SlideShare a Scribd company logo
1 of 107
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TRẦN THỊ PHƢƠNG
T¡NG C¦êNG TR¸CH NHIÖM C¤NG Tè TRONG HO¹T §éNG
§IÒU TRA ë VIÖN KIÓM S¸T NH¢N D¢N TØNH B¾C GIANG
Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật
Mã số: 60 38 01 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN XUÂN TOẢN
HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Trần Thị Phƣơng
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHẬN THỨC CHUNG VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG
TỐ TRONG HOẠT ĐỘNG ĐIỀU TRA CỦA VIỆN KIỂM SÁT
NHÂN DÂN.....................................................................................................7
1.1. Một số khái niệm có liên quan ........................................................... 7
1.1.1. Quyền công tố ....................................................................................... 7
1.1.2. Thực hành quyền công tố....................................................................14
1.2. Thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát trong hoạt động
điều tra ...............................................................................................20
1.2.1. Nhiệm vụ và đặc điểm cơ bản của hoạt động điều tra........................20
1.2.2. Phạm vi, nội dung và đặc điểm của thực hành quyền công tố trong
hoạt động điều tra................................................................................23
1.2.3. Mối quan hệ giữa thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong hoạt động điều tra ..............................................27
1.3. Chủ trƣơng của Đảng, Nhà nƣớc về tăng cƣờng trách nhiệm
công tố trong hoạt động điều tra; pháp luật về thực quyền công
tố trong hoạt động điều tra của Viện kiểm sát nhân .....................28
1.3.1. Chủ trương của Đảng, Nhà nước về tăng cường trách nhiệm công
tố trong hoạt động điều tra ..................................................................28
1.3.2. Pháp luật về thực hành quyền công tố trong hoạt động điều tra.........32
Kết luận Chương 1.........................................................................................47
Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG
HOẠT ĐỘNG ĐIỀU TRA CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
TỈNH BẮC GIANG TỪ NĂM 2008 ĐẾN NĂM 2012 .........................48
2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh Bắc Giang và ảnh
hƣởng đối với việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Viện
kiểm sát nhân dân trên địa bàn .......................................................48
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội.....................................................48
2.1.2. Những ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội đối với
việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân
trên địa bàn..........................................................................................50
2.2. Thực trạng tổ chức, hoạt động thực hành quyền công tố trong
hoạt động điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc
Giang từ năm 2008 đến năm 2012...................................................52
2.2.1. Khái quát tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Bắc Giang............................................................................................52
2.2.2. Kết quả hoạt động thực hành quyền công tố trong hoạt động điều
tra của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang từ năm 2008 đến
năm 2012.............................................................................................56
Kết luận Chương 2.........................................................................................66
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG TRÁCH NHIỆM
CÔNG TỐ TRONG HOẠT ĐỘNG ĐIỀU TRA CỦA VIỆN
KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH BẮC GIANG THỜI GIAN TỚI ...67
3.1. Quan điểm chỉ đạo của Đảng về công tác thực hành quyền
công tố trong hoạt động điều tra của Viện kiểm sát nhân dân.....67
3.2. Nhóm giải pháp nhằm nâng cao trách nhiệm công tố trong
hoạt động điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc
Giang thời gian tới ............................................................................71
3.2.1. Một số giải pháp chung về nhận thức đúng đắn trách nhiệm công
tố trong hoạt động điều tra ..................................................................71
3.2.2. Giải pháp tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều
tra của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang thời gian tới ................76
3.3. Một số kiến nghị nhằm tăng cƣờng trách nhiệm công tố
trong hoạt động điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Bắc Giang...........................................................................................90
Kết luận Chương 3.........................................................................................92
KẾT LUẬN....................................................................................................93
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................96
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS: Bộ luật hình sự
BLTTHS: Bộ luật Tố tụng hình sự
KSV: Kiểm sát viên
VKS: Viện kiểm sát
VKSND: Viện kiểm sát nhân dân
VKSNDTC: Viện kiểm sát nhân dân tối cao
DANH MỤC BẢNG
Số hiệu bảng Tên bảng Trang
Bảng 2.1: Tổng số Kiểm sát viên, cán bộ của Viện kiểm sát nhân
dân tỉnh Bắc Giang 53
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Viện kiểm sát nhân dân là một cơ quan trong hệ thống tổ chức bộ máy
nhà nước của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, với chức năng được
quy định tại Điều 137 của Hiến pháp năm 2013, theo đó, “Viện kiểm sát nhân
dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp” [34, tr.57]. Điều 1
của Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 quy định: “Viện kiểm sát
nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp theo
quy định của hiến pháp và pháp luật” [32, tr.1].
Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số
nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới và Nghị quyết số 49-
NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020 đã đề ra những yêu cầu cơ bản về cải cách tư pháp đối với các cơ
quan tư pháp trong đó có Viện kiểm sát nhân dân. Nghị quyết Đại hội lần thứ
XI của Đảng nhấn mạnh phải tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động
điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra. Vì vậy việc nâng cao chất lượng
thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, thực hiện đúng và đầy đủ chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra, truy tố
có ý nghĩa rất quan trọng; là một trong những yếu tố cơ bản để giải quyết các
vụ án hình sự đảm bảo đúng quy định của pháp luật, hạn chế đến mức thấp
nhất việc bỏ lọt tội phạm hoặc làm oan người vô tội, góp phần đấu tranh
phòng chống tội phạm đạt kết quả, giữ vững an ninh chính trị và trật tự, an
toàn xã hội.
Như vậy, chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước ta là xây dựng
một nền công tố mạnh. Khi thực hành quyền công tố, Viện kiểm sát nhân dân
có trách nhiệm lớn trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Phải bảo
đảm mọi hành vi phạm tội và người phạm tội được phát hiện kịp thời, đầy đủ,
2
xử lý nghiêm minh, có căn cứ pháp luật, không bỏ lọt tội phạm và người
phạm tội, đồng thời không để làm oan người vô tội. Đây là hai mặt của vấn đề
trong công tác công tố và để góp phần làm tốt nhiệm vụ này, Viện kiểm sát
nhân dân phải tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra. Vì
vậy, có thể nói rằng đây là nhiệm vụ quan trọng của Viện kiểm sát nhân dân
trong giai đoạn hiện nay.
Trong giai đoạn điều tra, Viện kiểm sát thực hiện chức năng thực hành
quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Cơ quan điều tra và
các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra,
nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được khởi tố, điều tra và xử lý
kịp thời, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô
tội; không để người nào bị khởi tố, bị bắt, bị giam giữ, tạm giam, bị hạn chế
các quyền công dân, bị xâm phạm tính mạng, sức khỏe, tự do, danh dự và
nhân phẩm một cách trái pháp luật. Đồng thời, bảo đảm việc điều tra được
khách quan, toàn diện, đầy đủ, chính xác, đúng pháp luật; kịp thời phát hiện,
khắc phục và xử lý những vi phạm pháp luật trong quá trình điều tra.
Chức năng thực hành quyền công tố cùng với chức năng kiểm sát các
hoạt động tư pháp là chức năng riêng có của Viện kiểm sát và có ý nghĩa rất
quan trọng trong đời sống chính trị - xã hội. Kết luận của đồng chí Trường
Chinh, Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội về công tác của ngành kiểm sát
năm 1967 đã nhấn mạnh:
Công tố là một biện pháp chuyên chính trong bất cứ Nhà nước
nào. Không có cơ quan Nhà nước nào có thể thay thế ngành Kiểm
sát để sử dụng quyền công tố. Bắt giam, điều tra, tha, truy tố, xét xử
có đúng người, đúng tội, đúng pháp luật hay không, có đúng đường
lối chính sách của Đảng và Nhà nước hay không, điều đó chính là
Viện kiểm sát phải trông nom, đảm bảo làm tốt [41].
3
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 và Bộ luật tố tụng hình
sự năm 2003 đã quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi
thực hành quyền công tố. Bởi vậy, thực chất của việc tăng cường trách nhiệm
công tố trong hoạt động điều tra là tăng cường trách nhiệm của Viện kiểm sát
để thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực
hiện thực hành quyền công tố theo quy định của pháp luật.
Với mong muốn được góp phần làm sáng tỏ hơn một số vấn đề lý luận
và thực tiễn thông qua hoạt động thực hiện chức năng nhiệm vụ của Viện
kiểm sát nhân dân trên một địa bàn cụ thể; đồng thời, đề xuất một số giải pháp
để nâng cao chất lượng của hoạt động này, tác giả chọn đề tài "Tăng cường
trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra ở Viện kiểm sát nhân dân
tỉnh Bắc Giang" làm luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Liên quan đến vấn đề nghiên cứu, nhất là hoạt động tăng cường trách
nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, thời gian qua, đã có một số công trình
nghiên cứu được công bố như:
- “Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong
giai đoạn điều tra”, TS. Lê Hữu Thể chủ biên, NXB Tư pháp, 2005;
- “Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra theo cải
cách tư pháp”, Chuyên đề tập huấn, Vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát
điều tra án hình sự về trật tự xã hội – Viện kiểm sát nhân dân Tối cao;
- “Cơ quan thực hành quyền công tố trong cải cách tư pháp ở nước ta
hiện nay”, Đỗ Văn Đương, Tạp chí chuyên ngành, Hà Nội, 2006;
- “Đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống các cơ quan thực hiện
chức năng thực hành quyền công tố đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp”, Phạm
Hồng Hải, Tạp chí chuyên ngành, Hà Nội, 2006.
4
Ngoài ra, còn có một số bài viết khác của các tác giả đăng trên tạp chí
Kiểm sát, tạp chí Luật học của Trường Đại học Luật Hà Nội, Tạp chí Tòa án.
Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống,
nghiên cứu sâu về thực tiễn tăng cường trách nhiệm công tố gắn với hoạt
động điều tra tại Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang. Do vậy, việc đi sâu
nghiên cứu, tìm hiểu về vấn đề này có ý nghĩa quan trọng trong lý luận và
thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Luận văn phân tích, làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn tăng
cường trách nhiệm công tố gắn với hoạt động điều tra tại Viện kiểm sát nhân
dân tỉnh Bắc Giang. Trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp, kiến nghị để nâng
cao trách nhiệm công tố gắn với hoạt động điều tra của hai cấp Viện kiểm sát
nhân dân tỉnh Bắc Giang hiện nay.
Để đạt được mục đích trên, phải triển khai thực hiện các nhiệm vụ cụ
thể sau:
- Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận và nhận thức chung về thực
hành quyền công tố trong hoạt động điều tra;
- Khảo sát và đánh giá thực trạng thực hành quyền công tố trong hoạt
động điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang từ năm 2008 đến
năm 2012;
- Xác định các quan điểm, đề xuất các giải pháp tăng cường trách
nhiệm công tố trong hoạt động điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc
Giang thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận về
quyền công tố, thực hành quyền công tố và thực trạng, giải pháp nhằm nâng
cao chất lượng thực hành quyền công tố trong hoạt động điều tra của Viện
kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang.
5
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn chỉ giới hạn nghiên cứu vấn đề liên
quan đến thực hành quyền công tố trong hoạt động điều tra của Viện kiểm sát
nhân dân tỉnh Bắc Giang. Thời gian nghiên cứu, khảo sát trong 05 năm, từ
năm 2008 đến năm 2012.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật, các quan
điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về cải cách bộ máy nhà nước nói chung và
cải cách tư pháp nói riêng.
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của khoa học chuyên
ngành, trong đó đặc biệt chú trọng các phương pháp kết hợp giữa lý luận và
thực tiễn, phân tích và tổng hợp, lịch sử cụ thể. Đồng thời, luận văn còn sử
dụng một số phương pháp của một số bộ môn khoa học khác như thống kê, so
sánh, tọa đàm trao đổi…
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn góp phần làm rõ, hoàn thiện một số vấn đề lý luận cơ bản về
quyền công tố, thực hành quyền công tố và mối quan hệ giữa thực hành quyền
công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra của Viện
kiểm sát. Đồng thời, đánh giá khái quát thực trạng thực hành quyền công tố
trong hoạt động điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang trong
thời gian qua; đề xuất một số quan điểm, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng
tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra của Viện kiểm sát
nhân dân tỉnh Bắc Giang trong thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.
6
Chương 1. Nhận thức chung về thực hành quyền công tố trong hoạt
động điều tra của Viện kiểm sát nhân dân.
Chương 2. Thực trạng thực hành quyền công tố trong hoạt động điều
tra của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang từ năm
2008 đến năm 2012.
Chương 3. Một số giải pháp tăng cường trách nhiệm công tố trong
hoạt động điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc
Giang thời gian tới.
7
Chương 1
NHẬN THỨC CHUNG VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ
TRONG HOẠT ĐỘNG ĐIỀU TRA CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
1.1. Một số khái niệm có liên quan
1.1.1. Quyền công tố
1.1.1.1. Khái niệm quyền công tố
"Công tố" là từ ghép Hán - Việt, được hình thành bởi hai từ đơn "công"
và "tố". Theo Đại từ điển tiếng Việt, "công" có nghĩa là "thuộc về Nhà nước,
tập thể, trái với tư" [51, tr.453], còn "tố" có nghĩa là "nói về những sai phạm,
tội lỗi của người khác một cách công khai trước người có thẩm quyền hoặc
trước nhiều người" [51, tr.459]; "công tố" có nghĩa là "điều tra, truy tố, buộc
tội kẻ phạm pháp và phát biểu ý kiến trước Tòa án" [51, tr.1663].
Như vậy, có thể thấy công tố là một khái niệm đề cập đến các nội dung
về điều tra, truy tố, buộc tội người phạm tội trước Tòa án. Trong đó bên thực
hiện buộc tội là nhân danh Nhà nước, nhân danh lợi ích công để tố cáo, đưa
người có hành vi phạm tội ra trước Tòa án để xét xử. Khác với tư tố, là tự
mình nhân danh lợi ích cá nhân, riêng tư để tố cáo, khởi kiện ra Tòa án để đề
nghị Tòa án bảo vệ quyền lợi cho riêng mình.
Quyền công tố là một khái niệm pháp lý. Ở Việt Nam chế định quyền
công tố chưa được giải thích chính thức trong văn bản quy phạm pháp luật
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, mới chỉ đề cập trong các bài giảng, các
luận văn, đề tài khoa học và một số sách, tạp chí nghiên cứu luật học... Nhưng
trên thực tế quyền năng công tố đã được thực hiện từ khi nhà nước Việt Nam
Dân chủ cộng hòa ra đời, khi đó chức năng công tố thuộc hệ thống Tòa án do
các Thẩm phán buộc tội đảm nhiệm. Sau đó trong các Tòa án đều có bộ phận
"Công tố viện" chuyên thực hiện chức năng công tố. Công tố viện do Công tố
8
ủy viên phụ trách. Tại phiên họp ngày 29/4/1958 kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa
I đã quyết định chia tách và thành lập một số cơ quan nhà nước, trong đó có
việc thành lập Tòa án tối cao và hệ thống tòa án, thành lập Viện công tố
Trung ương và hệ thống Viện công tố. Cả hai cơ quan tách khỏi Bộ Tư pháp
và đều là các cơ quan có nhiệm vụ, quyền hạn ngang Bộ trực thuộc Chính
phủ. Ngày 01/07/1959 Chính phủ ban hành Nghị định 256/TTg quy định về
nhiệm vụ và tổ chức Viện công tố Trung ương và hệ thống Viện công tố, đây
là tổ chức tiền thân của Viện kiểm sát nhân dân. Tại phiên họp ngày
15/7/1960, kỳ họp thứ 2 Quốc hội khóa II đã thông qua Luật tổ chức Viện
kiểm sát nhân dân và ngày 26/7/1960 Chủ tịch nước đã ký lệnh công bố luật
này. Kể từ đó đến nay quyền công tố do Viện kiểm sát nhân dân đảm nhiệm.
Thuật ngữ “Quyền công tố” lần đầu tiên được ghi nhận tại Hiến pháp
1980, sau đó tại Hiến pháp năm 1992, Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988, Bộ
luật tố tụng hình sự năm 2003, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm
1981, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1992, Luật tổ chức Viện
kiểm sát nhân dân năm 2002, Pháp lệnh kiểm sát viên năm 2002...
Hiện nay, vẫn còn có nhiều quan điểm khác nhau về quyền công tố. Có
thể khái quát lại một số quan điểm về quyền công tố như sau:
Quan điểm thứ nhất: Là quan điểm cho rằng tất cả các hoạt động kiểm
sát tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát đều là thực hành quyền công tố.
“Những người theo quan điểm này đã đồng nhất khái niệm quyền công tố với
hoạt động kiểm sát tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát nhân dân. Theo họ,
công tố không phải là một chức năng độc lập của Viện kiểm sát mà chỉ là một
quyền năng, một hình thức thực hiện chức năng kiểm sát tuân theo pháp luật
của Viện kiểm sát” [18, tr. 85-87].
Theo tác giả, quan điểm này đã đánh đồng quyền công tố với quyền
kiểm sát tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát và như vậy là không chính xác
9
bởi vì thực hành quyền công tố và kiểm sát tuân theo pháp luật là hai chức
năng hoàn toàn độc lập của Viện kiểm sát nhân dân. Mặc dù trong quá trình
thực hiện hai chức năng này, có thể có những nội dung đan xen nhau, có quan
hệ mật thiết với nhau, tác động qua lại với nhau nhưng không phải trong mọi
công tác thực hiện chức năng của Viện kiểm sát, trong mọi hoạt động thực
hiện chức năng của Kiểm sát viên đều bao hàm cả hai chức năng đó, có hoạt
động chỉ nhằm thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và có hoạt động
chỉ nhằm thực hiện chức năng kiểm sát tuân theo pháp luật. Vì vậy, không thể
phủ nhận tính độc lập của hai chức năng này về cả nội dung lẫn phạm vi áp
dụng và vì vậy không thể đồng nhất chúng.
Quan điểm thứ hai: “Quyền công tố là quyền đại diện cho Nhà nước
đưa các vụ việc vi phạm pháp luật nói chung ra trước Tòa án để xét xử nhằm
bảo vệ lợi ích của Nhà nước, bảo vệ trật tự pháp luật; Ở Việt Nam, quyền này
được giao cho Viện kiểm sát nhân dân” [18, tr.19]. Quan điểm này có thể coi
là quan điểm phổ biến trong ngành kiểm sát, đã được đưa vào giáo trình giảng
dạy của ngành kiểm sát và thường xuyên được nhắc đến trong các văn bản
hướng dẫn nghiệp vụ và các báo cáo tổng kết thực tiễn của ngành kiểm sát.
Theo quan điểm này thì đầu tiên quyền công tố chỉ có trong lĩnh vực hình sự,
về sau nó được mở rộng sang các lĩnh vực tư pháp khác và cho đến nay thì
quyền công tố không chỉ có trong lĩnh vực tố tụng hình sự mà còn có cả trong
các lĩnh vực tố tụng dân sự và các lĩnh vực tố tụng tư pháp khác.
Theo tác giả, quan điểm này quá mở rộng cả khái niệm, nội dung và
phạm vi của quyền công tố, đã đồng nhất quyền công tố với những quyền
năng khác của Viện kiểm sát trong quá trình kiểm sát các hoạt động tư pháp
(giải quyết các vụ án dân sự, hành chính, kinh tế và lao động…).
Quan điểm thứ ba cho rằng, “quyền công tố là sự cáo buộc của Nhà
nước đối với các cá nhân, tổ chức đó vi phạm pháp luật, bao gồm vi phạm
