SlideShare a Scribd company logo
1 of 115
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
………/……… .…../……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGUYỄN THỊ TÚ VƢƠNG
MỐI QUAN HỆ GIỮA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN
DÂN TỈNH VÀ CƠ QUAN CẢNH SÁT ĐIỀU TRA
TỈNH PHÚ YÊN TRONG ĐIỀU TRA
VỤ ÁN HÌNH SỰ
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp – Luật Hành chính
Mã số: 60 38 01 02
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS LÊ THỊ HƢƠNG
THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn với đề tài “Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát
nhân dân tỉnh và Cơ quan cảnh sát điều tra tỉnh Phú Yên trong điều tra vụ
án hình sự” là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi. Các số
liệu trong luận văn có nguồn gốc, do học viên tự thu thập và chịu trách
nhiệm, kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được
công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu khoa học nào trước đây.
Phú Yên, ngày tháng năm 2017
Học viên
Nguyễn Thị Tú Vƣơng
Lời Cảm Ơn
Trong thời gian học tập täi Học viện hành chính Quốc gia,
tôi đã được Quý Thæy giáo, Cô giáo cûa Học viện hành chính
Quốc gia nói chung và Khoa Nhà nước và Pháp luật, khoa Sau
đäi học nói riêng đã truyền đät những kiến thức xã hội và chuyên
môn vô cùng quý giá câ về lý thuyết và thực tiễn. Những kiến thức
hữu ích đó sẽ là hành trang giúp tôi trưởng thành và tự tin thực hiện
công việc chuyên môn ngày càng tốt hơn và hiệu quâ hơn.
Trước hết, tôi xin chån thành câm ơn tới Quý Thæy, Cô
giáo Học viện Hành chính Quốc gia. Phòng đào täo sau đäi học,
khoa Nhà nước và Pháp luật cûa Trường đã cho phép và täo điều
kiện tốt nhçt để tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi xin bày tô lòng biết ơn såu sắc tới PGS. TS. Lê
Thị Hương là người trực tiếp hướng dẫn tôi trong suốt quá trình
học tập nghiên cứu và hoàn thành luận văn này.
Tôi xin câm ơn tới Viện kiểm sát nhån dån tînh Phú Yên
và Cơ quan cânh sát điều tra tînh Phú Yên đã giúp đỡ và täo mọi
điều kiện thuận lời cho tôi hoàn thành luận văn.
Học viên
Nguyễn Thị Tú Vương
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA VIỆN
KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP TỈNH VÀ CƠ QUAN CẢNH SÁT ĐIỀU TRA
CẤP TỈNH TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ .............................................9
1.1. Khái quát về Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh và Cơ quan cảnh sát điều tra
cấp tỉnh trong điều tra vụ án hình sự ......................................................................9
1.1.1. Nhận thức chung về điều tra vụ án hình sự..............................................9
1.1.2. Thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh trong điều tra vụ án
hình sự ..............................................................................................................12
1.1.3. Thẩm quyền của Cơ quan cảnh sát điều tra cấp tỉnh trong điều tra vụ án
hình sự ..............................................................................................................15
1.2. Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh và Cơ quan cảnh sát điều
tra cấp tỉnh trong điều tra vụ án hình sự ...............................................................16
1.2.1. Bản chất mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh và Cơ quan
cảnh sát điều tra cấp tỉnh trong điều tra vụ án hình sự ...................................16
1.2.2. Đặc điểm của mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh và Cơ
quan cảnh sát điều tra cấp tỉnh trong điều tra vụ án hình sự ..........................27
1.2.3. Nội dung mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh và Cơ quan
cảnh sát điều tra cấp tỉnh trong điều tra vụ án hình sự ...................................30
1.2.4. Các hình thức thể hiện mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân cấp
tỉnh và Cơ quan cảnh sát điều tra cấp tỉnh trong điều tra vụ án hình sự ........36
Kết luận chương 1.................................................................................................38
Chương 2: TÌNH HÌNH TỘI PHẠM VÀ THỰC TRẠNG MỐI QUAN HỆ
GIỮA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH VÀ CƠ QUAN CẢNH SÁT
ĐIỀU TRA TỈNH PHÚ YÊN TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ .............39
2.1. Tình hình tội phạm và kết quả điều tra vụ án hình sự tại tỉnh Phú Yên ........39
2.1.1. Tình hình tội phạm tại tỉnh Phú Yên.......................................................39
2.1.2. Kết quả điều tra vụ án hình sự tại tỉnh Phú Yên ....................................41
2.2. Thực trạng mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân tỉnh và Cơ quan cảnh
sát điều tra tỉnh Phú Yên trong điều tra vụ án hình sự .........................................44
2.2.1. Trong giai đoạn tiếp nhận và giải quyết tin báo, tố giác tội phạm, kiến
nghị khởi tố.......................................................................................................44
2.2.2. Trong khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can ...........................................48
2.2.3. Trong áp dụng, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn ..................................51
2.2.4. Trong tổ chức điều tra, thu thập, củng cố chứng cứ chứng minh tội
phạm .................................................................................................................54
2.2.5. Trong kết thúc điều tra, đề nghị xử lý vụ án...........................................60
2.3. Đánh giá chung về mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Yên
và Cơ quan cảnh sát điều tra tỉnh Phú Yên trong điều tra vụ án hình sự .............62
2.3.1. Ưu điểm và nguyên nhân của ưu điểm ...................................................62
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân của hạn chế....................................................65
Kết luận chương 2.................................................................................................70
Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG MỐI QUAN HỆ GIỮA VIỆN
KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH VÀ CƠ QUAN CẢNH SÁT ĐIỀU TRA TỈNH
PHÚ YÊN TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ.............................................71
3.1. Sự cần thiết tăng cường mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân tỉnh và Cơ
quan cảnh sát điều tra tỉnh Phú Yên trong điều tra vụ án hình sự ........................71
3.2. Một số giải pháp tăng cường mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
và Cơ quan cảnh sát điều tra tỉnh Phú Yên trong điều tra vụ án hình sự .............74
3.2.1. Nâng cao nhận thức của Kiểm sát viên và và Điều tra viên về vai trò và
mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân tỉnh và Cơ quan cảnh sát điều tra
tỉnh Phú Yên trong điều tra vụ án hình sự........................................................74
3.2.2. Tiếp tục hoàn thiện và thể chế hóa bằng văn bản pháp luật về mối quan
hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân tỉnh và Cơ quan cảnh sát điều tra tỉnh trong
điều tra vụ án hình sự.......................................................................................78
3.2.3. Xây dựng cơ chế thực thi mang tính pháp lý về mối quan hệ giữa Viện
kiểm sát nhân dân tỉnh và Cơ quan cảnh sát điều tra tỉnh trong điều tra vụ án
hình sự ..............................................................................................................85
3.2.4. Tăng cư ng ngu n nhân lực của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh và Cơ
quan cảnh sát điều tra tỉnh Phú Yên trong điều tra vụ án hình sự ..................89
Kết luận chương 3.................................................................................................99
KẾT LUẬN............................................................................................................100
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
CHỮ VIẾT TẮT VIẾT ĐẦY ĐỦ
ANĐT An ninh điều tra
BCA Bộ Công an
BLHS năm 2015 Bộ luật Hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam số 100/2015/QH13 ngày 27 tháng 11
năm 2015
BLTTHS năm 2003 Bộ luật Tố tụng Hình sự nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam số 19/2003/QH11 ngày 26
tháng 11 năm 2003
BLTTHS năm 2015 Bộ luật Tố tụng Hình sự nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam số 101/2015/QH13 ngày 27
tháng 11 năm 2015
CAND Công an nhân dân
CQĐT Cơ quan điều tra
CQCSĐT Cơ quan cảnh sát điều tra
ĐTV Điều tra viên
ĐTVAHS Điều tra vụ án hình sự
KSV Kiểm sát viên
TAND Tòa án nhân dân
TP Thành phố
TTHS Tố tụng Hình sự
UBND Ủy ban nhân dân
VAHS Vụ án hình sự
VKSND Viện kiểm sát nhân dân
VKSNDTC Viện kiểm sát nhân dân tối cao
XHCN Xã hội chủ nghĩa
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn
Đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật là cuộc đấu tranh gay
go, phức tạp và lâu dài, gắn liền với việc thực hiện các mục tiêu ổn định chính trị,
xã hội, phát triển kinh tế. Đảng và Nhà nước ta luôn xác định đó là nhiệm vụ của
toàn Đảng, toàn dân, của các ngành, các cấp, là một cuộc đấu tranh toàn diện, đồng
bộ bằng nhiều biện pháp và trên mọi lĩnh vực, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong
công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm và các vi phạm pháp luật, các cơ quan
tư pháp giữ vai trò nòng cốt.
Trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật luôn
đòi hỏi phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa các cơ quan trong việc thực hiện mục tiêu,
nhiệm vụ chung. Sự đòi hỏi này xuất phát từ nguyên tắc tổ chức quyền lực Nhà
nước ta, tại Điều 2 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Quyền lực nhà nước là thống
nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Quyền lực Nhà nước ta tập
trung thống nhất ở Nhân dân, Nhân dân là chủ thể của quyền lực Nhà nước. Nhân
dân thực hiện quyền lực chủ yếu thông qua Quốc hội - cơ quan đại biểu cao nhất
của Nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất. Quốc hội chủ yếu trực tiếp
giám sát các cơ quan Nhà nước ở Trung ương như Chính Phủ, Tòa án nhân dân,
Viện kiểm sát nhân dân. Quốc hội phân công Viện kiểm sát nhân dân (sau đây gọi
tắt là VKSND) là cơ quan thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp;
Cơ quan cảnh sát điều tra (sau đây gọi tắt là CQCSĐT) thực hiện nhiệm vụ điều tra,
trực thuộc hệ thống hành pháp.
Trong tiến trình cải cách tư pháp, yêu cầu về việc tăng cường mối quan hệ
giữa VKSND và CQCSĐT luôn được đặt ra trong các Nghị quyết của Bộ Chính trị
về cải cách tư pháp (Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02 tháng 01 năm 2002 về một
số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp sắp tới, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
2/6/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020). Theo đó: “cần tăng cường
sự phối hợp giữa các cơ quan tư pháp trong hoạt động tố tụng trên cơ sở thực hiện
2
đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan, không hữu khuynh hoặc
đùn đẩy trách nhiệm” [3, tr.4].
Trong những năm qua, VKSND và CQCSĐT đã nỗ lực không ngừng để đổi
mới, nâng cao chất lượng công tác, trên thực tiễn đã đạt và vượt các chỉ tiêu của
Quốc hội giao về nâng cao tỷ lệ giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị
khởi tố, tỷ lệ giải quyết án trong giai đoạn điều tra, truy tố; giảm tỷ lệ các vụ án phải
trả hồ sơ để điều tra bổ sung, hạn chế đến mức thấp nhất số vụ án bị oan, sai hoặc
bỏ lọt tội phạm, bảo đảm tốt hơn quyền con người, quyền công dân…
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác thực hành quyền công tố và kiểm
sát hoạt động điều tra của VKSND; công tác điều tra của CQCSĐT còn để xảy ra
tình trạng bỏ lọt tội phạm và người phạm tội trong các lĩnh vực, hiện tượng oan, sai
vẫn còn tồn tại; án tồn đọng nhiều, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân vẫn còn
bị xâm phạm… Trong đó có nhiều nguyên nhân từ chất lượng, hoạt động của
CQCSĐT, vai trò của VKSND cũng như mối quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT
trong điều tra vụ án hình sự (ĐTVAHS) chưa đảm bảo về chất lượng, hiệu quả.
Mặt khác, thực tiễn thi hành Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003 và
Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự năm 2004 đến nay, cho thấy, bên cạnh những
kết quả đạt được, cũng đã nảy sinh không ít những khó khăn, bất cập; Tiếp đó
BLTTHS năm 2015, Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 2015 bị hoãn thi hành do còn
một số điều cần sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện hệ thống pháp luật và phù hợp với
tình hình mới. Vì vậy, để nhận thức đúng đắn, đầy đủ hơn về bản chất, đặc trưng,
nội dung, hình thức và cơ chế đảm bảo thực hiện mối quan hệ giữa VKSND và
CQCSĐT là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn hết sức quan trọng, góp phần
nâng cao chất lượng và hiệu quả mối quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT trong
ĐTVAHS.
Từ thực tiễn mối quan hệ giữa VKSND tỉnh Phú Yên và CQCSĐT tỉnh Phú
Yên trong thời gian qua đã có nhiều chuyển biến tích cực, góp phần nâng cao tỷ lệ
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, hạn chế số vụ việc bị VKS hủy quyết định
khởi tố, không khởi tố hoặc trả hồ sơ điều tra bổ sung… Tuy nhiên, mối quan hệ
3
giữa hai cơ quan còn có lúc mang tính hình thức, một chiều, cơ chế phối hợp có lúc
còn chưa hiệu quả, còn nể nang, né tránh hoặc bỏ qua vi phạm dẫn đến chưa đạt
được chất lượng, yêu cầu của công tác đấu tranh, phòng, chống tội phạm và bảo
đảm việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra. Chính vì vậy, việc nghiên
cứu, bổ sung và hoàn thiện cơ sở lý luận để nhận thức một cách đầy đủ, đúng đắn về
mối quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT trong ĐTVAHS có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng.
Với ý nghĩa trên, Học viên chọn đề tài “Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát
nhân dân tỉnh và Cơ quan cảnh sát điều tra tỉnh Phú Yên trong điều tra vụ án
hình sự” làm đề tài luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ Luật Hiến pháp - Luật Hành chính
của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Mối quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT trong ĐTVAHS được nhiều tác giả,
nhà khoa học, thực tiễn quan tâm, nghiên cứu. Thời gian qua, ở nước ta đã có nhiều
công trình khoa học nghiên cứu về mối quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT, trong
đó đáng chú ý là những công trình nghiên cứu sau đây:
- Sách chuyên khảo: “Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của các Cơ
quan điều tra theo định hướng cải cách tư pháp”, GS.TS Nguyễn Ngọc, Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội, năm 2012.
Đây là cuốn sách chuyên khảo đề cập đến thực trạng và định hướng hoàn thiện
pháp luật về tổ chức và hoạt động của Cơ quan điều tra (CQĐT) theo định hướng cải
cách tư pháp, trong đó mối quan hệ giữa VKSND và CQĐT chỉ là một nội dung trong
toàn bộ nội dung nghiên cứu. Tuy vậy, đây vẫn là một công trình có giá trị tham khảo
trong suốt quá trình thực hiện luận văn của tác giả.
- Sách chuyên khảo “Mối quan hệ giữa CQĐT với cơ quan tố tụng hình sự” của
PGS. TS Đỗ Ngọc Quang, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, năm 2004. Đây là cuốn
sách phân tích cơ sở pháp lý và mối quan hệ giữa CQĐT với VKSND và Tòa án
(TAND) cũng như mối quan hệ giữa CQĐT với các cơ quan, tổ chức hỗ trợ tư pháp
trong tố tụng hình sự (TTHS). Tuy nhiên, tác giả chưa chỉ ra được quan hệ chế ước
4
giữa CQĐT với VKSND được thể hiện cụ thể như thế nào, trách nhiệm cụ thể của
từng cơ quan đến đâu trong từng chế định…
- Đề tài khoa học cấp Bộ “Vai trò của VKSND trong việc thực hành quyền
công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn ĐTVAHS theo tinh thần
Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị”, TS. Lê Hữu Thể, Viện Khoa học kiểm
sát, VKSNDTC, năm 2004.
Công trình khoa học này luận giải cơ sở pháp lý và vai trò của VKSND trong
hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai
đoạn điều tra; đánh giá khái quát thực tiễn hoạt động thực hành quyền công tố và
kiểm sát các hoạt động tư pháp trong những năm qua, tìm ra những nguyên nhân
của các kết quả và những mặt còn hạn chế. Tuy nhiên, đề tài chỉ mới tiếp cận từ
chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của VKSND trong ĐTVAHS mà chưa nghiên
cứu, làm rõ quan hệ phối hợp, chế ước giữa VKSND và CQĐT thể hiện như thế nào
trong các hoạt động điều tra.
- Luận án tiến sĩ: “Quyền công tố ở Việt Nam” của Nghiên cứu sinh Lê Thị
Tuyết Hoa, Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp Luật, năm 2002.
Tác giả đã tiếp cận và giải quyết một cách tương đối có hệ thống và toàn
diện vấn đề "Quyền công tố ở Việt Nam". Qua đó luận án cũng đã đề cập đến
mối quan hệ giữa VKSND và CQĐT trong quá trình thực hiện quyền công tố,
tuy nhiên chỉ dừng lại góc tiếp cận từ phía VKSND và mối quan hệ giữa
VKSND và CQĐT không chỉ trong phạm vi thực hành quyền công tố mà còn
trong kiểm sát hoạt động tư pháp.
- Luận án tiến sĩ “Mối quan hệ giữa CQCSĐT với VKSND trong ĐTVAHS”
của Nghiên cứu sinh Đào Hữu Dân, Học viện Cảnh sát nhân dân, 2006.
Luận án đã đưa ra những kết luận khoa học về khái niệm, bản chất, đặc
trưng, nội dung và hình thức và những giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả
quan hệ giữa CQCSĐT với VKSND trong ĐTVAHS. Kết quả nghiên cứu của luận
án đã góp phần bổ sung và từng bước hoàn thiện lý luận chuyên ngành về quan hệ
phối hợp, chế ước trong điều tra tội phạm.
5
- Luận án tiến sĩ “Mối quan hệ phối hợp giữa Cơ quan an ninh điều tra và
VKSND trong điều tra vụ án do Cơ quan an ninh điều tra thụ lý từ năm 2004 đến
nay - Thực trạng và giải pháp” của Nghiên cứu sinh Nguyễn Khắc Thành, Học viện
An ninh nhân dân, 2012.
Đây là công trình khoa học đầu tiên của Bộ Công an nghiên cứu về quan hệ
giữa Cơ quan an ninh điều tra với VKSND một cách tổng thể trong điều tra các vụ
án do Cơ quan an ninh điều tra thụ lý cả trên phương diện thực tiễn và lý luận. Tuy
nhiên góc độ tiếp cận là mối quan hệ của Cơ quan an ninh điều tra với VKSND
trong điều tra các vụ án xâm phạm an ninh quốc gia, chưa phải là toàn diện, cụ thể
về mối quan hệ của CQĐT thuộc lực lượng Công an nhân dân với VKSND.
Ngoài những công trình nghiên cứu trên, còn có một số các bài viết đăng trên
các tạp chí chuyên ngành hoặc trên các kỷ yếu hội thảo khoa học, hội nghị chuyên
đề, có liên quan đến nội dung luận văn như:
- Tham luận "Chức năng công tố của VKNDS, mối quan hệ giữa việc thực
hiện quyền công tố với các hoạt động kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử" của Tiến sĩ
Trần Đình Nhã tại Hội nghị khoa học "Tổ chức và hoạt động của VKSND trong
tình hình mới" do Ủy ban pháp luật của Quốc hội tổ chức tại thành phố Hồ Chí
Minh ngày 4/10/2001.
- “Hoàn thiện quy định về mối quan hệ giữa CQĐT và VKSND trong tố tụng
hình sự Việt Nam”, Nguyễn Tiến Sơn, Tạp chí Kiểm sát số 08/2012, VKSND tối cao…
Những bài viết nêu trên tuy không trực tiếp đề cập toàn diện đến mối quan hệ
giữa VKSND và CQCSĐT, nhưng cũng đã đề cập đến những khía cạnh thực hiện
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND và CQCSĐT hoặc nêu vấn đề cần
thiết cần tăng cường quan hệ phối hợp giữa VKSND và CQCSĐT trong ĐTVAHS.
Trên cơ sở đó, luận văn này tiếp cận trực tiếp, toàn diện mối quan hệ giữa
VKSND và CQCSĐT trong ĐTVAHS. Bổ sung và làm rõ hơn những vấn đề lý luận
về mối quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT như: Bản chất, đặc điểm, nội dung, hình
thức của mối quan hệ này… Làm rõ những đặc điểm mang tính đặc thù của mối
quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT trong ĐTVAHS ở Nhà nước xã hội chủ nghĩa
6
Việt Nam với nguyên tắc quyền lực nhà nước tập trung, thống nhất và có sự phân
công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan trong thực thi quyền lực của bộ máy
Nhà nước. Vì vậy, việc nghiên cứu để chỉ rõ đặc thù mối quan hệ giữa VKSND và
CQCSĐT, qua đó thấy được sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan
khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao. Mặt khác, mối quan hệ giữa VKSND
và CQCSĐT còn cần được xem xét trong mối quan hệ tương quan với các cơ quan
nhà nước khác trong cơ cấu tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước trên cơ sở quy
định của Hiến Pháp 2013, nhằm bổ sung lý luận khoa học pháp lý về mối quan hệ
của VKSND và CQCSĐT trong ĐTVAHS. Qua đó phân tích, đánh giá và bổ sung
hoàn thiện những quy định của pháp luật về mối quan hệ giữa VKSND và
CQCSĐT trong ĐTVAHS.
Luận văn nghiên cứu mối quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT với tư cách là
VKSND tỉnh Phú Yên và CQCSĐT tỉnh Phú Yên, trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ,
thẩm quyền của mỗi cơ quan theo quy định của pháp luật hiện hành, để xác định sự
phù hợp và những vấn đề cần nghiên cứu hoàn thiện để nâng cao chất lượng, hiệu
quả mối quan hệ giữa hai cơ quan, qua đó góp phần nâng cao chất lượng điều tra và
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong ĐTVAHS.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất những giải pháp nhằm tăng cường mối quan hệ giữa VKSND tỉnh và
CQCSĐT tỉnh Phú Yên, góp phần đảm bảo hoạt động điều tra được đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội; đảm
bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, góp phần đấu tranh phòng, chống tội
phạm có hiệu quả.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích nghiên cứu trên, luận văn đặt ra các nhiệm vụ nghiên
cứu sau:
- Xác định vai trò của VKSND và CQCSĐT, trên cơ sở phân tích, đánh giá
chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan này theo quy định của pháp
7
luật. Đồng thời, xác định rõ bản chất, đặc điểm, nội dung và hình thức của mối quan
hệ giữa VKSND và CQCSĐT trong ĐTVAHS;
- Đánh giá thực trạng mối quan hệ giữa VKSND tỉnh và CQCSĐT tỉnh Phú
Yên; xác định những vấn đề thực tiễn đặt ra để giải quyết tốt quan hệ nêu trên trong
ĐTVAHS ở Phú Yên;
- Trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường mối quan hệ giữa
VKSND tỉnh và CQCSĐT tỉnh Phú Yên, góp phần nâng cao chất lượng điều tra và
xử lý tội phạm ở Phú Yên trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Những vấn đề lý luận và thực tiễn về mối quan hệ giữa VKSND tỉnh Phú
Yên và CQCSĐT tỉnh Phú Yên trong ĐTVAHS.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Mối quan hệ giữa VKSND tỉnh Phú Yên và CQCSĐT tỉnh
Phú Yên trong ĐTVAHS thuộc thẩm quyền điều tra của CQCSĐT cấp tỉnh. Trong
đó, giai đoạn ĐTVAHS được tính bắt đầu từ thời điểm khởi tố vụ án đến khi kết
thúc điều tra, đề nghị xử lý và giải quyết vụ án. Tuy nhiên, hoạt động điều tra là một
quá trình liên tục, để bảo đảm cho việc nghiên cứu được toàn diện và phù hợp với
nhiệm vụ của CQCSĐT, cũng như nhiệm vụ của VKSND trong giai đoạn điều tra,
luận văn mở rộng vấn đề nghiên cứu, từ khi tiếp nhận, kiểm sát giải quyết tố giác,
tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố.
- Về th i gian: từ năm 2013 đến nay.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
Phương pháp luận
Nghiên cứu đề tài trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lê nin,
tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước
về tổ chức bộ máy nhà nước, về quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT trong
ĐTVAHS.
8
Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích tài liệu.
- Phương pháp thu thập và xử lý thông tin.
- Phương pháp thống kê, phân tích tổng hợp.
- Phương pháp so sánh, đánh giá.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu đề tài có những đóng góp về mặt lý luận và thực tiễn sau:
- Xây dựng các khái niệm, hệ thống hóa cơ sở lý luận về vị trí, chức năng,
nhiệm vụ của VKSND và CQCSĐT trong ĐTVAHS; sự phối hợp, chế ước giữa hai
cơ quan này trong quá trình thực thi nhiệm vụ.
- Xác định những đặc điểm mang tính đặc trưng; làm rõ bản chất, nội dung và
hình thức quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT trong ĐTVAHS. Đồng thời, kiến nghị
những giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao nhận thức cho đội ngũ Kiểm sát viên
(KSV), Điều tra viên (ĐTV); không ngừng củng cố và hoàn thiện cơ chế thực thi mối
quan hệ giữa hai cơ quan tiến hành các hoạt động tố tụng trong ĐTVAHS theo quy
định của pháp luật, góp phần nâng cao hiệu quả quan hệ giữa VKSND tỉnh và
CQCSĐT tỉnh Phú Yên trong ĐTVAHS trong thời gian tới.
- Luận văn cũng có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong học tập, nghiên cứu ở
các cơ sở đào tạo thuộc VKSND, Cảnh sát nhân dân và các cơ sở đào tạo các chức
danh tư pháp khác.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung chính của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân
dân cấp tỉnh và Cơ quan cảnh sát điều tra cấp tỉnh trong điều tra vụ án hình sự.
Chương 2: Tình hình tội phạm và thực trạng mối quan hệ giữa Viện kiểm
sát nhân dân tỉnh và Cơ quan cảnh sát điều tra tỉnh Phú Yên trong điều tra vụ án
hình sự
Chương 3: Giải pháp tăng cư ng mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân
tỉnh và Cơ quan cảnh sát điều tra tỉnh Phú Yên trong điều tra vụ án hình sự
9
Chương 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA VIỆN KIỂM SÁT
NHÂN DÂN CẤP TỈNH VÀ CƠ QUAN CẢNH SÁT ĐIỀU TRA CẤP TỈNH
TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Khái quát về Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh và Cơ quan cảnh sát điều
tra cấp tỉnh trong điều tra vụ án hình sự
1.1.1. Nhận thức chung về điều tra vụ án hình sự
Nhận thức về ĐTVAHS hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau và chưa có
sự thống nhất, cũng chưa được hướng dẫn, giải thích chính thức bởi cơ quan có
thẩm quyền. Trong BLTTHS, chưa có điều luật nào giải thích hoặc định nghĩa về
ĐTVAHS.
Theo từ điển Luật học thì “điều tra là công tác trong tố tụng hình sự (TTHS)
được tiến hành nhằm xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và
đầy đủ” [43, tr.59]. Tuy nhiên, nhận thức về điều tra theo cách hiểu này chưa xác
định được chủ thể tiến hành điều tra và cơ sở pháp lý để tiến hành ĐTVAHS.
Hoặc “ĐTVAHS là một giai đoạn TTHS, trong giai đoạn này cơ quan điều
tra áp dụng mọi biện pháp do BLTTHS quy định để xác định tội phạm và người
phạm tội” [15, tr. 62]. Quan niệm này là phù hợp với công tác điều tra của CQĐT
trong giai đoạn ĐTVAHS. Tuy nhiên theo quy định tại khoản 1 điều 65 BLTTHS
năm 2003 và điều 34 BLTTHS năm 2015, CQĐT không phải là chủ thể duy nhất có
thẩm quyền thực hiện các hoạt động điều tra, chính vì vậy điều tra không phải chỉ
gồm hoạt động của CQĐT mà còn là hoạt động của một số cơ quan khác được giao
nhiệm vụ điều tra và hoạt động điều tra của VKSND.
Theo Từ điển Bách khoa Công an nhân dân thì: “ĐTVAHS là hoạt động điều
tra theo pháp luật TTHS của CQĐT và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến
hành một số hoạt động điều tra, nhằm xác định sự thật của vụ án, lập hồ sơ đề nghị
xử lý, tìm ra nguyên nhân và điều kiện phạm tội, yêu cầu cơ quan, tổ chức hữu quan
áp dụng các biện pháp khắc phục và ngăn ngừa” [44, tr.18].
10
ĐTVAHS là một quá trình áp dụng pháp luật rất phức tạp, được tiến hành
với mục đích làm rõ sự thật khách quan, toàn diện về vụ án hình sự (VAHS). Trong
giai đoạn điều tra, CQĐT được tiến hành các hoạt động điều tra theo quy định của
BLTTHS để thu thập chứng cứ, bao gồm chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác
định vô tội, chứng cứ xác định tình tiết tăng nặng và chứng cứ xác định tình tiết
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can cũng như những chứng cứ xác định các
tình tiết khác của vụ án.
Theo quan điểm của tác giả, ĐTVAHS là hoạt động phát hiện, thu thập
chứng cứ theo trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định cho CQĐT và một số cơ quan
được giao nhiệm vụ điều tra tiến hành trong giai đoạn ĐTVAHS để xác định tội
phạm và ngư i thực hiện hành vi phạm tội.
Căn cứ vào quy định của BLTTHS và thực tiễn ĐTVAHS, có thể rút ra các
đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, ĐTVAHS được tiến hành công khai theo các trình tự, thủ tục và
theo những biện pháp do pháp luật TTHS quy định. Đặc trưng này cho phép phân
biệt với những biện pháp điều tra khác như trinh sát - là hoạt động nghiệp vụ được
tổ chức và tiến hành dưới hình thức bí mật để thu thập thông tin về tội phạm nhằm
phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn và nhanh chóng khám phá vụ án.
Thứ hai, ĐTVAHS thường ảnh hưởng trực tiếp đến quyền tự do, dân chủ của
