN THUẬT VÀ KẾT CẤU TRẦN THUẬT
TRONG TIỂU THUYẾT CỦA TRẦN DẦN
Chương 3: NGÔN TỪ NGHỆ THUẬT VÀ GIỌNG ĐIỆU TRẦN
THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT CỦA TRẦN DẦN
20
Chương 1: CUỘC ĐỜI, SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC VÀ QUAN NIỆM NGHỆ
THUẬT CỦA TRẦN DẦN
1.1. Sơ lược về cuộc đời, sự nghiệp sáng tác của Trần Dần
Bất kì một nhà văn nào khi sáng tác đều để cuộc đời mình ghi dấu lên
trang văn không nhiều thì ít. Những sự kiện, biến cố trong cuộc sống Trần
Dần cũng ảnh hưởng không nhỏ đến thơ văn ông. Tùy mỗi giai đoạn trong
cuộc đời mà Trần Dần có những sáng tác mang đặc điểm riêng của thời kì đó.
Do vậy, trong phần này, chúng tôi đặt cuộc đời và sự nghiệp của nhà thơ đan
cài vào nhau để nghiên cứu chung. Ứng với mỗi giai đoạn cuộc đời là những
tác phẩm của Trần Dần.
“Cái đọc đầu đời” và sự ảnh hưởng đến cuộc đời, sự nghiệp của Trần
Dần
Trần Dần tên thật là Trần Văn Dần, sinh ngày 23 tháng 8 năm 1926
(nhằm ngày 16 tháng 7 năm Bính Dần) trong một gia đình khá giả ở thành
phố Nam Định. Trần Dần học bậc thành trung ở quê nhà, sau lên Hà Nội học
tiếp và đỗ tú tài triết.
Thuở thiếu thời, ông chơi thân với Vũ Hoàng Địch (là em của nhà thơ
Vũ Hoàng Chương). Họ ở gần nhà nhau, lớn lên cùng nhau, cùng bú một bầu
sữa mẹ nên Trần Dần còn gọi Vũ Hoàng Địch là người anh em sữa. Hai người
được gần gũi với hai nhà thơ nổi tiếng trên thi đàn lúc đó là Vũ Hoàng
Chương và Đinh Hùng. Vì thế, hai người sớm có điều kiện tiếp xúc với thơ
văn và trường phái Tượng trưng Pháp. Trần Dần và Vũ Hoàng Địch đọc và
tôn sùng Baudelaire, Verlaine, Rimbaud và bị thu hút bởi trường phái Tượng
trưng, siêu thực. Thuở ấy, Trần Dần say mê Rimbaud, thích đời sống phiêu
bạt và sự phá cách, vượt thoát mọi khuôn khổ trong thơ của nhà thơ này. Rời
quê nhà lên Hà Nội học, Trần Dần lại càng có cơ hội để sống gần hơn với
mộng ước tràn dâng trong lòng mình. Ông khao khát đem đến muôn trùng
21
biển lạ cho thơ. Năm 1943, Bản đề cương văn hóa Việt Nam được công bố,
có tính chất như kim chỉ nam cho mọi hoạt động văn hóa, văn nghệ thời đó và
kéo dài đến nhiều năm về sau. Một năm sau, khi tròn 18 tuổi, Trần Dần cho ra
đời hai tập thơ đầu tay là Hồn xanh dị kì và Chiều mưa trước cửa. Hai tập
thơ này hoàn toàn chưa có chút ảnh hưởng nào bởi bản đề cương đó. Một năm
sau nữa, ở tuổi 19 hừng hực ước mộng và quyết tâm, Trần Dần chấp bút viết
Tuyên ngôn thơ Tượng trưng để khai mở một dòng văn chương khác. Ngày
16-11-1946, Trần Dần cùng với Trần Mai Châu, Đinh Hùng, Vũ Hoàng Địch
thành lập nhóm thơ Tượng trưng Dạ Đài với dòng tuyên ngôn: “Chúng tôi –
một đoàn thất thổ – đã đầu thai nhằm lúc sao mờ. Cho nên buổi chúng tôi
xuất hiện, chúng tôi để cho tàn suy giấc mơ của những người thuở trước. […]
Chúng tôi sẽ nối lại: nghiệp dĩ của một Baudelaire – tâm sự của một Nguyễn
Du – sự nổi loạn và ra đi của một Rimbaud – nỗi cô đơn của những nhà thơ
lãng mạn” [27, 53-54]. Lúc này cũng là giai đoạn thoái trào của chủ nghĩa
lãng mạn Việt Nam. Chủ nghĩa lãng mạn Việt Nam đã đi hết con đường lịch
sử của nó. Đã đến lúc, chính bản thân các nhà thơ nhận thấy rằng, không thể
tiếp tục con đường đi của chủ nghĩa lãng mạn, cần thiết và cấp bách phải có
lối ra cho thơ ca Việt Nam. Chính vì vậy, cũng như nhóm Xuân Thu, nhóm
Dạ Đài tuyên ngôn rời bỏ chủ nghĩa lãng mạn để tìm đến một ngã rẽ khác cho
nền thơ Việt: con đường theo khuynh hướng tượng trưng. Ngoài ra, nhóm Dạ
Đài cũng đưa ra yêu cầu đối với ngôn ngữ trong sáng tác thơ ca. Đó là sự
tương giao cảm giác chịu ảnh hưởng từ trường phái Tượng trưng Pháp: “phải
dùng những âm thanh huyền diệu, vốn được khơi gợi từ âm nhạc; dùng sự
tương giao cảm giác để miêu tả được cái vô biên của thế giới. Ngôn ngữ phải
tân kì” [27]. Nhóm phát hành số báo Dạ Đài 1 với bao hăm hở mơ mộng về
một nền thơ khác có thể “chôn tiền chiến” trong văn học Việt Nam. Cùng
năm này, Trần Dần viết Về nẻo thanh tuyền (thơ).
22
Hòa mình cùng người người lớp lớp
Ngày 19-12-1946, khi số báo Dạ Đài 2 chưa kịp ra đời thì kháng chiến
chống Pháp bùng nổ. Trần Dần như bao thanh niên thời ấy xếp bút nghiên
theo nghiệp đao cung, đã trở về quê hương tham gia công tác thông tin tuyên
truyền ở Vụ Bản rồi làm công tác tuyên truyền, địch vận ở Sở tuyên truyền
khu IV cùng Vũ Khiêu, Vũ Hoàng Địch… Từ đây, Trần Dần, noi theo tấm
gương của Maiakovsky – người Trần Dần dành cho nhiều sự đồng cảm, dấn
thân vào cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc. Trong ý thức của Trần Dần lúc
này, cách mạng về thơ ca trước hết phải tìm thấy qua cuộc cách mạng đang
sục sôi đất nước này. Trần Dần tham gia kháng chiến với tất cả lòng nhiệt
huyết. Đón nhận cách mạng, người thanh niên trẻ tuổi ấy muốn hiến dâng đời
mình cho sự nghiệp của cả dân tộc. Đồng thời cũng muốn làm một cuộc cách
mạng trong thơ văn. Trần Dần không chấp nhận một cách viết như cũ và tìm
mọi cách để thể hiện sự sáng tạo của mình. Trong thời gian này, Trần Dần
cùng Trần Thư, Hoài Niệm sáng lập nhóm Văn nghệ quân đội đầu tiên –
nhóm Sông Đà. Tất bật với cuộc kháng chiến nhưng ý thức về sự sáng tạo
chưa bao giờ rời bỏ Trần Dần, ông thử nghiệm làm thơ bậc thang học theo
Maiacopxki, vẽ tranh lập thể. Những sáng tác của ông được nhiều người đón
nhận nhưng phần đông cho là khó hiểu.
Năm 1954, Trần Dần tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ cùng với Đỗ
Nhuận, họa sĩ Tô Ngọc Vân. Khí thế bừng bừng của cuộc chiến cộng với sự
hi sinh của người bạn thân thiết Tô Ngọc Vân đã để lại dấu ấn sâu sắc và nỗi
đau trong lòng Trần Dần. Tiểu thuyết Người người lớp lớp được sáng tác dựa
trên kỉ niệm khó phai này. Quyển tiểu thuyết viết theo khuynh hướng sử thi và
cảm hứng lãng mạn thời ấy nhưng vẫn thể hiện được lòng đam mê theo đuổi
sự sáng tạo của Trần Dần. Có thể thấy Trần Dần quyết tâm không bao giờ đi
vào lối mòn, lặp lại những điều đã cũ trong văn chương. Sau đó ít lâu, Trần
23
Dần được cử sang Trung Quốc viết thuyết minh phim Chiến thắng Điện Biên
Phủ. Thời gian này ở Trung Quốc dậy lên vụ án Hồ Phong - với những tư
tưởng được xem là phản động. Trần Dần không thể ngờ rằng, chẳng bao lâu
sau đó, số phận ông sẽ gắn với con người mà ông chưa từng biết tên, biết mặt
đó. Trần Dần viết Anh đã thấy (thơ - 1954), Tiếng trống tương lai (thơ, đã
trích đăng trong Văn Nghệ Quân Đội năm 1954).
Nhân Văn Giai Phẩm – “nỗi buồn ga cuối còn nguyên”
Sau chiến dịch Điện Biên Phủ, Trần Dần trở về Hà Nội, yêu và muốn kết
hôn với một người con gái có gia đình di cư vào Nam. Bị chính quyền phản
đối, tháng 4/1955, Trần Dần viết đơn xin giải ngũ và ra khỏi Đảng để sống
trọn vẹn mối tình của mình. Cũng trong thời gian này, ông cùng Đỗ Nhuận,
Tử Phác, Hoàng Tích Linh, Hoàng Cầm, Trúc Lâm đệ trình bản Dự thảo đề
nghị cho một chính sách văn hóa văn nghệ thông thoáng, tự do với anh em
văn nghệ sĩ hơn với các yêu cầu như: tự do sáng tác, trả quyền lãnh đạo văn
nghệ về tay văn nghệ sĩ, thủ tiêu hệ thống chính trị viên trong các đoàn văn
công quân đội, sửa đổi chính sách văn nghệ trong quân đội,… Vì những hành
động táo bạo này mà Trần Dần bị tạm giam theo quân kỷ trong 3 tháng (từ
tháng 6 đến tháng 9/1955) để kiểm thảo ở đơn vị. Thời gian này, Trần Dần
viết Cách mạng tháng Tám (thơ), Nhất định thắng (thơ).
Sau đó, ông tham gia cải cách ruộng đất đợt 5 tại Bắc Ninh từ tháng
11/1955 đến tháng 2/1956. Trong thời gian này, ở Hà Nội, Hoàng Cầm cho
đăng bài thơ Nhất định thắng của Trần Dần trong tạp chí Giai Phẩm Mùa
Xuân. Tờ tạp chí bị tịch thu. Khi ông kết thúc đợt cải cách ruộng đất, trở về
Hà Nội, Hội Văn nghệ tổ chức hội nghị phê bình bài thơ Nhất định thắng.
Trần Dần bị kết án là đồ đệ của Hồ Phong, mất lập trường giai cấp, đi ngược
lại đường lối của Đảng và bị giam trong nhà tù Hỏa Lò, Hà Nội; trong khi ở
nhà bà Ngọc Khuê – vợ Trần Dần sinh con gái đầu lòng trong thiếu thốn, vất
24
vả. Tháng 9 cùng năm, báo Nhân Văn do Phan Khôi chủ nhiệm ra đời. Trong
số 1 có đăng bài “Tiến tới xét lại một vụ án văn học: con người Trần Dần”
của Hoàng Cầm. Trong đó, Hoàng Cầm đã đưa ra những lí lẽ và dẫn chứng
nhằm giải oan cho Trần Dần trước sự tấn công của dư luận.
Ngày 20-28/2/1956, Đại Hội văn nghệ toàn quốc lần thứ 2 tại Hà Nội với
gần 500 đại biểu, kêu gọi đấu tranh đập nát luận điệu phản động của Nhân
Văn - Giai Phẩm. Thành lập Hội Liên Hiệp văn học nghệ thuật Việt Nam.
Ngày 1-5/4/1956, Hội nghị thành lập Hội Nhà Văn Việt Nam, nhà văn Tô
Hoài làm tổng thư ký, cơ quan ngôn luận là báo Văn. Trong báo Văn số 28, ra
ngày 15/11/1956, có đăng bài thơ Hãy đi mãi của Trần Dần. Cũng trong năm
này, Trần Dần viết Bài thơ Việt Bắc (trường ca, xuất bản năm 1991).
Đến 15/12/1956, báo Nhân Văn bị thông báo đóng cửa, khi mới chỉ ra
được 5 số, và vẫn chưa giúp Trần Dần nhận được sự thấu hiểu của mọi người.
Tháng 7/1958, cùng với các nghệ sĩ Nhân văn – Giai phẩm khác, Trần
Dần chịu kỉ luật: bị khai trừ khỏi Hội nhà văn Việt Nam và bị đình chỉ xuất
bản trong 3 năm. Trên thực tế, thời hạn này của ông kéo dài đến gần 30 năm.
Sau đó, ông còn phải tham gia lao động cải tạo tại nông trường Chí Linh cùng
với Lê Đạt, Đặng Đình Hưng, Tử Phác. Dù đang chịu nhiều gian khổ, bệnh tật
và oan ức nhưng Trần Dần vẫn không nguôi chí hướng sáng tạo. Chỉ trong
một năm 1959, ông cho ra đời ba tác phẩm: Sắc lệnh 59 (thơ), Con tầu xã
hội (thơ), 17 tình ca (thơ). Và bắt đầu viết Cổng tỉnh (thơ-tiểu thuyết), đến
năm 1960 thì hoàn thành (xuất bản lần đầu năm 1994). Tháng 11/1959, Trần
Dần được phân công dịch tại ga-ra Hội Nhà Văn cùng với Lê Đạt, Phùng
Cung, Nguyễn Khắc Dực. Năm 1960, ông lao động cải tạo tại khu gang thép
Thái Nguyên và bị ốm nặng, trở về Hà Nội. Từ đây, sống âm thầm bằng nghề
dịch sách và tô ảnh màu, đứng ngoài lề mọi sinh hoạt văn nghệ chính thống.
“Im lặng trong cô đơn để viết tương lai”
25
Hoạn nạn là điều rủi trong cuộc đời Trần Dần nhưng có thể lại là điều
may mắn cho sự nghiệp sáng tác của ông vì: “Hoạn nạn với người bình
thường là tai họa, nhưng với những tài năng đích thực và nhân cách lớn thì
đây là một món quà của tạo hóa để làm nên những việc phi thường” [154].
Những thăng trầm của số phận không khiến Trần Dần gục ngã, mà trái lại còn
là “một cái may”, “được cái hoạn nạn” như lời ông tự an ủi mình để Trần Dần
có điều kiện sống thật với mình và thỏa sức sáng tạo thơ văn theo ý mình. Vì
sáng tác của ông không được xuất bản, lúc đó Trần Dần không cần phải bận
tâm về sự khen chê, lẽ được mất – những điều mọi nhà văn đều băn khoăn khi
phát hành tác phẩm. Trần Dần được thỏa thích thử nghiệm và làm mới thơ
văn của mình. Nói về Trần Dần trong giai đoạn này, Phạm Thị Hoài gọi ông
là “thủ lĩnh trong bóng tối”. Ông đã vượt qua nỗi cô đơn, sự lẻ loi của kẻ
ngoài lề bằng những sáng tác vượt thời gian cả về số lượng lẫn chất lượng.
Đây là giai đoạn sáng tác thăng hoa nhất trong cuộc đời Trần Dần và để lại
nhiều tác phẩm có giá trị nghệ thuật nhất: Đêm núm sen (tiểu thuyết – 1961,
chưa xuất bản), Jờ Joạcx (thơ – 1963), Mùa sạch (thơ – 1964), Một ngày
Cẩm Phả (tiểu thuyết – 1965), Những ngã tư và những cột đèn (tiểu thuyết
– 1966), Con trắng (thơ-hồi ký – 1967), 177 cảnh (hùng ca lụa – 1968),
Động đất tâm thần (nhật kí-thơ – 1974), Thơ không lời – Mây không lời
(thơ-họa – 1978), bộ tam Thiên Thanh-77-ngày ngày (1979), bộ tam 36-Thở
dài-Tư mã zâng sao (1980), Thơ mini (1987). Trần Dần viết, cứ viết, không
cần biết bao giờ được in. Ông viết một mình. Không độc giả. Bên cạnh những
tác phẩm, Trần Dần còn để lại một khối lượng lớn các Ghi chép, Vở bụi, Sổ
bụi, Sổ thơ,… Có lẽ Trần Dần không có ý định sáng tác khi viết những dòng
ấy, nhưng trong hoàn cảnh một con người suốt ngày làm bạn với thơ văn và
một lòng tận tụy chữ thì vô tình những ghi chép của ông cũng chứa đựng
trong đó giá trị nghệ thuật nhất định. Trong những ghi chép này, Trần Dần tự
26
đối thoại với chính mình, với mọi người và cuộc sống. Viết như để tìm người
tâm sự, để trút bỏ lòng mình. Không muốn liên lụy đến bạn bè, Trần Dần
chọn cách an toàn nhất là “ghi”. Đây là những di cảo cho ta biết rõ nhất về
lịch sử một thời đã qua và con người của Trần Dần cùng quan niệm nghệ
thuật của ông.
Năm 1988, ở Trung Quốc, Hồ Phong được phục hồi danh dự; cũng là lúc
ở Việt nam, Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm,... được mời tham gia sinh hoạt
văn học trở lại. Tháng 5, Trần Dần vào Huế gặp gỡ đồng nghiệp và bạn đọc.
Từ đây, những “bản thảo nằm” của ông bắt đầu được xuất bản hàng loạt. Khởi
đầu là năm 1991, trường ca Bài thơ Việt Bắc được xuất bản tại Hà Nội (NXB
Tác Phẩm Mới). Tiếp đó, năm 1994, tiểu thuyết-thơ Cổng tỉnh (1960) được
xuất bản tại Hà Nội, NXB Hội Nhà Văn. Một năm sau, Cổng tỉnh được trao
giải thưởng của Hội Nhà Văn Việt Nam.
Ông mất ngày 17 tháng 1 năm 1997 tại nhà riêng ở Hà Nội.
Sau khi Trần Dần mất, tác phẩm của ông vẫn tiếp tục được xuất bản và
đạt nhiều giải thưởng về văn học nghệ thuật. Năm 1998, tập thơ Mùa
sạch được xuất bản tại Hà Nội (NXB Văn Học). Thế nhưng, dường như số
phận vẫn dửng dưng với Trần Dần khi tuyển tập Trần Dần – Thơ xuất bản
lần đầu năm 2008 bị đình chỉ phát hành và yêu cầu thu hồi lại. Nhờ sự can
thiệp của các nhà văn, nhà nghiên cứu và bạn đọc mà quyết định này đã được
xóa bỏ. Đứng trước tập thơ này, người đọc không khỏi ngạc nhiên bởi sự độc
đáo, sáng tạo cũng như những gì nó chuyển tải. Người ta nhận ra bấy lâu nay
đã biết rất ít về Trần Dần và thơ văn ông. Những sáng tác của Trần Dần
khẳng định được sức sống dẻo dai của mình trên cuộc phiêu lưu tìm đến với
độc giả. Tuyển tập này đã được giải Thành tựu trọn đời của giải thưởng Hội
Nhà văn Hà Nội 2008 và giải thưởng Văn học - nghệ thuật thủ đô 2008. Năm
2010, Trần Dần làm người đọc một lần nữa ngỡ ngàng trước những thể
27
nghiệm của ông trong Những ngã tư và những cột đèn. Dù luôn đắm đuối
cho thơ, vì thơ nhưng Trần Dần cũng để lại một di cảo văn xuôi không nhỏ.
Người người lớp lớp đã thể hiện phần nào cái chí hướng sáng tạo của Trần
Dần nhưng chỉ đến Những ngã tư và những cột đèn, Trần Dần mới thực sự
làm cuộc bùng nổ những cách tân trong nghệ thuật tiểu thuyết. Tiểu thuyết
Những ngã tư và những cột đèn được giải thưởng về văn xuôi của Hội nhà
văn Hà Nội năm 2011.
1.2. Quan niệm nghệ thuật của Trần Dần
1.2.1. Khái niệm quan niệm nghệ thuật
Khái niệm quan niệm nghệ thuật được sử dụng phổ biến trong phê bình
nghiên cứu văn học, tuy nhiên, nội hàm của nó cho đến nay vẫn chưa có sự
thống nhất cao trong giới chuyên môn. Theo Từ điển thuật ngữ văn học,
quan niệm nghệ thuật là: “Nguyên tắc cắt nghĩa thế giới và con người vốn có
của hình thức nghệ thuật, đảm bảo cho nó khả năng thể hiện đời sống với một
chiều sâu nào đó” [45, 273]. “Quan niệm nghệ thuật thể hiện cái giới hạn tối
đa trong cách hiểu thế giới và con người của một hệ thống nghệ thuật, thể
hiện khả năng, phạm vi, mức độ chiếm lĩnh đời sống của nó” [45, 274]. Từ
đó, các tác giả chỉ ra biểu hiện của quan niệm nghệ thuật ở những phương
diện như: điểm nhìn nghệ thuật, chủ đề cảm nhận đời sống được hiểu như
những hằng số tâm lí của chủ thể, ở kiểu nhân vật và biến cố mà tác phẩm
cung cấp, ở cách xử lí các biến cố và quan hệ nhân vật. Khác với tư tưởng tác
phẩm (thể hiện một thái độ với cuộc sống), quan niệm nghệ thuật chỉ cung
cấp một mô hình nghệ thuật về thế giới có tính chất công cụ để thể hiện
những cuộc sống cần phải có mang tính khuynh hướng khác nhau. Với tính
chất công cụ đó, nó chẳng những cung cấp một điểm xuất phát để tìm hiểu nội
dung của tác phẩm văn học cụ thể, mà còn cung cấp một cơ sở để nghiên cứu
sự phát triển, tiến trình của văn học. Bởi lẽ, điều chủ yếu trong sự tiến hóa của
28
nghệ thuật và xã hội nói chung là đổi mới cách tiếp cận và chiếm lĩnh thế giới
và con người. Quan niệm nghệ thuật trong văn học có liên hệ mật thiết với
quan niệm về thế giới và con người của triết học, khoa học, tôn giáo... Tóm
lại, quan niệm nghệ thuật là một hình thức của sự chiếm lĩnh đời sống, là hệ
quy chiếu ẩn chìm trong hình thức nghệ thuật, nó gắn với các phạm trù
phương pháp sáng tác, phong cách nghệ thuật làm thành thước đo của hình
thức văn học và là cơ sở của tư duy nghệ thuật. Một cách giản dị nhưng khúc
triết hơn, theo Trần Đình Sử thì trong nghệ thuật, “quan niệm nghệ thuật là
giới hạn thực tế của tư duy nghệ thuật, nó thể hiện một hiện tượng khách
quan là thể thống nhất giữa hiện thực được phản ánh và năng lực cắt nghĩa lí
giải của con người” [119, 21]. Như vậy, tinh thần cơ bản của khái niệm quan
niệm nghệ thuật chính là ở sự cắt nghĩa, lí giải hiện thực của nhà văn trong tác
phẩm, khái niệm này cho chúng ta thấy rõ nhà văn ở phương diện nhận thức,
thế giới quan.
1.2.2. Những nét chính trong quan niệm nghệ thuật của Trần Dần
Nếu những năm tháng đầu đời và cả khi tham gia chiến dịch Điện Biên
Phủ lẫn khi Nhân Văn – Giai Phẩm đang nở rộ, Trần Dần đều háo hức, phấn
khởi, say mê tham gia sáng lập những nhóm văn học để cùng nhau thực hiện
mộng ước văn chương thì ở giai đoạn sau của cuộc đời, ông sống gần như
câm lặng và không còn muốn bộc lộ mình như trước. Ông chìm vào bóng tối
nhưng nói theo cách của Phạm Thị Hoài thì Trần Dần vẫn là “một thủ lĩnh”.
Suốt mấy chục năm đứng bên lề, Trần Dần quên đi được cái tất bật của dòng
đời, không bị cuộn xoáy theo dòng đời để có thể chìm sâu vào chính mình. Sự
ẩn mình đó đem lại cho chúng ta một thành tựu văn học đáng nể trọng như đã
nói ở trên và sự tò mò, khơi gợi khám phá. Khi bắt đầu tìm hiểu, những trang
viết của Trần Dần đem lại cho người đọc niềm say mê của nhà khảo cổ học
trước những di vật cổ xưa mới tìm thấy, nhưng cũng có cái khó khăn, gian
29
nan mà hấp dẫn, thú vị trước những bí ẩn của di vật chưa được xác định rõ
ràng. Nó buộc người ta phải thao thức tìm ra một ngôn ngữ phù hợp để giải
mã. Văn chương của Trần Dần cũng thế. Mỗi người đọc phải trang bị cho
mình chìa khóa để mở cánh cổng ngôi đền thiêng của thế giới nghệ thuật Trần
Dần. Và chìa khóa ấy, theo chúng tôi, chính là quan niệm nghệ thuật của Trần
Dần. Đó là nhịp cầu dẫn lối cho người đọc bước vào thế giới thơ văn của ông.