10
hành chính, vi phạm dân sự, vi phạm kinh tế, vi phạm hình sự. Và quyền công
tố là quyền của Nhà nước thực hiện sự cáo buộc đó” [20, tr.82-88]. Theo
quan điểm này, quyền công tố chỉ thuộc về Nhà nước, Nhà nước không thể
không thực hiện quyền công tố khi chính Nhà nước là người ban hành pháp
luật, người có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật và đồng thời Nhà nước là chủ thể
tham gia và nhiều quan hệ pháp luật khác nhau. Với tính cách là một quyền
năng của Nhà nước, quyền công tố được thực hiện trong tất cả các quá trình
giải quyết các vi phạm pháp luật, bao gồm tố tụng hình sự, tố tụng dân sự, tố
tụng kinh tế, tố tụng lao động, tố tụng hành chính. Theo quan điểm trên,
quyền công tố trong các hoạt động tố tụng được biểu hiện cụ thể ở các quyền
của Viện kiểm sát như quyền khởi tố vụ án (dân sự, kinh tế, hành chính, lao
động, hình sự), quyền tham gia tố tụng từ tất bất cứ giai đoạn tố tụng nào khi
xét thấy cần thiết (dân sự, kinh tế...), quyền yêu cầu Toà án hoặc tự mình điều
tra xác minh những vấn đề cần làm sáng tỏ trong vụ án...
Quan điểm thứ tư:
Quyền công tố là quyền của Nhà nước giao cho Viện kiểm
sát truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội; cơ quan
công tố có trách nhiệm bảo đảm việc thu thập đầy đủ tài liệu,
chứng cứ để xác định tội phạm và người phạm tội, trên cơ sở đó
quyết định truy tố bị can ra trước Tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó
trước phiên tòa [1, tr.40].
Theo quan điểm này thì quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước
truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi vi phạm mà pháp luật
hình sự coi là tội phạm; quyền công tố chỉ có trong lĩnh vực duy nhất là trong
tố tụng hình sự; ở nước ta, quyền công tố được Nhà nước giao cho duy nhất
Viện kiểm sát nhân dân, không có bất cứ cơ quan nào có thể thay thế được.
Như vậy có thể thấy, về khái niệm quyền công tố có rất nhiều quan
11
điểm khác nhau. Mỗi quan điểm trong số đó đều có những hạt nhân hợp lý
của nó nhưng cũng đều bộc lộ những bất cập. Hoặc là đánh đồng quyền công
tố với kiểm sát tuân theo pháp luật, coi quyền công tố chỉ là quyền năng của
Viện kiểm sát trong kiểm sát tuân theo pháp luật nên đã mở rộng phạm vi của
quyền công tố sang các lĩnh vực khác ngoài tố tụng hình sự; hoặc là quá thu
hẹp phạm vi của quyền công tố, cho rằng quyền công tố chỉ có trong giai đoạn
xét xử sơ thẩm; hoặc xác định không đúng chủ thể của quyền công tố…
Từ những phân tích ở trên, để xây dựng được khái niệm quyền công tố
chính xác, khoa học thì phải dựa trên các quan điểm chỉ đạo của Đảng, Nhà
nước, các quy định hiện hành của pháp luật và thực tiễn hoạt động của các cơ
quan tư pháp Việt Nam. Theo tác giả, việc xây dựng khái niệm quyền công tố
cần phải dựa trên những nguyên tắc sau:
- Quyền công tố phải là quyền của Nhà nước, xuất hiện cùng với sự ra
đời của Nhà nước và thay đổi theo bản chất của Nhà nước. Được Nhà nước
giao cho một cơ quan thực hiện (ở nước ta là Viện kiểm sát nhân dân), nhằm
xác định tội phạm và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Để
làm được điều này, cơ quan Viện kiểm sát phải có trách nhiệm đảm bảo việc
thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ để xác định tội phạm và người phạm tội,
trên cơ sở đó quyết định việc truy tố bị can ra trước Tòa án và bảo vệ sự buộc
tội tại phiên tòa.
- Quyền công tố chỉ tồn tại trong lĩnh vực tố tụng hình sự, với đối
tượng là tội phạm và người phạm tội mà không có trong các lĩnh vực khác
như tố tụng dân sự, hành chính....
- Quyền công tố chỉ do một cơ quan thực hiện và phải độc lập với
quyền xét xử của Tòa án. Quyền công tố phải được thể hiện bằng những hoạt
động cụ thể ở trong tất cả các giai đoạn tố tụng hình sự, từ khởi tố, điều tra,
đến đưa vụ án ra xét xử.
12
Theo đó, có thể định nghĩa quyền công tố như sau: Quyền công tố là
quyền của Nhà nước, giao cho Viện kiểm sát nhân dân thực hiện việc xác
định tội phạm,truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trước Tòa
án và bảo vệ việc buộc tội tại phiên toà.
1.1.1.2. Đối tượng, nội dung và phạm vi quyền công tố
* Đối tượng của quyền công tố là cái mà quyền công tố tác động vào
nhằm đạt được mục đích cụ thể nào đó như nhằm buộc tội người phạm tội để
trừng phạt nhằm bảo đảm trật tự xã hội và trật tự pháp luật, nhằm bảo đảm lợi
ích chung cho xã hội… Do còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về quyền
công tố, nên tất yếu còn tồn tại nhận thức khác nhau về đối tượng, nội dung
và phạm vi của quyền công tố điển hình có thể kể đến một số quan điểm sau:
- Quan điểm xác định đối tượng của quyền công tố và sự tuân thủ pháp
luật của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia
tố tụng. Quan điểm này là kết quả của sự đồng nhất khái niệm quyền công tố
với hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật.
- Quan điểm cho tằng đối tượng của quyền công tố là các hành vi vi
phạm pháp luật; quan điểm này xuất phát từ nhận thức coi quyền công tố là
quyền của Nhà nước cáo buộc cá nhân, tổ chức vi phạm pháp luật và đưa ra
các vụ việc vi phạm pháp luật ra Tòa.
- Quan điểm coi quyền công tố là quyền Nhà nước nhân danh xã hội truy
cứu trách nhiệm hình sự đối với những người có hành vi phạm tội hoặc hành vi
vi phạm pháp luật liên quan đến lợi ích chung, lợi ích Nhà nước thì lại cho rằng
đối tượng của quyền công tố là tội phạm, người phạm tội và những vụ việc xâm
hại đến lợi ích chung trong lĩnh vực dân sự, hành chính, lao động.
Từ quan điểm nhận thức về quyền công tố đã trình bày ở trên, tác giả
luận văn cho rằng đối tượng của quyền công tố chỉ có thể là: tội phạm và
người phạm tội.
13
* Nội dung của quyền công tố
Về nội dung của quyền công tố, cũng còn tồn tại những quan điểm khác
nhau song xuất phát từ quan điểm về bản chất của quyền công tố là sự buộc
tội nhân danh Nhà nước, đối tượng tác động của quyền công tố là tội phạm và
người phạm tội, tác giả thống nhất với quan điểm nội dung của quyền công tố
là sự buộc tội nhân danh Nhà nước đối với người đã thực hiện tội phạm.
* Phạm vi quyền công tố
Do hiện đang tồn tại những quan điểm khác nhau về quyền công tố nên
cũng có các cách lý giải khác nhau về phạm vi của quyền công tố (phạm vi về
không gian, phạm vi về thời gian).
- Phạm vi về thời gian: Phần lớn các quan điểm cho rằng quyền công tố
không chỉ bị giới hạn bó hẹp trong lĩnh vực tố tụng hình sự mà còn bao trùm cả
trong các lĩnh vực tư pháp khác như tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, tố tụng
kinh tế, tố tụng lao động. Bên cạnh đó có quan điểm cho rằng phạm vi của
quyền công tố chỉ có trong lĩnh vực tố tụng hình sự và không thể có trong các
lĩnh vực tố tụng khác. Do đó tác giả cho rằng quyền công tố là quyền nhân
danh Nhà nước thực hiện việc buộc tội đối với người phạm tội; do đó quyền
công tố không thể tồn tại ở lĩnh vực nào khác ngoài lĩnh vực tố tụng hình sự.
- Phạm vi về thời gian cho rằng quyền công tố xuyên suốt cả quá trình
khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án tức là nó bắt đầu khi tội phạm
xảy ra và chỉ kết thúc khi người phạm tội chấp hành xong bản án.
Từ quan điểm của mình về quyền công tố tác giả luận văn đồng tình với
ý kiến cho rằng phạm vi quyền công tố bắt đầu từ khi tội phạm được thực
hiện và kết thúc khi việc buộc tội không còn nữa. Và khi việc buộc tội không
còn nữa thì không còn lý do gì để cho rằng quyền công tố vẫn kéo dài đến khi
người phạm tội chấp hành xong bản án.
14
1.1.2. Thực hành quyền công tố
1.1.2.1. Khái niệm thực hành quyền công tố
Cũng như khái niệm về quyền công tố, khái niệm thực hành quyền
công tố cũng như nội dung, phạm vi của nó còn có nhiều cách hiểu khác nhau.
Quyền công tố là quyền đại diện cho Nhà nước truy cứu trách nhiệm hình
sự đối với người có hành vi phạm tội; quyền công tố chỉ có trong lĩnh vực tố
tụng hình sự; phạm vi của quyền công tố bắt đầu từ khi tội phạm xảy ra, tiếp
diễn suốt từ khởi tố, điều tra đến truy tố bị can ra Tòa, tranh tụng tại phiên tòa và
kết thúc bằng một bản án có hiệu lực pháp luật (hoặc quyết định của Tòa án -
trong trường hợp vụ án bị đình chỉ). Để thực hiện được quyền công tố đó, Nhà
nước ban hành pháp luật quy định các quyền năng pháp lý khác nhau để các cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền áp dụng trong từng giai đoạn khác nhau của tố
tụng hình sự (hay nói cách khác đó là các phương pháp khác nhau để tổ chức
thực hiện chức năng, nhiệm vụ trong những giai đoạn tố tụng khác nhau) - đó
là thực hành quyền công tố. Ở Việt Nam, căn cứ vào các quy định của Hiến
pháp và pháp luật và thực tiễn thì từ trước đến nay quyền này được giao cho
duy nhất Viện kiểm sát. Vậy, chủ thể thực hành quyền công tố ở Việt Nam là
Viện kiểm sát nhân dân.
Từ những phân tích nêu trên có thể xác định phạm vi và nội dung thực
hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra của Viện kiểm sát như sau:
Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra của Viện kiểm sát
nhân dân là việc Viện kiểm sát sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý
thuộc nội dung của quyền công tố để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với
người phạm tội và được thực hiện từ khi khởi tố vụ án và kết thúc khi Viện
kiểm sát quyết định truy tố bị can ra trước Tòa án để xét xử hoặc khi vụ án
được đình chỉ điều tra theo quy định của pháp luật.
15
1.1.2.2. Phạm vi thực hành quyền công tố
Xét về nguyên tắc thì phạm vi thực hành quyền công tố đồng nhất với
phạm vi của quyền công tố; tức là bắt đầu từ khi tội phạm xảy ra và kết thúc
khi bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật không bị kháng nghị hoặc vụ án
được đình chỉ theo đúng quy định của pháp luật tố tụng hình sự.
Như vậy cũng có nghĩa là khi tội phạm xảy ra đòi hỏi quyền công tố
phải được phát động để đảm bảo mọi tội phạm xảy ra đều phải được phát hiện
xử lý theo pháp luật.
Để có cơ sở phát động quyền công tố đòi hỏi phải trải qua một giai
đoạn chuẩn bị nhằm thu thập tài liệu, tin tức về tội phạm xảy ra, như: Tiếp
nhận, xác minh tin báo, tố giác tội phạm; tiến hành một số hoạt động điều tra
trước khi khởi tố vụ án như khám nghiệm hiện trường, lấy lời khai người làm
chứng, lấy lời khai người bị tạm giữ… và mục đích của giai đoạn này là nhằm
xác định có hay không có dấu hiệu tội phạm để làm cơ sở khởi tố hay không
kết thúc vụ án hình sự và thực hành quyền công tố chỉ thực sự phát sinh khi
có quyết định kết thúc vụ án. Nhưng trên thực tế việc kết thúc vụ án không
thể bao trùm hết được số vụ tội phạm xảy ra (thậm chí số vụ tội phạm xảy ra
không được phát hiện khởi tố còn chiếm một tỷ lệ không nhỏ so với số vụ tội
phạm được khởi tố). Do đó, trong khi thực hành quyền công tố chỉ phát sinh
khi có quyết định khởi tố vụ án thì quyền công tố luôn “treo trên đầu” đối với
tất cả những người thực hiện tội phạm nhưng chưa bị phát hiện khởi tố điều
tra. Điều này cũng cho thấy rõ ràng phạm vi quyền công tố luôn rộng hơn so
với phạm vi thực hành quyền công tố. Tuy về nguyên tắc như đã phân tích ở
trên quyền công tố luôn bắt đầu từ khi có tội phạm xảy ra và kết thúc khi bản
án có hiệu lực pháp luật. Nhưng trên thực tế, trong những trường hợp cụ thể,
quyền công tố có thể kết thúc ở giai đoạn tố tụng sớm hơn. Đó là khi Cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát căn cứ vào các quy định của pháp luật ra quyết định
16
đình chỉ vụ án, bị can (theo quy định của pháp luật Việt Nam thì đó là các
trường hợp quy định ở khoản 2 Điều 105, Điều 107 BLTTHS; Điều 19, Điều
25, khoản 2 Điều 169 BLHS…) và khi quyền công tố chấm dứt thì thực hành
quyền công tố cũng chấm dứt.
Như vậy có thể khẳng định phạm vi thực hành quyền công tố bắt đầu từ
khi khởi tố vụ án hình sự và kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật, không
bị kháng nghị hoặc vụ án được đình chỉ điều tra theo quy định của pháp luật
tố tụng hình sự.
1.1.2.3. Nội dung thực hành quyền công tố
Nội dung thực hành quyền công tố là việc Viện kiểm sát nhân dân sử
dụng những biện pháp được pháp luật quy định để truy cứu trách nhiệm hình
sự đối với người phạm tội.
Theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003, Luật Tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 và Quy chế thực hành quyền công tố và
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự ban
hành kèm theo Quyết định số 07/2008/QĐ-VKSTC ngày 2/1/2008, Quy chế
công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự ban
hành kèm theo Quyết định số 960/QĐ-VKSTC ngày 17/9/2007 của Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao thì nội dung thực hành quyền công tố
của Viện kiểm sát nhân dân được xác định như sau:
* Nội dung thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra, truy tố:
+ Khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can; yêu cầu Cơ quan điều tra khởi
tố hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can. Việc khởi tố
vụ án hình sự được thực hiện khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm. Theo quy
định tại Điều 104 của BLTTHS năm 2003 thì, các cơ quan có thẩm quyền
khởi tố vụ án, bị can bao gồm: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án và các
cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra như Bộ
17
đội Biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển... Trên thực tế,
việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can chủ yếu do Cơ quan điều tra các cấp tiến
hành, Viện kiểm sát chỉ ra quyết định khởi tố vụ án trong một số trường hợp
nhất định. Tuy vậy, Viện kiểm sát là cơ quan duy nhất được quyền khởi tố vụ
án hình sự một cách độc lập, không chịu sự ràng buộc về mặt cơ chế tố tụng
của bất kỳ một cơ quan nhà nước nào.
Viện kiểm sát cũng có quyền yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố, thay
đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can nếu có căn cứ xác
định tội phạm đã khởi tố không đúng với hành vi phạm tội xảy ra hoặc còn
có tội phạm khác; có quyền hủy bỏ quyết định khởi tố hoặc quyết định
không khởi tố vụ án của Cơ quan điều tra và các cơ quan khác được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Đồng thời, Viện kiểm sát
cũng có quyền kháng nghị đối với những quyết định khởi tố vụ án không có
căn cứ của Hội đồng xét xử.
Quyết định khởi tố bị can của Cơ quan điều tra và các cơ quan khác
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải được gửi ngay
cho Viện kiểm sát để xem xét phê chuẩn trong thời hạn 24 giờ, kể từ thời
điểm ra quyết định khởi tố. Viện kiểm sát sẽ xem xét phê chuẩn hoặc hủy bỏ
quyết định khởi tố nếu quyết định khởi tố đó không có căn cứ và trái pháp
luật trong thời hạn 3 ngày, kể từ khi nhận được quyết định khởi tố bị can và
các tài liệu liên quan đến việc khởi tố của Cơ quan điều tra.
+ Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra tiến hành điều tra;
khi cần thiết có thể trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định
của pháp luật. Kiểm sát viên có thể trực tiếp đề ra yêu cầu điều tra bằng lời
trong quá trình kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi,
khám xét, hỏi cung bị can, lấy lời khai, đối chất, thực nghiệm điều tra. Đối
với những trường hợp khác, khi đề ra yêu cầu điều tra, Kiểm sát viên phải có
18
văn bản nêu rõ vấn đề cần điều tra. Viện kiểm sát có nhiệm vụ, quyền hạn
trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra khi xét thấy cần thiết như khác
hoạt động hỏi cung bị can, lấy lời khai bị hại, người làm chứng, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, đối chất, thực nghiệm điều tra.
+ Quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm
giam và các biện pháp ngăn chặn khác; quyết định phê chuẩn, quyết định
không phê chuẩn các quyết định Cơ quan điều tra theo quy định của pháp luật.
Khi có căn cứ và xét thấy cần thiết, Viện kiểm sát nhân dân có quyền quyết
định áp dụng một trong các biện pháp ngăn chặn như bắt bị can để tạm giam,
tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để
bảo đảm. Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ, quyền hạn phê chuẩn các quyết
định của Cơ quan điều tra trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn như bắt
khẩn cấp, gia hạn tạm giữ, bắt bị can để tạm giam, tạm giam, đặt tiền hoặc tài
sản có giá trị để bảo đảm; phê chuẩn hoặc không phê chuẩn đối với một số
quyết định khác của Cơ quan điều tra như lệnh khám xét,…
+ Yêu cầu Thủ trưởng Cơ quan điều tra thay đổi Điều tra viên theo
quy định của pháp luật, nếu hành vi của Điều tra viên có dấu hiệu tội phạm
thì khởi tố về hình sự. Khi phát hiện thấy Điều tra viên được phân công
giải quyết vụ án thuộc một trong các trường hợp bị thay đổi hoặc phải từ
chối tiến hành tố tụng, Kiểm sát viên có quyền đề nghị Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân cấp mình xem xét để yêu cầu Thủ trưởng Cơ quan điều
tra thay đổi Điều tra viên.
+ Hủy bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của Cơ quan
điều tra. Viện kiểm sát có quyền hủy bỏ các quyết định của Cơ quan điều tra
trong quá trình điều tra vụ án, nếu các quyết định đó được ban hành mà không
có căn cứ pháp lý, không đúng trình tự, thủ tục, hình thức, thẩm quyền theo
quy định của pháp luật. Viện kiểm sát có quyền yêu cầu Cơ quan điều tra truy
nã bị can khi bị can bỏ trốn mà không biết rõ bị can đang ở đâu.
19
+ Quyết định truy tố bị can ra Tòa án để thực hiện việc xét xử; quyết
định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án theo quy định của pháp luật. Nhiệm vụ,
quyền hạn này được Viện kiểm sát nhân dân thực hiện trong giai đoạn truy tố,
cụ thể là:
Nếu xác định có đủ căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự người đã
thực hiện hành vi phạm tội thì Viện kiểm sát nhân dân ra quyết định truy tố bị
can, đồng thời chuyển toàn bộ hồ sơ vụ án cùng quyết định truy tố sang Tòa
án để thực hiện việc xét xử.
Nếu phát hiện thấy còn thiếu những chứng cứ quan trọng mà Viện kiểm
sát nhân dân không tự mình bổ sung được, hoặc có căn cứ để khởi tố bị can về
một tội phạm khác hoặc có người đồng phạm khác, hoặc có vi phạm nghiêm
trọng thủ tục tố tụng thì Viện kiểm sát nhân dân có quyền trả hồ sơ cho Cơ
quan điều tra để điều tra bổ sung.
Nếu có một trong những căn cứ quy định tại Khoản 1, Điều 169
BLTTHS thì Viện kiểm sát nhân dân ra quyết định đình chỉ vụ án.
Nếu có một trong những căn cứ quy định tại Khoản 2, Điều 169
BLTTHS thì Viện kiểm sát nhân dân ra quyết định tạm đình chỉ vụ án.
Cơ quan điều tra cũng có quyền đình chỉ, tạm đình chỉ điều tra nhưng
các quyết định này đều phải gửi cho Viện kiểm sát nhân dân để kiểm sát. Qua
kiểm sát, nếu Viện kiểm sát phát hiện việc đình chỉ hoặc tạm đình chỉ đó
không có căn cứ và trái pháp luật thì Viện kiểm sát có quyền yêu cầu Cơ quan
điều tra hủy bỏ để phục hồi điều tra hoặc ra quyết định hủy bỏ và yêu cầu Cơ
quan điều tra phục hồi điều tra.
Nội dung thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát trong giai đoạn
điều tra, truy tố còn thể hiện qua các quy định pháp luật về nhiệm vụ, quyền
hạn của Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát và Kiểm sát viên (Điều
36, 37 BLTTHS năm 2003).
20
* Nội dung thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử:
+ Đọc cáo trạng và trình bày ý kiến bổ sung, nếu có; quyết định của
Viện kiểm sát nhân dân liên quan đến việc giải quyết vụ án tại phiên tòa.
+ Tham gia xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm.
+ Thực hiện luận tội đối với bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm, phát biểu quan
điểm về việc giải quyết vụ án tại phiên tòa phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm.
+ Tranh luận với bị cáo, với người bào chữa và những người tham gia
tố tụng khác tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm.
+ Yêu cầu Tòa án cùng cấp và cấp dưới chuyển hồ sơ những vụ án hình
sự để xem xét, quyết định việc kháng nghị.
+ Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm các bản
án, quyết định của Tòa án theo quy định của pháp luật.
+ Kiến nghị với Tòa án yêu cầu khắc phục các vi phạm pháp luật trong
quá trình xét xử; nếu thấy có dấu hiệu của tội phạm thì khởi tố về hình sự.
+ Tạm đình chỉ thi hành án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp
luật bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.
+ Cấp, thu hồi giấy chứng nhận người bào chữa, ra quyết định và tiến
hành các hoạt động tố tụng khác theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.