công dân, quyền con người bị nghi thực hiện tội phạm do thường phải áp dụng các
biện pháp ngăn chặn, cưỡng chế như bắt, tạm giữ, tạm giam, khám xét… Nếu hoạt
động điều tra không tuân thủ pháp luật sẽ tiềm ẩn nguy cơ xâm hại các quyền cơ
bản của công dân, quyền con người.
Thứ ba, ĐTVAHS là bộ phận hợp thành chức năng buộc tội của Nhà nước,
hỗ trợ cho cơ quan công tố thực hiện việc buộc tội và đưa vụ án ra Tòa xét xử.
Thứ tư, ĐTVAHS được thực hiện từ rất sớm, ngay từ khi tội phạm xảy ra, do
vậy nếu chủ động, tích cực, chính xác ngay từ giai đoạn đầu sẽ góp phần bảo đảm
cho hoạt động công tố, xét xử có căn cứ và ngược lại; nếu hoạt động điều tra thụ
động, chậm trễ, thiếu sót sẽ kéo theo những sai lầm của hoạt động công tố, xét xử.
11
Thứ năm, hoạt động truy tố, xét xử VAHS được thực hiện trên cơ sở đã có hồ
sơ, tài liệu phản án về tội phạm và người phạm tội, còn hoạt động điều tra bắt đầu từ
khi tìm kiếm tài liệu, chứng cứ. Do vậy, ĐTVAHS có vị trí, vai trò và ý nghĩa hết
sức quan trọng trong quá trình tìm kiếm chứng cứ buộc tội, nên đòi hỏi phải nhận
thức đầy đủ, đảm bảo nhanh chóng xác định tội phạm và người thực hiện hành vi
phạm tội, không để lọt tội phạm; Xác định nguyên nhân và điều kiện phạm tội, yêu
cầu các cơ quan và tổ chức hữu quan có biện pháp khắc phục và ngăn ngừa.
Theo quy định BLTTHS năm 2003 thì chủ thể tiến hành điều tra là CQĐT
(cơ quan tiến hành tố tụng); Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT và ĐTV (người
tiến hành tố tụng). Trên cơ sở đó, BLTTHS năm 2015 đã có sự thay đổi quan trọng
về việc nâng cao vị trí, vai trò, trách nhiệm của các chủ thể tố tụng, khẳng định
CQĐT (là cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng); Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng
CQĐT và ĐTV (là người có thẩm quyền tiến hành tố tụng). Đồng thời, Pháp lệnh
Tổ chức điều tra hình sự năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2006 và năm 2009); Luật
Tổ chức CQĐT hình sự năm 2015 đã quy định CQĐT Công an nhân dân gồm:
CQCSĐT và Cơ quan an ninh điều tra (ANĐT). Thẩm quyền điều tra của các
CQĐT nêu trên được quy định trong BLTTHS năm 2003 và được cụ thể hóa trong
Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2006 và năm
2009), hiện nay được quy định trong BLTTHS năm 2015 và Luật Tổ chức CQĐT
hình sự năm 2015. Mặc dù hai văn bản pháp luật này đang bị lùi thời gian thi hành,
nhưng trong luận văn này vẫn đề cập đến những quy định mới nhất, có liên quan
của hai văn bản pháp luật trên để giúp làm sáng tỏ các vấn đề nêu ra.
Trong quá trình điều tra, CQĐT có quyền sử dụng những biện pháp được quy
định trong BLTTHS: tiếp nhận và xử lý tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị
khởi tố; áp dụng những biện pháp ngăn chặn; tiến hành các biện pháp điều tra cụ
thể; yêu cầu các cơ quan, tổ chức và cá nhân cung cấp tài liệu và trình bày những
tình tiết làm sáng tỏ vụ án.
Trong quá trình điều tra, CQĐT có thể sử dụng các phương tiện kỹ thuật để
phát hiện, ghi nhận, mô tả, thu lượm, bảo quản dấu vết, tài liệu … Đồng thời được
12
phép huy động các lực lượng (các cơ quan, tổ chức, đoàn thể quần chúng, công dân)
tham gia vào hoạt động điều tra, giúp CQĐT giải quyết các yêu cầu cụ thể trong
điều tra vụ án, như: truy bắt thủ phạm; bảo vệ hiện trường, cấp cứu người bị nạn,
bảo vệ tài sản, hạn chế tới mức thấp nhất thiệt hại do tội phạm gây ra; truy tìm
những người làm chứng, người bị hại, vật chứng của vụ án; phát hiện thu thập
những tài liệu, chứng cứ của vụ án; giúp đỡ CQĐT về địa điểm, phương tiện vật
chất tạo điều kiện cho quá trình tổ chức và tiến hành các hoạt động điều tra…
Nhiệm vụ ĐTVAHS là xác định tội phạm và người đã thực hiện hành vi phạm
tội, lập hồ sơ, đề nghị truy tố; tìm ra nguyên nhân, điều kiện phạm tội và yêu cầu các
cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục và ngăn ngừa. Để thực
hiện đầy đủ nhiệm vụ này, hoạt động điều tra phải quán triệt các nguyên tắc sau đây:
chỉ có CQĐT và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động
điều tra được pháp luật quy định mới được phép tiến hành điều tra. Mọi hoạt động
điều tra phải tuân theo quy định trong BLTTHS và Pháp lệnh, Luật Tổ chức CQĐT
hình sự. Hoạt động điều tra phải tôn trọng sự thật, tiến hành một cách khách quan,
toàn diện và đầy đủ, phát hiện chính xác, nhanh chóng mọi hành vi phạm tội, làm rõ
những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng
nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người có hành vi phạm tội, không bỏ lọt tội
phạm và không làm oan người vô tội.
1.1.2. Thẩm quyền của viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh trong điều tra vụ án hình sự
Theo quy định tại Điều 107 Hiến pháp năm 2013, VKSND gồm VKSNDTC
và các VKSND khác do luật định. Cụ thể hóa tinh thần của Hiến pháp, Luật Tổ
chức VKSND năm 2014 đã quy định: Hệ thống VKSND bao gồm: VKSNDTC;
VKSND cấp cao; VKSND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; VKSND huyện,
quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương; VKS quân sự các cấp.
Theo đó, tổ chức bộ máy của VKSND cấp tỉnh gồm có: Ủy ban kiểm sát;
Văn phòng; Các phòng và tương đương. VKSND cấp tỉnh có Viện trưởng, các Phó
Viện trưởng, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, công chức khác và người lao động khác.
Việc tổ chức các phòng nghiệp vụ ở VKSND 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
13
ương là không giống nhau, nhưng về cơ bản có phòng (hoặc bộ phận) sau: Phòng
Thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra và kiểm sát xét xử sơ thẩm án kinh tế,
tham nhũng; Phòng Thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra và kiểm sát xét xử
sơ thẩm án an ninh và án ma túy; Phòng Thực hành quyền công tố và kiểm sát xét
xử phúc thẩm án hình sự; Phòng Kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo
dục người chấp hành án phạt tù; Phòng Kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự;
Phòng Kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính - kinh tế - lao động và những
việc khác theo quy định của pháp luật; Phòng Kiểm sát thi hành án dân sự; Phòng
Khiếu tố.
Riêng đối với nhiệm vụ thực hành quyền công tố và Kiểm sát điều tra án an
ninh, về cơ bản chỉ có VKSND thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và một
số thành phố lớn khác tổ chức thành đơn vị cấp Phòng độc lập theo chuyên ngành.
Ở các địa phương khác, tùy tình hình Viện trưởng VKSND quyết định như ghép
chung việc kiểm sát án an ninh, án ma túy vào một phòng.
Hiến pháp, Luật Tổ chức VKSND, BLTTHS đều ghi nhận VKSND thực
hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động ĐTVAHS, đây là
quyền năng hiến định của VKSND. Theo quy định tại Điều 23 BLTTHS năm 2003
và được điều chỉnh theo hướng tinh gọn về chức năng, nhiệm vụ của VKSND tại
điều 20 BLTTHS năm 2015 như sau:
Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong tố tụng hình sự, quyết định việc buộc tội, phát hiện vi phạm pháp luật nhằm
bảo đảm mọi hành vi phạm tội, người phạm tội, pháp nhân phạm tội, vi phạm pháp
luật đều phải được phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh, việc khởi tố, điều tra,
truy tố, xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội
phạm và người phạm tội, pháp nhân phạm tội, không làm oan người vô tội.
Vì vậy, các nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp đã có những kết luận rõ
hơn và mang tính định hướng hết sức quan trọng về trách nhiệm của VKSND trong
thực hành quyền công tố, đấu tranh phòng chống tội phạm ở giai đoạn điều tra.
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách
14
tư pháp đến năm 2020 chỉ rõ “Tăng cường trách nhiệm của cơ quan công tố trong
hoạt động điều tra” [3, tr.3]; Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của
Đảng tiếp tục khẳng định: “Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều
tra, gắn công tố với hoạt động điều tra” [13, tr.251]. Từ đó có thể thấy rằng, trong
giai đoạn ĐTVAHS, VKSND giữ một vai trò quan trọng, đảm bảo việc điều tra
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội,
không làm oan người vô tội. Vì vậy có thể khẳng định rằng “VKSND giữ vai trò chủ
đạo, quyết định trong các hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt
động tư pháp ở giai đoạn ĐTVAHS” [39, tr.153].
Thẩm quyền của VKSND cấp tỉnh trong ĐTVAHS được thực hiện theo chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn mà BLTTHS quy định cho VKSND khi thực hành
quyền công tố và kiểm sát điều tra trong giai đoạn ĐTVAHS. Do giai đoạn điều tra
là một giai đoạn khởi đầu và phức tạp nên luận văn đã giới hạn việc nghiên cứu bắt
đầu khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố đến khi kết thúc
điều tra. Trên cơ sở đó, VKSND cấp tỉnh sẽ thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn mà luật
định trong giai đoạn này tương ứng với những thẩm quyền cụ thể đề cập trong phần
chức năng, nhiệm vụ của VKSND.
Do BLLTHS năm 2003 không quy định thẩm quyền, nhiệm vụ, quyền hạn
của VKSND trong giai đoạn tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và
kiến nghị khởi tố, để khắc phục bất cập này BLTTHS năm 2015 đã quy định nhiệm
vụ, quyền hạn của VKSND trong giai đoạn này và bổ sung một số quy định mới
trong khởi tố vụ án, ĐTVAHS cho phù hợp với thực tiễn.
Xét về phạm vi lãnh thổ, việc thực hiện thẩm quyền của VKSND cấp tỉnh
trong giai đoạn ĐTVAHS được thực hiện dựa vào những vụ việc thuộc thẩm quyền
xét xử của TAND cấp tỉnh hoặc những vụ án thuộc thẩm quyền điều tra của CQĐT
cấp huyện xảy ra trên địa bàn nhiều huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành
phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương; phạm tội có tổ chức hoặc có yếu tố
nước ngoài.
15
1.1.3. Thẩm quyền của cơ quan cảnh sát điều tra cấp tỉnh trong điều tra vụ án
hình sự
BLTTHS năm 1988 là văn bản pháp lý đầu tiên của nước ta quy định những vấn
đề mang tính nguyên tắc về CQĐT, tiếp đó Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự năm
1989 quy định hệ thống tổ chức của CQĐT Công an nhân dân (CAND) bao gồm hệ
thống CQĐT thuộc lực lượng cảnh sát nhân dân và an ninh nhân dân. Nhằm đáp ứng
yêu cầu của cải cách tư pháp theo hướng gắn kết hoạt động điều tra tố tụng và hoạt
động trinh sát, ngày 20/8/2004 Ủy ban thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh tổ
chức điều tra hình sự năm 2004. Theo đó hệ thống CQĐT CAND vẫn gồm hai hệ
thống là CQCSĐT và ANĐT, trong đó hệ thống CQCSĐT gồm: CQCSĐT Bộ Công
an (BCA); CQCSĐT Công an cấp tỉnh ; CQCSĐT Công an cấp huyện.
Theo quy định mới của Luật tổ chức CQĐT hình sự năm 2015 hệ thống
CQCSĐT gồm: CQCSĐT Bộ Công an; CQCSĐT Công an tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương; CQCSĐT Công an huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh,
thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương.
Căn cứ vào quy định của Luật tổ chức CQĐT hình sự năm 2015, tổ chức bộ
máy của CQCSĐT Công an cấp tỉnh gồm có: Văn phòng CQCSĐT; Phòng Cảnh sát
điều tra tội phạm về trật tự xã hội (gọi tắt là Phòng Cảnh sát hình sự); Phòng Cảnh
sát điều tra tội phạm về tham nhũng, kinh tế và chức vụ; Phòng Cảnh sát điều tra tội
phạm về ma túy; Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về buôn lậu, vận chuyển trái
phép hàng hóa qua biên giới, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm, xâm phạm sở
hữu trí tuệ (gọi tắt là Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về buôn lậu).
Theo quy định tại điều 111 BLTTHS năm 2003 quy định: CQĐT trong
CAND điều tra tất cả các tội phạm, trừ những tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra
của CQĐT trong Quân đội nhân dân và CQĐT của VKSNDTC… CQĐT có thẩm
quyền điều tra những VAHS mà tội phạm xảy ra trên địa phận của mình. Trong
trường hợp không xác định được địa điểm xảy ra tội phạm thì việc điều tra thuộc
thẩm quyền của CQĐT nơi phát hiện tội phạm, nơi bị can cư trú hoặc bị bắt.
16
CQĐT cấp tỉnh điều tra những VAHS về những tội phạm thuộc thẩm quyền
xét xử của TAND cấp tỉnh, hoặc những vụ án thuộc thẩm quyền điều tra của CQĐT
cấp dưới nhưng xét thấy cần trực tiếp điều tra.
Để cụ thể hóa những quy định này, Thông tư số 28/2014/TT-BCA ngày
7/7/2014 quy định về công tác điều tra hình sự trong CAND, đã quy định rõ thẩm
quyền của CQCSĐT cấp tỉnh như sau:
Tổ chức công tác trực ban hình sự, tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm và
kiến nghị khởi tố; phân loại và chuyển ngay đến cơ quan có thẩm quyền để giải
quyết; trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố thuộc
thẩm quyền giải quyết của CQCSĐT Công an cấp tỉnh; Tiến hành điều tra các vụ án
hình sự về các tội phạm quy định từ Chương XII đến Chương XXII của BLHS năm
1999 khi các tội phạm đó thuộc thẩm quyền xét xử của TAND cấp tỉnh (trừ các tội
phạm thuộc thẩm quyền điều tra của CQĐT của VKSNDTC và Cơ quan ANĐT
trong CAND); các tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của CQCSĐT cấp huyện
nhưng xét thấy cần trực tiếp điều tra…
BLTTHS năm 2015 đã có những sửa đổi quan trọng về thẩm quyền của
CQCSĐT cấp tỉnh như sau: CQCSĐT cấp tỉnh ĐTVAHS về những tội phạm thuộc
thẩm quyền xét xử của TAND cấp tỉnh hoặc những vụ án thuộc thẩm quyền điều tra
của CQĐT cấp huyện xảy ra trên địa bàn nhiều huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc
tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương, phạm tội có tổ chức hoặc có
yếu tố nước ngoài nếu xét thấy cần trực tiếp điều tra.
1.2. Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh và Cơ quan cảnh sát
điều tra cấp tỉnh trong điều tra vụ án hình sự
1.2.1. Bản chất mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh và Cơ quan
cảnh sát điều tra cấp tỉnh trong điều tra vụ án hình sự
Trong triết học, phép duy vật biện chứng đã khẳng định các sự vật, hiện
tượng trong thế giới khách quan không tồn tại độc lập mà chúng tồn tại trong mối
quan hệ tác động qua lại và ràng buộc, phụ thuộc lẫn nhau. Các mối quan hệ này đã
được hình thành một cách khách quan không phụ thuộc vào ý thức con người. Mối
17
quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT nói chung và cấp tỉnh nói riêng trong ĐTVAHS
không nằm ngoài quy luật này.
Theo Từ điển tiếng Việt thì “mối quan hệ” là “sự gắn liền mặt nào đó giữa
hai hoặc nhiều sự vật khác nhau khiến sự vật này có biến đổi, thay đổi thì có thể tác
động đến sự vật kia” [44, tr.1361]. Như vậy, mối quan hệ giữa hai hoặc nhiều sự
vật hiện tượng trong xã hội thể hiện ở sự tác động lẫn nhau, ảnh hưởng lẫn nhau
trong sự tồn tại và phát triển.
Trong quá trình tiến hành tố tụng giải quyết VAHS đã làm nảy sinh các mối
quan hệ giữa những cơ quan tiến hành tố tụng. Mối quan hệ giữa các cơ quan tiến
hành tố tụng, những người tiến hành tố tụng trong TTHS cũng không nằm ngoài
quy luật đó. Mặc dù, ở mỗi một giai đoạn TTHS đều có những cơ quan tiến hành tố
tụng chủ yếu với những chức năng và nhiệm vụ riêng. Tuy vậy, nó vẫn tồn tại mối
quan hệ chặt chẽ giữa các cơ quan tố tụng trong cả tiến trình giải quyết VAHS.
Mặt khác quá trình đấu tranh phòng, chống tội phạm, các cơ quan tiến hành
tố tụng có mối quan hệ với nhau, trong đó VKSND và CQCSĐT có mối quan hệ rất
chặt chẽ; chất lượng, hiệu quả hoạt động của từng cơ quan phụ thuộc rất lớn vào
mối quan hệ giữa hai chủ thể này. Đây là mối quan hệ tố tụng có tính phổ biến trong
giai đoạn đầu của quá trình tố tụng và có ý nghĩa quan trọng đối với toàn bộ quá
trình TTHS.
Hơn nữa, mối quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT tồn tại như một tất yếu
khách quan của quá trình giải quyết vụ án nhưng nội dung mối quan hệ này lại biểu
hiện bản chất Nhà nước và pháp luật, mô hình TTHS, việc tổ chức thực hiện quyền
công tố và kiểm soát quyền lực trong TTHS được xác định trong Hiến pháp và mô
hình TTHS mỗi quốc gia. Ở những quốc gia mà bộ máy nhà nước đơn thuần tổ chức
theo nguyên tắc phân quyền, thì VKSND (Cơ quan công tố) là một cơ quan thuộc
nhánh quyền hành pháp có chức năng thực hành quyền công tố. Để thực hiện quyền
công tố, cơ quan công tố có trách nhiệm điều tra, chứng minh tội phạm bằng việc
trực tiếp điều tra hoặc chỉ đạo các cơ quan khác thực hiện các hoạt động điều tra.
Trong trường hợp này, mặc dù không trực tiếp tiến hành điều tra, nhưng cơ quan
18
công tố phải chịu trách nhiệm hoàn toàn đối với các quyết định và hoạt động trong
việc điều tra vụ án. CQĐT hoặc những cơ quan khác chỉ được tiến hành các hoạt
động điều tra theo sự chỉ đạo của cơ quan công tố. Vì vậy, thông thường ở các nước
không hình thành CQĐT độc lập mà chỉ có bộ phận điều tra ở cơ quan công tố và
những người hoặc bộ phận được giao tiến hành một số hoạt động điều tra theo sự
chỉ đạo của cơ quan công tố. Một số nước ở cơ quan cảnh sát có những bộ phận
được giao tiến hành hoạt động điều tra và người được tiến hành hoạt động điều tra
có chức danh cảnh sát tư pháp. Tại Trung Quốc, mặc dù có thể chế chính trị tương
tự như nước ta nhưng cũng không thành lập CQĐT độc lập mà hoạt động điều tra
được giao cho những bộ phận ở Bộ công an, Bộ an ninh, Cảnh sát đường sắt và đặt
dưới sự chỉ đạo của VKS. Trong trường hợp này mối quan hệ giữa VKS và cơ quan
được giao tiến hành hoạt động điều tra là mối quan hệ phụ thuộc, các hoạt động
điều tra do các cơ quan khác tiến hành đều phụ thuộc và chịu sự chỉ đạo của cơ
quan công tố. Mối quan hệ phụ thuộc này thể hiện trên các phương diện sau: (1) Cơ
quan công tố có quyền hạn và chịu trách nhiệm hoàn toàn về tất cả các hoạt động
điều tra; (2) Cơ quan công tố có thể trực tiếp tiến hành điều tra hoặc việc điều tra
được giao cho những cơ quan khác theo quy định của pháp luật; (3) Các cơ quan
khác được giao tiến hành hoạt động điều tra phải theo yêu cầu và chỉ đạo của cơ
quan công tố; (4) Cơ quan công tố không cần phải làm bản kết luận điều tra và
không có thêm quyền ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung; (5) Hoạt động và
kết quả điều tra gắn liền với hoạt động truy tố của VKS.
Ở những nước có hệ thống CQĐT độc lập với VKS thì chức năng điều tra
được giao hẳn cho CQĐT thì mối quan hệ giữa VKS và CQĐT có nội dung khác.
Đó là mối quan hệ giữa hai cơ quan có chức năng riêng biệt trong quá trình tố tụng
giải quyết VAHS, thể hiện ở hai phương diện: (1) Mối quan hệ phối hợp trong quá
trình giải quyết vụ án. Do VKS và CQĐT là những cơ quan độc lập có chức năng
tố tụng khác nhau nhưng cùng hướng tới mục đích chung của TTHS nên việc phối
hợp là yêu cầu tất yếu; (2) Mối quan hệ chế ước: Quá trình tố tụng đòi hỏi bên cạnh
việc phát hiện nhanh chóng, chính xác tội phạm nhưng đồng thời phải bảo đảm
19
không làm oan người vô tội, không được vi phạm pháp luật, xâm phạm quyền con
người nên giữa các cơ quan này cần phải có mối quan hệ chế ước. Quan hệ chế ước
giữa VKS và CQĐT không những bảo đảm để pháp luật được thi nghiêm chỉnh
trong quá trình giải quyết vụ án mà còn đảm bảo để công lý được thực thi góp phần
giải quyết vụ án khách quan, công bằng.
Ở nước ta, Khi VKSND được thành lập, chức năng kiểm sát điều tra các
VAHS được quy định tại Chương 3 Luật tổ chức VKSND năm 1960. Ngày
28/6/1963, VKSNDTC và BCA đã ban hành Thông tư liên bộ số 427-TTLB quy
định tạm thời một số nguyên tắc về quan hệ công tác giữa hai ngành trong công tác
điều tra, kiểm sát điều tra, nhằm đảm bảo việc điều tra và xử lý tội phạm đúng chính
sách, đúng pháp luật và nhanh chóng. Sau đó, BCA và VKSNDTC ban hành Thông
tư liên bộ số 01/TTLB ngày 23/01/1984 hướng dẫn về công tác điều tra và kiểm sát
điều tra.
BLTTHS đầu tiên của nước ta (1988) là văn bản pháp lý có hiệu lực cao nhất
quy định về mối quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT. Tiếp đó, BLTTHS năm 2003
đã phân định nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của VKSND và CQCSĐT trong các
chế định TTHS, đã hình thành cơ chế pháp lý bảo đảm hoạt động điều tra và công
tác thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra được chặt chẽ hơn.
Xét về mặt lý luận, trên cơ sở nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước ta là
quyền lực thống nhất, nhưng có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Trên cơ sở Hiến pháp,
pháp luật quy định VKSND là cơ quan thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt
động tư pháp; CQCSĐT thực hiện nhiệm vụ điều tra, khám phá tội phạm và tìm ra
sự thật của vụ án. Trong giai đoạn ĐTVAHS, quá trình tìm ra sự thật của vụ án phải
được chứng minh dựa trên những chứng cứ được thu thập tỉ mỉ và sự giám sát cẩn
trọng đảm bảo việc chấp hành pháp luật để không chỉ tìm ra tội phạm và người
phạm tội mà còn không để lọt tội phạm và làm oan người vô tội. Quá trình đó có
mục đích chung là phát hiện, xử lý nghiêm minh, kịp thời các hành vi phạm tội nên
đã hình thành sự phối hợp giữa VKSND và CQCSĐT theo quy luật tất yếu và khách
20
quan. Hơn nữa, ngoài việc phân công, phối hợp giữa VKSND và CQCSĐT thì còn
diễn ra sự giám sát, chế ước với các hình thức, mức độ khác nhau nhằm đảm bảo
việc khởi tố, điều tra đúng pháp luật, từ đó đã hình thành nên mối quan hệ giữa
VKSND và CQCSĐT trong ĐTVAHS đó là: sự phối hợp và chế ước lẫn nhau.
Nội dung cơ bản của mối quan hệ giữa CQCSĐT với VKSND được xuất
phát từ nhiệm vụ chung nhất là xác định có căn cứ và hợp pháp về tội phạm và
người phạm tội, làm cơ sở cho việc buộc tội trước TAND. Để làm được điều này,
giữa hai cơ quan phải phối hợp với nhau trong các giai đoạn điều tra vụ án. Đồng
thời để tránh được những khuyết điểm, sai lầm có thể xảy ra trong việc xác định tội
phạm và người phạm tội thì phải có sự chế ước đảm bảo hoạt động tố tụng theo
đúng pháp luật. Có thể thấy rằng, “mối quan hệ phối hợp và chế ước là đặc trưng cơ
bản giữa CQĐT với VKSND trong hoạt động TTHS” [19, tr.257].
Thứ nhất, về quan hệ phối hợp: Xuất phát từ bản chất là Nhà nước ta là Nhà
nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân và do duy nhất Đảng Cộng sản Việt
Nam lãnh đạo, nên các cơ quan trong bộ máy Nhà nước có sự phối hợp chặt chẽ
dưới sự lãnh đạo tập trung thống nhất của Đảng cầm quyền.
Theo Từ điển Tiếng Việt “phối hợp” có nghĩa là “cùng chung góp, cùng
hành động ăn khớp để hỗ trợ cho nhau” [44, tr.1361]. Từ đó có thể thấy rằng quan
hệ phối hợp được hiểu là các chủ thể tham gia trong mối quan hệ cùng hành động,
cùng hoạt động hỗ trợ lẫn nhau để giải quyết một công việc nào đó. Xét trong quan
hệ phối hợp giữa VKSND và CQCSĐT thì quan hệ phối hợp được hiểu là mỗi cơ
quan thực hiện nghiêm chỉnh chức năng, nhiệm vụ để đảm bảo sự thống nhất, nhịp
nhàng khi thực hiện nhiệm vụ chung. Với ý nghĩa này thì sự phối hợp là yếu tố nền
tảng, bền vững và thường xuyên, không thể thiếu được trong hoạt động TTHS; nó là
điều kiện đảm bảo cho việc tồn tại các cơ quan Nhà nước gắn với các hoạt động
nhằm mục đích chung của TTHS.
Trong TTHS, các cơ quan tiến hành tố tụng tuy có chức năng, nhiệm vụ khác
nhau nhưng đều có mục đích chung là phát hiện, xử lý nghiêm minh, kịp thời các
hành vi phạm tội, do đó, sự phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng là tất yếu,
21
khách quan. BLTTHS quy định cụ thể về trình tự, thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố,
xét xử và thi hành án; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ giữa các cơ
quan tiến hành tố tụng. Trong đó, VKSND, CQCSĐT, TAND có sự phối hợp chặt
chẽ trong quá trình tiến hành tố tụng. Tuy nhiên, sự phối hợp giữa CQCSĐT với
VKSND khác với sự phối hợp giữa VKSND và TAND. Bởi lẽ, sự phối hợp giữa
VKSND với TAND thường chỉ xuất hiện sau khi vụ án đã được VKSND truy tố và
chuyển hồ sơ đến Toà án đưa ra vụ án để xét xử. Còn công tác phối hợp giữa
VKSND và CCSĐT không chỉ được thực hiện sau khi CQCSĐT kết luận điều tra
vụ án chuyển hồ sơ đến VKSND mà còn được thực hiện từ khi CQCSĐT phát hiện
tội phạm, khởi tố, ĐTVAHS.
Khi tiến hành tố tụng, VKSND và CQCSĐT vừa tiến hành các hoạt động tố
tụng độc lập, vừa có mối quan hệ trong từng chế định tố tụng. Trong giai đoạn
ĐTVAHS, CQCSĐT cấp tỉnh có chức năng, nhiệm vụ phát hiện tội phạm, khởi tố,
ĐTVAHS; VKSND cấp tỉnh có chức năng, nhiệm vụ thực hành quyền công tố và
kiểm sát điều tra, bảo đảm hoạt động điều tra đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Do vậy, VKSND và CQCSĐT cấp tỉnh không chỉ có mối quan hệ trong từng chế
định cụ thể mà sự phối hợp xuyên suốt toàn bộ quá trình tố tụng từ khi phát hiện tội
phạm đến khi kết thúc ĐTVAHS.
Hơn nữa, trong quá trình tiến hành tố tụng VKSND, CQCSĐT phải có nhiệm
vụ tìm ra nguyên nhân và điều kiện phạm tội, yêu cầu cơ quan tổ chức hữu quan áp
dụng các biện pháp khắc phục và ngăn ngừa. Để làm được điều này ngay trong khi
tiến hành các biện pháp điều tra và kiểm sát điều tra, VKSND và CQCSĐT phải
phối hợp với nhau trong việc thu thập chứng cứ chứng minh nguyên nhân và điều
kiện phạm tội. Đối với những sơ hở thiếu sót trong các cơ quan Nhà nước, tổ chức
xã hội thì VKSND và CQCSĐT phải phối hợp với nhau tiến hành ngay các biện
pháp ngăn chặn và khắc phục.
Như vậy, sự phối hợp giữa VKSND cấp tỉnh và CQCSĐT cấp tỉnh trong
ĐTVAHS là đòi hỏi tất yếu khách quan. Do đó, cần phải được thực hiện trên cơ sở
chủ động, tích cực của mỗi cơ quan. Có như vậy mới đảm bảo có hiệu quả của việc
22
giải quyết VAHS, góp phần cho mỗi cơ quan hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ
đã được pháp luật quy định.
Thứ hai, về quan hệ chế ước: Quan hệ chế ước giữa VKSND và CQCSĐT
các cấp nói chung và cấp tỉnh nói riêng trong ĐTVAHS là sự hạn chế lẫn nhau giữa
các chủ thể tiến hành tố tụng trong những điều kiện nhất định được quy định bởi
pháp luật nhằm đảm bảo tính khách quan, chính xác trong quá trình giải quyết
VAHS, tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền công dân, tránh oan sai và bỏ
lọt tội phạm, người phạm tội. Sở dĩ BLTTHS phải quy định những điều luật mang
tính chế ước, xuất phát từ những đặc điểm riêng biệt của hoạt động TTHS trong giai
đoạn ĐTVAHS. Điều này thể hiện ở chỗ CQCSĐT phải khôi phục lại những tình
tiết vụ án, xác định chính xác hiện trường, thu giữ các vật chứng, chứng cứ… của
vụ án đã xảy ra trước đó mà không ai trong số các ĐTV được trực tiếp chứng kiến
vụ việc nhưng lại tuân thủ tuyệt đối các nguyên tắc mà BLTTHS đặt ra, trong đó có
nguyên tắc xác định sự thật khách quan của vụ án, nguyên tắc bảo đảm pháp chế và
được bổ sung mới vào BLTTHS năm 2015 là nguyên tắc suy đoán vô tội, nguyên
tắc không ai bị kết án hai lần về một tội phạm… Trong giai đoạn ĐTVAHS, các
hoạt động tố tụng được tiến hành bởi các chủ thể có thẩm quyền tiến hành tố tụng
như ĐTV, cán bộ điều tra, KSV, Kiểm tra viên. Họ cũng là những con người nên
không thể nằm ngoài sự tác động nhiều yếu tố cả chủ quan lẫn khách quan. Đó là
yếu tố thuộc về trình độ, khả năng, kinh nghiệm, bản lĩnh... Ngoài ra, họ còn bị tác
động bởi những yếu tố thuộc về xã hội như môi trường sống, những biến động xã
hội, tình hình tội phạm, sự suy thoái về kinh tế… Tất cả những vấn đề này đều có
ảnh hưởng nhất định, tác động không nhiều thì ít đến việc xác định sự thật khách
quan của vụ án. Chính vì lẽ đó, BLTTHS đã có nhiều quy định mang tính chế ước
giữa VKSND và CQCSĐT nhằm đảm bảo thực hiện nhiệm vụ mà pháp luật TTHS
đã đặt ra.
Mối quan hệ chế ước giữa VKSND và CQCSĐT mang tính chất chế ước một
chiều với những hoạt động chi phối, kiềm chế từ phía VKSND đối với CQCSĐT.
Tính chất một chiều đó được quy định bởi chức năng của bản thân các chủ thể trong
23
mối quan hệ này. Về phía VKSND, với chức năng cơ bản đã được quy định bởi
Hiến pháp và Luật tổ chức VKSND, BLTTHS là giám sát toàn bộ hoạt động điều
tra. Mục tiêu của chức năng giám sát đó là phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, điều
chỉnh những sai phạm trong quá trình ĐTVAHS. Những chức năng, nhiệm vụ này
chỉ có thể thực hiện khi cơ chế cho phép VKSND chi phối, tiết chế hoạt động của
các cơ quan TTHS.
Về phía CQCSĐT, với nhiệm vụ tiến hành điều tra tất cả các tội phạm, có
quyền áp dụng mọi biện pháp do BLTTHS quy định để xác định tội phạm và người
đã thực hiện hành vi phạm tội. Những công cụ pháp lý do BLTTHS trang bị cho
CQCSĐT chứa đựng sức mạnh cưỡng chế cần thiết để phục vụ mục đích làm sáng
tỏ sự thật vụ án, nhưng đồng thời có khả năng tước đoạt, hạn chế những quyền, lợi
ích đặc biệt quan trọng của con người. Vì vậy, sẽ hết sức nguy hại nếu chúng bị sử
dụng không đúng đắn hoặc lạm dụng. Do đó, cơ chế hạn chế, giám sát, điều chỉnh
hoạt động sử dụng những biện pháp ấy (hoạt động tố tụng) của CQCSĐT được
BLTTHS quy định chặt chẽ và giao cho VKSND thực hiện.
Nếu đem so sánh mối quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT với mối quan hệ
giữa VKSND và TAND thì rõ ràng khác nhau về bản chất. Ở giai đoạn xét xử, tuy