Từ Tuyên ngôn thơ tượng trưng của Dạ Đài, Trần Dần đã bộc lộ không ít
những suy ngẫm về thơ nói riêng và văn chương nói chung. Nhưng chỉ đến
khi đằm mình xuống để viết trong im lặng và cô đơn, quan niệm nghệ thuật
của Trần Dần mới được hoàn thiện và thể hiện trọn vẹn qua những vở bụi, sổ
bụi, sổ thơ. Trải qua nhiều biến cố lớn trong cuộc đời và văn nghiệp, quan
niệm nghệ thuật của Trần Dần tuy có sự nhất quán nhưng vẫn biến thiên tùy
từng thời kì chứ không bất biến. Điều này thể hiện rõ nhất trong quan niệm
của ông về đặc trưng của thơ. Những quan niệm nghệ thuật của Trần Dần hầu
hết được thể hiện dưới dạng hiển ngôn trong nhật kí của ông. Ngoài ra, mỗi
tác phẩm của Trần Dần có thể coi đó như những hàm ngôn về quan niệm nghệ
thuật. Trong luận văn này, chúng tôi chỉ xem xét những quan niệm nghệ thuật
được Trần Dần trực tiếp phát biểu trong nhật kí còn lưu lại của ông. Còn quan
niệm dưới dạng hàm ngôn sẽ không xét tới. Tìm hiểu về quan niệm nghệ thuật
của Trần Dần, chúng tôi xuất phát từ quan niệm của ông về nhà văn, “người
thơ”, “khách thơ” - chủ thể của sáng tạo văn học và quan niệm của ông về thơ
(cũng là về văn chương nói chung); từ đó tìm hiểu quan niệm của Trần Dần
về cái viết – lao động của nhà văn (hoạt động tạo nên tác phẩm). Trong quá
trình viết thì chất liệu sáng tác – chữ là đối tượng được Trần Dần đặc biệt
quan tâm. Và cuối cùng là quan niệm của Trần Dần về cái đọc của độc giả
(tiếp nhận tác phẩm).
30
1.2.2.1. Quan niệm về sứ mệnh, đặc trưng của thơ văn và người thơ
(người sáng tạo)
 Quan niệm về sứ mệnh của thơ văn
Cũng như bao người sáng tạo khác trên thế giới từ xưa đến nay, Trần Dần
nhấn mạnh giá trị to lớn của thơ văn “xây một tập thơ là phá một nhà tù” (Sổ
thơ 1974). Thơ nói riêng và văn học nói chung có sức lay động lòng người,
đem đến bao điều tốt đẹp, hướng con người đến chân, thiện, mỹ. Tư tưởng
này của Trần Dần không có gì mới nhưng cách nói lại ấn tượng bởi sự gai góc
trong sự đối lập và sự đa nghĩa của nó. Tập thơ >< nhà tù, xây >< phá:
những yếu tố đối nhau chan chát về chữ và nghĩa. Nhà tù không chỉ hiểu theo
nghĩa đơn giản là nơi giam giữ những con người bị tước mất quyền công dân;
mà nhà tù ở đây còn phải hiểu là vòng trói buộc tự do của người nghệ sĩ, là
những định kiến ẩn mình trong văn hóa, xã hội, ngôn ngữ khiến cho thơ văn
không cất mình lên nổi; là lớp nghĩa ngàn đời cư ngụ trong chữ. Phá nhà tù
không chỉ là khiến cuộc sống thanh bình hơn, con người trở nên tốt đẹp hơn
mà còn là con đường vượt thoát khỏi gông cùm của những gì đã cũ, vượt qua
định kiến về nghĩa của từ, đưa thơ văn đến tầm cao mới. Từ đó sứ mệnh của
thơ văn được đề cao.
Trần Dần còn cho rằng khả năng của thơ văn là vô hạn vô bờ. Trong tiểu
luận Thơ là cái gì, ông đưa ra một vài giá trị của thơ văn như: giải trí, nhà
trường (giáo dục), khoa học sống (nhận thức), khoa học về tương lai (khả
năng dự báo),… Những khoa học khác cũng có khả năng nhận thức nhưng
theo Trần Dần, khả năng nhận thức ở thơ văn khác hẳn các khoa học khác là ở
chỗ nó là “một phương pháp màu nhiệm nhận thức vũ trụ, xã hội, con người
một cách trọn vẹn và đầy đủ” [32] bậc nhất. Muốn được như thế, con người
phải nhận thức bằng toàn bộ khả năng của mình.
31
Khi nói về khả năng làm chính trị của thơ, Trần Dần không cho rằng thơ
đứng hoàn toàn bên ngoài chính trị như một số người đổ oan cho ông mà chỉ
cho rằng phải làm được thứ “thơ phục vụ chính trị” không phải trong 24 giờ
mà trong triệu triệu năm. Theo chúng tôi, đây là một quan niệm có sức phổ
quát của Trần Dần. Bởi lẽ, thơ xưa nay phục vụ chính trị là phục vụ cho một
hệ tư tưởng nhất định nào đó; còn Trần Dần muốn thơ phục vụ cho tất cả mọi
thể chế, trong mọi thời đại. Như vậy, thơ chính trị là thơ vì con người, vì cuộc
sống hạnh phúc của con người bởi lẽ suy cho cùng, có chế độ chính trị nào ra
đời mà không vì sự tiến bộ của nhân loại? (trừ một vài chế độ độc tài đã xuất
hiện rất ngắn trong lịch sử). Với quan niệm đó, Trần Dần tâm niệm:
Tôi vẫn đóng những câu thơ
Như người thợ đóng tàu
Chở khách
Đi về phía trước
Nơi
Loài người
Đã biết sống chung nhau
Nơi
Tất cả
- Chẳng còn ai bần tiện
chẳng còn lo
cơm áo
nợ nần. (Hãy đi mãi)
Thơ văn – với Trần Dần bên cạnh là “thuốc chữa cho ta, bệnh sống” (Sổ
thơ 1975), là “mạng sống, là lý lịch thật” của cuộc đời Trần Dần thì còn là
một nét đẹp cho đời, còn góp phần dẫn tới một cuộc sống hạnh phúc hơn.
32
 Quan niệm về đặc trưng của thơ
Sứ mệnh của thơ văn cao cả như vậy nên dĩ nhiên Trần Dần cũng không
hề dễ dãi với thơ văn. Ông có những quan niệm về đặc trưng của thơ tùy từng
thời kì. Do luận văn tìm hiểu về nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của
Trần Dần nên lẽ ra quan niệm của Trần Dần về đặc trưng của thơ sẽ không
được nhắc tới. Nhưng trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy quan
niệm về thơ của Trần Dần có liên quan đến hành trình sáng tạo tiểu thuyết của
ông. Với mỗi giai đoạn trong cuộc đời mình, Trần Dần có cách nghĩ về thơ
khác đi, sáng tác thơ khác đi thì tương ứng đó, ông cũng có sự thay đổi trong
những thử nghiệm về tiểu thuyết tùy từng thời kì. Đặc biệt, những quan niệm
về ngôn ngữ, về chữ của Trần Dần trong đặc trưng của thơ đã chi phối toàn bộ
sáng tác của ông, kể cả ở mảng văn xuôi. Do đó, chúng tôi vẫn đưa ra một
cách sơ lược quan niệm nghệ thuật về đặc trưng của thơ như một nền tảng,
bước đệm cho việc tìm hiểu những quan niệm nghệ thuật khác của Trần Dần.
Từ đó, soi rọi vào tiểu thuyết của nhà văn để làm sáng tỏ một số vấn đề như
biểu hiện của sự cách tân về chủ thể trần thuật, về ngôn từ, lí giải nguyên
nhân của những cách tân đó,…
Thời Dạ Đài, Trần Dần cũng như những nhà thơ khác trong nhóm thơ
Tượng trưng đều mong muốn làm được thứ thơ “bất phương chủ nghĩa”. Tức
là thơ không tuân theo bất cứ một quy tắc, khuôn khổ gò ép nào. Có như thế
thơ của Dạ Đài mới có thể chôn Thơ Mới như tác giả của nó mong muốn. Chủ
đích của nhóm hướng tới là trả thơ ca về nguồn gốc cổ xưa của nó, tái hiện lại
những mẫu gốc theo lý thuyết phân tâm học của C.Jung. Trong Dạ Đài, quan
trọng nhất phải kể đến quan niệm của Trần Dần về ngôn ngữ. Vì đây là hạt
nhân chi phối toàn bộ sáng tác của Trần Dần sau này: “Phải lập lại ngôn ngữ
trần gian, phải gột bỏ cho mỗi chữ cái tâm tình dung tục cũ” [27], thêm vào
33
đó, phải tạo được âm nhạc trong thơ, vì “nói đến âm nhạc trong thơ là phải
nói đến sức gợi khêu của chữ”. [30, 56].
Trong giai đoạn sau, cuộc kháng chiến của dân tộc đòi hỏi người làm văn
học phải có những sáng tác gần gũi và thiết thực hơn. Trần Dần dù có những
thể nghiệm lạ nhưng ông vẫn chủ yếu lựa chọn như phần đông các nhà văn
thế hệ mình, dốc hết lòng mình cho cách mạng. Thời gian này, quan niệm
nghệ thuật không có gì đặc biệt nhưng lại khiến Trần Dần có được “cái tôi
chạm sử thi” mà biểu hiện rõ nhất là ở tác phẩm Người người lớp lớp, Đi!
Đây Việt Bắc!
Hòa bình lập lại ở miền Bắc, qua những trang Ghi của Trần Dần, ta thấy
sự mâu thuẫn, giằng xé trong nội tâm Trần Dần và những năm tháng đau đớn
này đã khiến ông hình thành quan niệm nghệ thuật riêng của mình khi phải
sống trong nỗi uất ức. Lúc này ông mong muốn một thứ thơ “giải quyết được
những mâu thuẫn giữa tôi với người ta và giữa tôi với tôi” [29]. Mệt mỏi
trong cuộc đời, Trần Dần lúc này chỉ ao ước “tôi muốn một thứ thơ kèm theo
muôn vàn nghĩa, có buồn tủi, sầu khổ, đầm nước mắt, thơ bao trùm đất nước
và thời gian, ăn lấn sang mọi thế kỷ, nhập vào cái biện chứng bao la của sự
vật” [29]. Người người lớp lớp khi được nghiên cứu kĩ lưỡng, chúng ta thấy
dù viết theo khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn thời ấy nhưng vẫn
chứa đựng nét riêng của Trần Dần rất rõ, nhất là qua ngôn từ nghệ thuật. Thế
nhưng, nó lại bị chính cha đẻ của mình chối bỏ vì nó “chưa phải là chiến
tranh. Tôi muốn viết về chiến tranh với quan niệm cuộc sống cởi truồng –
cuộc sống như nó là chứ không phải nên là” [29]. Ông cũng đặt ra những yêu
cầu đối với bản thân người cầm bút “phải làm cho giầu có kho văn tự sần sùi,
cát bụi, bùn lầy, gân gổ” [29]. Đồng thời chỉ ra kẻ thù của nghệ thuật là
“những hình ảnh có sẵn, lối tạo hình dễ dãi, tầm thường… sự dối trá, công
thức trong đời sống và nghệ thuật” [29].
34
Đến thời hậu Nhân văn, Trần Dần đồng nhất thơ vào chữ. Trước đó, Trần
Dần vẫn chịu ít nhiều ảnh hưởng của quan niệm truyền thống về sức mạnh và
sứ mạng của thơ ca nghệ thuật. Nhưng đến thời điểm này, khi đứng ngoài lề
văn học và chỉ có những con chữ cùng phiêu du qua miền thăm thẳm của nỗi
đau, Trần Dần đã vượt thoát khỏi nhà tù của quan niệm cũ, mà cùng với Lê
Đạt, Đặng Đình Hưng, Hoàng Cầm,… mở ra một quan niệm mới về thơ – thơ
Dòng chữ. “Thơ vì thơ tuyệt đối? Hễ bất cứ cái gì, dù cao quý mấy, thơ sẽ
chẳng còn là thơ?” [52]. Thời gian này Trần Dần thử nghiệm lối thơ lấy chữ
làm yếu tố sáng tạo hàng đầu. Đặt chữ trên nghĩa. Một loạt những tác phẩm
có thể gọi là thơ hình thức, thơ thị giác của Trần Dần như Jờ Joạcx, Con
OEE, Hậu con OEE, Con I, Con trắng,… được ra đời. Bên cạnh đó, Trần
Dần còn nỗ lực vượt qua rào cản ngàn đời của thể loại bằng cách sáng tác thơ-
tiểu thuyết, là sự hòa trộn giữa hai thể loại vốn có một ranh giới rõ ràng dù
đôi lúc có giao nhau một vài điểm. Trần Dần gọi Cổng tỉnh là thơ-tiểu thuyết
- một bè đệm, một tác phẩm nằm trên lằn ranh của tiểu thuyết và thơ. Trần
Dần cũng đem đến cho hùng ca một sự mới mẻ khi sáng tác hùng ca lụa 177
cảnh. Thơ của ông như là sự hợp nhất giữa đen và trắng, đêm và ngày, của
những đối lập tuyệt đối mà lại hòa hợp tuyệt vời.
 Quan niệm về người thơ (người sáng tạo)
Thơ trong quan niệm của Trần Dần có ý nghĩa lớn lao như vậy nhưng
Trần Dần cũng nhận ra văn chương là thứ mơ hồ, khó nắm bắt và luôn đòi hỏi
sự không lặp lại. Nghề văn là nghề gây sự chữ. Vì vậy, người sáng tác - nhà
văn, nhà thơ (hay Trần Dần còn gọi là thi sĩ, người sáng tạo, khách thơ, nhà
thơ,…) cũng phải có những phong cách và năng lực nhất định, có những yêu
cầu khắt khe để có thể sáng tạo.
Trước hết, người sáng tạo phải hiểu rõ sứ mệnh của mình. Trong tiểu luận
Thơ là cái gì mới được công bố giữa năm nay, Trần Dần khuyên người thi sĩ
35
hãy: “sống nhiều, học nhiều, bất mãn nhiều, làm thơ nhiều”. Nếu sống nhiều
và học nhiều, thậm chí làm thơ nhiều không có gì lạ đối với người nghệ sĩ thì
bất mãn nhiều lại là điều lạ lùng. Bất mãn ở đây không phải là chán ghét con
người và cuộc sống mà là luôn tìm thấy những vấn đề mới, luôn nảy ra những
ý tưởng mới, để phủ định những cái-cũ-quen-thuộc của bao thế hệ, của bao
người và quan trọng hơn là của chính mình. Làm thơ nhiều cũng phải hiểu
theo nghĩa chất lượng, không phải cứ khối lượng đồ sộ mà thành tác giả lớn.
Đôi khi, chỉ một bài thơ mà anh hoa phát tiết như Ông đồ của Vũ Đình Liên
còn hơn làm nhiều mà không ai nhớ được câu nào. Những thứ đó rõ ràng
“thực là tổn thọ, sống được ít thôi, nhưng thực là nhiều”. Nhiều vì nó sẽ giúp
cho tác giả có được khả năng mà bất kì nghệ sĩ nào cũng mong muốn: khả
năng sáng tạo. Với Trần Dần, không có gì đáng xấu hổ hơn là một con người
ù lì không có bất cứ ý tưởng mới nào cho cuộc sống và văn học. Người bình
thường sống không sáng tạo đã thấy chán, thấy nhàm. Nghệ sĩ không sáng tạo
không chỉ là một sự sỉ nhục mà còn là đi vào con đường tử: “Đừng viết cái gì
không rơm rớm bên kia? Không ngạc nhiên chính mình?” (Sổ bụi 1983). Bên
kia là thế giới cao siêu, sâu rộng, khoáng đạt của thơ. Để văn chương chạm
được tới bản chất thăm thẳm của thế giới bên kia ấy - tức là chạm vào bản
chất của văn chương, kẻ viết phải “Đạp đổ chân trời?xổng xích các chân
mây?” (Sổ bụi 1985). Câu nói của Trần Dần chứa những hình ảnh và từ ngữ
gây một ấn tượng về sự bộc phá, tấn công vào những vỉa tầng cũ kỹ để từ đó
cái-chưa-ai-biết được thoát ra - đó chính là mục đích của quá trình sáng tạo.
Người sáng tạo là người viết cái chưa biết. Đây là quan niệm lâu đời trong
văn học, nó nói về mỗi tác giả cần có một sự độc đáo - có giọng nói riêng của
mình. Điều này là tiêu chuẩn đầu tiên và quan trọng nhất để xác định một tài
năng văn học.
Trần Dần gọi đó là cái “chữ ký riêng” của một người sáng tạo, nhưng lẽ dĩ
36
nhiên “còn phải xem kỹ cái chữ ký ấy nó như thế nào, nhưng mức tối thiểu là
phải đạt được như vậy” [61]. Chữ ký là cái người khác có thể bắt chước
nhưng không thể giống hệt như anh được. Nó cũng không thể làm giả, đồng
thời lại thể hiện rõ nhất phong cách nghệ thuật của tác giả. (Cũng giống như
dựa vào chữ kí, thầy bói và những nhà xem tướng số có thể nói về vận mệnh,
đường đời của con người một cách gần như chính xác vậy). Trần Dần cũng
xác định điều kiện tiên quyết của sáng tạo là tự do. “Người thi sĩ sáng tạo
không theo lệ nào, luật nào cả” [32]. Anh phải tìm ra “những lệ mới, luật mới,
tự mình thành ra một người mới” trong đó “ý thích của tôi là tiêu chuẩn tối
cao” [32]. Tự do - theo cách nói của Trần Dần - tức là vượt thoát, giải phóng
bản thân khỏi mọi khuôn mẫu, lề thói; khỏi những định kiến che lấp tầm liên
tưởng, tưởng tượng của con người - đặc biệt là tầm sáng tạo. Trong cách nói
của Trần Dần có gì đó mang hơi hướng thiền:
“Người thi sĩ muốn trở nên sáng tạo thì việc chính là phải giết tâm
mình đi để làm sáng cái tâm nhân đạo của mình.
Chọc mắt cho mù, để mà nhìn thấu bốn cõi.
Đập óc cho vỡ, để mà thấu luật nghìn đời.” [32]
Sự sáng tạo phải được tự do, theo ý mình chưa đủ mà còn phải đừng
“chấp” vào cái gì cả thì mới có thể thấu thị được tuyệt đỉnh của nhận thức về
cuộc đời và từ đó tác phẩm của người sáng tạo mới có giá trị vì lúc đó “Thơ
không còn là thơ nữa, mà là một sự nhận thức đầy đủ trọn vẹn, mọi mặt về
con người, sự sống, vũ trụ và xã hội” [32].
Vượt qua được chữ “chấp” của bản thân trong cách nhìn mọi sự theo quan
niệm nhà Phật rất khó. Bởi thế, xưa nay có mấy vị thiền sư đạt đến cõi tịnh
độ, cũng chẳng có mấy tác giả khiến người ta phải rùng mình thán phục trước
những ý ngộ cao siêu, sâu thẳm. Nhưng đó chưa phải là khổ ải cuối cùng mà
người sáng tạo phải vượt qua để đạt được đến tự do và thăng hoa trong sáng
37
tạo. Theo Trần Dần, còn một Hy Mã Lạp Sơn vời vợi để thử sức người sáng
tạo là “hoạn nạn”, đớn đau người nghệ sĩ phải trải qua trong quá trình sáng
tác - nỗi đau từ chính sự hoài thai, mang nặng đẻ đau đứa con tinh thần và từ
những nghịch cảnh éo le của số phận:
“Người thi sĩ đã là người chịu nhiều thành kiến, khinh bỉ.” [32]
Một thực tế cũng cho thấy rằng trong xã hội, người ta ít thích nhà thơ, nhà
văn - xem họ là những người “sống trên mây” và không thực tế. Công việc
của họ khó hiểu lại còn ít có giá trị về kinh tế (có lẽ điều này hôm nay không
còn đúng với một số tác giả có sách best sellers, nhưng thực sự, trong vô vàn
tác giả có sách bán chạy đó, ai là người trụ được với thời gian thì còn phải
xem xét và chờ đợi). Còn những “người-thi-sĩ-sáng-tạo nữa thì không còn để
đâu cho hết thành kiến, khinh bỉ” [32]. Sáng tạo - là đem đến một cái mới -
cái khơi gợi hứng thú với những người mong muốn khám phá những bí ẩn
của cuộc sống, con người - cũng là cái gợi lên sự ghét bỏ của những ai thích
bình yên với những gì đã cũ, dù cái đã cũ không còn là hiện thực của cuộc
sống hiện tại nữa. Người theo dạng thứ nhất thì hiếm hoi, còn loại theo dạng
thứ hai thì dai dẳng và nhiều vô kể nên bất công, hiểu lầm, hoạn nạn là điều
tất yếu. Người viết phải là kẻ bất biết thị phi, không tùy thời cúi ngửa. Người
viết phải dám bứt mình ra khỏi quỹ đạo quen thuộc để tìm đến chân trời mới.
Đó mới là tự do sáng tạo tuyệt đối. Nhưng cũng vì thế, người sáng tạo “phải
chịu hiểu lầm, chịu những sấm sét của cái cũ nó phản công. Vì người sáng
tạo là kẻ thù không đội trời chung của cái cũ. Mà cái cũ nó không chịu chết
ngay, nó nhiều kế độc, hại ngầm và hại ra mặt” [32]. Hơn nữa, “Cái mới ở
trong văn nghệ cũng như mọi cái mới, nhiều khi nó không được đẹp đẽ, còn
thô thiển, méo mó có khi. Vì nó là một cái thai đang thành. Một cái mầm đang
lớn” [32]. Cái mới là sự thử nghiệm và không phải khi nào cũng thành công.
Nếu trong khoa học tự nhiên, Edison để tìm ra chất liệu làm dây tóc bóng đèn
38
phải thử đến hơn 2000 mẫu kim loại, thì trong văn chương cũng vậy. Để có
được một cách viết mới độc đáo, có khả năng mở ra những chân trời bát ngát,
người nghệ sĩ cũng phải vật vã với những con chữ biết bao lần, với biết bao
người và đôi khi qua nhiều thế hệ. Vì vậy, Trần Dần dù một đời quyết liệt cho
sự cách tân thơ văn nhưng vẫn tự nhắc nhở mình “Đừng có mơ tưởng một cái
mới toàn diện” ngay từ lúc đầu. Cái mới ban đầu có thể không được thừa
nhận mà còn bị cái cũ lấn lướt, lợi dụng. Đôi khi, cái mới ấy cũng không có
giá trị gì nhiều nhặn (vì chỉ là thử nghiệm) nên Trần Dần đã “tôi đã đốt tôi
không chỉ đôi lần”. Người sáng tạo là “đại biểu cho tương lai” nên họ “chỉ
được làm chủ ở tương lai”. Kiên quyết sáng tạo và giữ vững niềm tin của
mình thì chắc chắn “sau rốt cái mới thắng”.
Đây có lẽ là quan niệm nghệ thuật đã giúp Trần Dần đi qua những thăng
trầm của số phận và những hoạn nạn trong đời một cách dễ dàng hơn. Người
sáng tạo không chỉ là người dám tạo ra cái mới, còn phải là người dám bảo vệ
cái mới đến cùng. “Không bao giờ chịu thua cản trở - dù oái oăm, tai ác đệ
nhất” [32]. Tinh thần ấy cùng tâm niệm này giúp Trần Dần vững vàng trước
bão táp phong ba: “Nghiệp đau còn nặng. Người sáng tạo còn phải dạ lim trí
sắt. Mà cũng là hay – Qua lửa mới biết được vàng thực, vàng giả.” [32]
1.2.2.2. Quan niệm về viết
Trần Dần muốn mình là “một ngôi người đến chết viết-không-nguôi”. Cái
viết như một ám ảnh với Trần Dần. Ông không chỉ đằm mình xuống để viết
mà còn có những quan niệm về cái viết. Viết - hiểu đơn giản là “một hoạt
động sáng tạo, là viết trong ý hướng sáng tạo, nghĩa là, trước hết, để tạo ra
một cái đẹp bằng chữ nghĩa; và thứ hai, để vượt lên chính mình” [118]. Bất
cứ một nhà văn, nhà thơ nào, khi viết đều phải làm được hai điều này: thứ
nhất, tạo nên một tác phẩm giá trị khác hẳn so với tất cả những giá trị đã có
trước đó, thứ hai, phải tự làm mới cái viết của mình, phải nhảy qua bóng
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần

More Related Content

What's hot

Luận văn thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn hồ anh thái
Luận văn thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn hồ anh tháiLuận văn thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn hồ anh thái
Luận văn thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn hồ anh tháinataliej4
 
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM nataliej4
 
Luận án: Nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam từ đầu thế kỷ XXI, HAY - Gửi miễ...
Luận án: Nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam từ đầu thế kỷ XXI, HAY - Gửi miễ...Luận án: Nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam từ đầu thế kỷ XXI, HAY - Gửi miễ...
Luận án: Nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam từ đầu thế kỷ XXI, HAY - Gửi miễ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN ...
HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN ...HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN ...
HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
VĂN HÓA TÂM LINH TRONG “TRUYỆN KIỀU” VÀ “VĂN CHIÊU HỒN” CỦA NGUYỄN DU - TẢI F...
VĂN HÓA TÂM LINH TRONG “TRUYỆN KIỀU” VÀ “VĂN CHIÊU HỒN” CỦA NGUYỄN DU - TẢI F...VĂN HÓA TÂM LINH TRONG “TRUYỆN KIỀU” VÀ “VĂN CHIÊU HỒN” CỦA NGUYỄN DU - TẢI F...
VĂN HÓA TÂM LINH TRONG “TRUYỆN KIỀU” VÀ “VĂN CHIÊU HỒN” CỦA NGUYỄN DU - TẢI F...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

What's hot (20)

Luận văn: Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Nhật Ánh, HAY
Luận văn: Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Nhật Ánh, HAYLuận văn: Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Nhật Ánh, HAY
Luận văn: Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Nhật Ánh, HAY
 
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đLuận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
 
Luận văn: Đặc điểm truyện ngắn Lưu Trọng Lư, HAY, 9đ
Luận văn: Đặc điểm truyện ngắn Lưu Trọng Lư, HAY, 9đLuận văn: Đặc điểm truyện ngắn Lưu Trọng Lư, HAY, 9đ
Luận văn: Đặc điểm truyện ngắn Lưu Trọng Lư, HAY, 9đ
 
Luận văn: Hình tượng người phụ nữ trong thơ trữ tình Việt Nam
Luận văn: Hình tượng người phụ nữ trong thơ trữ tình Việt NamLuận văn: Hình tượng người phụ nữ trong thơ trữ tình Việt Nam
Luận văn: Hình tượng người phụ nữ trong thơ trữ tình Việt Nam
 
Luận văn: Diễn ngôn về giới nữ của các nhà văn nữ đương đại, HOT
Luận văn: Diễn ngôn về giới nữ của các nhà văn nữ đương đại, HOTLuận văn: Diễn ngôn về giới nữ của các nhà văn nữ đương đại, HOT
Luận văn: Diễn ngôn về giới nữ của các nhà văn nữ đương đại, HOT
 
Luận văn: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự, HOT
Luận văn: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự, HOTLuận văn: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự, HOT
Luận văn: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự, HOT
 
Luận văn: Tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh từ góc nhìn liên văn bản, HAY
Luận văn: Tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh từ góc nhìn liên văn bản, HAYLuận văn: Tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh từ góc nhìn liên văn bản, HAY
Luận văn: Tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh từ góc nhìn liên văn bản, HAY
 
Luận văn thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn hồ anh thái
Luận văn thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn hồ anh tháiLuận văn thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn hồ anh thái
Luận văn thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn hồ anh thái
 
Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Lê Minh Khuê sau 1975, 9đ
Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Lê Minh Khuê sau 1975, 9đThế giới nhân vật trong truyện ngắn Lê Minh Khuê sau 1975, 9đ
Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Lê Minh Khuê sau 1975, 9đ
 
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
 
Luận án: Nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam từ đầu thế kỷ XXI, HAY - Gửi miễ...
Luận án: Nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam từ đầu thế kỷ XXI, HAY - Gửi miễ...Luận án: Nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam từ đầu thế kỷ XXI, HAY - Gửi miễ...
Luận án: Nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam từ đầu thế kỷ XXI, HAY - Gửi miễ...
 
Luận văn: Yếu tố trữ tình trong truyện ngắn Trần Thùy Mai và Quế Hương
Luận văn: Yếu tố trữ tình trong truyện ngắn Trần Thùy Mai và Quế HươngLuận văn: Yếu tố trữ tình trong truyện ngắn Trần Thùy Mai và Quế Hương
Luận văn: Yếu tố trữ tình trong truyện ngắn Trần Thùy Mai và Quế Hương
 
Cảm thức hiện sinh trong truyện ngắn Việt Nam (1986 - 2010), HOT
Cảm thức hiện sinh trong truyện ngắn Việt Nam (1986 - 2010), HOTCảm thức hiện sinh trong truyện ngắn Việt Nam (1986 - 2010), HOT
Cảm thức hiện sinh trong truyện ngắn Việt Nam (1986 - 2010), HOT
 
Quan niệm về con người trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, 9đ
Quan niệm về con người trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, 9đQuan niệm về con người trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, 9đ
Quan niệm về con người trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, 9đ
 
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đLuận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
 
Đặc trưng nghệ thuật Truyện truyền kỳ Việt Nam thời trung đại, HAY
Đặc trưng nghệ thuật Truyện truyền kỳ Việt Nam thời trung đại, HAYĐặc trưng nghệ thuật Truyện truyền kỳ Việt Nam thời trung đại, HAY
Đặc trưng nghệ thuật Truyện truyền kỳ Việt Nam thời trung đại, HAY
 
Đề tài: Truyện ngắn Việt Nam từ 1986 đến nay (nhìn từ góc độ thể loại)
Đề tài: Truyện ngắn Việt Nam từ 1986 đến nay (nhìn từ góc độ thể loại)Đề tài: Truyện ngắn Việt Nam từ 1986 đến nay (nhìn từ góc độ thể loại)
Đề tài: Truyện ngắn Việt Nam từ 1986 đến nay (nhìn từ góc độ thể loại)
 
Luận văn: Biểu tượng nước và đá trong thơ Hồ Xuân Hương, 9đ
Luận văn: Biểu tượng nước và đá trong thơ Hồ Xuân Hương, 9đLuận văn: Biểu tượng nước và đá trong thơ Hồ Xuân Hương, 9đ
Luận văn: Biểu tượng nước và đá trong thơ Hồ Xuân Hương, 9đ
 
HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN ...
HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN ...HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN ...
HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN ...
 
VĂN HÓA TÂM LINH TRONG “TRUYỆN KIỀU” VÀ “VĂN CHIÊU HỒN” CỦA NGUYỄN DU - TẢI F...
VĂN HÓA TÂM LINH TRONG “TRUYỆN KIỀU” VÀ “VĂN CHIÊU HỒN” CỦA NGUYỄN DU - TẢI F...VĂN HÓA TÂM LINH TRONG “TRUYỆN KIỀU” VÀ “VĂN CHIÊU HỒN” CỦA NGUYỄN DU - TẢI F...
VĂN HÓA TÂM LINH TRONG “TRUYỆN KIỀU” VÀ “VĂN CHIÊU HỒN” CỦA NGUYỄN DU - TẢI F...
 

Similar to Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần

Thế giới nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng Tám
Thế giới nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng TámThế giới nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng Tám
Thế giới nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng TámDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Tailieu.vncty.com the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_t...
Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_t...Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_t...
Tailieu.vncty.com the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_t...Trần Đức Anh
 
Nghệ Thuật Tự Sự Của Tiểu Thuyết Trung Trung Đỉnh Qua Lạc Rừng Và Lính Trận.doc
Nghệ Thuật Tự Sự Của Tiểu Thuyết Trung Trung Đỉnh Qua Lạc Rừng Và Lính Trận.docNghệ Thuật Tự Sự Của Tiểu Thuyết Trung Trung Đỉnh Qua Lạc Rừng Và Lính Trận.doc
Nghệ Thuật Tự Sự Của Tiểu Thuyết Trung Trung Đỉnh Qua Lạc Rừng Và Lính Trận.docDịch vụ viết đề tài trọn gói 0934.573.149
 
Thế Giới Nghệ Thuật Tiểu Thuyết Lê Khâm Qua Bên Kia Biên Giới Và Trước Giờ Nổ...
Thế Giới Nghệ Thuật Tiểu Thuyết Lê Khâm Qua Bên Kia Biên Giới Và Trước Giờ Nổ...Thế Giới Nghệ Thuật Tiểu Thuyết Lê Khâm Qua Bên Kia Biên Giới Và Trước Giờ Nổ...
Thế Giới Nghệ Thuật Tiểu Thuyết Lê Khâm Qua Bên Kia Biên Giới Và Trước Giờ Nổ...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
đặC điểm tiểu thuyết hồ biểu chánh
đặC điểm tiểu thuyết hồ biểu chánhđặC điểm tiểu thuyết hồ biểu chánh
đặC điểm tiểu thuyết hồ biểu chánhKelsi Luist
 
Luận Văn Thế Giới Nhân Vật Trong Truyện Ngắn Lê Minh Khuê
Luận Văn Thế Giới Nhân Vật Trong Truyện Ngắn Lê Minh KhuêLuận Văn Thế Giới Nhân Vật Trong Truyện Ngắn Lê Minh Khuê
Luận Văn Thế Giới Nhân Vật Trong Truyện Ngắn Lê Minh KhuêDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdf
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdfNGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdf
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdfHanaTiti
 
Th s33.006 thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của vi hồng
Th s33.006 thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của vi hồngTh s33.006 thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của vi hồng
Th s33.006 thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của vi hồnghttps://www.facebook.com/garmentspace
 
PHÊ BÌNH NGHIÊN CỨU VĂN HỌC
PHÊ BÌNH NGHIÊN CỨU VĂN HỌC PHÊ BÌNH NGHIÊN CỨU VĂN HỌC
PHÊ BÌNH NGHIÊN CỨU VĂN HỌC nataliej4
 
Th s33.034 quan niệm nghệ thuật về hoàn cảnh của nguyễn minh châu trong tập t...
Th s33.034 quan niệm nghệ thuật về hoàn cảnh của nguyễn minh châu trong tập t...Th s33.034 quan niệm nghệ thuật về hoàn cảnh của nguyễn minh châu trong tập t...
Th s33.034 quan niệm nghệ thuật về hoàn cảnh của nguyễn minh châu trong tập t...https://www.facebook.com/garmentspace
 
Luận án: Đặc điểm của loại truyện thơ Nôm tự thuật, HAY - Gửi miễn phí qua za...
Luận án: Đặc điểm của loại truyện thơ Nôm tự thuật, HAY - Gửi miễn phí qua za...Luận án: Đặc điểm của loại truyện thơ Nôm tự thuật, HAY - Gửi miễn phí qua za...
Luận án: Đặc điểm của loại truyện thơ Nôm tự thuật, HAY - Gửi miễn phí qua za...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Chủ nghĩa tự nhiên trong văn học Kim Dong In qua tác phẩm Khoai tây. So sánh ...
Chủ nghĩa tự nhiên trong văn học Kim Dong In qua tác phẩm Khoai tây. So sánh ...Chủ nghĩa tự nhiên trong văn học Kim Dong In qua tác phẩm Khoai tây. So sánh ...
Chủ nghĩa tự nhiên trong văn học Kim Dong In qua tác phẩm Khoai tây. So sánh ...NuioKila
 

Similar to Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần (20)

Thế giới nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng Tám
Thế giới nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng TámThế giới nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng Tám
Thế giới nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng Tám
 
Đề tài: Ý nghĩa hiện đại hóa thơ đầu thế kỉ XX trong Hai giọt lệ
Đề tài: Ý nghĩa hiện đại hóa thơ đầu thế kỉ XX trong Hai giọt lệĐề tài: Ý nghĩa hiện đại hóa thơ đầu thế kỉ XX trong Hai giọt lệ
Đề tài: Ý nghĩa hiện đại hóa thơ đầu thế kỉ XX trong Hai giọt lệ
 
Các Nhân Vật Nam Trong Lục Vân Tiên Đọc Theo Lý Thuyết Giới.
Các Nhân Vật Nam Trong Lục Vân Tiên Đọc Theo Lý Thuyết Giới.Các Nhân Vật Nam Trong Lục Vân Tiên Đọc Theo Lý Thuyết Giới.
Các Nhân Vật Nam Trong Lục Vân Tiên Đọc Theo Lý Thuyết Giới.
 
Tailieu.vncty.com the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_t...
Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_t...Tailieu.vncty.com   the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_t...
Tailieu.vncty.com the gioi-nhan_vat_trong_truyen_ngan_nguyen_cong_hoan_va_t...
 
