SlideShare a Scribd company logo
1 of 100
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
DƢƠNG THỊ THU HÕA
Thùc hµnh quyÒn c«ng tè vµ kiÓm s¸t ®iÒu tra
®èi víi c¸c téi x©m ph¹m së h÷u cã tÝnh chÊt chiÕm ®o¹t
(trªn c¬ së nghiªn cøu thùc tiÔn ®Þa bµn quËn CÇu GiÊy, thµnh phè Hµ Néi)
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
DƢƠNG THỊ THU HÕA
Thùc hµnh quyÒn c«ng tè vµ kiÓm s¸t ®iÒu tra
®èi víi c¸c téi x©m ph¹m së h÷u cã tÝnh chÊt chiÕm ®o¹t
(trªn c¬ së nghiªn cøu thùc tiÔn ®Þa bµn quËn CÇu GiÊy, thµnh phè Hµ Néi)
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: GS.TS. ĐƢỜNG MINH GIỚI
HÀ NỘI - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Dƣơng Thị Thu Hòa
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng phụ lục
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỰC HÀNH QUYỀN
CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA CÁC TỘI XÂM
PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT ...................... 7
1.1. Nhận thức chung về điều tra các tội xâm phạm sở hữu có tính
chất chiếm đoạt................................................................................... 7
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm pháp lý các tội xâm phạm sở hữu có tính
chất chiếm đoạt..................................................................................... 7
1.1.2. Điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt .......... 12
1.2. Khái quát về thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra
các vụ án xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt................... 20
1.2.1. Khái niệm thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ
án hình sự ........................................................................................... 20
1.2.2. Nội dung thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các tội
xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt......................................... 26
1.2.3. Đặc điểm công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra
các vụ án xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt......................... 39
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ
KIỂM SÁT ĐIỀU TRA ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM
SỞ HỮU CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT TRÊN ĐỊA BÀN
QUẬN CẦU GIẤY........................................................................... 43
2.1. Tình hình tội phạm xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm
đoạt trên địa bàn quận Cầu Giấy từ năm 2010 đến năm 2014.... 43
2.1.1. Vài nét về tình hình, đặc điểm quận Cầu Giấy .................................. 43
2.1.2. Tình hình tội phạm xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt
trên địa bàn quận Cầu Giấy từ năm 2010 đến năm 2014................... 44
2.2. Thực trạng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra của
Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy đối với các tội xâm
phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt............................................. 45
2.2.1. Bộ máy tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy liên
quan đến thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án
xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt......................................... 45
2.2.2. Thực trạng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra đối với
các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt ............................. 46
Chƣơng 3: DỰ BÁO TÌNH HÌNH VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU
QUẢ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIẾM SÁT ĐIỀU
TRA ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH
CHẤT CHIẾM ĐOẠT TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN CẦU GIẤY..... 57
3.1. Dự báo các tình hình có liên quan đến hoạt động thực hành
quyền công tố và kiểm sát điều tra các tội xâm phạm sở hữu
có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn quận Cầu Giấy, thành
phố Hà Nội ........................................................................................ 57
3.1.1. Xu hướng của tội phạm xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm
đoạt trên địa bàn quận Cầu Giấy trong thời gian tới.......................... 57
3.1.2. Những yếu tố khác tác động đến hoạt động thực hành quyền công
tố và kiểm sát điều tra các tội xâm phạm sở hữu có tính chất
chiếm đoạt trên địa bàn quận Cầu Giấy trong thời gian tới............... 58
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hành quyền công tố và
kiểm sát điều tra các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm
đoạt trên địa bàn quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội................... 61
3.2.1. Hoàn thiện cơ sở pháp lý cho hoạt động thực hành quyền công tố
và kiểm sát các hoạt động tư pháp ..................................................... 61
3.2.2. Cần sớm kiện toàn tổ chức Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện và
hoàn thiện đội ngũ Kiểm sát viên, Kiểm tra viên theo Luật tổ
chức Viện kiểm sát nhân dân 2014 .................................................... 67
3.2.3. Đổi mới công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành, phân định trách
nhiệm trong công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra..... 70
3.2.4. Tăng cường mối quan hệ phối hợp trên cơ sở pháp luật tố tụng
hình sự giữa Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy với cơ quan
điều tra và các cơ quan, tổ chức hữu quan khác trong thực hành
quyền công tố và kiểm sát điều tra các tội xâm phạm sở hữu có
tính chất chiếm đoạt ........................................................................... 72
3.2.5. Quan tâm đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện làm việc cho Viện
kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy nói chung và đội ngũ cán bộ
Kiểm sát viên thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra............. 73
KẾT LUẬN.................................................................................................... 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................... 76
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CQĐT
KSĐT
KSND
THQCT
TTHS
VAHS
VKS
: Cơ quan điều tra
: Kiểm sát điều tra
: Kiểm sát nhân dân
: Thực hành quyền công tố
: Tố tụng hình sự
: Vụ án hình sự
: Viện kiểm sát
DANH MỤC CÁC BẢNG PHỤ LỤC
Số hiệu bảng Tên bảng Trang
Bảng 2.1: Thống kê số lượng án xâm phạm sở hữu có tính chất
chiếm đoạt Cơ quan điều tra Công an quận Cầu Giấy
đã điều tra, xử lý 81
Bảng 2.2: Thống kê số lượng án xâm phạm sở hữu có tính chất
chiếm đoạt Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy đã
xử lý 82
Bảng 2.3: Thống kê các loại tội xâm phạm sở hữu Cơ quan Cảnh
sát điều tra Công an quận Cầu Giấy đã điều tra, xử lý 83
Bảng 2.4: Thống kê các loại tội xâm phạm sở hữu Viện kiểm sát
nhân dân quận Cầu Giấy đã xử lý 86
Bảng 2.5: Thống kê kết quả thực hành quyền công tố và kiểm sát
điều tra đối với việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can của
Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy từ năm 2010
đến năm 2014 89
Bảng 2.6: Thống kê kết quả thực hành quyền công tố và kiểm sát
điều tra đối với việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn
của Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy từ năm
2010 đến năm 2014 90
Bảng 2.7: Thống kê kết quả kiểm sát tiếp nhận, xử lý tố giác,
tin báo về tội phạm của Viện kiểm sát nhân dân
quận Cầu Giấy 91
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp là hai chức
năng hiến định của Viện kiểm sát nhân dân và việc đảm bảo thực hiện chức
năng này cũng là nhiệm vụ trọng tâm trong chiến lược cải cách tư pháp của
Đảng và Nhà nước ta. Nhận thức và quán triệt nghiêm túc tinh thần các nghị
quyết của Đảng, trải qua 55 năm xây dựng và trưởng thành, ngành Kiểm sát
nhân dân đã góp phần quan trọng trong việc bảo vệ pháp luật, đấu tranh
phòng chống tội phạm; giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; phục
vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội; đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa,
các quyền dân chủ của công dân.
Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội là một bộ
phận cấu thành của hệ thống cơ quan Viện kiểm sát nhân dân. Mặc dù mới
thành lập được 18 năm (khi tách huyện Từ Liêm cũ thành huyện Từ Liêm và
quận Cầu Giấy năm 1997) nhưng Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy đã
đạt được nhiều thành tích đáng khích lệ trong công tác đấu tranh phòng chống
tội phạm trên địa bàn quận nói riêng và thành phố Hà Nội nói chung.
Tính từ năm 2010 đến năm 2014 Viện kiểm sát nhân dân (KSND) quận
Cầu Giấy đã kiểm sát khởi tố, điều tra 2065 vụ/ 3146 bị can, trong đó các tội
xâm phạm sở hữu (XPSH) có tính chất chiếm đoạt xảy ra 984 vụ với 1314 bị
can chiếm tỷ lệ 47% so với số vụ án thụ lý điều tra [46]. Việc khởi tố vụ án,
khởi tố bị can và áp dụng các biện pháp ngăn chặn đảm bảo đúng quy định của
pháp luật, việc truy tố, xét xử không có trường hợp nào làm oan người vô tội.
Tuy nhiên, hoạt động thực hành quyền công tố (THQCT) và kiểm sát
điều tra (KSĐT) đối với các vụ án XPSH có tính chất chiếm đoạt còn nhiều tồn
tại, hạn chế như việc thu thập chứng cứ trong hồ sơ không đầy đủ, hình sự hoá
2
các quan hệ dân sự, nhầm lẫn trong việc định tội danh... Những tồn tại trên có
nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân trực tiếp do nhận thức của Kiểm sát
viên làm công tác THQCT và KSĐT các vụ án XPSH có tính chất chiếm đoạt
chưa đầy đủ và thống nhất, các quy định của pháp luật còn thiếu đồng bộ. Mặt
khác, lý luận về công tác THQCT và KSĐT đối với loại tội này chưa được
xem xét, nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện. Với tình hình thực tế
như trên, tác giả chọn đề tài “Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra
đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt (trên cơ sở nghiên
cứu thực tiễn địa bàn quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội)" làm luận văn
thạc sỹ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu
Thực hành quyền công tố và KSĐT là một đề tài rộng, thu hút sự quan
tâm của nhiều nhà làm luật và các nhà khoa học. Do vậy, có nhiều công trình
khoa học nghiên cứu về chức năng THQCT và KSĐT của Viện kiểm sát nhân
dân trong giai đoạn điều tra nói chung và đối với một số tội nói riêng.
Ở cấp độ luận văn thạc sĩ có các công trình tiêu biểu sau: “Một số hoạt
động kiểm sát điều tra án kinh tế tại thành phố Hồ Chí Minh” tác giả Vũ Thị
Xuân Nhuệ, Luận văn cao học luật, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 1998;
"Chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự theo
yêu cầu cải cách tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện trên địa bàn
thành phố Hà Nội", của Hà Thị Minh Hạnh, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện
Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2007; “Nhiệm vụ, quyền hạn
của Viện kiểm sát khi kiểm sát điều tra”, Bùi Ngọc Tú, Luận văn thạc sĩ Luật
học, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2013...
Bên cạnh đó có các giáo trình, sách chuyên khảo, các bài viết, bình luận
trên các tạp chí như: “Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư
pháp trong giai đoạn điều tra”, sách tham khảo, Lê Hữu Thể (chủ biên), NXB
3
Tư pháp năm 2005; “Kỹ năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong tố tụng hình sự”, NXB Đại học quốc gia Hà Nội, năm
2006; “Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra,
kiểm sát xét xử các vụ án kinh tế - chức vụ”, Nguyễn Mạnh Hiền, Tạp chí
Kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Số xuân 2012; “Nâng cao chất
lượng, hiệu quả công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ
án tham nhũng”, Dương Văn Phùng, Tạp chí Kiểm sát, Viện kiểm sát nhân
dân tối cao, Số Xuân 2013:“Một số kinh nghiệm trong công tác thực hành
quyền công tố, kiểm sát điều tra các vụ án về ma túy” Trấn Thế Vinh, Tạp chí
Kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Số 8/2013….
Qua kết quả khảo sát trên cho thấy, chưa có công trình nào nghiên cứu
một cách có hệ thống và chuyên sâu về THQCT và KSĐT đối với các tội
XPSH có tính chất chiếm đoạt trong khi các tội này chiếm tỷ lệ lớn trong quá
trình giải quyết án trên các địa bàn. Điều này một lần nữa khẳng định việc
nghiên cứu đề tài: "Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra đối với
các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt (trên cơ sở nghiên cứu
thực tiễn địa bàn quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội)” là một yêu cầu khách
quan, cấp thiết, đáp ứng nhu cầu lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Mục đích nghiên cứu của luận văn là trên cơ sở nghiên cứu những quy
định của pháp luật về THQCT và KSĐT nói chung và thực tiễn áp dụng đối
với các vụ án XPSH có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn quận Cầu Giấy nói
riêng để góp phần làm phong phú thêm lý luận, nhận thức đúng thực tiễn và
đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động THQCT và
KSĐT các vụ án XPSH có tính chất chiếm đoạt.
4
3.2. Nhiệm vụ
- Phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về khái niệm THQCT
và KSĐT các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân.
- Phân tích làm rõ khái niệm, đặc điểm của các tội XPSH có tính chất
chiếm đoạt và hoạt động điều tra của các cơ quan chức năng.
- Phân tích những căn cứ, đặc điểm của hoạt động THQCT và KSĐT
của Viện kiểm sát nhân dân đối với các vụ án XPSH có tính chất chiếm đoạt.
- Khảo sát làm rõ thực trạng THQCT và KSĐT của Viện KSND quận
Cầu Giấy đối với các vụ án XPSH có tính chất chiếm đoạt từ năm 2010 đến
năm 2014; những kết quả đạt được, những mặt tồn tại và nguyên nhân.
- Đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả THQCT và KSĐT
của Viện KSND quận Cầu Giấy nói riêng và các cấp Viện kiểm sát nhân dân
nói chung, đáp ứng yêu cầu phục vụ nhiệm vụ chính trị địa phương cũng như
trong tiến trình cải cách tư pháp hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hoạt động THQCT và KSĐT theo
chức năng của Viện KSND đối với các vụ án XPSH có tính chất chiếm đoạt, kể
từ khi khởi tố cho đến khi kết thúc điều tra vụ án.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy
định của pháp luật về THQCT và KSĐT của Viện kiểm sát nhân dân đối với
các vụ án XPSH có tính chất chiếm đoạt xảy ra trên địa bàn quận Cầu Giấy do
Cơ quan Cảnh sát điều tra thụ lý, trong giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2014.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp chủ
nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, quan
điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền, về chính
sách hình sự, về vấn đề cải cách tư pháp được thể hiện trong các Văn kiện Đại
5
hội Đảng VIII, IX, X, XI và các Nghị quyết số 09/NQ-TW ngày 02/01/2002,
Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 26/5/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020 của Bộ Chính trị.
- Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng
tổng hợp các phương pháp như: thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh…
6. Những điểm mới đóng góp của đề tài
Luận văn là tài liệu chuyên sâu nghiên cứu một cách có hệ thống và
toàn diện về THQCT và KSĐT đối với các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt
gắn với thực tiễn của một địa phương cụ thể. Vì vậy, luận văn có một số điểm
mới sau:
- Phân tích làm sáng tỏ cơ sở lý luận trong hoạt động THQCT và KSĐT
nói chung của Viện kiểm sát nhân dân.
- Nêu lên những điểm đặc trưng của công tác THQCT và KSĐT đối với
các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt.
- Trên cơ sở phân tích, đánh giá số liệu, tình hình thực tế, chỉ ra những
tồn tại, khó khăn, vướng mắc; nguyên nhân và đề xuất kiến nghị nhằm nâng
cao hiệu quả của công tác trên.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý
luận cũng như thực tiễn trong hoạt động THQCT và KSĐT của của Viện
KSND quận Cầu Giấy đối với các vụ án XPSH có tính chất chiếm đoạt, từ đó
có thế tổng kết kinh nghiệm cho toàn ngành. Bên cạnh đó, luận văn góp phần
xây dựng, hoàn thiện các tri thức của khoa học Luật Hình sự, Luật tố tụng
hình sự, khoa học Điều tra hình sự.
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho cán bộ làm
công tác nghiên cứu, giảng dạy về khoa học pháp lý nói chung, khoa học luật
hình sự, tố tụng hình sự, tội phạm học….nói riêng.
Kết quả nghiên cứu của luận văn còn có thể phục vụ cho việc tham
6
khảo của cán bộ đang công tác tại các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án
trong quá trình giải quyết vụ án hình sự được khách quan, có căn cứ và đúng
pháp luật.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về thực hành quyền công tố và kiểm sát
điều tra các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt.
Chương 2: Thực trạng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra
đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt
trên địa bàn quận Cầu Giấy.
Chương 3: Dự báo tình hình và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hành
quyền công tố và kiểm sát điều tra đối với các tội xâm phạm
sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn quận Cầu Giấy.
7
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ
VÀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU
CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT
1.1. Nhận thức chung về điều tra các tội xâm phạm sở hữu có tính
chất chiếm đoạt
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm pháp lý các tội xâm phạm sở hữu có tính
chất chiếm đoạt
1.1.1.1. Khái niệm
Quan hệ sở hữu là một loại quan hệ xã hội giữa người và người trong
quá trình chiếm hữu những của cải vật chất trong xã hội. Nó ra đời cùng với
các hoạt động kinh tế và được luật hóa thành “quyền sở hữu” khi xuất hiện
nhà nước và pháp luật. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, đặc biệt là
Hiến pháp năm 2013 và Bộ luật dân sự năm 2005 thì quyền sở hữu là quyền
cơ bản của công dân, bao gồm quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản.
Các quyền này được pháp luật tôn trọng và bảo vệ.
Các tội xâm phạm sở hữu (XPSH) là những hành vi có lỗi gây thiệt hại
hoặc đe dọa gây thiệt hại cho quan hệ sở hữu và sự gây thiệt hại này thể hiện
được đầy đủ nhất bản chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi [38, tr.5]. Các
tội này được quy định tại Chương XXIV Bộ luật Hình sự năm 1999, được sửa
đổi, bổ sung năm 2009 (sau đây viết tắt là Bộ luật hình sự), gồm 13 tội được
quy định từ Điều 133 đến Điều 145. Đó là các tội: tội cướp tài sản (Điều 133),
tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản (Điều 134), tội cưỡng đoạt tài sản (Điều
135), tội cướp giật tài sản (Điều 136), tội công nhiên chiếm đoạt tài sản (Điều
137), tội trộm cắp tài sản (Điều 138), tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều
139), tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 140), tội chiếm giữ trái
phép tài sản (Điều 141), tội sử dụng trái phép tài sản (Điều 142), tội hủy hoại
8
hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản (Điều 143), tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả
nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước (Điều 144), tội vô ý gây thiệt hại
nghiêm trọng đến tài sản (Điều 145).
Căn cứ vào tính chất của mục đích phạm tội, khoa học luật hình sự chia
các tội xâm phạm sở hữu thành hai nhóm: (1) các tội có mục đích tư lợi (bao
gồm 10 tội từ Điều 133 đến Điều 142 BLHS) và (2) nhóm các tội không có
mục đích tư lợi (từ Điều 143 đến Điều 145 BLHS). Đối với nhóm các tội có
mục đích tư lợi, dựa vào đặc điểm chung của hành vi phạm tội có thể chia
thành nhóm có tính chất chiếm đoạt (bao gồm 8 tội từ Điều 133 đến Điều
140) và nhóm không có tính chất chiếm đoạt (gồm các Điều 141, 142). Vậy
tính chất chiếm đoạt ở đây được hiểu như thế nào?
Có ý kiến cho rằng “chiếm đoạt là hành vi cố ý chuyển dịch trái pháp luật tài
sản đang thuộc sự quản lí của chủ tài sản thành tài sản của mình” [38, tr.11]. Quan
điểm này thể hiện được bản chất của khái niệm chiếm đoạt nhưng đã đồng
nhất dấu hiệu chiếm đoạt với hành vi chiếm đoạt.
Trong khi đó, theo Từ điển tiếng Việt, chiếm đoạt là “chiếm của người
làm của mình, bằng cách dựa vào vũ lực, quyền thế”[21, tr.212]. Như vậy,
khái niệm chiếm đoạt cần phải bao quát cả ở khía cạnh hành vi phạm tội và
mục đích phạm tội. Từ đó, chúng tôi cho rằng khái niệm chiếm đoạt trong dấu
hiệu chiếm đoạt cần được hiểu như sau: “chiếm đoạt là việc cố ý chuyển dịch
trái pháp luật tài sản đang thuộc sự quản lí của chủ sở hữu thành tài sản của
mình. Chúng được biểu hiện dưới dạng hành vi hoặc mục đích phạm tội”.
Trên cơ sở khái niệm các tội XPSH và khái niệm chiếm đoạt ở trên, có thể
đưa ra khái niệm về các tội XPSH có tính chiếm đoạt như sau:
Các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt là những hành vi cố
ý chiếm lấy, đoạt lấy tài sản đang do người khác sở hữu hợp pháp làm tài sản
của mình vì mục đích vụ lợi.
9
1.1.1.2. Đặc điểm pháp lý của các tội xâm phạm sở hữu có tính chất
chiếm đoạt
Để nâng cao chất lượng THQCT và KSĐT các tội XPSH có tính chất
chiếm đoạt, trước hết phải nắm vững các đặc điểm pháp lý đặc trưng của các
tội này (dựa vào bốn yếu tố cấu thành tội phạm và khái niệm các tội XPSH có
tính chất chiếm đoạt) như sau:
- Khách thể của tội phạm
Theo khoa học luật hình sự, khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội
được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại [37, tr.78]. Nghiên cứu quy
định của BLHS đối với các tội từ Điều 133 đến Điều 140 và thực tiễn áp
dụng, các tội từ Điều 133 đến Điều 136 BLHS có khách thể không chỉ là quan
hệ sở hữu mà còn là quyền nhân thân. Còn đối với các tội từ Điều 137 đến
Điều 140 BLHS có khách thể chỉ là quan hệ sở hữu.
Về đối tượng tác động thuộc khách thể của tội phạm, các tội XPSH có
tính chất chiếm đoạt có đối tượng tác động là tài sản thuộc sở hữu của người
khác (không phải là của người phạm tội) và chúng còn nằm trong sự chiếm
hữu, quản lí của chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản. Về nguyên tắc tài sản
này là hợp pháp và bao gồm: vật có thực, tiền, giấy tờ trị giá được bằng tiền
và các quyền về tài sản (Điều 163 Bộ luật dân sự).
- Mặt khách quan của tội phạm.
Hành vi phạm tội được hiểu là hành vi khách quan nguy hiểm cho xã
hội được luật hình sự quy định chịu sự kiểm soát, điều khiển bởi ý thức, ý chí
của người phạm tội [37, tr.93-97]. Hành vi phạm tội có hai hình thức thể hiện
là hành động và không hành động.
Dựa vào quy định của BLHS và thực tiễn áp dụng, các tội XPSH có
tính chất chiếm đoạt có những hành vi khách quan khác nhau. Đó có thể là
hành vi dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực như tội Cướp tài sản, Bắt cóc nhằm
10
chiếm đoạt tài sản, Cưỡng đoạt tài sản (nhóm 1); hành vi lợi dụng sơ hở của
chủ tài sản để thực hiện tội phạm như tội Công nhiên chiếm đoạt tài sản,
Trộm cắp tài sản (nhóm 2); hành vi dùng thủ đoạn gian dối như tội Lừa đảo
chiếm đoạt tài sản, Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (nhóm 3) hay hành
vi nhanh chóng chiếm đoạt tài sản một cách công khai như tội Cướp giật tài
sản. Tuy nhiên, thủ đoạn, cách thức, đối tượng thực hiện hành vi và điều kiện
khi thực hiện hành vi là khác nhau và chúng là dấu hiệu phân biệt các tội
phạm có cùng hành vi chiếm đoạt với nhau. Cụ thể, trong nhóm 1, đối với tội
Cướp tài sản, người phạm tội dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực “ngay tức
khắc” đối với chủ tài sản; đối với tội Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản thì hành
vi đe dọa dùng vũ lực lại nhằm vào con tin từ đó khiến người thân của con tin
(người có tài sản) phải lo sợ, giao nộp tài sản; hoặc cùng là đe dọa dùng vũ
lực đối với chủ tài sản nhưng ở tội Cưỡng đoạt tài sản không có đặc điểm
“ngay tức khắc” như tội Cướp tài sản. Đối với nhóm 2, người phạm tội Trộm
cắp tài sản có thủ đoạn lén lút khi thực hiện hành vi chiếm đoạt; còn ở tội
Công nhiên chiếm đoạt tài sản thì người phạm tội lại có hành vi công khai. Ở
nhóm 3,tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt
tài sản được phân biệt với nhau bởi thủ đoạn gian dối được thực hiện trước
hay sau khi hành vi chiếm đoạt được thực hiện.
Về hậu quả mà những hành vi nói trên gây ra trước hết là những thiệt
hại gây ra cho quan hệ sở hữu, thể hiện dưới dạng thiệt hại vật chất cụ thể là
tài sản bị mất. Đối với những tội như Cướp tài sản, Cướp giật tài sản, Bắt cóc
nhằm chiếm đoạt tài sản thì thiệt hại còn bao gồm cả thiệt hại về thể chất
(thương tích hoặc tổn hại về sức khỏe, tinh thần).
- Chủ thể của tội phạm
Chủ thể của nhóm tội này có thể là bất kỳ người nào có năng lực
trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi nhất định: từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu
11
trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ
16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về những tội rất nghiêm trọng do cố
ý hoặc những tội đặc biệt nghiêm trọng quy định tại Điều 133; khoản 2,3,
và 4 của các Điều 134, 135, 136; khoản 3 và 4 các Điều 137, 138, 139, 140.
Ngoài ra tại các Điều 139, 140 Bộ luật hình sự, dấu hiệu chủ thể đặc biệt
được phản ánh trong cấu thành tăng nặng trách nhiệm hình sự, cụ thể ở
điểm d khoản 2 Điều 139: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn lừa đảo chiếm đoạt
tài sản; điểm b khoản 2 Điều 140: Lợi dụng chức vụ quyền hạn để lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
- Mặt chủ quan của tội phạm:
Tất cả các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt đều được thực hiện với lỗi cố
ý trực tiếp. Người thực hiện hành vi chiếm đoạt biết tài sản chiếm đoạt là tài sản
đang có người quản lí nhưng vẫn mong muốn biến tài sản đó thành của mình.
Về động cơ và mục đích phạm tội: người phạm tội mong muốn chiếm
đoạt được tài sản của người khác và dấu hiệu chiếm đoạt là dấu hiệu bắt buộc
đối với các tội này. Tùy thuộc vào đặc trưng của từng tội do BLHS quy định
mà dấu hiệu chiếm đoạt trong các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt là khác
nhau. Chúng có thể là hành vi chiếm đoạt, mục đích chiếm đoạt hoặc chiếm
đoạt được. Ví dụ: Đối với các tội từ Điều 133 đến Điều 135 BLHS, khách thể
được bảo vệ bao gồm quan hệ sở hữu và quan hệ nhân thân. Để xâm phạm
quan hệ sở hữu, người phạm tội phải có hành vi xâm hại quan hệ nhân thân.
Trong đó, quan hệ nhân thân rõ ràng quan trọng hơn quan hệ sở hữu nên các
tội này có cấu thành hình thức, chỉ cần người phạm tội thực hiện hành vi
phạm tội xem như tội phạm đã hoàn thành và dấu hiệu chiếm đoạt được thể
hiện qua mục đích phạm tội. Vì vậy, mục đích chiếm đoạt là dấu hiệu bắt
buộc trong cấu thành tội phạm của các tội này. Đây là cơ sở phân biệt các tội