TAND là cơ quan giữ vai trò chỉ đạo việc xét xử, là cơ quan quyết định quá trình
xét xử nhưng giữa VKSND và TAND lại hoàn toàn độc lập với nhau. Mỗi cơ quan
tự chịu trách nhiệm về công việc của mình. TAND không làm thay hay can thiệp
vào công việc của VKSND và ngược lại, VKSND cũng không can thiệp vào việc
xét xử của TAND, mặc dù VKSND có quyền và trách nhiệm kiểm sát hoạt động xét
xử của TAND. Khi TAND có vi phạm thì VKSND chỉ có quyền kiến nghị, kháng
nghị, yêu cầu khắc phục, sửa chữa vi phạm. Trong khi đó, mối quan hệ giữa
VKSND và CQCSĐT thì khác hẳn về chất. Tuy CQCSĐT có quyền độc lập khi tiến
hành điều tra, hoạch định phương hướng, kế hoạch điều tra, đề ra chiến thuật điều
tra cụ thể, có quyền ra quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ điều tra.., nhưng VKSND
có quyền can thiệp trực tiếp vào hoạt động điều tra của CQCSĐT. Trong trường
hợp cần thiết, VKSND ra quyết định tố tụng và yêu cầu CQCSĐT phải thực hiện.
24
Nhưng ngược lại, CQCSĐT không có quyền can thiệp vào hoạt động thực hành
quyền công tố và kiểm sát điều tra của VKSND. Các kiến nghị của CQCSĐT đối
với hoạt động của VKSND thì cũng do VKSND cấp trên giải quyết, quyết định. Và
trong khi chờ quyết định của VKSND cấp trên, thì CQCSĐT vẫn phải chấp hành
quyết định, yêu cầu bị kiến nghị đó. CQCSĐT không thể lấy lý do chờ quyết định
của VKSND cấp trên mà trì hoãn việc chấp hành các quyết định, yêu cầu của
VKSND.
Trong quá trình điều tra, CQCSĐT có quyền ban hành các quyết định, các
lệnh về TTHS liên quan đến hoạt động điều tra. Nhưng các quyết định, lệnh đó của
CQCSĐT nằm dưới sự kiểm soát chặt chẽ của VKSND. Với chức năng thực hành
quyền công tố và kiểm sát điều tra, VKSND có quyền và trách nhiệm hủy bỏ các
quyết định, lệnh đó khi không có căn cứ và trái pháp luật. Thay vào đó, VKSND có
quyền ra các lệnh, quyết định tố tụng và giao cho CQCSĐT thực hiện.Trong một số
trường hợp nhất định, những lệnh, quyết định của CQCSĐT liên quan tới việc hạn
chế các quyền cơ bản của công dân, quyền con người mà Hiến pháp, pháp luật đã
quy định phải có sự phê chuẩn của VKSND. Pháp luật quy định thẩm quyền phê
chuẩn của VKSND đối với các lệnh, quyết định của CQCSĐT không có nghĩa là để
VKSND “chứng thực” các lệnh, quyết định tố tụng của CQCSĐT mà pháp luật đã
chuyển vai trò quyết định, chuyển trách nhiệm từ CQCSĐT sang VKSND. Chính vì
vậy, VKSND không thể sử dụng các quyền chế ước của mình một cách độc đoán,
mà đòi hỏi VKSND phải đưa ra căn cứ đầy đủ khi có những yêu cầu, quyết định chi
phối CQCSĐT. Bản thân các KSV cũng phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về
những hành vi tố tụng của mình.
* Mối quan hệ giữa phối hợp và chế ước giữa VKSND cấp tỉnh và CQCSĐT
cấp tỉnh.
Quan hệ phối hợp và chế ước là bản chất mối quan hệ giữa VKSND và
CQCSĐT các cấp nói chung và cấp tỉnh nói riêng, là quan hệ phát sinh trong quá
trình giải quyết VAHS. Phối hợp và chế ước để cùng thực hiện nhiệm vụ tố tụng.
Hai mặt này vừa đan xen với nhau, bổ sung cho nhau, không loại trừ, hạn chế
25
lẫn nhau, với cùng chung một mục đích là giải quyết đúng đắn, chính xác, khách
quan và đúng pháp luật. Trong mối quan hệ ấy, thì phối hợp là nền tảng bảo đảm
tính bền vững; trong phối hợp luôn có sự chế ước; trên cơ sở chế ước để hỗ trợ,
bảo đảm tính thống nhất, bền vững mang tính tất yếu theo quy định của pháp luật
TTHS. Vì vậy, sẽ chỉ đầy đủ khi xem xét cả hai phương diện này để nghiên cứu
về mối quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT. Trong đó, bên cạnh có sự phối hợp
tác động, hỗ trợ và thúc đẩy lẫn nhau trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm
vụ của mỗi bên, là sự chế ước trong chừng mực nhất định theo chức năng, nhiệm
vụ của các bên theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, tính chế ước buộc phải
có trong mối quan hệ giữa các cơ quan quyền lực nhà nước nói chung, bởi sự
kiểm soát lẫn nhau giữa các chủ thể này là cần thiết và hữu hiệu nhất để hạn chế
sự vi phạm pháp luật và lạm quyền. Riêng trong lĩnh vực TTHS, giữa các cơ
quan tiến hành tố tụng lại càng cần thiết một cơ chế để kiềm chế. Bởi vì các hoạt
động TTHS hướng tới mục tiêu thực thi công lý và có tác động mạnh mẽ đến
những quyền, lợi ích quan trọng nhất của cá nhân, tổ chức liên quan. Bất kỳ sự
lạm quyền, tùy tiện hay tắc trách nào trong quá trình này, đều có thể dẫn đến
những oan, sai mà tổn hại sau đó là hết sức nghiêm trọng.
Tác giả đồng ý với quan điểm cho rằng: Mối quan hệ giữa VKSND và
CQCSĐT không phải là mối quan hệ chấp hành điều hành mà là mối quan hệ phối
hợp, chế ước trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, xuất phát từ chức
năng, nhiệm vụ của mỗi cơ quan và các nguyên tắc TTHS đặt ra cho các cơ quan
tiến hành tố tụng… Hoạt động kiểm sát điều tra và thực hành quyền công tố của
VKSND đã giúp cho công tác điều tra bảo đảm tính khách quan, đúng người, đúng
tội và đúng pháp luật, hạn chế oan, sai, bỏ lọt tội phạm; hỗ trợ cho CQCSĐT thực
hiện nhiệm vụ điều tra. Hoạt động điều tra của CQCSĐT đã góp phần quan trọng
cho công tác thực hành quyền công tố của VKSND ở cả giai đoạn điều tra cũng như
trong quá trình xét xử…[1, tr.48].
Nói một cách cụ thể, trong TTHS, VKSND và CQCSĐT không chỉ có mối
quan hệ phối hợp với nhau mà VKSND có sự chế ước hoạt động của CQCSĐT.
26
Tuy không thể phân định rành mạch về lượng giữa hai yếu tố này, song căn cứ vào
từng chế định tố tụng cụ thể, chúng ta thấy rằng xuất phát từ tính chất của mỗi hoạt
động tố tụng nhất định thì yếu tố phối hợp hoặc chế ước được đề cao. Chẳng hạn,
trong việc điều tra, thu thập chứng cứ, tài liệu thì các quy định của pháp luật chủ
yếu tập trung vào yếu tố phối hợp giữa hai cơ quan này như: khám nghiệm hiện
trường, khám nghiệm tử thi… để đảm bảo cho CQCSĐT chủ động, nhanh chóng,
kịp thời thu giữ các chứng cứ, tài liệu chứng minh hành vi phạm tội của bị can.
Nhưng khi áp dụng các biện pháp tố tụng liên quan đến quyền con người như: Các
biện pháp ngăn chặn, pháp luật quy định quyền chế ước của VKSND đối với hoạt
động của CQCSĐT rất chặt chẽ và đòi hỏi VKSND phải phê chuẩn trước khi
CQCSĐT thi hành (trừ trường hợp bắt khẩn cấp, quả tang, truy nã hoặc tạm giữ) vì
những hoạt động tố tụng này liên quan trực tiếp đến quyền con người trong TTHS.
Quá trình thực hiện mối quan hệ tố tụng này cũng đòi hỏi mỗi chủ thể phải
sử dụng đúng mức và linh hoạt hai yếu tố phối hợp và chế ước, nhất là đối với
VKSND. Trong quá trình tiến hành tố tụng, nếu VKSND thực hiện sự phối hợp
không đúng bản chất hoặc chỉ phối hợp mà không chế ước sẽ dẫn đến hiện tượng
hữu khuynh, nể nang, né tránh hoặc phụ thuộc vào CQCSĐT, hoặc không kiên
quyết đấu tranh bảo vệ chân lý, bảo vệ lẽ phải vì thiếu bản lĩnh nghề nghiệp. Hậu
quả dẫn đến những thiếu sót, vi phạm của CQCSĐT, ĐTV sẽ không được VKSND,
KSV yêu cầu khắc phục, bổ sung dẫn đến phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung, vụ án
bị đình chỉ hoặc bị Tòa án tuyên bị cáo không phạm tội…
Ngược lại, nếu VKSND thực hiện sự chế ước không đúng hoặc chỉ có chế
ước mà không có sự phối hợp sẽ dẫn đến hiện tượng tả khuynh “quyền anh, quyền
tôi” làm ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả hoạt động chung của hai cơ quan. Trên
thực tế, một số KSV chỉ tìm những thiếu sót, sai phạm của ĐTV, CQCSĐT để báo
cáo thành tích hoặc cho rằng đó là nhiệm vụ chính, mà không nhận thức được rằng
KSV không thể đứng ngoài nhiệm vụ của ĐTV mà phải cùng với ĐTV tháo gỡ khó
khăn, vướng mắc để tìm kiếm chứng cứ chứng minh và làm rõ sự thật của vụ án
nhằm xử lý theo quy định của pháp luật.
27
Do vậy, việc sử dụng đúng đắn, linh hoạt hai yếu tố phối hợp và chế ước
giữa VKSND và CQCSĐT trong quá trình tiến hành tố tụng hình sự sẽ góp phần tạo
ra sức mạnh tổng hợp, đồng bộ trong quá trình đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Đây là đặc điểm ưu việt của hệ thống pháp luật và hệ thống các cơ quan tiến hành tố
tụng của Việt Nam, cần được kế thừa, phát triển trong quá trình cải cách tư pháp
hiện nay.
Tóm lại, mối quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT cấp tỉnh trong ĐTVAHS là
sự phối hợp và chế ước của VKSND với CQCSĐT cùng cấp trong giai đoạn
ĐTVAHS, nhằm bảo đảm phát hiện tội phạm, điều tra vụ án đúng quy định của
pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.
1.2.2. Đặc điểm của mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh và Cơ
quan cảnh sát điều tra cấp tỉnh trong điều tra vụ án hình sự
Trước yêu cầu giải quyết VAHS nhằm bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con
người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân mà VKSND có nghĩa vụ cùng
với CQCSĐT thực hiện những nhiệm vụ theo quy định của pháp luật nhằm bảo đảm
phát hiện chính xác và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, phòng ngừa,
ngăn chặn tội phạm, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Mối quan
hệ này chì xuất hiện khi VKSND và CQCSĐT cùng giải quyết một VAHS. Do đó,
đặc điểm mối quan hệ giữa VKSND cấp tỉnh và CQCSĐT cấp tỉnh trong ĐTVAHS,
thể hiện ở những đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, mối quan hệ phối hợp, chế ước được thực hiện ngay từ giai đoạn
đầu của quá trình tiến hành tố tụng. Trong các cơ quan tiến hành tố tụng thì
VKSND và CQCSĐT có mối quan hệ tố tụng ngay từ khi tội phạm xảy ra,
CQCSĐT cấp tỉnh có trách nhiệm thông báo cho VKSND cùng cấp để VKSND tiến
hành các hoạt động tố tụng như khám nghiệm hiện trường, kiểm sát việc khởi tố.
Thứ hai, quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT bị chi phối bởi phương pháp
điều chỉnh của BLTTHS, trên cơ sở đó, các cơ quan tiến hành tố tụng được tiến
hành các hoạt động tố tụng theo chức năng, nhiệm vụ của mình trong khuôn khổ
28
pháp luật và hoạt động độc lập. VKSND và CQCSĐT không cùng trong một hệ
thống thuộc bộ máy Nhà nước nên quan hệ giữa hai cơ quan này không phải là quan
hệ chấp hành, điều hành như các cơ quan hành chính Nhà nước mà phải coi là quan
hệ TTHS. BLTTHS quy định VKSND thực hành quyền công tố và kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong TTHS; giao cho CQCSĐT tiến hành hoạt động điều tra
nhằm làm rõ hành vi vi phạm pháp luật hình sự. Hai cơ quan này đều có nhiệm vụ
làm rõ sự thật vụ án, đảm bảo việc tuân thủ pháp luật một cách chặt chẽ.
Nhiệm vụ quan trọng nhất của hai cơ quan này là phải thực hiện đúng quy
định của pháp luật khi giải quyết án. Thấy được bản chất của mối quan hệ giữa
VKSND và CQCSĐT giúp cho việc “khắc phục những nhận thức sai lệch rằng
CQCSĐT như cấp dưới của VKSND trong tố tụng hoặc CQCSĐT ngang bằng
VKSND hoặc VKSND phải phụ thuộc CCSĐT” [12, tr. 34].
Thứ ba, mối quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT là quan hệ bị chi phối bởi
các nguyên tắc của TTHS. Trên cơ sở đó, mối quan hệ giữa hai cơ quan này bị chi
phối bởi nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa; nguyên tắc tôn trọng và
bảo vệ các quyền cơ bản của công dân; Nguyên tắc xác định sự thật của vụ án được
BLTTHS năm 2003 quy định; và những nguyên tắc mới được bổ sung tại BLTTHS
năm 2015 như: nguyên tắc suy đoán vô tội, nguyên tắc không ai bị kết án hai lần vì
một tội phạm, nguyên tắc tuân thủ pháp luật của CQĐT, nguyên tắc kiểm tra, giám
sát trong hoạt động TTHS… Việc thực hiện đúng các nguyên tắc của TTHS chính
là sự đảm bảo cho quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT được thực hiện trên thực tế.
Thứ tư, mối quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT trong ĐTVAHS là quan hệ
phối hợp mang tính tất yếu, khách quan. Nó nảy sinh một cách khách quan ngay
chính trong sự tồn tại và hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ của hai cơ quan này.
VKSND và CQCSĐT có chức năng, nhiệm vụ độc lập với nhau nhưng có quan hệ
mật thiết, chặt chẽ và tương hỗ nhau. Đây cũng là ưu điểm của mô hình tố tụng,
phản ánh cách thức tổ chức bộ máy Nhà nước ta trong việc phối hợp và phân công
thực hiện chức năng, nhiệm vụ. Trong từng chế định TTHS, VKSND và CQCSĐT
đều có sự gắn bó chặt chẽ, nhiều hoạt động tố tụng mà sự tham gia của VKSND/
29
KSV là bắt buộc như: khám nghiệm hiện trường, tử thi, phê chuẩn quyết định khởi
tố bị can… Song đặc trưng cơ bản của mối quan hệ tố tụng là hoạt động của chủ thể
này có tác động đối với chủ thể kia và đối với cả mối quan hệ tố tụng. Nếu hoạt
động điều tra có căn cứ sẽ bảo đảm để VKSND truy tố và tranh tụng có căn cứ,
đúng pháp luật. Ngược lại nếu VKSND làm tốt công tác thực hành quyền công tố và
kiểm sát điều tra thì sẽ góp phần bảo đảm cho hoạt động điều tra đúng pháp luật,
không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm.
Thứ năm, mối quan hệ phối hợp giữa VKSND và CQCSĐT diễn ra trong
suốt quá trình ĐTVAHS; từ khi tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, khởi tố về vụ
án; trong tiến hành điều tra và đến khi hoàn thành bản kết luận điều tra, đề nghị truy
tố người phạm tội và kết thúc ĐTVAHS. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn của mình, giữa VKSND và CQCSĐT tất yếu sẽ nảy sinh các mối quan
hệ mà việc nhận thức đúng và vận dụng nó, sẽ có ảnh hưởng tích cực đến kết quả
giải quyết VAHS. Xuất phát từ bản chất của mối quan hệ giữa VKSND và
CQCSĐT, mà nội dung và hình thức thể hiện mối quan hệ đó thể hiện trong toàn bộ
các hoạt động trong quá trình ĐTVAHS. Từ hoạt động khởi tố đến các hoạt động
điều tra và kết thúc điều tra, lập hồ sơ đề nghị truy tố. Theo quy định của pháp luật
TTHS hiện hành, việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm là trách
nhiệm của CQCSĐT và trách nhiệm giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm chỉ mới
được bổ sung cho VKSND theo BLTTHS năm 2015. VKSND có trách nhiệm tiếp
nhận, kiểm tra việc thẩm tra, xác minh và việc xử lý các thông tin về tội phạm của
CQCSĐT hoặc trực tiếp giải quyết khi CQCSĐT có vi phạm pháp luật nghiêm
trọng hoặc bỏ lọt tội phạm mà VKSND đã yêu cầu nhưng không khắc phục. Quyết
định khởi tố vụ án hoặc quyết định không khởi tố VAHS của CQCSĐT được
VKSND kiểm sát chặt chẽ. Việc xem xét tính có căn cứ và hợp pháp quyết định
khởi tố của CQCSĐT là quá trình thực hành quyền công tố của VKSND. Toàn bộ
hoạt động của CQCSĐT từ việc khởi tố bị can; áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ các
biện pháp ngăn chặn; tiến hành các biện pháp điều tra và kết thúc điều tra, lập hồ sơ
30
đề nghị truy tố người phạm tội đều gắn với trách nhiệm thực hành quyền công tố và
kiểm sát điều tra của VKSND.
Vì vậy, nhận thức đúng đắn đặc trưng cơ bản này cũng là để đảm bảo thực
hiện một vấn đề có tính nguyên tắc trong mối quan hệ giữa hai cơ quan, đó là tính
thường xuyên, liên tục trong mối quan hệ. Do đó, bên cạnh việc nâng cao nhận thức
đúng đắn và đầy đủ về mối quan hệ này, còn cần phải hình thành và củng cố cơ chế
thực thi quan hệ thiết thực và có hiệu quả.
1.2.3. Nội dung mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh và Cơ quan
cảnh sát điều tra cấp tỉnh trong điều tra vụ án hình sự
Khái niệm “nội dung” được hiểu là “cái chứa đựng bên trong hình thức, là
bản chất sự vật” [44, tr.1280].
Tác giả không đi sâu vào khái niệm nội dung cũng như kết cấu bên trong của
một sự vât nào đó cụ thể, bởi đối tượng nghiên cứu ở đây là hoạt động của các chủ
thể trong quan hệ phối hợp và chế ước, nên nội dung của mối quan hệ giữa VKSND
và CQCSĐT cấp tỉnh trong ĐTVAHS là những vấn đề mà hai bên cùng hướng tới
nhằm đánh giá, kết luận những vấn đề cần chứng minh trong VAHS. Tuy nhiên,
trong các hoạt động tố tụng có thể vừa có sự phối hợp, vừa có sự chế ước đan xen
nên khó tách bạch riêng mỗi loại trong hoạt động tố tụng.
Nội dung cụ thể về quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT trong giai đoạn
ĐTVAHS, bao gồm:
Thứ nhất, mối quan hệ trong tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm, kiến nghị khởi tố và khởi tố VAHS.
Việc phát hiện, tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị
khởi tố là hoạt động điều tra ban đầu của quá trình tố tụng. Hoạt động này có ý
nghĩa rất quan trọng, đảm bảo thực hiện nguyên tắc mọi tội phạm xảy ra đều phải
được phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh trước pháp luật.
BLTTHS năm 2003 chưa có quy định về khái niệm tin báo, tố giác tội phạm,
kiến nghị khởi tố, để khắc phục những hạn chế này cũng như quy hợp các văn bản
hướng dẫn vào chung một đầu mối nên BLTTHS năm 2015 đã quy định rất cụ thể
31
về những nội dung này như sau: Tố giác về tội phạm là việc cá nhân phát hiện và tố
cáo hành vi có dấu hiệu tội phạm với cơ quan có thẩm quyền. Tin báo về tội phạm
là thông tin về vụ việc có dấu hiệu tội phạm do cơ quan, tổ chức, cá nhân thông báo
với cơ quan có thẩm quyền hoặc thông tin về tội phạm trên phương tiện thông tin
đại chúng. Kiến nghị khởi tố là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiến nghị
bằng văn bản và gửi k m theo chứng cứ, tài liệu liên quan cho CQĐT, VKSND có
thẩm quyền xem xét, xử lý vụ việc có dấu hiệu tội phạm.
Nội dung sự phối hợp trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và
kiến nghị khởi tố là ở chỗ cả CQCSĐT với VKSND đều có trách nhiệm tiếp nhận
và bảo đảm việc xử lý theo đúng quy định của pháp luật. Các hoạt động của
CQCSĐT là bảo đảm thủ tục tiếp nhận, phân loại tin, tiến hành các biện pháp xác
minh tính xác thực của nội dung tin để ra quyết định khởi tố hay không khởi tố
VAHS được đặt dưới sự kiểm sát của VKSND.
Nội dung của sự chế ước trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và
kiến nghị khởi tố là quyền quyết định của VKSND khi phát hiện CQCSĐT có vi
phạm pháp luật nghiêm trọng trong hoạt động kiểm tra, xác minh tố giác, tin báo về
tội phạm, kiến nghị khởi tố hoặc có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm mà VKSND đã yêu
cầu bằng văn bản nhưng không được khắc phục thì VKSND trực tiếp giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố (Điều 145).
Trong việc khởi tố vụ án, quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT chủ yếu được
thực hiện trên cơ sở phối hợp. Theo đó, để tạo điều kiện cho VKSND thực hiện
chức năng kiểm sát việc khởi tố VAHS, CQCSĐT phải gửi kịp thời và đầy đủ quyết
định khởi tố VAHS hoặc quyết định không khởi tố VAHS, cùng toàn bộ hồ sơ tài
liệu liên quan đã thu thập được đến VKSND. VKSND phải kiểm sát chặt chẽ việc
gửi kịp thời quyết định khởi tố, quyết định không khởi tố VAHS của CQCSĐT để
tránh tình trạng vụ án đã khởi tố nhưng chỉ gửi khi cần có sự phê chuẩn quyết định
khởi tố bị can hoặc khi phải phê chuẩn các lệnh, quyết định gia hạn tạm giữ, tạm
giam. Hoạt động kiểm sát việc khởi tố đòi hỏi VKSND phải kiểm tra tính có căn cứ
và hợp pháp cả về hình thức và nội dung của quyết định khởi tố.
32
Công tác kiểm sát việc khởi tố có ý nghĩa rất quan trọng, nó đảm bảo loại trừ
ngay từ ban đầu các vi phạm, thiếu sót của CQCSĐT để cơ quan này có biện pháp
khắc phục, tránh xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, những người
tham gia tố tụng và hạn chế những hao tổn về thời gian và công sức của các cơ quan
trong quá trình tố tụng tiếp theo.
Thứ hai, nội dung mối quan hệ trong việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ các
biện pháp ngăn chặn trong ĐTVAHS
Biện pháp ngăn chặn trong TTHS là những biện pháp can thiệp nghiêm
trọng đến các quyền con người, quyền công dân, nhất là biện pháp tạm giữ, tạm
giam nên chỉ áp dụng khi thật sự cần thiết. Do đó, trong quá trình điều tra vụ án
CQCSĐT phải tránh tình trạng lợi dụng biện pháp ngăn chặn. Việc bảo đảm áp
dụng biện pháp ngăn chặn đúng pháp luật là trách nhiệm của VKSND, vì “
VKSND chịu trách nhiệm về những oan sai trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam
thuộc phạm vi thẩm quyền phê chuẩn của mình” [2, tr.5]. Chính vì vậy, sự chế
ước biểu hiện tập trung trong các hoạt động áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ các
biện pháp ngăn chặn trong ĐTVAHS.
Đối với việc bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội
quả tang, bắt người đang bị truy nã, bắt bị can, bị cáo để tạm giam, bắt người bị yêu
cầu dẫn độ đều phải có sự phê chuẩn của VKSND cùng cấp trước hoặc sau khi thực
hiện. Đối với việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác: trong phạm vi chức năng
của mình, VKSND phải xem xét lý do căn cứ mà CQCSĐT đã áp dụng các biện
pháp ngăn chặn nói trên.
Nội dung mối quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT trong việc áp dụng, thay
đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn được thể hiện tập trung vào quyền năng chế ước
của VKSND đối với CQCSĐT. Mặc dù CQCSĐT có thẩm quyền trong quyết định
áp dụng biện pháp ngăn chặn, nhưng để các biện pháp ngăn chặn này đúng đắn và
có hiệu lực thì cần có sự phê chuẩn của VKSND mới có giá trị pháp lý. Hơn nữa,
đối với những biện pháp ngăn chặn do VKSND phê chuẩn trong giai đoạn điều tra
thì việc hủy bỏ hoặc thay thế bằng biện pháp ngăn chặn khác phải do VKSND quyết
33
định đã khẳng định vai trò rất lớn của VKSND trong các trường hợp này, điều này
đã chuyển trách nhiệm của CQCSĐT sang VKSND, vì vậy VKSND phải chủ động,
tích cực và nâng cao hiệu quả hoạt động của mình trong việc phê chuẩn, thay đổi,
hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn luật định.
Thứ ba, mối quan hệ trong tiến hành các hoạt động điều tra thu thập, củng
cố chứng cứ, kết thúc điều tra, lập h sơ đề nghị xử lý vụ án
Trong các hoạt động điều tra thu tập tài liệu chứng cứ như: khám nghiệm
hiện trường, khám xét, thu giữ và bảo quản vật chứng, hỏi cung bị can, khám xét,
lấy lời khai, đối chất, nhận dạng, thực nghiệm điều tra…CQCSĐT phải chủ động
phối hợp, thông báo cung cấp tình hình và kết quả thực hiện các hoạt động điều tra
theo quy định.
Chẳng hạn, để tổ chức khám nghiệm hiện trường đạt kết quả tốt, trách nhiệm
của CQCSĐT là phải thông báo kịp thời và đầy đủ sự việc đã xảy ra cho VKSND
cùng cấp trước khi tiến hành khám nghiệm hiện trường, để VKSND tham gia ý kiến
vào việc chuẩn bị khám nghiệm và chủ động trong công tác kiểm sát khám nghiệm.
Trong việc khám xét, thu giữ, tạm giữ, kê biên tài sản, vật chứng: Khám xét
là hoạt động điều tra nhằm tìm kiếm dấu vết tội phạm, vật chứng, đồ vật, tài liệu có
liên quan đến vụ án hoặc để phát hiện người đang bị truy nã. Khám xét người, chỗ
ở, nơi làm việc, địa điểm, phương tiện chỉ được tiến hành khi có căn cứ để nhận
định trong người, chỗ ở, nơi làm việc, địa điểm, phương tiện có công cụ, phương
tiện phạm tội, tài liệu, đồ vật, tài sản do phạm tội mà có hoặc đồ vật, dữ liệu điện tử,
tài liệu khác có liên quan đến vụ án. Việc khám xét chỗ ở, nơi làm việc, địa điểm,
phương tiện cũng được tiến hành khi cần phát hiện người đang bị truy nã, truy tìm
và giải cứu nạn nhân. Tuy nhiên, khám xét thường liên quan đến quyền bất khả xâm
phạm về thân thể, danh dự, uy tín… của công dân, nên hoạt động khám xét phải hết
sức thận trọng, phải tuân theo những quy định của BLTTHS.Theo quy định của
BLTTHS, hoạt động khám xét được chia ra hai trường hợp: (1) Khám xét trong
trường hợp bình thường, lệnh khám xét của CQCSĐT phải có sự phê chuẩn của
VKSND trước khi tiến hành (khoản 1 Điều 141 BLTTHS 2003, điều 1 điều 193
Luận văn: Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát điều tra
Luận văn: Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát điều tra
Luận văn: Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát điều tra
Luận văn: Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát điều tra
Luận văn: Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát điều tra
Luận văn: Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát điều tra
Luận văn: Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát điều tra
Luận văn: Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát điều tra
Luận văn: Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát điều tra
Luận văn: Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát điều tra
Luận văn: Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát điều tra
Luận văn: Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát điều tra
Luận văn: Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát điều tra
Luận văn: Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát điều tra
Luận văn: Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát điều tra
Luận văn: Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát điều tra
Luận văn: Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát điều tra
Luận văn: Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát điều tra
Luận văn: Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát điều tra
Luận văn: Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát điều tra
Luận văn: Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát điều tra
Luận văn: Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát điều tra
Luận văn: Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát điều tra
Luận văn: Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát điều tra
Luận văn: Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát điều tra
Luận văn: Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát điều tra
Luận văn: Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát điều tra
Luận văn: Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát điều tra
Luận văn: Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát điều tra
Luận văn: Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát điều tra
Luận văn: Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát điều tra
Luận văn: Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát điều tra
Luận văn: Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát điều tra
Luận văn: Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát điều tra
Luận văn: Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát điều tra
Luận văn: Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát điều tra
Luận văn: Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát điều tra
Luận văn: Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát điều tra
Luận văn: Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát điều tra
Luận văn: Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát điều tra
Luận văn: Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát điều tra
Luận văn: Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát điều tra
Luận văn: Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát điều tra
Luận văn: Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát điều tra
Luận văn: Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát điều tra
Luận văn: Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát điều tra
Luận văn: Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát điều tra
Luận văn: Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát điều tra
Luận văn: Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát điều tra
Luận văn: Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát điều tra
Luận văn: Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát điều tra
Luận văn: Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát điều tra
Luận văn: Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát điều tra
Luận văn: Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát điều tra
Luận văn: Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát điều tra
Luận văn: Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát điều tra
Luận văn: Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát điều tra
Luận văn: Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát điều tra
Luận văn: Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát điều tra
Luận văn: Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát điều tra
Luận văn: Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát điều tra
Luận văn: Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát điều tra
Luận văn: Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát điều tra
Luận văn: Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát điều tra
Luận văn: Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát điều tra
Luận văn: Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát điều tra
Luận văn: Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát điều tra
Luận văn: Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát điều tra
Luận văn: Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát điều tra
Luận văn: Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát điều tra
Luận văn: Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát điều tra
Luận văn: Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát điều tra
Luận văn: Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát điều tra
Luận văn: Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát điều tra
Luận văn: Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát điều tra