Nghệ Thuật Tự Sự Của Tiểu Thuyết Trung Trung Đỉnh Qua Lạc Rừng Và Lính Trận.doc
Nghệ Thuật Tự Sự Của Tiểu Thuyết Trung Trung Đỉnh Qua Lạc Rừng Và Lính Trận.docNghệ Thuật Tự Sự Của Tiểu Thuyết Trung Trung Đỉnh Qua Lạc Rừng Và Lính Trận.doc
Nghệ Thuật Tự Sự Của Tiểu Thuyết Trung Trung Đỉnh Qua Lạc Rừng Và Lính Trận.doc
 
Th s33.028 ngôn ngữ nghệ thuật ngô tất tố
Th s33.028 ngôn ngữ nghệ thuật ngô tất tốTh s33.028 ngôn ngữ nghệ thuật ngô tất tố
Th s33.028 ngôn ngữ nghệ thuật ngô tất tố
 
Luận văn: Phong cách truyện ngắn của nhà văn Phạm Duy Nghĩa
Luận văn: Phong cách truyện ngắn của nhà văn Phạm Duy NghĩaLuận văn: Phong cách truyện ngắn của nhà văn Phạm Duy Nghĩa
Luận văn: Phong cách truyện ngắn của nhà văn Phạm Duy Nghĩa
 
Luận văn: Phong cách truyện ngắn của Phạm Duy Nghĩa, HAY
Luận văn: Phong cách truyện ngắn của Phạm Duy Nghĩa, HAYLuận văn: Phong cách truyện ngắn của Phạm Duy Nghĩa, HAY
Luận văn: Phong cách truyện ngắn của Phạm Duy Nghĩa, HAY
 
Thế Giới Nghệ Thuật Tiểu Thuyết Lê Khâm Qua Bên Kia Biên Giới Và Trước Giờ Nổ...
Thế Giới Nghệ Thuật Tiểu Thuyết Lê Khâm Qua Bên Kia Biên Giới Và Trước Giờ Nổ...Thế Giới Nghệ Thuật Tiểu Thuyết Lê Khâm Qua Bên Kia Biên Giới Và Trước Giờ Nổ...
Thế Giới Nghệ Thuật Tiểu Thuyết Lê Khâm Qua Bên Kia Biên Giới Và Trước Giờ Nổ...
 
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ ngành lý luận văn học, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ ngành lý luận văn học, HAY, 9 ĐIỂMBÀI MẪU Luận văn thạc sĩ ngành lý luận văn học, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ ngành lý luận văn học, HAY, 9 ĐIỂM
 
Luận văn: Văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Đàn hương hình, HAY
Luận văn: Văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Đàn hương hình, HAYLuận văn: Văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Đàn hương hình, HAY
Luận văn: Văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Đàn hương hình, HAY
 
đặC điểm tiểu thuyết hồ biểu chánh
đặC điểm tiểu thuyết hồ biểu chánhđặC điểm tiểu thuyết hồ biểu chánh
đặC điểm tiểu thuyết hồ biểu chánh
 
Luận Văn Thế Giới Nhân Vật Trong Truyện Ngắn Lê Minh Khuê
Luận Văn Thế Giới Nhân Vật Trong Truyện Ngắn Lê Minh KhuêLuận Văn Thế Giới Nhân Vật Trong Truyện Ngắn Lê Minh Khuê
Luận Văn Thế Giới Nhân Vật Trong Truyện Ngắn Lê Minh Khuê
 
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdf
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdfNGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdf
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdf
 
Th s33.003 truyện ngắn việt nam giai đoạn 1975-1985
Th s33.003 truyện ngắn việt nam giai đoạn 1975-1985Th s33.003 truyện ngắn việt nam giai đoạn 1975-1985
Th s33.003 truyện ngắn việt nam giai đoạn 1975-1985
 
Th s33.006 thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của vi hồng
Th s33.006 thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của vi hồngTh s33.006 thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của vi hồng
Th s33.006 thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của vi hồng
 
PHÊ BÌNH NGHIÊN CỨU VĂN HỌC
PHÊ BÌNH NGHIÊN CỨU VĂN HỌC PHÊ BÌNH NGHIÊN CỨU VĂN HỌC
PHÊ BÌNH NGHIÊN CỨU VĂN HỌC
 
Th s33.034 quan niệm nghệ thuật về hoàn cảnh của nguyễn minh châu trong tập t...
Th s33.034 quan niệm nghệ thuật về hoàn cảnh của nguyễn minh châu trong tập t...Th s33.034 quan niệm nghệ thuật về hoàn cảnh của nguyễn minh châu trong tập t...
Th s33.034 quan niệm nghệ thuật về hoàn cảnh của nguyễn minh châu trong tập t...
 
Luận án: Đặc điểm của loại truyện thơ Nôm tự thuật, HAY - Gửi miễn phí qua za...
Luận án: Đặc điểm của loại truyện thơ Nôm tự thuật, HAY - Gửi miễn phí qua za...Luận án: Đặc điểm của loại truyện thơ Nôm tự thuật, HAY - Gửi miễn phí qua za...
Luận án: Đặc điểm của loại truyện thơ Nôm tự thuật, HAY - Gửi miễn phí qua za...
 
Chủ nghĩa tự nhiên trong văn học Kim Dong In qua tác phẩm Khoai tây. So sánh ...
Chủ nghĩa tự nhiên trong văn học Kim Dong In qua tác phẩm Khoai tây. So sánh ...Chủ nghĩa tự nhiên trong văn học Kim Dong In qua tác phẩm Khoai tây. So sánh ...
Chủ nghĩa tự nhiên trong văn học Kim Dong In qua tác phẩm Khoai tây. So sánh ...
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...Nguyen Thanh Tu Collection
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa2353020138
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdftohoanggiabao81
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxnhungdt08102004
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNguyễn Đăng Quang
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxendkay31
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (19)

Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 

Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần

  • 1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Nguyễn Minh Thu NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT CỦA TRẦN DẦN (Qua Người người lớp lớp và Những ngã tư và những cột đèn) LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC Thành phố Hồ Chí Minh – 2012
  • 2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Nguyễn Minh Thu NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT CỦA TRẦN DẦN (Qua Người người lớp lớp và Những ngã tư và những cột đèn) Chuyên ngành : Văn học Việt Nam Mã số : 60 22 34 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. PHÙNG QUÝ NHÂM Thành phố Hồ Chí Minh – 2012
  • 3. LỜI CẢM ƠN  Đề tài này được thực hiện dưới sự hướng dẫn, giúp đỡ tận tình của PGS. TS. Phùng Quý Nhâm cùng sự góp ý của của Giáo sư, Tiến sĩ phản biện, các thầy cô và các bạn khoa Ngữ văn Đại học Sư Phạm TP.HCM. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn những sự giúp đỡ chân tình và quý báu đó. Dù đã cố gắng hết sức nhưng do khả năng và thời gian có hạn nên luận văn không tránh khỏi có những thiếu sót. Kính mong nhận được sự góp ý chân thành của các Giáo sư, Tiến sĩ, các thầy cô và bạn bè. Tp. Hồ Chí Minh, ngày 10 tháng 2 năm 2012 Người thực hiện Nguyễn Minh Thu
  • 4. MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cảm ơn MỤC LỤC........................................................................................................1 MỞ ĐẦU ..........................................................................................................1 Chương 1: CUỘC ĐỜI, SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC VÀ QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT CỦA TRẦN DẦN..............................................................20 1.1.Sơ lược về cuộc đời, sự nghiệp sáng tác của Trần Dần............20 1.2.Quan niệm nghệ thuật của Trần Dần ........................................27 1.2.1.Khái niệm quan niệm nghệ thuật.....................................27 1.2.2.Những nét chính trong quan niệm nghệ thuật của Trần Dần .......................................................................................28 1.2.3.Cơ sở của những quan niệm nghệ thuật của Trần Dần....49 Chương 2: CHỦ THỂ TRẦN THUẬT VÀ KẾT CẤU TRẦN THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT TRẦN DẦN .......................................................57 2.1. Chủ thể trần thuật trong tiểu thuyết Trần Dần.........................57 2.1.1. Chủ thể trần thuật trong tác phẩm tự sự .........................57 2.1.2. Chủ thể trần thuật trong tiểu thuyết Trần Dần................61 2.2. Kết cấu trần thuật trong tiểu thuyết Trần Dần.........................88 2.2.1. Kết cấu trần thuật trong tác phẩm tự sự..........................88 2.2.2. Các kiểu kết cấu trần thuật trong tiểu thuyết Trần Dần..90 Chương 3: NGÔN TỪ NGHỆ THUẬT VÀ GIỌNG ĐIỆU TRẦN THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT CỦA TRẦN DẦN ............................111 3.1. Ngôn từ nghệ thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần..............111 3.1.1. Khái niệm ngôn từ nghệ thuật ......................................111 3.1.2. Sự độc sáng về ngôn từ nghệ thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần.......................................................................112 3.2. Giọng điệu trần thuật trong tiểu thuyết Trần Dần .................131 3.2.1. Giọng điệu trần thuật trong tác phẩm tự sự..................131 3.2.2. Các giọng điệu trần thuật chủ yếu trong tiểu thuyết của Trần Dần.......................................................................133 KẾT LUẬN..................................................................................................151 TÀI LIỆU THAM KHẢO ..........................................................................156 PHỤ LỤC.........................................................................................................1
  • 5. 1 MỞ ĐẦU Khi nhắc đến Trần Dần, người ta luôn cảm thấy có một màn sương huyền thoại bao phủ lên cuộc đời và tác phẩm của ông. Người ta cũng bị kích thích bởi sự bí ẩn khơi gợi khám phá trong thơ văn Trần Dần. Suốt một thời gian dài, tên tuổi Trần Dần chìm trong sự im lặng cho đến cách đây hơn mười năm. Cùng với sự nhìn nhận lại các vấn đề chính trị, trả lại sự trong sạch cho Trần Dần là sự bộc phá những cách tân về cả nội dung lẫn hình thức trong nền văn học nước nhà. Bên cạnh đó, sự xuất hiện của các lý thuyết phương Tây hiện đại cũng đem đến một cái nhìn thông suốt hơn cho văn học đương đại Việt Nam, trong đó có cả những vần thơ của Trần Dần. Tuy được sáng tác cách đây mấy chục năm, nhưng thơ Trần Dần vẫn làm người đọc ngỡ ngàng bởi sự mới mẻ, hiện đại của nó. Không chỉ dừng lại ở đó, khi tiểu thuyết Những ngã tư và những cột đèn của ông được xuất bản vào cuối năm 2010 thì Trần Dần đã thực sự khơi dậy một làn sóng trong diễn đàn văn học nước nhà. Người ta bắt đầu tìm hiểu tác phẩm của ông một cách thận trọng và tỉ mỉ hơn. Người ta ngạc nhiên trước những thể nghiệm mới mẻ của ông và những cách tân vượt bậc của ông so với thời điểm tác phẩm ra đời và so với ngay cả hiện tại. Sáng tác của Trần Dần như một dòng suối mát chảy vào văn học nước nhà đang khan nước, nó có sức khơi gợi sự thích thú đối với những nhà nghiên cứu khó tính nhất. Vì vậy, nghiên cứu Trần Dần vừa là sự thú vị vừa là một thách thức đối với người viết trong thời điểm hiện nay. 1. Lí do chọn đề tài Từ buổi sơ khai đến nay, cuộc sống của nhân loại không bằng phẳng, yên ả mà luôn phải đối mặt với những cuộc xung đột lớn nhỏ khác nhau. Từ những cuộc đấu tranh mở rộng phạm vi bộ lạc của thời kỳ nguyên thủy xa xưa, đến những trận chiến phân chia lãnh thổ săn bắn, canh tác và ngày nay là cuộc chiến giành quyền thống trị thế giới. Văn học như một tấm gương phản
  • 6. 2 chiếu của cuộc sống, cũng đã xuất hiện đề tài chiến tranh từ rất lâu như một tất yếu. Trước khi có chữ viết, nhà thơ mù Homere của Hy Lạp cổ xưa đã đi khắp nơi và hát lên những khúc ca hoành tráng về cuộc chiến thành Troy qua hai sử thi Iliad và Odyssey. Phương Đông huyền bí cũng không hề thua kém với Ramayana và Mahabharata cũng có kể về những cuộc chiến tranh. Một trong tứ đại kỳ thư có thể sánh với mọi thời đại của Trung Quốc là Tam Quốc diễn nghĩa – tác phẩm viết về cuộc chiến của ba nhà Ngụy-Thục-Ngô thời Chiến quốc. Hay thậm chí là chiến tranh trong nội bộ đất nước qua “kỳ thư” thứ hai Thủy Hử. Trong cuộc kháng chiến vĩ đại của Nga, hai bộ tiểu thuyết đồ sộ về đề tài này được ra đời Chiến tranh và hòa bình (Lev Tolstoi), Sông Đông êm đềm (Mikhail Solokhov) đã có một vị trí quan trọng trong nền văn học Nga – Xô viết. Và ở Việt Nam ta, như người ta thường nói “không có lúc nào là không có bóng giặc” thì đề tài chiến tranh lại càng xuất hiện đậm đặc trong văn học. Chúng ta từng có những lời thơ căm thù giặc trong ca dao - thể loại vốn chứa đựng rất nhiều ngọt ngào; cũng biết đến hàng loạt thơ văn hừng hực hào khí Đông A thời Trần trong kháng chiến chống Nguyên – Mông. Thơ văn kháng chiến đã làm nên diện mạo văn học giai đoạn 1945-1975 với hàng loạt các tên tuổi: Nguyễn Minh Châu, Nguyên Ngọc, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Thi, Lâm Thị Mỹ Dạ,… Hiện nay, chiến tranh đã lùi xa nhưng chúng ta vẫn day dứt với Nỗi buồn chiến tranh cùng Bảo Ninh – như một hồi ức không thể nào quên. Hòa trong không khí đó của thế giới và dân tộc, hơn nữa lại trực tiếp tham gia kháng chiến chống Pháp cứu nước, nhà thơ – nhà văn Trần Dần cũng có nhiều tác phẩm viết về đề tài này. Với thơ, chúng ta sẽ còn lưu giữ âm điệu hùng tráng, dồn dập của Đi! Đây Việt Bắc! kể về những ngày “gian nan đời vẫn ca vang núi đèo” của các chiến sĩ cách mạng. Hay nỗi xót xa trước đau thương cùng niềm tin vào tương lai tươi sáng của dân tộc và cuộc sống con người trong Nhất định thắng. Trong văn xuôi, Trần Dần mang
  • 7. 3 lại một luồng gió mới cho văn học, khi một mình ông chiếm lĩnh một chân trời – cũng với đề tài chiến tranh nhưng ông viết về những sự kiện, nhân vật hoàn toàn khác lạ so với thơ văn thời ấy. Tiểu thuyết đầu tay của Trần Dần, Người người lớp lớp tái hiện chiến dịch Điện Biên Phủ - đây là tiểu thuyết duy nhất lúc bấy giờ viết về chiến dịch vĩ đại này của dân tộc – hoàn thành ngay khi vừa kết thúc chiến dịch. Một tác phẩm khác của Trần Dần cũng về đề tài này nhưng vẫn mang đến sự kinh ngạc cho người đọc bởi Những ngã tư và những cột đèn là tác phẩm duy nhất viết về hình ảnh người lính ngụy binh trong cuộc sống sau giải phóng. Có thể thấy, Trần Dần để lại cho chúng ta nhiều ấn tượng sâu sắc, mới lạ không chỉ trong thơ mà còn trong văn xuôi. Từ khi tự sự học ra đời, nghiên cứu về nghệ thuật trần thuật của một văn bản ngày càng phát triển. Thông qua việc tìm hiểu “cách kể” của nhà văn trong tác phẩm mà chúng ta có thể đi sâu khám phá những tầng lớp sâu xa của nội dung, tư tưởng. Đồng thời cũng bộc lộ tài năng quan trọng của nhà văn, tài năng kể chuyện hấp dẫn và giúp xác định được phong cách nghệ thuật của nhà văn. Người người lớp lớp và Những ngã tư và những cột đèn của Trần Dần đã được nghiên cứu trên nhiều phương diện: đề tài, nội dung, thế giới nhân vật, ngôn ngữ, chủ thể, kết cấu trần thuật,… Thế nhưng, hai tiểu thuyết của Trần Dần chưa được nghiên cứu, tìm hiểu nhiều. Vì tác phẩm Người người lớp lớp tuy lúc mới ra đời nhận được sự ủng hộ nhiệt liệt của đông đảo bạn đọc, nhưng ngay sau đó đã phải chịu sự im lặng cùng với số phận tác giả của nó. Còn tác phẩm Những ngã tư và những cột đèn chỉ mới được xuất bản gần đây (năm 2010) dù ra đời đã hơn bốn mươi năm, nó phải chịu số phận “bản thảo nằm”. Người người lớp lớp viết trong khí thế cuộc chiến đấu nên chịu ảnh hưởng nhiều của tiểu thuyết theo khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn thời đó. Còn Những ngã tư và những cột đèn viết sau đó và đặc biệt lại viết về lính ngụy quân nên tác phẩm này thiên về “chiêm nghiệm,
  • 8. 4 đắm đuối và suy tư”. Khi tiếp cận hai tác phẩm này của Trần Dần, chúng tôi nhận thấy từ Người người lớp lớp đến Những ngã tư và những cột đèn có sự kế thừa và cách tân trong nghệ thuật trần thuật. Trong đó, những nghiên cứu về nghệ thuật trần thuật chiếm ưu thế, đặc biệt là những thể nghiệm về nghệ thuật trần thuật của Trần Dần ở Những ngã tư và những cột đèn. Người viết chọn đề tài NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT CỦA TRẦN DẦN với mong muốn nghiên cứu nghệ thuật trần thuật của Trần Dần theo một hệ thống các yếu tố về chủ thể trần thuật, kết cấu trần thuật, ngôn từ và giọng điệu trần thuật. Trong tác phẩm, các yếu tố này có mối tương quan với nhau. Yếu tố này là nét riêng nhưng cũng là tiền đề cho yếu tố sau. Yếu tố sau là hệ quả tất yếu của yếu tố trước. Trong đó, nổi bật lên vai trò chủ đạo của chủ thể trần thuật và tầm quan trọng của kết cấu trần thuật. Nghiên cứu về nghệ thuật trần thuật, luận văn đem đến cái nhìn tổng quan về phương diện tiểu thuyết trong sáng tác của Trần Dần. Đây là phương diện chưa được nghiên cứu nhiều của tác giả. Hành trình thơ của Trần Dần đã được nghiên cứu nhưng hành trình sáng tạo văn xuôi của ông (đặc biệt là tiểu thuyết) thì chưa. Luận văn mong muốn tái hiện lại hành trình đó từ Người người lớp lớp đến Những ngã tư và những cột đèn. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Như đã nói ở trên, tiểu thuyết Người người lớp lớp của Trần Dần nhận được sự đón nhận nhiệt liệt của độc giả từ lúc mới ra đời. Bởi đó là quyển tiểu thuyết duy nhất lúc đó viết về chiến thắng Điện Biên Phủ huy hoàng của dân tộc ngay sau khi chiến dịch kết thúc. Tuy thế, cuốn sách có một số phận không may mắn cùng với cha đẻ của nó trên văn đàn suốt mấy chục năm. Quyển tiểu thuyết không được người người lớp lớp tìm đọc và nghiên cứu. Do đó, những bài viết về tiểu thuyết này cũng rất ít ỏi.
  • 9. 5 Cũng như Người người lớp lớp, tiểu thuyết Những ngã tư và những cột đèn gây nên một “hiện tượng” trong văn học nước nhà khi nó được xuất bản vào năm 2010, khi mà quyển tiểu thuyết viết cách đây hơn 40 năm lại được nhận định là có một “cách viết đi trước thời đại rất xa”. Để chứng minh Trần Dần đã “thể nghiệm cả” những cách viết được xem là mới mẻ hiện nay, các nhà nghiên cứu tập trung chủ yếu ở nghệ thuật trần thuật của tiểu thuyết này. Nhận định chung về nghệ thuật trần thuật của tác phẩm này, có rất nhiều ý kiến. Trong “Im lặng trong cô đơn để viết tương lai”, Công Tú nhận ra rằng: “những cách tân theo lối phương Tây thường được dùng như lời khen tặng với các nhà văn ham tìm tòi của Việt Nam thời đang sống, Trần Dần đều đã “thể nghiệm” cả” [128]. Quả thật, khi đọc Những ngã tư và những cột đèn của Trần Dần, ta ngạc nhiên bởi sự hiện đại của nó trên nhiều phương diện trần thuật. Trần Dần từ những năm 1966 đã làm được những điều mà các nhà văn Việt Nam hôm nay mới chạm tới. Hoài Nam trong “Một cuộc thử nghiệm ngôn ngữ”, cũng đề cao Trần Dần khi viết: “Bằng sáng tác của mình, ông gây hấn, ông tấn công và đập phá không thương tiếc những đường biên nghệ thuật tưởng đã rất sâu gốc bền rễ” [96]. Đường biên ấy là những quy phạm, công thức, quan niệm nghệ thuật bén rễ sâu vào tư duy của người nghệ sĩ, khiến họ khó lòng thoát ra khỏi những ràng buộc cố hữu để tự do viết theo ý mình. Từ dùng của Hoài Nam “gây hấn” cũng rất hợp với quyết liệt trong sáng tạo của Trần Dần. Phạm Xuân Nguyên không chỉ bàn về nghệ thuật mà còn nói đến nội dung chứa đựng trong nghệ thuật ấy: “bút pháp hiện đại, kĩ thuật siêu việt và tư tưởng nhân văn sâu sắc” [102]. Phạm Xuân Nguyên cũng lí giải tại sao có được điều đó ở Trần Dần: “Chỉ khi nhà văn dám sống chết với từng con chữ thì mới mong tìm tòi được cái mới” [102].
  • 10. 6 Nguyễn Vĩnh Nguyên trong “Viết, để được sống” cũng nhận xét chung về nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần là: “Những thủ pháp như liên văn bản, phân mảnh tự sự, giễu nhại… của phương pháp hậu hiện đại đã được Trần Dần sử dụng nhuần nhuyễn từ rất sớm với một ý thức cao” [101]. Như vậy, tác giả không chỉ dừng lại ở việc xem tiểu thuyết của Trần Dần có tính hiện đại mà các nhà nghiên cứu còn thấy thấp thoáng trong đó bóng dáng của cảm quan và bút pháp hậu hiện đại. Trên đây là những nhận định chung về nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần. Có thể thấy rằng tất cả các ý kiến trên đều tập trung vào tiểu thuyết mới xuất bản của Trần Dần. Nguyên nhân của vấn đề này, theo chúng tôi, là do Người người lớp lớp ngay sau khi ra đời đã phải chịu số phận im lặng cùng với Trần Dần. Hơn nữa, chủ nghĩa cấu trúc (nền tảng lí thuyết để nghiên cứu một tác phẩm ở phương diện nghệ thuật trần thuật) cũng chỉ mới phát triển ở Việt Nam thời gian gần đây. Tuy không được nhắc đến một cách tổng quan về nghệ thuật trần thuật như trong Những ngã tư và những cột đèn, nhưng vẫn có một số ý kiến rải rác về Người người lớp lớp. Để tiện cho việc nghiên cứu, chúng tôi chia các ý kiến về nghệ thuật trần thuật của hai tác phẩm theo những vấn đề như: chủ thể trần thuật, kết cấu trần thuật, ngôn từ và giọng điệu trần thuật. Đây cũng là hướng triển khai của luận văn. Về chủ thể trần thuật Bàn đến chủ thể trần thuật của Những ngã tư và những cột đèn, Lại Nguyên Ân trong bài báo “Tôi thán phục tiểu thuyết của Trần Dần” nhận định: Trần Dần: “đã dùng kỹ thuật tự sự đa chủ thể (nhiều nhân vật cùng kể chuyện) - một kỹ thuật rất tiên tiến của văn chương thế giới cùng thời” [12]. Cùng thời - ở đây được hiểu là vào thời điểm tác phẩm được sáng tác – năm 1966. Theo chúng tôi, kể chuyện theo kiểu này không chỉ có tác dụng hấp dẫn
  • 11. 7 độc giả mà còn làm cho một sự việc được soi chiếu dưới nhiều góc độ khác nhau. Từ đó, đối tượng được soi tỏ, lí giải sâu sắc hơn. Nhã Thuyên trong “Trần Dần giữa những cơn mưa” cũng nói về chủ thể trần thuật trong tác phẩm này với ý “ông là nhà thơ mọi lúc” khi mà “cá tính các nhân vật (dù được xây dựng với lời kể từ ngôi thứ nhất, xưng “tôi”) dường như bị xóa nhòa, đúng hơn, bị đồng nhất với cái Tôi – Trần Dần” [150]. Như thế Những ngã tư và những cột đèn đích thị là “một bài thơ- trường thiên”. Và “nhân vật thực sự của cuốn tiểu thuyết–thơ này là một Tôi đa nhân cách: một Tôi luôn “sinh sự” với Bóng, với Sọ, với Chữ” [150]. Tác giả Phạm Thị Phương trong bài viết “Cuộc vượt biên hệ hình nghệ thuật hiện thực xã hội chủ nghĩa của Trần Dần trong tiểu thuyết Những ngã tư và những cột đèn” đưa ra ba nguyên tắc xây dựng điểm nhìn của tiểu thuyết hiện thực xã hội chủ nghĩa để rồi khẳng định rằng Trần Dần đã “phá vỡ cả ba nguyên tắc” đó qua Những ngã tư và những cột đèn. Tác giả chỉ rõ Trần Dần đã tổ chức “điểm nhìn trùng phức với những người kể chuyện đa thức”. Và nhận xét đó là một “mô hình trần thuật hiện đại, đem đến tính dân chủ, bình đẳng cho các nhân vật, gia tăng tính đối thoại […] khiến tiểu thuyết gần với một văn bản đa thanh” [116, 966]. Cũng giống các nhà phê bình khác, tác giả Phạm Thị Phương chú ý đến sự đa phân, lưỡng phân đối thoại ở chủ thể xưng tôi Dưỡng. Bà cho rằng, điểm nhìn khi Dưỡng phân thân đối thoại là điểm nhìn từ bên ngoài vào bản thân mình, đó là “cái nhìn tự đào sâu vào bản thể và bản ngã của mình” [116, 970]. Cũng bàn về chủ thể trần thuật của Những ngã tư và những cột đèn, nhưng tác giả Nguyễn Thành Thi trong bài viết “Tiếng nói của “cái tôi bị chấn thương” và tính khả dụng của yếu tố nhật kí, trinh thám trong tiểu thuyết (nhân đọc Những ngã tư và những cột đèn của Trần Dần)” lại đưa ra nhận xét rằng cái tôi của Dưỡng mới là cái tôi nắm giữ điểm nhìn chủ đạo.
  • 12. 8 Tác giả cũng có ý kiến về chức năng của một chủ thể kể chuyện xưng tôi khác – nhà văn trong tác phẩm – là người “không có chức năng thay thế mà giữ vai trò bổ sung tư liệu, sao chép hay sắp xếp lại bản thảo, hoặc bình luận thuyết minh thêm” [141, 236]. Còn Đoàn Cầm Thi trong bài viết “Những ngã tư và những cột đèn: đi tìm thời đang mất” lại băn khoăn về mối liên hệ giữa nhân vật nhà văn trong tác phẩm và Trần Dần. Liệu có phải chính Trần Dần đã hóa thân thành nhà văn trong tác phẩm hay không? Điểm lại các ý kiến trên, chúng tôi nhận thấy mọi nghiên cứu đều chỉ ra được điểm nổi bật nhất trong chủ thể trần thuật của tác phẩm Những ngã tư và những cột đèn: đó là tự sự đa chủ thể, đa điểm nhìn. Chính lối trần thuật này đã ảnh hưởng không nhỏ đến các yếu tố khác của trần thuật như: kết cấu, giọng điệu, ngôn từ,… Về kết cấu trần thuật “Đọc Những ngã tư và những cột đèn”, Nguyễn Chí Hoan chỉ ra trong tiểu thuyết này có “một mạng không gian nhiều chiều hiển hiện” tạo ra “một không gian phức hợp thật sự”. Ông cho rằng đây là một “tiểu thuyết không cốt truyện với một cái kết mở thênh thang”. Rõ ràng, tiểu thuyết này của Trần Dần được chú ý nhiều đến phương diện không – thời gian trong kết cấu trần thuật. Đây cũng là phương diện lạ của tác phẩm, khi nhiều lúc không – thời gian trùng khít và hòa lẫn vào nhau, có những tính từ thể hiện xáo trộn nhau. Trong bài “Trần Dần và Dostoevsky” Cao Việt Dũng cũng chú ý đến “sự dịch chuyển không gian vô cùng nhỏ bé” và nhận xét “nhân vật của Trần Dần mắc kẹt trong thời gian, nhiều khi không thực sự còn có ý thức về thời gian, có những lúc với họ thời gian không trôi đi nữa, mà đứng yên, bất động” [34]. Đó là những lúc nhân vật của ông trôi miên man trong dòng tâm trạng tạo nên kết cấu tâm lý cho tác phẩm. Vì thế, đôi khi ta cảm thấy đây là “một tác phẩm