này với các tội khác do BLHS quy định có hành vi khách quan tương tự như
hành vi phạm tội của các tội này.
12
Đối với tội cướp giật tài sản, mặc dù khách thể mà tội này xâm phạm
cũng là quan hệ sở hữu và quan hệ nhân thân nhưng khác với các tội tại các
Điều 133, 134, 135 BLHS. Hành vi khách quan do BLHS quy định đối với tội
cướp giật tài sản xâm phạm trực tiếp đến quan hệ sở hữu và qua việc xâm
phạm quan hệ sở hữu mới xâm phạm đến quan hệ nhân thân nên dấu hiệu
chiếm đoạt được thể hiện qua hành vi chiếm đoạt được mô tả trong điều luật.
1.1.2. Điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt
1.1.2.1. Khái niệm điều tra các vụ án hình sự
Pháp luật tố tụng hình sự (TTHS) Việt Nam từ trước tới nay chưa bao
giờ ghi nhận định nghĩa pháp lý khái niệm giai đoạn TTHS. Tuy nhiên, Bộ
luật TTHS 2003 đã thể hiện sự phân chia các giai đoạn tố tụng một cách rõ
nét, theo đó quá trình giải quyết một vụ án hình sự phải trải qua các giai đoạn
khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Tương ứng với đó, mỗi giai đoạn
có nhiệm vụ, chủ thể, trình tự, thủ tục, thời hạn cụ thể nhằm phục vụ mục đích
chung của toàn bộ quá trình tố tụng. Bên cạnh đó, trên phương diện khoa học
luật TTHS, căn cứ vào cơ quan và người tiến hành tố tụng, các nhà nghiên
cứu cũng chia quá trình tố tụng thành các giai đoạn: khởi tố, điều tra, truy tố,
xét xử, thi hành bản án và quyết định của Toà án. Như vậy, có thể thấy cả trên
phương diện lý luận cũng như quy định của pháp luật, điều tra được coi là
một giai đoạn tố tụng độc lập. Trong quá trình điều tra, một mặt phải đảm bảo
các yêu cầu của luật TTHS về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, đồng thời phải áp
dụng các phương pháp, thủ thuật chiến thuật, kỹ thuật điều tra để phát hiện,
thu thập chứng cứ làm sáng tỏ sự thật của vụ án hình sự để làm cơ sở cho việc
xử lý theo đúng quy định của pháp luật.
Trên cơ sở nhận thức đó, tác giả đưa ra khái niệm điều tra vụ án hình sự
như sau: Điều tra vụ án hình sự là một giai đoạn của quá trình tố tụng hình
sự do cơ quan có thẩm quyền tiến hành bằng các biện pháp theo quy định của
13
pháp luật nhằm thu thập tài liệu, chứng cứ làm rõ sự thật của vụ án, chứng
minh tội phạm trước pháp luật, đảm bảo giải quyết đúng đắn vụ án hình sự và
góp phần phòng ngừa tội phạm.
Trong quá trình giải quyết vụ án, giai đoạn điều tra có vai trò hết sức
quan trọng. Bởi lẽ, điều tra vụ án hình sự (VAHS) là giai đoạn thu thập chứng
cứ để chứng minh tội phạm, người thực hiện hành vi phạm tội, xác định tính
chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra. Kết quả điều tra vừa là
cơ sở để Viện kiểm sát (VKS) quyết định truy tố, vừa là cơ sở để Toà án đưa
vụ án ra xét xử. Tác động của kết quả điều tra đối với công tác truy tố, xét xử
không chỉ thể hiện ở số lượng, chất lượng chứng cứ mà còn là nhận định,
đánh giá tội phạm, áp dụng pháp luật hình sự của Cơ quan điều tra (CQĐT).
Trong TTHS thẩm vấn, vị trí của hoạt động điều tra càng quan trọng, những
sai lầm nghiêm trọng làm oan người vô tội, bỏ lọt tội phạm trong lịch sử tư
pháp nước ta chủ yếu bắt nguồn từ giai đoạn điều tra [35, tr.198]. Do đó, Viện
kiểm sát thực hành quyền công tố (THQCT) và kiểm sát điều tra (KSĐT)
nhằm bảo đảm mọi hoạt động trong quá trình điều tra đúng pháp luật. Đồng
thời việc quy định nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi THQCT và KSĐT trong
Bộ luật TTHS là hết sức cần thiết và mang một ý nghĩa rất lớn trong quá trình
giải quyết VAHS, nhằm đảm bảo việc điều tra VAHS khách quan, toàn diện,
đúng quy định của pháp luật.
1.1.2.2. Thẩm quyền điều tra các tội phạm xâm phạm sở hữu có tính
chất chiếm đoạt
Với phạm vi nghiên cứu của luận văn là THQCT và KSĐT các vụ án
XPSH có tính chất chiếm đoạt của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận
Cầu Giấy nên trong nội dung này, tác giả chỉ nêu về cơ sở pháp lý của việc tổ
chức và phân định thẩm quyền điều tra ở cấp huyện.
Trên cơ sở quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Pháp lệnh tổ
chức điều tra hình sự năm 2004, ngày 07 tháng 7 năm 2014 Bộ Công an đã ban
14
hành Thông tư số 28/2014/BCA về nhiệm vụ, quyền hạn của Cơ quan điều tra
trong Công an nhân dân, các cơ quan khác của Công an nhân dân được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Theo quy định tại Điều 17
Thông tư này thì trong điều tra các VAHS, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an
cấp huyện có thẩm quyền tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị
khởi tố; phân loại và chuyển ngay đến cơ quan có thẩm quyền để giải quyết;
trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố thuộc thẩm
quyền giải quyết của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an cấp huyện; tiến hành
điều tra các vụ án hình sự về các tội phạm quy định tại các chương từ Chương
XII đến Chương XXII của Bộ luật hình sự năm 1999 khi các tội phạm đó thuộc
thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp huyện (trừ các tội phạm thuộc
thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao
và Cơ quan An ninh điều tra trong Công an nhân dân).
1.1.2.3. Nội dung điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu có tính chất
chiếm đoạt
- Tiếp nhận, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố VAHS
và quyết định việc khởi tố VAHS.
Tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố là các thông tin đầu tiên
về tội phạm đến với cơ quan có thẩm quyền. Đây là cơ sở đầu tiên để cơ quan
có thẩm quyền xem xét xác định có phải là vụ án XPSH có tính chất chiếm
đoạt hay không để quyết định đưa hay không đưa vụ việc vào giải quyết theo
thủ tục TTHS.
Để đảm bảo tính chính xác, đòi hỏi các hoạt động liên quan đến việc
tiếp nhận, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố phải được
thực hiện nghiêm chỉnh theo quy định của luật TTHS về thẩm quyền, trình tự,
thủ tục, thời hạn và các yêu cầu pháp lý khác.
Sau quá trình kiểm tra, xác minh, tùy thuộc vào kết quả, cơ quan có
thẩm quyền có thể ra các quyết định sau:
15
+ Có đủ căn cứ xác định sự việc có dấu hiệu tội phạm xảy ra trên thực
tế, cơ quan có thẩm quyền sẽ ra quyết định khởi tố vụ án.
+ Có căn cứ xác định không có sự việc xảy ra hoặc có một trong các
căn cứ để không khởi tố VAHS theo quy định tại Điều 107 Bộ luật TTHS thì
cơ quan có thẩm quyền ra quyết định không khởi tố VAHS và kết thúc về mặt
TTHS đối với vụ việc.
- Áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong điều tra các vụ án XPSH có
tính chất chiếm đoạt.
Áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong quá trình điều tra các vụ án
XPSH có tính chất chiếm đoạt nhằm mục đích ngăn chặn tội phạm, không để
các đối tượng trong vụ án bỏ trốn, gây khó khăn cho quá trình điều tra vụ án,
nhưng đồng thời nó cũng liên quan đến các chiến thuật điều tra. Các biện
pháp ngăn chặn được áp dụng trong quá trình giải quyết các vụ án XPSH có
tính chất chiếm đoạt bao gồm: Bắt người (với ba trường hợp bắt bị can bị cáo
để tạm giam, bắt người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội quả
tang hoặc đang bị truy nã); Tạm giữ, tạm giam; Cấm đi khỏi nơi cư trú; Bảo
lĩnh; Đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm [28]. Các biện pháp ngăn chặn
này có thể được áp dụng trước hoặc sau khi khởi tố vụ án. Đây là các biện
pháp có tính cưỡng chế nghiêm khắc, thường tác động đến các quyền cơ bản
của con người, vì vậy khi áp dụng đòi hỏi phải đảm bảo tính có căn cứ, đúng
thẩm quyền và trình tự, thủ tục mà luật TTHS quy định. Bên cạnh đó, việc áp
dụng các biện pháp ngăn chặn còn mang tính nghiệp vụ thể hiện thủ thuật,
chiến thuật trong điều tra nhưng không được lạm dụng mà yêu cầu tiên quyết
vẫn là phải đảm bảo tính pháp lý cho hoạt động này.
- Tiến hành các biện pháp điều tra
Sau khi quyết định khởi tố các vụ án XPSH có tính chất chiếm đoạt, Cơ
quan điều tra sẽ bắt tay vào tiến hành các biện pháp điều tra. Tùy tính chất
16
từng vụ án và các tình huống xuất hiện khi khởi tố vụ án mà thứ tự các biện
pháp điều tra được tiến hành. Nhưng nhìn chung tất cả các vụ án XPSH có
tính chất chiếm đoạt đều phải tiến hành một số biện pháp điều tra sau để thu
thập chứng cứ phục vụ quá trình chứng minh làm sáng tỏ vụ án.
+ Khám nghiệm hiện trường: Khám nghiệm hiện trường là biện pháp điều
tra do Điều tra viên tiến hành tại nơi xảy ra tội phạm hoặc tại nơi phát hiện tội
phạm nhằm phát hiện vật chứng, dấu vết của tội phạm và làm sáng tỏ những tình
tiết có ý nghĩa đối với việc giải quyết VAHS. Khám nghiệm hiện trường có thể
tiến hành trước khi khởi tố VAHS. Ngoài việc xác định, thu giữ dấu vết, vật
chứng có liên quan đến vụ án XPSH có tính chất chiếm đoạt thì công tác khám
nghiệm hiện trường còn phải xác định, ghi nhận những dấu vết phản ánh việc lục
soát, chiếm đoạt tài sản, đặc điểm, chủng loại tài sản bị chiếm đoạt…Cá biệt
trong những trường hợp kèm theo hành vi chiếm đoạt tài sản còn có thể có
những hành vi phạm tội khác như giết người, gây thương tích thì công tác khám
nghiệm hiện trường còn phải phát hiện, thu giữ dấu vết, vật chứng phản ánh về
những hành vi phạm tội đó, kể cả việc khám nghiệm tử thi (nếu có). Hoạt động
khám nghiệm hiện trường phải được thực hiện nghiêm chỉnh theo quy định tại
Điều 150 BLTTHS.
+ Lấy lời khai người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị
đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Đây là biện
pháp điều tra bằng cách triệu tập và hỏi những người này các tình tiết liên
quan đến vụ án nhằm làm rõ sự thật của vụ án. Việc lấy lời khai người làm
chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan đến vụ án phải thực hiện nghiêm chỉnh theo quy định của
Điều 133 đến 137 và các quy định khác có liên quan của BLTTHS. Lấy lời
khai những người tham gia tố tụng này trong vụ án XPSH có tính chất chiếm
đoạt phải đặc biệt chú ý làm rõ thời gian, địa điểm xảy ra tội phạm; số lượng,
17
chủng loại, đặc điểm tài sản bị chiếm đoạt; nguồn gốc tài sản, những người
biết được nơi cất giữ tài sản…
+ Khởi tố bị can và hỏi cung bị can: Khởi tố bị can là việc cơ quan có
thẩm quyền quyết định khởi tố về hình sự một người khi có căn cứ xác định
người đó thực hiện hành vi phạm tội [15, tr.354]. Quyết định khởi tố bị can là
cơ sở pháp lý cho các hoạt động điều tra và các biện pháp tố tụng khác để xử
lý đối với người phạm tội theo đúng quy định của pháp luật. Việc khởi tố bị
can phải thực hiện nghiêm chỉnh theo quy định tại các Điều 126, Điều 127,
Điều 128 Bộ luật TTHS.
Sau khi có quyết định khởi tố bị can, phải tiến hành hỏi cung bị can. Hỏi
cung bị can là biện pháp điều tra bằng cách hỏi trực tiếp người đã bị khởi tố về
hình sự với tư cách là bị can. Để tiến hành hỏi cung bị can cần tiến hành các thủ
tục để triệu tập bị can theo quy định tại các Điều 129, 130 BLTTHS. Việc hỏi
cung bị can phải tuân thủ theo đúng quy định tại Điều 131, 132 BLTTHS.
+ Đối chất: Đối chất là biện pháp điều tra bằng cách tiến hành hỏi hai
người cùng một lúc về cùng một vấn đề có liên quan đến vụ án nhằm làm rõ
mâu thuẫn trong các lời khai của họ. Việc đối chất có thể tiến hành giữa: Bị
can với bị can; Bị can với người bị tình nghi, người bị tạm giữ, người làm
chứng, người bị hại; Giữa người bị hại với người làm chứng; Giữa những
người làm chứng với nhau... Hoạt động đối chất phải tiến hành theo đúng quy
định Điều 138 BLTTHS.
+ Nhận dạng: Nhận dạng là biện pháp điều tra được tiến hành bằng
cách đưa người, vật, ảnh để người làm chứng, người bị hại, bị can quan sát
nhận xét có đúng là đối tượng có liên quan đến vụ án XPSH có tính chất
chiếm đoạt mà họ đã biết trước đây hay không. Người nhận dạng có thể là
người làm chứng, người bị hại, bị can... Đối tượng nhận dạng có thể là người
sống (nhận dạng về hình dáng, tiếng nói), tử thi, đồ vật, súc vật, địa điểm, ảnh
18
của các đối tượng này. Hoạt động nhận dạng phải được tiến hành theo quy
định tại Điều 139 BLTTHS.
+ Khám xét: Khám xét là hoạt động điều tra được tiến hành bằng cách
tìm tòi, lục soát trên người, chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm, đồ vật, thư tín, điện
tín, bưu kiện, bưu phẩm nhằm phát hiện thu giữ vật chứng, đồ vật tài liệu có
liên quan đến vụ án. Khám xét là hoạt động liên quan trực tiếp đến quyền bất
khả xâm phạm về chỗ ở, đến việc đảm bảo bí mật thư tín, điện thoại, điện
tín... Việc khám xét chỉ được tiến hành khi có căn cứ luật định và phải có lệnh
của người có thẩm quyền. Hoạt động khám xét phải được tiến hành theo quy
định tại các Điều 140, 141, 142, 143, Điều 145 và các quy định khác có liên
quan của BLTTHS.
+ Thu giữ thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm tại bưu điện: Khi cần
thiết phải thu giữ thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm tại bưu điện thì CQĐT
ra lệnh thu giữ. Lệnh này phải được VKS phê chuẩn trước khi thi hành, trừ
trường hợp không thể trì hoãn nhưng phải ghi rõ lý do vào biên bản và sau khi
thu giữ phải thông báo ngay cho VKS cùng cấp biết. Việc thu giữ thư tín, điện
tín, bưu kiện, bưu phẩm tại bưu điện phải tiến hành theo Điều 144 BLTTHS.
+ Xem xét dấu vết trên thân thể: Xem xét dấu vết trên thân thể là biện
pháp điều tra bằng cách tiến hành xem xét trên thân thể người bị bắt, người bị
tạm giữ, bị can, người bị hại, người làm chứng để phát hiện trên người họ dấu
vết của tội phạm hoặc các dấu vết khác có ý nghĩa đối với vụ án. Khi tiến
hành xem xét dấu vết trên thân thể, phải thực hiện nghiêm chỉnh quy định tại
Điều 152 và các quy định khác có liên quan của BLTTHS.
+ Thực nghiệm điều tra: Thực nghiệm điều tra là biện pháp điều tra bằng
việc CQĐT tổ chức diễn lại hoặc làm thử một hành vi, sự việc, hiện tượng có
liên quan đến việc điều tra làm rõ vụ án trong điều kiện tương tự như lời khai của
bị can, người làm chứng, người bị tạm giữ, người bị hại hay giả thuyết điều tra
19
của CQĐT để xem hành vi, sự việc, hiện tượng đó có xảy ra hay không và như
thế nào. Khi tiến hành thực nghiệm điều tra phải tuân theo các quy định tại Điều
153 và các quy định khác có liên quan của BLTTHS.
+ Trưng cầu giám định: Trưng cầu giám định là hoạt động của cơ quan
tiến hành tố tụng được tiến hành theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định
nhằm trưng cầu các cơ quan, tổ chức hoặc các nhà chuyên môn sử dụng tri
thức khoa học vào việc nghiên cứu, xem xét, đối chiếu để kết luận về các vấn
đề cần kết luận nhằm thu thập chứng cứ phục vụ cho việc giải quyết VAHS.
Trong các vụ án XPSH có tính chất chiếm đoạt, hoạt động trưng cầu giám
định thường là giám định tài sản bị chiếm đoạt. Hoạt động trưng cầu giám
định và giám định phải được tiến hành theo quy định tại các Điều 155 đến
159 Bộ luật TTHS.
- Tạm đình chỉ điều tra và kết thúc điều tra.
+ Tạm đình chỉ điều tra: Tạm đình chỉ điều tra là việc CQĐT tạm
ngừng việc tiến hành điều tra đối với cả vụ án hoặc đối với một bị can khi bị
can bị bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo khác có chứng nhận của hội động
giám định y khoa; khi chưa xác định được bị can hoặc không rõ bị can đang ở
đâu hoặc chưa có kết luận giám định khi hết thời hạn điều tra (Điều 160 Bộ
luật TTHS).
+ Kết thúc điều tra: Có hai hình thức kết thúc điều tra vụ án XPSH có
tính chất chiếm đoạt:
Đình chỉ điều tra: Hình thức này được tiến hành khi trong quá trình
điều tra, CQĐT có căn cứ xác định không có sự việc phạm tội xảy ra, hành vi
xảy ra không cấu thành tội phạm, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã
hội chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự hoặc đã chết, hay hết thời hạn điều
tra nhưng không chứng minh được bị can phạm tội. Việc đình chỉ điều tra có
thể là đình chỉ toàn bộ vụ án hoặc đình chỉ điều tra đối với từng bị can. Khi
20
đình chỉ điều tra CQĐT làm bản kết luận điều tra, trong đó nêu rõ quá trình
điều tra vụ án và căn cứ đình chỉ điều tra (Điều 164 Bộ luật TTHS).
Đề nghị truy tố: Theo quy định tại Điều 163 Bộ luật TTHS thì khi có đủ
chứng cứ chứng minh tội phạm và những người phạm tội, CQĐT làm bản kết
luận điều tra trong đó nêu rõ căn cứ khởi tố vụ án, các quyết định khởi tố bị can,
trình bày diễn biến phạm tội của các bị can, các chứng cứ đã thu thập được
chứng minh hành vi phạm tội của các bị can; Những ý kiến nhận xét và đề xuất
vụ án; Lý do và căn cứ đề nghị truy tố; Lý lịch của các bị can. Kết luận điều tra
do Thủ trưởng CQĐT ký, được chuyển cùng hồ sơ cho VKS và gửi cho các bị
can.Hồ sơ VAHS được chuyển cho VKS đề nghị truy tố bị can trước pháp luật.
Hồ sơ được đánh bút lục từ số 01 đến hết. Khi chuyển hồ sơ sang VKS, CQĐT
bàn giao cả vật chứng cho VKS và phải lập biên bản bàn giao.
1.2. Khái quát về thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các
vụ án xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt
1.2.1. Khái niệm thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ
án hình sự
1.2.1.1. Khái niệm thực hành quyền công tố
Thuật ngữ “quyền công tố” lần đầu tiên được ghi nhận tại Hiến pháp
năm 1980, tiếp đó là Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013, Bộ luật
TTHS năm 1998, Bộ luật TTHS năm 2003, Luật tổ chức Viện KSND năm
1981, Luật tổ chức Viện KSND năm 1992, Luật tổ chức Viện KSND năm
2002, Pháp lệnh Kiểm sát viên năm 2002, Luật tổ chức Viện KSND năm
2014. Tuy nhiên hiện nay chưa có văn bản pháp luật nào của Nhà nước giải
thích chính thức về nội dung quyền công tố. Chính vì vậy, hiện nay có nhiều
quan điểm khác nhau về quyền công tố.
Theo tác giả Lê Hữu Thể, có tám quan điểm khác nhau về quyền
công tố [34, tr.21-34]. Sau khi phân tích ưu khuyết điểm của các quan điểm
21
khác nhau về quyền công tố, tác giả đưa ra quan điểm của mình về quyền
công tố như sau:
Quyền công tố là quyền nhân danh nhà nước thực hiện việc
truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Quyền này
thuộc về nhà nước, được Nhà nước giao cho một cơ quan thực hiện
(ở nước ta là Viện kiểm sát) để phát hiện tội phạm và truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Để làm được điều này, cơ
quan có chức năng thực hành quyền công tố phải có trách nhiệm
đảm bảo việc thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ để xác định tội
phạm và người phạm tội, trên cơ sở đó truy tố bị can ra trước tòa án
và bảo vệ sự buộc tội đó trước phiên tòa [34, tr.40].
Mặc dù quan điểm trên đã nêu được những vấn đề thuộc về bản chất
của quyền công tố nhưng thực chất đây là quyền thực hành quyền công tố chứ
không phải là quyền công tố. Bởi vì quyền công tố là quyền của Nhà nước
chứ không phải nhân danh Nhà nước.
Có quan điểm đồng nhất quyền công tố với chức năng kiểm sát việc
tuân theo pháp luật của Viện KSND, dẫn đến tình trạng mở rộng phạm vi
quyền công tố vượt khỏi lĩnh vực TTHS sang các lĩnh vực tư pháp khác
như dân sự, kinh tế, lao động, hành chính như:
Quyền công tố ở Việt Nam là quyền của Nhà nước giao
cho Viện kiểm sát đưa vụ án ra tòa xét xử để bảo vệ lợi ích của
Nhà nước, lợi ích chung và lợi ích của công dân được thực hiện
trong tố tụng hình sự, tố tụng dân sự và các lĩnh vực tố tụng tư
pháp khác [13, tr.7].
Như vậy các quan điểm này đều có hạn chế là không phân định rõ
ràng khái niệm, bản chất, nội dung, phạm vi quyền công tố, hoạt động thực
hành quyền công tố và hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Theo
22
chúng tôi quyền lực Nhà nước trong lĩnh vực hình sự gắn liền với sự buộc
tội nhân danh Nhà nước, hay nói cách khác là nhân danh công quyền, và chỉ
phát sinh khi có hành vi phạm tội xảy ra. Sự buộc tội nhân danh công quyền
này được gọi là quyền công tố và quyền công tố phải thuộc về Nhà nước - tổ
chức quyền lực công, đại diện quyền lực công. Đồng thời quyền công tố chỉ
có trong lĩnh vực TTHS.
Như vậy thực chất: Quyền công tố là quyền của Nhà nước truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi phạm tội.
Trong lĩnh vực TTHS, phạm vi của quyền công tố bắt đầu từ khi tiếp
nhận tin báo tố giác về tội phạm và kết thúc khi bản án đã có hiệu lực pháp
luật. Để thực hiện quyền công tố, Nhà nước đã ban hành các văn bản pháp
luật, trong đó quy định các quyền năng pháp lý mà cơ quan có thẩm quyền
được áp dụng để truy cứu TNHS đối với người phạm tội. Cơ quan được giao
thẩm quyền đưa vụ án ra tòa án được gọi là cơ quan thực hành quyền công tố
và cơ quan này ở mỗi nước là khác nhau tùy thuộc vào bản chất chế độ chính
trị, điều kiện và hoàn cảnh của từng nước.
Ở Việt Nam, căn cứ vào các quy định của pháp luật (từ Hiến pháp
1959, 1981, 1992, 2013 và các Luật tổ chức Viện KSND 1960, 1981, 1992,
2002 và 2014) thì chỉ có Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan duy nhất thực
hành quyền công tố và quyền công tố trong TTHS là rất lớn: “được áp dụng
các biện pháp do Bộ luật TTHS quy định để xác định tội phạm và xử lý người
phạm tội” [28]. Ví dụ trong điều tra VAHS, CQĐT có quyền độc lập thu thập
tài liệu, chứng cứ, nhưng những tài liệu, chứng cứ đó có đủ cơ sở để truy tố bị
can hay không là thuộc trách nhiệm của VKS. Nếu không đủ căn cứ để buộc
tội, VKS có quyền yêu cầu CQĐT bổ sung tài liệu chứng cứ, trực tiếp tiến
hành một số hoạt động điều tra, đình chỉ điều tra, yêu cầu xử lý nghiêm minh
những người có vi phạm trong hoạt động điều tra... Khi có đủ tài liệu, chứng
23
cứ chứng minh hành vi phạm tội và xét thấy cần truy cứu trách nhiệm hình sự
của người phạm tội trước Tòa án thì VKS quyết định truy tố bị can. Như vậy,
THQCT là chức năng mà không cơ quan nào có thể làm thay VKS. Chức
năng này được quy định cụ thể tại Điều 3 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân
dân năm 2014:
Thực hành quyền công tố là hoạt động của Viện kiểm sát
nhân dân trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà
nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt
quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự [31].
Trên cơ sở khái niệm này cũng như những quy định tại Mục 2, Chương
II của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 về nhiệm vụ, quyền hạn
của VKS khi thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra VAHS, luận văn
đưa ra định nghĩa về thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra như sau:
Thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án hình sự là chức năng tư
pháp của Viện kiểm sát nhân dân để thực hiện quyền của nhà nước trong việc
truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi phạm tội, được thực
hiện từ khi khởi tố và trong suốt quá trình điều tra vụ án hình sự cho đến khi
kết thúc điều tra.
Với những phân tích và định nghĩa nêu trên, có thể xác định đối tượng,
nội dung, chủ thể, phạm vi của THQCT trong điều tra VAHS như sau:
- Đối tượng của THQCT chính là tội phạm và người phạm tội.
- Nội dung của THQCT là thực hiện truy cứu trách nhiệm hình sự và việc
buộc tội đối với người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội là tội phạm.
- Chủ thể THQCT là Viện kiểm sát nhân dân.
- Phạm vi THQCT bắt đầu từ khi khởi tố VAHS đến khi kết thúc điều tra.
24
- Trình tự thủ tục THQCT phải tiến hành theo quy định của Bộ luật TTHS.
1.2.1.2. Khái niệm kiểm sát điều tra các vụ án hình sự
Thuật ngữ “kiểm sát các hoạt động tư pháp” được xuất hiện trong các
văn kiện của Đảng như Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ 9, Nghị quyết số 08
ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị và đặc biệt được quy định tại Điều 137 Hiến
pháp năm 1992 sửa đổi, Điều 107 Hiến pháp năm 2013, Luật tổ chức Viện
kiểm sát nhân dân năm 2002 và gần đây nhất là Luật tổ chức Viện kiểm sát
nhân dân năm 2014. Trước khi có Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm
2014 các nhà lập pháp nước ta chưa đưa ra một định nghĩa pháp lý chung nhất
về khái niệm “kiểm sát các hoạt động tư pháp” dẫn đến nhiều quan điểm, nhận
thức khác nhau về khái niệm này, tựu chung lại có ba nhóm quan điểm: (1)
quan điểm giới hạn kiểm sát hoạt động tư pháp trong phạm vi tố tụng hình sự;
(2) quan điểm kiểm sát các hoạt động tư pháp bao gồm việc kiểm sát hoạt động
khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử (tất cả các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và
gia đình, lao động, kinh tế, hành chính) và phần tư pháp trong thi hành án; (3)
quan điểm kiểm sát tư pháp được hiểu là giám sát tư pháp, là một bộ phận, một
lĩnh vực của hoạt động giám sát Nhà nước trong lĩnh vực tư pháp. Mặc dù mỗi
nhóm quan điểm có lập luận riêng nhưng các quan điểm này đều không phủ
nhận kiểm sát các hoạt động tư pháp luôn bao gồm việc kiểm sát các hoạt động
tố tụng hình sự trong đó có hoạt động khởi tố, điều tra vụ án hình sự.
Như vậy cần phải khẳng định kiểm sát các hoạt động tư pháp là chức
năng hiến định của Viện kiểm sát. Kiểm sát các hoạt động tư pháp là một
dạng giám sát Nhà nước về tư pháp và đây là hoạt động mang tính quyền lực
nhà nước. Quan điểm này đã được thể chế hóa trong các bản Hiến pháp từ
năm 1959 đến năm 2013:“Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố,
kiểm sát các hoạt động tư pháp” [30].
25
Chúng tôi đồng ý với khái niệm kiểm sát các hoạt động tư pháp được
quy định tại Khoản 1 Điều 4 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014:
Kiểm sát hoạt động tư pháp là hoạt động của Viện KSND để
kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ
chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp, được thực hiện ngay từ khi
tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi
tố và trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự; Trong việc giải
quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh
doanh, thương mại, lao động; Việc thi hành án, việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; Các hoạt động tư pháp
khác theo quy định của pháp luật [31].
Khái niệm này thể hiện đầy đủ bản chất, phạm vi của chức năng kiểm sát
hoạt động tư pháp nói chung của Viện KSND. Trong giai đoạn điều tra các
VAHS thì kiểm sát các hoạt động điều tra là sự giám sát trực tiếp các hoạt động
cụ thể của cơ quan điều tra, cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều
tra trong quá trình tố tụng với mục đích là nhằm đảm bảo cho pháp luật được
áp dụng nghiêm chỉnh và thống nhất trong quá trình giải quyết vụ án. Bản chất
pháp lý của chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra
các VAHS là kiểm tra tính có căn cứ và tính hợp pháp trong hành vi của các
chủ thể điều tra và các chủ thể tham gia quá trình TTHS.
Như vậy, kiểm sát điều tra các vụ án hình sự là quyền năng tư pháp
của Viện kiểm sát nhân dân để kiểm tra, giám sát tính hợp pháp của các hành
vi, quyết định tố tụng hình sự của các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền điều
tra, của những người tham gia tố tụng hình sự kể từ khi khởi tố vụ án hình sự
nhằm bảo đảm các hành vi, quyết định đó được chấp hành đúng pháp luật và
giải quyết đúng đắn vụ án hình sự, loại trừ oan sai, góp phần bảo vệ quyền
con người, quyền công dân trong hoạt động điều tra.
26
Từ định nghĩa trên có thể thấy hoạt động này có một số đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra các