More Related Content

What's hot

Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAYĐề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAYViết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 
Báo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú Yên
Báo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú YênBáo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú Yên
Báo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú YênDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 

What's hot (20)

Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy theo Luật hình sự, HOT
Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy theo Luật hình sự, HOTTội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy theo Luật hình sự, HOT
Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy theo Luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Luận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOTLuận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Luận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
 
Luận văn: Hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo, HOT
Luận văn: Hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo, HOTLuận văn: Hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo, HOT
Luận văn: Hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo, HOT
 
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam Định
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam ĐịnhLuận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam Định
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam Định
 
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sự
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sựLuận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sự
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sự
 
Luận văn: Giải quyết vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài, HAY
Luận văn: Giải quyết vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài, HAYLuận văn: Giải quyết vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài, HAY
Luận văn: Giải quyết vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài, HAY
 
Luận văn: Công chứng, chứng thực các giao dịch về đất đai, HAY
Luận văn: Công chứng, chứng thực các giao dịch về đất đai, HAYLuận văn: Công chứng, chứng thực các giao dịch về đất đai, HAY
Luận văn: Công chứng, chứng thực các giao dịch về đất đai, HAY
 
Luận văn: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAYLuận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
 
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của Công an xã, thị trấn, HAY
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của Công an xã, thị trấn, HAYLuận văn: Tổ chức và hoạt động của Công an xã, thị trấn, HAY
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của Công an xã, thị trấn, HAY
 
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
 
Luận văn: Tội trốn thuế theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trốn thuế theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội trốn thuế theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trốn thuế theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hành chính ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hành chính ở Việt Nam, HOTLuận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hành chính ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hành chính ở Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Tình hình tội phạm trên địa bàn quận 9, Tp Hồ Chí Minh
Luận văn: Tình hình tội phạm trên địa bàn quận 9, Tp Hồ Chí MinhLuận văn: Tình hình tội phạm trên địa bàn quận 9, Tp Hồ Chí Minh
Luận văn: Tình hình tội phạm trên địa bàn quận 9, Tp Hồ Chí Minh
 
Luận văn: Xử phạt vi phạm hành chính về lĩnh vực giao thông đường bộ
Luận văn: Xử phạt vi phạm hành chính về lĩnh vực giao thông đường bộLuận văn: Xử phạt vi phạm hành chính về lĩnh vực giao thông đường bộ
Luận văn: Xử phạt vi phạm hành chính về lĩnh vực giao thông đường bộ
 