+ Khởi tố về hình sự khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm và người phạm
tội trong quá trình kiểm sát xét xử các vụ án hình sự.
1.2. Thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát trong hoạt động
điều tra
1.2.1. Nhiệm vụ và đặc điểm cơ bản của hoạt động điều tra
1.2.1.1. Nhiệm vụ cơ bản của hoạt động điều tra
Hoạt động điều tra bắt đầu từ khi xảy ra sự kiện, vụ việc có tính hình sự
và kết thúc khi Cơ quan điều tra hoàn thành việc điều tra, kết luận điều tra đề
nghị Viện kiểm sát truy tố hoặc vụ án bị đình chỉ. Hoạt động điều tra có thể
21
chấm dứt khi có căn cứ chấm dứt thực hành quyền công tố hoặc có thể tiếp
tục trong những trường hợp Viện kiểm sát hoặc Tòa án trả hồ sơ vụ án để điều
tra bổ sung, điều tra lại.
Hoạt động điều tra có nhiệm vụ thu thập chứng cứ làm rõ sự thật khách
quan của vụ án, kể cả chứng cứ buộc tội, chứng cứ gỡ tội. Kết quả xác minh
tố giác, tin báo về tội phạm, tiến hành các hoạt động điều tra ban đầu là cơ sở
để Viện kiểm sát thực hành quyền công tố, quyết định việc khởi tố vụ án, khởi
tố vụ can; quyết định hạn chế quyền công dân đối với người phạm tội, thay
đổi giai đoạn tố tụng hoặc chấm dứt hoạt động tố tụng. Tác động của kết quả
điều tra đến hoạt động công tố không chỉ giới hạn ở số lượng, chất lượng
chứng cứ mà còn là nhận định, đánh giá tội phạm, áp dụng pháp luật của Cơ
quan điều tra. Những sai lầm, thiếu sót trong hoạt động điều tra sẽ ảnh hưởng
tiêu cực đến việc giải quyết vụ án hình sự có thể dẫn đến truy tố, xử oan
người vô tội, bỏ lọt tội phạm.
1.2.1.2. Đặc điểm cơ bản của hoạt động điều tra
Hoạt động điều tra được tiến hành công khai theo trình tự, thủ tục, thẩm
quyền do pháp luật quy định. Khi tiến hành các biện pháp điều tra phải có mặt
của những người mà luật định và họ phải ký vào biên bản hoạt động điều tra
(như khám nghiệm hiện trường, hỏi cung bị can, lấy lời khai của người làm
chứng, người bị hại…). Tính công khai của hoạt động điều tra thể hiện ở biện
pháp và các thủ tục tố tụng được tiến hành, còn nội dung, kết quả điều tra thì
phải bí mật. Việc giữ bí mật điều tra là yêu cầu nghiệp vụ, một nguyên tắc
được luật định có ý nghĩa quyết định sự thành công hay thất bại của cuộc điều
tra, làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án. Tính công khai của hoạt động
điều tra là tiêu chí cơ bản nhất để phân biệt với hoạt động trinh sát được tổ
chức và tiến hành dưới hình thức bí mật về cả nội dung, phương pháp để thu
22
thập tin tức về hoạt động của tội phạm, theo dõi và truy bắt các đối tượng
phạm tội lẩn trốn, nhằm phòng ngừa tội phạm.
Theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự nước ta, hoạt động điều
tra của Cơ quan điều tra chịu sự chế ước và kiểm sát chặt chẽ của Cơ quan
Viện kiểm sát. Điều này được thể hiện thông qua việc luật quy định các
nhiệm vụ, quyền hạn cho Viện kiểm sát để bảo đảm việc truy cứu trách
nhiệm hình sự có căn cứ và hợp pháp (xét phê chuẩn các quyết định tố tụng
của Cơ quan điều tra, yêu cầu điều tra; quyết định áp dụng, thay đổi các biện
pháp ngăn chặn, hủy bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của
Cơ quan điều tra …).
Tùy theo đặc điểm của vụ án hình sự mà Cơ quan điều tra áp dụng các
biện pháp điều tra cho phù hợp, nhưng các vụ án đều trải qua những thủ tục
chung như khởi tố vụ án, khởi tố bị can, lập hồ sơ vụ án hình sự, đề nghị truy
tố người phạm tội hoặc đình chỉ điều tra theo quy định của pháp luật.
Phạm vi điều tra các tình tiết thực tế của vụ án rộng hơn phạm vi những
vẫn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự do luật định. Để xác định được
một tình tiết quy định tại Điều 63 của BLTTHS thì Cơ quan điều tra phải làm
rõ được những tài liệu, chứng cứ liên quan. Chẳng hạn, để xác minh ai là
người thực hiện hành vi phạm tội, trước tiên phải chứng minh người đó có
mặt tại hiện trường vào thời điểm xảy ra vụ án (thông qua các dấu vết, vật
chứng, lời khai của người bị hại, lời khai người làm chứng…).
Hoạt động điều tra vụ án hình sự có thể phải áp dụng các biện pháp
ngăn chặn như bắt, tạm giữ, tạm giam và áp dụng các biện pháp cưỡng chế
như khám xét chỗ ở, khám xét nơi làm việc, khám xét thân thể; do đó, nếu
không thực hiện nghiêm ngặt theo quy định của pháp luật, có thể dẫn đến xâm
phạm quyền tự do, dân chủ của công dân.
23
1.2.2. Phạm vi, nội dung và đặc điểm của thực hành quyền công tố
trong hoạt động điều tra
1.2.2.1. Phạm vi thực hành quyền công tố trong hoạt động điều tra
Đối tượng tác động của quyền công tố là tội phạm và người phạm tội đã
đặt ra yêu cầu khi có sự kiện phạm tội xảy ra thì phải thực hành quyền công tố,
khởi tố vụ án, mở cuộc điều tra để truy cứu trách nhiệm hình sự. Trong trường
hợp không có tội phạm thì quyền công tố bị triệt tiêu, theo đó chấm dứt mọi
hoạt động tố tụng. Thực hành quyền công tố trong hoạt động điều tra là hoạt
động truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, không làm oan
người vô tội, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân, bảo vệ và duy trì trật tự pháp luật, sự ổn định xã hội. Thực hành quyền
công tố gắn liền với việc tiến hành các hoạt động điều tra, tức là bất cứ khi nào
và ở đâu, Cơ quan điều tra tiến hành điều tra (như khám nghiệm hiện trường,
khám nghiệm tử thi, khám xét, lấy lời khai người làm chứng, hỏi cung bị can...)
thì khi đó Viện kiểm sát có trách nhiệm thực hành quyền công tố.
Điều kiện chấm dứt thực hành quyền công tố trong hoạt động điều tra
(khi có một trong những căn cứ quy định tại Điều 107 của BLTTHS):
+ Không có sự việc phạm tội (khoản 1) thì không được khởi tố vụ án
hình sự; nếu đã khởi tố thì phải hủy bỏ quyết định đó và ra quyết định không
khởi tố vụ án hình sự vì không có đối tượng tác động của quyền công tố;
+ Hành vi không cấu thành tội phạm (khoản 2) là hành vi tuy có dấu
hiệu tội phạm nhưng quy mô hành vi hoặc quy mô hậu quả của hành vi không
lớn, chưa đủ cấu thành tội phạm theo quy định của Bộ luật hình sự (như trộm
cắp, đánh bạc dưới 2 triệu đồng mà không có các yếu tố cấu thành khác);
+ Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu
trách nhiệm hình sự (khoản 3). Trường hợp này, nếu đã khởi tố bị can thì phải
hủy bỏ quyết định khởi tố bị can hoặc đình chỉ điều tra bị can;
+ Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình
24
chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật (khoản 4). Vì sự việc đã quyết tụng, do đó luật
định đối với những người này không được điều tra, truy tố, xét xử lần 2 cũng
về tội đó hoặc dưới một tội danh khác;
+ Khi đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của
pháp luật hình sự (khoản 5) (Điều 23 của BLHS năm 1999 và Điều 45 của
BLHS năm 1985, vì thực tế có những trường hợp truy cứu trách nhiệm hình
sự về tội phạm nào đó theo Bộ luật hình sự năm 1985 nhưng đến nay mới xử
lý do bắt được bị can trốn). Hết thời hạn truy cứu trách nhiệm hình sự thì dù
có phát hiện người phạm tội cũng không được khởi tố, điều tra, truy tố đối với
họ, trừ trường hợp họ cố tình trốn tránh và đã có lệnh truy nã;
+ Khi tội phạm được đặc xá, thì chấm dứt thực hành quyền công tố đối
với những người thực hiện tội phạm đã được đặc xá (khoản 6);
+ Khi người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường
hợp tái thẩm đối với người khác (khoản 7). Trong trường hợp này không được
khởi tố vụ án và ra quyết định không khởi tố vụ án với lý do người thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết; nếu đã khởi tố, điều tra thì phải đình
chỉ vụ án do bị can đã chết.
Ngoài ra, theo quy định tại Điều 7 của Bộ luật hình sự, thực hành
quyền công tố trong hoạt động điều tra chấm dứt khi có một trong những căn
cứ như sau:
+ Khi có hiệu lực của Bộ luật hình sự về thời gian, có điều luật quy định
một tội phạm mới không áp dụng đối với hành vi phạm tội đã được thực hiện
trước khi điều luật đó được ban hành, trừ trường hợp luật có quy định khác.
+ Khi Bộ luật hình sự có điều luật xóa bỏ một tội phạm. Tức là hành vi
đó không bị coi là tội phạm trong Bộ luật hình sự.
Như vậy, phạm vi thực hành quyền công tố trong hoạt động điều tra bắt
đầu từ khi có sự kiện phạm tội xảy ra, khởi tố vụ án đến khi chấm dứt hoặc
25
thay đổi giai đoạn tố tụng (hủy bỏ quyết định khởi tố vụ án, kết thúc điều tra,
Cơ quan điều tra đề nghị truy tố bị can hoặc vụ án bị đình chỉ hoặc Viện kiểm
sát truy tố bị can ra tòa).
Nhận thức về phạm vi bắt đầu và kết thúc thực hành quyền công tố
trong hoạt động điều tra như vậy là phù hợp với quy định pháp luật hiện hành
và tinh thần Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một
số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới, trong đó nhấn
mạnh trách nhiệm công tố:
Hoạt động công tố phải được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ
án và trong suốt quá trình tố tụng nhằm bảo đảm không bỏ lọt tội
phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội, xử lý kịp thời
những trường hợp sai phạm của những người tiến hành tố tụng khi
thi hành nhiệm vụ…. [12].
1.2.2.2. Nội dung thực hành quyền công tố trong hoạt động điều tra
Thực hành quyền công tố trong hoạt động điều tra nhằm truy cứu trách
nhiệm hình sự có căn cứ và hợp pháp, bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải
được phát hiện, xử lý theo pháp luật, không để lọt người, lọt tội, không làm
oan người vô tội. Để đạt được mục đích, yêu cầu đó, pháp luật hiện hành quy
định cho Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố trong hoạt động điều tra
có quyền năng pháp lý là xét phê chuẩn các quyết định tố tụng của Cơ quan
điều tra và Viện kiểm sát trực tiếp ra các quyết định tố tụng trong việc: Khởi
tố vụ án, khởi tố bị can; Áp dụng các biện pháp cưỡng chế (bắt, tạm giữ, tạm
giam; truy nã bị can, khám xét); Yêu cầu điều tra để thu thập chứng cứ buộc
tội, gỡ tội một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ theo đúng trình tự, thủ
tục pháp luật; Huỷ bỏ các quyết định tố tụng không có căn cứ và trái pháp luật
của Cơ quan điều tra; Quyết định việc đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án; quyết
định việc truy tố bị can.
26
Cơ quan điều tra có quyền áp dụng các thủ tục tố tụng, ra quyết định
khởi tố vụ án, khởi tố bị can…, nhưng việc ra các quyết định tố tụng đó
không có nghĩa Cơ quan điều tra cũng thực hành quyền công tố, mà trách
nhiệm theo luật định thì thực hành quyền công tố thuộc chức năng của VKS
với tư cách cơ quan quyết định cuối cùng việc khởi tố hay không khởi tố vụ
án, khởi tố bị can (xét phê chuẩn, hủy bỏ quyết định khởi tố không có căn cứ
và trái pháp luật của Cơ quan điều tra). Khi Viện kiểm sát không chấp nhận
việc khởi tố thì yêu cầu Cơ quan điều tra hủy bỏ và ra quyết định không khởi
tố vụ án hình sự; nếu đã khởi tố, điều tra mà xác định không có tội phạm hoặc
không có căn cứ truy cứu trách nhiệm đối với bị can thì vụ án phải đình chỉ và
chấm dứt mọi hoạt động tố tụng.
Thực hiện đúng, đầy đủ các quyền năng pháp lý trên đây là bảo đảm
quan trọng để nâng cao trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra.
1.2.2.3. Đặc điểm thực hành quyền công tố trong hoạt động điều tra
Thực hành quyền công tố trong hoạt động điều tra có những đặc điểm
cơ bản sau:
- Trong khi hoạt động điều tra có nhiệm vụ chứng minh toàn bộ sự việc
phạm tội một cách khách quan, toàn diện, cả chứng cứ buộc tội và chứng cứ
gỡ tội, thì các hoạt động công tố nhằm thực thi quyền truy cứu trách nhiệm
hình sự, quyết định việc buộc tội, việc gỡ tội; quyết định việc hạn chế các
quyền công dân như bắt, tạm giữ, tạm giam và các biện pháp ngăn chặn khác;
quyết định việc truy tố hoặc đình chỉ vụ án theo quy định của pháp luật.
- Thực hành quyền công tố bao gồm hành vi và các quyết định tố tụng
mang tính công khai theo trình tự, thủ tục, thẩm quyền tố tụng do pháp luật
quy định. Các quyết định công tố thể hiện dưới dạng văn bản của người có
thẩm quyền như quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can; quyết định phê
chuẩn hoặc không phê chuẩn quyết định khởi tố bị can. Các quyết định tố
27
tụng của Viện kiểm sát đều được gửi cho những người có liên quan theo quy
định của pháp luật.
- Các hoạt động công tố là nhân danh quyền buộc tội nhà nước, chịu sự
lãnh đạo tập trung của Viện trưởng Viện kiểm sát mỗi cấp và chịu sự lãnh đạo
thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Viện kiểm sát cấp
trên có quyền rút, hủy bỏ các quyết định công tố không có căn cứ và trái pháp
luật của Viện kiểm sát cấp dưới và yêu cầu ra quyết định đúng pháp luật. Điều
này khác với tổ chức hoạt động điều tra, Cơ quan điều tra cấp trên không có
quyền rút, hủy bỏ các quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra cấp dưới.
- Thực hành quyền công tố có đặc điểm khác với hoạt động kiểm sát
điều tra. Tuy cùng một chủ thể tiến hành là Viện kiểm sát nhưng thực hành
quyền công tố nhằm vào việc buộc tội, gỡ tội; yêu cầu bắt, giam giữ và áp dụng
các biện pháp cưỡng chế khác đối với người phạm tội, còn hoạt động kiểm sát
điều tra hướng đến sự tuân thủ pháp luật trong hoạt động điều tra; nếu phát hiện
có hành vi vi phạm pháp luật, Viện kiểm sát có quyền kiến nghị, yêu cầu các
chủ thể chấm dứt vi phạm, khôi phục lại trật tự pháp luật bị vi phạm.
- Mục đích của hoạt động thực hành quyền công tố tuy vẫn phải thực
hiện việc xem xét, đánh giá nhằm gỡ tội đối với người phạm tội nhưng thực
hiện quyền buộc tội Nhà nước vẫn là chủ yếu. Trong khi đó bào chữa là hoạt
động xã hội để thực hiện quyền bào chữa (mục đích gỡ tội) của công dân theo
quy định của pháp luật.
1.2.3. Mối quan hệ giữa thực hành quyền công tố và kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra
Theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, từ năm 1960 đến nay, Viện
kiểm sát có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra nhằm bảo
đảm cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự có căn cứ và hợp pháp, đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội
phạm và người phạm tội.
28
Cùng với thực hành quyền công tố, hoạt động kiểm sát điều tra cũng
được thực hiện từ khi tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm; kiểm sát việc
khởi tố, trong suốt quá trình điều tra cho đến khi kết thúc điều tra đề nghị
truy tố người phạm tội hoặc vụ án bị đình chỉ. Hoạt động kiểm sát điều tra
vẫn tiếp tục khi Viện kiểm sát hoặc Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung. Khi
thực hiện kiểm sát điều tra, Viện kiểm sát có quyền kiến nghị, kháng nghị,
yêu cầu Cơ quan điều tra, Điều tra viên chấm dứt vi phạm, khôi phục trật tự
pháp luật bị vi phạm.
Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra có mối quan hệ chặt chẽ
với nhau, không thể tách rời. Kiểm sát điều tra nhằm bảo đảm cho các hoạt
động điều tra phải tuân theo các nguyên tắc, trình tự, thủ tục, thẩm quyền điều
tra theo quy định; là căn cứ pháp lý để Viện kiểm sát thực hiện tốt quyền công
tố trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự, chống oan, chống lọt và vi phạm
pháp luật. Ngược lại, thực hiện đúng đắn, kịp thời quyền công tố sẽ khẳng
định vị thế, thẩm quyền và trách nhiệm của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều
tra tội phạm; tạo tiền đề quan trọng để thúc đẩy hoạt động kiểm sát điều tra
bảo đảm quá trình điều tra tuân thủ đúng pháp luật, việc điều tra phải khách
quan, toàn diện và đầy đủ, chính xác, đúng pháp luật; những vi phạm pháp
luật trong quá trình điều tra phải được phát hiện, khắc phục kịp thời và xử lý
nghiêm minh.
1.3. Chủ trƣơng của Đảng, Nhà nƣớc về tăng cƣờng trách nhiệm
công tố trong hoạt động điều tra; pháp luật về thực quyền công tố trong
hoạt động điều tra của Viện kiểm sát nhân
1.3.1. Chủ trương của Đảng, Nhà nước về tăng cường trách nhiệm
công tố trong hoạt động điều tra
Đảng và Nhà nước rất quan tâm đến trách nhiệm công tố trong tố tụng
hình sự, nhất là trong hoạt động điều tra nhằm kịp thời phát hiện, xử lý, giáo
29
dục người phạm tội, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không được
làm oan người vô tội. Ngay từ khi thành lập ngành, các đồng chí Lãnh đạo
cao nhất của Đảng và Nhà nước đã có những chỉ đạo, kết luận rất quan trọng
về trách nhiệm của Viện kiểm sát trong thực hành quyền công tố đấu tranh
phòng, chống tội phạm và bảo vệ quyền tự do, dân chủ của công dân.
Phát biểu của đồng chí Lê Duẩn - Bí thư thứ nhất Ban chấp hành Trung
ương Đảng tại Hội nghị tổng kết công tác Kiểm sát toàn quốc năm 1967:
Ngành Kiểm sát là một trong những công cụ của Nhà nước
dân chủ nhân dân, có nhiệm vụ thường xuyên kiểm tra việc tuân thủ
pháp luật, làm cho pháp luật được chấp hành một cách nghiêm
chỉnh và thống nhất, góp phần bảo đảm quyền dân chủ của nhân
dân, tăng cường chuyên chính đối với bọn phản cách mạng, tăng
cường kỷ luật xã hội trong quần chúng nhân dân. Nói đến kiểm tra
việc tuân theo pháp luật, cần chú trọng trước hết kiểm tra việc tuân
theo pháp luật của các cơ quan Nhà nước, bởi vì sự vi phạm của
một số công dân nào đó đối với pháp luật có lẽ không tai hại bằng
những sự lạm quyền của các cơ quan chính quyền, các cơ quan
quản lý kinh tế, văn hóa và của những người có trách nhiệm thi
hành pháp luật. Nếu những người này làm sai pháp luật thì chẳng
những vi phạm các quyền tự do dân chủ của nhân dân, mà còn làm
trái chủ trương, chính sách là sinh mạng của Đảng, là linh hồn của
pháp luật Nhà nước; điều đó sẽ đánh vào nguồn gốc sức mạnh của
chế độ ta là sự tín nhiệm và ủng hộ của nhân dân đối với Đảng, Nhà
nước. Vì vậy, trước hết phải bảo đảm sự tôn trọng pháp luật một
cách nghiêm chỉnh và đầy đủ của các cơ quan Nhà nước, của những
người thay mặt nhân dân nắm quyền hành chính và công việc quản
lý kinh tế, văn hóa, xã hội.
30
Để đảm bảo cho pháp luật được thi hành nghiêm chỉnh trong
nhân dân, ngành Kiểm sát cần kiểm tra các vụ bắt giam và xét xử
một cách sáng suốt, thận trọng. Đối với những hành vi phạm pháp
của một số công dân, cần có biện pháp xử lý thích đáng, kiên quyết
không xử oan một người ngay, nhưng cũng không để lọt một kẻ có
tội….[41, tr.21-22]
Kết luận của đồng chí Trường Chinh Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc
hội về công tác của ngành Kiểm sát năm 1967:
Ngành Kiểm sát trong tình hình mới đã nâng cao ý thức trách
nhiệm và nhiệt tình công tác và hướng toàn bộ công tác kiểm sát
vào việc bảo vệ và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa nhằm
tăng cường chuyên chính, bảo đảm dân chủ với nhân dân, phục vụ
tốt các công tác trung tâm của Đảng và Nhà nước.... ngành Kiểm sát
đã có nhiều cố gắng và tiến bộ mới trong việc đẩy mạnh công tác
công tố. Do sử dụng tốt quyền công tố, có Viện kiểm sát đã kiên
quyết không phê chuẩn bắt giam những trường hợp không đáng bắt
giam, đã đề nghị ngành công an đi sâu hơn nữa vào một số vụ án
phản cách mạng; đã minh oan cho một số người bị truy tố và xét xử
oan về tội giết người. Trong công tác công tố, ngành Kiểm sát đã
chú trọng kết hợp chặt chẽ hai mặt trừng trị và tích cực phòng
ngừa... Không có cơ quan Nhà nước nào thay thế ngành Kiểm sát
để sử dụng quyền công tố. Bắt giam, điều tra, tha, truy tố, xét xử có
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật hay không, có đúng đường lối
chính sách của Đảng và Nhà nước hay không, điều đó chính là Viện
kiểm sát phải trông nom, bảo đảm làm tốt [41, tr.25].
Chỉ thị 53-CT/TW ngày 21/3/2000 của Bộ Chính trị nêu rõ: “Tăng
cường trách nhiệm pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân đối với công tác bắt,
31
giam, giữ… sai sót trong công tác bắt giam giữ ở địa phương nào thì trước
hết Viện kiểm sát nhân dân ở địa phương đó phải chịu trách nhiệm” [9].
Để hạn chế tình trạng bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội; khắc phục
những vi phạm quyền tư do, dân chủ của công dân, nhằm tạo ra những chuyển
biến mạnh mẽ trong công tác tư pháp, Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày
02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp
trong thời gian tới đã nhấn mạnh đến trách nhiệm của VKS trong thực hiện tốt
quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Nghị quyết nêu rõ:
Viện kiểm sát các cấp thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp. Hoạt động công
tố phải được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá
trình tố tụng, nhằm bảo đảm không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội,
không làm oan người vô tội, xử lý kịp thời những trường hợp sai
phạm của những người tiến hành tố tụng khi thi hành nhiệm vụ…[12].