VAHS là quyền năng hiến định của Viện KSND được quy định và thực hiện
trên cơ sở Hiến pháp và các văn bản pháp luật liên quan.
Thứ hai, đối tượng của các hoạt động kiểm sát của Viện KSND trong
giai đoạn điều tra các VAHS là các hành vi, quyết định tố tụng hình sự của
các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng
và các chủ thể khác có liên quan trong quá trình điều tra các VAHS.
Thứ ba, phạm vi của hoạt động KSĐT các VAHS được xác định bắt
đầu từ khi khởi tố vụ án và được kết thúc điều tra bằng bản kết luận điều tra
của cơ quan có thẩm quyền chuyển cho VKS đề nghị truy tố hoặc khi CQĐT
ra quyết định đình chỉ điều tra vụ án.
Thứ tư, nội dung của KSĐT các VAHS của VKS là giám sát trực tiếp và
điều chỉnh mọi hoạt động tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành
tố tụng và các chủ thể khác có liên quan trong quá trình điều tra các VAHS.
1.2.2. Nội dung thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các tội
xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt
Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp là hai chức
năng hiến định của Viện KSND được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác,
tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra,
truy tố, xét xử VAHS. Nhưng trong giai đoạn điều tra các VAHS, hai chức
năng này chỉ được thực hiện từ khi khởi tố đến khi kết thúc điều tra thông qua
những nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể quy định tại Điều 14, 15 Luật tổ chức Viện
kiểm sát nhân dân năm 2014 và Điều 23, 112, 113 Bộ luật TTHS. Do đó,
THQCT và KSĐT các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt được thể hiện qua
các nội dung sau:
27
1.2.2.1. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hành quyền
công tố
- Nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong việc khởi tố các vụ án XPSH
có tính chất chiếm đoạt
+ Yêu cầu CQĐT khởi tố hoặc thay đổi quyết định khởi tố VAHS:
VKS yêu cầu CQĐT khởi tố VAHS khi nhận được kiến nghị khởi tố hình
sự của cơ quan Nhà nước và khi vụ án đang được điều tra. Viện kiểm sát
yêu cầu CQĐT thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố các vụ án XPSH
có tính chất chiếm đoạt nếu trong quá trình tiến hành điều tra hoặc khi đã
kết thúc điều tra, có căn cứ xác định tội phạm đã khởi tố không đúng với
hành vi phạm tội xảy ra hoặc còn có tội phạm khác. Nếu CQĐT không thực
hiện thì VKS trực tiếp ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi
tố VAHS theo quy định tại Điều 106 Bộ Luật TTHS.
+ Hủy bỏ các quyết định khởi tố, quyết định thay đổi hoặc bổ sung
quyết định khởi tố vụ án, quyết định không khởi tố vụ án trái pháp luật: Khi
thấy quyết định khởi tố vụ án XPSH có tính chất chiếm đoạt của các cơ quan
có thẩm quyền không có căn cứ theo quy định tại Điều 100 Bộ luật TTHS thì
VKS ra quyết định hủy quyết định khởi tố đó. Riêng quyết định khởi tố
VAHS của Hội đồng xét xử thì VKS không có quyền hủy, nhưng nếu xác
định không có căn cứ thì VKS kháng nghị lên Tòa án cấp trên trực tiếp của
Tòa đã khởi tố vụ án. Khi xác định quyết định không khởi tố vụ án của
CQĐT, cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra
không có căn cứ quy định tại Điều 107 Bộ luật TTHS thì Viện KSND hủy bỏ
quyết định đó.
+ Quyết định khởi tố VAHS: VKS ra quyết định khởi tố vụ án XPSH
có tính chất chiếm đoạt trong ba trường hợp sau đây: Khi hủy quyết định
không khởi tố của CQĐT; khi Hội đồng xét xử yêu cầu VKS khởi tố vụ án;
28
khi xác định hành vi của Điều tra viên có dấu hiệu tội phạm (Điều 104 Bộ luật
TTHS). Để khởi tố vụ án VKS phải căn cứ vào Điều 100 Bộ luật TTHS. Tuy
nhiên nếu yêu cầu khởi tố vụ án của Hội đồng xét xử không có căn cứ khởi tố
và có các căn cứ không được khởi tố VAHS quy định tại Điều 107 Bộ luật
TTHS thì VKS có quyền ra quyết định không khởi tố VAHS.
Như vậy suy cho cùng việc khởi tố hay không khởi tố vụ án là do cơ
quan thực hành quyền công tố (Viện kiểm sát nhân dân) quyết định.
- Nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong việc quyết định khởi tố bị can
+ Phê chuẩn, không phê chuẩn quyết định khởi tố bị can: Khi nhận
được quyết định khởi tố bị can và các tài liệu liên quan đến việc khởi tố bị
can, trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được quyết định khởi tố bị can
VKS phải quyết định phê chuẩn hoặc quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố bị
can và gửi ngay cho CQĐT (Điều 126 Bộ luật TTHS).
+ Yêu cầu khởi tố bị can: Trong giai đoạn điều tra, nếu thấy ngoài bị
can đã bị khởi tố còn có người khác đã thực hiện hành vi phạm tội trong vụ án
chưa bị khởi tố thì Kiểm sát viên thụ lý vụ án báo cáo Viện trưởng, Phó Viện
trưởng hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng ủy quyền ra văn bản yêu cầu cơ
quan có thẩm quyền ra quyết định khởi tố bị can đối với người đó (Điều 126
Bộ luật TTHS).
+ Khởi tố bị can: VKS chỉ ra quyết định khởi tố bị can sau khi nhận
hồ sơ và bản kết luận điều tra mà phát hiện có người khác đã thực hiện hành
vi phạm tội trong vụ án mà chưa bị khởi tố. Khi đó Kiểm sát viên báo cáo
Viện trưởng hoặc Phó Viện trưởng để xem xét quyết định việc khởi tố bị can
theo quy định tại Khoản 5 Điều 126 Bộ luật TTHS. Trong thời hạn 24 giờ,
kể từ khi ra quyết định khởi tố bị can, Viện KSND phải gửi cho CQĐT để
tiến hành điều tra.
- Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi tiến hành các hoạt động
29
điều tra: VKS trực tiếp tiến hành điều tra trong các trường hợp: Khi có yêu
cầu của CQĐT hoặc qua kiểm sát việc hỏi cung phát hiện thấy bị can kêu oan,
lời khai của bị can trước sau không thống nhất; Bị can có khiếu nại việc điều
tra; Có căn cứ để nghi ngờ về tính xác thực của lời khai bị can; Trường hợp bị
can bị khởi tố về tội đặc biệt nghiêm trọng thì Viện KSND có thể trực tiếp
gặp, hỏi cung bị can. Kiểm sát viên khi hỏi cung bị can phải thực hiện theo
đúng quy định tại các Điều 131 và 132 Bộ luật TTHS.
Để đảm bảo việc xét phê chuẩn các quyết định của CQĐT được chính
xác, Kiểm sát viên có thể triệu tập và lấy lời khai người làm chứng, người bị
hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan
đến vụ án, lấy lời khai người bị bắt, người bị tạm giữ, hỏi cung bị can.
Kiểm sát viên chỉ tiến hành đối chất trong trường hợp có yêu cầu của
CQĐT hoặc thấy việc đối chất của Điều tra viên chưa làm rõ được mâu thuẫn.
Khi cần phải đối chất Kiểm sát viên phải thông báo trước với Điều tra viên và
thực hiện việc đối chất theo đúng quy định tại Điều 138 Bộ luật TTHS.
- Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong việc áp dụng, thay đổi,
hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn:
+ Phê chuẩn, không phê chuẩn việc áp dụng biện pháp ngăn chặn của
CQĐT: Luật TTHS quy định lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp, quyết
định gia hạn tạm giữ, lệnh tạm giam và lệnh đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để
bảo đảm của CQĐT phải được VKS phê chuẩn. Nếu VKS thấy không có căn
cứ hợp pháp và không phê chuẩn thì các biện pháp ngăn chặn đó bị hủy bỏ.
+ Quyết định áp dụng các biện pháp ngăn chặn thuộc thẩm quyền: Theo
quy định tại Khoản 4 Điều 112 Bộ luật TTHS và Khoản 5 Điều 14 Luật tổ
chức Viện KSND năm 2014, trong giai đoạn điều tra Viện kiểm sát có quyền
độc lập trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn. Như vậy, khi xác định
các đối tượng có căn cứ để áp dụng các biện pháp ngăn chặn nhưng CQĐT
30
không áp dụng, nếu xét thấy cần thiết thì VKS có quyền ra lệnh áp dụng các
biện pháp thuộc thẩm quyền.
+ Thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn: Trong giai đoạn điều
tra, VKS có quyền thay đổi, hủy bỏ đối với tất cả các biện pháp ngăn chặn
nếu xét thấy việc áp dụng không có căn cứ hoặc không cần thiết nữa. Với
những biện pháp ngăn chặn mà VKS phê chuẩn, chỉ VKS mới có quyền
thay đổi hoặc hủy bỏ.
- Ngoài ra, Viện KSND còn có nhiệm vụ, quyền hạn khác trong quá
trình THQCT đối với các vụ án XPSH có tính chất chiếm đoạt.
+ Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu CQĐT, cơ quan được giao nhiệm
vụ tiến hành một số hoạt động điều tra thực hiện việc điều tra để làm rõ tội
phạm, người phạm tội; Yêu cầu CQĐT truy nã bị can: Yêu cầu điều tra là
những yêu cầu về những vấn đề cần điều tra làm rõ, tài liệu chứng cứ cần thu
thập liên quan đến các vụ án XPSH có tính chất chiếm đoạt . Đây chính là
quyền năng pháp lý của Cơ quan công tố đối với CQĐT trong quá trình điều
tra. Việc đề ra yêu cầu điều tra do Kiểm sát viên tiến hành. Kiểm sát viên có
thể đề ra yêu cầu điều tra bằng lời nói hoặc bằng văn bản. Nếu có căn cứ xác
định có bị can đang bỏ trốn nhưng chưa bị truy nã thì Viện KSND yêu cầu
CQĐT ra quyết định truy nã bị can.
+ Phê chuẩn, không phê chuẩn hoặc hủy bỏ các quyết định tố tụng khác
của CQĐT: Khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án
XPSH có tính chất chiếm đoạt, VKS ra quyết định phê chuẩn hoặc không phê
chuẩn các quyết định của CQĐT như lệnh khám xét, quyết định thu giữ thư
tín điện tín. Đối với các quyết định tố tụng khác, nếu xác định CQĐT ra quyết
định không có căn cứ thì VKS có quyền hủy bỏ.
+ Quyết định việc gia hạn thời hạn điều tra, thời hạn tạm giam, áp dụng
thủ tục rút gọn, áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh: Để đảm bảo việc điều
31
tra các vụ án XPSH có tính chất chiếm đoạt cũng như việc áp dụng các biện
pháp ngăn chặn thực hiện đúng thời hạn, pháp luật TTHS trao quyền và trách
nhiệm cho VKS quyết định việc gia hạn điều tra và gia hạn tạm giam để điều
tra. Thời hạn và thẩm quyền gia hạn điều tra, gia hạn tạm giam để điều tra
được thực hiện theo quy định tại Điều 120 Bộ luật TTHS.
Đối với trường hợp cần chuyển vụ án để điều tra cho đúng thẩm quyền,
VKS sẽ xem xét quyết định khi nhận được đề nghị của CQĐT cùng cấp. Nếu
chuyển vụ án trong phạm vi tỉnh thì VKS cùng cấp sẽ quyết định, nếu chuyển
vụ án ra ngoài phạm vi tỉnh thì VKS cấp tỉnh sẽ quyết định.
Sau khi nhận được quyết định khởi tố và các tài liệu liên quan đến vụ án
XPSH có tính chất chiếm đoạt, nếu các tài liệu chứng tỏ người thực hiện hành
vi phạm tội bị bắt quả tang, sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng, tội
phạm đã được thực hiện là tội phạm ít nghiêm trọng và người phạm tội có căn
cước, lai lịch rõ ràng thì VKS có thể tự mình hoặc theo đề nghị của CQĐT
quyết định áp dụng thủ tục rút gọn để giải quyết vụ án được nhanh chóng.
Trong giai đoạn điều tra nếu có kết luận của Hội đồng giám định y
khoa xác định bị can bị bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo khác làm mất
khả năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi thì VKS quyết định áp dụng biện
pháp bắt buộc chữa bệnh đối với bị can đó.
1.2.2.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện KDND khi kiểm sát điều tra
- Kiểm sát việc khởi tố các vụ án XPSH có tính chất chiếm đoạt
Kiểm sát việc khởi tố là việc thực hiện chức năng kiểm sát các hoạt
động tư pháp của VKS trong giai đoạn điều tra các VAHS, thông qua việc
thực hiện chức năng này VKS có trách nhiệm bảo đảm quyết định khởi tố
hoặc quyết định không khởi tố VAHS của cơ quan có thẩm quyền phải có căn
cứ và hợp pháp. Để đảm bảo kiểm sát việc khởi tố, các quyết định liên quan
đến việc khởi tố các vụ án XPSH có tính chất chiếm đoạt của CQĐT và các
32
cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải gửi cho
Viện KSND trong thời hạn 24 giờ kể từ thời điểm ban hành quyết định đó.
Trong thời hạn 03 ngày kể từ khi nhận được các quyết định trên, Viện KSND
phải cử Kiểm sát viên tiến hành kiểm tra tính có căn cứ và tính hợp pháp của
các quyết định đó.
Để thực hiện tốt chức năng kiểm sát việc khởi tố, VKS phải cùng
CQĐT phân loại và xử lý các tố giác, tin báo về tội phạm và giám sát chặt chẽ
việc xác minh của CQĐT. Việc này sẽ giúp VKS loại trừ ngay từ đầu các vi
phạm pháp luật của CQĐT và yêu cầu CQĐT sớm có biện pháp khắc phục
kịp thời để hạn chế việc khởi tố tràn lan không có căn cứ hoặc không khởi tố
vụ án không có căn cứ dẫn đến bỏ lọt tội phạm.
- Kiểm sát các hoạt động điều tra trong quá trình điều tra các vụ án
XPSH có tính chất chiếm đoạt.
+ Kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường:
Khám nghiệm hiện trường đóng vai trò rất quan trọng trong điều tra, xử
lý tội phạm. Trong nhiều vụ án, kết quả khám nghiệm hiện trường có tính chất
quyết định đối với việc điều tra. Chính vì vậy, VKS phải kiểm sát khám
nghiệm hiện trường hết sức chặt chẽ nhằm đảm bảo cho hoạt động khám
nghiệm hiện trường đúng quy định của Bộ luật TTHS và đáp ứng yêu cầu
nghiệp vụ điều tra, xử lý tội phạm.
Khi khám nghiệm hiện trường, Kiểm sát viên cần lưu ý một số vấn đề
sau:việc có mặt của Kiểm sát viên tại buổi khám nghiệm là bắt buộc; Kiểm sát
viên cần đảm bảo các yêu cầu pháp lý của buổi khám nghiệm như cần có người
chứng kiến, các nhà chuyên môn liên quan đến lĩnh vực khám nghiệm…; yêu
cầu lực lượng khám nghiệm thực hiện nghiêm túc, tỉ mỉ, phát hiện, thu giữ,
đánh giá đầy đủ, chính xác dấu vết, vật chứng phản ánh việc lục soát, chiếm
đoạt tài sản, đặc điểm, chủng loại tài sản bị chiếm đoạt; Kiểm sát viên có thể
chụp ảnh, vẽ sơ đồ hiện trường, xem xét tại chỗ dấu vết, đồ vật, tài liệu liên
33
quan đến vụ việc; lấy lời khai và ghi âm lời khai của người bị hại, người biết về
sự việc khác tại hiện trường; Kiểm sát viên phải bảo đảm những nội dung của
buổi khám nghiệm phải được thể hiện đầy đủ trong biên bản khám nghiệm hiện
trường, đảm bảo giá trị pháp lý của biên bản khám nghiệm.
+ Kiểm sát khởi tố bị can
Việc ra quyết định khởi tố bị can của CQĐT với mục đích là nhằm xác
định về mặt pháp lý một con người cụ thể đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho
xã hội được coi là tội phạm và quyết định khởi tố bị can đó sẽ trực tiếp hạn
chế quyền một số quyền và lợi ích hợp pháp thuộc về nhân thân người bị khởi
tố. Do đó, để nhằm hạn chế những vi phạm pháp luật của CQĐT trong việc
khởi tố bị can, đảm bảo cho việc khởi tố có căn cứ, đúng người, đúng tội,
VKS phải kiểm sát chặt chẽ các quyết định khởi tố bị can của CQĐT.
Nội dung mà VKS tiến hành kiểm sát khởi tố bị can là kiểm tra tính có căn
cứ và hợp pháp của quyết định khởi tố bị can của CQĐT và cơ quan khác được
giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, đảm bảo việc khởi tố đúng
người, đúng tội, nội dung và hình thức của quyết định khởi tố đúng pháp luật.
+ Kiểm sát hoạt động hỏi cung bị can:
Cơ sở pháp lý để VKS thực hiện kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
việc hỏi cung bị can là Bộ luật TTHS năm 2003, Điều 15 Luật tổ chức Viện
KSND năm 2014 và Điều 16 Quy chế công tác thực hành quyền công tố và kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự của Viện kiểm
sát nhân dân tối cao năm 2008 (sau đây gọi tắt là Quy chế công tác kiểm sát). Để
kiểm sát việc hỏi cung bị can, Kiểm sát viên có thể trực tiếp tham gia các buổi
hỏi cung của Điều tra viên hoặc nghiên cứu biên bản hỏi cung. Qua nghiên cứu
các biên bản hỏi cung bị can, nếu thấy chưa làm rõ được chứng cứ buộc tội,
chứng cứ xác minh không có tội và các tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự của bị can hoặc CQĐT chưa phân hóa làm rõ được vai trò
34
của từng bị can khi có nhiều đối tượng cùng tham gia thực hiện hành vi phạm tội
thì VKS cần yêu cầu CQĐT hỏi bổ sung bị can để làm rõ các vấn đề nói trên.
Nếu phát hiện có dấu hiệu mớm cung, bức cung, dùng nhục hình...thì
Kiểm sát viên sẽ thực hiện việc phúc cung bị can nhằm kiểm tra lại toàn bộ
các lời khai của bị can có phù hợp với các chứng cứ khác của vụ án đã được
thu thập hay không. Nếu các lời khai của bị can không thống nhất hoặc giữa
lời khai của các bị can có nhiều mâu thuẫn thì phải yêu cầu CQĐT cho đối
chất hoặc tiến hành thực nghiệm điều tra.
Đối với bị can là người chưa thành niên, là người nước ngoài, là người
dân tộc thiểu số, là người không biết chữ... Đây là những trường hợp đặc biệt
và trong thực tế thường hay có những sai sót trong quá trình hỏi cung, ảnh
hưởng tới quyền và lợi ích của họ. Do vậy, VKS phải kiểm sát hết sức chặt
chẽ, đảm bảo cho quá trình hỏi cung đúng quy định của pháp luật như bị can
là người chưa thành niên thì phải có người giám hộ tham gia buổi hỏi cung, bị
can là người nước ngoài thì phải có người phiên dịch tham gia…
+ Kiểm sát hoạt động khám xét, thu giữ, tạm giữ đồ vật tài liệu và kê
biên tài sản:
Theo quy định của BLTTHS 2003 thì hoạt động khám xét bao gồm:
khám người, khám chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm, đồ vật, thư tín, điện tín,
bưu kiện, bưu phẩm. Những hoạt động này có ảnh hưởng trực tiếp đến
quyền tự do về thân thể, quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, an toàn và bí
mật thư tín, điện thoại điện tín của công dân. Do vậy, hoạt động khám xét
chỉ được tiến hành khi có căn cứ để nhận định rằng, ở đó có công cụ,
phương tiện phạm tội, đồ vật, tài sản do phạm tội mà có hoặc đồ vật, tài sản
có liên quan đến vụ án. Việc khám chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm để phát
hiện người đang bị truy nã ẩn nấp cũng chỉ được tiến hành, khi có căn cứ xác
định người đang bị truy nã trốn ở đó.
35
Hoạt động kiểm sát việc khám xét được thực hiện theo các quy định tại
Điều 140, 141, 142, 143, 144, 145, 148 Bộ luật TTHS năm 2003; Điều 15
Luật tổ chức Viện KSND năm 2014 và Điều 14 Quy chế công tác kiểm sát.
+ Kiểm sát các hoạt động điều tra khác: Đối với các hoạt động điều tra
khác như lấy lời khai người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị
đơn dân sự, đối chất, nhận dạng, xem xét dấu vết trên thân thể, thực nghiệm
điều tra, trưng cầu giám định thì Luật TTHS cũng cho phép VKS được tiến
hành những hoạt động này nhưng mang tính chất thực hành quyền công tố
hơn là kiểm sát điều tra. Vì vậy, việc kiểm sát các hoạt động này được thực
hiện chủ yếu thông qua nghiên cứu hồ sơ, xem xét kết quả của các hoạt động
đó của CQĐT.
- Kiểm sát việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn
Việc áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn có ý nghĩa rất quan
trọng trong giai đoạn điều tra vụ án, đảm bảo cho quá trình điều tra VAHS được
thuận lợi. Bên cạnh đó, nó cũng ảnh hưởng tới những quyền cơ bản của công
dân, nhất là biện pháp tạm giữ, tạm giam. Do vậy, việc áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ
biện pháp ngăn chặn cần được đặt dưới sự kiểm sát chặt chẽ của VKS, đảm bảo
việc áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn có căn cứ, đúng quy định
pháp luật. Việc bảo đảm áp dụng biện pháp ngăn chặn đúng pháp luật là trách
nhiệm của VKS, vì “… ở đâu có việc bắt giam, giữ trái pháp luật thì VKS ở đó
phải chịu trách nhiệm” [6].
Khi kiểm sát việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong các vụ án
XPSH có tính chất chiếm đoạt, Kiểm sát viên phải kiểm sát tính có căn cứ và
hợp pháp, sự cần thiết phải áp dụng các biện pháp đó đối với từng đối tượng.
Viện kiểm sát phải yêu cầu CQĐT tuân thủ đúng thủ tục quy định tại Điều 80
BLTTHS khi tiến hành bắt bị can để tạm giam, Điều 81 BLTTHS 2003 khi tiến
hành bắt người trong trường hợp khẩn cấp; Điều 83, 86, 87 đối với việc áp dụng
biện pháp tạm giữ; Điều 88 đối với việc áp dụng biện pháp tạm giam.
36
- Kiểm sát thời hạn điều tra, tạm đình chỉ điều tra, đình chỉ điều tra
+ Kiểm sát thời hạn điều tra: Hoạt động điều tra VAHS chỉ được tiến
hành trong một thời hạn xác định. Khoản 1,2 Điều 119 Bộ luật TTHS năm
2003 đã quy định cụ thể thời hạn điều tra cho từng loại tội phạm theo mức độ
nghiêm trọng của tội phạm. Khi cần gia hạn điều tra, CQĐT phải có văn bản
đề nghị VKS gia hạn điều tra. Vì vậy, để kiểm sát tốt thời hạn điều tra, Kiểm
sát viên phải theo dõi sát tiến trình điều tra, kịp thời nhắc nhở Điều tra viên
nhanh chóng tiến hành các biện pháp điều tra để đảm bảo về thời hạn điều tra.
Khi nhận được đề nghị gia hạn điều tra của CQĐT, Kiểm sát viên phải nghiên
cứu hồ sơ vụ án, đánh giá đúng tính chất, mức độ nghiêm trọng của vụ án và
tính tích cực trong điều tra của Cơ quan điều tra để đề nghị lãnh đạo VKS có
thẩm quyền quyết định việc gia hạn theo đúng quy định tại Điều 119 Bộ luật
TTHS năm 2013.
+ Kiểm sát tạm đình chỉ điều tra, truy nã bị can.
Trong quá trình điều tra VAHS khi xác định có căn cứ được quy định
tại Điều 160 BLTTHS, Cơ quan điều tra ra quyết định tạm đình chỉ điều tra.
Quyết định tạm đình chỉ điều tra phải được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp.
Viện kiểm sát có trách nhiệm kiểm tra, xem xét nhằm đảm bảo tính có căn cứ,
tính hợp pháp trong việc quyết định tạm đình chỉ điều tra.
+ Kiểm sát đình chỉ điều tra.
Việc ra quyết định đình chỉ điều tra là chấm dứt hoạt động tố tụng hình
sự đối với vụ án hoặc đối với bị can, điều đó cũng có nghĩa là vụ án được kết
thúc điều tra. VKS phải kiểm sát chặt chẽ việc CQĐT gửi quyết định đình chỉ
điều tra, bản kết luận điều tra cùng hồ sơ vụ án cho VKS để xem xét. Viện
kiểm sát phải xem xét, nghiên cứu thủ tục ban hành bản kết luận điều tra và
quyết định đình chỉ điều tra như ngày, tháng, năm, họ tên, chức vụ và chữ ký
của người ra kết luận. Đồng thời, phải kiểm sát các căn cứ của quyết định
đình chỉ điều tra theo quy định tại Điều 164 Bộ luật TTHS.
37
- Kiểm sát một số nội dung khác trong giai đoạn điều tra.
+ Kiểm sát việc lập hồ sơ vụ án của CQĐT: Đây là một trong những
nhiệm vụ quan trọng để thực hiện chức năng kiểm sát điều tra của VKS nhằm
đảm bảo hồ sơ vụ án thể hiện trung thực tòa bộ kết quả điều tra, làm cơ sở để
giải quyết đúng đắn vụ án. Khi kiểm sát việc lập hồ sơ vụ án, các Kiểm sát
viên phải kiểm sát cả về trình tự, thủ tục tố tụng và nội dung của các tài liệu
có trong hồ sơ vụ án theo đúng quy định của pháp luật. Trong đó, đặc biệt chú
ý đến trình tự, thủ tục thu thập và tính toàn diện, khách quan của các tài liệu là
chứng cứ xác định tội phạm trong vụ án. Những vi phạm trong việc lập hồ sơ
vụ án như vi phạm về trình tự, thủ tục, thêm, bớt, làm sai lệch hồ sơ vụ án....
phải được phát hiện kịp thời và yêu cầu CQĐT khắc phục ngay. Những cán
bộ điều tra có sai phạm phải được yêu cầu xử lý theo pháp luật.
+ Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những người tham gia tố tụng.
Với nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp
luật của những người tham gia tố tụng không chỉ nhằm bảo đảm thực hiện các
quyền và nghĩa vụ của họ do pháp luật quy định mà còn đảm bảo tính khách
quan, đúng đắn của việc giải quyết vụ án.Những người tham gia tố tụng như
người làm chứng, người bị hại, người giám định, người bào chữa, người phiên
dịch có trách nhiệm phải tuân thủ những quy định của pháp luật tố tụng hình
sự. Đây là đòi hỏi tất yếu trong quá trình điều tra vụ án hình sự, góp phần rất
lớn vào hiệu quả của quá trình điều tra vụ án hình sự. Trong quá trình kiểm sát,
nếu VKS phát hiện thấy người bào chữa, người giám định, người phiên dịch có
hành vi vi phạm pháp luật thì phải có biện pháp xử lý phù hợp như: yêu cầu họ
khắc phục vi phạm, thu hồi giấy chứng nhận bào chữa, yêu cầu Văn phòng luật
sư có biện pháp xử lý đối với người bào chữa, yêu cầu cơ quan của người giám
định, người phiên dịch có biện pháp xử lý thích hợp hoặc truy cứu trách nhiệm
hình sự nếu hành vi của họ có dấu hiệu tội phạm.
Kiểm sát điều tra đối với các tội xâm phạm sở hữu tại Hà Nội, HAY
Kiểm sát điều tra đối với các tội xâm phạm sở hữu tại Hà Nội, HAY
Kiểm sát điều tra đối với các tội xâm phạm sở hữu tại Hà Nội, HAY
Kiểm sát điều tra đối với các tội xâm phạm sở hữu tại Hà Nội, HAY
Kiểm sát điều tra đối với các tội xâm phạm sở hữu tại Hà Nội, HAY
Kiểm sát điều tra đối với các tội xâm phạm sở hữu tại Hà Nội, HAY
Kiểm sát điều tra đối với các tội xâm phạm sở hữu tại Hà Nội, HAY
Kiểm sát điều tra đối với các tội xâm phạm sở hữu tại Hà Nội, HAY
Kiểm sát điều tra đối với các tội xâm phạm sở hữu tại Hà Nội, HAY
Kiểm sát điều tra đối với các tội xâm phạm sở hữu tại Hà Nội, HAY
Kiểm sát điều tra đối với các tội xâm phạm sở hữu tại Hà Nội, HAY
Kiểm sát điều tra đối với các tội xâm phạm sở hữu tại Hà Nội, HAY
Kiểm sát điều tra đối với các tội xâm phạm sở hữu tại Hà Nội, HAY
Kiểm sát điều tra đối với các tội xâm phạm sở hữu tại Hà Nội, HAY
Kiểm sát điều tra đối với các tội xâm phạm sở hữu tại Hà Nội, HAY
Kiểm sát điều tra đối với các tội xâm phạm sở hữu tại Hà Nội, HAY
Kiểm sát điều tra đối với các tội xâm phạm sở hữu tại Hà Nội, HAY
Kiểm sát điều tra đối với các tội xâm phạm sở hữu tại Hà Nội, HAY
Kiểm sát điều tra đối với các tội xâm phạm sở hữu tại Hà Nội, HAY
Kiểm sát điều tra đối với các tội xâm phạm sở hữu tại Hà Nội, HAY
Kiểm sát điều tra đối với các tội xâm phạm sở hữu tại Hà Nội, HAY
Kiểm sát điều tra đối với các tội xâm phạm sở hữu tại Hà Nội, HAY
Kiểm sát điều tra đối với các tội xâm phạm sở hữu tại Hà Nội, HAY
Kiểm sát điều tra đối với các tội xâm phạm sở hữu tại Hà Nội, HAY
Kiểm sát điều tra đối với các tội xâm phạm sở hữu tại Hà Nội, HAY
Kiểm sát điều tra đối với các tội xâm phạm sở hữu tại Hà Nội, HAY
Kiểm sát điều tra đối với các tội xâm phạm sở hữu tại Hà Nội, HAY
Kiểm sát điều tra đối với các tội xâm phạm sở hữu tại Hà Nội, HAY
Kiểm sát điều tra đối với các tội xâm phạm sở hữu tại Hà Nội, HAY
Kiểm sát điều tra đối với các tội xâm phạm sở hữu tại Hà Nội, HAY
Kiểm sát điều tra đối với các tội xâm phạm sở hữu tại Hà Nội, HAY
Kiểm sát điều tra đối với các tội xâm phạm sở hữu tại Hà Nội, HAY
Kiểm sát điều tra đối với các tội xâm phạm sở hữu tại Hà Nội, HAY
Kiểm sát điều tra đối với các tội xâm phạm sở hữu tại Hà Nội, HAY
Kiểm sát điều tra đối với các tội xâm phạm sở hữu tại Hà Nội, HAY
Kiểm sát điều tra đối với các tội xâm phạm sở hữu tại Hà Nội, HAY
Kiểm sát điều tra đối với các tội xâm phạm sở hữu tại Hà Nội, HAY
Kiểm sát điều tra đối với các tội xâm phạm sở hữu tại Hà Nội, HAY
Kiểm sát điều tra đối với các tội xâm phạm sở hữu tại Hà Nội, HAY
Kiểm sát điều tra đối với các tội xâm phạm sở hữu tại Hà Nội, HAY
Kiểm sát điều tra đối với các tội xâm phạm sở hữu tại Hà Nội, HAY
Kiểm sát điều tra đối với các tội xâm phạm sở hữu tại Hà Nội, HAY
Kiểm sát điều tra đối với các tội xâm phạm sở hữu tại Hà Nội, HAY
Kiểm sát điều tra đối với các tội xâm phạm sở hữu tại Hà Nội, HAY
Kiểm sát điều tra đối với các tội xâm phạm sở hữu tại Hà Nội, HAY
Kiểm sát điều tra đối với các tội xâm phạm sở hữu tại Hà Nội, HAY
Kiểm sát điều tra đối với các tội xâm phạm sở hữu tại Hà Nội, HAY
Kiểm sát điều tra đối với các tội xâm phạm sở hữu tại Hà Nội, HAY
Kiểm sát điều tra đối với các tội xâm phạm sở hữu tại Hà Nội, HAY
Kiểm sát điều tra đối với các tội xâm phạm sở hữu tại Hà Nội, HAY
Kiểm sát điều tra đối với các tội xâm phạm sở hữu tại Hà Nội, HAY
Kiểm sát điều tra đối với các tội xâm phạm sở hữu tại Hà Nội, HAY
Kiểm sát điều tra đối với các tội xâm phạm sở hữu tại Hà Nội, HAY
Kiểm sát điều tra đối với các tội xâm phạm sở hữu tại Hà Nội, HAY
Kiểm sát điều tra đối với các tội xâm phạm sở hữu tại Hà Nội, HAY