  • 13. 9 bất khả tóm tắt” như Nhã Thuyên nhận định. Trong Lời mở đầu quyển tiểu thuyết Những ngã tư và những cột đèn, ông Vũ Văn Kha cũng nhấn mạnh đến yếu tố thời gian qua cảm nhận của hai nhân vật Dưỡng và nhà văn: “Họ xử sự với thời gian cùng một cách. Dưỡng tính thời gian theo lối của riêng anh: để gọi tên mùa thu là mùa đông, để ngày tiếp quản tháng Mười trở thành mồng một Tết. Anh nhà văn đi tìm những định nghĩa về thời gian, luôn luôn nhầm lẫn giữa tuần lễ bảy ngày và Chủ nhật” [72, 7]. Tác giả Phạm Thị Phương cũng có cùng một ý kiến như thế về thời gian trong Những ngã tư và những cột đèn: “thời gian được ghi nhận bằng những tính từ chỉ sự mơ hồ, bất định. Đó là thời gian thử nghiệm, thời gian tâm trạng, được trải nhờ trên khung thời gian vật lí” [116, 956]. Đoàn Cầm Thi cũng cho rằng khi Dưỡng và nhà văn trên hành trình “đi tìm thời đang mất” bằng cách tác động vào thời gian thì đã khiến cho thời gian trong tiểu thuyết này xáo trộn, mơ hồ, thuần cảm giác. Hành trình đó là sự dịch chuyển thời gian mà Vũ Văn Kha cũng đề cập tới: “Thời gian của toàn bộ tiểu thuyết di chuyển liên tục, từ 11 năm trước, đến 11 năm sau, rồi lại về 11 năm trước” [72, 7]. Theo chúng tôi, chính sự dịch chuyển này đã làm nên kết cấu đan xen hiện tại – quá khứ – hiện tại của tác phẩm. Với tiểu thuyết Người người lớp lớp, cốt truyện được xây dựng theo kiểu truyền thống của văn học theo khuynh hướng sử thi 1945 – 1975 với “mở đầu bằng những cuộc hành quân đầy khí thế, kết thúc là sự toàn thắng với cuộc sống mới đang hồi sinh và những người lính lại chuẩn bị bước vào một cuộc chiến đấu mới” [81]. Chính vì cốt truyện đó mà nhiều khi “thời gian trần thuật phải vội vàng để theo kịp thời gian sự kiện” [50] và cũng ảnh hưởng không nhỏ đến giọng điệu trần thuật của tác phẩm mà chúng tôi sẽ đề cập đến ở phần sau.
  • 14. 10 Về ngôn từ nghệ thuật Nhắc đến các ý kiến bàn về ngôn ngữ trong tiểu thuyết Những ngã tư và những cột đèn của Trần Dần phải kể đến đầu tiên là nhận định của Hoài Nam trong bài viết “Một cuộc thử nghiệm ngôn ngữ”. Đây là bài viết có tính chất xác định những cách tân cũng như đóng góp to lớn về ngôn ngữ của Trần Dần cho sự đổi mới về nghệ thuật tiểu thuyết của nước nhà. Hoài Nam quyết liệt: “Nếu xét về cốt truyện, cách xây dựng nhân vật hay nghệ thuật trần thuật, đọc Những ngã tư và những cột đèn ở thời điểm này không khiến ta thấy lạ (mặc dù đó vẫn thực sự là thứ của hiếm trong văn chương Việt Nam những năm 1960, thậm chí 1970). Nhưng nếu xét về nghệ thuật ngôn ngữ, đoan quyết là đến tận bây giờ cũng ít ai làm giống như Trần Dần” [96]. Hoài Nam cũng đưa ra ví dụ để chứng minh cho nhận định của mình bằng một sự lạ trong ngôn ngữ của Trần Dần. Đó là những dấu phẩy thừa. Hoài Nam cũng nhận xét không chỉ xuất hiện sự lặp lại của những dấu phẩy thừa mà còn điệp các từ, cụm từ, cấu trúc câu,… chính điều này đã tạo nên nhịp điệu đặc biệt cho tác phẩm của Trần Dần. Nhịp điệu riêng đó là gì, trong phần sau chúng tôi sẽ nói rõ. Cuối cùng, Hoài Nam kết luận: Trần Dần là người biết “tự mua vui cho chính mình bằng cách bắt ngôn ngữ phải khiêu vũ theo những điệu chưa từng có” [96]. Nhã Thuyên có cùng ý kiến với với Hoài Nam về tầm cao của sự đổi mới ngôn ngữ trong Những ngã tư và những cột đèn khi cho rằng tiểu thuyết này “Trần Dần đến từng dấu phẩy”. Nhã Thuyên cũng đánh giá không thấp cốt truyện, nhân vật, tâm lý,… trong quyển tiểu thuyết này nhưng vẫn nghĩ rằng người đọc nên tạm gạt hết để “thưởng thức sự phong phú và độc đáo của ngôn từ, cả lối trình bày chữ riêng biệt, như trong các bài thơ của ông” [150]. Trong bài viết “Kinh ngạc Trần Dần văn xuôi” tổng hợp lại những ý kiến đánh giá, phát biểu trong buổi tọa đàm về tiểu thuyết Những ngã tư và
  • 15. 11 những cột đèn của Trần Dần, Toan Toan đã dẫn lại ý của Lê Minh Khuê: “Tiểu thuyết không được viết một cách điềm đạm, bình tĩnh, không phải là sự dễ dàng của một người kể chuyện. Nhà văn chọn cách viết, trong đó các nhân vật đi qua sắc như một nhát chém. Từ những trang đầu đã có cảm giác ông làm khó chữ nghĩa, có những đoạn lủng củng một cách cố ý” [126]. Hay lời phát biểu của Dương Tường – một bạn văn của Trần Dần: “Đọc Trần Dần, người ta thấy khoái cảm chữ, tiếng. Cuốn tiểu thuyết như bữa tiệc ngôn ngữ. Có nhiều trang, chương như thơ” [126]. Những đánh giá này cũng đã lưu tâm người viết đến khía cạnh quan trọng trong tác phẩm của Trần Dần cả về thơ và tiểu thuyết: sự đổi mới ngôn từ nghệ thuật. Và chất thơ, những đặc điểm của thơ dường như thấm đẫm trong văn xuôi Trần Dần. Nhà phê bình Lại Nguyên Ân đã đưa ngôn từ trong tiểu thuyết này của Trần Dần lên một tầm cao khi ông đánh giá: “nhà văn sử dụng ngôn ngữ điêu luyện đến độ tôi chỉ có thể thán phục một cách sung sướng vì được thưởng thức kỹ thuật của một bậc thầy” [12]. Để minh họa, ông lấy dẫn chứng đoạn Dưỡng đến nhà mẹ đẻ xin đón vợ về sau khi bị vợ giận bỏ đi. Ông phân tích tỉ mỉ để đi đến kết luận: “Ngôn ngữ ở đây ra hết chất của "cao bồi thành thị" mà nhà văn Việt Nam ta ít có người am hiểu và viết kỹ như Trần Dần” [12]. Nhà phê bình này cũng có cùng ý kiến với Dương Tường đã nói ở trên về vẻ đẹp giàu chất thơ của trang văn Trần Dần. Cũng cùng ý kiến với Lại Nguyên Ân về ngôn ngữ cao bồi thành thị và chất thơ của ngôn từ trong tiểu thuyết của Trần Dần là Nguyễn Chí Hoan trong “Đọc Những ngã tư và những cột đèn”. Nguyễn Chí Hoan cho rằng Trần Dần có lối văn bạch thoại, các dấu ngắt câu tạo nhịp điệu như thơ. Vì vậy mà “thật hết sức ngạc nhiên khi sau gần nửa thế kỷ từ ngày hoàn thành mới được công bố xuất bản, tiểu thuyết này hiện ra không một chút xa lạ với văn chương tiểu thuyết đương đại, nếu không nói nó vẫn tiếp tục là một bậc
  • 16. 12 thầy vượt trội” [62]. Tác giả cũng chỉ ra sự lặp lại của một ngữ đoạn “I như trong thánh kinh” trong nhật ký của Dưỡng và ý nghĩa biểu tượng của sự trùng lặp này. Đây cũng là một hướng khơi gợi cho luận văn đi sâu tìm hiểu. Đoàn Cầm Thi cũng nhận xét rằng Những ngã tư và những cột đèn như “một bài thơ ám ảnh” ở sự đăng đối, tương xứng nhịp nhàng giữa hai vế của tựa đề, ở cấu trúc của tác phẩm như “cấu trúc của một bài thơ với 9 điệp khúc” [140]. Trần Dần sáng tác Những ngã tư và những cột đèn nhưng bằng một cái tôi đầy tính trữ tình của một thi sĩ khi thường xuyên bị những con chữ “lôi kéo ra khỏi câu chuyện, làm ông quên lãng cốt truyện, để mặc ông với những thi hứng đầy bất ngờ” [140]. Một độc giả 9X cũng góp lời về sự biến âm của Trần Dần trong Những ngã tư và những cột đèn (ví dụ như chữ yêu thành iêu, ý kiến thành í kiến,…) đã làm nên “ấn tượng ở giọng điệu vui, cách thể hiện câu chữ “hiện đại như một blogger” [126]. Bước đầu, chưa thể xác định lời nhận xét ấy có giá trị như thế nào đối với tiểu thuyết của Trần Dần, nhưng ít nhất cũng khiến chúng tôi hiểu rằng Trần Dần thu hút, tạo nên sự thích thú với mọi người, đặc biệt là giới trẻ và những cách tân của ông cũng được họ chú ý, đón nhận. Trong bài “Trần Dần vượt nhiều “ngã tư”, đến sớm nửa thế kỷ”, Vi Thùy Linh dẫn lại lời nhà nghiên cứu Phạm Xuân Nguyên: “Trần Dần rất kỹ chữ. […]Trần Dần tạo khoái cảm bằng chữ và tiếng, chữ của ông không nằm trên mặt phẳng, không dẹt, nó cựa quậy giàu sức gợi. Đọc ông, là được hưởng bữa tiệc ngôn ngữ” [87]. Lời nhận định ấy đã phần nào nói lên sự sống động, mới mẻ trong ngôn ngữ của Trần Dần, khơi gợi nhiều hứng thú cho độc giả. Trong một bài phỏng vấn khác, nhà nghiên cứu này cũng từ sự sáng tạo đó của Trần Dần mà ưu tư về nghề viết: “Chỉ khi nhà văn dám sống chết với từng con chữ thì mới mong tìm tòi được cái mới” [102]. Trần Dần có lẽ là người đã dám sống chết như thế.
  • 17. 13 Tác giả Phạm Thị Phương trong bài viết đã nêu trên cũng đưa ra những cách tân của Trần Dần về mặt ngôn ngữ trong Những ngã tư và những cột đèn để chỉ ra sự vượt biên về hệ hình của Trần Dần so với văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa thời đó khi mà tiểu thuyết này có những “kết hợp lạ mắt lạ tai, cách ví von sinh động” [116, 976]. Bà cũng chú ý đến “những dấu phụ tu từ” như một kiểu “dấu ngắt nhịp chủ tâm” và “sự lặp lại gián cách một số câu hoặc mệnh đề, để chúng vang lên như những vọng âm” [116, 978]. Ngoài ra, còn một số lượng lớn các “từ ngữ đường phố, chợ búa, cao bồi thành thị, tiếng lóng, tiếng Tây bồi được bung ra một cách công nhiên” [116, 980] trong tiểu thuyết này cũng góp phần khẳng định nét riêng của Trần Dần so với văn học lúc đó. Về ngôn ngữ trong tiểu thuyết Người người lớp lớp, tác giả Phạm Ngọc Hiền trong bài viết “Giọng điệu anh hùng ca trong tiểu thuyết “Người người lớp lớp” của Trần Dần” cho rằng trong tác phẩm này Trần Dần sử dụng “từ ngữ rất đắc địa”. Bên cạnh đó, cũng như trong Những ngã tư và những cột đèn, biện pháp điệp là một điểm đáng lưu ý của tác phẩm này. Biện pháp điệp được thể hiện ở nhiều cấp độ: từ ngữ, hình ảnh, điệp câu, cú pháp câu và đặc biệt là điệp cú pháp đoạn – “hình thức rất hiếm thấy trong văn xuôi hiện đại” khi lối viết truyện theo chương hồi không còn nữa. Cùng với từ láy tượng hình, tượng thanh làm nên giọng điệu sử thi cho tác phẩm. Về giọng điệu trần thuật Như đã nói ở trên, ngôn ngữ của Trần Dần đã làm nên một giọng điệu rất riêng cho tác phẩm của ông. Nhiều nhà phê bình cũng lưu ý đến vấn đề này của tác phẩm. Tiêu biểu như: Nguyễn Chí Hoan cho rằng “truyện kể nhiều giọng điệu với phức hợp các “hình thức của diễn đạt” - nhật ký, tâm lý, trinh thám, xoay quanh một đoạn đời của nhân vật Dưỡng” [62]. Từ đó, ta có thể thấy Nguyễn Chí Hoan cho
  • 18. 14 rằng chính sự đa dạng của hình thức diễn đạt đã làm nên sự phức hợp giọng điệu của tác phẩm này. Hoài Nam cũng nhận xét rằng Trần Dần đã tạo ra “Một nhịp điệu không bằng phẳng, không cân đối. Nó trúc trắc, gập ghềnh, xô lệch, đầy sự bất ngờ và đầy nỗi bất an” [96]. Nhịp điệu ấy như tâm trạng rối bời của Dưỡng trong những ngày tranh sáng tranh tối. Và như vậy, có thể nói “nhịp điệu của câu văn xuôi chính là yếu tố tạo nên “siêu nghĩa” cho tác phẩm” [96]. Hoài Nam cũng đồng thời chỉ ra với việc sáng tạo nhịp điệu như thế, Trần Dần thể hiện rất rõ vai trò của một nhà thơ trong tiểu thuyết của mình vì ““Chơi” với nhịp điệu, thực ra đó là công việc của nhà thơ nhiều hơn nhà văn xuôi” [96]. Nhã Thuyên cũng lưu ý đến chất thơ thể hiện qua nhịp điệu của tác phẩm này. Ông cho rằng “cả cuốn tiểu thuyết-thơ này đậm đặc một thứ mùi, một thứ mùa Hà Nội, ở thời ông sống mà nhịp điệu và không khí riêng biệt của nó là “những ngã tư, những cột đèn” và nhất là những cơn mưa. Những cơn mưa, như tiếng đàn nhịp, như sự mịt mùng, như tuyệt vọng lẫn hi vọng cùng lúc không chỉ là phông cảnh đặc trưng cho cuốn tiểu thuyết này, cho thơ Trần Dần, cho văn nghiệp ông, mà còn như một biểu trưng của chính số phận ông, số phận bản thảo ông: một số phận chỉ-có-mưa-sa” [150]. Tác giả Phạm Thị Phương lại nhấn mạnh đến giọng “giễu nhại, hài hước” trong tiểu thuyết này. Đây là giọng điệu chỉ xuất hiện trong văn học sau đổi mới năm 1986, còn trước đó vô cùng hạn chế trong văn học sáng tác theo hiện thực xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Giọng điệu này đem lại cho tiểu thuyết này của Trần Dần một tính chất khác hẳn văn học thời đó, là “tính chất nước đôi, ẩn chứa cảm hứng phê phán và hạ bệ” [116, 972]. Phạm Ngọc Hiền nói về giọng văn “cảm động một cách sử thi” trong Người người lớp lớp là: “có khí thế sôi sục, mạnh mẽ, tạo ra “một dòng sử thi cường tráng”” (Hêghen). Và cũng chỉ ra rằng “tác giả đã dùng hình thức kể lể
  • 19. 15 dài hơi giống như lối “trì hoãn sử thi’ tạo nên “âm hưởng dài hơi và điệp khúc hùng hùng của Người người lớp lớp” [50]. Đây là cách tác giả kéo giãn thời gian ra gần như vô tận khi Trần Dần mô tả về những khoảng khắc đợi chờ nóng ruột, mỏi mòn của những người chiến sĩ đang ham muốn ra trận sục sôi. Rong ruổi qua các nẻo đường của nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết Trần Dần cùng các nhà nghiên cứu, phê bình văn học; chúng tôi nhận thấy mỗi tác giả đều ít nhiều đã chỉ ra một nét riêng biệt nào đó của Trần Dần dù là ở Người người lớp lớp hay Những ngã tư và những cột đèn. Các tác giả chú ý đến nhiều phương diện của nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết Trần Dần, nhưng nổi bật hơn cả vẫn là chủ thể trần thuật và ngôn từ nghệ thuật. Theo chúng tôi vì hai phương diện này thể hiện rõ phong cách của Trần Dần, sự phá cách của ông và đồng thời là con đường giúp người đọc dễ dàng đi sâu khám phá tiểu thuyết Trần Dần. Khi Trần Dần viết, dù với cùng đề tài, cảm hứng như văn học đương thời (Người người lớp lớp) hay là viết theo đơn đặt hàng của ngành công an (Những ngã tư và những cột đèn), tức là viết sao cho giống văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa thời đó thì thực chất sâu thẳm bên trong mỗi tác phẩm vẫn là những cách tân, thử nghiệm của Trần Dần. Và như vậy, bằng cách viết nội dung chứ không phải kể nội dung, Trần Dần đã tìm được cách giải một bài toán văn chương (theo cách nói của nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên) để có được sự hòa hợp giữa cá tính sáng tạo của bản thân và yêu cầu của xã hội bấy giờ. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hai tiểu thuyết đã xuất bản của Trần Dần: Người người lớp lớp và Những ngã tư và những cột đèn. Theo thống kê thì Trần Dần có đến bốn quyển tiểu thuyết (ngoại trừ hai quyển này thì còn
  • 20. 16 một quyển đang ở dạng bản thảo chưa được xuất bản, một quyển đã mất bản thảo). Chúng tôi có tham vọng muốn tìm hiểu cả bốn quyển tiểu thuyết nhưng do thời gian và tư liệu có hạn nên chỉ khoanh vùng hai quyển này. Bên cạnh đó, do có được bản thảo Đêm núm sen nên chúng tôi sẽ dùng tác phẩm này như một tài liệu bổ trợ để nghiên cứu hành trình sáng tạo tiểu thuyết của Trần Dần được hoàn thiện, trọn vẹn hơn. Trần Dần còn có tác phẩm thơ-tiểu thuyết Cổng tỉnh – như một sự thể nghiệm về cách viết hòa trộn hai loại hình thơ và tiểu thuyết nhưng trong luận văn, do tìm hiểu về nghệ thuật trần thuật nên sẽ không nhắc đến. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Trong luận văn này, người viết chỉ khảo sát nghệ thuật trần thuật của hai tác phẩm trên. Trong đó, người viết sẽ chú ý đến bốn yếu tố sau: Chủ thể trần thuật, kết cấu trần thuật, ngôn từ và giọng điệu trần thuật. Đây là bốn yếu tố mà người viết nhận thấy nổi bật nhất trong hai tiểu thuyết trên. Đó cũng là những yếu tố thể hiện nét Trần Dần, sự độc sáng của ông rõ nhất. Với mỗi yếu tố về nghệ thuật trần thuật của hai tác phẩm này, người viết rút ra kết luận về sự thay đổi và cách tân trong sáng tác của Trần Dần. 4. Phương pháp nghiên cứu 4.1. Phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp Trong luận văn, người viết tiến hành khảo sát, thống kê số lần xuất hiện của những cụm từ “láo nháo”, “bàng hoàng”, “ngã tư”, “cột đèn” trong Những ngã tư và những cột đèn. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng thống kê một số kết hợp từ lạ và từ láy lạ mà Trần Dần đã dùng trong hai tác phẩm. Dựa trên kết quả thống kê, người viết phân tích, lí giải ý nghĩa của điều đó nhằm làm sáng tỏ cho một phương diện nào đó có liên quan. Phương pháp này chủ yếu được sử dụng ở chương 3 của luận văn.
  • 21. 17 4.2. Phương pháp so sánh Phương pháp so sánh được người viết vận dụng ở hai điểm chính như sau. Trước hết, phương pháp này được áp dụng trong chương 1 để so sánh sự thay đổi về quan niệm nghệ thuật của Trần Dần với chính ông qua các thời kì; và so sánh nét khác biệt của ông so với các văn nghệ sĩ đương thời. Phương pháp này cũng được dùng trong chương 2 và chương 3 của luận văn để chỉ ra sự tương đồng và khác biệt về nghệ thuật trần thuật của Trần Dần từ tiểu thuyết Người người lớp lớp đến Những ngã tư và những cột đèn. Qua đó, thấy được sự bùng nổ những cách tân nghệ thuật của Trần Dần trong hành trình sáng tạo. Ở đây, chúng tôi cũng đối chiếu với thơ của ông, để kết luận rằng sự cách tân – là một điều không thể thiếu trong suốt cuộc đời sáng tạo của ông. Trần Dần xem đó như là tiêu chí đầu tiên để xác định một nghệ sĩ thực thụ. Phương pháp này còn được người viết vận dụng như một thao tác khi so sánh Người người lớp lớp với những tiểu thuyết viết về chiến tranh cùng thời để thấy được nét tương đồng trong cách thức miêu tả hiện thực cũng như sự khác biệt về nhịp điệu trong tiểu thuyết của Trần Dần. Đồng thời, cũng so sánh Những ngã tư và những cột đèn với đương thời lúc ông sáng tác và với hiện tại khi tiểu thuyết này được xuất bản. Từ những so sánh đó để khẳng định rằng Trần Dần đã “vượt nhiều ngã tư, đến sớm nửa thế kỉ” trong nghệ thuật tiểu thuyết của văn chương nước nhà. Thao tác này được sử dụng ở chương 2 và chương 3. 4.3. Phương pháp xã hội học Người viết sử dụng phương pháp này với những yếu tố về thời đại sáng tác, tiểu sử nhà văn, tâm lý sáng tác,… để làm rõ nguyên nhân của sự cách tân của Trần Dần, cũng như vì sao tiểu thuyết của ông rơi vào im lặng trong khoảng thời gian dài. Cũng bằng phương pháp này, người viết tìm hiểu số
  • 22. 18 phận của những người ngụy binh cũ trong xã hội thời đó, những người trực tiếp chịu ảnh hưởng bởi sự thay đổi của cuộc sống từ hòa bình sang chiến tranh và từ chiến tranh sang hòa bình. Từ đó, phần nào thấu hiểu tư tưởng mà Trần Dần gửi gắm qua hình tượng nhân vật Dưỡng trong Những ngã tư và những cột đèn. Phương pháp này chủ yếu vận dụng ở chương 1; chương 2, tiểu mục 2.1 và chương 3, tiểu mục 3.1. 4.4. Phương pháp hệ thống Đặt tiểu thuyết của Trần Dần vào trong hệ thống sáng tác của ông để thấy được sự xuyên suốt trong quan niệm nghệ thuật cũng như phong cách sáng tác của nhà văn. Dù có nhiều khác biệt giữa thơ và văn xuôi, giữa hai tác phẩm tìm hiểu nhưng chúng tôi vẫn nhận thấy một sợi chỉ đỏ của ý thức sáng tạo Trần Dần kết nối kéo dài suốt cuộc đời ông. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng đặt tiểu thuyết của Trần Dần trong hệ thống những tác phẩm cùng thời để thấy được nét tương đồng cũng như nhận ra sự khác biệt trong sáng tác của ông. Phương pháp này phần nào có liên quan với phương pháp so sánh đã nói ở trên. 4.5. Phương pháp tự sự học Cũng như phương pháp hệ thống, đây là phương pháp nghiên cứu được sử dụng xuyên suốt luận văn. Như đã nói ở trên, nghệ thuật trần thuật chỉ được tìm hiểu kĩ càng khi tự sự học ra đời. Do đó, theo chúng tôi, sử dụng phương pháp này là một yêu cầu bắt buộc cần có trong luận văn nghiên cứu vè nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần. Trên đây là một số phương pháp được sử dụng chủ yếu trong luận văn. Ngoài ra, chúng tôi còn vận dụng các phương pháp khác trong nghiên cứu như: phương pháp ngôn ngữ học (phần 3.1), phương pháp cấu trúc (phần 2.2),… Tuy nhiên, những phương pháp này không là phương pháp chủ đạo của luận văn.