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020 chỉ rõ: “Tăng cường trách nhiệm của
công tố trong hoạt động điều tra” [14]; đến Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ XI của Đảng tiếp tục khẳng định cần: “tăng cường trách nhiệm công
tố trong hoạt động điều tra” “gắn công tố với hoạt động điều tra” [17]. Đây
là những kết luận mang tính chất định hướng hết sức quan trọng về trách
nhiệm của VKS trong thực hành quyền công tố đấu tranh phòng, chống tội
phạm ở giai đoạn điều tra.
Như vậy, tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra là
chủ trương nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta suốt hơn 50 năm
qua. Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, công nghệ thông tin, hội
nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, tình hình tội phạm tiếp tục diễn biến phức
tạp, tính chất, thủ đoạn phạm tội ngày càng tinh vi, xảo quyệt, tiềm ẩn nguy
32
cơ gây bất ổn định chính trị, trật tự xã hội, Đảng và Nhà nước đã đưa ra nhiều
chủ trương, biện pháp đẩy mạnh cải cách tư pháp, trong đó nhấn mạnh đến
yêu cầu tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra để ngăn
ngừa tình trạng bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không để xảy ra các
trường hợp oan, sai.
1.3.2. Pháp luật về thực hành quyền công tố trong hoạt động điều tra
Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra được quy định tại
Điều 13 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân và Điều 112 BLTTHS, trong
đó Điều 112 của BLTTHS quy định chung về các nhiệm vụ, quyền hạn của
Viện kiểm sát và cũng là trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gồm:
1) Khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can; yêu cầu Cơ quan điều
tra khởi tố hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố
bị can theo quy định của Bộ luật này; 2) Đề ra yêu cầu điều tra và
yêu cầu Cơ quan điều tra tiến hành điều tra; khi xét thấy cần thiết,
trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định của Bộ
luật này; 3) Yêu cầu Thủ trưởng Cơ quan điều tra thay đổi Điều tra
viên theo quy định của Bộ luật này; nếu hành vi của Điều tra viên
có dấu hiệu tội phạm thì khởi tố về hình sự; 4) Quyết định áp dụng,
thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam và các biện
pháp ngăn chặn khác; quyết định phê chuẩn, quyết định không phê
chuẩn các quyết định của Cơ quan điều tra theo quy định của Bộ
luật này. Trong trường hợp không phê chuẩn thì trong quyết định
không phê chuẩn phải nêu rõ lý do; 5) Huỷ bỏ các quyết định không
có căn cứ và trái pháp luật của Cơ quan điều tra; yêu cầu Cơ quan
điều tra truy nã bị can; 6) Quyết định việc truy tố bị can; quyết định
đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án [33].
33
1.3.2.1. Trách nhiệm công tố trong việc khởi tố vụ án hình sự
Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn đầu tiên, mở đầu của quá trình tố tụng
hình sự, được thực hiện kể từ khi Cơ quan điều tra tiếp nhận và kiểm tra, xác
minh nguồn tin (tố giác, tin báo về tội phạm do cơ quan, tổ chức, công dân
cung cấp hoặc tin báo trên các phương tiện thông tin đại chúng…) để ra quyết
định khởi tố hoặc ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Trong trường hợp
chưa có quyết định khởi tố vụ án thì các biện pháp điều tra chưa được tiến
hành, trừ những biện pháp khẩn cấp không thể trì hoãn được như bắt khẩn cấp,
tạm giữ, khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, xem xét dấu vết trên
thân thể. Không thể đồng nhất giai đoạn khởi tố vụ án với việc ra quyết định
khởi tố vụ án hình sự hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự, đó chỉ là
thủ tục, biện pháp tố tụng cụ thể của giai đoạn khởi tố vụ án.
Toàn bộ những thủ tục liên quan đến khởi tố vụ án hình sự được quy
định từ Điều 100 đến Điều 109 của BLTTHS năm 2003, có những đặc điểm
cơ bản sau:
- Cơ quan điều tra có trách nhiệm tiếp nhận đầy đủ mọi tố giác, tin báo
về tội phạm do cá nhân, cơ quan, tổ chức và kiến nghị khởi tố do cơ quan nhà
nước chuyển đến; đồng thời quản lý, xác minh toàn bộ các tố giác, tin báo về
tội phạm (nguồn để khởi tố).
Cơ quan điều tra có trách nhiệm thông báo cho Viện kiểm sát về kết
quả giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và Viện kiểm sát có nhiệm vụ kiểm
sát hoạt động này của Cơ quan điều tra nhưng không có quyền xác minh tố
giác, tin báo về tội phạm.
- Căn cứ để khởi tố vụ án hình sự là có sự kiện phạm tội xảy ra hoặc sự
việc có dấu hiệu tội phạm. Việc xác định dấu hiệu tội phạm dựa trên những cơ
sở sau: Tố giác của công dân; Tin báo của cơ quan, tổ chức; Tin báo trên các
phương tiện thông tin đại chúng; Các cơ quan có thẩm quyền tố tụng trực tiếp
34
phát hiện dấu hiệu của tội phạm; Người phạm tội tự thú. Về thực chất đó mới chỉ
là nguồn tin về sự kiện cần điều tra. Để có căn cứ khởi tố hay không khởi tố vụ
án hình sự, Cơ quan điều tra phải tiến hành xác minh, làm rõ xem có hay không
có hành vi nguy hiểm cho xã hội được coi là tội phạm (theo quy định tại Điều 8
BLHS); nếu có, thì hành vi nguy hiểm cho xã hội đó được quy định điều, khoản
nào của Bộ luậ hình sự để khởi tố, điều tra cho phù hợp.
- Theo luật định, phần lớn các trường hợp khởi tố các vụ án hình sự do
Cơ quan điều tra thực hiện. Viện kiểm sát chủ yếu làm nhiệm vụ kiểm sát việc
khởi tố; nếu thấy quyết định khởi tố vụ án hình sự của Cơ quan điều tra, của
các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra
không có căn cứ thì quyết định hủy bỏ; nếu thấy quyết định không khởi tố vụ
án hình sự không có căn cứ, thì hủy bỏ và ra quyết định khởi tố vụ án (Điều
109). Viện kiểm sát chỉ trực tiếp khởi tố trong hai trường hợp: Hủy bỏ quyết
định không khởi tố vụ án hình sự của Cơ quan điều tra và của các cơ quan
khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; Trong trường
hợp Hội đồng xét xử yêu cầu khởi tố vụ án (Điều 104).
Trách nhiệm của Viện kiểm sát trong thủ tục khởi tố vụ án hình sự
không chỉ ở việc tự mình ra quyết định khởi tố mà chủ yếu là việc Viện kiểm
sát phải kiểm tra, thẩm định tính có căn cứ và hợp pháp của các quyết định
khởi tố hay không khởi tố vụ án của Cơ quan điều tra và chịu trách nhiệm
quyết định cuối cùng về việc này, bảo đảm mọi tội phạm được phát hiện đều
phải được khởi tố, điều tra, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Để thực hiện đầy đủ trách nhiệm trong việc khởi tố vụ án hình sự, Viện
kiểm sát các cấp phải nắm vững các tố giác, tin báo về tội phạm do cá nhân,
cơ quan, tổ chức chuyển đến; đồng thời kiểm sát chặt chẽ việc xác minh, giải
quyết của Cơ quan điều tra theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Không
nắm đầy đủ và kiểm sát chặt chẽ việc giải quyết của Cơ quan điều tra đối với
các tố giác, tin báo về tội phạm, tất yếu Viện kiểm sát sẽ thụ động, phụ thuộc
35
vào Cơ quan điều tra, thiếu cơ sở vững chắc để thực hành quyền công tố ngay
từ khi khởi tố vụ án, tiềm ẩn nguy cơ bỏ lọt tội phạm và người phạm tội hoặc
làm oan người không phạm tội.
Khi phân tích đánh giá sự việc đang điều tra, xác minh, Viện kiểm sát
phải nắm vững pháp luật hình sự, bảo đảm việc khởi tố hoặc không khởi tố vụ
án hình sự có căn cứ pháp luật (các dấu hiệu đặc trưng của tội phạm; các yếu
tố cấu thành tội phạm).
Đối với các tội phạm được quy định tại khoản 1 các Điều 104, 105,
106, 108, 109, 111, 113, 121, 122, 131 và 171 của BLHS, ngoài dấu hiệu tội
phạm là căn cứ quyết định khởi tố vụ án hình sự, còn phải có yêu cầu khởi tố
của người bị hại. Trong quá trình điều tra, nếu người bị hại rút yêu cầu khởi tố
thì đương nhiên không đủ căn cứ tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án, có
nghĩa vụ án phải được đình chỉ, trừ trường hợp khác quy định tại Điều 105
của BLTTHS.
1.3.2.2. Trách nhiệm công tố trong việc khởi tố bị can
Theo quy định của BLTTHS năm 2003, khi có đủ căn cứ để xác định
một người đã thực hiện hành vi phạm tội thì Cơ quan điều tra ra quyết định
khởi tố bị can (Điều 126). Khởi tố bị can là thủ tục tố tụng áp dụng đối với
người đã thực hiện hành vi phạm tội để tiến hành điều tra.
Toàn bộ những thủ tục liên quan đến khởi tố bị can quy định tại các Điều
126 và Điều 127 của BLTTHS năm 2003, có những đặc điểm cơ bản sau:
- Khi có đủ căn cứ để xác định một người đã thực hiện hành vi phạm
tội thì Cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố bị can, nghĩa là chứng minh
được người đó đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định
trong BLHS, đủ năng lực pháp lý và năng lực hành vi, thì mới được quyết
định khởi tố bị can.
36
- Theo nguyên tắc, khởi tố vụ án hình sự về hành vi phạm tội nào thì
khởi tố bị can về hành vi phạm tội đó. Quyết định khởi tố vụ án hình sự phải
có trước quyết định khởi tố bị can hoặc có thể đồng thời được ban hành trong
trường hợp xác định được ngay người phạm tội (các vụ án đánh bạc, đưa và
nhận hối lộ bị bắt quả tang). Sau khi khởi tố bị can, Cơ quan điều tra có quyền
áp dụng các biện pháp điều tra theo luật định để làm rõ tính chất, mức độ
phạm tội của bị can, tương ứng với điều, khoản của BLHS.
- Khi tiến hành điều tra, nếu có căn cứ xác định hành vi phạm tội của bị
can không phạm vào tội đã bị khởi tố hoặc còn hành vi phạm tội khác thì Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định
khởi tố bị can. Đây là quy định cần thiết và hợp lý vì ban đầu có thể chưa đủ
căn cứ khẳng định chính xác tội danh. Trong trường hợp hành vi của bị can
phạm vào tội khác thì phải ra quyết định thay đổi quyết định khởi tố bị can về
tội danh mới để điều tra, bảo đảm cho việc chứng minh tội phạm đúng hướng
và bảo đảm quyền bào chữa của người phạm tội. Trường hợp bị can còn có
hành vi phạm tội khác thì phải bổ sung quyết định khởi tố bị can để bảo đảm
không bỏ lọt hành vi phạm tội.
- Khác với việc khởi tố vụ án, trong thủ tục khởi tố bị can trách nhiệm
của VKS thể hiện trên ba phương diện sau: Xét phê chuẩn quyết định khởi tố bị
can; Yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố bị can; Trực tiếp khởi tố bị can (sau khi
nhận hồ sơ và kết luận điều tra mà phát hiện thấy có người khác đã thực hiện
hành vi phạm tội trong vụ án chưa bị khởi tố thì Viện kiểm sát ra quyết định
khởi tố bị can - khoản 6 Điều 126 và Điều 113 của BLTTHS). Quyết định khởi
tố bị can liên quan đến quyền công dân, đòi hỏi khi phê chuẩn quyết định khởi
tố bị can phải có đủ căn cứ và đúng pháp luật (được thể hiện trong các tài liệu,
chứng cứ của hồ sơ vụ án về hành vi phạm tội, tuổi và năng lực chịu trách
37
nhiệm hình sự của người bị khởi tố). Nếu không đủ căn cứ thì kiên quyết không
phê chuẩn, yêu cầu Cơ quan điều tra bổ sung tài liệu, chứng cứ. Chỉ như vậy
mới nâng cao trách nhiệm công tố ngay từ đầu, ngăn ngừa xảy ra oan, sai.
- Thời hạn xét phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, luật quy định là ba
ngày: “Trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được quyết định khởi tố bị
can, Viện kiểm sát phải quyết định phê chuẩn hoặc quyết định hủy bỏ quyết
định khởi tố bị can và gửi ngay cho Cơ quan điều tra” [33]. Cần hiểu rằng,
không phải đến khi nhận được hồ sơ xét phê chuẩn, Viện kiểm sát mới tiếp
cận với các tài liệu về vụ án, về bị can mà trước đó, Viện kiểm sát đã kiểm sát
việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiểm sát các hoạt động điều tra
ban đầu (khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, khám xét khẩn cấp;
lấy lời khai người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp), kiểm sát việc khởi tố vụ
án hình sự, kiểm sát các việc bắt, tạm giữ của Cơ quan điều tra. Đối với
những vụ án phức tạp về chứng cứ, về tính chất vụ việc (quan hệ hình sự hay
dân sự, kinh tế), vụ án có đông bị can để bảo đảm thời gian xét phê chuẩn đòi
hỏi Viện kiểm sát phải tăng cường trách nhiệm công tố ngay từ đầu, bố trí đủ
Kiểm sát viên cần thiết.
1.3.2.3. Trách nhiệm công tố trong việc đề ra yêu cầu điều tra; trực
tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định của pháp luật
* Đề ra yêu cầu điều tra
Yêu cầu điều tra của Viện kiểm sát là một nội dung quan trọng của thực
hành quyền công tố, nhằm bảo đảm việc điều tra được khách quan, toàn diện
và đầy đủ, tạo cơ sở vững chắc để Viện kiểm sát xét phê chuẩn, ra các quyết
định tố tụng thuộc thẩm quyền có căn cứ và hợp pháp.
Nội dung yêu cầu điều tra có thể là định hướng điều tra, thu thập, củng
cố chứng cứ để làm rõ sự thật của vụ án, làm rõ hành vi phạm tội của bị can,
mở rộng điều tra vụ án nhằm chống bỏ lọt tội phạm và người phạm tội.
Hình thức yêu cầu điều tra có thể trao đổi trực tiếp hoặc bằng văn bản,
38
được thực hiện ngay từ khi Cơ quan điều tra tiến hành các biện pháp điều tra
công khai theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, trong suốt quá trình kiểm
sát điều tra, trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Người ra yêu cầu điều tra có thể là
Kiểm sát viên hoặc Lãnh đạo Viện kiểm sát (Viện trưởng, Phó Viện trưởng).
Kiểm sát viên chủ động trao đổi với Điều tra viên về những vấn đề cần điều
tra ngay từ khi kiểm sát việc khởi tố vụ án, khám nghiệm hiện trường, khám
nghiệm tử thi, trong quá trình điều tra. Yêu cầu điều tra bằng văn bản được
thực hiện trong trường hợp Viện kiểm sát đó trao đổi nhiều lần nhưng không
được Cơ quan điều tra thực hiện hoặc trong trường hợp Viện kiểm sát trả hồ
sơ điều tra bổ sung. Yêu cầu điều tra bằng văn bản phải do Lãnh đạo đơn vị
kiểm sát xem xét, quyết định trên cơ sở báo cáo đề xuất của Kiểm sát viên.
Cơ quan điều tra, Điều tra viên có trách nhiệm thực hiện các yêu cầu
điều tra của Viện kiểm sát, của Kiểm sát viên; nếu không thực hiện thì trong
yêu cầu điều tra tiếp theo cần nêu rõ những tài liệu chứng cứ trong hồ sơ vụ
án để lý giải về căn cứ, luận điểm vì sao phải điều tra, kết luận để Điều tra
viên phải tiến hành điều tra. Nếu Cơ quan điều tra không thực hiện những yêu
cầu điều tra thì Viện kiểm sát yêu cầu Cơ quan điều tra nêu rõ lý do trong bản
kết luận điều tra.
* Viện kiểm sát trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra khi cần thiết
Tiến hành một số hoạt động điều tra khác về bản chất thẩm quyền và
thủ tục tố tụng điều tra toàn bộ vụ án. Theo quy định của BLTTHS, Viện
kiểm sát có thể tiến hành một số hoạt động điều tra khi cần thiết trong những
vụ án mà Cơ quan điều tra đang điều tra. Thực chất của tiến hành một số hoạt
động điều tra như hỏi người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, hỏi cung bị
can, lấy lời khai người làm chứng, lời khai người bị hại, đối chất không phải
là để chứng minh tội phạm mà là để kiểm tra, xác minh và củng cố tài liệu,
chứng cứ của hồ sơ vụ án xem có đủ hay không đủ cơ sở tin cậy cho việc ra
39
các quyết định tố tụng thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát (như phê chuẩn
lệnh bắt khẩn cấp, phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, ra quyết định truy
tố…). Do đó, khi tiến hành một số hoạt động điều tra mà phát hiện có tội
phạm mới, người phạm tội chưa được khởi tố, thì Viện kiểm sát phải yêu cầu
Cơ quan điều tra khởi tố và điều tra (khi hỏi cung bị can khai thêm đồng
phạm chưa được khởi tố).
Viện kiểm sát có thể tiến hành một số hoạt động điều tra bất kỳ thời
điểm nào của giai đoạn điều tra hoặc sau khi nghiên cứu hồ sơ do Cơ quan
điều tra chuyển sang đề nghị truy tố; cụ thể thường được thực hiện trong các
trường hợp sau:
+ Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng; qua nghiên cứu, kiểm tra tài liệu,
chứng cứ sau khi kết thúc điều tra thấy còn thiếu căn cứ để ra các quyết định
tố tụng thuộc thẩm quyền.
+ Khi xét phê chuẩn các quyết định của Cơ quan điều tra, như phê
chuẩn việc bắt khẩn cấp, phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, phê chuẩn
quyết định gia hạn tạm giữ, phê chuẩn lệnh tạm giam…
+ Khi có đề nghị của Cơ quan điều tra hoặc qua kiểm sát việc hỏi cung
bị can thấy có dấu hiệu oan, những người tham gia tố tụng khiếu nại về việc
điều tra không khách quan;
+ Có căn cứ để nghi ngờ về tính xác thực trong lời khai bị can, người bị
hại, người làm chứng hoặc có sự mâu thuẫn giữa các lời khai đó, cần thiết
phải đối chất (giữa các bị can, giữa bị can với bị hại, giữa các người làm
chứng về cùng một tình tiết quan trọng của vụ án);
+ Sau khi kết thúc điều tra, thấy có mâu thuẫn giữa các lời khai với
thực tế khách quan, cần thiết phải thực nghiệm điều tra hoặc thực nghiệm điều
tra lại đối với những hành vi, tình huống đơn giản mà qua thực nghiệm tại
chỗ, có thể kết luận được để kiểm tra chứng cứ. Trường hợp phức tạp thì phải
Đề tài: Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra
Đề tài: Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra
Đề tài: Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra
Đề tài: Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra
Đề tài: Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra
Đề tài: Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra
Đề tài: Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra
Đề tài: Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra
Đề tài: Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra
Đề tài: Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra
Đề tài: Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra
Đề tài: Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra
Đề tài: Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra
Đề tài: Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra
Đề tài: Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra
Đề tài: Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra
Đề tài: Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra
Đề tài: Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra
Đề tài: Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra
Đề tài: Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra
Đề tài: Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra
Đề tài: Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra
Đề tài: Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra
Đề tài: Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra
Đề tài: Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra
Đề tài: Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra
Đề tài: Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra
Đề tài: Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra
Đề tài: Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra
Đề tài: Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra
Đề tài: Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra
Đề tài: Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra
Đề tài: Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra
Đề tài: Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra
Đề tài: Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra
Đề tài: Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra
Đề tài: Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra
Đề tài: Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra
Đề tài: Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra
Đề tài: Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra
Đề tài: Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra
Đề tài: Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra
Đề tài: Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra
Đề tài: Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra
Đề tài: Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra
Đề tài: Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra
Đề tài: Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra
Đề tài: Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra
Đề tài: Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra
Đề tài: Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra
Đề tài: Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra
Đề tài: Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra
Đề tài: Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra
Đề tài: Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra
Đề tài: Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra
Đề tài: Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra
Đề tài: Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra
Đề tài: Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra
Đề tài: Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra
Đề tài: Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra
Đề tài: Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra

More Related Content

What's hot

What's hot (18)

Đề tài: Chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát
Đề tài: Chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sátĐề tài: Chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát
Đề tài: Chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát
 
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sựKiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự
 
Luận án: Kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính, HAY
Luận án: Kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính, HAYLuận án: Kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính, HAY
Luận án: Kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính, HAY
 
Luận văn: Mối quan hệ giữa điều tra và công tố, HOT
Luận văn: Mối quan hệ giữa điều tra và công tố, HOTLuận văn: Mối quan hệ giữa điều tra và công tố, HOT
Luận văn: Mối quan hệ giữa điều tra và công tố, HOT
 
Quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HOT
Quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HOTQuyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HOT
Quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HOT
 
Luận văn: Thực hành quyền công tố trong vụ án cướp tài sản, HOT
Luận văn: Thực hành quyền công tố trong vụ án cướp tài sản, HOTLuận văn: Thực hành quyền công tố trong vụ án cướp tài sản, HOT
Luận văn: Thực hành quyền công tố trong vụ án cướp tài sản, HOT
 
Luận văn: Kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
Luận văn: Kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạmLuận văn: Kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
Luận văn: Kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
 
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOTLuận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT
 
Luận văn: Địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong tố tụng hành chính
Luận văn: Địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong tố tụng hành chínhLuận văn: Địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong tố tụng hành chính
Luận văn: Địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong tố tụng hành chính
 
Luận án: Chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án, HAY
Luận án: Chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án, HAYLuận án: Chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án, HAY
Luận án: Chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án, HAY
 
Vai trò của Viện kiểm sát trong giải quyết các vụ án hành chính, 9đ
Vai trò của Viện kiểm sát trong giải quyết các vụ án hành chính, 9đVai trò của Viện kiểm sát trong giải quyết các vụ án hành chính, 9đ
Vai trò của Viện kiểm sát trong giải quyết các vụ án hành chính, 9đ
 
Mối quan hệ tố tụng giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát, HAY
Mối quan hệ tố tụng giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát, HAYMối quan hệ tố tụng giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát, HAY
Mối quan hệ tố tụng giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát, HAY
 
Luận văn: Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát điều tra
Luận văn: Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát điều traLuận văn: Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát điều tra
Luận văn: Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan cảnh sát điều tra
 
Luận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng Nai
Luận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng NaiLuận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng Nai
Luận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng Nai
 
Luận văn: Vai trò của Viện kiểm sát trong khởi tố vụ án hình sự
Luận văn: Vai trò của Viện kiểm sát trong khởi tố vụ án hình sựLuận văn: Vai trò của Viện kiểm sát trong khởi tố vụ án hình sự
Luận văn: Vai trò của Viện kiểm sát trong khởi tố vụ án hình sự
 
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sựLuận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
 
Luận án: Pháp luật về kiểm sát viên trong thực hành quyền công tố
Luận án: Pháp luật về kiểm sát viên trong thực hành quyền công tốLuận án: Pháp luật về kiểm sát viên trong thực hành quyền công tố
Luận án: Pháp luật về kiểm sát viên trong thực hành quyền công tố
 
Luận văn: Biện pháp điều tra theo pháp luật Tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp điều tra theo pháp luật Tố tụng hình sự, HAYLuận văn: Biện pháp điều tra theo pháp luật Tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp điều tra theo pháp luật Tố tụng hình sự, HAY
 

Similar to Đề tài: Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra

Similar to Đề tài: Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra (20)

Đề tài: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong điều tra, HAY
Đề tài: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong điều tra, HAYĐề tài: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong điều tra, HAY
Đề tài: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong điều tra, HAY
 
Luận văn: Quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, 9đ
Luận văn: Quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, 9đLuận văn: Quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, 9đ
Luận văn: Quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, 9đ
 
Luận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAYLuận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
 
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAYLuận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
 
Luận văn: Quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án hình sự
Luận văn: Quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án hình sựLuận văn: Quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án hình sự
Luận văn: Quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án hình sự
 
Luận văn: Vụ án hình sự mà bị can là người chưa thành niên, HOT
Luận văn: Vụ án hình sự mà bị can là người chưa thành niên, HOTLuận văn: Vụ án hình sự mà bị can là người chưa thành niên, HOT
Luận văn: Vụ án hình sự mà bị can là người chưa thành niên, HOT
 
Điều tra vụ án hình sự mà bị can là người chưa thành niên, HOT
Điều tra vụ án hình sự mà bị can là người chưa thành niên, HOTĐiều tra vụ án hình sự mà bị can là người chưa thành niên, HOT
Điều tra vụ án hình sự mà bị can là người chưa thành niên, HOT
 
Đề tài: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát, HOT
Đề tài: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát, HOTĐề tài: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát, HOT
Đề tài: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát, HOT
 
Luận văn: Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân, HOT
Luận văn: Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân, HOTLuận văn: Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân, HOT
Luận văn: Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân, HOT
 
Luận văn: Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân, HOT
Luận văn: Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân, HOTLuận văn: Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân, HOT
Luận văn: Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân, HOT
 
Quyền công tố của Kiểm sát viên trong điều tra các vụ án hình sự
Quyền công tố của Kiểm sát viên trong điều tra các vụ án hình sựQuyền công tố của Kiểm sát viên trong điều tra các vụ án hình sự
Quyền công tố của Kiểm sát viên trong điều tra các vụ án hình sự
 
Thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, 9đ
Thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, 9đThực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, 9đ
Thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, 9đ
 
Nhiệm vụ của Viển kiểm sát trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Nhiệm vụ của Viển kiểm sát trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sựNhiệm vụ của Viển kiểm sát trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Nhiệm vụ của Viển kiểm sát trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
 
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua xét xử hình sự, HAY
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua xét xử hình sự, HAYLuận văn: Giáo dục pháp luật thông qua xét xử hình sự, HAY
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua xét xử hình sự, HAY
 
quyền công tố trong điều tra các tội xâm phạm sức khỏe của người khác
quyền công tố trong điều tra các tội xâm phạm sức khỏe của người khácquyền công tố trong điều tra các tội xâm phạm sức khỏe của người khác
quyền công tố trong điều tra các tội xâm phạm sức khỏe của người khác
 
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sựNâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
 
Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát theo Luật Tố tụng
Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát theo Luật Tố tụngNgười tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát theo Luật Tố tụng
Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát theo Luật Tố tụng
 
Đề tài: Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Đề tài: Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát nhân dân, HAYĐề tài: Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Đề tài: Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát nhân dân, HAY
 
Chất lượng thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên, HAY
Chất lượng thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên, HAYChất lượng thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên, HAY
Chất lượng thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên, HAY
 
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án Nhân dân
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án Nhân dânLuận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án Nhân dân
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án Nhân dân
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620 (20)

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 ĐiểmDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý TưởngDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 

Recently uploaded

SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
ChuThNgnFEFPLHN
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
dangdinhkien2k4
 
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
Xem Số Mệnh
 

Recently uploaded (20)

GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
 
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
 
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfxemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
 
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhkinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.pptAccess: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
 
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
 
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiệnBài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 