More Related Content

What's hot

What's hot (20)

Luận văn: Điều tra vụ án Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo pháp luật
Luận văn: Điều tra vụ án Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo pháp luậtLuận văn: Điều tra vụ án Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo pháp luật
Luận văn: Điều tra vụ án Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo pháp luật
 
Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy theo Luật hình sự, HOT
Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy theo Luật hình sự, HOTTội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy theo Luật hình sự, HOT
Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy theo Luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luậtLuận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật
 
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Điện Biên
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Điện BiênLuận văn: Các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Điện Biên
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Điện Biên
 
Luận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại TP Đà Nẵng, HAY
Luận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại TP Đà Nẵng, HAYLuận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại TP Đà Nẵng, HAY
Luận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại TP Đà Nẵng, HAY
 
Luận văn: Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép ma túy, HOT
Luận văn: Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép ma túy, HOTLuận văn: Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép ma túy, HOT
Luận văn: Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép ma túy, HOT
 
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
 
Luận văn: Định tội danh tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự, 9đ
Luận văn: Định tội danh tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự, 9đLuận văn: Định tội danh tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự, 9đ
Luận văn: Định tội danh tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự, 9đ
 
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAYLuận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAY
 
Luận văn: Tội buôn lậu trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội buôn lậu trong Luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội buôn lậu trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội buôn lậu trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Phòng ngừa tội cướp giật tài sản tại quận Thủ Đức, 9đ
Luận văn: Phòng ngừa tội cướp giật tài sản tại quận Thủ Đức, 9đLuận văn: Phòng ngừa tội cướp giật tài sản tại quận Thủ Đức, 9đ
Luận văn: Phòng ngừa tội cướp giật tài sản tại quận Thủ Đức, 9đ
 
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOTLuận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
 
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOTLuận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
 
Luận văn: Phòng ngừa tội trộm cắp tài sản tại quận Tân Bình, HAY
Luận văn: Phòng ngừa tội trộm cắp tài sản tại quận Tân Bình, HAYLuận văn: Phòng ngừa tội trộm cắp tài sản tại quận Tân Bình, HAY
Luận văn: Phòng ngừa tội trộm cắp tài sản tại quận Tân Bình, HAY
 
Top 456+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự - Ha...
Top 456+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự - Ha...Top 456+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự - Ha...
Top 456+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự - Ha...
 
