SlideShare a Scribd company logo
1 of 108
ĐẠI QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ KHOA
YÕU Tè PH¢N QUYÒN
TRONG LÞCH Sö LËP HIÕN VIÖT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2015
ĐẠI QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ KHOA
YÕU Tè PH¢N QUYÒN
TRONG LÞCH Sö LËP HIÕN VIÖT NAM
Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử Nhà nước và Pháp luật
Mã số: 60 38 01 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: GS. TSKH. ĐÀO TRÍ ÚC
HÀ NỘI - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính
chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và
đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật
Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Nguyễn Thị Khoa
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: LÝ THUYẾT PHÂN QUYỀN TRONG LỊCH SỬ TƯ
TƯỞNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN ............................................ 9
1.1. Lịchsửhìnhthànhvànộidungtưtưởngcủalýthuyếtphânquyền ........ 9
1.1.1. Thời Cổ đại.........................................................................................10
1.1.2. Thời Trung đại (thế kỷ XV-XVI).......................................................12
1.1.3. Thời Cận đại (thế kỷ XVI – XIX)......................................................12
1.1.4. Thời hiện đại.......................................................................................19
1.2. Một số mô hình phân quyền chủ yếu..............................................23
1.2.1. Mô hình phân quyền ở Anh................................................................23
1.2.2. Mô hình phân quyền ở Mỹ.................................................................25
1.2.3. Mô hình phân quyền ở Pháp ..............................................................28
1.2.4. Mô hình phân quyền ở Đức................................................................31
Tiểu kết Chương 1.........................................................................................35
Chương 2: QUY ĐỊNH VỀ PHÂN QUYỀN TRONG CÁC HIẾN
PHÁP VIỆT NAM............................................................................36
2.1. Nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước và yếu tố phân
quyền trong các Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980 và Hiến
pháp năm 1992..................................................................................36
2.1.1. Phân quyền theo Hiến pháp năm 1946...............................................36
2.1.2. Phân quyền theo Hiến pháp năm 1959, 1980 và Hiến pháp
năm 1992 ...........................................................................................45
2.2. Phân quyền trong tổ chức quyền lực nhà nước theo Hiến
pháp năm 2013..................................................................................61
2.2.1. Quốc hội - cơ quan thực hiện quyền lập pháp ...................................61
2.2.2. Chính phủ - cơ quan thực hiện quyền hành pháp...............................65
2.2.3. Tòa án - cơ quan thực hiện quyền tư pháp.........................................66
2.3. Mối quan hệ giữa ba nhánh quyền lực...........................................71
2.3.1. Mối quan hệ giữa quyền hành pháp và quyền lập pháp trong
Hiến pháp năm 2013 ..........................................................................71
2.3.2. Mối quan hệ giữa quyền hành pháp và quyền tư pháp ......................72
2.3.3. Mối quan hệ giữa quyền lập pháp và quyền tư pháp .........................72
Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN YẾU
TỐ PHÂN QUYỀN TRONG TỔ CHỨC QUYỀN LỰC NHÀ
NƯỚC Ở VIỆT NAM.................................................................................74
3.1. Phương hướng và các giải pháp hoàn thiện yếu tố phân
quyền trong tổ chức quyền lực nhà nước ở Việt Nam..................74
3.1.1. Thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền con người,
quyền công dân – cơ sở cho việc thực hiện nguyên tắc phân
quyền trong tổ chức quyền lực nhà nước...........................................74
3.1.2. Yêu cầu về kiểm soát quyền lực nhà nước và cơ chế phân quyền.....77
3.2. Các giải pháp hoàn thiện và phát triển yếu tố phân quyền
trong tổ chức quyền lực nhà nước..................................................85
3.2.1. Tăng cường các chức năng lập pháp và giám sát tối cao của
Quốc hội .............................................................................................85
3.2.2. Xác lập rõ hơn phạm vi chức năng hành pháp của Chính phủ ..........89
3.2.3. Bảo đảm sự độc lập của Tòa án..........................................................93
3.2.4. Phân cấp, phân quyền giữa Trung ương và địa phương và việc
tăng cường khả năng tự quản của chính quyền địa phương...............95
KẾT LUẬN....................................................................................................98
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................100
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong tiến trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ở nước ta đã có những
bước tiến về cải cách và đổi mới trên nhiều mặt.