Đề tài: Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN THỊ PHƢƠNG T¡NG C¦êNG TR¸CH NHIÖM C¤NG Tè TRONG HO¹T §éNG §IÒU TRA ë VIÖN KIÓM S¸T NH¢N D¢N TØNH B¾C GIANG Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật Mã số: 60 38 01 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN XUÂN TOẢN HÀ NỘI - 2014
  • 2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Trần Thị Phƣơng
  • 3. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục bảng MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: NHẬN THỨC CHUNG VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG HOẠT ĐỘNG ĐIỀU TRA CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN.....................................................................................................7 1.1. Một số khái niệm có liên quan ........................................................... 7 1.1.1. Quyền công tố ....................................................................................... 7 1.1.2. Thực hành quyền công tố....................................................................14 1.2. Thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát trong hoạt động điều tra ...............................................................................................20 1.2.1. Nhiệm vụ và đặc điểm cơ bản của hoạt động điều tra........................20 1.2.2. Phạm vi, nội dung và đặc điểm của thực hành quyền công tố trong hoạt động điều tra................................................................................23 1.2.3. Mối quan hệ giữa thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra ..............................................27 1.3. Chủ trƣơng của Đảng, Nhà nƣớc về tăng cƣờng trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra; pháp luật về thực quyền công tố trong hoạt động điều tra của Viện kiểm sát nhân .....................28 1.3.1. Chủ trương của Đảng, Nhà nước về tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra ..................................................................28 1.3.2. Pháp luật về thực hành quyền công tố trong hoạt động điều tra.........32 Kết luận Chương 1.........................................................................................47
  • 4. Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG HOẠT ĐỘNG ĐIỀU TRA CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH BẮC GIANG TỪ NĂM 2008 ĐẾN NĂM 2012 .........................48 2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh Bắc Giang và ảnh hƣởng đối với việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân trên địa bàn .......................................................48 2.1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội.....................................................48 2.1.2. Những ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội đối với việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân trên địa bàn..........................................................................................50 2.2. Thực trạng tổ chức, hoạt động thực hành quyền công tố trong hoạt động điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang từ năm 2008 đến năm 2012...................................................52 2.2.1. Khái quát tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang............................................................................................52 2.2.2. Kết quả hoạt động thực hành quyền công tố trong hoạt động điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang từ năm 2008 đến năm 2012.............................................................................................56 Kết luận Chương 2.........................................................................................66 Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG TRÁCH NHIỆM CÔNG TỐ TRONG HOẠT ĐỘNG ĐIỀU TRA CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH BẮC GIANG THỜI GIAN TỚI ...67 3.1. Quan điểm chỉ đạo của Đảng về công tác thực hành quyền công tố trong hoạt động điều tra của Viện kiểm sát nhân dân.....67 3.2. Nhóm giải pháp nhằm nâng cao trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang thời gian tới ............................................................................71
  • 5. 3.2.1. Một số giải pháp chung về nhận thức đúng đắn trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra ..................................................................71 3.2.2. Giải pháp tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang thời gian tới ................76 3.3. Một số kiến nghị nhằm tăng cƣờng trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang...........................................................................................90 Kết luận Chương 3.........................................................................................92 KẾT LUẬN....................................................................................................93 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................96
  • 6. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS: Bộ luật hình sự BLTTHS: Bộ luật Tố tụng hình sự KSV: Kiểm sát viên VKS: Viện kiểm sát VKSND: Viện kiểm sát nhân dân VKSNDTC: Viện kiểm sát nhân dân tối cao
  • 7. DANH MỤC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang Bảng 2.1: Tổng số Kiểm sát viên, cán bộ của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang 53
  • 8. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Viện kiểm sát nhân dân là một cơ quan trong hệ thống tổ chức bộ máy nhà nước của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, với chức năng được quy định tại Điều 137 của Hiến pháp năm 2013, theo đó, “Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp” [34, tr.57]. Điều 1 của Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 quy định: “Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp theo quy định của hiến pháp và pháp luật” [32, tr.1]. Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới và Nghị quyết số 49- NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã đề ra những yêu cầu cơ bản về cải cách tư pháp đối với các cơ quan tư pháp trong đó có Viện kiểm sát nhân dân. Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng nhấn mạnh phải tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra. Vì vậy việc nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, thực hiện đúng và đầy đủ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra, truy tố có ý nghĩa rất quan trọng; là một trong những yếu tố cơ bản để giải quyết các vụ án hình sự đảm bảo đúng quy định của pháp luật, hạn chế đến mức thấp nhất việc bỏ lọt tội phạm hoặc làm oan người vô tội, góp phần đấu tranh phòng chống tội phạm đạt kết quả, giữ vững an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội. Như vậy, chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước ta là xây dựng một nền công tố mạnh. Khi thực hành quyền công tố, Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm lớn trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Phải bảo đảm mọi hành vi phạm tội và người phạm tội được phát hiện kịp thời, đầy đủ,
  • 9. 2 xử lý nghiêm minh, có căn cứ pháp luật, không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, đồng thời không để làm oan người vô tội. Đây là hai mặt của vấn đề trong công tác công tố và để góp phần làm tốt nhiệm vụ này, Viện kiểm sát nhân dân phải tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra. Vì vậy, có thể nói rằng đây là nhiệm vụ quan trọng của Viện kiểm sát nhân dân trong giai đoạn hiện nay. Trong giai đoạn điều tra, Viện kiểm sát thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Cơ quan điều tra và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được khởi tố, điều tra và xử lý kịp thời, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội; không để người nào bị khởi tố, bị bắt, bị giam giữ, tạm giam, bị hạn chế các quyền công dân, bị xâm phạm tính mạng, sức khỏe, tự do, danh dự và nhân phẩm một cách trái pháp luật. Đồng thời, bảo đảm việc điều tra được khách quan, toàn diện, đầy đủ, chính xác, đúng pháp luật; kịp thời phát hiện, khắc phục và xử lý những vi phạm pháp luật trong quá trình điều tra. Chức năng thực hành quyền công tố cùng với chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp là chức năng riêng có của Viện kiểm sát và có ý nghĩa rất quan trọng trong đời sống chính trị - xã hội. Kết luận của đồng chí Trường Chinh, Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội về công tác của ngành kiểm sát năm 1967 đã nhấn mạnh: Công tố là một biện pháp chuyên chính trong bất cứ Nhà nước nào. Không có cơ quan Nhà nước nào có thể thay thế ngành Kiểm sát để sử dụng quyền công tố. Bắt giam, điều tra, tha, truy tố, xét xử có đúng người, đúng tội, đúng pháp luật hay không, có đúng đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước hay không, điều đó chính là Viện kiểm sát phải trông nom, đảm bảo làm tốt [41].
  • 10. 3 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 và Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đã quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố. Bởi vậy, thực chất của việc tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra là tăng cường trách nhiệm của Viện kiểm sát để thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hiện thực hành quyền công tố theo quy định của pháp luật. Với mong muốn được góp phần làm sáng tỏ hơn một số vấn đề lý luận và thực tiễn thông qua hoạt động thực hiện chức năng nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân trên một địa bàn cụ thể; đồng thời, đề xuất một số giải pháp để nâng cao chất lượng của hoạt động này, tác giả chọn đề tài "Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra ở Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang" làm luận văn thạc sĩ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Liên quan đến vấn đề nghiên cứu, nhất là hoạt động tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, thời gian qua, đã có một số công trình nghiên cứu được công bố như: - “Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra”, TS. Lê Hữu Thể chủ biên, NXB Tư pháp, 2005; - “Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra theo cải cách tư pháp”, Chuyên đề tập huấn, Vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra án hình sự về trật tự xã hội – Viện kiểm sát nhân dân Tối cao; - “Cơ quan thực hành quyền công tố trong cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay”, Đỗ Văn Đương, Tạp chí chuyên ngành, Hà Nội, 2006; - “Đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống các cơ quan thực hiện chức năng thực hành quyền công tố đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp”, Phạm Hồng Hải, Tạp chí chuyên ngành, Hà Nội, 2006.
  • 11. 4 Ngoài ra, còn có một số bài viết khác của các tác giả đăng trên tạp chí Kiểm sát, tạp chí Luật học của Trường Đại học Luật Hà Nội, Tạp chí Tòa án. Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống, nghiên cứu sâu về thực tiễn tăng cường trách nhiệm công tố gắn với hoạt động điều tra tại Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang. Do vậy, việc đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu về vấn đề này có ý nghĩa quan trọng trong lý luận và thực tiễn. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn Luận văn phân tích, làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn tăng cường trách nhiệm công tố gắn với hoạt động điều tra tại Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang. Trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp, kiến nghị để nâng cao trách nhiệm công tố gắn với hoạt động điều tra của hai cấp Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang hiện nay. Để đạt được mục đích trên, phải triển khai thực hiện các nhiệm vụ cụ thể sau: - Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận và nhận thức chung về thực hành quyền công tố trong hoạt động điều tra; - Khảo sát và đánh giá thực trạng thực hành quyền công tố trong hoạt động điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang từ năm 2008 đến năm 2012; - Xác định các quan điểm, đề xuất các giải pháp tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang thời gian tới. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn - Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận về quyền công tố, thực hành quyền công tố và thực trạng, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong hoạt động điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang.
  • 12. 5 - Phạm vi nghiên cứu: Luận văn chỉ giới hạn nghiên cứu vấn đề liên quan đến thực hành quyền công tố trong hoạt động điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang. Thời gian nghiên cứu, khảo sát trong 05 năm, từ năm 2008 đến năm 2012. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật, các quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về cải cách bộ máy nhà nước nói chung và cải cách tư pháp nói riêng. Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của khoa học chuyên ngành, trong đó đặc biệt chú trọng các phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, phân tích và tổng hợp, lịch sử cụ thể. Đồng thời, luận văn còn sử dụng một số phương pháp của một số bộ môn khoa học khác như thống kê, so sánh, tọa đàm trao đổi… 6. Đóng góp của luận văn Luận văn góp phần làm rõ, hoàn thiện một số vấn đề lý luận cơ bản về quyền công tố, thực hành quyền công tố và mối quan hệ giữa thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra của Viện kiểm sát. Đồng thời, đánh giá khái quát thực trạng thực hành quyền công tố trong hoạt động điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang trong thời gian qua; đề xuất một số quan điểm, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang trong thời gian tới. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.
  • 13. 6 Chương 1. Nhận thức chung về thực hành quyền công tố trong hoạt động điều tra của Viện kiểm sát nhân dân. Chương 2. Thực trạng thực hành quyền công tố trong hoạt động điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang từ năm 2008 đến năm 2012. Chương 3. Một số giải pháp tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang thời gian tới.
  • 14. 7 Chương 1 NHẬN THỨC CHUNG VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG HOẠT ĐỘNG ĐIỀU TRA CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN 1.1. Một số khái niệm có liên quan 1.1.1. Quyền công tố 1.1.1.1. Khái niệm quyền công tố "Công tố" là từ ghép Hán - Việt, được hình thành bởi hai từ đơn "công" và "tố". Theo Đại từ điển tiếng Việt, "công" có nghĩa là "thuộc về Nhà nước, tập thể, trái với tư" [51, tr.453], còn "tố" có nghĩa là "nói về những sai phạm, tội lỗi của người khác một cách công khai trước người có thẩm quyền hoặc trước nhiều người" [51, tr.459]; "công tố" có nghĩa là "điều tra, truy tố, buộc tội kẻ phạm pháp và phát biểu ý kiến trước Tòa án" [51, tr.1663]. Như vậy, có thể thấy công tố là một khái niệm đề cập đến các nội dung về điều tra, truy tố, buộc tội người phạm tội trước Tòa án. Trong đó bên thực hiện buộc tội là nhân danh Nhà nước, nhân danh lợi ích công để tố cáo, đưa người có hành vi phạm tội ra trước Tòa án để xét xử. Khác với tư tố, là tự mình nhân danh lợi ích cá nhân, riêng tư để tố cáo, khởi kiện ra Tòa án để đề nghị Tòa án bảo vệ quyền lợi cho riêng mình. Quyền công tố là một khái niệm pháp lý. Ở Việt Nam chế định quyền công tố chưa được giải thích chính thức trong văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, mới chỉ đề cập trong các bài giảng, các luận văn, đề tài khoa học và một số sách, tạp chí nghiên cứu luật học... Nhưng trên thực tế quyền năng công tố đã được thực hiện từ khi nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời, khi đó chức năng công tố thuộc hệ thống Tòa án do các Thẩm phán buộc tội đảm nhiệm. Sau đó trong các Tòa án đều có bộ phận "Công tố viện" chuyên thực hiện chức năng công tố. Công tố viện do Công tố
  • 15. 8 ủy viên phụ trách. Tại phiên họp ngày 29/4/1958 kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa I đã quyết định chia tách và thành lập một số cơ quan nhà nước, trong đó có việc thành lập Tòa án tối cao và hệ thống tòa án, thành lập Viện công tố Trung ương và hệ thống Viện công tố. Cả hai cơ quan tách khỏi Bộ Tư pháp và đều là các cơ quan có nhiệm vụ, quyền hạn ngang Bộ trực thuộc Chính phủ. Ngày 01/07/1959 Chính phủ ban hành Nghị định 256/TTg quy định về nhiệm vụ và tổ chức Viện công tố Trung ương và hệ thống Viện công tố, đây là tổ chức tiền thân của Viện kiểm sát nhân dân. Tại phiên họp ngày 15/7/1960, kỳ họp thứ 2 Quốc hội khóa II đã thông qua Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân và ngày 26/7/1960 Chủ tịch nước đã ký lệnh công bố luật này. Kể từ đó đến nay quyền công tố do Viện kiểm sát nhân dân đảm nhiệm. Thuật ngữ “Quyền công tố” lần đầu tiên được ghi nhận tại Hiến pháp 1980, sau đó tại Hiến pháp năm 1992, Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1981, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1992, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002, Pháp lệnh kiểm sát viên năm 2002... Hiện nay, vẫn còn có nhiều quan điểm khác nhau về quyền công tố. Có thể khái quát lại một số quan điểm về quyền công tố như sau: Quan điểm thứ nhất: Là quan điểm cho rằng tất cả các hoạt động kiểm sát tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát đều là thực hành quyền công tố. “Những người theo quan điểm này đã đồng nhất khái niệm quyền công tố với hoạt động kiểm sát tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát nhân dân. Theo họ, công tố không phải là một chức năng độc lập của Viện kiểm sát mà chỉ là một quyền năng, một hình thức thực hiện chức năng kiểm sát tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát” [18, tr. 85-87]. Theo tác giả, quan điểm này đã đánh đồng quyền công tố với quyền kiểm sát tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát và như vậy là không chính xác
  • 16. 9 bởi vì thực hành quyền công tố và kiểm sát tuân theo pháp luật là hai chức năng hoàn toàn độc lập của Viện kiểm sát nhân dân. Mặc dù trong quá trình thực hiện hai chức năng này, có thể có những nội dung đan xen nhau, có quan hệ mật thiết với nhau, tác động qua lại với nhau nhưng không phải trong mọi công tác thực hiện chức năng của Viện kiểm sát, trong mọi hoạt động thực hiện chức năng của Kiểm sát viên đều bao hàm cả hai chức năng đó, có hoạt động chỉ nhằm thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và có hoạt động chỉ nhằm thực hiện chức năng kiểm sát tuân theo pháp luật. Vì vậy, không thể phủ nhận tính độc lập của hai chức năng này về cả nội dung lẫn phạm vi áp dụng và vì vậy không thể đồng nhất chúng. Quan điểm thứ hai: “Quyền công tố là quyền đại diện cho Nhà nước đưa các vụ việc vi phạm pháp luật nói chung ra trước Tòa án để xét xử nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước, bảo vệ trật tự pháp luật; Ở Việt Nam, quyền này được giao cho Viện kiểm sát nhân dân” [18, tr.19]. Quan điểm này có thể coi là quan điểm phổ biến trong ngành kiểm sát, đã được đưa vào giáo trình giảng dạy của ngành kiểm sát và thường xuyên được nhắc đến trong các văn bản hướng dẫn nghiệp vụ và các báo cáo tổng kết thực tiễn của ngành kiểm sát. Theo quan điểm này thì đầu tiên quyền công tố chỉ có trong lĩnh vực hình sự, về sau nó được mở rộng sang các lĩnh vực tư pháp khác và cho đến nay thì quyền công tố không chỉ có trong lĩnh vực tố tụng hình sự mà còn có cả trong các lĩnh vực tố tụng dân sự và các lĩnh vực tố tụng tư pháp khác. Theo tác giả, quan điểm này quá mở rộng cả khái niệm, nội dung và phạm vi của quyền công tố, đã đồng nhất quyền công tố với những quyền năng khác của Viện kiểm sát trong quá trình kiểm sát các hoạt động tư pháp (giải quyết các vụ án dân sự, hành chính, kinh tế và lao động…). Quan điểm thứ ba cho rằng, “quyền công tố là sự cáo buộc của Nhà nước đối với các cá nhân, tổ chức đó vi phạm pháp luật, bao gồm vi phạm
  • 17. 10 hành chính, vi phạm dân sự, vi phạm kinh tế, vi phạm hình sự. Và quyền công tố là quyền của Nhà nước thực hiện sự cáo buộc đó” [20, tr.82-88]. Theo quan điểm này, quyền công tố chỉ thuộc về Nhà nước, Nhà nước không thể không thực hiện quyền công tố khi chính Nhà nước là người ban hành pháp luật, người có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật và đồng thời Nhà nước là chủ thể tham gia và nhiều quan hệ pháp luật khác nhau. Với tính cách là một quyền năng của Nhà nước, quyền công tố được thực hiện trong tất cả các quá trình giải quyết các vi phạm pháp luật, bao gồm tố tụng hình sự, tố tụng dân sự, tố tụng kinh tế, tố tụng lao động, tố tụng hành chính. Theo quan điểm trên, quyền công tố trong các hoạt động tố tụng được biểu hiện cụ thể ở các quyền của Viện kiểm sát như quyền khởi tố vụ án (dân sự, kinh tế, hành chính, lao động, hình sự), quyền tham gia tố tụng từ tất bất cứ giai đoạn tố tụng nào khi xét thấy cần thiết (dân sự, kinh tế...), quyền yêu cầu Toà án hoặc tự mình điều tra xác minh những vấn đề cần làm sáng tỏ trong vụ án... Quan điểm thứ tư: Quyền công tố là quyền của Nhà nước giao cho Viện kiểm sát truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội; cơ quan công tố có trách nhiệm bảo đảm việc thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ để xác định tội phạm và người phạm tội, trên cơ sở đó quyết định truy tố bị can ra trước Tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó trước phiên tòa [1, tr.40]. Theo quan điểm này thì quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi vi phạm mà pháp luật hình sự coi là tội phạm; quyền công tố chỉ có trong lĩnh vực duy nhất là trong tố tụng hình sự; ở nước ta, quyền công tố được Nhà nước giao cho duy nhất Viện kiểm sát nhân dân, không có bất cứ cơ quan nào có thể thay thế được. Như vậy có thể thấy, về khái niệm quyền công tố có rất nhiều quan
  • 18. 11 điểm khác nhau. Mỗi quan điểm trong số đó đều có những hạt nhân hợp lý của nó nhưng cũng đều bộc lộ những bất cập. Hoặc là đánh đồng quyền công tố với kiểm sát tuân theo pháp luật, coi quyền công tố chỉ là quyền năng của Viện kiểm sát trong kiểm sát tuân theo pháp luật nên đã mở rộng phạm vi của quyền công tố sang các lĩnh vực khác ngoài tố tụng hình sự; hoặc là quá thu hẹp phạm vi của quyền công tố, cho rằng quyền công tố chỉ có trong giai đoạn xét xử sơ thẩm; hoặc xác định không đúng chủ thể của quyền công tố… Từ những phân tích ở trên, để xây dựng được khái niệm quyền công tố chính xác, khoa học thì phải dựa trên các quan điểm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, các quy định hiện hành của pháp luật và thực tiễn hoạt động của các cơ quan tư pháp Việt Nam. Theo tác giả, việc xây dựng khái niệm quyền công tố cần phải dựa trên những nguyên tắc sau: - Quyền công tố phải là quyền của Nhà nước, xuất hiện cùng với sự ra đời của Nhà nước và thay đổi theo bản chất của Nhà nước. Được Nhà nước giao cho một cơ quan thực hiện (ở nước ta là Viện kiểm sát nhân dân), nhằm xác định tội phạm và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Để làm được điều này, cơ quan Viện kiểm sát phải có trách nhiệm đảm bảo việc thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ để xác định tội phạm và người phạm tội, trên cơ sở đó quyết định việc truy tố bị can ra trước Tòa án và bảo vệ sự buộc tội tại phiên tòa. - Quyền công tố chỉ tồn tại trong lĩnh vực tố tụng hình sự, với đối tượng là tội phạm và người phạm tội mà không có trong các lĩnh vực khác như tố tụng dân sự, hành chính.... - Quyền công tố chỉ do một cơ quan thực hiện và phải độc lập với quyền xét xử của Tòa án. Quyền công tố phải được thể hiện bằng những hoạt động cụ thể ở trong tất cả các giai đoạn tố tụng hình sự, từ khởi tố, điều tra, đến đưa vụ án ra xét xử.
  • 19. 12 Theo đó, có thể định nghĩa quyền công tố như sau: Quyền công tố là quyền của Nhà nước, giao cho Viện kiểm sát nhân dân thực hiện việc xác định tội phạm,truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trước Tòa án và bảo vệ việc buộc tội tại phiên toà. 1.1.1.2. Đối tượng, nội dung và phạm vi quyền công tố * Đối tượng của quyền công tố là cái mà quyền công tố tác động vào nhằm đạt được mục đích cụ thể nào đó như nhằm buộc tội người phạm tội để trừng phạt nhằm bảo đảm trật tự xã hội và trật tự pháp luật, nhằm bảo đảm lợi ích chung cho xã hội… Do còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về quyền công tố, nên tất yếu còn tồn tại nhận thức khác nhau về đối tượng, nội dung và phạm vi của quyền công tố điển hình có thể kể đến một số quan điểm sau: - Quan điểm xác định đối tượng của quyền công tố và sự tuân thủ pháp luật của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng. Quan điểm này là kết quả của sự đồng nhất khái niệm quyền công tố với hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật. - Quan điểm cho tằng đối tượng của quyền công tố là các hành vi vi phạm pháp luật; quan điểm này xuất phát từ nhận thức coi quyền công tố là quyền của Nhà nước cáo buộc cá nhân, tổ chức vi phạm pháp luật và đưa ra các vụ việc vi phạm pháp luật ra Tòa. - Quan điểm coi quyền công tố là quyền Nhà nước nhân danh xã hội truy cứu trách nhiệm hình sự đối với những người có hành vi phạm tội hoặc hành vi vi phạm pháp luật liên quan đến lợi ích chung, lợi ích Nhà nước thì lại cho rằng đối tượng của quyền công tố là tội phạm, người phạm tội và những vụ việc xâm hại đến lợi ích chung trong lĩnh vực dân sự, hành chính, lao động. Từ quan điểm nhận thức về quyền công tố đã trình bày ở trên, tác giả luận văn cho rằng đối tượng của quyền công tố chỉ có thể là: tội phạm và người phạm tội.