Luận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại Tp Hà Nội, 9đ
Luận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại Tp Hà Nội, 9đLuận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại Tp Hà Nội, 9đ
Luận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại Tp Hà Nội, 9đ
 
Luận văn: Kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố vụ án hình sự
Luận văn: Kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố vụ án hình sựLuận văn: Kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố vụ án hình sự
Luận văn: Kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố vụ án hình sự
 
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.14...
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.14...BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.14...
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.14...
 
Luận văn: Tình hình tội cướp giật tài sản Quận 1, TPHCM, 9đ
Luận văn: Tình hình tội cướp giật tài sản Quận 1, TPHCM, 9đLuận văn: Tình hình tội cướp giật tài sản Quận 1, TPHCM, 9đ
Luận văn: Tình hình tội cướp giật tài sản Quận 1, TPHCM, 9đ
 

Similar to Kiểm sát điều tra đối với các tội xâm phạm sở hữu tại Hà Nội, HAY

Similar to Kiểm sát điều tra đối với các tội xâm phạm sở hữu tại Hà Nội, HAY (20)

Đề tài: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong điều tra, HAY
Đề tài: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong điều tra, HAYĐề tài: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong điều tra, HAY
Đề tài: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong điều tra, HAY
 
Luận văn: Pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự, HOTLuận văn: Pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự, HOT
 
Vai trò của Viện kiểm sát trong ngăn chặn giai đoạn điều tra, HOT
Vai trò của Viện kiểm sát trong ngăn chặn giai đoạn điều tra, HOTVai trò của Viện kiểm sát trong ngăn chặn giai đoạn điều tra, HOT
Vai trò của Viện kiểm sát trong ngăn chặn giai đoạn điều tra, HOT
 
Luận văn: Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân, HOT
Luận văn: Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân, HOTLuận văn: Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân, HOT
Luận văn: Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân, HOT
 
Luận văn: Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân, HOT
Luận văn: Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân, HOTLuận văn: Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân, HOT
Luận văn: Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân, HOT
 
Luận văn thạc sĩ: Kiểm sát hoạt động điều tra, HOT
Luận văn thạc sĩ: Kiểm sát hoạt động điều tra, HOTLuận văn thạc sĩ: Kiểm sát hoạt động điều tra, HOT
Luận văn thạc sĩ: Kiểm sát hoạt động điều tra, HOT
 
Luận văn: Kiểm sát hoạt động điều tra - lí luận và thực tiễn, HOT
Luận văn: Kiểm sát hoạt động điều tra - lí luận và thực tiễn, HOTLuận văn: Kiểm sát hoạt động điều tra - lí luận và thực tiễn, HOT
Luận văn: Kiểm sát hoạt động điều tra - lí luận và thực tiễn, HOT
 
Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát theo Luật Tố tụng
Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát theo Luật Tố tụngNgười tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát theo Luật Tố tụng
Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát theo Luật Tố tụng
 
Đề tài: Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Đề tài: Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát nhân dân, HAYĐề tài: Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Đề tài: Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát nhân dân, HAY
 
Hoạt động điều tra tội phạm về trật tự xã hội của cơ quan điều tra
Hoạt động điều tra tội phạm về trật tự xã hội của cơ quan điều traHoạt động điều tra tội phạm về trật tự xã hội của cơ quan điều tra
Hoạt động điều tra tội phạm về trật tự xã hội của cơ quan điều tra
 
Luận văn: Hoạt động điều tra tội phạm về trật tự xã hội, HAY
Luận văn: Hoạt động điều tra tội phạm về trật tự xã hội, HAYLuận văn: Hoạt động điều tra tội phạm về trật tự xã hội, HAY
Luận văn: Hoạt động điều tra tội phạm về trật tự xã hội, HAY
 
Luận văn: Pháp luật về Thi hành án dân sự tại tỉnh Phú Yên, HOT
Luận văn: Pháp luật về Thi hành án dân sự tại tỉnh Phú Yên, HOTLuận văn: Pháp luật về Thi hành án dân sự tại tỉnh Phú Yên, HOT
Luận văn: Pháp luật về Thi hành án dân sự tại tỉnh Phú Yên, HOT
 
Đề tài: Pháp luật trong thực hành quyền công tố khi điều tra, HOT
Đề tài: Pháp luật trong thực hành quyền công tố khi điều tra, HOTĐề tài: Pháp luật trong thực hành quyền công tố khi điều tra, HOT
Đề tài: Pháp luật trong thực hành quyền công tố khi điều tra, HOT
 
Luận văn: Quyền công tố trong vụ án cướp tài sản theo pháp luật
Luận văn: Quyền công tố trong vụ án cướp tài sản theo pháp luậtLuận văn: Quyền công tố trong vụ án cướp tài sản theo pháp luật
Luận văn: Quyền công tố trong vụ án cướp tài sản theo pháp luật
 
Luận văn: Thực hành quyền công tố trong vụ án cướp tài sản
Luận văn: Thực hành quyền công tố trong vụ án cướp tài sảnLuận văn: Thực hành quyền công tố trong vụ án cướp tài sản
Luận văn: Thực hành quyền công tố trong vụ án cướp tài sản
 
Luận văn: Thực hành quyền công tố trong vụ án cướp tài sản, HOT
Luận văn: Thực hành quyền công tố trong vụ án cướp tài sản, HOTLuận văn: Thực hành quyền công tố trong vụ án cướp tài sản, HOT
Luận văn: Thực hành quyền công tố trong vụ án cướp tài sản, HOT
 
Luận văn: Thực hành quyền công tố đối với các tội xâm phạm sở hữu
Luận văn: Thực hành quyền công tố đối với các tội xâm phạm sở hữuLuận văn: Thực hành quyền công tố đối với các tội xâm phạm sở hữu
Luận văn: Thực hành quyền công tố đối với các tội xâm phạm sở hữu
 
Luận văn: Quyền công tố về các tội xâm phạm sở hữu theo Luật
Luận văn: Quyền công tố về các tội xâm phạm sở hữu theo LuậtLuận văn: Quyền công tố về các tội xâm phạm sở hữu theo Luật
Luận văn: Quyền công tố về các tội xâm phạm sở hữu theo Luật
 
Luận văn: Điều tra vụ án hình sự có bị can là người dân tộc thiểu số
Luận văn: Điều tra vụ án hình sự có bị can là người dân tộc thiểu sốLuận văn: Điều tra vụ án hình sự có bị can là người dân tộc thiểu số
Luận văn: Điều tra vụ án hình sự có bị can là người dân tộc thiểu số
 
Vai trò của Điều tra viên trong giải quyết vụ án hình sự, HOT
Vai trò của Điều tra viên trong giải quyết vụ án hình sự, HOTVai trò của Điều tra viên trong giải quyết vụ án hình sự, HOT
Vai trò của Điều tra viên trong giải quyết vụ án hình sự, HOT
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

Tẩy trắng răng - dental bleaching slideshare
Tẩy trắng răng - dental bleaching slideshareTẩy trắng răng - dental bleaching slideshare
Tẩy trắng răng - dental bleaching slideshare
HuyBo25
 

Recently uploaded (20)

PHIẾU KHẢO SÁT MỨC ĐỘ HÀI LÒNG VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ VẬN CHUYỂN HÀNG KHÁCH BẰ...
PHIẾU KHẢO SÁT MỨC ĐỘ HÀI LÒNG VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ VẬN CHUYỂN HÀNG KHÁCH BẰ...PHIẾU KHẢO SÁT MỨC ĐỘ HÀI LÒNG VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ VẬN CHUYỂN HÀNG KHÁCH BẰ...
PHIẾU KHẢO SÁT MỨC ĐỘ HÀI LÒNG VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ VẬN CHUYỂN HÀNG KHÁCH BẰ...
 
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN...
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN...CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN...
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN...
 
Hoàn thiện hoạt động kiểm soát rủi ro tín dụng trong cho vay doanh nghiệp tại...
Hoàn thiện hoạt động kiểm soát rủi ro tín dụng trong cho vay doanh nghiệp tại...Hoàn thiện hoạt động kiểm soát rủi ro tín dụng trong cho vay doanh nghiệp tại...
Hoàn thiện hoạt động kiểm soát rủi ro tín dụng trong cho vay doanh nghiệp tại...
 
NHKTS SLIDE B2 KHAI NIEM FINTECH VA YEU TO CUNG CAU DOI MOI TRONG CN_GV HANG ...
NHKTS SLIDE B2 KHAI NIEM FINTECH VA YEU TO CUNG CAU DOI MOI TRONG CN_GV HANG ...NHKTS SLIDE B2 KHAI NIEM FINTECH VA YEU TO CUNG CAU DOI MOI TRONG CN_GV HANG ...
NHKTS SLIDE B2 KHAI NIEM FINTECH VA YEU TO CUNG CAU DOI MOI TRONG CN_GV HANG ...
 
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bày về triế...
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bày về triế...Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bày về triế...
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bày về triế...
 
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 1-20) ...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 1-20) ...40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 1-20) ...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 1-20) ...
 
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN...
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN...CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN...
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN...
 
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...
 
Tẩy trắng răng - dental bleaching slideshare
Tẩy trắng răng - dental bleaching slideshareTẩy trắng răng - dental bleaching slideshare
Tẩy trắng răng - dental bleaching slideshare
 
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá thực trạng an toàn vệ sinh lao động và rủi ro lao...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá thực trạng an toàn vệ sinh lao động và rủi ro lao...Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá thực trạng an toàn vệ sinh lao động và rủi ro lao...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá thực trạng an toàn vệ sinh lao động và rủi ro lao...
 
Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...
Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...
Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...
 
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TOÁN 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯỜNG...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TOÁN 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯỜNG...TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TOÁN 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯỜNG...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TOÁN 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯỜNG...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Phân tích báo cáo tài chính tại công ty TNHH xây dựng và thương mại Thịnh An
Phân tích báo cáo tài chính tại công ty TNHH xây dựng và thương mại Thịnh AnPhân tích báo cáo tài chính tại công ty TNHH xây dựng và thương mại Thịnh An
Phân tích báo cáo tài chính tại công ty TNHH xây dựng và thương mại Thịnh An
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
4.NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 3.pptx
4.NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 3.pptx4.NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 3.pptx
4.NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 3.pptx
 
22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...
22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...
22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...
 
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT HÓA HỌC 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT HÓA HỌC 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT HÓA HỌC 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT HÓA HỌC 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
 
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Kế toán tiền mặt tại Công ty trách nhiệm hữu hạn ...
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Kế toán tiền mặt tại Công ty trách nhiệm hữu hạn ...Báo cáo thực tập tốt nghiệp Kế toán tiền mặt tại Công ty trách nhiệm hữu hạn ...
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Kế toán tiền mặt tại Công ty trách nhiệm hữu hạn ...
 
Báo cáo bài tập Quản trị Marketing Kế hoạch marketing cho ống hút cỏ của Gree...
Báo cáo bài tập Quản trị Marketing Kế hoạch marketing cho ống hút cỏ của Gree...Báo cáo bài tập Quản trị Marketing Kế hoạch marketing cho ống hút cỏ của Gree...
Báo cáo bài tập Quản trị Marketing Kế hoạch marketing cho ống hút cỏ của Gree...
 