  • 23. 19 5. Đóng góp của luận văn Từ khi ra đời như đã nói ở trên, tiểu thuyết Người người lớp lớp và Những ngã tư và những cột đèn của Trần Dần nhận được sự quan tâm của đông đảo bạn đọc và các nhà nghiên cứu, phê bình. Có không ít những bài báo, bài phát biểu, bài nghiên cứu về các yếu tố thuộc nghệ thuật trần thuật trong hai tiểu thuyết này, nhưng chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống về nghệ thuật trần thuật trong tác phẩm của Trần Dần. Trong luận văn này, người viết mong muốn đem đến một cái nhìn toàn cảnh và khái quát về nghệ thuật trần thuật trong hai tiểu thuyết đã xuất bản của Trần Dần. Qua đó, khẳng định chỗ đứng của Trần Dần trong văn đàn sau mấy chục năm là kẻ đứng ngoài lề văn đàn. Người viết cũng khao khát góp chút công sức giới thiệu Trần Dần đến với đông đảo mọi người. Có thể nói, tác phẩm của Trần Dần sâu sắc, khoáng đạt về tư tưởng; gây hứng thú, khoái cảm thẩm mĩ về ngôn từ nhưng chưa được đông đảo mọi người biết đến. Thứ nhất vì Trần Dần mới được phục hồi vị trí mới đây. Thứ hai vì đọc Trần Dần không dễ hiểu. Cả với thơ và văn xuôi đều vậy. Nếu thơ Trần Dần “làm khó” người đọc ở sự không lời, hoặc lời mở ra đến vô cùng nghĩa thì tiểu thuyết Trần Dần đánh đố người đọc bởi tầng tầng lớp lớp mê cung ngôn từ mà không dễ dàng để vượt qua nếu không có chìa khóa để mở cánh cửa văn chương Trần Dần. 6. Cấu trúc luận văn Ngoài Mở đầu, Kết luận, Phụ lục và Tài liệu tham khảo; luận văn được chia thành ba chương chính với nội dung như sau: Chương 1: CUỘC ĐỜI, SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC VÀ QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT CỦA TRẦN DẦN Chương 2: CHỦ THỂ TRẦN THUẬT VÀ KẾT CẤU TRẦN THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT CỦA TRẦN DẦN Chương 3: NGÔN TỪ NGHỆ THUẬT VÀ GIỌNG ĐIỆU TRẦN THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT CỦA TRẦN DẦN
  • 24. 20 Chương 1: CUỘC ĐỜI, SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC VÀ QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT CỦA TRẦN DẦN 1.1. Sơ lược về cuộc đời, sự nghiệp sáng tác của Trần Dần Bất kì một nhà văn nào khi sáng tác đều để cuộc đời mình ghi dấu lên trang văn không nhiều thì ít. Những sự kiện, biến cố trong cuộc sống Trần Dần cũng ảnh hưởng không nhỏ đến thơ văn ông. Tùy mỗi giai đoạn trong cuộc đời mà Trần Dần có những sáng tác mang đặc điểm riêng của thời kì đó. Do vậy, trong phần này, chúng tôi đặt cuộc đời và sự nghiệp của nhà thơ đan cài vào nhau để nghiên cứu chung. Ứng với mỗi giai đoạn cuộc đời là những tác phẩm của Trần Dần. “Cái đọc đầu đời” và sự ảnh hưởng đến cuộc đời, sự nghiệp của Trần Dần Trần Dần tên thật là Trần Văn Dần, sinh ngày 23 tháng 8 năm 1926 (nhằm ngày 16 tháng 7 năm Bính Dần) trong một gia đình khá giả ở thành phố Nam Định. Trần Dần học bậc thành trung ở quê nhà, sau lên Hà Nội học tiếp và đỗ tú tài triết. Thuở thiếu thời, ông chơi thân với Vũ Hoàng Địch (là em của nhà thơ Vũ Hoàng Chương). Họ ở gần nhà nhau, lớn lên cùng nhau, cùng bú một bầu sữa mẹ nên Trần Dần còn gọi Vũ Hoàng Địch là người anh em sữa. Hai người được gần gũi với hai nhà thơ nổi tiếng trên thi đàn lúc đó là Vũ Hoàng Chương và Đinh Hùng. Vì thế, hai người sớm có điều kiện tiếp xúc với thơ văn và trường phái Tượng trưng Pháp. Trần Dần và Vũ Hoàng Địch đọc và tôn sùng Baudelaire, Verlaine, Rimbaud và bị thu hút bởi trường phái Tượng trưng, siêu thực. Thuở ấy, Trần Dần say mê Rimbaud, thích đời sống phiêu bạt và sự phá cách, vượt thoát mọi khuôn khổ trong thơ của nhà thơ này. Rời quê nhà lên Hà Nội học, Trần Dần lại càng có cơ hội để sống gần hơn với mộng ước tràn dâng trong lòng mình. Ông khao khát đem đến muôn trùng
  • 25. 21 biển lạ cho thơ. Năm 1943, Bản đề cương văn hóa Việt Nam được công bố, có tính chất như kim chỉ nam cho mọi hoạt động văn hóa, văn nghệ thời đó và kéo dài đến nhiều năm về sau. Một năm sau, khi tròn 18 tuổi, Trần Dần cho ra đời hai tập thơ đầu tay là Hồn xanh dị kì và Chiều mưa trước cửa. Hai tập thơ này hoàn toàn chưa có chút ảnh hưởng nào bởi bản đề cương đó. Một năm sau nữa, ở tuổi 19 hừng hực ước mộng và quyết tâm, Trần Dần chấp bút viết Tuyên ngôn thơ Tượng trưng để khai mở một dòng văn chương khác. Ngày 16-11-1946, Trần Dần cùng với Trần Mai Châu, Đinh Hùng, Vũ Hoàng Địch thành lập nhóm thơ Tượng trưng Dạ Đài với dòng tuyên ngôn: “Chúng tôi – một đoàn thất thổ – đã đầu thai nhằm lúc sao mờ. Cho nên buổi chúng tôi xuất hiện, chúng tôi để cho tàn suy giấc mơ của những người thuở trước. […] Chúng tôi sẽ nối lại: nghiệp dĩ của một Baudelaire – tâm sự của một Nguyễn Du – sự nổi loạn và ra đi của một Rimbaud – nỗi cô đơn của những nhà thơ lãng mạn” [27, 53-54]. Lúc này cũng là giai đoạn thoái trào của chủ nghĩa lãng mạn Việt Nam. Chủ nghĩa lãng mạn Việt Nam đã đi hết con đường lịch sử của nó. Đã đến lúc, chính bản thân các nhà thơ nhận thấy rằng, không thể tiếp tục con đường đi của chủ nghĩa lãng mạn, cần thiết và cấp bách phải có lối ra cho thơ ca Việt Nam. Chính vì vậy, cũng như nhóm Xuân Thu, nhóm Dạ Đài tuyên ngôn rời bỏ chủ nghĩa lãng mạn để tìm đến một ngã rẽ khác cho nền thơ Việt: con đường theo khuynh hướng tượng trưng. Ngoài ra, nhóm Dạ Đài cũng đưa ra yêu cầu đối với ngôn ngữ trong sáng tác thơ ca. Đó là sự tương giao cảm giác chịu ảnh hưởng từ trường phái Tượng trưng Pháp: “phải dùng những âm thanh huyền diệu, vốn được khơi gợi từ âm nhạc; dùng sự tương giao cảm giác để miêu tả được cái vô biên của thế giới. Ngôn ngữ phải tân kì” [27]. Nhóm phát hành số báo Dạ Đài 1 với bao hăm hở mơ mộng về một nền thơ khác có thể “chôn tiền chiến” trong văn học Việt Nam. Cùng năm này, Trần Dần viết Về nẻo thanh tuyền (thơ).
  • 26. 22 Hòa mình cùng người người lớp lớp Ngày 19-12-1946, khi số báo Dạ Đài 2 chưa kịp ra đời thì kháng chiến chống Pháp bùng nổ. Trần Dần như bao thanh niên thời ấy xếp bút nghiên theo nghiệp đao cung, đã trở về quê hương tham gia công tác thông tin tuyên truyền ở Vụ Bản rồi làm công tác tuyên truyền, địch vận ở Sở tuyên truyền khu IV cùng Vũ Khiêu, Vũ Hoàng Địch… Từ đây, Trần Dần, noi theo tấm gương của Maiakovsky – người Trần Dần dành cho nhiều sự đồng cảm, dấn thân vào cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc. Trong ý thức của Trần Dần lúc này, cách mạng về thơ ca trước hết phải tìm thấy qua cuộc cách mạng đang sục sôi đất nước này. Trần Dần tham gia kháng chiến với tất cả lòng nhiệt huyết. Đón nhận cách mạng, người thanh niên trẻ tuổi ấy muốn hiến dâng đời mình cho sự nghiệp của cả dân tộc. Đồng thời cũng muốn làm một cuộc cách mạng trong thơ văn. Trần Dần không chấp nhận một cách viết như cũ và tìm mọi cách để thể hiện sự sáng tạo của mình. Trong thời gian này, Trần Dần cùng Trần Thư, Hoài Niệm sáng lập nhóm Văn nghệ quân đội đầu tiên – nhóm Sông Đà. Tất bật với cuộc kháng chiến nhưng ý thức về sự sáng tạo chưa bao giờ rời bỏ Trần Dần, ông thử nghiệm làm thơ bậc thang học theo Maiacopxki, vẽ tranh lập thể. Những sáng tác của ông được nhiều người đón nhận nhưng phần đông cho là khó hiểu. Năm 1954, Trần Dần tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ cùng với Đỗ Nhuận, họa sĩ Tô Ngọc Vân. Khí thế bừng bừng của cuộc chiến cộng với sự hi sinh của người bạn thân thiết Tô Ngọc Vân đã để lại dấu ấn sâu sắc và nỗi đau trong lòng Trần Dần. Tiểu thuyết Người người lớp lớp được sáng tác dựa trên kỉ niệm khó phai này. Quyển tiểu thuyết viết theo khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn thời ấy nhưng vẫn thể hiện được lòng đam mê theo đuổi sự sáng tạo của Trần Dần. Có thể thấy Trần Dần quyết tâm không bao giờ đi vào lối mòn, lặp lại những điều đã cũ trong văn chương. Sau đó ít lâu, Trần
  • 27. 23 Dần được cử sang Trung Quốc viết thuyết minh phim Chiến thắng Điện Biên Phủ. Thời gian này ở Trung Quốc dậy lên vụ án Hồ Phong - với những tư tưởng được xem là phản động. Trần Dần không thể ngờ rằng, chẳng bao lâu sau đó, số phận ông sẽ gắn với con người mà ông chưa từng biết tên, biết mặt đó. Trần Dần viết Anh đã thấy (thơ - 1954), Tiếng trống tương lai (thơ, đã trích đăng trong Văn Nghệ Quân Đội năm 1954). Nhân Văn Giai Phẩm – “nỗi buồn ga cuối còn nguyên” Sau chiến dịch Điện Biên Phủ, Trần Dần trở về Hà Nội, yêu và muốn kết hôn với một người con gái có gia đình di cư vào Nam. Bị chính quyền phản đối, tháng 4/1955, Trần Dần viết đơn xin giải ngũ và ra khỏi Đảng để sống trọn vẹn mối tình của mình. Cũng trong thời gian này, ông cùng Đỗ Nhuận, Tử Phác, Hoàng Tích Linh, Hoàng Cầm, Trúc Lâm đệ trình bản Dự thảo đề nghị cho một chính sách văn hóa văn nghệ thông thoáng, tự do với anh em văn nghệ sĩ hơn với các yêu cầu như: tự do sáng tác, trả quyền lãnh đạo văn nghệ về tay văn nghệ sĩ, thủ tiêu hệ thống chính trị viên trong các đoàn văn công quân đội, sửa đổi chính sách văn nghệ trong quân đội,… Vì những hành động táo bạo này mà Trần Dần bị tạm giam theo quân kỷ trong 3 tháng (từ tháng 6 đến tháng 9/1955) để kiểm thảo ở đơn vị. Thời gian này, Trần Dần viết Cách mạng tháng Tám (thơ), Nhất định thắng (thơ). Sau đó, ông tham gia cải cách ruộng đất đợt 5 tại Bắc Ninh từ tháng 11/1955 đến tháng 2/1956. Trong thời gian này, ở Hà Nội, Hoàng Cầm cho đăng bài thơ Nhất định thắng của Trần Dần trong tạp chí Giai Phẩm Mùa Xuân. Tờ tạp chí bị tịch thu. Khi ông kết thúc đợt cải cách ruộng đất, trở về Hà Nội, Hội Văn nghệ tổ chức hội nghị phê bình bài thơ Nhất định thắng. Trần Dần bị kết án là đồ đệ của Hồ Phong, mất lập trường giai cấp, đi ngược lại đường lối của Đảng và bị giam trong nhà tù Hỏa Lò, Hà Nội; trong khi ở nhà bà Ngọc Khuê – vợ Trần Dần sinh con gái đầu lòng trong thiếu thốn, vất
  • 28. 24 vả. Tháng 9 cùng năm, báo Nhân Văn do Phan Khôi chủ nhiệm ra đời. Trong số 1 có đăng bài “Tiến tới xét lại một vụ án văn học: con người Trần Dần” của Hoàng Cầm. Trong đó, Hoàng Cầm đã đưa ra những lí lẽ và dẫn chứng nhằm giải oan cho Trần Dần trước sự tấn công của dư luận. Ngày 20-28/2/1956, Đại Hội văn nghệ toàn quốc lần thứ 2 tại Hà Nội với gần 500 đại biểu, kêu gọi đấu tranh đập nát luận điệu phản động của Nhân Văn - Giai Phẩm. Thành lập Hội Liên Hiệp văn học nghệ thuật Việt Nam. Ngày 1-5/4/1956, Hội nghị thành lập Hội Nhà Văn Việt Nam, nhà văn Tô Hoài làm tổng thư ký, cơ quan ngôn luận là báo Văn. Trong báo Văn số 28, ra ngày 15/11/1956, có đăng bài thơ Hãy đi mãi của Trần Dần. Cũng trong năm này, Trần Dần viết Bài thơ Việt Bắc (trường ca, xuất bản năm 1991). Đến 15/12/1956, báo Nhân Văn bị thông báo đóng cửa, khi mới chỉ ra được 5 số, và vẫn chưa giúp Trần Dần nhận được sự thấu hiểu của mọi người. Tháng 7/1958, cùng với các nghệ sĩ Nhân văn – Giai phẩm khác, Trần Dần chịu kỉ luật: bị khai trừ khỏi Hội nhà văn Việt Nam và bị đình chỉ xuất bản trong 3 năm. Trên thực tế, thời hạn này của ông kéo dài đến gần 30 năm. Sau đó, ông còn phải tham gia lao động cải tạo tại nông trường Chí Linh cùng với Lê Đạt, Đặng Đình Hưng, Tử Phác. Dù đang chịu nhiều gian khổ, bệnh tật và oan ức nhưng Trần Dần vẫn không nguôi chí hướng sáng tạo. Chỉ trong một năm 1959, ông cho ra đời ba tác phẩm: Sắc lệnh 59 (thơ), Con tầu xã hội (thơ), 17 tình ca (thơ). Và bắt đầu viết Cổng tỉnh (thơ-tiểu thuyết), đến năm 1960 thì hoàn thành (xuất bản lần đầu năm 1994). Tháng 11/1959, Trần Dần được phân công dịch tại ga-ra Hội Nhà Văn cùng với Lê Đạt, Phùng Cung, Nguyễn Khắc Dực. Năm 1960, ông lao động cải tạo tại khu gang thép Thái Nguyên và bị ốm nặng, trở về Hà Nội. Từ đây, sống âm thầm bằng nghề dịch sách và tô ảnh màu, đứng ngoài lề mọi sinh hoạt văn nghệ chính thống. “Im lặng trong cô đơn để viết tương lai”
  • 29. 25 Hoạn nạn là điều rủi trong cuộc đời Trần Dần nhưng có thể lại là điều may mắn cho sự nghiệp sáng tác của ông vì: “Hoạn nạn với người bình thường là tai họa, nhưng với những tài năng đích thực và nhân cách lớn thì đây là một món quà của tạo hóa để làm nên những việc phi thường” [154]. Những thăng trầm của số phận không khiến Trần Dần gục ngã, mà trái lại còn là “một cái may”, “được cái hoạn nạn” như lời ông tự an ủi mình để Trần Dần có điều kiện sống thật với mình và thỏa sức sáng tạo thơ văn theo ý mình. Vì sáng tác của ông không được xuất bản, lúc đó Trần Dần không cần phải bận tâm về sự khen chê, lẽ được mất – những điều mọi nhà văn đều băn khoăn khi phát hành tác phẩm. Trần Dần được thỏa thích thử nghiệm và làm mới thơ văn của mình. Nói về Trần Dần trong giai đoạn này, Phạm Thị Hoài gọi ông là “thủ lĩnh trong bóng tối”. Ông đã vượt qua nỗi cô đơn, sự lẻ loi của kẻ ngoài lề bằng những sáng tác vượt thời gian cả về số lượng lẫn chất lượng. Đây là giai đoạn sáng tác thăng hoa nhất trong cuộc đời Trần Dần và để lại nhiều tác phẩm có giá trị nghệ thuật nhất: Đêm núm sen (tiểu thuyết – 1961, chưa xuất bản), Jờ Joạcx (thơ – 1963), Mùa sạch (thơ – 1964), Một ngày Cẩm Phả (tiểu thuyết – 1965), Những ngã tư và những cột đèn (tiểu thuyết – 1966), Con trắng (thơ-hồi ký – 1967), 177 cảnh (hùng ca lụa – 1968), Động đất tâm thần (nhật kí-thơ – 1974), Thơ không lời – Mây không lời (thơ-họa – 1978), bộ tam Thiên Thanh-77-ngày ngày (1979), bộ tam 36-Thở dài-Tư mã zâng sao (1980), Thơ mini (1987). Trần Dần viết, cứ viết, không cần biết bao giờ được in. Ông viết một mình. Không độc giả. Bên cạnh những tác phẩm, Trần Dần còn để lại một khối lượng lớn các Ghi chép, Vở bụi, Sổ bụi, Sổ thơ,… Có lẽ Trần Dần không có ý định sáng tác khi viết những dòng ấy, nhưng trong hoàn cảnh một con người suốt ngày làm bạn với thơ văn và một lòng tận tụy chữ thì vô tình những ghi chép của ông cũng chứa đựng trong đó giá trị nghệ thuật nhất định. Trong những ghi chép này, Trần Dần tự
  • 30. 26 đối thoại với chính mình, với mọi người và cuộc sống. Viết như để tìm người tâm sự, để trút bỏ lòng mình. Không muốn liên lụy đến bạn bè, Trần Dần chọn cách an toàn nhất là “ghi”. Đây là những di cảo cho ta biết rõ nhất về lịch sử một thời đã qua và con người của Trần Dần cùng quan niệm nghệ thuật của ông. Năm 1988, ở Trung Quốc, Hồ Phong được phục hồi danh dự; cũng là lúc ở Việt nam, Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm,... được mời tham gia sinh hoạt văn học trở lại. Tháng 5, Trần Dần vào Huế gặp gỡ đồng nghiệp và bạn đọc. Từ đây, những “bản thảo nằm” của ông bắt đầu được xuất bản hàng loạt. Khởi đầu là năm 1991, trường ca Bài thơ Việt Bắc được xuất bản tại Hà Nội (NXB Tác Phẩm Mới). Tiếp đó, năm 1994, tiểu thuyết-thơ Cổng tỉnh (1960) được xuất bản tại Hà Nội, NXB Hội Nhà Văn. Một năm sau, Cổng tỉnh được trao giải thưởng của Hội Nhà Văn Việt Nam. Ông mất ngày 17 tháng 1 năm 1997 tại nhà riêng ở Hà Nội. Sau khi Trần Dần mất, tác phẩm của ông vẫn tiếp tục được xuất bản và đạt nhiều giải thưởng về văn học nghệ thuật. Năm 1998, tập thơ Mùa sạch được xuất bản tại Hà Nội (NXB Văn Học). Thế nhưng, dường như số phận vẫn dửng dưng với Trần Dần khi tuyển tập Trần Dần – Thơ xuất bản lần đầu năm 2008 bị đình chỉ phát hành và yêu cầu thu hồi lại. Nhờ sự can thiệp của các nhà văn, nhà nghiên cứu và bạn đọc mà quyết định này đã được xóa bỏ. Đứng trước tập thơ này, người đọc không khỏi ngạc nhiên bởi sự độc đáo, sáng tạo cũng như những gì nó chuyển tải. Người ta nhận ra bấy lâu nay đã biết rất ít về Trần Dần và thơ văn ông. Những sáng tác của Trần Dần khẳng định được sức sống dẻo dai của mình trên cuộc phiêu lưu tìm đến với độc giả. Tuyển tập này đã được giải Thành tựu trọn đời của giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội 2008 và giải thưởng Văn học - nghệ thuật thủ đô 2008. Năm 2010, Trần Dần làm người đọc một lần nữa ngỡ ngàng trước những thể
  • 31. 27 nghiệm của ông trong Những ngã tư và những cột đèn. Dù luôn đắm đuối cho thơ, vì thơ nhưng Trần Dần cũng để lại một di cảo văn xuôi không nhỏ. Người người lớp lớp đã thể hiện phần nào cái chí hướng sáng tạo của Trần Dần nhưng chỉ đến Những ngã tư và những cột đèn, Trần Dần mới thực sự làm cuộc bùng nổ những cách tân trong nghệ thuật tiểu thuyết. Tiểu thuyết Những ngã tư và những cột đèn được giải thưởng về văn xuôi của Hội nhà văn Hà Nội năm 2011. 1.2. Quan niệm nghệ thuật của Trần Dần 1.2.1. Khái niệm quan niệm nghệ thuật Khái niệm quan niệm nghệ thuật được sử dụng phổ biến trong phê bình nghiên cứu văn học, tuy nhiên, nội hàm của nó cho đến nay vẫn chưa có sự thống nhất cao trong giới chuyên môn. Theo Từ điển thuật ngữ văn học, quan niệm nghệ thuật là: “Nguyên tắc cắt nghĩa thế giới và con người vốn có của hình thức nghệ thuật, đảm bảo cho nó khả năng thể hiện đời sống với một chiều sâu nào đó” [45, 273]. “Quan niệm nghệ thuật thể hiện cái giới hạn tối đa trong cách hiểu thế giới và con người của một hệ thống nghệ thuật, thể hiện khả năng, phạm vi, mức độ chiếm lĩnh đời sống của nó” [45, 274]. Từ đó, các tác giả chỉ ra biểu hiện của quan niệm nghệ thuật ở những phương diện như: điểm nhìn nghệ thuật, chủ đề cảm nhận đời sống được hiểu như những hằng số tâm lí của chủ thể, ở kiểu nhân vật và biến cố mà tác phẩm cung cấp, ở cách xử lí các biến cố và quan hệ nhân vật. Khác với tư tưởng tác phẩm (thể hiện một thái độ với cuộc sống), quan niệm nghệ thuật chỉ cung cấp một mô hình nghệ thuật về thế giới có tính chất công cụ để thể hiện những cuộc sống cần phải có mang tính khuynh hướng khác nhau. Với tính chất công cụ đó, nó chẳng những cung cấp một điểm xuất phát để tìm hiểu nội dung của tác phẩm văn học cụ thể, mà còn cung cấp một cơ sở để nghiên cứu sự phát triển, tiến trình của văn học. Bởi lẽ, điều chủ yếu trong sự tiến hóa của
  • 32. 28 nghệ thuật và xã hội nói chung là đổi mới cách tiếp cận và chiếm lĩnh thế giới và con người. Quan niệm nghệ thuật trong văn học có liên hệ mật thiết với quan niệm về thế giới và con người của triết học, khoa học, tôn giáo... Tóm lại, quan niệm nghệ thuật là một hình thức của sự chiếm lĩnh đời sống, là hệ quy chiếu ẩn chìm trong hình thức nghệ thuật, nó gắn với các phạm trù phương pháp sáng tác, phong cách nghệ thuật làm thành thước đo của hình thức văn học và là cơ sở của tư duy nghệ thuật. Một cách giản dị nhưng khúc triết hơn, theo Trần Đình Sử thì trong nghệ thuật, “quan niệm nghệ thuật là giới hạn thực tế của tư duy nghệ thuật, nó thể hiện một hiện tượng khách quan là thể thống nhất giữa hiện thực được phản ánh và năng lực cắt nghĩa lí giải của con người” [119, 21]. Như vậy, tinh thần cơ bản của khái niệm quan niệm nghệ thuật chính là ở sự cắt nghĩa, lí giải hiện thực của nhà văn trong tác phẩm, khái niệm này cho chúng ta thấy rõ nhà văn ở phương diện nhận thức, thế giới quan. 1.2.2. Những nét chính trong quan niệm nghệ thuật của Trần Dần Nếu những năm tháng đầu đời và cả khi tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ lẫn khi Nhân Văn – Giai Phẩm đang nở rộ, Trần Dần đều háo hức, phấn khởi, say mê tham gia sáng lập những nhóm văn học để cùng nhau thực hiện mộng ước văn chương thì ở giai đoạn sau của cuộc đời, ông sống gần như câm lặng và không còn muốn bộc lộ mình như trước. Ông chìm vào bóng tối nhưng nói theo cách của Phạm Thị Hoài thì Trần Dần vẫn là “một thủ lĩnh”. Suốt mấy chục năm đứng bên lề, Trần Dần quên đi được cái tất bật của dòng đời, không bị cuộn xoáy theo dòng đời để có thể chìm sâu vào chính mình. Sự ẩn mình đó đem lại cho chúng ta một thành tựu văn học đáng nể trọng như đã nói ở trên và sự tò mò, khơi gợi khám phá. Khi bắt đầu tìm hiểu, những trang viết của Trần Dần đem lại cho người đọc niềm say mê của nhà khảo cổ học trước những di vật cổ xưa mới tìm thấy, nhưng cũng có cái khó khăn, gian