  • 20. 13 * Nội dung của quyền công tố Về nội dung của quyền công tố, cũng còn tồn tại những quan điểm khác nhau song xuất phát từ quan điểm về bản chất của quyền công tố là sự buộc tội nhân danh Nhà nước, đối tượng tác động của quyền công tố là tội phạm và người phạm tội, tác giả thống nhất với quan điểm nội dung của quyền công tố là sự buộc tội nhân danh Nhà nước đối với người đã thực hiện tội phạm. * Phạm vi quyền công tố Do hiện đang tồn tại những quan điểm khác nhau về quyền công tố nên cũng có các cách lý giải khác nhau về phạm vi của quyền công tố (phạm vi về không gian, phạm vi về thời gian). - Phạm vi về thời gian: Phần lớn các quan điểm cho rằng quyền công tố không chỉ bị giới hạn bó hẹp trong lĩnh vực tố tụng hình sự mà còn bao trùm cả trong các lĩnh vực tư pháp khác như tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, tố tụng kinh tế, tố tụng lao động. Bên cạnh đó có quan điểm cho rằng phạm vi của quyền công tố chỉ có trong lĩnh vực tố tụng hình sự và không thể có trong các lĩnh vực tố tụng khác. Do đó tác giả cho rằng quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước thực hiện việc buộc tội đối với người phạm tội; do đó quyền công tố không thể tồn tại ở lĩnh vực nào khác ngoài lĩnh vực tố tụng hình sự. - Phạm vi về thời gian cho rằng quyền công tố xuyên suốt cả quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án tức là nó bắt đầu khi tội phạm xảy ra và chỉ kết thúc khi người phạm tội chấp hành xong bản án. Từ quan điểm của mình về quyền công tố tác giả luận văn đồng tình với ý kiến cho rằng phạm vi quyền công tố bắt đầu từ khi tội phạm được thực hiện và kết thúc khi việc buộc tội không còn nữa. Và khi việc buộc tội không còn nữa thì không còn lý do gì để cho rằng quyền công tố vẫn kéo dài đến khi người phạm tội chấp hành xong bản án.
  • 21. 14 1.1.2. Thực hành quyền công tố 1.1.2.1. Khái niệm thực hành quyền công tố Cũng như khái niệm về quyền công tố, khái niệm thực hành quyền công tố cũng như nội dung, phạm vi của nó còn có nhiều cách hiểu khác nhau. Quyền công tố là quyền đại diện cho Nhà nước truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi phạm tội; quyền công tố chỉ có trong lĩnh vực tố tụng hình sự; phạm vi của quyền công tố bắt đầu từ khi tội phạm xảy ra, tiếp diễn suốt từ khởi tố, điều tra đến truy tố bị can ra Tòa, tranh tụng tại phiên tòa và kết thúc bằng một bản án có hiệu lực pháp luật (hoặc quyết định của Tòa án - trong trường hợp vụ án bị đình chỉ). Để thực hiện được quyền công tố đó, Nhà nước ban hành pháp luật quy định các quyền năng pháp lý khác nhau để các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền áp dụng trong từng giai đoạn khác nhau của tố tụng hình sự (hay nói cách khác đó là các phương pháp khác nhau để tổ chức thực hiện chức năng, nhiệm vụ trong những giai đoạn tố tụng khác nhau) - đó là thực hành quyền công tố. Ở Việt Nam, căn cứ vào các quy định của Hiến pháp và pháp luật và thực tiễn thì từ trước đến nay quyền này được giao cho duy nhất Viện kiểm sát. Vậy, chủ thể thực hành quyền công tố ở Việt Nam là Viện kiểm sát nhân dân. Từ những phân tích nêu trên có thể xác định phạm vi và nội dung thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra của Viện kiểm sát như sau: Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra của Viện kiểm sát nhân dân là việc Viện kiểm sát sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung của quyền công tố để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội và được thực hiện từ khi khởi tố vụ án và kết thúc khi Viện kiểm sát quyết định truy tố bị can ra trước Tòa án để xét xử hoặc khi vụ án được đình chỉ điều tra theo quy định của pháp luật.
  • 22. 15 1.1.2.2. Phạm vi thực hành quyền công tố Xét về nguyên tắc thì phạm vi thực hành quyền công tố đồng nhất với phạm vi của quyền công tố; tức là bắt đầu từ khi tội phạm xảy ra và kết thúc khi bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật không bị kháng nghị hoặc vụ án được đình chỉ theo đúng quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Như vậy cũng có nghĩa là khi tội phạm xảy ra đòi hỏi quyền công tố phải được phát động để đảm bảo mọi tội phạm xảy ra đều phải được phát hiện xử lý theo pháp luật. Để có cơ sở phát động quyền công tố đòi hỏi phải trải qua một giai đoạn chuẩn bị nhằm thu thập tài liệu, tin tức về tội phạm xảy ra, như: Tiếp nhận, xác minh tin báo, tố giác tội phạm; tiến hành một số hoạt động điều tra trước khi khởi tố vụ án như khám nghiệm hiện trường, lấy lời khai người làm chứng, lấy lời khai người bị tạm giữ… và mục đích của giai đoạn này là nhằm xác định có hay không có dấu hiệu tội phạm để làm cơ sở khởi tố hay không kết thúc vụ án hình sự và thực hành quyền công tố chỉ thực sự phát sinh khi có quyết định kết thúc vụ án. Nhưng trên thực tế việc kết thúc vụ án không thể bao trùm hết được số vụ tội phạm xảy ra (thậm chí số vụ tội phạm xảy ra không được phát hiện khởi tố còn chiếm một tỷ lệ không nhỏ so với số vụ tội phạm được khởi tố). Do đó, trong khi thực hành quyền công tố chỉ phát sinh khi có quyết định khởi tố vụ án thì quyền công tố luôn “treo trên đầu” đối với tất cả những người thực hiện tội phạm nhưng chưa bị phát hiện khởi tố điều tra. Điều này cũng cho thấy rõ ràng phạm vi quyền công tố luôn rộng hơn so với phạm vi thực hành quyền công tố. Tuy về nguyên tắc như đã phân tích ở trên quyền công tố luôn bắt đầu từ khi có tội phạm xảy ra và kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật. Nhưng trên thực tế, trong những trường hợp cụ thể, quyền công tố có thể kết thúc ở giai đoạn tố tụng sớm hơn. Đó là khi Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát căn cứ vào các quy định của pháp luật ra quyết định
  • 23. 16 đình chỉ vụ án, bị can (theo quy định của pháp luật Việt Nam thì đó là các trường hợp quy định ở khoản 2 Điều 105, Điều 107 BLTTHS; Điều 19, Điều 25, khoản 2 Điều 169 BLHS…) và khi quyền công tố chấm dứt thì thực hành quyền công tố cũng chấm dứt. Như vậy có thể khẳng định phạm vi thực hành quyền công tố bắt đầu từ khi khởi tố vụ án hình sự và kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật, không bị kháng nghị hoặc vụ án được đình chỉ điều tra theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. 1.1.2.3. Nội dung thực hành quyền công tố Nội dung thực hành quyền công tố là việc Viện kiểm sát nhân dân sử dụng những biện pháp được pháp luật quy định để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 và Quy chế thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự ban hành kèm theo Quyết định số 07/2008/QĐ-VKSTC ngày 2/1/2008, Quy chế công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự ban hành kèm theo Quyết định số 960/QĐ-VKSTC ngày 17/9/2007 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao thì nội dung thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân được xác định như sau: * Nội dung thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra, truy tố: + Khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can; yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can. Việc khởi tố vụ án hình sự được thực hiện khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm. Theo quy định tại Điều 104 của BLTTHS năm 2003 thì, các cơ quan có thẩm quyền khởi tố vụ án, bị can bao gồm: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra như Bộ
  • 24. 17 đội Biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển... Trên thực tế, việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can chủ yếu do Cơ quan điều tra các cấp tiến hành, Viện kiểm sát chỉ ra quyết định khởi tố vụ án trong một số trường hợp nhất định. Tuy vậy, Viện kiểm sát là cơ quan duy nhất được quyền khởi tố vụ án hình sự một cách độc lập, không chịu sự ràng buộc về mặt cơ chế tố tụng của bất kỳ một cơ quan nhà nước nào. Viện kiểm sát cũng có quyền yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố, thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can nếu có căn cứ xác định tội phạm đã khởi tố không đúng với hành vi phạm tội xảy ra hoặc còn có tội phạm khác; có quyền hủy bỏ quyết định khởi tố hoặc quyết định không khởi tố vụ án của Cơ quan điều tra và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Đồng thời, Viện kiểm sát cũng có quyền kháng nghị đối với những quyết định khởi tố vụ án không có căn cứ của Hội đồng xét xử. Quyết định khởi tố bị can của Cơ quan điều tra và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải được gửi ngay cho Viện kiểm sát để xem xét phê chuẩn trong thời hạn 24 giờ, kể từ thời điểm ra quyết định khởi tố. Viện kiểm sát sẽ xem xét phê chuẩn hoặc hủy bỏ quyết định khởi tố nếu quyết định khởi tố đó không có căn cứ và trái pháp luật trong thời hạn 3 ngày, kể từ khi nhận được quyết định khởi tố bị can và các tài liệu liên quan đến việc khởi tố của Cơ quan điều tra. + Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra tiến hành điều tra; khi cần thiết có thể trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định của pháp luật. Kiểm sát viên có thể trực tiếp đề ra yêu cầu điều tra bằng lời trong quá trình kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, khám xét, hỏi cung bị can, lấy lời khai, đối chất, thực nghiệm điều tra. Đối với những trường hợp khác, khi đề ra yêu cầu điều tra, Kiểm sát viên phải có
  • 25. 18 văn bản nêu rõ vấn đề cần điều tra. Viện kiểm sát có nhiệm vụ, quyền hạn trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra khi xét thấy cần thiết như khác hoạt động hỏi cung bị can, lấy lời khai bị hại, người làm chứng, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, đối chất, thực nghiệm điều tra. + Quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam và các biện pháp ngăn chặn khác; quyết định phê chuẩn, quyết định không phê chuẩn các quyết định Cơ quan điều tra theo quy định của pháp luật. Khi có căn cứ và xét thấy cần thiết, Viện kiểm sát nhân dân có quyền quyết định áp dụng một trong các biện pháp ngăn chặn như bắt bị can để tạm giam, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm. Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ, quyền hạn phê chuẩn các quyết định của Cơ quan điều tra trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn như bắt khẩn cấp, gia hạn tạm giữ, bắt bị can để tạm giam, tạm giam, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm; phê chuẩn hoặc không phê chuẩn đối với một số quyết định khác của Cơ quan điều tra như lệnh khám xét,… + Yêu cầu Thủ trưởng Cơ quan điều tra thay đổi Điều tra viên theo quy định của pháp luật, nếu hành vi của Điều tra viên có dấu hiệu tội phạm thì khởi tố về hình sự. Khi phát hiện thấy Điều tra viên được phân công giải quyết vụ án thuộc một trong các trường hợp bị thay đổi hoặc phải từ chối tiến hành tố tụng, Kiểm sát viên có quyền đề nghị Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp mình xem xét để yêu cầu Thủ trưởng Cơ quan điều tra thay đổi Điều tra viên. + Hủy bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của Cơ quan điều tra. Viện kiểm sát có quyền hủy bỏ các quyết định của Cơ quan điều tra trong quá trình điều tra vụ án, nếu các quyết định đó được ban hành mà không có căn cứ pháp lý, không đúng trình tự, thủ tục, hình thức, thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Viện kiểm sát có quyền yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị can khi bị can bỏ trốn mà không biết rõ bị can đang ở đâu.
  • 26. 19 + Quyết định truy tố bị can ra Tòa án để thực hiện việc xét xử; quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án theo quy định của pháp luật. Nhiệm vụ, quyền hạn này được Viện kiểm sát nhân dân thực hiện trong giai đoạn truy tố, cụ thể là: Nếu xác định có đủ căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự người đã thực hiện hành vi phạm tội thì Viện kiểm sát nhân dân ra quyết định truy tố bị can, đồng thời chuyển toàn bộ hồ sơ vụ án cùng quyết định truy tố sang Tòa án để thực hiện việc xét xử. Nếu phát hiện thấy còn thiếu những chứng cứ quan trọng mà Viện kiểm sát nhân dân không tự mình bổ sung được, hoặc có căn cứ để khởi tố bị can về một tội phạm khác hoặc có người đồng phạm khác, hoặc có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng thì Viện kiểm sát nhân dân có quyền trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra để điều tra bổ sung. Nếu có một trong những căn cứ quy định tại Khoản 1, Điều 169 BLTTHS thì Viện kiểm sát nhân dân ra quyết định đình chỉ vụ án. Nếu có một trong những căn cứ quy định tại Khoản 2, Điều 169 BLTTHS thì Viện kiểm sát nhân dân ra quyết định tạm đình chỉ vụ án. Cơ quan điều tra cũng có quyền đình chỉ, tạm đình chỉ điều tra nhưng các quyết định này đều phải gửi cho Viện kiểm sát nhân dân để kiểm sát. Qua kiểm sát, nếu Viện kiểm sát phát hiện việc đình chỉ hoặc tạm đình chỉ đó không có căn cứ và trái pháp luật thì Viện kiểm sát có quyền yêu cầu Cơ quan điều tra hủy bỏ để phục hồi điều tra hoặc ra quyết định hủy bỏ và yêu cầu Cơ quan điều tra phục hồi điều tra. Nội dung thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra, truy tố còn thể hiện qua các quy định pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát và Kiểm sát viên (Điều 36, 37 BLTTHS năm 2003).
  • 27. 20 * Nội dung thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử: + Đọc cáo trạng và trình bày ý kiến bổ sung, nếu có; quyết định của Viện kiểm sát nhân dân liên quan đến việc giải quyết vụ án tại phiên tòa. + Tham gia xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm. + Thực hiện luận tội đối với bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm, phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án tại phiên tòa phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. + Tranh luận với bị cáo, với người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm. + Yêu cầu Tòa án cùng cấp và cấp dưới chuyển hồ sơ những vụ án hình sự để xem xét, quyết định việc kháng nghị. + Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án, quyết định của Tòa án theo quy định của pháp luật. + Kiến nghị với Tòa án yêu cầu khắc phục các vi phạm pháp luật trong quá trình xét xử; nếu thấy có dấu hiệu của tội phạm thì khởi tố về hình sự. + Tạm đình chỉ thi hành án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. + Cấp, thu hồi giấy chứng nhận người bào chữa, ra quyết định và tiến hành các hoạt động tố tụng khác theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. + Khởi tố về hình sự khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm và người phạm tội trong quá trình kiểm sát xét xử các vụ án hình sự. 1.2. Thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát trong hoạt động điều tra 1.2.1. Nhiệm vụ và đặc điểm cơ bản của hoạt động điều tra 1.2.1.1. Nhiệm vụ cơ bản của hoạt động điều tra Hoạt động điều tra bắt đầu từ khi xảy ra sự kiện, vụ việc có tính hình sự và kết thúc khi Cơ quan điều tra hoàn thành việc điều tra, kết luận điều tra đề nghị Viện kiểm sát truy tố hoặc vụ án bị đình chỉ. Hoạt động điều tra có thể
  • 28. 21 chấm dứt khi có căn cứ chấm dứt thực hành quyền công tố hoặc có thể tiếp tục trong những trường hợp Viện kiểm sát hoặc Tòa án trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung, điều tra lại. Hoạt động điều tra có nhiệm vụ thu thập chứng cứ làm rõ sự thật khách quan của vụ án, kể cả chứng cứ buộc tội, chứng cứ gỡ tội. Kết quả xác minh tố giác, tin báo về tội phạm, tiến hành các hoạt động điều tra ban đầu là cơ sở để Viện kiểm sát thực hành quyền công tố, quyết định việc khởi tố vụ án, khởi tố vụ can; quyết định hạn chế quyền công dân đối với người phạm tội, thay đổi giai đoạn tố tụng hoặc chấm dứt hoạt động tố tụng. Tác động của kết quả điều tra đến hoạt động công tố không chỉ giới hạn ở số lượng, chất lượng chứng cứ mà còn là nhận định, đánh giá tội phạm, áp dụng pháp luật của Cơ quan điều tra. Những sai lầm, thiếu sót trong hoạt động điều tra sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến việc giải quyết vụ án hình sự có thể dẫn đến truy tố, xử oan người vô tội, bỏ lọt tội phạm. 1.2.1.2. Đặc điểm cơ bản của hoạt động điều tra Hoạt động điều tra được tiến hành công khai theo trình tự, thủ tục, thẩm quyền do pháp luật quy định. Khi tiến hành các biện pháp điều tra phải có mặt của những người mà luật định và họ phải ký vào biên bản hoạt động điều tra (như khám nghiệm hiện trường, hỏi cung bị can, lấy lời khai của người làm chứng, người bị hại…). Tính công khai của hoạt động điều tra thể hiện ở biện pháp và các thủ tục tố tụng được tiến hành, còn nội dung, kết quả điều tra thì phải bí mật. Việc giữ bí mật điều tra là yêu cầu nghiệp vụ, một nguyên tắc được luật định có ý nghĩa quyết định sự thành công hay thất bại của cuộc điều tra, làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án. Tính công khai của hoạt động điều tra là tiêu chí cơ bản nhất để phân biệt với hoạt động trinh sát được tổ chức và tiến hành dưới hình thức bí mật về cả nội dung, phương pháp để thu
  • 29. 22 thập tin tức về hoạt động của tội phạm, theo dõi và truy bắt các đối tượng phạm tội lẩn trốn, nhằm phòng ngừa tội phạm. Theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự nước ta, hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra chịu sự chế ước và kiểm sát chặt chẽ của Cơ quan Viện kiểm sát. Điều này được thể hiện thông qua việc luật quy định các nhiệm vụ, quyền hạn cho Viện kiểm sát để bảo đảm việc truy cứu trách nhiệm hình sự có căn cứ và hợp pháp (xét phê chuẩn các quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, yêu cầu điều tra; quyết định áp dụng, thay đổi các biện pháp ngăn chặn, hủy bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của Cơ quan điều tra …). Tùy theo đặc điểm của vụ án hình sự mà Cơ quan điều tra áp dụng các biện pháp điều tra cho phù hợp, nhưng các vụ án đều trải qua những thủ tục chung như khởi tố vụ án, khởi tố bị can, lập hồ sơ vụ án hình sự, đề nghị truy tố người phạm tội hoặc đình chỉ điều tra theo quy định của pháp luật. Phạm vi điều tra các tình tiết thực tế của vụ án rộng hơn phạm vi những vẫn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự do luật định. Để xác định được một tình tiết quy định tại Điều 63 của BLTTHS thì Cơ quan điều tra phải làm rõ được những tài liệu, chứng cứ liên quan. Chẳng hạn, để xác minh ai là người thực hiện hành vi phạm tội, trước tiên phải chứng minh người đó có mặt tại hiện trường vào thời điểm xảy ra vụ án (thông qua các dấu vết, vật chứng, lời khai của người bị hại, lời khai người làm chứng…). Hoạt động điều tra vụ án hình sự có thể phải áp dụng các biện pháp ngăn chặn như bắt, tạm giữ, tạm giam và áp dụng các biện pháp cưỡng chế như khám xét chỗ ở, khám xét nơi làm việc, khám xét thân thể; do đó, nếu không thực hiện nghiêm ngặt theo quy định của pháp luật, có thể dẫn đến xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân.
  • 30. 23 1.2.2. Phạm vi, nội dung và đặc điểm của thực hành quyền công tố trong hoạt động điều tra 1.2.2.1. Phạm vi thực hành quyền công tố trong hoạt động điều tra Đối tượng tác động của quyền công tố là tội phạm và người phạm tội đã đặt ra yêu cầu khi có sự kiện phạm tội xảy ra thì phải thực hành quyền công tố, khởi tố vụ án, mở cuộc điều tra để truy cứu trách nhiệm hình sự. Trong trường hợp không có tội phạm thì quyền công tố bị triệt tiêu, theo đó chấm dứt mọi hoạt động tố tụng. Thực hành quyền công tố trong hoạt động điều tra là hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, không làm oan người vô tội, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, bảo vệ và duy trì trật tự pháp luật, sự ổn định xã hội. Thực hành quyền công tố gắn liền với việc tiến hành các hoạt động điều tra, tức là bất cứ khi nào và ở đâu, Cơ quan điều tra tiến hành điều tra (như khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, khám xét, lấy lời khai người làm chứng, hỏi cung bị can...) thì khi đó Viện kiểm sát có trách nhiệm thực hành quyền công tố. Điều kiện chấm dứt thực hành quyền công tố trong hoạt động điều tra (khi có một trong những căn cứ quy định tại Điều 107 của BLTTHS): + Không có sự việc phạm tội (khoản 1) thì không được khởi tố vụ án hình sự; nếu đã khởi tố thì phải hủy bỏ quyết định đó và ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự vì không có đối tượng tác động của quyền công tố; + Hành vi không cấu thành tội phạm (khoản 2) là hành vi tuy có dấu hiệu tội phạm nhưng quy mô hành vi hoặc quy mô hậu quả của hành vi không lớn, chưa đủ cấu thành tội phạm theo quy định của Bộ luật hình sự (như trộm cắp, đánh bạc dưới 2 triệu đồng mà không có các yếu tố cấu thành khác); + Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự (khoản 3). Trường hợp này, nếu đã khởi tố bị can thì phải hủy bỏ quyết định khởi tố bị can hoặc đình chỉ điều tra bị can; + Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình
  • 31. 24 chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật (khoản 4). Vì sự việc đã quyết tụng, do đó luật định đối với những người này không được điều tra, truy tố, xét xử lần 2 cũng về tội đó hoặc dưới một tội danh khác; + Khi đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật hình sự (khoản 5) (Điều 23 của BLHS năm 1999 và Điều 45 của BLHS năm 1985, vì thực tế có những trường hợp truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm nào đó theo Bộ luật hình sự năm 1985 nhưng đến nay mới xử lý do bắt được bị can trốn). Hết thời hạn truy cứu trách nhiệm hình sự thì dù có phát hiện người phạm tội cũng không được khởi tố, điều tra, truy tố đối với họ, trừ trường hợp họ cố tình trốn tránh và đã có lệnh truy nã; + Khi tội phạm được đặc xá, thì chấm dứt thực hành quyền công tố đối với những người thực hiện tội phạm đã được đặc xá (khoản 6); + Khi người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường hợp tái thẩm đối với người khác (khoản 7). Trong trường hợp này không được khởi tố vụ án và ra quyết định không khởi tố vụ án với lý do người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết; nếu đã khởi tố, điều tra thì phải đình chỉ vụ án do bị can đã chết. Ngoài ra, theo quy định tại Điều 7 của Bộ luật hình sự, thực hành quyền công tố trong hoạt động điều tra chấm dứt khi có một trong những căn cứ như sau: + Khi có hiệu lực của Bộ luật hình sự về thời gian, có điều luật quy định một tội phạm mới không áp dụng đối với hành vi phạm tội đã được thực hiện trước khi điều luật đó được ban hành, trừ trường hợp luật có quy định khác. + Khi Bộ luật hình sự có điều luật xóa bỏ một tội phạm. Tức là hành vi đó không bị coi là tội phạm trong Bộ luật hình sự. Như vậy, phạm vi thực hành quyền công tố trong hoạt động điều tra bắt đầu từ khi có sự kiện phạm tội xảy ra, khởi tố vụ án đến khi chấm dứt hoặc
  • 32. 25 thay đổi giai đoạn tố tụng (hủy bỏ quyết định khởi tố vụ án, kết thúc điều tra, Cơ quan điều tra đề nghị truy tố bị can hoặc vụ án bị đình chỉ hoặc Viện kiểm sát truy tố bị can ra tòa). Nhận thức về phạm vi bắt đầu và kết thúc thực hành quyền công tố trong hoạt động điều tra như vậy là phù hợp với quy định pháp luật hiện hành và tinh thần Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới, trong đó nhấn mạnh trách nhiệm công tố: Hoạt động công tố phải được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình tố tụng nhằm bảo đảm không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội, xử lý kịp thời những trường hợp sai phạm của những người tiến hành tố tụng khi thi hành nhiệm vụ…. [12]. 1.2.2.2. Nội dung thực hành quyền công tố trong hoạt động điều tra Thực hành quyền công tố trong hoạt động điều tra nhằm truy cứu trách nhiệm hình sự có căn cứ và hợp pháp, bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được phát hiện, xử lý theo pháp luật, không để lọt người, lọt tội, không làm oan người vô tội. Để đạt được mục đích, yêu cầu đó, pháp luật hiện hành quy định cho Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố trong hoạt động điều tra có quyền năng pháp lý là xét phê chuẩn các quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trực tiếp ra các quyết định tố tụng trong việc: Khởi tố vụ án, khởi tố bị can; Áp dụng các biện pháp cưỡng chế (bắt, tạm giữ, tạm giam; truy nã bị can, khám xét); Yêu cầu điều tra để thu thập chứng cứ buộc tội, gỡ tội một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ theo đúng trình tự, thủ tục pháp luật; Huỷ bỏ các quyết định tố tụng không có căn cứ và trái pháp luật của Cơ quan điều tra; Quyết định việc đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án; quyết định việc truy tố bị can.
  • 33. 26 Cơ quan điều tra có quyền áp dụng các thủ tục tố tụng, ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can…, nhưng việc ra các quyết định tố tụng đó không có nghĩa Cơ quan điều tra cũng thực hành quyền công tố, mà trách nhiệm theo luật định thì thực hành quyền công tố thuộc chức năng của VKS với tư cách cơ quan quyết định cuối cùng việc khởi tố hay không khởi tố vụ án, khởi tố bị can (xét phê chuẩn, hủy bỏ quyết định khởi tố không có căn cứ và trái pháp luật của Cơ quan điều tra). Khi Viện kiểm sát không chấp nhận việc khởi tố thì yêu cầu Cơ quan điều tra hủy bỏ và ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự; nếu đã khởi tố, điều tra mà xác định không có tội phạm hoặc không có căn cứ truy cứu trách nhiệm đối với bị can thì vụ án phải đình chỉ và chấm dứt mọi hoạt động tố tụng. Thực hiện đúng, đầy đủ các quyền năng pháp lý trên đây là bảo đảm quan trọng để nâng cao trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra. 1.2.2.3. Đặc điểm thực hành quyền công tố trong hoạt động điều tra Thực hành quyền công tố trong hoạt động điều tra có những đặc điểm cơ bản sau: - Trong khi hoạt động điều tra có nhiệm vụ chứng minh toàn bộ sự việc phạm tội một cách khách quan, toàn diện, cả chứng cứ buộc tội và chứng cứ gỡ tội, thì các hoạt động công tố nhằm thực thi quyền truy cứu trách nhiệm hình sự, quyết định việc buộc tội, việc gỡ tội; quyết định việc hạn chế các quyền công dân như bắt, tạm giữ, tạm giam và các biện pháp ngăn chặn khác; quyết định việc truy tố hoặc đình chỉ vụ án theo quy định của pháp luật. - Thực hành quyền công tố bao gồm hành vi và các quyết định tố tụng mang tính công khai theo trình tự, thủ tục, thẩm quyền tố tụng do pháp luật quy định. Các quyết định công tố thể hiện dưới dạng văn bản của người có thẩm quyền như quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can; quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn quyết định khởi tố bị can. Các quyết định tố