Hoạt động lập pháp của Quốc hội đã được đẩy mạnh trên cơ sở chiến
lược xây dựng và hoàn thiện pháp luật đến năm 2010 tầm nhìn 2020. Kết quả
là đã tạo ra được khung pháp luật tương đối đầy đủ nhằm điều chỉnh hầu hết
các lĩnh vực quan hệ xã hội phục vụ đắc lực cho sự vận hành của nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu
hơn, rộng hơn, có hiệu quả hơn và cho hoạt động bình thường của các lĩnh
vực quan hệ xã hội và sinh hoạt quốc gia.
Cải cách hành chính đã được Đảng và Nhà nước ta chủ trương triển
khai với việc xây dựng và thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành
chính nhà nước giai đoạn 2001-2010. Kết quả là trên các mặt: cải cách thể chế
hành chính nhà nước, cải cách bộ máy hành chính, cải cách chế độ công vụ và
công chức, cải cách tài chính công đều đã tạo được một số chuyển biến tích
cực với mục tiêu xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững
mạnh, chuyên nghiệp hóa, hiện đại hóa, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả theo
các nguyên tắc và đòi hỏi của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự
lãnh đạo của Đảng mà điểm cốt yếu nhất là tăng cường năng lực tiếp nhận
nhu cầu và lợi ích của xã hội, tạo thuận lợi tối đa cho các doanh nghiệp, cho
người dân trong việc sử dụng các dịch vụ công.Nhiều nỗ lực cũng đang được
đặt theo hướng tăng cường các bảo đảm cho việc gắn kết hoạt động của các
cơ quan hành chính nhà nước với nhân dân, chống quan liêu, các hiện tượng
hách dịch, cửa quyền, tham nhũng.
2
Những định hướng và giải pháp cơ bản và toàn diện cho công cuộc cải
cách tư pháp được xác định trong Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02-6-2005
của Bộ Chính trị “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”. Thông qua
các nỗ lực cải cách, hệ thống tư pháp Việt Nam đã từng bước được củng cố về
tổ chức, làm trong sạch đội ngũ cán bộ các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử;
tăng cường khả năng tiếp cận công lý cho công dân, khắc phục tình trạng án
oan, sai, xâm phạm nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Tuy nhiên, tổ chức bộ máy của các cơ quan nhà nước còn cồng kềnh,
nhiều đầu mối và tầng nấc trung gian, chất lượng hoạt động và hiệu quả thấp.
Chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và chế độ trách nhiệm của nhiều cơ quan
và người đứng đầu chưa thật rõ, cơ chế vận hành và mối quan hệ còn bất hợp
lý, đội ngũ cán bộ, công chức còn hạn chế cả về năng lực chuyên môn, tinh
thần trách nhiệm, đạo đức công vụ. Tình hình đó làm giảm hiệu quả lãnh đạo
của Đảng, làm yếu hiệu lực quản lý của Nhà nước là năng lực lãnh đạo điều
hành của hệ thống chính trị. Tệ quan liêu, tình hình tham nhũng có chiều
hướng gia tăng, nhưng chưa kiểm soát được.
Hiến pháp năm 2013 được ban hành đã xác định rõ hơn một bước vị trí và
mối quan hệ mới giữa các cơ quan nhà nước theo nguyên tắc: “quyền lực nhà
nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” [26, Điều 2]. Cơ
chế của quyền lực nhà nước theo nguyên tắc này chứa đựng trong đó khả
năng kiểm soát quyền lực cao hơn, minh bạch hơn và dân chủ hơn. Tuy nhiên,
cho đến nay những câu hỏi: quyền lực thống nhất như thế nào và ở đâu? phân
công là gì? phối hợp như thế nào giữa các chức năng lập pháp, hành pháp, tư
pháp? Nói khác đi, các cơ chế pháp lý cho việc bảo đảm sự thống nhất của
quyền lực nhà nước là gì? Sự phân công, phối hợp phải như thế nào để một
mặt đảm bảo các cơ quan quyền lực nhà nước thực hiện đúng chức năng,
3
thẩm quyền và làm hết trách nhiệm của mình, mặt khác, không vi phạm thẩm
quyền của cơ quan khác và xâm phạm các quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân, lợi ích của quốc gia, dân tộc, phát huy được hiệu lực tổng thể của bộ máy
nhà nước? Trong khi đó, kinh nghiệm lịch sử cho thấy rằng, việc phân quyền
đúng (bao gồm cả sự phân công và phối hợp) là cái lõi của cơ chế giám sát
quyền lực trong Nhà nước pháp quyền, là điều kiện cần thiết để phòng và
chống quan liêu, tha hóa quyền lực.