Luận văn: Quản lý nhà nước về công chứng tại tỉnh Quảng Ngãi, 9đ
Luận văn: Quản lý nhà nước về công chứng tại tỉnh Quảng Ngãi, 9đLuận văn: Quản lý nhà nước về công chứng tại tỉnh Quảng Ngãi, 9đ
Luận văn: Quản lý nhà nước về công chứng tại tỉnh Quảng Ngãi, 9đ
 
Luận văn: Phòng ngừa các tội xâm phạm sở hữu tại Tp Hà Nội
Luận văn: Phòng ngừa các tội xâm phạm sở hữu tại Tp Hà NộiLuận văn: Phòng ngừa các tội xâm phạm sở hữu tại Tp Hà Nội
Luận văn: Phòng ngừa các tội xâm phạm sở hữu tại Tp Hà Nội
 
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAYĐề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
 
Báo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú Yên
Báo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú YênBáo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú Yên
Báo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú Yên
 
Đề tài: Đương sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, HOT
Đề tài: Đương sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, HOTĐề tài: Đương sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, HOT
Đề tài: Đương sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, HOT
 

Similar to Luận văn: Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát điều tra

LUẬN ÁN LUẬT HỌC MỐI QUAN HỆ TỐ TỤNG GIỮA CƠ QUAN CẢNH SÁT ĐIỀU TRA VÀ VIỆN K...
LUẬN ÁN LUẬT HỌC MỐI QUAN HỆ TỐ TỤNG GIỮA CƠ QUAN CẢNH SÁT ĐIỀU TRA VÀ VIỆN K...LUẬN ÁN LUẬT HỌC MỐI QUAN HỆ TỐ TỤNG GIỮA CƠ QUAN CẢNH SÁT ĐIỀU TRA VÀ VIỆN K...
LUẬN ÁN LUẬT HỌC MỐI QUAN HỆ TỐ TỤNG GIỮA CƠ QUAN CẢNH SÁT ĐIỀU TRA VÀ VIỆN K...nataliej4
 

Similar to Luận văn: Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát điều tra (20)

Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAYLuận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
 
Luận văn: Tội cản trở việc thi hành án theo Luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội cản trở việc thi hành án theo Luật hình sự, HAYLuận văn: Tội cản trở việc thi hành án theo Luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội cản trở việc thi hành án theo Luật hình sự, HAY
 
Luận văn: Tội cản trở việc thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cản trở việc thi hành án theo Luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội cản trở việc thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cản trở việc thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án Nhân dân
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án Nhân dânLuận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án Nhân dân
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án Nhân dân
 
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án, HAYLuận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án, HAY
 
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong xét xử các vụ án hình sự
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong xét xử các vụ án hình sựLuận văn: Vai trò của Thẩm phán trong xét xử các vụ án hình sự
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong xét xử các vụ án hình sự
 
Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát theo Luật Tố tụng
Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát theo Luật Tố tụngNgười tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát theo Luật Tố tụng
Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát theo Luật Tố tụng
 
Đề tài: Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Đề tài: Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát nhân dân, HAYĐề tài: Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Đề tài: Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát nhân dân, HAY
 
Mối quan hệ tố tụng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra và Viện kiểm sát nhân dân
Mối quan hệ tố tụng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra và Viện kiểm sát nhân dânMối quan hệ tố tụng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra và Viện kiểm sát nhân dân
Mối quan hệ tố tụng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra và Viện kiểm sát nhân dân
 
LUẬN ÁN LUẬT HỌC MỐI QUAN HỆ TỐ TỤNG GIỮA CƠ QUAN CẢNH SÁT ĐIỀU TRA VÀ VIỆN K...
LUẬN ÁN LUẬT HỌC MỐI QUAN HỆ TỐ TỤNG GIỮA CƠ QUAN CẢNH SÁT ĐIỀU TRA VÀ VIỆN K...LUẬN ÁN LUẬT HỌC MỐI QUAN HỆ TỐ TỤNG GIỮA CƠ QUAN CẢNH SÁT ĐIỀU TRA VÀ VIỆN K...
LUẬN ÁN LUẬT HỌC MỐI QUAN HỆ TỐ TỤNG GIỮA CƠ QUAN CẢNH SÁT ĐIỀU TRA VÀ VIỆN K...
 
Đề tài: Vai trò của Kiểm sát viên trong giải quyết vụ án hình sự, HAY
Đề tài: Vai trò của Kiểm sát viên trong giải quyết vụ án hình sự, HAYĐề tài: Vai trò của Kiểm sát viên trong giải quyết vụ án hình sự, HAY
Đề tài: Vai trò của Kiểm sát viên trong giải quyết vụ án hình sự, HAY
 
Luận văn: Xét xử sơ thẩm theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Xét xử sơ thẩm theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Xét xử sơ thẩm theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Xét xử sơ thẩm theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
 
Đề tài: Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra
Đề tài: Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều traĐề tài: Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra
Đề tài: Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra
 
Luận án: Bảo đảm quyền của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án
Luận án: Bảo đảm quyền của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ ánLuận án: Bảo đảm quyền của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án
Luận án: Bảo đảm quyền của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án
 
Luận văn: Quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án hình sự
Luận văn: Quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án hình sựLuận văn: Quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án hình sự
Luận văn: Quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án hình sự
 
Vai trò của Điều tra viên trong giải quyết vụ án hình sự, HOT
Vai trò của Điều tra viên trong giải quyết vụ án hình sự, HOTVai trò của Điều tra viên trong giải quyết vụ án hình sự, HOT
Vai trò của Điều tra viên trong giải quyết vụ án hình sự, HOT
 
Vai trò của Điều tra viên trong giải quyết vụ án tại Hưng Yên, HAY
Vai trò của Điều tra viên trong giải quyết vụ án tại Hưng Yên, HAYVai trò của Điều tra viên trong giải quyết vụ án tại Hưng Yên, HAY
Vai trò của Điều tra viên trong giải quyết vụ án tại Hưng Yên, HAY
 
Luận văn: Áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
Luận văn: Áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sựLuận văn: Áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
Luận văn: Áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
 
Luận văn: Nguyên tắc hai cấp xét xử về bảo vệ quyền con người
Luận văn: Nguyên tắc hai cấp xét xử về bảo vệ quyền con ngườiLuận văn: Nguyên tắc hai cấp xét xử về bảo vệ quyền con người
Luận văn: Nguyên tắc hai cấp xét xử về bảo vệ quyền con người
 
Đề tài: Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền con người
Đề tài: Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền con ngườiĐề tài: Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền con người
Đề tài: Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền con người
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông - Sử 11
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông -  Sử 11cuộc cải cách của Lê Thánh Tông -  Sử 11
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông - Sử 11zedgaming208
 
ĐẢNG LÃNH ĐẠO HAI CUỘC KHÁNG CHIẾN GIÀNH ĐỘC LẬP HOÀN TOÀN, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯ...
ĐẢNG LÃNH ĐẠO HAI CUỘC KHÁNG CHIẾN GIÀNH ĐỘC LẬP HOÀN TOÀN, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯ...ĐẢNG LÃNH ĐẠO HAI CUỘC KHÁNG CHIẾN GIÀNH ĐỘC LẬP HOÀN TOÀN, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯ...
ĐẢNG LÃNH ĐẠO HAI CUỘC KHÁNG CHIẾN GIÀNH ĐỘC LẬP HOÀN TOÀN, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯ...PhcTrn274398
 
200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập PLDC.pdf
200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập  PLDC.pdf200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập  PLDC.pdf
200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập PLDC.pdfdong92356
 
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...Nguyen Thanh Tu Collection
 
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào môBryan Williams
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx
CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptxCHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx
CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx22146042
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...Học viện Kstudy
 
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA GIỮA HỌC KÌ + CUỐI HỌC KÌ 2 NĂ...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA GIỮA HỌC KÌ + CUỐI HỌC KÌ 2 NĂ...ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA GIỮA HỌC KÌ + CUỐI HỌC KÌ 2 NĂ...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA GIỮA HỌC KÌ + CUỐI HỌC KÌ 2 NĂ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tếMa trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tếngTonH1
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxnhungdt08102004
 
TỔNG HỢP 30 ĐỀ THI CHỌN HSG CÁC TRƯỜNG THPT CHUYÊN VÙNG DUYÊN HẢI & ĐỒNG BẰNG...
TỔNG HỢP 30 ĐỀ THI CHỌN HSG CÁC TRƯỜNG THPT CHUYÊN VÙNG DUYÊN HẢI & ĐỒNG BẰNG...TỔNG HỢP 30 ĐỀ THI CHỌN HSG CÁC TRƯỜNG THPT CHUYÊN VÙNG DUYÊN HẢI & ĐỒNG BẰNG...
TỔNG HỢP 30 ĐỀ THI CHỌN HSG CÁC TRƯỜNG THPT CHUYÊN VÙNG DUYÊN HẢI & ĐỒNG BẰNG...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hocBai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hocVnPhan58
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxendkay31
 
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tếHệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tếngTonH1
 

Recently uploaded (20)

10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
 
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông - Sử 11
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông -  Sử 11cuộc cải cách của Lê Thánh Tông -  Sử 11
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông - Sử 11
 
ĐẢNG LÃNH ĐẠO HAI CUỘC KHÁNG CHIẾN GIÀNH ĐỘC LẬP HOÀN TOÀN, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯ...
ĐẢNG LÃNH ĐẠO HAI CUỘC KHÁNG CHIẾN GIÀNH ĐỘC LẬP HOÀN TOÀN, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯ...ĐẢNG LÃNH ĐẠO HAI CUỘC KHÁNG CHIẾN GIÀNH ĐỘC LẬP HOÀN TOÀN, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯ...
ĐẢNG LÃNH ĐẠO HAI CUỘC KHÁNG CHIẾN GIÀNH ĐỘC LẬP HOÀN TOÀN, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯ...
 
200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập PLDC.pdf
200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập  PLDC.pdf200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập  PLDC.pdf
200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập PLDC.pdf
 
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
 
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx
CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptxCHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx
CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
 
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
 
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA GIỮA HỌC KÌ + CUỐI HỌC KÌ 2 NĂ...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA GIỮA HỌC KÌ + CUỐI HỌC KÌ 2 NĂ...ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA GIỮA HỌC KÌ + CUỐI HỌC KÌ 2 NĂ...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA GIỮA HỌC KÌ + CUỐI HỌC KÌ 2 NĂ...
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tếMa trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
 
TỔNG HỢP 30 ĐỀ THI CHỌN HSG CÁC TRƯỜNG THPT CHUYÊN VÙNG DUYÊN HẢI & ĐỒNG BẰNG...
TỔNG HỢP 30 ĐỀ THI CHỌN HSG CÁC TRƯỜNG THPT CHUYÊN VÙNG DUYÊN HẢI & ĐỒNG BẰNG...TỔNG HỢP 30 ĐỀ THI CHỌN HSG CÁC TRƯỜNG THPT CHUYÊN VÙNG DUYÊN HẢI & ĐỒNG BẰNG...
TỔNG HỢP 30 ĐỀ THI CHỌN HSG CÁC TRƯỜNG THPT CHUYÊN VÙNG DUYÊN HẢI & ĐỒNG BẰNG...
 
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hocBai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
 
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tếHệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
 