Kiểm sát điều tra đối với các tội xâm phạm sở hữu tại Hà Nội, HAY

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT DƢƠNG THỊ THU HÕA Thùc hµnh quyÒn c«ng tè vµ kiÓm s¸t ®iÒu tra ®èi víi c¸c téi x©m ph¹m së h÷u cã tÝnh chÊt chiÕm ®o¹t (trªn c¬ së nghiªn cøu thùc tiÔn ®Þa bµn quËn CÇu GiÊy, thµnh phè Hµ Néi) LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT DƢƠNG THỊ THU HÕA Thùc hµnh quyÒn c«ng tè vµ kiÓm s¸t ®iÒu tra ®èi víi c¸c téi x©m ph¹m së h÷u cã tÝnh chÊt chiÕm ®o¹t (trªn c¬ së nghiªn cøu thùc tiÔn ®Þa bµn quËn CÇu GiÊy, thµnh phè Hµ Néi) Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: GS.TS. ĐƢỜNG MINH GIỚI HÀ NỘI - 2015
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Dƣơng Thị Thu Hòa
  • 4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các chữ viết tắt Danh mục các bảng phụ lục MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT ...................... 7 1.1. Nhận thức chung về điều tra các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt................................................................................... 7 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm pháp lý các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt..................................................................................... 7 1.1.2. Điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt .......... 12 1.2. Khái quát về thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt................... 20 1.2.1. Khái niệm thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự ........................................................................................... 20 1.2.2. Nội dung thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt......................................... 26 1.2.3. Đặc điểm công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt......................... 39 Chƣơng 2: THỰC TRẠNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN CẦU GIẤY........................................................................... 43
  • 5. 2.1. Tình hình tội phạm xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn quận Cầu Giấy từ năm 2010 đến năm 2014.... 43 2.1.1. Vài nét về tình hình, đặc điểm quận Cầu Giấy .................................. 43 2.1.2. Tình hình tội phạm xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn quận Cầu Giấy từ năm 2010 đến năm 2014................... 44 2.2. Thực trạng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra của Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt............................................. 45 2.2.1. Bộ máy tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy liên quan đến thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt......................................... 45 2.2.2. Thực trạng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt ............................. 46 Chƣơng 3: DỰ BÁO TÌNH HÌNH VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIẾM SÁT ĐIỀU TRA ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN CẦU GIẤY..... 57 3.1. Dự báo các tình hình có liên quan đến hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội ........................................................................................ 57 3.1.1. Xu hướng của tội phạm xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn quận Cầu Giấy trong thời gian tới.......................... 57 3.1.2. Những yếu tố khác tác động đến hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn quận Cầu Giấy trong thời gian tới............... 58 3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội................... 61
  • 6. 3.2.1. Hoàn thiện cơ sở pháp lý cho hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp ..................................................... 61 3.2.2. Cần sớm kiện toàn tổ chức Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện và hoàn thiện đội ngũ Kiểm sát viên, Kiểm tra viên theo Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014 .................................................... 67 3.2.3. Đổi mới công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành, phân định trách nhiệm trong công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra..... 70 3.2.4. Tăng cường mối quan hệ phối hợp trên cơ sở pháp luật tố tụng hình sự giữa Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy với cơ quan điều tra và các cơ quan, tổ chức hữu quan khác trong thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt ........................................................................... 72 3.2.5. Quan tâm đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện làm việc cho Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy nói chung và đội ngũ cán bộ Kiểm sát viên thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra............. 73 KẾT LUẬN.................................................................................................... 75 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................... 76
  • 7. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT CQĐT KSĐT KSND THQCT TTHS VAHS VKS : Cơ quan điều tra : Kiểm sát điều tra : Kiểm sát nhân dân : Thực hành quyền công tố : Tố tụng hình sự : Vụ án hình sự : Viện kiểm sát
  • 8. DANH MỤC CÁC BẢNG PHỤ LỤC Số hiệu bảng Tên bảng Trang Bảng 2.1: Thống kê số lượng án xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt Cơ quan điều tra Công an quận Cầu Giấy đã điều tra, xử lý 81 Bảng 2.2: Thống kê số lượng án xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy đã xử lý 82 Bảng 2.3: Thống kê các loại tội xâm phạm sở hữu Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Cầu Giấy đã điều tra, xử lý 83 Bảng 2.4: Thống kê các loại tội xâm phạm sở hữu Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy đã xử lý 86 Bảng 2.5: Thống kê kết quả thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra đối với việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can của Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy từ năm 2010 đến năm 2014 89 Bảng 2.6: Thống kê kết quả thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra đối với việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn của Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy từ năm 2010 đến năm 2014 90 Bảng 2.7: Thống kê kết quả kiểm sát tiếp nhận, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm của Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy 91
  • 9. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp là hai chức năng hiến định của Viện kiểm sát nhân dân và việc đảm bảo thực hiện chức năng này cũng là nhiệm vụ trọng tâm trong chiến lược cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước ta. Nhận thức và quán triệt nghiêm túc tinh thần các nghị quyết của Đảng, trải qua 55 năm xây dựng và trưởng thành, ngành Kiểm sát nhân dân đã góp phần quan trọng trong việc bảo vệ pháp luật, đấu tranh phòng chống tội phạm; giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội; đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa, các quyền dân chủ của công dân. Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội là một bộ phận cấu thành của hệ thống cơ quan Viện kiểm sát nhân dân. Mặc dù mới thành lập được 18 năm (khi tách huyện Từ Liêm cũ thành huyện Từ Liêm và quận Cầu Giấy năm 1997) nhưng Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy đã đạt được nhiều thành tích đáng khích lệ trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm trên địa bàn quận nói riêng và thành phố Hà Nội nói chung. Tính từ năm 2010 đến năm 2014 Viện kiểm sát nhân dân (KSND) quận Cầu Giấy đã kiểm sát khởi tố, điều tra 2065 vụ/ 3146 bị can, trong đó các tội xâm phạm sở hữu (XPSH) có tính chất chiếm đoạt xảy ra 984 vụ với 1314 bị can chiếm tỷ lệ 47% so với số vụ án thụ lý điều tra [46]. Việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can và áp dụng các biện pháp ngăn chặn đảm bảo đúng quy định của pháp luật, việc truy tố, xét xử không có trường hợp nào làm oan người vô tội. Tuy nhiên, hoạt động thực hành quyền công tố (THQCT) và kiểm sát điều tra (KSĐT) đối với các vụ án XPSH có tính chất chiếm đoạt còn nhiều tồn tại, hạn chế như việc thu thập chứng cứ trong hồ sơ không đầy đủ, hình sự hoá
  • 10. 2 các quan hệ dân sự, nhầm lẫn trong việc định tội danh... Những tồn tại trên có nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân trực tiếp do nhận thức của Kiểm sát viên làm công tác THQCT và KSĐT các vụ án XPSH có tính chất chiếm đoạt chưa đầy đủ và thống nhất, các quy định của pháp luật còn thiếu đồng bộ. Mặt khác, lý luận về công tác THQCT và KSĐT đối với loại tội này chưa được xem xét, nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện. Với tình hình thực tế như trên, tác giả chọn đề tài “Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội)" làm luận văn thạc sỹ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu Thực hành quyền công tố và KSĐT là một đề tài rộng, thu hút sự quan tâm của nhiều nhà làm luật và các nhà khoa học. Do vậy, có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về chức năng THQCT và KSĐT của Viện kiểm sát nhân dân trong giai đoạn điều tra nói chung và đối với một số tội nói riêng. Ở cấp độ luận văn thạc sĩ có các công trình tiêu biểu sau: “Một số hoạt động kiểm sát điều tra án kinh tế tại thành phố Hồ Chí Minh” tác giả Vũ Thị Xuân Nhuệ, Luận văn cao học luật, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 1998; "Chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện trên địa bàn thành phố Hà Nội", của Hà Thị Minh Hạnh, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2007; “Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi kiểm sát điều tra”, Bùi Ngọc Tú, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2013... Bên cạnh đó có các giáo trình, sách chuyên khảo, các bài viết, bình luận trên các tạp chí như: “Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra”, sách tham khảo, Lê Hữu Thể (chủ biên), NXB
  • 11. 3 Tư pháp năm 2005; “Kỹ năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự”, NXB Đại học quốc gia Hà Nội, năm 2006; “Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử các vụ án kinh tế - chức vụ”, Nguyễn Mạnh Hiền, Tạp chí Kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Số xuân 2012; “Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án tham nhũng”, Dương Văn Phùng, Tạp chí Kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Số Xuân 2013:“Một số kinh nghiệm trong công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra các vụ án về ma túy” Trấn Thế Vinh, Tạp chí Kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Số 8/2013…. Qua kết quả khảo sát trên cho thấy, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống và chuyên sâu về THQCT và KSĐT đối với các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt trong khi các tội này chiếm tỷ lệ lớn trong quá trình giải quyết án trên các địa bàn. Điều này một lần nữa khẳng định việc nghiên cứu đề tài: "Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội)” là một yêu cầu khách quan, cấp thiết, đáp ứng nhu cầu lý luận và thực tiễn. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích Mục đích nghiên cứu của luận văn là trên cơ sở nghiên cứu những quy định của pháp luật về THQCT và KSĐT nói chung và thực tiễn áp dụng đối với các vụ án XPSH có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn quận Cầu Giấy nói riêng để góp phần làm phong phú thêm lý luận, nhận thức đúng thực tiễn và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động THQCT và KSĐT các vụ án XPSH có tính chất chiếm đoạt.
  • 12. 4 3.2. Nhiệm vụ - Phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về khái niệm THQCT và KSĐT các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân. - Phân tích làm rõ khái niệm, đặc điểm của các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt và hoạt động điều tra của các cơ quan chức năng. - Phân tích những căn cứ, đặc điểm của hoạt động THQCT và KSĐT của Viện kiểm sát nhân dân đối với các vụ án XPSH có tính chất chiếm đoạt. - Khảo sát làm rõ thực trạng THQCT và KSĐT của Viện KSND quận Cầu Giấy đối với các vụ án XPSH có tính chất chiếm đoạt từ năm 2010 đến năm 2014; những kết quả đạt được, những mặt tồn tại và nguyên nhân. - Đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả THQCT và KSĐT của Viện KSND quận Cầu Giấy nói riêng và các cấp Viện kiểm sát nhân dân nói chung, đáp ứng yêu cầu phục vụ nhiệm vụ chính trị địa phương cũng như trong tiến trình cải cách tư pháp hiện nay. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hoạt động THQCT và KSĐT theo chức năng của Viện KSND đối với các vụ án XPSH có tính chất chiếm đoạt, kể từ khi khởi tố cho đến khi kết thúc điều tra vụ án. - Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về THQCT và KSĐT của Viện kiểm sát nhân dân đối với các vụ án XPSH có tính chất chiếm đoạt xảy ra trên địa bàn quận Cầu Giấy do Cơ quan Cảnh sát điều tra thụ lý, trong giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2014. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu - Phương pháp luận: Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp chủ nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền, về chính sách hình sự, về vấn đề cải cách tư pháp được thể hiện trong các Văn kiện Đại
  • 13. 5 hội Đảng VIII, IX, X, XI và các Nghị quyết số 09/NQ-TW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 26/5/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị. - Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng tổng hợp các phương pháp như: thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh… 6. Những điểm mới đóng góp của đề tài Luận văn là tài liệu chuyên sâu nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện về THQCT và KSĐT đối với các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt gắn với thực tiễn của một địa phương cụ thể. Vì vậy, luận văn có một số điểm mới sau: - Phân tích làm sáng tỏ cơ sở lý luận trong hoạt động THQCT và KSĐT nói chung của Viện kiểm sát nhân dân. - Nêu lên những điểm đặc trưng của công tác THQCT và KSĐT đối với các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt. - Trên cơ sở phân tích, đánh giá số liệu, tình hình thực tế, chỉ ra những tồn tại, khó khăn, vướng mắc; nguyên nhân và đề xuất kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của công tác trên. 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cũng như thực tiễn trong hoạt động THQCT và KSĐT của của Viện KSND quận Cầu Giấy đối với các vụ án XPSH có tính chất chiếm đoạt, từ đó có thế tổng kết kinh nghiệm cho toàn ngành. Bên cạnh đó, luận văn góp phần xây dựng, hoàn thiện các tri thức của khoa học Luật Hình sự, Luật tố tụng hình sự, khoa học Điều tra hình sự. Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho cán bộ làm công tác nghiên cứu, giảng dạy về khoa học pháp lý nói chung, khoa học luật hình sự, tố tụng hình sự, tội phạm học….nói riêng. Kết quả nghiên cứu của luận văn còn có thể phục vụ cho việc tham
  • 14. 6 khảo của cán bộ đang công tác tại các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án hình sự được khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề chung về thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt. Chương 2: Thực trạng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn quận Cầu Giấy. Chương 3: Dự báo tình hình và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn quận Cầu Giấy.
  • 15. 7 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT 1.1. Nhận thức chung về điều tra các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm pháp lý các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt 1.1.1.1. Khái niệm Quan hệ sở hữu là một loại quan hệ xã hội giữa người và người trong quá trình chiếm hữu những của cải vật chất trong xã hội. Nó ra đời cùng với các hoạt động kinh tế và được luật hóa thành “quyền sở hữu” khi xuất hiện nhà nước và pháp luật. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, đặc biệt là Hiến pháp năm 2013 và Bộ luật dân sự năm 2005 thì quyền sở hữu là quyền cơ bản của công dân, bao gồm quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản. Các quyền này được pháp luật tôn trọng và bảo vệ. Các tội xâm phạm sở hữu (XPSH) là những hành vi có lỗi gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho quan hệ sở hữu và sự gây thiệt hại này thể hiện được đầy đủ nhất bản chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi [38, tr.5]. Các tội này được quy định tại Chương XXIV Bộ luật Hình sự năm 1999, được sửa đổi, bổ sung năm 2009 (sau đây viết tắt là Bộ luật hình sự), gồm 13 tội được quy định từ Điều 133 đến Điều 145. Đó là các tội: tội cướp tài sản (Điều 133), tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản (Điều 134), tội cưỡng đoạt tài sản (Điều 135), tội cướp giật tài sản (Điều 136), tội công nhiên chiếm đoạt tài sản (Điều 137), tội trộm cắp tài sản (Điều 138), tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 139), tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 140), tội chiếm giữ trái phép tài sản (Điều 141), tội sử dụng trái phép tài sản (Điều 142), tội hủy hoại
  • 16. 8 hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản (Điều 143), tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước (Điều 144), tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản (Điều 145). Căn cứ vào tính chất của mục đích phạm tội, khoa học luật hình sự chia các tội xâm phạm sở hữu thành hai nhóm: (1) các tội có mục đích tư lợi (bao gồm 10 tội từ Điều 133 đến Điều 142 BLHS) và (2) nhóm các tội không có mục đích tư lợi (từ Điều 143 đến Điều 145 BLHS). Đối với nhóm các tội có mục đích tư lợi, dựa vào đặc điểm chung của hành vi phạm tội có thể chia thành nhóm có tính chất chiếm đoạt (bao gồm 8 tội từ Điều 133 đến Điều 140) và nhóm không có tính chất chiếm đoạt (gồm các Điều 141, 142). Vậy tính chất chiếm đoạt ở đây được hiểu như thế nào? Có ý kiến cho rằng “chiếm đoạt là hành vi cố ý chuyển dịch trái pháp luật tài sản đang thuộc sự quản lí của chủ tài sản thành tài sản của mình” [38, tr.11]. Quan điểm này thể hiện được bản chất của khái niệm chiếm đoạt nhưng đã đồng nhất dấu hiệu chiếm đoạt với hành vi chiếm đoạt. Trong khi đó, theo Từ điển tiếng Việt, chiếm đoạt là “chiếm của người làm của mình, bằng cách dựa vào vũ lực, quyền thế”[21, tr.212]. Như vậy, khái niệm chiếm đoạt cần phải bao quát cả ở khía cạnh hành vi phạm tội và mục đích phạm tội. Từ đó, chúng tôi cho rằng khái niệm chiếm đoạt trong dấu hiệu chiếm đoạt cần được hiểu như sau: “chiếm đoạt là việc cố ý chuyển dịch trái pháp luật tài sản đang thuộc sự quản lí của chủ sở hữu thành tài sản của mình. Chúng được biểu hiện dưới dạng hành vi hoặc mục đích phạm tội”. Trên cơ sở khái niệm các tội XPSH và khái niệm chiếm đoạt ở trên, có thể đưa ra khái niệm về các tội XPSH có tính chiếm đoạt như sau: Các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt là những hành vi cố ý chiếm lấy, đoạt lấy tài sản đang do người khác sở hữu hợp pháp làm tài sản của mình vì mục đích vụ lợi.
  • 17. 9 1.1.1.2. Đặc điểm pháp lý của các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt Để nâng cao chất lượng THQCT và KSĐT các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt, trước hết phải nắm vững các đặc điểm pháp lý đặc trưng của các tội này (dựa vào bốn yếu tố cấu thành tội phạm và khái niệm các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt) như sau: - Khách thể của tội phạm Theo khoa học luật hình sự, khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại [37, tr.78]. Nghiên cứu quy định của BLHS đối với các tội từ Điều 133 đến Điều 140 và thực tiễn áp dụng, các tội từ Điều 133 đến Điều 136 BLHS có khách thể không chỉ là quan hệ sở hữu mà còn là quyền nhân thân. Còn đối với các tội từ Điều 137 đến Điều 140 BLHS có khách thể chỉ là quan hệ sở hữu. Về đối tượng tác động thuộc khách thể của tội phạm, các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt có đối tượng tác động là tài sản thuộc sở hữu của người khác (không phải là của người phạm tội) và chúng còn nằm trong sự chiếm hữu, quản lí của chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản. Về nguyên tắc tài sản này là hợp pháp và bao gồm: vật có thực, tiền, giấy tờ trị giá được bằng tiền và các quyền về tài sản (Điều 163 Bộ luật dân sự). - Mặt khách quan của tội phạm. Hành vi phạm tội được hiểu là hành vi khách quan nguy hiểm cho xã hội được luật hình sự quy định chịu sự kiểm soát, điều khiển bởi ý thức, ý chí của người phạm tội [37, tr.93-97]. Hành vi phạm tội có hai hình thức thể hiện là hành động và không hành động. Dựa vào quy định của BLHS và thực tiễn áp dụng, các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt có những hành vi khách quan khác nhau. Đó có thể là hành vi dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực như tội Cướp tài sản, Bắt cóc nhằm
  • 18. 10 chiếm đoạt tài sản, Cưỡng đoạt tài sản (nhóm 1); hành vi lợi dụng sơ hở của chủ tài sản để thực hiện tội phạm như tội Công nhiên chiếm đoạt tài sản, Trộm cắp tài sản (nhóm 2); hành vi dùng thủ đoạn gian dối như tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (nhóm 3) hay hành vi nhanh chóng chiếm đoạt tài sản một cách công khai như tội Cướp giật tài sản. Tuy nhiên, thủ đoạn, cách thức, đối tượng thực hiện hành vi và điều kiện khi thực hiện hành vi là khác nhau và chúng là dấu hiệu phân biệt các tội phạm có cùng hành vi chiếm đoạt với nhau. Cụ thể, trong nhóm 1, đối với tội Cướp tài sản, người phạm tội dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực “ngay tức khắc” đối với chủ tài sản; đối với tội Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản thì hành vi đe dọa dùng vũ lực lại nhằm vào con tin từ đó khiến người thân của con tin (người có tài sản) phải lo sợ, giao nộp tài sản; hoặc cùng là đe dọa dùng vũ lực đối với chủ tài sản nhưng ở tội Cưỡng đoạt tài sản không có đặc điểm “ngay tức khắc” như tội Cướp tài sản. Đối với nhóm 2, người phạm tội Trộm cắp tài sản có thủ đoạn lén lút khi thực hiện hành vi chiếm đoạt; còn ở tội Công nhiên chiếm đoạt tài sản thì người phạm tội lại có hành vi công khai. Ở nhóm 3,tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được phân biệt với nhau bởi thủ đoạn gian dối được thực hiện trước hay sau khi hành vi chiếm đoạt được thực hiện. Về hậu quả mà những hành vi nói trên gây ra trước hết là những thiệt hại gây ra cho quan hệ sở hữu, thể hiện dưới dạng thiệt hại vật chất cụ thể là tài sản bị mất. Đối với những tội như Cướp tài sản, Cướp giật tài sản, Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản thì thiệt hại còn bao gồm cả thiệt hại về thể chất (thương tích hoặc tổn hại về sức khỏe, tinh thần). - Chủ thể của tội phạm Chủ thể của nhóm tội này có thể là bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi nhất định: từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu
  • 19. 11 trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về những tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc những tội đặc biệt nghiêm trọng quy định tại Điều 133; khoản 2,3, và 4 của các Điều 134, 135, 136; khoản 3 và 4 các Điều 137, 138, 139, 140. Ngoài ra tại các Điều 139, 140 Bộ luật hình sự, dấu hiệu chủ thể đặc biệt được phản ánh trong cấu thành tăng nặng trách nhiệm hình sự, cụ thể ở điểm d khoản 2 Điều 139: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn lừa đảo chiếm đoạt tài sản; điểm b khoản 2 Điều 140: Lợi dụng chức vụ quyền hạn để lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. - Mặt chủ quan của tội phạm: Tất cả các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt đều được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Người thực hiện hành vi chiếm đoạt biết tài sản chiếm đoạt là tài sản đang có người quản lí nhưng vẫn mong muốn biến tài sản đó thành của mình. Về động cơ và mục đích phạm tội: người phạm tội mong muốn chiếm đoạt được tài sản của người khác và dấu hiệu chiếm đoạt là dấu hiệu bắt buộc đối với các tội này. Tùy thuộc vào đặc trưng của từng tội do BLHS quy định mà dấu hiệu chiếm đoạt trong các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt là khác nhau. Chúng có thể là hành vi chiếm đoạt, mục đích chiếm đoạt hoặc chiếm đoạt được. Ví dụ: Đối với các tội từ Điều 133 đến Điều 135 BLHS, khách thể được bảo vệ bao gồm quan hệ sở hữu và quan hệ nhân thân. Để xâm phạm quan hệ sở hữu, người phạm tội phải có hành vi xâm hại quan hệ nhân thân. Trong đó, quan hệ nhân thân rõ ràng quan trọng hơn quan hệ sở hữu nên các tội này có cấu thành hình thức, chỉ cần người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội xem như tội phạm đã hoàn thành và dấu hiệu chiếm đoạt được thể hiện qua mục đích phạm tội. Vì vậy, mục đích chiếm đoạt là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm của các tội này. Đây là cơ sở phân biệt các tội này với các tội khác do BLHS quy định có hành vi khách quan tương tự như hành vi phạm tội của các tội này.