Những điều trình bầy trên đây là cơ sở và lý do khách quan của việc lựa
chọn đề tài: “Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp Việt Nam”.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài có mục tiêu xác định cho được những yếu tố phân quyền trong
lịch sử lập hiến về tổ chức quyền lực Nhà nước ở Việt Nam và những tác
nhân của quá trình nhận thức, vận dụng nguyên tắc phân quyền trong lịch
sử, từ đó rút ra những bài học cần thiết cho quá trình cải cách bộ máy nhà
nước ở nước ta.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thứ nhất, hệ thống hoá các học thuyết phân quyền trong lịch sử nhằm
thấy được tính phổ biến và các yếu tố đặc thù trong tổ chức quyền lực nhà
nước; ý nghĩa của nguyên tắc phân quyền trong Nhà nước pháp quyền.
Thứ hai, nghiên cứu để xác định nội dung của yếu tố phân quyền trong
từng giai đoạn phát triển cụ thể của Hiến pháp Việt Nam thong qua việc tìm
hiểu vị trí pháp lý, chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền được hiến định trong
từng thời kỳ của các thiết chế quyền lực nhà nước.
Thứ ba, làm rõ quan điểm, phương hướng tiếp tục cải cách bộ máy nhà
nước đáp ứng nhu cầu xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, trong đó có yếu tố phân quyền; các giải pháp nhằm thi
4
hành Hiến pháp 2013 theo hướng áp dụng các yếu tố phân quyền, tăng cường
kiểm soát quyền lực có hiệu quả.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Nghiên cứu lý luận phân quyền trong khuôn khổ các học thuyết về
Nhà nước pháp quyền; một số mô hình phân quyền trên thế giới
- Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước Việt Nam qua các giai
đoạn lịch sử từ 1945 đến nay
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài có nội dung rộng lớn về lý luận và thực tiễn. Do vậy, phạm vi đề
tài được đặt trong khuôn khổ nghiên cứu một số học thuyết tiêu biểu trong
lịch sử tư tưởng chính trị - pháp lý; phân tích các quy định, các chế định của
các bản Hiến pháp Việt Nam: 1946, 1959, 1980, 1992 và 2013.
4. Tình hình nghiên cứu
4.1. Tình hình nghiên cứu trong nước về đề tài
Trước hết là các công trình nhằm làm rõ nhu cầu của việc tăng cường
dân chủ, đưa ra các luận cứ khoa học cho việc xác định quyền kiểm tra, giám
sát của nhân dân đối với hoạt động của bộ máy Đảng và Nhà nước, chỉ rõ nhu
cầu về tính công khai, minh bạch cần có của hệ thống chính trị, của các cơ
quan công quyền và khả năng tiếp cận công quyền của người dân. Một nhóm
các công trình, đề tài khác đã tập trung vào việc nghiên cứu về các cơ chế
kiểm tra, giám sát trong hệ thống các cơ quan thuộc bộ máy nhà nước. Trước
hết đó là công trình bàn về cơ chế chung của việc giám sát việc thực hiện
quyền lực nhà nước nhằm mục đích bảo đảm tính thống nhất của quyền lực
nhà nước, đấu tranh có hiệu quả chống quan liêu, lãng phí, tham nhũng trong
bộ máy Nhà nước: (Đào Trí Úc, Võ Khánh Vinh (đồng chủ biên), Giám sát và
cơ chế giám sát việc thực hiện quyền lực Nhà nước ở nước ta hiện nay, Nxb
5
Công an nhân dân, Hà Nội 2003; Trịnh Thị Xuyến, Kiểm soát quyền lực nhà
nước. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị
quốc gia, 2006, Hà Nội; Trần Ngọc Đường, Phân công, phối hợp và kiểm soát
quyền lực trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
Đề tài khoa học cấp Nhà nước, Mã số KX04-28/06-10). Đặc biệt, cơ chế giám
sát của Quốc hội – cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất đã được bàn đến khá
nhiều trong các diễn đàn nghiên cứu thời gian qua: (Trần Ngọc Đường: Giám
sát của Quốc hội - giám sát ở tầng cao nhất - Tạp chí Nghiên cứu lập pháp,
số 3/2003; Lê Minh Thông: Về quyền giám sát tối cao của Quốc hội trong
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Báo cáo khoa học tại Hội thảo:
“Quốc hội Việt Nam – 60 năm hình thành và phát triển”, Hà Nội, 23-
24/12/2005; TS. Trương Thị Hồng Hà: Hoàn thiện cơ chế pháp lý đảm bảo
chức năng giám sát của Quốc hội, Nxb Chính trị quốc gia, 2009; TS. Nguyễn
Sĩ Dũng (chủ biên): Quyền giám sát của Quốc hội: nội dung và thực tiễn từ
góc nhìn tham chiếu. Nxb Tư pháp, 2004; Bùi Ngọc Thanh: Mấy giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của Đại biểu Quốc hội, Kỷ yếu
hội thảo về hoạt động giám sát. Văn phòng Quốc hội, 1999).