Luận văn: Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát điều tra

  • 1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ ………/……… .…../…… HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA NGUYỄN THỊ TÚ VƢƠNG MỐI QUAN HỆ GIỮA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH VÀ CƠ QUAN CẢNH SÁT ĐIỀU TRA TỈNH PHÚ YÊN TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ Chuyên ngành: Luật Hiến pháp – Luật Hành chính Mã số: 60 38 01 02 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS LÊ THỊ HƢƠNG THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2017
  • 2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn với đề tài “Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân tỉnh và Cơ quan cảnh sát điều tra tỉnh Phú Yên trong điều tra vụ án hình sự” là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi. Các số liệu trong luận văn có nguồn gốc, do học viên tự thu thập và chịu trách nhiệm, kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu khoa học nào trước đây. Phú Yên, ngày tháng năm 2017 Học viên Nguyễn Thị Tú Vƣơng
  • 3. Lời Cảm Ơn Trong thời gian học tập täi Học viện hành chính Quốc gia, tôi đã được Quý Thæy giáo, Cô giáo cûa Học viện hành chính Quốc gia nói chung và Khoa Nhà nước và Pháp luật, khoa Sau đäi học nói riêng đã truyền đät những kiến thức xã hội và chuyên môn vô cùng quý giá câ về lý thuyết và thực tiễn. Những kiến thức hữu ích đó sẽ là hành trang giúp tôi trưởng thành và tự tin thực hiện công việc chuyên môn ngày càng tốt hơn và hiệu quâ hơn. Trước hết, tôi xin chån thành câm ơn tới Quý Thæy, Cô giáo Học viện Hành chính Quốc gia. Phòng đào täo sau đäi học, khoa Nhà nước và Pháp luật cûa Trường đã cho phép và täo điều kiện tốt nhçt để tôi hoàn thành luận văn này. Tôi xin bày tô lòng biết ơn såu sắc tới PGS. TS. Lê Thị Hương là người trực tiếp hướng dẫn tôi trong suốt quá trình học tập nghiên cứu và hoàn thành luận văn này. Tôi xin câm ơn tới Viện kiểm sát nhån dån tînh Phú Yên và Cơ quan cânh sát điều tra tînh Phú Yên đã giúp đỡ và täo mọi điều kiện thuận lời cho tôi hoàn thành luận văn. Học viên Nguyễn Thị Tú Vương
  • 4. MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cam đoan Lời cảm ơn Mục lục Danh mục các chữ viết tắt MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP TỈNH VÀ CƠ QUAN CẢNH SÁT ĐIỀU TRA CẤP TỈNH TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ .............................................9 1.1. Khái quát về Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh và Cơ quan cảnh sát điều tra cấp tỉnh trong điều tra vụ án hình sự ......................................................................9 1.1.1. Nhận thức chung về điều tra vụ án hình sự..............................................9 1.1.2. Thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh trong điều tra vụ án hình sự ..............................................................................................................12 1.1.3. Thẩm quyền của Cơ quan cảnh sát điều tra cấp tỉnh trong điều tra vụ án hình sự ..............................................................................................................15 1.2. Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh và Cơ quan cảnh sát điều tra cấp tỉnh trong điều tra vụ án hình sự ...............................................................16 1.2.1. Bản chất mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh và Cơ quan cảnh sát điều tra cấp tỉnh trong điều tra vụ án hình sự ...................................16 1.2.2. Đặc điểm của mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh và Cơ quan cảnh sát điều tra cấp tỉnh trong điều tra vụ án hình sự ..........................27 1.2.3. Nội dung mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh và Cơ quan cảnh sát điều tra cấp tỉnh trong điều tra vụ án hình sự ...................................30 1.2.4. Các hình thức thể hiện mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh và Cơ quan cảnh sát điều tra cấp tỉnh trong điều tra vụ án hình sự ........36 Kết luận chương 1.................................................................................................38
  • 5. Chương 2: TÌNH HÌNH TỘI PHẠM VÀ THỰC TRẠNG MỐI QUAN HỆ GIỮA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH VÀ CƠ QUAN CẢNH SÁT ĐIỀU TRA TỈNH PHÚ YÊN TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ .............39 2.1. Tình hình tội phạm và kết quả điều tra vụ án hình sự tại tỉnh Phú Yên ........39 2.1.1. Tình hình tội phạm tại tỉnh Phú Yên.......................................................39 2.1.2. Kết quả điều tra vụ án hình sự tại tỉnh Phú Yên ....................................41 2.2. Thực trạng mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân tỉnh và Cơ quan cảnh sát điều tra tỉnh Phú Yên trong điều tra vụ án hình sự .........................................44 2.2.1. Trong giai đoạn tiếp nhận và giải quyết tin báo, tố giác tội phạm, kiến nghị khởi tố.......................................................................................................44 2.2.2. Trong khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can ...........................................48 2.2.3. Trong áp dụng, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn ..................................51 2.2.4. Trong tổ chức điều tra, thu thập, củng cố chứng cứ chứng minh tội phạm .................................................................................................................54 2.2.5. Trong kết thúc điều tra, đề nghị xử lý vụ án...........................................60 2.3. Đánh giá chung về mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Yên và Cơ quan cảnh sát điều tra tỉnh Phú Yên trong điều tra vụ án hình sự .............62 2.3.1. Ưu điểm và nguyên nhân của ưu điểm ...................................................62 2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân của hạn chế....................................................65 Kết luận chương 2.................................................................................................70 Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG MỐI QUAN HỆ GIỮA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH VÀ CƠ QUAN CẢNH SÁT ĐIỀU TRA TỈNH PHÚ YÊN TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ.............................................71 3.1. Sự cần thiết tăng cường mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân tỉnh và Cơ quan cảnh sát điều tra tỉnh Phú Yên trong điều tra vụ án hình sự ........................71 3.2. Một số giải pháp tăng cường mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân tỉnh và Cơ quan cảnh sát điều tra tỉnh Phú Yên trong điều tra vụ án hình sự .............74
  • 6. 3.2.1. Nâng cao nhận thức của Kiểm sát viên và và Điều tra viên về vai trò và mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân tỉnh và Cơ quan cảnh sát điều tra tỉnh Phú Yên trong điều tra vụ án hình sự........................................................74 3.2.2. Tiếp tục hoàn thiện và thể chế hóa bằng văn bản pháp luật về mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân tỉnh và Cơ quan cảnh sát điều tra tỉnh trong điều tra vụ án hình sự.......................................................................................78 3.2.3. Xây dựng cơ chế thực thi mang tính pháp lý về mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân tỉnh và Cơ quan cảnh sát điều tra tỉnh trong điều tra vụ án hình sự ..............................................................................................................85 3.2.4. Tăng cư ng ngu n nhân lực của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh và Cơ quan cảnh sát điều tra tỉnh Phú Yên trong điều tra vụ án hình sự ..................89 Kết luận chương 3.................................................................................................99 KẾT LUẬN............................................................................................................100
  • 7. DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT CHỮ VIẾT TẮT VIẾT ĐẦY ĐỦ ANĐT An ninh điều tra BCA Bộ Công an BLHS năm 2015 Bộ luật Hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam số 100/2015/QH13 ngày 27 tháng 11 năm 2015 BLTTHS năm 2003 Bộ luật Tố tụng Hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam số 19/2003/QH11 ngày 26 tháng 11 năm 2003 BLTTHS năm 2015 Bộ luật Tố tụng Hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam số 101/2015/QH13 ngày 27 tháng 11 năm 2015 CAND Công an nhân dân CQĐT Cơ quan điều tra CQCSĐT Cơ quan cảnh sát điều tra ĐTV Điều tra viên ĐTVAHS Điều tra vụ án hình sự KSV Kiểm sát viên TAND Tòa án nhân dân TP Thành phố TTHS Tố tụng Hình sự UBND Ủy ban nhân dân VAHS Vụ án hình sự VKSND Viện kiểm sát nhân dân VKSNDTC Viện kiểm sát nhân dân tối cao XHCN Xã hội chủ nghĩa
  • 8. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn Đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật là cuộc đấu tranh gay go, phức tạp và lâu dài, gắn liền với việc thực hiện các mục tiêu ổn định chính trị, xã hội, phát triển kinh tế. Đảng và Nhà nước ta luôn xác định đó là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, của các ngành, các cấp, là một cuộc đấu tranh toàn diện, đồng bộ bằng nhiều biện pháp và trên mọi lĩnh vực, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm và các vi phạm pháp luật, các cơ quan tư pháp giữ vai trò nòng cốt. Trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật luôn đòi hỏi phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa các cơ quan trong việc thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ chung. Sự đòi hỏi này xuất phát từ nguyên tắc tổ chức quyền lực Nhà nước ta, tại Điều 2 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Quyền lực Nhà nước ta tập trung thống nhất ở Nhân dân, Nhân dân là chủ thể của quyền lực Nhà nước. Nhân dân thực hiện quyền lực chủ yếu thông qua Quốc hội - cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất. Quốc hội chủ yếu trực tiếp giám sát các cơ quan Nhà nước ở Trung ương như Chính Phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân. Quốc hội phân công Viện kiểm sát nhân dân (sau đây gọi tắt là VKSND) là cơ quan thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp; Cơ quan cảnh sát điều tra (sau đây gọi tắt là CQCSĐT) thực hiện nhiệm vụ điều tra, trực thuộc hệ thống hành pháp. Trong tiến trình cải cách tư pháp, yêu cầu về việc tăng cường mối quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT luôn được đặt ra trong các Nghị quyết của Bộ Chính trị về cải cách tư pháp (Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02 tháng 01 năm 2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp sắp tới, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020). Theo đó: “cần tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan tư pháp trong hoạt động tố tụng trên cơ sở thực hiện
  • 9. 2 đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan, không hữu khuynh hoặc đùn đẩy trách nhiệm” [3, tr.4]. Trong những năm qua, VKSND và CQCSĐT đã nỗ lực không ngừng để đổi mới, nâng cao chất lượng công tác, trên thực tiễn đã đạt và vượt các chỉ tiêu của Quốc hội giao về nâng cao tỷ lệ giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, tỷ lệ giải quyết án trong giai đoạn điều tra, truy tố; giảm tỷ lệ các vụ án phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung, hạn chế đến mức thấp nhất số vụ án bị oan, sai hoặc bỏ lọt tội phạm, bảo đảm tốt hơn quyền con người, quyền công dân… Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động điều tra của VKSND; công tác điều tra của CQCSĐT còn để xảy ra tình trạng bỏ lọt tội phạm và người phạm tội trong các lĩnh vực, hiện tượng oan, sai vẫn còn tồn tại; án tồn đọng nhiều, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân vẫn còn bị xâm phạm… Trong đó có nhiều nguyên nhân từ chất lượng, hoạt động của CQCSĐT, vai trò của VKSND cũng như mối quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT trong điều tra vụ án hình sự (ĐTVAHS) chưa đảm bảo về chất lượng, hiệu quả. Mặt khác, thực tiễn thi hành Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003 và Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự năm 2004 đến nay, cho thấy, bên cạnh những kết quả đạt được, cũng đã nảy sinh không ít những khó khăn, bất cập; Tiếp đó BLTTHS năm 2015, Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 2015 bị hoãn thi hành do còn một số điều cần sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện hệ thống pháp luật và phù hợp với tình hình mới. Vì vậy, để nhận thức đúng đắn, đầy đủ hơn về bản chất, đặc trưng, nội dung, hình thức và cơ chế đảm bảo thực hiện mối quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn hết sức quan trọng, góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả mối quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT trong ĐTVAHS. Từ thực tiễn mối quan hệ giữa VKSND tỉnh Phú Yên và CQCSĐT tỉnh Phú Yên trong thời gian qua đã có nhiều chuyển biến tích cực, góp phần nâng cao tỷ lệ giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, hạn chế số vụ việc bị VKS hủy quyết định khởi tố, không khởi tố hoặc trả hồ sơ điều tra bổ sung… Tuy nhiên, mối quan hệ
  • 10. 3 giữa hai cơ quan còn có lúc mang tính hình thức, một chiều, cơ chế phối hợp có lúc còn chưa hiệu quả, còn nể nang, né tránh hoặc bỏ qua vi phạm dẫn đến chưa đạt được chất lượng, yêu cầu của công tác đấu tranh, phòng, chống tội phạm và bảo đảm việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra. Chính vì vậy, việc nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện cơ sở lý luận để nhận thức một cách đầy đủ, đúng đắn về mối quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT trong ĐTVAHS có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Với ý nghĩa trên, Học viên chọn đề tài “Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân tỉnh và Cơ quan cảnh sát điều tra tỉnh Phú Yên trong điều tra vụ án hình sự” làm đề tài luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ Luật Hiến pháp - Luật Hành chính của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn Mối quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT trong ĐTVAHS được nhiều tác giả, nhà khoa học, thực tiễn quan tâm, nghiên cứu. Thời gian qua, ở nước ta đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về mối quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT, trong đó đáng chú ý là những công trình nghiên cứu sau đây: - Sách chuyên khảo: “Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của các Cơ quan điều tra theo định hướng cải cách tư pháp”, GS.TS Nguyễn Ngọc, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, năm 2012. Đây là cuốn sách chuyên khảo đề cập đến thực trạng và định hướng hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Cơ quan điều tra (CQĐT) theo định hướng cải cách tư pháp, trong đó mối quan hệ giữa VKSND và CQĐT chỉ là một nội dung trong toàn bộ nội dung nghiên cứu. Tuy vậy, đây vẫn là một công trình có giá trị tham khảo trong suốt quá trình thực hiện luận văn của tác giả. - Sách chuyên khảo “Mối quan hệ giữa CQĐT với cơ quan tố tụng hình sự” của PGS. TS Đỗ Ngọc Quang, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, năm 2004. Đây là cuốn sách phân tích cơ sở pháp lý và mối quan hệ giữa CQĐT với VKSND và Tòa án (TAND) cũng như mối quan hệ giữa CQĐT với các cơ quan, tổ chức hỗ trợ tư pháp trong tố tụng hình sự (TTHS). Tuy nhiên, tác giả chưa chỉ ra được quan hệ chế ước
  • 11. 4 giữa CQĐT với VKSND được thể hiện cụ thể như thế nào, trách nhiệm cụ thể của từng cơ quan đến đâu trong từng chế định… - Đề tài khoa học cấp Bộ “Vai trò của VKSND trong việc thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn ĐTVAHS theo tinh thần Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị”, TS. Lê Hữu Thể, Viện Khoa học kiểm sát, VKSNDTC, năm 2004. Công trình khoa học này luận giải cơ sở pháp lý và vai trò của VKSND trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra; đánh giá khái quát thực tiễn hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong những năm qua, tìm ra những nguyên nhân của các kết quả và những mặt còn hạn chế. Tuy nhiên, đề tài chỉ mới tiếp cận từ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của VKSND trong ĐTVAHS mà chưa nghiên cứu, làm rõ quan hệ phối hợp, chế ước giữa VKSND và CQĐT thể hiện như thế nào trong các hoạt động điều tra. - Luận án tiến sĩ: “Quyền công tố ở Việt Nam” của Nghiên cứu sinh Lê Thị Tuyết Hoa, Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp Luật, năm 2002. Tác giả đã tiếp cận và giải quyết một cách tương đối có hệ thống và toàn diện vấn đề "Quyền công tố ở Việt Nam". Qua đó luận án cũng đã đề cập đến mối quan hệ giữa VKSND và CQĐT trong quá trình thực hiện quyền công tố, tuy nhiên chỉ dừng lại góc tiếp cận từ phía VKSND và mối quan hệ giữa VKSND và CQĐT không chỉ trong phạm vi thực hành quyền công tố mà còn trong kiểm sát hoạt động tư pháp. - Luận án tiến sĩ “Mối quan hệ giữa CQCSĐT với VKSND trong ĐTVAHS” của Nghiên cứu sinh Đào Hữu Dân, Học viện Cảnh sát nhân dân, 2006. Luận án đã đưa ra những kết luận khoa học về khái niệm, bản chất, đặc trưng, nội dung và hình thức và những giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả quan hệ giữa CQCSĐT với VKSND trong ĐTVAHS. Kết quả nghiên cứu của luận án đã góp phần bổ sung và từng bước hoàn thiện lý luận chuyên ngành về quan hệ phối hợp, chế ước trong điều tra tội phạm.
  • 12. 5 - Luận án tiến sĩ “Mối quan hệ phối hợp giữa Cơ quan an ninh điều tra và VKSND trong điều tra vụ án do Cơ quan an ninh điều tra thụ lý từ năm 2004 đến nay - Thực trạng và giải pháp” của Nghiên cứu sinh Nguyễn Khắc Thành, Học viện An ninh nhân dân, 2012. Đây là công trình khoa học đầu tiên của Bộ Công an nghiên cứu về quan hệ giữa Cơ quan an ninh điều tra với VKSND một cách tổng thể trong điều tra các vụ án do Cơ quan an ninh điều tra thụ lý cả trên phương diện thực tiễn và lý luận. Tuy nhiên góc độ tiếp cận là mối quan hệ của Cơ quan an ninh điều tra với VKSND trong điều tra các vụ án xâm phạm an ninh quốc gia, chưa phải là toàn diện, cụ thể về mối quan hệ của CQĐT thuộc lực lượng Công an nhân dân với VKSND. Ngoài những công trình nghiên cứu trên, còn có một số các bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành hoặc trên các kỷ yếu hội thảo khoa học, hội nghị chuyên đề, có liên quan đến nội dung luận văn như: - Tham luận "Chức năng công tố của VKNDS, mối quan hệ giữa việc thực hiện quyền công tố với các hoạt động kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử" của Tiến sĩ Trần Đình Nhã tại Hội nghị khoa học "Tổ chức và hoạt động của VKSND trong tình hình mới" do Ủy ban pháp luật của Quốc hội tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh ngày 4/10/2001. - “Hoàn thiện quy định về mối quan hệ giữa CQĐT và VKSND trong tố tụng hình sự Việt Nam”, Nguyễn Tiến Sơn, Tạp chí Kiểm sát số 08/2012, VKSND tối cao… Những bài viết nêu trên tuy không trực tiếp đề cập toàn diện đến mối quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT, nhưng cũng đã đề cập đến những khía cạnh thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND và CQCSĐT hoặc nêu vấn đề cần thiết cần tăng cường quan hệ phối hợp giữa VKSND và CQCSĐT trong ĐTVAHS. Trên cơ sở đó, luận văn này tiếp cận trực tiếp, toàn diện mối quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT trong ĐTVAHS. Bổ sung và làm rõ hơn những vấn đề lý luận về mối quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT như: Bản chất, đặc điểm, nội dung, hình thức của mối quan hệ này… Làm rõ những đặc điểm mang tính đặc thù của mối quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT trong ĐTVAHS ở Nhà nước xã hội chủ nghĩa
  • 13. 6 Việt Nam với nguyên tắc quyền lực nhà nước tập trung, thống nhất và có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan trong thực thi quyền lực của bộ máy Nhà nước. Vì vậy, việc nghiên cứu để chỉ rõ đặc thù mối quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT, qua đó thấy được sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao. Mặt khác, mối quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT còn cần được xem xét trong mối quan hệ tương quan với các cơ quan nhà nước khác trong cơ cấu tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước trên cơ sở quy định của Hiến Pháp 2013, nhằm bổ sung lý luận khoa học pháp lý về mối quan hệ của VKSND và CQCSĐT trong ĐTVAHS. Qua đó phân tích, đánh giá và bổ sung hoàn thiện những quy định của pháp luật về mối quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT trong ĐTVAHS. Luận văn nghiên cứu mối quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT với tư cách là VKSND tỉnh Phú Yên và CQCSĐT tỉnh Phú Yên, trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của mỗi cơ quan theo quy định của pháp luật hiện hành, để xác định sự phù hợp và những vấn đề cần nghiên cứu hoàn thiện để nâng cao chất lượng, hiệu quả mối quan hệ giữa hai cơ quan, qua đó góp phần nâng cao chất lượng điều tra và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong ĐTVAHS. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu Đề xuất những giải pháp nhằm tăng cường mối quan hệ giữa VKSND tỉnh và CQCSĐT tỉnh Phú Yên, góp phần đảm bảo hoạt động điều tra được đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội; đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, góp phần đấu tranh phòng, chống tội phạm có hiệu quả. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện mục đích nghiên cứu trên, luận văn đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu sau: - Xác định vai trò của VKSND và CQCSĐT, trên cơ sở phân tích, đánh giá chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan này theo quy định của pháp
  • 14. 7 luật. Đồng thời, xác định rõ bản chất, đặc điểm, nội dung và hình thức của mối quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT trong ĐTVAHS; - Đánh giá thực trạng mối quan hệ giữa VKSND tỉnh và CQCSĐT tỉnh Phú Yên; xác định những vấn đề thực tiễn đặt ra để giải quyết tốt quan hệ nêu trên trong ĐTVAHS ở Phú Yên; - Trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường mối quan hệ giữa VKSND tỉnh và CQCSĐT tỉnh Phú Yên, góp phần nâng cao chất lượng điều tra và xử lý tội phạm ở Phú Yên trong thời gian tới. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Những vấn đề lý luận và thực tiễn về mối quan hệ giữa VKSND tỉnh Phú Yên và CQCSĐT tỉnh Phú Yên trong ĐTVAHS. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Về không gian: Mối quan hệ giữa VKSND tỉnh Phú Yên và CQCSĐT tỉnh Phú Yên trong ĐTVAHS thuộc thẩm quyền điều tra của CQCSĐT cấp tỉnh. Trong đó, giai đoạn ĐTVAHS được tính bắt đầu từ thời điểm khởi tố vụ án đến khi kết thúc điều tra, đề nghị xử lý và giải quyết vụ án. Tuy nhiên, hoạt động điều tra là một quá trình liên tục, để bảo đảm cho việc nghiên cứu được toàn diện và phù hợp với nhiệm vụ của CQCSĐT, cũng như nhiệm vụ của VKSND trong giai đoạn điều tra, luận văn mở rộng vấn đề nghiên cứu, từ khi tiếp nhận, kiểm sát giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố. - Về th i gian: từ năm 2013 đến nay. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn Phương pháp luận Nghiên cứu đề tài trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước về tổ chức bộ máy nhà nước, về quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT trong ĐTVAHS.
  • 15. 8 Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp phân tích tài liệu. - Phương pháp thu thập và xử lý thông tin. - Phương pháp thống kê, phân tích tổng hợp. - Phương pháp so sánh, đánh giá. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Kết quả nghiên cứu đề tài có những đóng góp về mặt lý luận và thực tiễn sau: - Xây dựng các khái niệm, hệ thống hóa cơ sở lý luận về vị trí, chức năng, nhiệm vụ của VKSND và CQCSĐT trong ĐTVAHS; sự phối hợp, chế ước giữa hai cơ quan này trong quá trình thực thi nhiệm vụ. - Xác định những đặc điểm mang tính đặc trưng; làm rõ bản chất, nội dung và hình thức quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT trong ĐTVAHS. Đồng thời, kiến nghị những giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao nhận thức cho đội ngũ Kiểm sát viên (KSV), Điều tra viên (ĐTV); không ngừng củng cố và hoàn thiện cơ chế thực thi mối quan hệ giữa hai cơ quan tiến hành các hoạt động tố tụng trong ĐTVAHS theo quy định của pháp luật, góp phần nâng cao hiệu quả quan hệ giữa VKSND tỉnh và CQCSĐT tỉnh Phú Yên trong ĐTVAHS trong thời gian tới. - Luận văn cũng có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong học tập, nghiên cứu ở các cơ sở đào tạo thuộc VKSND, Cảnh sát nhân dân và các cơ sở đào tạo các chức danh tư pháp khác. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung chính của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh và Cơ quan cảnh sát điều tra cấp tỉnh trong điều tra vụ án hình sự. Chương 2: Tình hình tội phạm và thực trạng mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân tỉnh và Cơ quan cảnh sát điều tra tỉnh Phú Yên trong điều tra vụ án hình sự Chương 3: Giải pháp tăng cư ng mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân tỉnh và Cơ quan cảnh sát điều tra tỉnh Phú Yên trong điều tra vụ án hình sự
  • 16. 9 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP TỈNH VÀ CƠ QUAN CẢNH SÁT ĐIỀU TRA CẤP TỈNH TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ 1.1. Khái quát về Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh và Cơ quan cảnh sát điều tra cấp tỉnh trong điều tra vụ án hình sự 1.1.1. Nhận thức chung về điều tra vụ án hình sự Nhận thức về ĐTVAHS hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau và chưa có sự thống nhất, cũng chưa được hướng dẫn, giải thích chính thức bởi cơ quan có thẩm quyền. Trong BLTTHS, chưa có điều luật nào giải thích hoặc định nghĩa về ĐTVAHS. Theo từ điển Luật học thì “điều tra là công tác trong tố tụng hình sự (TTHS) được tiến hành nhằm xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ” [43, tr.59]. Tuy nhiên, nhận thức về điều tra theo cách hiểu này chưa xác định được chủ thể tiến hành điều tra và cơ sở pháp lý để tiến hành ĐTVAHS. Hoặc “ĐTVAHS là một giai đoạn TTHS, trong giai đoạn này cơ quan điều tra áp dụng mọi biện pháp do BLTTHS quy định để xác định tội phạm và người phạm tội” [15, tr. 62]. Quan niệm này là phù hợp với công tác điều tra của CQĐT trong giai đoạn ĐTVAHS. Tuy nhiên theo quy định tại khoản 1 điều 65 BLTTHS năm 2003 và điều 34 BLTTHS năm 2015, CQĐT không phải là chủ thể duy nhất có thẩm quyền thực hiện các hoạt động điều tra, chính vì vậy điều tra không phải chỉ gồm hoạt động của CQĐT mà còn là hoạt động của một số cơ quan khác được giao nhiệm vụ điều tra và hoạt động điều tra của VKSND. Theo Từ điển Bách khoa Công an nhân dân thì: “ĐTVAHS là hoạt động điều tra theo pháp luật TTHS của CQĐT và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, nhằm xác định sự thật của vụ án, lập hồ sơ đề nghị xử lý, tìm ra nguyên nhân và điều kiện phạm tội, yêu cầu cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục và ngăn ngừa” [44, tr.18].