  • 20. 12 Đối với tội cướp giật tài sản, mặc dù khách thể mà tội này xâm phạm cũng là quan hệ sở hữu và quan hệ nhân thân nhưng khác với các tội tại các Điều 133, 134, 135 BLHS. Hành vi khách quan do BLHS quy định đối với tội cướp giật tài sản xâm phạm trực tiếp đến quan hệ sở hữu và qua việc xâm phạm quan hệ sở hữu mới xâm phạm đến quan hệ nhân thân nên dấu hiệu chiếm đoạt được thể hiện qua hành vi chiếm đoạt được mô tả trong điều luật. 1.1.2. Điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt 1.1.2.1. Khái niệm điều tra các vụ án hình sự Pháp luật tố tụng hình sự (TTHS) Việt Nam từ trước tới nay chưa bao giờ ghi nhận định nghĩa pháp lý khái niệm giai đoạn TTHS. Tuy nhiên, Bộ luật TTHS 2003 đã thể hiện sự phân chia các giai đoạn tố tụng một cách rõ nét, theo đó quá trình giải quyết một vụ án hình sự phải trải qua các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Tương ứng với đó, mỗi giai đoạn có nhiệm vụ, chủ thể, trình tự, thủ tục, thời hạn cụ thể nhằm phục vụ mục đích chung của toàn bộ quá trình tố tụng. Bên cạnh đó, trên phương diện khoa học luật TTHS, căn cứ vào cơ quan và người tiến hành tố tụng, các nhà nghiên cứu cũng chia quá trình tố tụng thành các giai đoạn: khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành bản án và quyết định của Toà án. Như vậy, có thể thấy cả trên phương diện lý luận cũng như quy định của pháp luật, điều tra được coi là một giai đoạn tố tụng độc lập. Trong quá trình điều tra, một mặt phải đảm bảo các yêu cầu của luật TTHS về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, đồng thời phải áp dụng các phương pháp, thủ thuật chiến thuật, kỹ thuật điều tra để phát hiện, thu thập chứng cứ làm sáng tỏ sự thật của vụ án hình sự để làm cơ sở cho việc xử lý theo đúng quy định của pháp luật. Trên cơ sở nhận thức đó, tác giả đưa ra khái niệm điều tra vụ án hình sự như sau: Điều tra vụ án hình sự là một giai đoạn của quá trình tố tụng hình sự do cơ quan có thẩm quyền tiến hành bằng các biện pháp theo quy định của
  • 21. 13 pháp luật nhằm thu thập tài liệu, chứng cứ làm rõ sự thật của vụ án, chứng minh tội phạm trước pháp luật, đảm bảo giải quyết đúng đắn vụ án hình sự và góp phần phòng ngừa tội phạm. Trong quá trình giải quyết vụ án, giai đoạn điều tra có vai trò hết sức quan trọng. Bởi lẽ, điều tra vụ án hình sự (VAHS) là giai đoạn thu thập chứng cứ để chứng minh tội phạm, người thực hiện hành vi phạm tội, xác định tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra. Kết quả điều tra vừa là cơ sở để Viện kiểm sát (VKS) quyết định truy tố, vừa là cơ sở để Toà án đưa vụ án ra xét xử. Tác động của kết quả điều tra đối với công tác truy tố, xét xử không chỉ thể hiện ở số lượng, chất lượng chứng cứ mà còn là nhận định, đánh giá tội phạm, áp dụng pháp luật hình sự của Cơ quan điều tra (CQĐT). Trong TTHS thẩm vấn, vị trí của hoạt động điều tra càng quan trọng, những sai lầm nghiêm trọng làm oan người vô tội, bỏ lọt tội phạm trong lịch sử tư pháp nước ta chủ yếu bắt nguồn từ giai đoạn điều tra [35, tr.198]. Do đó, Viện kiểm sát thực hành quyền công tố (THQCT) và kiểm sát điều tra (KSĐT) nhằm bảo đảm mọi hoạt động trong quá trình điều tra đúng pháp luật. Đồng thời việc quy định nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi THQCT và KSĐT trong Bộ luật TTHS là hết sức cần thiết và mang một ý nghĩa rất lớn trong quá trình giải quyết VAHS, nhằm đảm bảo việc điều tra VAHS khách quan, toàn diện, đúng quy định của pháp luật. 1.1.2.2. Thẩm quyền điều tra các tội phạm xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt Với phạm vi nghiên cứu của luận văn là THQCT và KSĐT các vụ án XPSH có tính chất chiếm đoạt của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Cầu Giấy nên trong nội dung này, tác giả chỉ nêu về cơ sở pháp lý của việc tổ chức và phân định thẩm quyền điều tra ở cấp huyện. Trên cơ sở quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự năm 2004, ngày 07 tháng 7 năm 2014 Bộ Công an đã ban
  • 22. 14 hành Thông tư số 28/2014/BCA về nhiệm vụ, quyền hạn của Cơ quan điều tra trong Công an nhân dân, các cơ quan khác của Công an nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Theo quy định tại Điều 17 Thông tư này thì trong điều tra các VAHS, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an cấp huyện có thẩm quyền tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; phân loại và chuyển ngay đến cơ quan có thẩm quyền để giải quyết; trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố thuộc thẩm quyền giải quyết của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an cấp huyện; tiến hành điều tra các vụ án hình sự về các tội phạm quy định tại các chương từ Chương XII đến Chương XXII của Bộ luật hình sự năm 1999 khi các tội phạm đó thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp huyện (trừ các tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Cơ quan An ninh điều tra trong Công an nhân dân). 1.1.2.3. Nội dung điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt - Tiếp nhận, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố VAHS và quyết định việc khởi tố VAHS. Tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố là các thông tin đầu tiên về tội phạm đến với cơ quan có thẩm quyền. Đây là cơ sở đầu tiên để cơ quan có thẩm quyền xem xét xác định có phải là vụ án XPSH có tính chất chiếm đoạt hay không để quyết định đưa hay không đưa vụ việc vào giải quyết theo thủ tục TTHS. Để đảm bảo tính chính xác, đòi hỏi các hoạt động liên quan đến việc tiếp nhận, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố phải được thực hiện nghiêm chỉnh theo quy định của luật TTHS về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, thời hạn và các yêu cầu pháp lý khác. Sau quá trình kiểm tra, xác minh, tùy thuộc vào kết quả, cơ quan có thẩm quyền có thể ra các quyết định sau:
  • 23. 15 + Có đủ căn cứ xác định sự việc có dấu hiệu tội phạm xảy ra trên thực tế, cơ quan có thẩm quyền sẽ ra quyết định khởi tố vụ án. + Có căn cứ xác định không có sự việc xảy ra hoặc có một trong các căn cứ để không khởi tố VAHS theo quy định tại Điều 107 Bộ luật TTHS thì cơ quan có thẩm quyền ra quyết định không khởi tố VAHS và kết thúc về mặt TTHS đối với vụ việc. - Áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong điều tra các vụ án XPSH có tính chất chiếm đoạt. Áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong quá trình điều tra các vụ án XPSH có tính chất chiếm đoạt nhằm mục đích ngăn chặn tội phạm, không để các đối tượng trong vụ án bỏ trốn, gây khó khăn cho quá trình điều tra vụ án, nhưng đồng thời nó cũng liên quan đến các chiến thuật điều tra. Các biện pháp ngăn chặn được áp dụng trong quá trình giải quyết các vụ án XPSH có tính chất chiếm đoạt bao gồm: Bắt người (với ba trường hợp bắt bị can bị cáo để tạm giam, bắt người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã); Tạm giữ, tạm giam; Cấm đi khỏi nơi cư trú; Bảo lĩnh; Đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm [28]. Các biện pháp ngăn chặn này có thể được áp dụng trước hoặc sau khi khởi tố vụ án. Đây là các biện pháp có tính cưỡng chế nghiêm khắc, thường tác động đến các quyền cơ bản của con người, vì vậy khi áp dụng đòi hỏi phải đảm bảo tính có căn cứ, đúng thẩm quyền và trình tự, thủ tục mà luật TTHS quy định. Bên cạnh đó, việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn còn mang tính nghiệp vụ thể hiện thủ thuật, chiến thuật trong điều tra nhưng không được lạm dụng mà yêu cầu tiên quyết vẫn là phải đảm bảo tính pháp lý cho hoạt động này. - Tiến hành các biện pháp điều tra Sau khi quyết định khởi tố các vụ án XPSH có tính chất chiếm đoạt, Cơ quan điều tra sẽ bắt tay vào tiến hành các biện pháp điều tra. Tùy tính chất
  • 24. 16 từng vụ án và các tình huống xuất hiện khi khởi tố vụ án mà thứ tự các biện pháp điều tra được tiến hành. Nhưng nhìn chung tất cả các vụ án XPSH có tính chất chiếm đoạt đều phải tiến hành một số biện pháp điều tra sau để thu thập chứng cứ phục vụ quá trình chứng minh làm sáng tỏ vụ án. + Khám nghiệm hiện trường: Khám nghiệm hiện trường là biện pháp điều tra do Điều tra viên tiến hành tại nơi xảy ra tội phạm hoặc tại nơi phát hiện tội phạm nhằm phát hiện vật chứng, dấu vết của tội phạm và làm sáng tỏ những tình tiết có ý nghĩa đối với việc giải quyết VAHS. Khám nghiệm hiện trường có thể tiến hành trước khi khởi tố VAHS. Ngoài việc xác định, thu giữ dấu vết, vật chứng có liên quan đến vụ án XPSH có tính chất chiếm đoạt thì công tác khám nghiệm hiện trường còn phải xác định, ghi nhận những dấu vết phản ánh việc lục soát, chiếm đoạt tài sản, đặc điểm, chủng loại tài sản bị chiếm đoạt…Cá biệt trong những trường hợp kèm theo hành vi chiếm đoạt tài sản còn có thể có những hành vi phạm tội khác như giết người, gây thương tích thì công tác khám nghiệm hiện trường còn phải phát hiện, thu giữ dấu vết, vật chứng phản ánh về những hành vi phạm tội đó, kể cả việc khám nghiệm tử thi (nếu có). Hoạt động khám nghiệm hiện trường phải được thực hiện nghiêm chỉnh theo quy định tại Điều 150 BLTTHS. + Lấy lời khai người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Đây là biện pháp điều tra bằng cách triệu tập và hỏi những người này các tình tiết liên quan đến vụ án nhằm làm rõ sự thật của vụ án. Việc lấy lời khai người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án phải thực hiện nghiêm chỉnh theo quy định của Điều 133 đến 137 và các quy định khác có liên quan của BLTTHS. Lấy lời khai những người tham gia tố tụng này trong vụ án XPSH có tính chất chiếm đoạt phải đặc biệt chú ý làm rõ thời gian, địa điểm xảy ra tội phạm; số lượng,
  • 25. 17 chủng loại, đặc điểm tài sản bị chiếm đoạt; nguồn gốc tài sản, những người biết được nơi cất giữ tài sản… + Khởi tố bị can và hỏi cung bị can: Khởi tố bị can là việc cơ quan có thẩm quyền quyết định khởi tố về hình sự một người khi có căn cứ xác định người đó thực hiện hành vi phạm tội [15, tr.354]. Quyết định khởi tố bị can là cơ sở pháp lý cho các hoạt động điều tra và các biện pháp tố tụng khác để xử lý đối với người phạm tội theo đúng quy định của pháp luật. Việc khởi tố bị can phải thực hiện nghiêm chỉnh theo quy định tại các Điều 126, Điều 127, Điều 128 Bộ luật TTHS. Sau khi có quyết định khởi tố bị can, phải tiến hành hỏi cung bị can. Hỏi cung bị can là biện pháp điều tra bằng cách hỏi trực tiếp người đã bị khởi tố về hình sự với tư cách là bị can. Để tiến hành hỏi cung bị can cần tiến hành các thủ tục để triệu tập bị can theo quy định tại các Điều 129, 130 BLTTHS. Việc hỏi cung bị can phải tuân thủ theo đúng quy định tại Điều 131, 132 BLTTHS. + Đối chất: Đối chất là biện pháp điều tra bằng cách tiến hành hỏi hai người cùng một lúc về cùng một vấn đề có liên quan đến vụ án nhằm làm rõ mâu thuẫn trong các lời khai của họ. Việc đối chất có thể tiến hành giữa: Bị can với bị can; Bị can với người bị tình nghi, người bị tạm giữ, người làm chứng, người bị hại; Giữa người bị hại với người làm chứng; Giữa những người làm chứng với nhau... Hoạt động đối chất phải tiến hành theo đúng quy định Điều 138 BLTTHS. + Nhận dạng: Nhận dạng là biện pháp điều tra được tiến hành bằng cách đưa người, vật, ảnh để người làm chứng, người bị hại, bị can quan sát nhận xét có đúng là đối tượng có liên quan đến vụ án XPSH có tính chất chiếm đoạt mà họ đã biết trước đây hay không. Người nhận dạng có thể là người làm chứng, người bị hại, bị can... Đối tượng nhận dạng có thể là người sống (nhận dạng về hình dáng, tiếng nói), tử thi, đồ vật, súc vật, địa điểm, ảnh
  • 26. 18 của các đối tượng này. Hoạt động nhận dạng phải được tiến hành theo quy định tại Điều 139 BLTTHS. + Khám xét: Khám xét là hoạt động điều tra được tiến hành bằng cách tìm tòi, lục soát trên người, chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm, đồ vật, thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm nhằm phát hiện thu giữ vật chứng, đồ vật tài liệu có liên quan đến vụ án. Khám xét là hoạt động liên quan trực tiếp đến quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, đến việc đảm bảo bí mật thư tín, điện thoại, điện tín... Việc khám xét chỉ được tiến hành khi có căn cứ luật định và phải có lệnh của người có thẩm quyền. Hoạt động khám xét phải được tiến hành theo quy định tại các Điều 140, 141, 142, 143, Điều 145 và các quy định khác có liên quan của BLTTHS. + Thu giữ thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm tại bưu điện: Khi cần thiết phải thu giữ thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm tại bưu điện thì CQĐT ra lệnh thu giữ. Lệnh này phải được VKS phê chuẩn trước khi thi hành, trừ trường hợp không thể trì hoãn nhưng phải ghi rõ lý do vào biên bản và sau khi thu giữ phải thông báo ngay cho VKS cùng cấp biết. Việc thu giữ thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm tại bưu điện phải tiến hành theo Điều 144 BLTTHS. + Xem xét dấu vết trên thân thể: Xem xét dấu vết trên thân thể là biện pháp điều tra bằng cách tiến hành xem xét trên thân thể người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, người bị hại, người làm chứng để phát hiện trên người họ dấu vết của tội phạm hoặc các dấu vết khác có ý nghĩa đối với vụ án. Khi tiến hành xem xét dấu vết trên thân thể, phải thực hiện nghiêm chỉnh quy định tại Điều 152 và các quy định khác có liên quan của BLTTHS. + Thực nghiệm điều tra: Thực nghiệm điều tra là biện pháp điều tra bằng việc CQĐT tổ chức diễn lại hoặc làm thử một hành vi, sự việc, hiện tượng có liên quan đến việc điều tra làm rõ vụ án trong điều kiện tương tự như lời khai của bị can, người làm chứng, người bị tạm giữ, người bị hại hay giả thuyết điều tra
  • 27. 19 của CQĐT để xem hành vi, sự việc, hiện tượng đó có xảy ra hay không và như thế nào. Khi tiến hành thực nghiệm điều tra phải tuân theo các quy định tại Điều 153 và các quy định khác có liên quan của BLTTHS. + Trưng cầu giám định: Trưng cầu giám định là hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng được tiến hành theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định nhằm trưng cầu các cơ quan, tổ chức hoặc các nhà chuyên môn sử dụng tri thức khoa học vào việc nghiên cứu, xem xét, đối chiếu để kết luận về các vấn đề cần kết luận nhằm thu thập chứng cứ phục vụ cho việc giải quyết VAHS. Trong các vụ án XPSH có tính chất chiếm đoạt, hoạt động trưng cầu giám định thường là giám định tài sản bị chiếm đoạt. Hoạt động trưng cầu giám định và giám định phải được tiến hành theo quy định tại các Điều 155 đến 159 Bộ luật TTHS. - Tạm đình chỉ điều tra và kết thúc điều tra. + Tạm đình chỉ điều tra: Tạm đình chỉ điều tra là việc CQĐT tạm ngừng việc tiến hành điều tra đối với cả vụ án hoặc đối với một bị can khi bị can bị bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo khác có chứng nhận của hội động giám định y khoa; khi chưa xác định được bị can hoặc không rõ bị can đang ở đâu hoặc chưa có kết luận giám định khi hết thời hạn điều tra (Điều 160 Bộ luật TTHS). + Kết thúc điều tra: Có hai hình thức kết thúc điều tra vụ án XPSH có tính chất chiếm đoạt: Đình chỉ điều tra: Hình thức này được tiến hành khi trong quá trình điều tra, CQĐT có căn cứ xác định không có sự việc phạm tội xảy ra, hành vi xảy ra không cấu thành tội phạm, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự hoặc đã chết, hay hết thời hạn điều tra nhưng không chứng minh được bị can phạm tội. Việc đình chỉ điều tra có thể là đình chỉ toàn bộ vụ án hoặc đình chỉ điều tra đối với từng bị can. Khi
  • 28. 20 đình chỉ điều tra CQĐT làm bản kết luận điều tra, trong đó nêu rõ quá trình điều tra vụ án và căn cứ đình chỉ điều tra (Điều 164 Bộ luật TTHS). Đề nghị truy tố: Theo quy định tại Điều 163 Bộ luật TTHS thì khi có đủ chứng cứ chứng minh tội phạm và những người phạm tội, CQĐT làm bản kết luận điều tra trong đó nêu rõ căn cứ khởi tố vụ án, các quyết định khởi tố bị can, trình bày diễn biến phạm tội của các bị can, các chứng cứ đã thu thập được chứng minh hành vi phạm tội của các bị can; Những ý kiến nhận xét và đề xuất vụ án; Lý do và căn cứ đề nghị truy tố; Lý lịch của các bị can. Kết luận điều tra do Thủ trưởng CQĐT ký, được chuyển cùng hồ sơ cho VKS và gửi cho các bị can.Hồ sơ VAHS được chuyển cho VKS đề nghị truy tố bị can trước pháp luật. Hồ sơ được đánh bút lục từ số 01 đến hết. Khi chuyển hồ sơ sang VKS, CQĐT bàn giao cả vật chứng cho VKS và phải lập biên bản bàn giao. 1.2. Khái quát về thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt 1.2.1. Khái niệm thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự 1.2.1.1. Khái niệm thực hành quyền công tố Thuật ngữ “quyền công tố” lần đầu tiên được ghi nhận tại Hiến pháp năm 1980, tiếp đó là Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013, Bộ luật TTHS năm 1998, Bộ luật TTHS năm 2003, Luật tổ chức Viện KSND năm 1981, Luật tổ chức Viện KSND năm 1992, Luật tổ chức Viện KSND năm 2002, Pháp lệnh Kiểm sát viên năm 2002, Luật tổ chức Viện KSND năm 2014. Tuy nhiên hiện nay chưa có văn bản pháp luật nào của Nhà nước giải thích chính thức về nội dung quyền công tố. Chính vì vậy, hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về quyền công tố. Theo tác giả Lê Hữu Thể, có tám quan điểm khác nhau về quyền công tố [34, tr.21-34]. Sau khi phân tích ưu khuyết điểm của các quan điểm
  • 29. 21 khác nhau về quyền công tố, tác giả đưa ra quan điểm của mình về quyền công tố như sau: Quyền công tố là quyền nhân danh nhà nước thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Quyền này thuộc về nhà nước, được Nhà nước giao cho một cơ quan thực hiện (ở nước ta là Viện kiểm sát) để phát hiện tội phạm và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Để làm được điều này, cơ quan có chức năng thực hành quyền công tố phải có trách nhiệm đảm bảo việc thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ để xác định tội phạm và người phạm tội, trên cơ sở đó truy tố bị can ra trước tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó trước phiên tòa [34, tr.40]. Mặc dù quan điểm trên đã nêu được những vấn đề thuộc về bản chất của quyền công tố nhưng thực chất đây là quyền thực hành quyền công tố chứ không phải là quyền công tố. Bởi vì quyền công tố là quyền của Nhà nước chứ không phải nhân danh Nhà nước. Có quan điểm đồng nhất quyền công tố với chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện KSND, dẫn đến tình trạng mở rộng phạm vi quyền công tố vượt khỏi lĩnh vực TTHS sang các lĩnh vực tư pháp khác như dân sự, kinh tế, lao động, hành chính như: Quyền công tố ở Việt Nam là quyền của Nhà nước giao cho Viện kiểm sát đưa vụ án ra tòa xét xử để bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích chung và lợi ích của công dân được thực hiện trong tố tụng hình sự, tố tụng dân sự và các lĩnh vực tố tụng tư pháp khác [13, tr.7]. Như vậy các quan điểm này đều có hạn chế là không phân định rõ ràng khái niệm, bản chất, nội dung, phạm vi quyền công tố, hoạt động thực hành quyền công tố và hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Theo
  • 30. 22 chúng tôi quyền lực Nhà nước trong lĩnh vực hình sự gắn liền với sự buộc tội nhân danh Nhà nước, hay nói cách khác là nhân danh công quyền, và chỉ phát sinh khi có hành vi phạm tội xảy ra. Sự buộc tội nhân danh công quyền này được gọi là quyền công tố và quyền công tố phải thuộc về Nhà nước - tổ chức quyền lực công, đại diện quyền lực công. Đồng thời quyền công tố chỉ có trong lĩnh vực TTHS. Như vậy thực chất: Quyền công tố là quyền của Nhà nước truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi phạm tội. Trong lĩnh vực TTHS, phạm vi của quyền công tố bắt đầu từ khi tiếp nhận tin báo tố giác về tội phạm và kết thúc khi bản án đã có hiệu lực pháp luật. Để thực hiện quyền công tố, Nhà nước đã ban hành các văn bản pháp luật, trong đó quy định các quyền năng pháp lý mà cơ quan có thẩm quyền được áp dụng để truy cứu TNHS đối với người phạm tội. Cơ quan được giao thẩm quyền đưa vụ án ra tòa án được gọi là cơ quan thực hành quyền công tố và cơ quan này ở mỗi nước là khác nhau tùy thuộc vào bản chất chế độ chính trị, điều kiện và hoàn cảnh của từng nước. Ở Việt Nam, căn cứ vào các quy định của pháp luật (từ Hiến pháp 1959, 1981, 1992, 2013 và các Luật tổ chức Viện KSND 1960, 1981, 1992, 2002 và 2014) thì chỉ có Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan duy nhất thực hành quyền công tố và quyền công tố trong TTHS là rất lớn: “được áp dụng các biện pháp do Bộ luật TTHS quy định để xác định tội phạm và xử lý người phạm tội” [28]. Ví dụ trong điều tra VAHS, CQĐT có quyền độc lập thu thập tài liệu, chứng cứ, nhưng những tài liệu, chứng cứ đó có đủ cơ sở để truy tố bị can hay không là thuộc trách nhiệm của VKS. Nếu không đủ căn cứ để buộc tội, VKS có quyền yêu cầu CQĐT bổ sung tài liệu chứng cứ, trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra, đình chỉ điều tra, yêu cầu xử lý nghiêm minh những người có vi phạm trong hoạt động điều tra... Khi có đủ tài liệu, chứng
  • 31. 23 cứ chứng minh hành vi phạm tội và xét thấy cần truy cứu trách nhiệm hình sự của người phạm tội trước Tòa án thì VKS quyết định truy tố bị can. Như vậy, THQCT là chức năng mà không cơ quan nào có thể làm thay VKS. Chức năng này được quy định cụ thể tại Điều 3 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014: Thực hành quyền công tố là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự [31]. Trên cơ sở khái niệm này cũng như những quy định tại Mục 2, Chương II của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 về nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra VAHS, luận văn đưa ra định nghĩa về thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra như sau: Thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án hình sự là chức năng tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân để thực hiện quyền của nhà nước trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi phạm tội, được thực hiện từ khi khởi tố và trong suốt quá trình điều tra vụ án hình sự cho đến khi kết thúc điều tra. Với những phân tích và định nghĩa nêu trên, có thể xác định đối tượng, nội dung, chủ thể, phạm vi của THQCT trong điều tra VAHS như sau: - Đối tượng của THQCT chính là tội phạm và người phạm tội. - Nội dung của THQCT là thực hiện truy cứu trách nhiệm hình sự và việc buộc tội đối với người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội là tội phạm. - Chủ thể THQCT là Viện kiểm sát nhân dân. - Phạm vi THQCT bắt đầu từ khi khởi tố VAHS đến khi kết thúc điều tra.
  • 32. 24 - Trình tự thủ tục THQCT phải tiến hành theo quy định của Bộ luật TTHS. 1.2.1.2. Khái niệm kiểm sát điều tra các vụ án hình sự Thuật ngữ “kiểm sát các hoạt động tư pháp” được xuất hiện trong các văn kiện của Đảng như Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ 9, Nghị quyết số 08 ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị và đặc biệt được quy định tại Điều 137 Hiến pháp năm 1992 sửa đổi, Điều 107 Hiến pháp năm 2013, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 và gần đây nhất là Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014. Trước khi có Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 các nhà lập pháp nước ta chưa đưa ra một định nghĩa pháp lý chung nhất về khái niệm “kiểm sát các hoạt động tư pháp” dẫn đến nhiều quan điểm, nhận thức khác nhau về khái niệm này, tựu chung lại có ba nhóm quan điểm: (1) quan điểm giới hạn kiểm sát hoạt động tư pháp trong phạm vi tố tụng hình sự; (2) quan điểm kiểm sát các hoạt động tư pháp bao gồm việc kiểm sát hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử (tất cả các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính) và phần tư pháp trong thi hành án; (3) quan điểm kiểm sát tư pháp được hiểu là giám sát tư pháp, là một bộ phận, một lĩnh vực của hoạt động giám sát Nhà nước trong lĩnh vực tư pháp. Mặc dù mỗi nhóm quan điểm có lập luận riêng nhưng các quan điểm này đều không phủ nhận kiểm sát các hoạt động tư pháp luôn bao gồm việc kiểm sát các hoạt động tố tụng hình sự trong đó có hoạt động khởi tố, điều tra vụ án hình sự. Như vậy cần phải khẳng định kiểm sát các hoạt động tư pháp là chức năng hiến định của Viện kiểm sát. Kiểm sát các hoạt động tư pháp là một dạng giám sát Nhà nước về tư pháp và đây là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước. Quan điểm này đã được thể chế hóa trong các bản Hiến pháp từ năm 1959 đến năm 2013:“Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát các hoạt động tư pháp” [30].