  • 33. 29 nan mà hấp dẫn, thú vị trước những bí ẩn của di vật chưa được xác định rõ ràng. Nó buộc người ta phải thao thức tìm ra một ngôn ngữ phù hợp để giải mã. Văn chương của Trần Dần cũng thế. Mỗi người đọc phải trang bị cho mình chìa khóa để mở cánh cổng ngôi đền thiêng của thế giới nghệ thuật Trần Dần. Và chìa khóa ấy, theo chúng tôi, chính là quan niệm nghệ thuật của Trần Dần. Đó là nhịp cầu dẫn lối cho người đọc bước vào thế giới thơ văn của ông. Từ Tuyên ngôn thơ tượng trưng của Dạ Đài, Trần Dần đã bộc lộ không ít những suy ngẫm về thơ nói riêng và văn chương nói chung. Nhưng chỉ đến khi đằm mình xuống để viết trong im lặng và cô đơn, quan niệm nghệ thuật của Trần Dần mới được hoàn thiện và thể hiện trọn vẹn qua những vở bụi, sổ bụi, sổ thơ. Trải qua nhiều biến cố lớn trong cuộc đời và văn nghiệp, quan niệm nghệ thuật của Trần Dần tuy có sự nhất quán nhưng vẫn biến thiên tùy từng thời kì chứ không bất biến. Điều này thể hiện rõ nhất trong quan niệm của ông về đặc trưng của thơ. Những quan niệm nghệ thuật của Trần Dần hầu hết được thể hiện dưới dạng hiển ngôn trong nhật kí của ông. Ngoài ra, mỗi tác phẩm của Trần Dần có thể coi đó như những hàm ngôn về quan niệm nghệ thuật. Trong luận văn này, chúng tôi chỉ xem xét những quan niệm nghệ thuật được Trần Dần trực tiếp phát biểu trong nhật kí còn lưu lại của ông. Còn quan niệm dưới dạng hàm ngôn sẽ không xét tới. Tìm hiểu về quan niệm nghệ thuật của Trần Dần, chúng tôi xuất phát từ quan niệm của ông về nhà văn, “người thơ”, “khách thơ” - chủ thể của sáng tạo văn học và quan niệm của ông về thơ (cũng là về văn chương nói chung); từ đó tìm hiểu quan niệm của Trần Dần về cái viết – lao động của nhà văn (hoạt động tạo nên tác phẩm). Trong quá trình viết thì chất liệu sáng tác – chữ là đối tượng được Trần Dần đặc biệt quan tâm. Và cuối cùng là quan niệm của Trần Dần về cái đọc của độc giả (tiếp nhận tác phẩm).
  • 34. 30 1.2.2.1. Quan niệm về sứ mệnh, đặc trưng của thơ văn và người thơ (người sáng tạo)  Quan niệm về sứ mệnh của thơ văn Cũng như bao người sáng tạo khác trên thế giới từ xưa đến nay, Trần Dần nhấn mạnh giá trị to lớn của thơ văn “xây một tập thơ là phá một nhà tù” (Sổ thơ 1974). Thơ nói riêng và văn học nói chung có sức lay động lòng người, đem đến bao điều tốt đẹp, hướng con người đến chân, thiện, mỹ. Tư tưởng này của Trần Dần không có gì mới nhưng cách nói lại ấn tượng bởi sự gai góc trong sự đối lập và sự đa nghĩa của nó. Tập thơ >< nhà tù, xây >< phá: những yếu tố đối nhau chan chát về chữ và nghĩa. Nhà tù không chỉ hiểu theo nghĩa đơn giản là nơi giam giữ những con người bị tước mất quyền công dân; mà nhà tù ở đây còn phải hiểu là vòng trói buộc tự do của người nghệ sĩ, là những định kiến ẩn mình trong văn hóa, xã hội, ngôn ngữ khiến cho thơ văn không cất mình lên nổi; là lớp nghĩa ngàn đời cư ngụ trong chữ. Phá nhà tù không chỉ là khiến cuộc sống thanh bình hơn, con người trở nên tốt đẹp hơn mà còn là con đường vượt thoát khỏi gông cùm của những gì đã cũ, vượt qua định kiến về nghĩa của từ, đưa thơ văn đến tầm cao mới. Từ đó sứ mệnh của thơ văn được đề cao. Trần Dần còn cho rằng khả năng của thơ văn là vô hạn vô bờ. Trong tiểu luận Thơ là cái gì, ông đưa ra một vài giá trị của thơ văn như: giải trí, nhà trường (giáo dục), khoa học sống (nhận thức), khoa học về tương lai (khả năng dự báo),… Những khoa học khác cũng có khả năng nhận thức nhưng theo Trần Dần, khả năng nhận thức ở thơ văn khác hẳn các khoa học khác là ở chỗ nó là “một phương pháp màu nhiệm nhận thức vũ trụ, xã hội, con người một cách trọn vẹn và đầy đủ” [32] bậc nhất. Muốn được như thế, con người phải nhận thức bằng toàn bộ khả năng của mình.
  • 35. 31 Khi nói về khả năng làm chính trị của thơ, Trần Dần không cho rằng thơ đứng hoàn toàn bên ngoài chính trị như một số người đổ oan cho ông mà chỉ cho rằng phải làm được thứ “thơ phục vụ chính trị” không phải trong 24 giờ mà trong triệu triệu năm. Theo chúng tôi, đây là một quan niệm có sức phổ quát của Trần Dần. Bởi lẽ, thơ xưa nay phục vụ chính trị là phục vụ cho một hệ tư tưởng nhất định nào đó; còn Trần Dần muốn thơ phục vụ cho tất cả mọi thể chế, trong mọi thời đại. Như vậy, thơ chính trị là thơ vì con người, vì cuộc sống hạnh phúc của con người bởi lẽ suy cho cùng, có chế độ chính trị nào ra đời mà không vì sự tiến bộ của nhân loại? (trừ một vài chế độ độc tài đã xuất hiện rất ngắn trong lịch sử). Với quan niệm đó, Trần Dần tâm niệm: Tôi vẫn đóng những câu thơ Như người thợ đóng tàu Chở khách Đi về phía trước Nơi Loài người Đã biết sống chung nhau Nơi Tất cả - Chẳng còn ai bần tiện chẳng còn lo cơm áo nợ nần. (Hãy đi mãi) Thơ văn – với Trần Dần bên cạnh là “thuốc chữa cho ta, bệnh sống” (Sổ thơ 1975), là “mạng sống, là lý lịch thật” của cuộc đời Trần Dần thì còn là một nét đẹp cho đời, còn góp phần dẫn tới một cuộc sống hạnh phúc hơn.
  • 36. 32  Quan niệm về đặc trưng của thơ Sứ mệnh của thơ văn cao cả như vậy nên dĩ nhiên Trần Dần cũng không hề dễ dãi với thơ văn. Ông có những quan niệm về đặc trưng của thơ tùy từng thời kì. Do luận văn tìm hiểu về nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần nên lẽ ra quan niệm của Trần Dần về đặc trưng của thơ sẽ không được nhắc tới. Nhưng trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy quan niệm về thơ của Trần Dần có liên quan đến hành trình sáng tạo tiểu thuyết của ông. Với mỗi giai đoạn trong cuộc đời mình, Trần Dần có cách nghĩ về thơ khác đi, sáng tác thơ khác đi thì tương ứng đó, ông cũng có sự thay đổi trong những thử nghiệm về tiểu thuyết tùy từng thời kì. Đặc biệt, những quan niệm về ngôn ngữ, về chữ của Trần Dần trong đặc trưng của thơ đã chi phối toàn bộ sáng tác của ông, kể cả ở mảng văn xuôi. Do đó, chúng tôi vẫn đưa ra một cách sơ lược quan niệm nghệ thuật về đặc trưng của thơ như một nền tảng, bước đệm cho việc tìm hiểu những quan niệm nghệ thuật khác của Trần Dần. Từ đó, soi rọi vào tiểu thuyết của nhà văn để làm sáng tỏ một số vấn đề như biểu hiện của sự cách tân về chủ thể trần thuật, về ngôn từ, lí giải nguyên nhân của những cách tân đó,… Thời Dạ Đài, Trần Dần cũng như những nhà thơ khác trong nhóm thơ Tượng trưng đều mong muốn làm được thứ thơ “bất phương chủ nghĩa”. Tức là thơ không tuân theo bất cứ một quy tắc, khuôn khổ gò ép nào. Có như thế thơ của Dạ Đài mới có thể chôn Thơ Mới như tác giả của nó mong muốn. Chủ đích của nhóm hướng tới là trả thơ ca về nguồn gốc cổ xưa của nó, tái hiện lại những mẫu gốc theo lý thuyết phân tâm học của C.Jung. Trong Dạ Đài, quan trọng nhất phải kể đến quan niệm của Trần Dần về ngôn ngữ. Vì đây là hạt nhân chi phối toàn bộ sáng tác của Trần Dần sau này: “Phải lập lại ngôn ngữ trần gian, phải gột bỏ cho mỗi chữ cái tâm tình dung tục cũ” [27], thêm vào
  • 37. 33 đó, phải tạo được âm nhạc trong thơ, vì “nói đến âm nhạc trong thơ là phải nói đến sức gợi khêu của chữ”. [30, 56]. Trong giai đoạn sau, cuộc kháng chiến của dân tộc đòi hỏi người làm văn học phải có những sáng tác gần gũi và thiết thực hơn. Trần Dần dù có những thể nghiệm lạ nhưng ông vẫn chủ yếu lựa chọn như phần đông các nhà văn thế hệ mình, dốc hết lòng mình cho cách mạng. Thời gian này, quan niệm nghệ thuật không có gì đặc biệt nhưng lại khiến Trần Dần có được “cái tôi chạm sử thi” mà biểu hiện rõ nhất là ở tác phẩm Người người lớp lớp, Đi! Đây Việt Bắc! Hòa bình lập lại ở miền Bắc, qua những trang Ghi của Trần Dần, ta thấy sự mâu thuẫn, giằng xé trong nội tâm Trần Dần và những năm tháng đau đớn này đã khiến ông hình thành quan niệm nghệ thuật riêng của mình khi phải sống trong nỗi uất ức. Lúc này ông mong muốn một thứ thơ “giải quyết được những mâu thuẫn giữa tôi với người ta và giữa tôi với tôi” [29]. Mệt mỏi trong cuộc đời, Trần Dần lúc này chỉ ao ước “tôi muốn một thứ thơ kèm theo muôn vàn nghĩa, có buồn tủi, sầu khổ, đầm nước mắt, thơ bao trùm đất nước và thời gian, ăn lấn sang mọi thế kỷ, nhập vào cái biện chứng bao la của sự vật” [29]. Người người lớp lớp khi được nghiên cứu kĩ lưỡng, chúng ta thấy dù viết theo khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn thời ấy nhưng vẫn chứa đựng nét riêng của Trần Dần rất rõ, nhất là qua ngôn từ nghệ thuật. Thế nhưng, nó lại bị chính cha đẻ của mình chối bỏ vì nó “chưa phải là chiến tranh. Tôi muốn viết về chiến tranh với quan niệm cuộc sống cởi truồng – cuộc sống như nó là chứ không phải nên là” [29]. Ông cũng đặt ra những yêu cầu đối với bản thân người cầm bút “phải làm cho giầu có kho văn tự sần sùi, cát bụi, bùn lầy, gân gổ” [29]. Đồng thời chỉ ra kẻ thù của nghệ thuật là “những hình ảnh có sẵn, lối tạo hình dễ dãi, tầm thường… sự dối trá, công thức trong đời sống và nghệ thuật” [29].
  • 38. 34 Đến thời hậu Nhân văn, Trần Dần đồng nhất thơ vào chữ. Trước đó, Trần Dần vẫn chịu ít nhiều ảnh hưởng của quan niệm truyền thống về sức mạnh và sứ mạng của thơ ca nghệ thuật. Nhưng đến thời điểm này, khi đứng ngoài lề văn học và chỉ có những con chữ cùng phiêu du qua miền thăm thẳm của nỗi đau, Trần Dần đã vượt thoát khỏi nhà tù của quan niệm cũ, mà cùng với Lê Đạt, Đặng Đình Hưng, Hoàng Cầm,… mở ra một quan niệm mới về thơ – thơ Dòng chữ. “Thơ vì thơ tuyệt đối? Hễ bất cứ cái gì, dù cao quý mấy, thơ sẽ chẳng còn là thơ?” [52]. Thời gian này Trần Dần thử nghiệm lối thơ lấy chữ làm yếu tố sáng tạo hàng đầu. Đặt chữ trên nghĩa. Một loạt những tác phẩm có thể gọi là thơ hình thức, thơ thị giác của Trần Dần như Jờ Joạcx, Con OEE, Hậu con OEE, Con I, Con trắng,… được ra đời. Bên cạnh đó, Trần Dần còn nỗ lực vượt qua rào cản ngàn đời của thể loại bằng cách sáng tác thơ- tiểu thuyết, là sự hòa trộn giữa hai thể loại vốn có một ranh giới rõ ràng dù đôi lúc có giao nhau một vài điểm. Trần Dần gọi Cổng tỉnh là thơ-tiểu thuyết - một bè đệm, một tác phẩm nằm trên lằn ranh của tiểu thuyết và thơ. Trần Dần cũng đem đến cho hùng ca một sự mới mẻ khi sáng tác hùng ca lụa 177 cảnh. Thơ của ông như là sự hợp nhất giữa đen và trắng, đêm và ngày, của những đối lập tuyệt đối mà lại hòa hợp tuyệt vời.  Quan niệm về người thơ (người sáng tạo) Thơ trong quan niệm của Trần Dần có ý nghĩa lớn lao như vậy nhưng Trần Dần cũng nhận ra văn chương là thứ mơ hồ, khó nắm bắt và luôn đòi hỏi sự không lặp lại. Nghề văn là nghề gây sự chữ. Vì vậy, người sáng tác - nhà văn, nhà thơ (hay Trần Dần còn gọi là thi sĩ, người sáng tạo, khách thơ, nhà thơ,…) cũng phải có những phong cách và năng lực nhất định, có những yêu cầu khắt khe để có thể sáng tạo. Trước hết, người sáng tạo phải hiểu rõ sứ mệnh của mình. Trong tiểu luận Thơ là cái gì mới được công bố giữa năm nay, Trần Dần khuyên người thi sĩ
  • 39. 35 hãy: “sống nhiều, học nhiều, bất mãn nhiều, làm thơ nhiều”. Nếu sống nhiều và học nhiều, thậm chí làm thơ nhiều không có gì lạ đối với người nghệ sĩ thì bất mãn nhiều lại là điều lạ lùng. Bất mãn ở đây không phải là chán ghét con người và cuộc sống mà là luôn tìm thấy những vấn đề mới, luôn nảy ra những ý tưởng mới, để phủ định những cái-cũ-quen-thuộc của bao thế hệ, của bao người và quan trọng hơn là của chính mình. Làm thơ nhiều cũng phải hiểu theo nghĩa chất lượng, không phải cứ khối lượng đồ sộ mà thành tác giả lớn. Đôi khi, chỉ một bài thơ mà anh hoa phát tiết như Ông đồ của Vũ Đình Liên còn hơn làm nhiều mà không ai nhớ được câu nào. Những thứ đó rõ ràng “thực là tổn thọ, sống được ít thôi, nhưng thực là nhiều”. Nhiều vì nó sẽ giúp cho tác giả có được khả năng mà bất kì nghệ sĩ nào cũng mong muốn: khả năng sáng tạo. Với Trần Dần, không có gì đáng xấu hổ hơn là một con người ù lì không có bất cứ ý tưởng mới nào cho cuộc sống và văn học. Người bình thường sống không sáng tạo đã thấy chán, thấy nhàm. Nghệ sĩ không sáng tạo không chỉ là một sự sỉ nhục mà còn là đi vào con đường tử: “Đừng viết cái gì không rơm rớm bên kia? Không ngạc nhiên chính mình?” (Sổ bụi 1983). Bên kia là thế giới cao siêu, sâu rộng, khoáng đạt của thơ. Để văn chương chạm được tới bản chất thăm thẳm của thế giới bên kia ấy - tức là chạm vào bản chất của văn chương, kẻ viết phải “Đạp đổ chân trời?xổng xích các chân mây?” (Sổ bụi 1985). Câu nói của Trần Dần chứa những hình ảnh và từ ngữ gây một ấn tượng về sự bộc phá, tấn công vào những vỉa tầng cũ kỹ để từ đó cái-chưa-ai-biết được thoát ra - đó chính là mục đích của quá trình sáng tạo. Người sáng tạo là người viết cái chưa biết. Đây là quan niệm lâu đời trong văn học, nó nói về mỗi tác giả cần có một sự độc đáo - có giọng nói riêng của mình. Điều này là tiêu chuẩn đầu tiên và quan trọng nhất để xác định một tài năng văn học. Trần Dần gọi đó là cái “chữ ký riêng” của một người sáng tạo, nhưng lẽ dĩ
  • 40. 36 nhiên “còn phải xem kỹ cái chữ ký ấy nó như thế nào, nhưng mức tối thiểu là phải đạt được như vậy” [61]. Chữ ký là cái người khác có thể bắt chước nhưng không thể giống hệt như anh được. Nó cũng không thể làm giả, đồng thời lại thể hiện rõ nhất phong cách nghệ thuật của tác giả. (Cũng giống như dựa vào chữ kí, thầy bói và những nhà xem tướng số có thể nói về vận mệnh, đường đời của con người một cách gần như chính xác vậy). Trần Dần cũng xác định điều kiện tiên quyết của sáng tạo là tự do. “Người thi sĩ sáng tạo không theo lệ nào, luật nào cả” [32]. Anh phải tìm ra “những lệ mới, luật mới, tự mình thành ra một người mới” trong đó “ý thích của tôi là tiêu chuẩn tối cao” [32]. Tự do - theo cách nói của Trần Dần - tức là vượt thoát, giải phóng bản thân khỏi mọi khuôn mẫu, lề thói; khỏi những định kiến che lấp tầm liên tưởng, tưởng tượng của con người - đặc biệt là tầm sáng tạo. Trong cách nói của Trần Dần có gì đó mang hơi hướng thiền: “Người thi sĩ muốn trở nên sáng tạo thì việc chính là phải giết tâm mình đi để làm sáng cái tâm nhân đạo của mình. Chọc mắt cho mù, để mà nhìn thấu bốn cõi. Đập óc cho vỡ, để mà thấu luật nghìn đời.” [32] Sự sáng tạo phải được tự do, theo ý mình chưa đủ mà còn phải đừng “chấp” vào cái gì cả thì mới có thể thấu thị được tuyệt đỉnh của nhận thức về cuộc đời và từ đó tác phẩm của người sáng tạo mới có giá trị vì lúc đó “Thơ không còn là thơ nữa, mà là một sự nhận thức đầy đủ trọn vẹn, mọi mặt về con người, sự sống, vũ trụ và xã hội” [32]. Vượt qua được chữ “chấp” của bản thân trong cách nhìn mọi sự theo quan niệm nhà Phật rất khó. Bởi thế, xưa nay có mấy vị thiền sư đạt đến cõi tịnh độ, cũng chẳng có mấy tác giả khiến người ta phải rùng mình thán phục trước những ý ngộ cao siêu, sâu thẳm. Nhưng đó chưa phải là khổ ải cuối cùng mà người sáng tạo phải vượt qua để đạt được đến tự do và thăng hoa trong sáng
  • 41. 37 tạo. Theo Trần Dần, còn một Hy Mã Lạp Sơn vời vợi để thử sức người sáng tạo là “hoạn nạn”, đớn đau người nghệ sĩ phải trải qua trong quá trình sáng tác - nỗi đau từ chính sự hoài thai, mang nặng đẻ đau đứa con tinh thần và từ những nghịch cảnh éo le của số phận: “Người thi sĩ đã là người chịu nhiều thành kiến, khinh bỉ.” [32] Một thực tế cũng cho thấy rằng trong xã hội, người ta ít thích nhà thơ, nhà văn - xem họ là những người “sống trên mây” và không thực tế. Công việc của họ khó hiểu lại còn ít có giá trị về kinh tế (có lẽ điều này hôm nay không còn đúng với một số tác giả có sách best sellers, nhưng thực sự, trong vô vàn tác giả có sách bán chạy đó, ai là người trụ được với thời gian thì còn phải xem xét và chờ đợi). Còn những “người-thi-sĩ-sáng-tạo nữa thì không còn để đâu cho hết thành kiến, khinh bỉ” [32]. Sáng tạo - là đem đến một cái mới - cái khơi gợi hứng thú với những người mong muốn khám phá những bí ẩn của cuộc sống, con người - cũng là cái gợi lên sự ghét bỏ của những ai thích bình yên với những gì đã cũ, dù cái đã cũ không còn là hiện thực của cuộc sống hiện tại nữa. Người theo dạng thứ nhất thì hiếm hoi, còn loại theo dạng thứ hai thì dai dẳng và nhiều vô kể nên bất công, hiểu lầm, hoạn nạn là điều tất yếu. Người viết phải là kẻ bất biết thị phi, không tùy thời cúi ngửa. Người viết phải dám bứt mình ra khỏi quỹ đạo quen thuộc để tìm đến chân trời mới. Đó mới là tự do sáng tạo tuyệt đối. Nhưng cũng vì thế, người sáng tạo “phải chịu hiểu lầm, chịu những sấm sét của cái cũ nó phản công. Vì người sáng tạo là kẻ thù không đội trời chung của cái cũ. Mà cái cũ nó không chịu chết ngay, nó nhiều kế độc, hại ngầm và hại ra mặt” [32]. Hơn nữa, “Cái mới ở trong văn nghệ cũng như mọi cái mới, nhiều khi nó không được đẹp đẽ, còn thô thiển, méo mó có khi. Vì nó là một cái thai đang thành. Một cái mầm đang lớn” [32]. Cái mới là sự thử nghiệm và không phải khi nào cũng thành công. Nếu trong khoa học tự nhiên, Edison để tìm ra chất liệu làm dây tóc bóng đèn
  • 42. 38 phải thử đến hơn 2000 mẫu kim loại, thì trong văn chương cũng vậy. Để có được một cách viết mới độc đáo, có khả năng mở ra những chân trời bát ngát, người nghệ sĩ cũng phải vật vã với những con chữ biết bao lần, với biết bao người và đôi khi qua nhiều thế hệ. Vì vậy, Trần Dần dù một đời quyết liệt cho sự cách tân thơ văn nhưng vẫn tự nhắc nhở mình “Đừng có mơ tưởng một cái mới toàn diện” ngay từ lúc đầu. Cái mới ban đầu có thể không được thừa nhận mà còn bị cái cũ lấn lướt, lợi dụng. Đôi khi, cái mới ấy cũng không có giá trị gì nhiều nhặn (vì chỉ là thử nghiệm) nên Trần Dần đã “tôi đã đốt tôi không chỉ đôi lần”. Người sáng tạo là “đại biểu cho tương lai” nên họ “chỉ được làm chủ ở tương lai”. Kiên quyết sáng tạo và giữ vững niềm tin của mình thì chắc chắn “sau rốt cái mới thắng”. Đây có lẽ là quan niệm nghệ thuật đã giúp Trần Dần đi qua những thăng trầm của số phận và những hoạn nạn trong đời một cách dễ dàng hơn. Người sáng tạo không chỉ là người dám tạo ra cái mới, còn phải là người dám bảo vệ cái mới đến cùng. “Không bao giờ chịu thua cản trở - dù oái oăm, tai ác đệ nhất” [32]. Tinh thần ấy cùng tâm niệm này giúp Trần Dần vững vàng trước bão táp phong ba: “Nghiệp đau còn nặng. Người sáng tạo còn phải dạ lim trí sắt. Mà cũng là hay – Qua lửa mới biết được vàng thực, vàng giả.” [32] 1.2.2.2. Quan niệm về viết Trần Dần muốn mình là “một ngôi người đến chết viết-không-nguôi”. Cái viết như một ám ảnh với Trần Dần. Ông không chỉ đằm mình xuống để viết mà còn có những quan niệm về cái viết. Viết - hiểu đơn giản là “một hoạt động sáng tạo, là viết trong ý hướng sáng tạo, nghĩa là, trước hết, để tạo ra một cái đẹp bằng chữ nghĩa; và thứ hai, để vượt lên chính mình” [118]. Bất cứ một nhà văn, nhà thơ nào, khi viết đều phải làm được hai điều này: thứ nhất, tạo nên một tác phẩm giá trị khác hẳn so với tất cả những giá trị đã có trước đó, thứ hai, phải tự làm mới cái viết của mình, phải nhảy qua bóng