  • 17. 10 ĐTVAHS là một quá trình áp dụng pháp luật rất phức tạp, được tiến hành với mục đích làm rõ sự thật khách quan, toàn diện về vụ án hình sự (VAHS). Trong giai đoạn điều tra, CQĐT được tiến hành các hoạt động điều tra theo quy định của BLTTHS để thu thập chứng cứ, bao gồm chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội, chứng cứ xác định tình tiết tăng nặng và chứng cứ xác định tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can cũng như những chứng cứ xác định các tình tiết khác của vụ án. Theo quan điểm của tác giả, ĐTVAHS là hoạt động phát hiện, thu thập chứng cứ theo trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định cho CQĐT và một số cơ quan được giao nhiệm vụ điều tra tiến hành trong giai đoạn ĐTVAHS để xác định tội phạm và ngư i thực hiện hành vi phạm tội. Căn cứ vào quy định của BLTTHS và thực tiễn ĐTVAHS, có thể rút ra các đặc điểm sau đây: Thứ nhất, ĐTVAHS được tiến hành công khai theo các trình tự, thủ tục và theo những biện pháp do pháp luật TTHS quy định. Đặc trưng này cho phép phân biệt với những biện pháp điều tra khác như trinh sát - là hoạt động nghiệp vụ được tổ chức và tiến hành dưới hình thức bí mật để thu thập thông tin về tội phạm nhằm phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn và nhanh chóng khám phá vụ án. Thứ hai, ĐTVAHS thường ảnh hưởng trực tiếp đến quyền tự do, dân chủ của công dân, quyền con người bị nghi thực hiện tội phạm do thường phải áp dụng các biện pháp ngăn chặn, cưỡng chế như bắt, tạm giữ, tạm giam, khám xét… Nếu hoạt động điều tra không tuân thủ pháp luật sẽ tiềm ẩn nguy cơ xâm hại các quyền cơ bản của công dân, quyền con người. Thứ ba, ĐTVAHS là bộ phận hợp thành chức năng buộc tội của Nhà nước, hỗ trợ cho cơ quan công tố thực hiện việc buộc tội và đưa vụ án ra Tòa xét xử. Thứ tư, ĐTVAHS được thực hiện từ rất sớm, ngay từ khi tội phạm xảy ra, do vậy nếu chủ động, tích cực, chính xác ngay từ giai đoạn đầu sẽ góp phần bảo đảm cho hoạt động công tố, xét xử có căn cứ và ngược lại; nếu hoạt động điều tra thụ động, chậm trễ, thiếu sót sẽ kéo theo những sai lầm của hoạt động công tố, xét xử.
  • 18. 11 Thứ năm, hoạt động truy tố, xét xử VAHS được thực hiện trên cơ sở đã có hồ sơ, tài liệu phản án về tội phạm và người phạm tội, còn hoạt động điều tra bắt đầu từ khi tìm kiếm tài liệu, chứng cứ. Do vậy, ĐTVAHS có vị trí, vai trò và ý nghĩa hết sức quan trọng trong quá trình tìm kiếm chứng cứ buộc tội, nên đòi hỏi phải nhận thức đầy đủ, đảm bảo nhanh chóng xác định tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm; Xác định nguyên nhân và điều kiện phạm tội, yêu cầu các cơ quan và tổ chức hữu quan có biện pháp khắc phục và ngăn ngừa. Theo quy định BLTTHS năm 2003 thì chủ thể tiến hành điều tra là CQĐT (cơ quan tiến hành tố tụng); Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT và ĐTV (người tiến hành tố tụng). Trên cơ sở đó, BLTTHS năm 2015 đã có sự thay đổi quan trọng về việc nâng cao vị trí, vai trò, trách nhiệm của các chủ thể tố tụng, khẳng định CQĐT (là cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng); Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT và ĐTV (là người có thẩm quyền tiến hành tố tụng). Đồng thời, Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2006 và năm 2009); Luật Tổ chức CQĐT hình sự năm 2015 đã quy định CQĐT Công an nhân dân gồm: CQCSĐT và Cơ quan an ninh điều tra (ANĐT). Thẩm quyền điều tra của các CQĐT nêu trên được quy định trong BLTTHS năm 2003 và được cụ thể hóa trong Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2006 và năm 2009), hiện nay được quy định trong BLTTHS năm 2015 và Luật Tổ chức CQĐT hình sự năm 2015. Mặc dù hai văn bản pháp luật này đang bị lùi thời gian thi hành, nhưng trong luận văn này vẫn đề cập đến những quy định mới nhất, có liên quan của hai văn bản pháp luật trên để giúp làm sáng tỏ các vấn đề nêu ra. Trong quá trình điều tra, CQĐT có quyền sử dụng những biện pháp được quy định trong BLTTHS: tiếp nhận và xử lý tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; áp dụng những biện pháp ngăn chặn; tiến hành các biện pháp điều tra cụ thể; yêu cầu các cơ quan, tổ chức và cá nhân cung cấp tài liệu và trình bày những tình tiết làm sáng tỏ vụ án. Trong quá trình điều tra, CQĐT có thể sử dụng các phương tiện kỹ thuật để phát hiện, ghi nhận, mô tả, thu lượm, bảo quản dấu vết, tài liệu … Đồng thời được
  • 19. 12 phép huy động các lực lượng (các cơ quan, tổ chức, đoàn thể quần chúng, công dân) tham gia vào hoạt động điều tra, giúp CQĐT giải quyết các yêu cầu cụ thể trong điều tra vụ án, như: truy bắt thủ phạm; bảo vệ hiện trường, cấp cứu người bị nạn, bảo vệ tài sản, hạn chế tới mức thấp nhất thiệt hại do tội phạm gây ra; truy tìm những người làm chứng, người bị hại, vật chứng của vụ án; phát hiện thu thập những tài liệu, chứng cứ của vụ án; giúp đỡ CQĐT về địa điểm, phương tiện vật chất tạo điều kiện cho quá trình tổ chức và tiến hành các hoạt động điều tra… Nhiệm vụ ĐTVAHS là xác định tội phạm và người đã thực hiện hành vi phạm tội, lập hồ sơ, đề nghị truy tố; tìm ra nguyên nhân, điều kiện phạm tội và yêu cầu các cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục và ngăn ngừa. Để thực hiện đầy đủ nhiệm vụ này, hoạt động điều tra phải quán triệt các nguyên tắc sau đây: chỉ có CQĐT và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra được pháp luật quy định mới được phép tiến hành điều tra. Mọi hoạt động điều tra phải tuân theo quy định trong BLTTHS và Pháp lệnh, Luật Tổ chức CQĐT hình sự. Hoạt động điều tra phải tôn trọng sự thật, tiến hành một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, phát hiện chính xác, nhanh chóng mọi hành vi phạm tội, làm rõ những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người có hành vi phạm tội, không bỏ lọt tội phạm và không làm oan người vô tội. 1.1.2. Thẩm quyền của viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh trong điều tra vụ án hình sự Theo quy định tại Điều 107 Hiến pháp năm 2013, VKSND gồm VKSNDTC và các VKSND khác do luật định. Cụ thể hóa tinh thần của Hiến pháp, Luật Tổ chức VKSND năm 2014 đã quy định: Hệ thống VKSND bao gồm: VKSNDTC; VKSND cấp cao; VKSND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; VKSND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương; VKS quân sự các cấp. Theo đó, tổ chức bộ máy của VKSND cấp tỉnh gồm có: Ủy ban kiểm sát; Văn phòng; Các phòng và tương đương. VKSND cấp tỉnh có Viện trưởng, các Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, công chức khác và người lao động khác. Việc tổ chức các phòng nghiệp vụ ở VKSND 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
  • 20. 13 ương là không giống nhau, nhưng về cơ bản có phòng (hoặc bộ phận) sau: Phòng Thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra và kiểm sát xét xử sơ thẩm án kinh tế, tham nhũng; Phòng Thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra và kiểm sát xét xử sơ thẩm án an ninh và án ma túy; Phòng Thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm án hình sự; Phòng Kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù; Phòng Kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự; Phòng Kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính - kinh tế - lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật; Phòng Kiểm sát thi hành án dân sự; Phòng Khiếu tố. Riêng đối với nhiệm vụ thực hành quyền công tố và Kiểm sát điều tra án an ninh, về cơ bản chỉ có VKSND thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và một số thành phố lớn khác tổ chức thành đơn vị cấp Phòng độc lập theo chuyên ngành. Ở các địa phương khác, tùy tình hình Viện trưởng VKSND quyết định như ghép chung việc kiểm sát án an ninh, án ma túy vào một phòng. Hiến pháp, Luật Tổ chức VKSND, BLTTHS đều ghi nhận VKSND thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động ĐTVAHS, đây là quyền năng hiến định của VKSND. Theo quy định tại Điều 23 BLTTHS năm 2003 và được điều chỉnh theo hướng tinh gọn về chức năng, nhiệm vụ của VKSND tại điều 20 BLTTHS năm 2015 như sau: Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, quyết định việc buộc tội, phát hiện vi phạm pháp luật nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội, người phạm tội, pháp nhân phạm tội, vi phạm pháp luật đều phải được phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh, việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, pháp nhân phạm tội, không làm oan người vô tội. Vì vậy, các nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp đã có những kết luận rõ hơn và mang tính định hướng hết sức quan trọng về trách nhiệm của VKSND trong thực hành quyền công tố, đấu tranh phòng chống tội phạm ở giai đoạn điều tra. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách
  • 21. 14 tư pháp đến năm 2020 chỉ rõ “Tăng cường trách nhiệm của cơ quan công tố trong hoạt động điều tra” [3, tr.3]; Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng tiếp tục khẳng định: “Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra” [13, tr.251]. Từ đó có thể thấy rằng, trong giai đoạn ĐTVAHS, VKSND giữ một vai trò quan trọng, đảm bảo việc điều tra đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội. Vì vậy có thể khẳng định rằng “VKSND giữ vai trò chủ đạo, quyết định trong các hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp ở giai đoạn ĐTVAHS” [39, tr.153]. Thẩm quyền của VKSND cấp tỉnh trong ĐTVAHS được thực hiện theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn mà BLTTHS quy định cho VKSND khi thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra trong giai đoạn ĐTVAHS. Do giai đoạn điều tra là một giai đoạn khởi đầu và phức tạp nên luận văn đã giới hạn việc nghiên cứu bắt đầu khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố đến khi kết thúc điều tra. Trên cơ sở đó, VKSND cấp tỉnh sẽ thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn mà luật định trong giai đoạn này tương ứng với những thẩm quyền cụ thể đề cập trong phần chức năng, nhiệm vụ của VKSND. Do BLLTHS năm 2003 không quy định thẩm quyền, nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong giai đoạn tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, để khắc phục bất cập này BLTTHS năm 2015 đã quy định nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong giai đoạn này và bổ sung một số quy định mới trong khởi tố vụ án, ĐTVAHS cho phù hợp với thực tiễn. Xét về phạm vi lãnh thổ, việc thực hiện thẩm quyền của VKSND cấp tỉnh trong giai đoạn ĐTVAHS được thực hiện dựa vào những vụ việc thuộc thẩm quyền xét xử của TAND cấp tỉnh hoặc những vụ án thuộc thẩm quyền điều tra của CQĐT cấp huyện xảy ra trên địa bàn nhiều huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương; phạm tội có tổ chức hoặc có yếu tố nước ngoài.
  • 22. 15 1.1.3. Thẩm quyền của cơ quan cảnh sát điều tra cấp tỉnh trong điều tra vụ án hình sự BLTTHS năm 1988 là văn bản pháp lý đầu tiên của nước ta quy định những vấn đề mang tính nguyên tắc về CQĐT, tiếp đó Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự năm 1989 quy định hệ thống tổ chức của CQĐT Công an nhân dân (CAND) bao gồm hệ thống CQĐT thuộc lực lượng cảnh sát nhân dân và an ninh nhân dân. Nhằm đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp theo hướng gắn kết hoạt động điều tra tố tụng và hoạt động trinh sát, ngày 20/8/2004 Ủy ban thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự năm 2004. Theo đó hệ thống CQĐT CAND vẫn gồm hai hệ thống là CQCSĐT và ANĐT, trong đó hệ thống CQCSĐT gồm: CQCSĐT Bộ Công an (BCA); CQCSĐT Công an cấp tỉnh ; CQCSĐT Công an cấp huyện. Theo quy định mới của Luật tổ chức CQĐT hình sự năm 2015 hệ thống CQCSĐT gồm: CQCSĐT Bộ Công an; CQCSĐT Công an tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; CQCSĐT Công an huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương. Căn cứ vào quy định của Luật tổ chức CQĐT hình sự năm 2015, tổ chức bộ máy của CQCSĐT Công an cấp tỉnh gồm có: Văn phòng CQCSĐT; Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội (gọi tắt là Phòng Cảnh sát hình sự); Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về tham nhũng, kinh tế và chức vụ; Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy; Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm, xâm phạm sở hữu trí tuệ (gọi tắt là Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về buôn lậu). Theo quy định tại điều 111 BLTTHS năm 2003 quy định: CQĐT trong CAND điều tra tất cả các tội phạm, trừ những tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của CQĐT trong Quân đội nhân dân và CQĐT của VKSNDTC… CQĐT có thẩm quyền điều tra những VAHS mà tội phạm xảy ra trên địa phận của mình. Trong trường hợp không xác định được địa điểm xảy ra tội phạm thì việc điều tra thuộc thẩm quyền của CQĐT nơi phát hiện tội phạm, nơi bị can cư trú hoặc bị bắt.
  • 23. 16 CQĐT cấp tỉnh điều tra những VAHS về những tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của TAND cấp tỉnh, hoặc những vụ án thuộc thẩm quyền điều tra của CQĐT cấp dưới nhưng xét thấy cần trực tiếp điều tra. Để cụ thể hóa những quy định này, Thông tư số 28/2014/TT-BCA ngày 7/7/2014 quy định về công tác điều tra hình sự trong CAND, đã quy định rõ thẩm quyền của CQCSĐT cấp tỉnh như sau: Tổ chức công tác trực ban hình sự, tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; phân loại và chuyển ngay đến cơ quan có thẩm quyền để giải quyết; trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố thuộc thẩm quyền giải quyết của CQCSĐT Công an cấp tỉnh; Tiến hành điều tra các vụ án hình sự về các tội phạm quy định từ Chương XII đến Chương XXII của BLHS năm 1999 khi các tội phạm đó thuộc thẩm quyền xét xử của TAND cấp tỉnh (trừ các tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của CQĐT của VKSNDTC và Cơ quan ANĐT trong CAND); các tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của CQCSĐT cấp huyện nhưng xét thấy cần trực tiếp điều tra… BLTTHS năm 2015 đã có những sửa đổi quan trọng về thẩm quyền của CQCSĐT cấp tỉnh như sau: CQCSĐT cấp tỉnh ĐTVAHS về những tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của TAND cấp tỉnh hoặc những vụ án thuộc thẩm quyền điều tra của CQĐT cấp huyện xảy ra trên địa bàn nhiều huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương, phạm tội có tổ chức hoặc có yếu tố nước ngoài nếu xét thấy cần trực tiếp điều tra. 1.2. Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh và Cơ quan cảnh sát điều tra cấp tỉnh trong điều tra vụ án hình sự 1.2.1. Bản chất mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh và Cơ quan cảnh sát điều tra cấp tỉnh trong điều tra vụ án hình sự Trong triết học, phép duy vật biện chứng đã khẳng định các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan không tồn tại độc lập mà chúng tồn tại trong mối quan hệ tác động qua lại và ràng buộc, phụ thuộc lẫn nhau. Các mối quan hệ này đã được hình thành một cách khách quan không phụ thuộc vào ý thức con người. Mối
  • 24. 17 quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT nói chung và cấp tỉnh nói riêng trong ĐTVAHS không nằm ngoài quy luật này. Theo Từ điển tiếng Việt thì “mối quan hệ” là “sự gắn liền mặt nào đó giữa hai hoặc nhiều sự vật khác nhau khiến sự vật này có biến đổi, thay đổi thì có thể tác động đến sự vật kia” [44, tr.1361]. Như vậy, mối quan hệ giữa hai hoặc nhiều sự vật hiện tượng trong xã hội thể hiện ở sự tác động lẫn nhau, ảnh hưởng lẫn nhau trong sự tồn tại và phát triển. Trong quá trình tiến hành tố tụng giải quyết VAHS đã làm nảy sinh các mối quan hệ giữa những cơ quan tiến hành tố tụng. Mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, những người tiến hành tố tụng trong TTHS cũng không nằm ngoài quy luật đó. Mặc dù, ở mỗi một giai đoạn TTHS đều có những cơ quan tiến hành tố tụng chủ yếu với những chức năng và nhiệm vụ riêng. Tuy vậy, nó vẫn tồn tại mối quan hệ chặt chẽ giữa các cơ quan tố tụng trong cả tiến trình giải quyết VAHS. Mặt khác quá trình đấu tranh phòng, chống tội phạm, các cơ quan tiến hành tố tụng có mối quan hệ với nhau, trong đó VKSND và CQCSĐT có mối quan hệ rất chặt chẽ; chất lượng, hiệu quả hoạt động của từng cơ quan phụ thuộc rất lớn vào mối quan hệ giữa hai chủ thể này. Đây là mối quan hệ tố tụng có tính phổ biến trong giai đoạn đầu của quá trình tố tụng và có ý nghĩa quan trọng đối với toàn bộ quá trình TTHS. Hơn nữa, mối quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT tồn tại như một tất yếu khách quan của quá trình giải quyết vụ án nhưng nội dung mối quan hệ này lại biểu hiện bản chất Nhà nước và pháp luật, mô hình TTHS, việc tổ chức thực hiện quyền công tố và kiểm soát quyền lực trong TTHS được xác định trong Hiến pháp và mô hình TTHS mỗi quốc gia. Ở những quốc gia mà bộ máy nhà nước đơn thuần tổ chức theo nguyên tắc phân quyền, thì VKSND (Cơ quan công tố) là một cơ quan thuộc nhánh quyền hành pháp có chức năng thực hành quyền công tố. Để thực hiện quyền công tố, cơ quan công tố có trách nhiệm điều tra, chứng minh tội phạm bằng việc trực tiếp điều tra hoặc chỉ đạo các cơ quan khác thực hiện các hoạt động điều tra. Trong trường hợp này, mặc dù không trực tiếp tiến hành điều tra, nhưng cơ quan
  • 25. 18 công tố phải chịu trách nhiệm hoàn toàn đối với các quyết định và hoạt động trong việc điều tra vụ án. CQĐT hoặc những cơ quan khác chỉ được tiến hành các hoạt động điều tra theo sự chỉ đạo của cơ quan công tố. Vì vậy, thông thường ở các nước không hình thành CQĐT độc lập mà chỉ có bộ phận điều tra ở cơ quan công tố và những người hoặc bộ phận được giao tiến hành một số hoạt động điều tra theo sự chỉ đạo của cơ quan công tố. Một số nước ở cơ quan cảnh sát có những bộ phận được giao tiến hành hoạt động điều tra và người được tiến hành hoạt động điều tra có chức danh cảnh sát tư pháp. Tại Trung Quốc, mặc dù có thể chế chính trị tương tự như nước ta nhưng cũng không thành lập CQĐT độc lập mà hoạt động điều tra được giao cho những bộ phận ở Bộ công an, Bộ an ninh, Cảnh sát đường sắt và đặt dưới sự chỉ đạo của VKS. Trong trường hợp này mối quan hệ giữa VKS và cơ quan được giao tiến hành hoạt động điều tra là mối quan hệ phụ thuộc, các hoạt động điều tra do các cơ quan khác tiến hành đều phụ thuộc và chịu sự chỉ đạo của cơ quan công tố. Mối quan hệ phụ thuộc này thể hiện trên các phương diện sau: (1) Cơ quan công tố có quyền hạn và chịu trách nhiệm hoàn toàn về tất cả các hoạt động điều tra; (2) Cơ quan công tố có thể trực tiếp tiến hành điều tra hoặc việc điều tra được giao cho những cơ quan khác theo quy định của pháp luật; (3) Các cơ quan khác được giao tiến hành hoạt động điều tra phải theo yêu cầu và chỉ đạo của cơ quan công tố; (4) Cơ quan công tố không cần phải làm bản kết luận điều tra và không có thêm quyền ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung; (5) Hoạt động và kết quả điều tra gắn liền với hoạt động truy tố của VKS. Ở những nước có hệ thống CQĐT độc lập với VKS thì chức năng điều tra được giao hẳn cho CQĐT thì mối quan hệ giữa VKS và CQĐT có nội dung khác. Đó là mối quan hệ giữa hai cơ quan có chức năng riêng biệt trong quá trình tố tụng giải quyết VAHS, thể hiện ở hai phương diện: (1) Mối quan hệ phối hợp trong quá trình giải quyết vụ án. Do VKS và CQĐT là những cơ quan độc lập có chức năng tố tụng khác nhau nhưng cùng hướng tới mục đích chung của TTHS nên việc phối hợp là yêu cầu tất yếu; (2) Mối quan hệ chế ước: Quá trình tố tụng đòi hỏi bên cạnh việc phát hiện nhanh chóng, chính xác tội phạm nhưng đồng thời phải bảo đảm
  • 26. 19 không làm oan người vô tội, không được vi phạm pháp luật, xâm phạm quyền con người nên giữa các cơ quan này cần phải có mối quan hệ chế ước. Quan hệ chế ước giữa VKS và CQĐT không những bảo đảm để pháp luật được thi nghiêm chỉnh trong quá trình giải quyết vụ án mà còn đảm bảo để công lý được thực thi góp phần giải quyết vụ án khách quan, công bằng. Ở nước ta, Khi VKSND được thành lập, chức năng kiểm sát điều tra các VAHS được quy định tại Chương 3 Luật tổ chức VKSND năm 1960. Ngày 28/6/1963, VKSNDTC và BCA đã ban hành Thông tư liên bộ số 427-TTLB quy định tạm thời một số nguyên tắc về quan hệ công tác giữa hai ngành trong công tác điều tra, kiểm sát điều tra, nhằm đảm bảo việc điều tra và xử lý tội phạm đúng chính sách, đúng pháp luật và nhanh chóng. Sau đó, BCA và VKSNDTC ban hành Thông tư liên bộ số 01/TTLB ngày 23/01/1984 hướng dẫn về công tác điều tra và kiểm sát điều tra. BLTTHS đầu tiên của nước ta (1988) là văn bản pháp lý có hiệu lực cao nhất quy định về mối quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT. Tiếp đó, BLTTHS năm 2003 đã phân định nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của VKSND và CQCSĐT trong các chế định TTHS, đã hình thành cơ chế pháp lý bảo đảm hoạt động điều tra và công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra được chặt chẽ hơn. Xét về mặt lý luận, trên cơ sở nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước ta là quyền lực thống nhất, nhưng có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật quy định VKSND là cơ quan thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp; CQCSĐT thực hiện nhiệm vụ điều tra, khám phá tội phạm và tìm ra sự thật của vụ án. Trong giai đoạn ĐTVAHS, quá trình tìm ra sự thật của vụ án phải được chứng minh dựa trên những chứng cứ được thu thập tỉ mỉ và sự giám sát cẩn trọng đảm bảo việc chấp hành pháp luật để không chỉ tìm ra tội phạm và người phạm tội mà còn không để lọt tội phạm và làm oan người vô tội. Quá trình đó có mục đích chung là phát hiện, xử lý nghiêm minh, kịp thời các hành vi phạm tội nên đã hình thành sự phối hợp giữa VKSND và CQCSĐT theo quy luật tất yếu và khách
  • 27. 20 quan. Hơn nữa, ngoài việc phân công, phối hợp giữa VKSND và CQCSĐT thì còn diễn ra sự giám sát, chế ước với các hình thức, mức độ khác nhau nhằm đảm bảo việc khởi tố, điều tra đúng pháp luật, từ đó đã hình thành nên mối quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT trong ĐTVAHS đó là: sự phối hợp và chế ước lẫn nhau. Nội dung cơ bản của mối quan hệ giữa CQCSĐT với VKSND được xuất phát từ nhiệm vụ chung nhất là xác định có căn cứ và hợp pháp về tội phạm và người phạm tội, làm cơ sở cho việc buộc tội trước TAND. Để làm được điều này, giữa hai cơ quan phải phối hợp với nhau trong các giai đoạn điều tra vụ án. Đồng thời để tránh được những khuyết điểm, sai lầm có thể xảy ra trong việc xác định tội phạm và người phạm tội thì phải có sự chế ước đảm bảo hoạt động tố tụng theo đúng pháp luật. Có thể thấy rằng, “mối quan hệ phối hợp và chế ước là đặc trưng cơ bản giữa CQĐT với VKSND trong hoạt động TTHS” [19, tr.257]. Thứ nhất, về quan hệ phối hợp: Xuất phát từ bản chất là Nhà nước ta là Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân và do duy nhất Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nên các cơ quan trong bộ máy Nhà nước có sự phối hợp chặt chẽ dưới sự lãnh đạo tập trung thống nhất của Đảng cầm quyền. Theo Từ điển Tiếng Việt “phối hợp” có nghĩa là “cùng chung góp, cùng hành động ăn khớp để hỗ trợ cho nhau” [44, tr.1361]. Từ đó có thể thấy rằng quan hệ phối hợp được hiểu là các chủ thể tham gia trong mối quan hệ cùng hành động, cùng hoạt động hỗ trợ lẫn nhau để giải quyết một công việc nào đó. Xét trong quan hệ phối hợp giữa VKSND và CQCSĐT thì quan hệ phối hợp được hiểu là mỗi cơ quan thực hiện nghiêm chỉnh chức năng, nhiệm vụ để đảm bảo sự thống nhất, nhịp nhàng khi thực hiện nhiệm vụ chung. Với ý nghĩa này thì sự phối hợp là yếu tố nền tảng, bền vững và thường xuyên, không thể thiếu được trong hoạt động TTHS; nó là điều kiện đảm bảo cho việc tồn tại các cơ quan Nhà nước gắn với các hoạt động nhằm mục đích chung của TTHS. Trong TTHS, các cơ quan tiến hành tố tụng tuy có chức năng, nhiệm vụ khác nhau nhưng đều có mục đích chung là phát hiện, xử lý nghiêm minh, kịp thời các hành vi phạm tội, do đó, sự phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng là tất yếu,
  • 28. 21 khách quan. BLTTHS quy định cụ thể về trình tự, thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng. Trong đó, VKSND, CQCSĐT, TAND có sự phối hợp chặt chẽ trong quá trình tiến hành tố tụng. Tuy nhiên, sự phối hợp giữa CQCSĐT với VKSND khác với sự phối hợp giữa VKSND và TAND. Bởi lẽ, sự phối hợp giữa VKSND với TAND thường chỉ xuất hiện sau khi vụ án đã được VKSND truy tố và chuyển hồ sơ đến Toà án đưa ra vụ án để xét xử. Còn công tác phối hợp giữa VKSND và CCSĐT không chỉ được thực hiện sau khi CQCSĐT kết luận điều tra vụ án chuyển hồ sơ đến VKSND mà còn được thực hiện từ khi CQCSĐT phát hiện tội phạm, khởi tố, ĐTVAHS. Khi tiến hành tố tụng, VKSND và CQCSĐT vừa tiến hành các hoạt động tố tụng độc lập, vừa có mối quan hệ trong từng chế định tố tụng. Trong giai đoạn ĐTVAHS, CQCSĐT cấp tỉnh có chức năng, nhiệm vụ phát hiện tội phạm, khởi tố, ĐTVAHS; VKSND cấp tỉnh có chức năng, nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, bảo đảm hoạt động điều tra đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Do vậy, VKSND và CQCSĐT cấp tỉnh không chỉ có mối quan hệ trong từng chế định cụ thể mà sự phối hợp xuyên suốt toàn bộ quá trình tố tụng từ khi phát hiện tội phạm đến khi kết thúc ĐTVAHS. Hơn nữa, trong quá trình tiến hành tố tụng VKSND, CQCSĐT phải có nhiệm vụ tìm ra nguyên nhân và điều kiện phạm tội, yêu cầu cơ quan tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục và ngăn ngừa. Để làm được điều này ngay trong khi tiến hành các biện pháp điều tra và kiểm sát điều tra, VKSND và CQCSĐT phải phối hợp với nhau trong việc thu thập chứng cứ chứng minh nguyên nhân và điều kiện phạm tội. Đối với những sơ hở thiếu sót trong các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội thì VKSND và CQCSĐT phải phối hợp với nhau tiến hành ngay các biện pháp ngăn chặn và khắc phục. Như vậy, sự phối hợp giữa VKSND cấp tỉnh và CQCSĐT cấp tỉnh trong ĐTVAHS là đòi hỏi tất yếu khách quan. Do đó, cần phải được thực hiện trên cơ sở chủ động, tích cực của mỗi cơ quan. Có như vậy mới đảm bảo có hiệu quả của việc