  • 33. 25 Chúng tôi đồng ý với khái niệm kiểm sát các hoạt động tư pháp được quy định tại Khoản 1 Điều 4 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014: Kiểm sát hoạt động tư pháp là hoạt động của Viện KSND để kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp, được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự; Trong việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; Việc thi hành án, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; Các hoạt động tư pháp khác theo quy định của pháp luật [31]. Khái niệm này thể hiện đầy đủ bản chất, phạm vi của chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp nói chung của Viện KSND. Trong giai đoạn điều tra các VAHS thì kiểm sát các hoạt động điều tra là sự giám sát trực tiếp các hoạt động cụ thể của cơ quan điều tra, cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra trong quá trình tố tụng với mục đích là nhằm đảm bảo cho pháp luật được áp dụng nghiêm chỉnh và thống nhất trong quá trình giải quyết vụ án. Bản chất pháp lý của chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra các VAHS là kiểm tra tính có căn cứ và tính hợp pháp trong hành vi của các chủ thể điều tra và các chủ thể tham gia quá trình TTHS. Như vậy, kiểm sát điều tra các vụ án hình sự là quyền năng tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân để kiểm tra, giám sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng hình sự của các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền điều tra, của những người tham gia tố tụng hình sự kể từ khi khởi tố vụ án hình sự nhằm bảo đảm các hành vi, quyết định đó được chấp hành đúng pháp luật và giải quyết đúng đắn vụ án hình sự, loại trừ oan sai, góp phần bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong hoạt động điều tra.
  • 34. 26 Từ định nghĩa trên có thể thấy hoạt động này có một số đặc điểm sau đây: Thứ nhất, kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra các VAHS là quyền năng hiến định của Viện KSND được quy định và thực hiện trên cơ sở Hiến pháp và các văn bản pháp luật liên quan. Thứ hai, đối tượng của các hoạt động kiểm sát của Viện KSND trong giai đoạn điều tra các VAHS là các hành vi, quyết định tố tụng hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng và các chủ thể khác có liên quan trong quá trình điều tra các VAHS. Thứ ba, phạm vi của hoạt động KSĐT các VAHS được xác định bắt đầu từ khi khởi tố vụ án và được kết thúc điều tra bằng bản kết luận điều tra của cơ quan có thẩm quyền chuyển cho VKS đề nghị truy tố hoặc khi CQĐT ra quyết định đình chỉ điều tra vụ án. Thứ tư, nội dung của KSĐT các VAHS của VKS là giám sát trực tiếp và điều chỉnh mọi hoạt động tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và các chủ thể khác có liên quan trong quá trình điều tra các VAHS. 1.2.2. Nội dung thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp là hai chức năng hiến định của Viện KSND được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử VAHS. Nhưng trong giai đoạn điều tra các VAHS, hai chức năng này chỉ được thực hiện từ khi khởi tố đến khi kết thúc điều tra thông qua những nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể quy định tại Điều 14, 15 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 và Điều 23, 112, 113 Bộ luật TTHS. Do đó, THQCT và KSĐT các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt được thể hiện qua các nội dung sau:
  • 35. 27 1.2.2.1. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố - Nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong việc khởi tố các vụ án XPSH có tính chất chiếm đoạt + Yêu cầu CQĐT khởi tố hoặc thay đổi quyết định khởi tố VAHS: VKS yêu cầu CQĐT khởi tố VAHS khi nhận được kiến nghị khởi tố hình sự của cơ quan Nhà nước và khi vụ án đang được điều tra. Viện kiểm sát yêu cầu CQĐT thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố các vụ án XPSH có tính chất chiếm đoạt nếu trong quá trình tiến hành điều tra hoặc khi đã kết thúc điều tra, có căn cứ xác định tội phạm đã khởi tố không đúng với hành vi phạm tội xảy ra hoặc còn có tội phạm khác. Nếu CQĐT không thực hiện thì VKS trực tiếp ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố VAHS theo quy định tại Điều 106 Bộ Luật TTHS. + Hủy bỏ các quyết định khởi tố, quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án, quyết định không khởi tố vụ án trái pháp luật: Khi thấy quyết định khởi tố vụ án XPSH có tính chất chiếm đoạt của các cơ quan có thẩm quyền không có căn cứ theo quy định tại Điều 100 Bộ luật TTHS thì VKS ra quyết định hủy quyết định khởi tố đó. Riêng quyết định khởi tố VAHS của Hội đồng xét xử thì VKS không có quyền hủy, nhưng nếu xác định không có căn cứ thì VKS kháng nghị lên Tòa án cấp trên trực tiếp của Tòa đã khởi tố vụ án. Khi xác định quyết định không khởi tố vụ án của CQĐT, cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra không có căn cứ quy định tại Điều 107 Bộ luật TTHS thì Viện KSND hủy bỏ quyết định đó. + Quyết định khởi tố VAHS: VKS ra quyết định khởi tố vụ án XPSH có tính chất chiếm đoạt trong ba trường hợp sau đây: Khi hủy quyết định không khởi tố của CQĐT; khi Hội đồng xét xử yêu cầu VKS khởi tố vụ án;
  • 36. 28 khi xác định hành vi của Điều tra viên có dấu hiệu tội phạm (Điều 104 Bộ luật TTHS). Để khởi tố vụ án VKS phải căn cứ vào Điều 100 Bộ luật TTHS. Tuy nhiên nếu yêu cầu khởi tố vụ án của Hội đồng xét xử không có căn cứ khởi tố và có các căn cứ không được khởi tố VAHS quy định tại Điều 107 Bộ luật TTHS thì VKS có quyền ra quyết định không khởi tố VAHS. Như vậy suy cho cùng việc khởi tố hay không khởi tố vụ án là do cơ quan thực hành quyền công tố (Viện kiểm sát nhân dân) quyết định. - Nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong việc quyết định khởi tố bị can + Phê chuẩn, không phê chuẩn quyết định khởi tố bị can: Khi nhận được quyết định khởi tố bị can và các tài liệu liên quan đến việc khởi tố bị can, trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được quyết định khởi tố bị can VKS phải quyết định phê chuẩn hoặc quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố bị can và gửi ngay cho CQĐT (Điều 126 Bộ luật TTHS). + Yêu cầu khởi tố bị can: Trong giai đoạn điều tra, nếu thấy ngoài bị can đã bị khởi tố còn có người khác đã thực hiện hành vi phạm tội trong vụ án chưa bị khởi tố thì Kiểm sát viên thụ lý vụ án báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng ủy quyền ra văn bản yêu cầu cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi tố bị can đối với người đó (Điều 126 Bộ luật TTHS). + Khởi tố bị can: VKS chỉ ra quyết định khởi tố bị can sau khi nhận hồ sơ và bản kết luận điều tra mà phát hiện có người khác đã thực hiện hành vi phạm tội trong vụ án mà chưa bị khởi tố. Khi đó Kiểm sát viên báo cáo Viện trưởng hoặc Phó Viện trưởng để xem xét quyết định việc khởi tố bị can theo quy định tại Khoản 5 Điều 126 Bộ luật TTHS. Trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra quyết định khởi tố bị can, Viện KSND phải gửi cho CQĐT để tiến hành điều tra. - Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi tiến hành các hoạt động
  • 37. 29 điều tra: VKS trực tiếp tiến hành điều tra trong các trường hợp: Khi có yêu cầu của CQĐT hoặc qua kiểm sát việc hỏi cung phát hiện thấy bị can kêu oan, lời khai của bị can trước sau không thống nhất; Bị can có khiếu nại việc điều tra; Có căn cứ để nghi ngờ về tính xác thực của lời khai bị can; Trường hợp bị can bị khởi tố về tội đặc biệt nghiêm trọng thì Viện KSND có thể trực tiếp gặp, hỏi cung bị can. Kiểm sát viên khi hỏi cung bị can phải thực hiện theo đúng quy định tại các Điều 131 và 132 Bộ luật TTHS. Để đảm bảo việc xét phê chuẩn các quyết định của CQĐT được chính xác, Kiểm sát viên có thể triệu tập và lấy lời khai người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án, lấy lời khai người bị bắt, người bị tạm giữ, hỏi cung bị can. Kiểm sát viên chỉ tiến hành đối chất trong trường hợp có yêu cầu của CQĐT hoặc thấy việc đối chất của Điều tra viên chưa làm rõ được mâu thuẫn. Khi cần phải đối chất Kiểm sát viên phải thông báo trước với Điều tra viên và thực hiện việc đối chất theo đúng quy định tại Điều 138 Bộ luật TTHS. - Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn: + Phê chuẩn, không phê chuẩn việc áp dụng biện pháp ngăn chặn của CQĐT: Luật TTHS quy định lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp, quyết định gia hạn tạm giữ, lệnh tạm giam và lệnh đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm của CQĐT phải được VKS phê chuẩn. Nếu VKS thấy không có căn cứ hợp pháp và không phê chuẩn thì các biện pháp ngăn chặn đó bị hủy bỏ. + Quyết định áp dụng các biện pháp ngăn chặn thuộc thẩm quyền: Theo quy định tại Khoản 4 Điều 112 Bộ luật TTHS và Khoản 5 Điều 14 Luật tổ chức Viện KSND năm 2014, trong giai đoạn điều tra Viện kiểm sát có quyền độc lập trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn. Như vậy, khi xác định các đối tượng có căn cứ để áp dụng các biện pháp ngăn chặn nhưng CQĐT
  • 38. 30 không áp dụng, nếu xét thấy cần thiết thì VKS có quyền ra lệnh áp dụng các biện pháp thuộc thẩm quyền. + Thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn: Trong giai đoạn điều tra, VKS có quyền thay đổi, hủy bỏ đối với tất cả các biện pháp ngăn chặn nếu xét thấy việc áp dụng không có căn cứ hoặc không cần thiết nữa. Với những biện pháp ngăn chặn mà VKS phê chuẩn, chỉ VKS mới có quyền thay đổi hoặc hủy bỏ. - Ngoài ra, Viện KSND còn có nhiệm vụ, quyền hạn khác trong quá trình THQCT đối với các vụ án XPSH có tính chất chiếm đoạt. + Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra thực hiện việc điều tra để làm rõ tội phạm, người phạm tội; Yêu cầu CQĐT truy nã bị can: Yêu cầu điều tra là những yêu cầu về những vấn đề cần điều tra làm rõ, tài liệu chứng cứ cần thu thập liên quan đến các vụ án XPSH có tính chất chiếm đoạt . Đây chính là quyền năng pháp lý của Cơ quan công tố đối với CQĐT trong quá trình điều tra. Việc đề ra yêu cầu điều tra do Kiểm sát viên tiến hành. Kiểm sát viên có thể đề ra yêu cầu điều tra bằng lời nói hoặc bằng văn bản. Nếu có căn cứ xác định có bị can đang bỏ trốn nhưng chưa bị truy nã thì Viện KSND yêu cầu CQĐT ra quyết định truy nã bị can. + Phê chuẩn, không phê chuẩn hoặc hủy bỏ các quyết định tố tụng khác của CQĐT: Khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án XPSH có tính chất chiếm đoạt, VKS ra quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn các quyết định của CQĐT như lệnh khám xét, quyết định thu giữ thư tín điện tín. Đối với các quyết định tố tụng khác, nếu xác định CQĐT ra quyết định không có căn cứ thì VKS có quyền hủy bỏ. + Quyết định việc gia hạn thời hạn điều tra, thời hạn tạm giam, áp dụng thủ tục rút gọn, áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh: Để đảm bảo việc điều
  • 39. 31 tra các vụ án XPSH có tính chất chiếm đoạt cũng như việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn thực hiện đúng thời hạn, pháp luật TTHS trao quyền và trách nhiệm cho VKS quyết định việc gia hạn điều tra và gia hạn tạm giam để điều tra. Thời hạn và thẩm quyền gia hạn điều tra, gia hạn tạm giam để điều tra được thực hiện theo quy định tại Điều 120 Bộ luật TTHS. Đối với trường hợp cần chuyển vụ án để điều tra cho đúng thẩm quyền, VKS sẽ xem xét quyết định khi nhận được đề nghị của CQĐT cùng cấp. Nếu chuyển vụ án trong phạm vi tỉnh thì VKS cùng cấp sẽ quyết định, nếu chuyển vụ án ra ngoài phạm vi tỉnh thì VKS cấp tỉnh sẽ quyết định. Sau khi nhận được quyết định khởi tố và các tài liệu liên quan đến vụ án XPSH có tính chất chiếm đoạt, nếu các tài liệu chứng tỏ người thực hiện hành vi phạm tội bị bắt quả tang, sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng, tội phạm đã được thực hiện là tội phạm ít nghiêm trọng và người phạm tội có căn cước, lai lịch rõ ràng thì VKS có thể tự mình hoặc theo đề nghị của CQĐT quyết định áp dụng thủ tục rút gọn để giải quyết vụ án được nhanh chóng. Trong giai đoạn điều tra nếu có kết luận của Hội đồng giám định y khoa xác định bị can bị bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo khác làm mất khả năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi thì VKS quyết định áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh đối với bị can đó. 1.2.2.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện KDND khi kiểm sát điều tra - Kiểm sát việc khởi tố các vụ án XPSH có tính chất chiếm đoạt Kiểm sát việc khởi tố là việc thực hiện chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKS trong giai đoạn điều tra các VAHS, thông qua việc thực hiện chức năng này VKS có trách nhiệm bảo đảm quyết định khởi tố hoặc quyết định không khởi tố VAHS của cơ quan có thẩm quyền phải có căn cứ và hợp pháp. Để đảm bảo kiểm sát việc khởi tố, các quyết định liên quan đến việc khởi tố các vụ án XPSH có tính chất chiếm đoạt của CQĐT và các
  • 40. 32 cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải gửi cho Viện KSND trong thời hạn 24 giờ kể từ thời điểm ban hành quyết định đó. Trong thời hạn 03 ngày kể từ khi nhận được các quyết định trên, Viện KSND phải cử Kiểm sát viên tiến hành kiểm tra tính có căn cứ và tính hợp pháp của các quyết định đó. Để thực hiện tốt chức năng kiểm sát việc khởi tố, VKS phải cùng CQĐT phân loại và xử lý các tố giác, tin báo về tội phạm và giám sát chặt chẽ việc xác minh của CQĐT. Việc này sẽ giúp VKS loại trừ ngay từ đầu các vi phạm pháp luật của CQĐT và yêu cầu CQĐT sớm có biện pháp khắc phục kịp thời để hạn chế việc khởi tố tràn lan không có căn cứ hoặc không khởi tố vụ án không có căn cứ dẫn đến bỏ lọt tội phạm. - Kiểm sát các hoạt động điều tra trong quá trình điều tra các vụ án XPSH có tính chất chiếm đoạt. + Kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường: Khám nghiệm hiện trường đóng vai trò rất quan trọng trong điều tra, xử lý tội phạm. Trong nhiều vụ án, kết quả khám nghiệm hiện trường có tính chất quyết định đối với việc điều tra. Chính vì vậy, VKS phải kiểm sát khám nghiệm hiện trường hết sức chặt chẽ nhằm đảm bảo cho hoạt động khám nghiệm hiện trường đúng quy định của Bộ luật TTHS và đáp ứng yêu cầu nghiệp vụ điều tra, xử lý tội phạm. Khi khám nghiệm hiện trường, Kiểm sát viên cần lưu ý một số vấn đề sau:việc có mặt của Kiểm sát viên tại buổi khám nghiệm là bắt buộc; Kiểm sát viên cần đảm bảo các yêu cầu pháp lý của buổi khám nghiệm như cần có người chứng kiến, các nhà chuyên môn liên quan đến lĩnh vực khám nghiệm…; yêu cầu lực lượng khám nghiệm thực hiện nghiêm túc, tỉ mỉ, phát hiện, thu giữ, đánh giá đầy đủ, chính xác dấu vết, vật chứng phản ánh việc lục soát, chiếm đoạt tài sản, đặc điểm, chủng loại tài sản bị chiếm đoạt; Kiểm sát viên có thể chụp ảnh, vẽ sơ đồ hiện trường, xem xét tại chỗ dấu vết, đồ vật, tài liệu liên
  • 41. 33 quan đến vụ việc; lấy lời khai và ghi âm lời khai của người bị hại, người biết về sự việc khác tại hiện trường; Kiểm sát viên phải bảo đảm những nội dung của buổi khám nghiệm phải được thể hiện đầy đủ trong biên bản khám nghiệm hiện trường, đảm bảo giá trị pháp lý của biên bản khám nghiệm. + Kiểm sát khởi tố bị can Việc ra quyết định khởi tố bị can của CQĐT với mục đích là nhằm xác định về mặt pháp lý một con người cụ thể đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được coi là tội phạm và quyết định khởi tố bị can đó sẽ trực tiếp hạn chế quyền một số quyền và lợi ích hợp pháp thuộc về nhân thân người bị khởi tố. Do đó, để nhằm hạn chế những vi phạm pháp luật của CQĐT trong việc khởi tố bị can, đảm bảo cho việc khởi tố có căn cứ, đúng người, đúng tội, VKS phải kiểm sát chặt chẽ các quyết định khởi tố bị can của CQĐT. Nội dung mà VKS tiến hành kiểm sát khởi tố bị can là kiểm tra tính có căn cứ và hợp pháp của quyết định khởi tố bị can của CQĐT và cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, đảm bảo việc khởi tố đúng người, đúng tội, nội dung và hình thức của quyết định khởi tố đúng pháp luật. + Kiểm sát hoạt động hỏi cung bị can: Cơ sở pháp lý để VKS thực hiện kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc hỏi cung bị can là Bộ luật TTHS năm 2003, Điều 15 Luật tổ chức Viện KSND năm 2014 và Điều 16 Quy chế công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tối cao năm 2008 (sau đây gọi tắt là Quy chế công tác kiểm sát). Để kiểm sát việc hỏi cung bị can, Kiểm sát viên có thể trực tiếp tham gia các buổi hỏi cung của Điều tra viên hoặc nghiên cứu biên bản hỏi cung. Qua nghiên cứu các biên bản hỏi cung bị can, nếu thấy chưa làm rõ được chứng cứ buộc tội, chứng cứ xác minh không có tội và các tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can hoặc CQĐT chưa phân hóa làm rõ được vai trò
  • 42. 34 của từng bị can khi có nhiều đối tượng cùng tham gia thực hiện hành vi phạm tội thì VKS cần yêu cầu CQĐT hỏi bổ sung bị can để làm rõ các vấn đề nói trên. Nếu phát hiện có dấu hiệu mớm cung, bức cung, dùng nhục hình...thì Kiểm sát viên sẽ thực hiện việc phúc cung bị can nhằm kiểm tra lại toàn bộ các lời khai của bị can có phù hợp với các chứng cứ khác của vụ án đã được thu thập hay không. Nếu các lời khai của bị can không thống nhất hoặc giữa lời khai của các bị can có nhiều mâu thuẫn thì phải yêu cầu CQĐT cho đối chất hoặc tiến hành thực nghiệm điều tra. Đối với bị can là người chưa thành niên, là người nước ngoài, là người dân tộc thiểu số, là người không biết chữ... Đây là những trường hợp đặc biệt và trong thực tế thường hay có những sai sót trong quá trình hỏi cung, ảnh hưởng tới quyền và lợi ích của họ. Do vậy, VKS phải kiểm sát hết sức chặt chẽ, đảm bảo cho quá trình hỏi cung đúng quy định của pháp luật như bị can là người chưa thành niên thì phải có người giám hộ tham gia buổi hỏi cung, bị can là người nước ngoài thì phải có người phiên dịch tham gia… + Kiểm sát hoạt động khám xét, thu giữ, tạm giữ đồ vật tài liệu và kê biên tài sản: Theo quy định của BLTTHS 2003 thì hoạt động khám xét bao gồm: khám người, khám chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm, đồ vật, thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm. Những hoạt động này có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền tự do về thân thể, quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, an toàn và bí mật thư tín, điện thoại điện tín của công dân. Do vậy, hoạt động khám xét chỉ được tiến hành khi có căn cứ để nhận định rằng, ở đó có công cụ, phương tiện phạm tội, đồ vật, tài sản do phạm tội mà có hoặc đồ vật, tài sản có liên quan đến vụ án. Việc khám chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm để phát hiện người đang bị truy nã ẩn nấp cũng chỉ được tiến hành, khi có căn cứ xác định người đang bị truy nã trốn ở đó.
  • 43. 35 Hoạt động kiểm sát việc khám xét được thực hiện theo các quy định tại Điều 140, 141, 142, 143, 144, 145, 148 Bộ luật TTHS năm 2003; Điều 15 Luật tổ chức Viện KSND năm 2014 và Điều 14 Quy chế công tác kiểm sát. + Kiểm sát các hoạt động điều tra khác: Đối với các hoạt động điều tra khác như lấy lời khai người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, đối chất, nhận dạng, xem xét dấu vết trên thân thể, thực nghiệm điều tra, trưng cầu giám định thì Luật TTHS cũng cho phép VKS được tiến hành những hoạt động này nhưng mang tính chất thực hành quyền công tố hơn là kiểm sát điều tra. Vì vậy, việc kiểm sát các hoạt động này được thực hiện chủ yếu thông qua nghiên cứu hồ sơ, xem xét kết quả của các hoạt động đó của CQĐT. - Kiểm sát việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn Việc áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn có ý nghĩa rất quan trọng trong giai đoạn điều tra vụ án, đảm bảo cho quá trình điều tra VAHS được thuận lợi. Bên cạnh đó, nó cũng ảnh hưởng tới những quyền cơ bản của công dân, nhất là biện pháp tạm giữ, tạm giam. Do vậy, việc áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn cần được đặt dưới sự kiểm sát chặt chẽ của VKS, đảm bảo việc áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn có căn cứ, đúng quy định pháp luật. Việc bảo đảm áp dụng biện pháp ngăn chặn đúng pháp luật là trách nhiệm của VKS, vì “… ở đâu có việc bắt giam, giữ trái pháp luật thì VKS ở đó phải chịu trách nhiệm” [6]. Khi kiểm sát việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong các vụ án XPSH có tính chất chiếm đoạt, Kiểm sát viên phải kiểm sát tính có căn cứ và hợp pháp, sự cần thiết phải áp dụng các biện pháp đó đối với từng đối tượng. Viện kiểm sát phải yêu cầu CQĐT tuân thủ đúng thủ tục quy định tại Điều 80 BLTTHS khi tiến hành bắt bị can để tạm giam, Điều 81 BLTTHS 2003 khi tiến hành bắt người trong trường hợp khẩn cấp; Điều 83, 86, 87 đối với việc áp dụng biện pháp tạm giữ; Điều 88 đối với việc áp dụng biện pháp tạm giam.
  • 44. 36 - Kiểm sát thời hạn điều tra, tạm đình chỉ điều tra, đình chỉ điều tra + Kiểm sát thời hạn điều tra: Hoạt động điều tra VAHS chỉ được tiến hành trong một thời hạn xác định. Khoản 1,2 Điều 119 Bộ luật TTHS năm 2003 đã quy định cụ thể thời hạn điều tra cho từng loại tội phạm theo mức độ nghiêm trọng của tội phạm. Khi cần gia hạn điều tra, CQĐT phải có văn bản đề nghị VKS gia hạn điều tra. Vì vậy, để kiểm sát tốt thời hạn điều tra, Kiểm sát viên phải theo dõi sát tiến trình điều tra, kịp thời nhắc nhở Điều tra viên nhanh chóng tiến hành các biện pháp điều tra để đảm bảo về thời hạn điều tra. Khi nhận được đề nghị gia hạn điều tra của CQĐT, Kiểm sát viên phải nghiên cứu hồ sơ vụ án, đánh giá đúng tính chất, mức độ nghiêm trọng của vụ án và tính tích cực trong điều tra của Cơ quan điều tra để đề nghị lãnh đạo VKS có thẩm quyền quyết định việc gia hạn theo đúng quy định tại Điều 119 Bộ luật TTHS năm 2013. + Kiểm sát tạm đình chỉ điều tra, truy nã bị can. Trong quá trình điều tra VAHS khi xác định có căn cứ được quy định tại Điều 160 BLTTHS, Cơ quan điều tra ra quyết định tạm đình chỉ điều tra. Quyết định tạm đình chỉ điều tra phải được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp. Viện kiểm sát có trách nhiệm kiểm tra, xem xét nhằm đảm bảo tính có căn cứ, tính hợp pháp trong việc quyết định tạm đình chỉ điều tra. + Kiểm sát đình chỉ điều tra. Việc ra quyết định đình chỉ điều tra là chấm dứt hoạt động tố tụng hình sự đối với vụ án hoặc đối với bị can, điều đó cũng có nghĩa là vụ án được kết thúc điều tra. VKS phải kiểm sát chặt chẽ việc CQĐT gửi quyết định đình chỉ điều tra, bản kết luận điều tra cùng hồ sơ vụ án cho VKS để xem xét. Viện kiểm sát phải xem xét, nghiên cứu thủ tục ban hành bản kết luận điều tra và quyết định đình chỉ điều tra như ngày, tháng, năm, họ tên, chức vụ và chữ ký của người ra kết luận. Đồng thời, phải kiểm sát các căn cứ của quyết định đình chỉ điều tra theo quy định tại Điều 164 Bộ luật TTHS.
  • 45. 37 - Kiểm sát một số nội dung khác trong giai đoạn điều tra. + Kiểm sát việc lập hồ sơ vụ án của CQĐT: Đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng để thực hiện chức năng kiểm sát điều tra của VKS nhằm đảm bảo hồ sơ vụ án thể hiện trung thực tòa bộ kết quả điều tra, làm cơ sở để giải quyết đúng đắn vụ án. Khi kiểm sát việc lập hồ sơ vụ án, các Kiểm sát viên phải kiểm sát cả về trình tự, thủ tục tố tụng và nội dung của các tài liệu có trong hồ sơ vụ án theo đúng quy định của pháp luật. Trong đó, đặc biệt chú ý đến trình tự, thủ tục thu thập và tính toàn diện, khách quan của các tài liệu là chứng cứ xác định tội phạm trong vụ án. Những vi phạm trong việc lập hồ sơ vụ án như vi phạm về trình tự, thủ tục, thêm, bớt, làm sai lệch hồ sơ vụ án.... phải được phát hiện kịp thời và yêu cầu CQĐT khắc phục ngay. Những cán bộ điều tra có sai phạm phải được yêu cầu xử lý theo pháp luật. + Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những người tham gia tố tụng. Với nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những người tham gia tố tụng không chỉ nhằm bảo đảm thực hiện các quyền và nghĩa vụ của họ do pháp luật quy định mà còn đảm bảo tính khách quan, đúng đắn của việc giải quyết vụ án.Những người tham gia tố tụng như người làm chứng, người bị hại, người giám định, người bào chữa, người phiên dịch có trách nhiệm phải tuân thủ những quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Đây là đòi hỏi tất yếu trong quá trình điều tra vụ án hình sự, góp phần rất lớn vào hiệu quả của quá trình điều tra vụ án hình sự. Trong quá trình kiểm sát, nếu VKS phát hiện thấy người bào chữa, người giám định, người phiên dịch có hành vi vi phạm pháp luật thì phải có biện pháp xử lý phù hợp như: yêu cầu họ khắc phục vi phạm, thu hồi giấy chứng nhận bào chữa, yêu cầu Văn phòng luật sư có biện pháp xử lý đối với người bào chữa, yêu cầu cơ quan của người giám định, người phiên dịch có biện pháp xử lý thích hợp hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự nếu hành vi của họ có dấu hiệu tội phạm.