  • 34. 27 tụng của Viện kiểm sát đều được gửi cho những người có liên quan theo quy định của pháp luật. - Các hoạt động công tố là nhân danh quyền buộc tội nhà nước, chịu sự lãnh đạo tập trung của Viện trưởng Viện kiểm sát mỗi cấp và chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Viện kiểm sát cấp trên có quyền rút, hủy bỏ các quyết định công tố không có căn cứ và trái pháp luật của Viện kiểm sát cấp dưới và yêu cầu ra quyết định đúng pháp luật. Điều này khác với tổ chức hoạt động điều tra, Cơ quan điều tra cấp trên không có quyền rút, hủy bỏ các quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra cấp dưới. - Thực hành quyền công tố có đặc điểm khác với hoạt động kiểm sát điều tra. Tuy cùng một chủ thể tiến hành là Viện kiểm sát nhưng thực hành quyền công tố nhằm vào việc buộc tội, gỡ tội; yêu cầu bắt, giam giữ và áp dụng các biện pháp cưỡng chế khác đối với người phạm tội, còn hoạt động kiểm sát điều tra hướng đến sự tuân thủ pháp luật trong hoạt động điều tra; nếu phát hiện có hành vi vi phạm pháp luật, Viện kiểm sát có quyền kiến nghị, yêu cầu các chủ thể chấm dứt vi phạm, khôi phục lại trật tự pháp luật bị vi phạm. - Mục đích của hoạt động thực hành quyền công tố tuy vẫn phải thực hiện việc xem xét, đánh giá nhằm gỡ tội đối với người phạm tội nhưng thực hiện quyền buộc tội Nhà nước vẫn là chủ yếu. Trong khi đó bào chữa là hoạt động xã hội để thực hiện quyền bào chữa (mục đích gỡ tội) của công dân theo quy định của pháp luật. 1.2.3. Mối quan hệ giữa thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra Theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, từ năm 1960 đến nay, Viện kiểm sát có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra nhằm bảo đảm cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự có căn cứ và hợp pháp, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội.
  • 35. 28 Cùng với thực hành quyền công tố, hoạt động kiểm sát điều tra cũng được thực hiện từ khi tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm; kiểm sát việc khởi tố, trong suốt quá trình điều tra cho đến khi kết thúc điều tra đề nghị truy tố người phạm tội hoặc vụ án bị đình chỉ. Hoạt động kiểm sát điều tra vẫn tiếp tục khi Viện kiểm sát hoặc Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung. Khi thực hiện kiểm sát điều tra, Viện kiểm sát có quyền kiến nghị, kháng nghị, yêu cầu Cơ quan điều tra, Điều tra viên chấm dứt vi phạm, khôi phục trật tự pháp luật bị vi phạm. Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, không thể tách rời. Kiểm sát điều tra nhằm bảo đảm cho các hoạt động điều tra phải tuân theo các nguyên tắc, trình tự, thủ tục, thẩm quyền điều tra theo quy định; là căn cứ pháp lý để Viện kiểm sát thực hiện tốt quyền công tố trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự, chống oan, chống lọt và vi phạm pháp luật. Ngược lại, thực hiện đúng đắn, kịp thời quyền công tố sẽ khẳng định vị thế, thẩm quyền và trách nhiệm của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra tội phạm; tạo tiền đề quan trọng để thúc đẩy hoạt động kiểm sát điều tra bảo đảm quá trình điều tra tuân thủ đúng pháp luật, việc điều tra phải khách quan, toàn diện và đầy đủ, chính xác, đúng pháp luật; những vi phạm pháp luật trong quá trình điều tra phải được phát hiện, khắc phục kịp thời và xử lý nghiêm minh. 1.3. Chủ trƣơng của Đảng, Nhà nƣớc về tăng cƣờng trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra; pháp luật về thực quyền công tố trong hoạt động điều tra của Viện kiểm sát nhân 1.3.1. Chủ trương của Đảng, Nhà nước về tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra Đảng và Nhà nước rất quan tâm đến trách nhiệm công tố trong tố tụng hình sự, nhất là trong hoạt động điều tra nhằm kịp thời phát hiện, xử lý, giáo
  • 36. 29 dục người phạm tội, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không được làm oan người vô tội. Ngay từ khi thành lập ngành, các đồng chí Lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước đã có những chỉ đạo, kết luận rất quan trọng về trách nhiệm của Viện kiểm sát trong thực hành quyền công tố đấu tranh phòng, chống tội phạm và bảo vệ quyền tự do, dân chủ của công dân. Phát biểu của đồng chí Lê Duẩn - Bí thư thứ nhất Ban chấp hành Trung ương Đảng tại Hội nghị tổng kết công tác Kiểm sát toàn quốc năm 1967: Ngành Kiểm sát là một trong những công cụ của Nhà nước dân chủ nhân dân, có nhiệm vụ thường xuyên kiểm tra việc tuân thủ pháp luật, làm cho pháp luật được chấp hành một cách nghiêm chỉnh và thống nhất, góp phần bảo đảm quyền dân chủ của nhân dân, tăng cường chuyên chính đối với bọn phản cách mạng, tăng cường kỷ luật xã hội trong quần chúng nhân dân. Nói đến kiểm tra việc tuân theo pháp luật, cần chú trọng trước hết kiểm tra việc tuân theo pháp luật của các cơ quan Nhà nước, bởi vì sự vi phạm của một số công dân nào đó đối với pháp luật có lẽ không tai hại bằng những sự lạm quyền của các cơ quan chính quyền, các cơ quan quản lý kinh tế, văn hóa và của những người có trách nhiệm thi hành pháp luật. Nếu những người này làm sai pháp luật thì chẳng những vi phạm các quyền tự do dân chủ của nhân dân, mà còn làm trái chủ trương, chính sách là sinh mạng của Đảng, là linh hồn của pháp luật Nhà nước; điều đó sẽ đánh vào nguồn gốc sức mạnh của chế độ ta là sự tín nhiệm và ủng hộ của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước. Vì vậy, trước hết phải bảo đảm sự tôn trọng pháp luật một cách nghiêm chỉnh và đầy đủ của các cơ quan Nhà nước, của những người thay mặt nhân dân nắm quyền hành chính và công việc quản lý kinh tế, văn hóa, xã hội.
  • 37. 30 Để đảm bảo cho pháp luật được thi hành nghiêm chỉnh trong nhân dân, ngành Kiểm sát cần kiểm tra các vụ bắt giam và xét xử một cách sáng suốt, thận trọng. Đối với những hành vi phạm pháp của một số công dân, cần có biện pháp xử lý thích đáng, kiên quyết không xử oan một người ngay, nhưng cũng không để lọt một kẻ có tội….[41, tr.21-22] Kết luận của đồng chí Trường Chinh Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội về công tác của ngành Kiểm sát năm 1967: Ngành Kiểm sát trong tình hình mới đã nâng cao ý thức trách nhiệm và nhiệt tình công tác và hướng toàn bộ công tác kiểm sát vào việc bảo vệ và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa nhằm tăng cường chuyên chính, bảo đảm dân chủ với nhân dân, phục vụ tốt các công tác trung tâm của Đảng và Nhà nước.... ngành Kiểm sát đã có nhiều cố gắng và tiến bộ mới trong việc đẩy mạnh công tác công tố. Do sử dụng tốt quyền công tố, có Viện kiểm sát đã kiên quyết không phê chuẩn bắt giam những trường hợp không đáng bắt giam, đã đề nghị ngành công an đi sâu hơn nữa vào một số vụ án phản cách mạng; đã minh oan cho một số người bị truy tố và xét xử oan về tội giết người. Trong công tác công tố, ngành Kiểm sát đã chú trọng kết hợp chặt chẽ hai mặt trừng trị và tích cực phòng ngừa... Không có cơ quan Nhà nước nào thay thế ngành Kiểm sát để sử dụng quyền công tố. Bắt giam, điều tra, tha, truy tố, xét xử có đúng người, đúng tội, đúng pháp luật hay không, có đúng đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước hay không, điều đó chính là Viện kiểm sát phải trông nom, bảo đảm làm tốt [41, tr.25]. Chỉ thị 53-CT/TW ngày 21/3/2000 của Bộ Chính trị nêu rõ: “Tăng cường trách nhiệm pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân đối với công tác bắt,
  • 38. 31 giam, giữ… sai sót trong công tác bắt giam giữ ở địa phương nào thì trước hết Viện kiểm sát nhân dân ở địa phương đó phải chịu trách nhiệm” [9]. Để hạn chế tình trạng bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội; khắc phục những vi phạm quyền tư do, dân chủ của công dân, nhằm tạo ra những chuyển biến mạnh mẽ trong công tác tư pháp, Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới đã nhấn mạnh đến trách nhiệm của VKS trong thực hiện tốt quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Nghị quyết nêu rõ: Viện kiểm sát các cấp thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp. Hoạt động công tố phải được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình tố tụng, nhằm bảo đảm không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội, xử lý kịp thời những trường hợp sai phạm của những người tiến hành tố tụng khi thi hành nhiệm vụ…[12]. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 chỉ rõ: “Tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra” [14]; đến Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI của Đảng tiếp tục khẳng định cần: “tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra” “gắn công tố với hoạt động điều tra” [17]. Đây là những kết luận mang tính chất định hướng hết sức quan trọng về trách nhiệm của VKS trong thực hành quyền công tố đấu tranh phòng, chống tội phạm ở giai đoạn điều tra. Như vậy, tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra là chủ trương nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta suốt hơn 50 năm qua. Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, công nghệ thông tin, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, tình hình tội phạm tiếp tục diễn biến phức tạp, tính chất, thủ đoạn phạm tội ngày càng tinh vi, xảo quyệt, tiềm ẩn nguy
  • 39. 32 cơ gây bất ổn định chính trị, trật tự xã hội, Đảng và Nhà nước đã đưa ra nhiều chủ trương, biện pháp đẩy mạnh cải cách tư pháp, trong đó nhấn mạnh đến yêu cầu tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra để ngăn ngừa tình trạng bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không để xảy ra các trường hợp oan, sai. 1.3.2. Pháp luật về thực hành quyền công tố trong hoạt động điều tra Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra được quy định tại Điều 13 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân và Điều 112 BLTTHS, trong đó Điều 112 của BLTTHS quy định chung về các nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát và cũng là trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gồm: 1) Khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can; yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can theo quy định của Bộ luật này; 2) Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra tiến hành điều tra; khi xét thấy cần thiết, trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định của Bộ luật này; 3) Yêu cầu Thủ trưởng Cơ quan điều tra thay đổi Điều tra viên theo quy định của Bộ luật này; nếu hành vi của Điều tra viên có dấu hiệu tội phạm thì khởi tố về hình sự; 4) Quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam và các biện pháp ngăn chặn khác; quyết định phê chuẩn, quyết định không phê chuẩn các quyết định của Cơ quan điều tra theo quy định của Bộ luật này. Trong trường hợp không phê chuẩn thì trong quyết định không phê chuẩn phải nêu rõ lý do; 5) Huỷ bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của Cơ quan điều tra; yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị can; 6) Quyết định việc truy tố bị can; quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án [33].
  • 40. 33 1.3.2.1. Trách nhiệm công tố trong việc khởi tố vụ án hình sự Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn đầu tiên, mở đầu của quá trình tố tụng hình sự, được thực hiện kể từ khi Cơ quan điều tra tiếp nhận và kiểm tra, xác minh nguồn tin (tố giác, tin báo về tội phạm do cơ quan, tổ chức, công dân cung cấp hoặc tin báo trên các phương tiện thông tin đại chúng…) để ra quyết định khởi tố hoặc ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Trong trường hợp chưa có quyết định khởi tố vụ án thì các biện pháp điều tra chưa được tiến hành, trừ những biện pháp khẩn cấp không thể trì hoãn được như bắt khẩn cấp, tạm giữ, khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, xem xét dấu vết trên thân thể. Không thể đồng nhất giai đoạn khởi tố vụ án với việc ra quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự, đó chỉ là thủ tục, biện pháp tố tụng cụ thể của giai đoạn khởi tố vụ án. Toàn bộ những thủ tục liên quan đến khởi tố vụ án hình sự được quy định từ Điều 100 đến Điều 109 của BLTTHS năm 2003, có những đặc điểm cơ bản sau: - Cơ quan điều tra có trách nhiệm tiếp nhận đầy đủ mọi tố giác, tin báo về tội phạm do cá nhân, cơ quan, tổ chức và kiến nghị khởi tố do cơ quan nhà nước chuyển đến; đồng thời quản lý, xác minh toàn bộ các tố giác, tin báo về tội phạm (nguồn để khởi tố). Cơ quan điều tra có trách nhiệm thông báo cho Viện kiểm sát về kết quả giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và Viện kiểm sát có nhiệm vụ kiểm sát hoạt động này của Cơ quan điều tra nhưng không có quyền xác minh tố giác, tin báo về tội phạm. - Căn cứ để khởi tố vụ án hình sự là có sự kiện phạm tội xảy ra hoặc sự việc có dấu hiệu tội phạm. Việc xác định dấu hiệu tội phạm dựa trên những cơ sở sau: Tố giác của công dân; Tin báo của cơ quan, tổ chức; Tin báo trên các phương tiện thông tin đại chúng; Các cơ quan có thẩm quyền tố tụng trực tiếp
  • 41. 34 phát hiện dấu hiệu của tội phạm; Người phạm tội tự thú. Về thực chất đó mới chỉ là nguồn tin về sự kiện cần điều tra. Để có căn cứ khởi tố hay không khởi tố vụ án hình sự, Cơ quan điều tra phải tiến hành xác minh, làm rõ xem có hay không có hành vi nguy hiểm cho xã hội được coi là tội phạm (theo quy định tại Điều 8 BLHS); nếu có, thì hành vi nguy hiểm cho xã hội đó được quy định điều, khoản nào của Bộ luậ hình sự để khởi tố, điều tra cho phù hợp. - Theo luật định, phần lớn các trường hợp khởi tố các vụ án hình sự do Cơ quan điều tra thực hiện. Viện kiểm sát chủ yếu làm nhiệm vụ kiểm sát việc khởi tố; nếu thấy quyết định khởi tố vụ án hình sự của Cơ quan điều tra, của các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra không có căn cứ thì quyết định hủy bỏ; nếu thấy quyết định không khởi tố vụ án hình sự không có căn cứ, thì hủy bỏ và ra quyết định khởi tố vụ án (Điều 109). Viện kiểm sát chỉ trực tiếp khởi tố trong hai trường hợp: Hủy bỏ quyết định không khởi tố vụ án hình sự của Cơ quan điều tra và của các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; Trong trường hợp Hội đồng xét xử yêu cầu khởi tố vụ án (Điều 104). Trách nhiệm của Viện kiểm sát trong thủ tục khởi tố vụ án hình sự không chỉ ở việc tự mình ra quyết định khởi tố mà chủ yếu là việc Viện kiểm sát phải kiểm tra, thẩm định tính có căn cứ và hợp pháp của các quyết định khởi tố hay không khởi tố vụ án của Cơ quan điều tra và chịu trách nhiệm quyết định cuối cùng về việc này, bảo đảm mọi tội phạm được phát hiện đều phải được khởi tố, điều tra, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Để thực hiện đầy đủ trách nhiệm trong việc khởi tố vụ án hình sự, Viện kiểm sát các cấp phải nắm vững các tố giác, tin báo về tội phạm do cá nhân, cơ quan, tổ chức chuyển đến; đồng thời kiểm sát chặt chẽ việc xác minh, giải quyết của Cơ quan điều tra theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Không nắm đầy đủ và kiểm sát chặt chẽ việc giải quyết của Cơ quan điều tra đối với các tố giác, tin báo về tội phạm, tất yếu Viện kiểm sát sẽ thụ động, phụ thuộc
  • 42. 35 vào Cơ quan điều tra, thiếu cơ sở vững chắc để thực hành quyền công tố ngay từ khi khởi tố vụ án, tiềm ẩn nguy cơ bỏ lọt tội phạm và người phạm tội hoặc làm oan người không phạm tội. Khi phân tích đánh giá sự việc đang điều tra, xác minh, Viện kiểm sát phải nắm vững pháp luật hình sự, bảo đảm việc khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự có căn cứ pháp luật (các dấu hiệu đặc trưng của tội phạm; các yếu tố cấu thành tội phạm). Đối với các tội phạm được quy định tại khoản 1 các Điều 104, 105, 106, 108, 109, 111, 113, 121, 122, 131 và 171 của BLHS, ngoài dấu hiệu tội phạm là căn cứ quyết định khởi tố vụ án hình sự, còn phải có yêu cầu khởi tố của người bị hại. Trong quá trình điều tra, nếu người bị hại rút yêu cầu khởi tố thì đương nhiên không đủ căn cứ tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án, có nghĩa vụ án phải được đình chỉ, trừ trường hợp khác quy định tại Điều 105 của BLTTHS. 1.3.2.2. Trách nhiệm công tố trong việc khởi tố bị can Theo quy định của BLTTHS năm 2003, khi có đủ căn cứ để xác định một người đã thực hiện hành vi phạm tội thì Cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố bị can (Điều 126). Khởi tố bị can là thủ tục tố tụng áp dụng đối với người đã thực hiện hành vi phạm tội để tiến hành điều tra. Toàn bộ những thủ tục liên quan đến khởi tố bị can quy định tại các Điều 126 và Điều 127 của BLTTHS năm 2003, có những đặc điểm cơ bản sau: - Khi có đủ căn cứ để xác định một người đã thực hiện hành vi phạm tội thì Cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố bị can, nghĩa là chứng minh được người đó đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, đủ năng lực pháp lý và năng lực hành vi, thì mới được quyết định khởi tố bị can.
  • 43. 36 - Theo nguyên tắc, khởi tố vụ án hình sự về hành vi phạm tội nào thì khởi tố bị can về hành vi phạm tội đó. Quyết định khởi tố vụ án hình sự phải có trước quyết định khởi tố bị can hoặc có thể đồng thời được ban hành trong trường hợp xác định được ngay người phạm tội (các vụ án đánh bạc, đưa và nhận hối lộ bị bắt quả tang). Sau khi khởi tố bị can, Cơ quan điều tra có quyền áp dụng các biện pháp điều tra theo luật định để làm rõ tính chất, mức độ phạm tội của bị can, tương ứng với điều, khoản của BLHS. - Khi tiến hành điều tra, nếu có căn cứ xác định hành vi phạm tội của bị can không phạm vào tội đã bị khởi tố hoặc còn hành vi phạm tội khác thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can. Đây là quy định cần thiết và hợp lý vì ban đầu có thể chưa đủ căn cứ khẳng định chính xác tội danh. Trong trường hợp hành vi của bị can phạm vào tội khác thì phải ra quyết định thay đổi quyết định khởi tố bị can về tội danh mới để điều tra, bảo đảm cho việc chứng minh tội phạm đúng hướng và bảo đảm quyền bào chữa của người phạm tội. Trường hợp bị can còn có hành vi phạm tội khác thì phải bổ sung quyết định khởi tố bị can để bảo đảm không bỏ lọt hành vi phạm tội. - Khác với việc khởi tố vụ án, trong thủ tục khởi tố bị can trách nhiệm của VKS thể hiện trên ba phương diện sau: Xét phê chuẩn quyết định khởi tố bị can; Yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố bị can; Trực tiếp khởi tố bị can (sau khi nhận hồ sơ và kết luận điều tra mà phát hiện thấy có người khác đã thực hiện hành vi phạm tội trong vụ án chưa bị khởi tố thì Viện kiểm sát ra quyết định khởi tố bị can - khoản 6 Điều 126 và Điều 113 của BLTTHS). Quyết định khởi tố bị can liên quan đến quyền công dân, đòi hỏi khi phê chuẩn quyết định khởi tố bị can phải có đủ căn cứ và đúng pháp luật (được thể hiện trong các tài liệu, chứng cứ của hồ sơ vụ án về hành vi phạm tội, tuổi và năng lực chịu trách
  • 44. 37 nhiệm hình sự của người bị khởi tố). Nếu không đủ căn cứ thì kiên quyết không phê chuẩn, yêu cầu Cơ quan điều tra bổ sung tài liệu, chứng cứ. Chỉ như vậy mới nâng cao trách nhiệm công tố ngay từ đầu, ngăn ngừa xảy ra oan, sai. - Thời hạn xét phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, luật quy định là ba ngày: “Trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được quyết định khởi tố bị can, Viện kiểm sát phải quyết định phê chuẩn hoặc quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố bị can và gửi ngay cho Cơ quan điều tra” [33]. Cần hiểu rằng, không phải đến khi nhận được hồ sơ xét phê chuẩn, Viện kiểm sát mới tiếp cận với các tài liệu về vụ án, về bị can mà trước đó, Viện kiểm sát đã kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiểm sát các hoạt động điều tra ban đầu (khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, khám xét khẩn cấp; lấy lời khai người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp), kiểm sát việc khởi tố vụ án hình sự, kiểm sát các việc bắt, tạm giữ của Cơ quan điều tra. Đối với những vụ án phức tạp về chứng cứ, về tính chất vụ việc (quan hệ hình sự hay dân sự, kinh tế), vụ án có đông bị can để bảo đảm thời gian xét phê chuẩn đòi hỏi Viện kiểm sát phải tăng cường trách nhiệm công tố ngay từ đầu, bố trí đủ Kiểm sát viên cần thiết. 1.3.2.3. Trách nhiệm công tố trong việc đề ra yêu cầu điều tra; trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định của pháp luật * Đề ra yêu cầu điều tra Yêu cầu điều tra của Viện kiểm sát là một nội dung quan trọng của thực hành quyền công tố, nhằm bảo đảm việc điều tra được khách quan, toàn diện và đầy đủ, tạo cơ sở vững chắc để Viện kiểm sát xét phê chuẩn, ra các quyết định tố tụng thuộc thẩm quyền có căn cứ và hợp pháp. Nội dung yêu cầu điều tra có thể là định hướng điều tra, thu thập, củng cố chứng cứ để làm rõ sự thật của vụ án, làm rõ hành vi phạm tội của bị can, mở rộng điều tra vụ án nhằm chống bỏ lọt tội phạm và người phạm tội. Hình thức yêu cầu điều tra có thể trao đổi trực tiếp hoặc bằng văn bản,
  • 45. 38 được thực hiện ngay từ khi Cơ quan điều tra tiến hành các biện pháp điều tra công khai theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, trong suốt quá trình kiểm sát điều tra, trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Người ra yêu cầu điều tra có thể là Kiểm sát viên hoặc Lãnh đạo Viện kiểm sát (Viện trưởng, Phó Viện trưởng). Kiểm sát viên chủ động trao đổi với Điều tra viên về những vấn đề cần điều tra ngay từ khi kiểm sát việc khởi tố vụ án, khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, trong quá trình điều tra. Yêu cầu điều tra bằng văn bản được thực hiện trong trường hợp Viện kiểm sát đó trao đổi nhiều lần nhưng không được Cơ quan điều tra thực hiện hoặc trong trường hợp Viện kiểm sát trả hồ sơ điều tra bổ sung. Yêu cầu điều tra bằng văn bản phải do Lãnh đạo đơn vị kiểm sát xem xét, quyết định trên cơ sở báo cáo đề xuất của Kiểm sát viên. Cơ quan điều tra, Điều tra viên có trách nhiệm thực hiện các yêu cầu điều tra của Viện kiểm sát, của Kiểm sát viên; nếu không thực hiện thì trong yêu cầu điều tra tiếp theo cần nêu rõ những tài liệu chứng cứ trong hồ sơ vụ án để lý giải về căn cứ, luận điểm vì sao phải điều tra, kết luận để Điều tra viên phải tiến hành điều tra. Nếu Cơ quan điều tra không thực hiện những yêu cầu điều tra thì Viện kiểm sát yêu cầu Cơ quan điều tra nêu rõ lý do trong bản kết luận điều tra. * Viện kiểm sát trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra khi cần thiết Tiến hành một số hoạt động điều tra khác về bản chất thẩm quyền và thủ tục tố tụng điều tra toàn bộ vụ án. Theo quy định của BLTTHS, Viện kiểm sát có thể tiến hành một số hoạt động điều tra khi cần thiết trong những vụ án mà Cơ quan điều tra đang điều tra. Thực chất của tiến hành một số hoạt động điều tra như hỏi người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, hỏi cung bị can, lấy lời khai người làm chứng, lời khai người bị hại, đối chất không phải là để chứng minh tội phạm mà là để kiểm tra, xác minh và củng cố tài liệu, chứng cứ của hồ sơ vụ án xem có đủ hay không đủ cơ sở tin cậy cho việc ra
  • 46. 39 các quyết định tố tụng thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát (như phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp, phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, ra quyết định truy tố…). Do đó, khi tiến hành một số hoạt động điều tra mà phát hiện có tội phạm mới, người phạm tội chưa được khởi tố, thì Viện kiểm sát phải yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố và điều tra (khi hỏi cung bị can khai thêm đồng phạm chưa được khởi tố). Viện kiểm sát có thể tiến hành một số hoạt động điều tra bất kỳ thời điểm nào của giai đoạn điều tra hoặc sau khi nghiên cứu hồ sơ do Cơ quan điều tra chuyển sang đề nghị truy tố; cụ thể thường được thực hiện trong các trường hợp sau: + Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng; qua nghiên cứu, kiểm tra tài liệu, chứng cứ sau khi kết thúc điều tra thấy còn thiếu căn cứ để ra các quyết định tố tụng thuộc thẩm quyền. + Khi xét phê chuẩn các quyết định của Cơ quan điều tra, như phê chuẩn việc bắt khẩn cấp, phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, phê chuẩn quyết định gia hạn tạm giữ, phê chuẩn lệnh tạm giam… + Khi có đề nghị của Cơ quan điều tra hoặc qua kiểm sát việc hỏi cung bị can thấy có dấu hiệu oan, những người tham gia tố tụng khiếu nại về việc điều tra không khách quan; + Có căn cứ để nghi ngờ về tính xác thực trong lời khai bị can, người bị hại, người làm chứng hoặc có sự mâu thuẫn giữa các lời khai đó, cần thiết phải đối chất (giữa các bị can, giữa bị can với bị hại, giữa các người làm chứng về cùng một tình tiết quan trọng của vụ án); + Sau khi kết thúc điều tra, thấy có mâu thuẫn giữa các lời khai với thực tế khách quan, cần thiết phải thực nghiệm điều tra hoặc thực nghiệm điều tra lại đối với những hành vi, tình huống đơn giản mà qua thực nghiệm tại chỗ, có thể kết luận được để kiểm tra chứng cứ. Trường hợp phức tạp thì phải