  • 29. 22 giải quyết VAHS, góp phần cho mỗi cơ quan hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ đã được pháp luật quy định. Thứ hai, về quan hệ chế ước: Quan hệ chế ước giữa VKSND và CQCSĐT các cấp nói chung và cấp tỉnh nói riêng trong ĐTVAHS là sự hạn chế lẫn nhau giữa các chủ thể tiến hành tố tụng trong những điều kiện nhất định được quy định bởi pháp luật nhằm đảm bảo tính khách quan, chính xác trong quá trình giải quyết VAHS, tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền công dân, tránh oan sai và bỏ lọt tội phạm, người phạm tội. Sở dĩ BLTTHS phải quy định những điều luật mang tính chế ước, xuất phát từ những đặc điểm riêng biệt của hoạt động TTHS trong giai đoạn ĐTVAHS. Điều này thể hiện ở chỗ CQCSĐT phải khôi phục lại những tình tiết vụ án, xác định chính xác hiện trường, thu giữ các vật chứng, chứng cứ… của vụ án đã xảy ra trước đó mà không ai trong số các ĐTV được trực tiếp chứng kiến vụ việc nhưng lại tuân thủ tuyệt đối các nguyên tắc mà BLTTHS đặt ra, trong đó có nguyên tắc xác định sự thật khách quan của vụ án, nguyên tắc bảo đảm pháp chế và được bổ sung mới vào BLTTHS năm 2015 là nguyên tắc suy đoán vô tội, nguyên tắc không ai bị kết án hai lần về một tội phạm… Trong giai đoạn ĐTVAHS, các hoạt động tố tụng được tiến hành bởi các chủ thể có thẩm quyền tiến hành tố tụng như ĐTV, cán bộ điều tra, KSV, Kiểm tra viên. Họ cũng là những con người nên không thể nằm ngoài sự tác động nhiều yếu tố cả chủ quan lẫn khách quan. Đó là yếu tố thuộc về trình độ, khả năng, kinh nghiệm, bản lĩnh... Ngoài ra, họ còn bị tác động bởi những yếu tố thuộc về xã hội như môi trường sống, những biến động xã hội, tình hình tội phạm, sự suy thoái về kinh tế… Tất cả những vấn đề này đều có ảnh hưởng nhất định, tác động không nhiều thì ít đến việc xác định sự thật khách quan của vụ án. Chính vì lẽ đó, BLTTHS đã có nhiều quy định mang tính chế ước giữa VKSND và CQCSĐT nhằm đảm bảo thực hiện nhiệm vụ mà pháp luật TTHS đã đặt ra. Mối quan hệ chế ước giữa VKSND và CQCSĐT mang tính chất chế ước một chiều với những hoạt động chi phối, kiềm chế từ phía VKSND đối với CQCSĐT. Tính chất một chiều đó được quy định bởi chức năng của bản thân các chủ thể trong
  • 30. 23 mối quan hệ này. Về phía VKSND, với chức năng cơ bản đã được quy định bởi Hiến pháp và Luật tổ chức VKSND, BLTTHS là giám sát toàn bộ hoạt động điều tra. Mục tiêu của chức năng giám sát đó là phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, điều chỉnh những sai phạm trong quá trình ĐTVAHS. Những chức năng, nhiệm vụ này chỉ có thể thực hiện khi cơ chế cho phép VKSND chi phối, tiết chế hoạt động của các cơ quan TTHS. Về phía CQCSĐT, với nhiệm vụ tiến hành điều tra tất cả các tội phạm, có quyền áp dụng mọi biện pháp do BLTTHS quy định để xác định tội phạm và người đã thực hiện hành vi phạm tội. Những công cụ pháp lý do BLTTHS trang bị cho CQCSĐT chứa đựng sức mạnh cưỡng chế cần thiết để phục vụ mục đích làm sáng tỏ sự thật vụ án, nhưng đồng thời có khả năng tước đoạt, hạn chế những quyền, lợi ích đặc biệt quan trọng của con người. Vì vậy, sẽ hết sức nguy hại nếu chúng bị sử dụng không đúng đắn hoặc lạm dụng. Do đó, cơ chế hạn chế, giám sát, điều chỉnh hoạt động sử dụng những biện pháp ấy (hoạt động tố tụng) của CQCSĐT được BLTTHS quy định chặt chẽ và giao cho VKSND thực hiện. Nếu đem so sánh mối quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT với mối quan hệ giữa VKSND và TAND thì rõ ràng khác nhau về bản chất. Ở giai đoạn xét xử, tuy TAND là cơ quan giữ vai trò chỉ đạo việc xét xử, là cơ quan quyết định quá trình xét xử nhưng giữa VKSND và TAND lại hoàn toàn độc lập với nhau. Mỗi cơ quan tự chịu trách nhiệm về công việc của mình. TAND không làm thay hay can thiệp vào công việc của VKSND và ngược lại, VKSND cũng không can thiệp vào việc xét xử của TAND, mặc dù VKSND có quyền và trách nhiệm kiểm sát hoạt động xét xử của TAND. Khi TAND có vi phạm thì VKSND chỉ có quyền kiến nghị, kháng nghị, yêu cầu khắc phục, sửa chữa vi phạm. Trong khi đó, mối quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT thì khác hẳn về chất. Tuy CQCSĐT có quyền độc lập khi tiến hành điều tra, hoạch định phương hướng, kế hoạch điều tra, đề ra chiến thuật điều tra cụ thể, có quyền ra quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ điều tra.., nhưng VKSND có quyền can thiệp trực tiếp vào hoạt động điều tra của CQCSĐT. Trong trường hợp cần thiết, VKSND ra quyết định tố tụng và yêu cầu CQCSĐT phải thực hiện.
  • 31. 24 Nhưng ngược lại, CQCSĐT không có quyền can thiệp vào hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra của VKSND. Các kiến nghị của CQCSĐT đối với hoạt động của VKSND thì cũng do VKSND cấp trên giải quyết, quyết định. Và trong khi chờ quyết định của VKSND cấp trên, thì CQCSĐT vẫn phải chấp hành quyết định, yêu cầu bị kiến nghị đó. CQCSĐT không thể lấy lý do chờ quyết định của VKSND cấp trên mà trì hoãn việc chấp hành các quyết định, yêu cầu của VKSND. Trong quá trình điều tra, CQCSĐT có quyền ban hành các quyết định, các lệnh về TTHS liên quan đến hoạt động điều tra. Nhưng các quyết định, lệnh đó của CQCSĐT nằm dưới sự kiểm soát chặt chẽ của VKSND. Với chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, VKSND có quyền và trách nhiệm hủy bỏ các quyết định, lệnh đó khi không có căn cứ và trái pháp luật. Thay vào đó, VKSND có quyền ra các lệnh, quyết định tố tụng và giao cho CQCSĐT thực hiện.Trong một số trường hợp nhất định, những lệnh, quyết định của CQCSĐT liên quan tới việc hạn chế các quyền cơ bản của công dân, quyền con người mà Hiến pháp, pháp luật đã quy định phải có sự phê chuẩn của VKSND. Pháp luật quy định thẩm quyền phê chuẩn của VKSND đối với các lệnh, quyết định của CQCSĐT không có nghĩa là để VKSND “chứng thực” các lệnh, quyết định tố tụng của CQCSĐT mà pháp luật đã chuyển vai trò quyết định, chuyển trách nhiệm từ CQCSĐT sang VKSND. Chính vì vậy, VKSND không thể sử dụng các quyền chế ước của mình một cách độc đoán, mà đòi hỏi VKSND phải đưa ra căn cứ đầy đủ khi có những yêu cầu, quyết định chi phối CQCSĐT. Bản thân các KSV cũng phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về những hành vi tố tụng của mình. * Mối quan hệ giữa phối hợp và chế ước giữa VKSND cấp tỉnh và CQCSĐT cấp tỉnh. Quan hệ phối hợp và chế ước là bản chất mối quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT các cấp nói chung và cấp tỉnh nói riêng, là quan hệ phát sinh trong quá trình giải quyết VAHS. Phối hợp và chế ước để cùng thực hiện nhiệm vụ tố tụng. Hai mặt này vừa đan xen với nhau, bổ sung cho nhau, không loại trừ, hạn chế
  • 32. 25 lẫn nhau, với cùng chung một mục đích là giải quyết đúng đắn, chính xác, khách quan và đúng pháp luật. Trong mối quan hệ ấy, thì phối hợp là nền tảng bảo đảm tính bền vững; trong phối hợp luôn có sự chế ước; trên cơ sở chế ước để hỗ trợ, bảo đảm tính thống nhất, bền vững mang tính tất yếu theo quy định của pháp luật TTHS. Vì vậy, sẽ chỉ đầy đủ khi xem xét cả hai phương diện này để nghiên cứu về mối quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT. Trong đó, bên cạnh có sự phối hợp tác động, hỗ trợ và thúc đẩy lẫn nhau trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mỗi bên, là sự chế ước trong chừng mực nhất định theo chức năng, nhiệm vụ của các bên theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, tính chế ước buộc phải có trong mối quan hệ giữa các cơ quan quyền lực nhà nước nói chung, bởi sự kiểm soát lẫn nhau giữa các chủ thể này là cần thiết và hữu hiệu nhất để hạn chế sự vi phạm pháp luật và lạm quyền. Riêng trong lĩnh vực TTHS, giữa các cơ quan tiến hành tố tụng lại càng cần thiết một cơ chế để kiềm chế. Bởi vì các hoạt động TTHS hướng tới mục tiêu thực thi công lý và có tác động mạnh mẽ đến những quyền, lợi ích quan trọng nhất của cá nhân, tổ chức liên quan. Bất kỳ sự lạm quyền, tùy tiện hay tắc trách nào trong quá trình này, đều có thể dẫn đến những oan, sai mà tổn hại sau đó là hết sức nghiêm trọng. Tác giả đồng ý với quan điểm cho rằng: Mối quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT không phải là mối quan hệ chấp hành điều hành mà là mối quan hệ phối hợp, chế ước trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ của mỗi cơ quan và các nguyên tắc TTHS đặt ra cho các cơ quan tiến hành tố tụng… Hoạt động kiểm sát điều tra và thực hành quyền công tố của VKSND đã giúp cho công tác điều tra bảo đảm tính khách quan, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật, hạn chế oan, sai, bỏ lọt tội phạm; hỗ trợ cho CQCSĐT thực hiện nhiệm vụ điều tra. Hoạt động điều tra của CQCSĐT đã góp phần quan trọng cho công tác thực hành quyền công tố của VKSND ở cả giai đoạn điều tra cũng như trong quá trình xét xử…[1, tr.48]. Nói một cách cụ thể, trong TTHS, VKSND và CQCSĐT không chỉ có mối quan hệ phối hợp với nhau mà VKSND có sự chế ước hoạt động của CQCSĐT.
  • 33. 26 Tuy không thể phân định rành mạch về lượng giữa hai yếu tố này, song căn cứ vào từng chế định tố tụng cụ thể, chúng ta thấy rằng xuất phát từ tính chất của mỗi hoạt động tố tụng nhất định thì yếu tố phối hợp hoặc chế ước được đề cao. Chẳng hạn, trong việc điều tra, thu thập chứng cứ, tài liệu thì các quy định của pháp luật chủ yếu tập trung vào yếu tố phối hợp giữa hai cơ quan này như: khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi… để đảm bảo cho CQCSĐT chủ động, nhanh chóng, kịp thời thu giữ các chứng cứ, tài liệu chứng minh hành vi phạm tội của bị can. Nhưng khi áp dụng các biện pháp tố tụng liên quan đến quyền con người như: Các biện pháp ngăn chặn, pháp luật quy định quyền chế ước của VKSND đối với hoạt động của CQCSĐT rất chặt chẽ và đòi hỏi VKSND phải phê chuẩn trước khi CQCSĐT thi hành (trừ trường hợp bắt khẩn cấp, quả tang, truy nã hoặc tạm giữ) vì những hoạt động tố tụng này liên quan trực tiếp đến quyền con người trong TTHS. Quá trình thực hiện mối quan hệ tố tụng này cũng đòi hỏi mỗi chủ thể phải sử dụng đúng mức và linh hoạt hai yếu tố phối hợp và chế ước, nhất là đối với VKSND. Trong quá trình tiến hành tố tụng, nếu VKSND thực hiện sự phối hợp không đúng bản chất hoặc chỉ phối hợp mà không chế ước sẽ dẫn đến hiện tượng hữu khuynh, nể nang, né tránh hoặc phụ thuộc vào CQCSĐT, hoặc không kiên quyết đấu tranh bảo vệ chân lý, bảo vệ lẽ phải vì thiếu bản lĩnh nghề nghiệp. Hậu quả dẫn đến những thiếu sót, vi phạm của CQCSĐT, ĐTV sẽ không được VKSND, KSV yêu cầu khắc phục, bổ sung dẫn đến phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung, vụ án bị đình chỉ hoặc bị Tòa án tuyên bị cáo không phạm tội… Ngược lại, nếu VKSND thực hiện sự chế ước không đúng hoặc chỉ có chế ước mà không có sự phối hợp sẽ dẫn đến hiện tượng tả khuynh “quyền anh, quyền tôi” làm ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả hoạt động chung của hai cơ quan. Trên thực tế, một số KSV chỉ tìm những thiếu sót, sai phạm của ĐTV, CQCSĐT để báo cáo thành tích hoặc cho rằng đó là nhiệm vụ chính, mà không nhận thức được rằng KSV không thể đứng ngoài nhiệm vụ của ĐTV mà phải cùng với ĐTV tháo gỡ khó khăn, vướng mắc để tìm kiếm chứng cứ chứng minh và làm rõ sự thật của vụ án nhằm xử lý theo quy định của pháp luật.
  • 34. 27 Do vậy, việc sử dụng đúng đắn, linh hoạt hai yếu tố phối hợp và chế ước giữa VKSND và CQCSĐT trong quá trình tiến hành tố tụng hình sự sẽ góp phần tạo ra sức mạnh tổng hợp, đồng bộ trong quá trình đấu tranh phòng, chống tội phạm. Đây là đặc điểm ưu việt của hệ thống pháp luật và hệ thống các cơ quan tiến hành tố tụng của Việt Nam, cần được kế thừa, phát triển trong quá trình cải cách tư pháp hiện nay. Tóm lại, mối quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT cấp tỉnh trong ĐTVAHS là sự phối hợp và chế ước của VKSND với CQCSĐT cùng cấp trong giai đoạn ĐTVAHS, nhằm bảo đảm phát hiện tội phạm, điều tra vụ án đúng quy định của pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. 1.2.2. Đặc điểm của mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh và Cơ quan cảnh sát điều tra cấp tỉnh trong điều tra vụ án hình sự Trước yêu cầu giải quyết VAHS nhằm bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân mà VKSND có nghĩa vụ cùng với CQCSĐT thực hiện những nhiệm vụ theo quy định của pháp luật nhằm bảo đảm phát hiện chính xác và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Mối quan hệ này chì xuất hiện khi VKSND và CQCSĐT cùng giải quyết một VAHS. Do đó, đặc điểm mối quan hệ giữa VKSND cấp tỉnh và CQCSĐT cấp tỉnh trong ĐTVAHS, thể hiện ở những đặc điểm sau đây: Thứ nhất, mối quan hệ phối hợp, chế ước được thực hiện ngay từ giai đoạn đầu của quá trình tiến hành tố tụng. Trong các cơ quan tiến hành tố tụng thì VKSND và CQCSĐT có mối quan hệ tố tụng ngay từ khi tội phạm xảy ra, CQCSĐT cấp tỉnh có trách nhiệm thông báo cho VKSND cùng cấp để VKSND tiến hành các hoạt động tố tụng như khám nghiệm hiện trường, kiểm sát việc khởi tố. Thứ hai, quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT bị chi phối bởi phương pháp điều chỉnh của BLTTHS, trên cơ sở đó, các cơ quan tiến hành tố tụng được tiến hành các hoạt động tố tụng theo chức năng, nhiệm vụ của mình trong khuôn khổ
  • 35. 28 pháp luật và hoạt động độc lập. VKSND và CQCSĐT không cùng trong một hệ thống thuộc bộ máy Nhà nước nên quan hệ giữa hai cơ quan này không phải là quan hệ chấp hành, điều hành như các cơ quan hành chính Nhà nước mà phải coi là quan hệ TTHS. BLTTHS quy định VKSND thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS; giao cho CQCSĐT tiến hành hoạt động điều tra nhằm làm rõ hành vi vi phạm pháp luật hình sự. Hai cơ quan này đều có nhiệm vụ làm rõ sự thật vụ án, đảm bảo việc tuân thủ pháp luật một cách chặt chẽ. Nhiệm vụ quan trọng nhất của hai cơ quan này là phải thực hiện đúng quy định của pháp luật khi giải quyết án. Thấy được bản chất của mối quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT giúp cho việc “khắc phục những nhận thức sai lệch rằng CQCSĐT như cấp dưới của VKSND trong tố tụng hoặc CQCSĐT ngang bằng VKSND hoặc VKSND phải phụ thuộc CCSĐT” [12, tr. 34]. Thứ ba, mối quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT là quan hệ bị chi phối bởi các nguyên tắc của TTHS. Trên cơ sở đó, mối quan hệ giữa hai cơ quan này bị chi phối bởi nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa; nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân; Nguyên tắc xác định sự thật của vụ án được BLTTHS năm 2003 quy định; và những nguyên tắc mới được bổ sung tại BLTTHS năm 2015 như: nguyên tắc suy đoán vô tội, nguyên tắc không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm, nguyên tắc tuân thủ pháp luật của CQĐT, nguyên tắc kiểm tra, giám sát trong hoạt động TTHS… Việc thực hiện đúng các nguyên tắc của TTHS chính là sự đảm bảo cho quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT được thực hiện trên thực tế. Thứ tư, mối quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT trong ĐTVAHS là quan hệ phối hợp mang tính tất yếu, khách quan. Nó nảy sinh một cách khách quan ngay chính trong sự tồn tại và hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ của hai cơ quan này. VKSND và CQCSĐT có chức năng, nhiệm vụ độc lập với nhau nhưng có quan hệ mật thiết, chặt chẽ và tương hỗ nhau. Đây cũng là ưu điểm của mô hình tố tụng, phản ánh cách thức tổ chức bộ máy Nhà nước ta trong việc phối hợp và phân công thực hiện chức năng, nhiệm vụ. Trong từng chế định TTHS, VKSND và CQCSĐT đều có sự gắn bó chặt chẽ, nhiều hoạt động tố tụng mà sự tham gia của VKSND/
  • 36. 29 KSV là bắt buộc như: khám nghiệm hiện trường, tử thi, phê chuẩn quyết định khởi tố bị can… Song đặc trưng cơ bản của mối quan hệ tố tụng là hoạt động của chủ thể này có tác động đối với chủ thể kia và đối với cả mối quan hệ tố tụng. Nếu hoạt động điều tra có căn cứ sẽ bảo đảm để VKSND truy tố và tranh tụng có căn cứ, đúng pháp luật. Ngược lại nếu VKSND làm tốt công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra thì sẽ góp phần bảo đảm cho hoạt động điều tra đúng pháp luật, không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm. Thứ năm, mối quan hệ phối hợp giữa VKSND và CQCSĐT diễn ra trong suốt quá trình ĐTVAHS; từ khi tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, khởi tố về vụ án; trong tiến hành điều tra và đến khi hoàn thành bản kết luận điều tra, đề nghị truy tố người phạm tội và kết thúc ĐTVAHS. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, giữa VKSND và CQCSĐT tất yếu sẽ nảy sinh các mối quan hệ mà việc nhận thức đúng và vận dụng nó, sẽ có ảnh hưởng tích cực đến kết quả giải quyết VAHS. Xuất phát từ bản chất của mối quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT, mà nội dung và hình thức thể hiện mối quan hệ đó thể hiện trong toàn bộ các hoạt động trong quá trình ĐTVAHS. Từ hoạt động khởi tố đến các hoạt động điều tra và kết thúc điều tra, lập hồ sơ đề nghị truy tố. Theo quy định của pháp luật TTHS hiện hành, việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm là trách nhiệm của CQCSĐT và trách nhiệm giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm chỉ mới được bổ sung cho VKSND theo BLTTHS năm 2015. VKSND có trách nhiệm tiếp nhận, kiểm tra việc thẩm tra, xác minh và việc xử lý các thông tin về tội phạm của CQCSĐT hoặc trực tiếp giải quyết khi CQCSĐT có vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc bỏ lọt tội phạm mà VKSND đã yêu cầu nhưng không khắc phục. Quyết định khởi tố vụ án hoặc quyết định không khởi tố VAHS của CQCSĐT được VKSND kiểm sát chặt chẽ. Việc xem xét tính có căn cứ và hợp pháp quyết định khởi tố của CQCSĐT là quá trình thực hành quyền công tố của VKSND. Toàn bộ hoạt động của CQCSĐT từ việc khởi tố bị can; áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn; tiến hành các biện pháp điều tra và kết thúc điều tra, lập hồ sơ
  • 37. 30 đề nghị truy tố người phạm tội đều gắn với trách nhiệm thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra của VKSND. Vì vậy, nhận thức đúng đắn đặc trưng cơ bản này cũng là để đảm bảo thực hiện một vấn đề có tính nguyên tắc trong mối quan hệ giữa hai cơ quan, đó là tính thường xuyên, liên tục trong mối quan hệ. Do đó, bên cạnh việc nâng cao nhận thức đúng đắn và đầy đủ về mối quan hệ này, còn cần phải hình thành và củng cố cơ chế thực thi quan hệ thiết thực và có hiệu quả. 1.2.3. Nội dung mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh và Cơ quan cảnh sát điều tra cấp tỉnh trong điều tra vụ án hình sự Khái niệm “nội dung” được hiểu là “cái chứa đựng bên trong hình thức, là bản chất sự vật” [44, tr.1280]. Tác giả không đi sâu vào khái niệm nội dung cũng như kết cấu bên trong của một sự vât nào đó cụ thể, bởi đối tượng nghiên cứu ở đây là hoạt động của các chủ thể trong quan hệ phối hợp và chế ước, nên nội dung của mối quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT cấp tỉnh trong ĐTVAHS là những vấn đề mà hai bên cùng hướng tới nhằm đánh giá, kết luận những vấn đề cần chứng minh trong VAHS. Tuy nhiên, trong các hoạt động tố tụng có thể vừa có sự phối hợp, vừa có sự chế ước đan xen nên khó tách bạch riêng mỗi loại trong hoạt động tố tụng. Nội dung cụ thể về quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT trong giai đoạn ĐTVAHS, bao gồm: Thứ nhất, mối quan hệ trong tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và khởi tố VAHS. Việc phát hiện, tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố là hoạt động điều tra ban đầu của quá trình tố tụng. Hoạt động này có ý nghĩa rất quan trọng, đảm bảo thực hiện nguyên tắc mọi tội phạm xảy ra đều phải được phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh trước pháp luật. BLTTHS năm 2003 chưa có quy định về khái niệm tin báo, tố giác tội phạm, kiến nghị khởi tố, để khắc phục những hạn chế này cũng như quy hợp các văn bản hướng dẫn vào chung một đầu mối nên BLTTHS năm 2015 đã quy định rất cụ thể
  • 38. 31 về những nội dung này như sau: Tố giác về tội phạm là việc cá nhân phát hiện và tố cáo hành vi có dấu hiệu tội phạm với cơ quan có thẩm quyền. Tin báo về tội phạm là thông tin về vụ việc có dấu hiệu tội phạm do cơ quan, tổ chức, cá nhân thông báo với cơ quan có thẩm quyền hoặc thông tin về tội phạm trên phương tiện thông tin đại chúng. Kiến nghị khởi tố là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiến nghị bằng văn bản và gửi k m theo chứng cứ, tài liệu liên quan cho CQĐT, VKSND có thẩm quyền xem xét, xử lý vụ việc có dấu hiệu tội phạm. Nội dung sự phối hợp trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố là ở chỗ cả CQCSĐT với VKSND đều có trách nhiệm tiếp nhận và bảo đảm việc xử lý theo đúng quy định của pháp luật. Các hoạt động của CQCSĐT là bảo đảm thủ tục tiếp nhận, phân loại tin, tiến hành các biện pháp xác minh tính xác thực của nội dung tin để ra quyết định khởi tố hay không khởi tố VAHS được đặt dưới sự kiểm sát của VKSND. Nội dung của sự chế ước trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố là quyền quyết định của VKSND khi phát hiện CQCSĐT có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong hoạt động kiểm tra, xác minh tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố hoặc có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm mà VKSND đã yêu cầu bằng văn bản nhưng không được khắc phục thì VKSND trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố (Điều 145). Trong việc khởi tố vụ án, quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT chủ yếu được thực hiện trên cơ sở phối hợp. Theo đó, để tạo điều kiện cho VKSND thực hiện chức năng kiểm sát việc khởi tố VAHS, CQCSĐT phải gửi kịp thời và đầy đủ quyết định khởi tố VAHS hoặc quyết định không khởi tố VAHS, cùng toàn bộ hồ sơ tài liệu liên quan đã thu thập được đến VKSND. VKSND phải kiểm sát chặt chẽ việc gửi kịp thời quyết định khởi tố, quyết định không khởi tố VAHS của CQCSĐT để tránh tình trạng vụ án đã khởi tố nhưng chỉ gửi khi cần có sự phê chuẩn quyết định khởi tố bị can hoặc khi phải phê chuẩn các lệnh, quyết định gia hạn tạm giữ, tạm giam. Hoạt động kiểm sát việc khởi tố đòi hỏi VKSND phải kiểm tra tính có căn cứ và hợp pháp cả về hình thức và nội dung của quyết định khởi tố.
  • 39. 32 Công tác kiểm sát việc khởi tố có ý nghĩa rất quan trọng, nó đảm bảo loại trừ ngay từ ban đầu các vi phạm, thiếu sót của CQCSĐT để cơ quan này có biện pháp khắc phục, tránh xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, những người tham gia tố tụng và hạn chế những hao tổn về thời gian và công sức của các cơ quan trong quá trình tố tụng tiếp theo. Thứ hai, nội dung mối quan hệ trong việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn trong ĐTVAHS Biện pháp ngăn chặn trong TTHS là những biện pháp can thiệp nghiêm trọng đến các quyền con người, quyền công dân, nhất là biện pháp tạm giữ, tạm giam nên chỉ áp dụng khi thật sự cần thiết. Do đó, trong quá trình điều tra vụ án CQCSĐT phải tránh tình trạng lợi dụng biện pháp ngăn chặn. Việc bảo đảm áp dụng biện pháp ngăn chặn đúng pháp luật là trách nhiệm của VKSND, vì “ VKSND chịu trách nhiệm về những oan sai trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam thuộc phạm vi thẩm quyền phê chuẩn của mình” [2, tr.5]. Chính vì vậy, sự chế ước biểu hiện tập trung trong các hoạt động áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn trong ĐTVAHS. Đối với việc bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang, bắt người đang bị truy nã, bắt bị can, bị cáo để tạm giam, bắt người bị yêu cầu dẫn độ đều phải có sự phê chuẩn của VKSND cùng cấp trước hoặc sau khi thực hiện. Đối với việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác: trong phạm vi chức năng của mình, VKSND phải xem xét lý do căn cứ mà CQCSĐT đã áp dụng các biện pháp ngăn chặn nói trên. Nội dung mối quan hệ giữa VKSND và CQCSĐT trong việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn được thể hiện tập trung vào quyền năng chế ước của VKSND đối với CQCSĐT. Mặc dù CQCSĐT có thẩm quyền trong quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn, nhưng để các biện pháp ngăn chặn này đúng đắn và có hiệu lực thì cần có sự phê chuẩn của VKSND mới có giá trị pháp lý. Hơn nữa, đối với những biện pháp ngăn chặn do VKSND phê chuẩn trong giai đoạn điều tra thì việc hủy bỏ hoặc thay thế bằng biện pháp ngăn chặn khác phải do VKSND quyết
  • 40. 33 định đã khẳng định vai trò rất lớn của VKSND trong các trường hợp này, điều này đã chuyển trách nhiệm của CQCSĐT sang VKSND, vì vậy VKSND phải chủ động, tích cực và nâng cao hiệu quả hoạt động của mình trong việc phê chuẩn, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn luật định. Thứ ba, mối quan hệ trong tiến hành các hoạt động điều tra thu thập, củng cố chứng cứ, kết thúc điều tra, lập h sơ đề nghị xử lý vụ án Trong các hoạt động điều tra thu tập tài liệu chứng cứ như: khám nghiệm hiện trường, khám xét, thu giữ và bảo quản vật chứng, hỏi cung bị can, khám xét, lấy lời khai, đối chất, nhận dạng, thực nghiệm điều tra…CQCSĐT phải chủ động phối hợp, thông báo cung cấp tình hình và kết quả thực hiện các hoạt động điều tra theo quy định. Chẳng hạn, để tổ chức khám nghiệm hiện trường đạt kết quả tốt, trách nhiệm của CQCSĐT là phải thông báo kịp thời và đầy đủ sự việc đã xảy ra cho VKSND cùng cấp trước khi tiến hành khám nghiệm hiện trường, để VKSND tham gia ý kiến vào việc chuẩn bị khám nghiệm và chủ động trong công tác kiểm sát khám nghiệm. Trong việc khám xét, thu giữ, tạm giữ, kê biên tài sản, vật chứng: Khám xét là hoạt động điều tra nhằm tìm kiếm dấu vết tội phạm, vật chứng, đồ vật, tài liệu có liên quan đến vụ án hoặc để phát hiện người đang bị truy nã. Khám xét người, chỗ ở, nơi làm việc, địa điểm, phương tiện chỉ được tiến hành khi có căn cứ để nhận định trong người, chỗ ở, nơi làm việc, địa điểm, phương tiện có công cụ, phương tiện phạm tội, tài liệu, đồ vật, tài sản do phạm tội mà có hoặc đồ vật, dữ liệu điện tử, tài liệu khác có liên quan đến vụ án. Việc khám xét chỗ ở, nơi làm việc, địa điểm, phương tiện cũng được tiến hành khi cần phát hiện người đang bị truy nã, truy tìm và giải cứu nạn nhân. Tuy nhiên, khám xét thường liên quan đến quyền bất khả xâm phạm về thân thể, danh dự, uy tín… của công dân, nên hoạt động khám xét phải hết sức thận trọng, phải tuân theo những quy định của BLTTHS.Theo quy định của BLTTHS, hoạt động khám xét được chia ra hai trường hợp: (1) Khám xét trong trường hợp bình thường, lệnh khám xét của CQCSĐT phải có sự phê chuẩn của VKSND trước khi tiến hành (khoản 1 Điều 141 BLTTHS 2003, điều 1 điều 193