Từ Đại hội lần thứ X của Đảng năm 2006, nhu cầu về nghiên cứu để
xây dựng cơ chế phán quyết về các vi phạm Hiến pháp trong các hoạt động
lập pháp, hành pháp và tư pháp đã được đặt ra (Đảng cộng sản Việt Nam, Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2006, tr.126, 127). Trên cơ sở đó, đã có một số đề án nghiên cứu (Đảng đoàn
Quốc hội: Đề án: Về cơ chế phán quyết các vi phạm Hiến pháp, tháng 12-
2009) và diễn đàn thật sự nghiêm túc tiếp cận vấn đề mới mẻ này ở nước ta
(GS.TSKH Đào Trí Úc, PGS.TS Nguyễn Như Phát (chủ biên): Tài phán Hiến
pháp và vấn đề xây dựng mô hình tài phán hiến pháp ở Việt Nam. Nxb Công
an nhân dân, Hà Nội, 2007; Đặng Ngọc Chiến (chủ biên): Cơ chế bảo hiến,
6
Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2005; Bùi Ngọc Sơn: Bảo hiến ở Việt Nam, Nxb Tư
pháp, Hà Nội, 2006).
Sự liên hệ yếu giữa các cơ chế và hình thức kiểm tra, giám sát quyền
lực và sự chồng chéo đã dẫn đến có nơi, có lúc vô hiệu lẫn nhau, gây thêm
phiền phức và khó khăn cho công dân, cho doanh nghiệp. Một số cơ chế kiểm
tra, giám sát đã được xây dựng hoặc bãi bỏ nhưng chưa được đặt trên những
cơ sở lý luận và thực tiễn thật sự xác đáng và có sức thuyết phục.
Những nghiên cứu đã phản ánh những nỗ lực nhằm lập luận rõ hơn
nội dung một nguyên tắc đã được hiến định ở nước ta từ năm 2001, nguyên
tắc: “quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các
cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp” [31, Điều 2], chỉ ra nhu cầu phải tiếp tục phản ánh, chức năng, thẩm
quyền và quan hệ giữa các cơ quan Nhà nước theo chiều ngang và chiều dọc
giữa trung ương và địa phương.
Tuy nhiên, các kết quả nghiên cứu vẫn chưa đề ra được một mô hình
căn bản và tổng thể về cơ chế quyền lực Nhà nước, nên mặc dù trong từng
bộ phận hợp thành của quyền lực Nhà nước đã có sự đổi mới, cải cách nhất
định nhưng hiệu quả của việc thục hiện quyền lực nhân dân, bảo đảm sự
thống nhất, sự phân công và kiểm soát quyền lực vẫn tiếp tục là tâm điểm
quan tâm của dư luận.
4.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài về đề tài
Cơ chế quyền lực nhà nước là một trong những vấn đề trung tâm của
các lĩnh vực khoa học chính trị, khoa học quản lý, của các bộ môn khoa học
như triết học, xã hội học, luật học v.v.. và là đề tài nghiên cứu của nhiều công
trình lý luận, hội nghị, hội thảo quốc tế và quốc gia ở nước ngoài.
Trong các công trình nghiên cứu hiện đại, chúng ta có thể tìm thấy
những quan điểm, những mô hình đề xuất xung quanh vấn đề cơ chế kiểm tra
7
và giám sát quyền lực chính trị. Đề tài này thường được đặt ra khi các tác giả
bàn về những vấn đề như chức năng và hiệu quả của hệ thống chính trị
(Easton D. A system analysis of Political life. N.Y.1965, về dân chủ (Held D.
Models of Democracy. Cambridge (UK), 1992, Jean-Claude Laubeti:
Tocqueville and the two Democracies. Harvard University Press, 1989), các
đảng chính trị (Brookman Jame, E. Beukel: Elites, Parties and Democracy.
Odence, Univ.Press, 1999). Nhà nước pháp quyền và sự ràng buộc của quyền
lực (Barry M.Hager. The Rule of Law-A Lexicon for Policy Makers, N.Y,
1999), mối liên hệ giữa cấu trúc quyền lực và tham nhũng (Anti-corruption in
Transition: A Contribution to the Policy Debate. Washingtion D.C.2000), cơ
chế quyền lực và phân quyền giữa Nhà nước và xã hội dân sự, các cơ chế bảo
vệ quyền con người, quyền công dân. Đặc biệt, trong những năm gần đây
nhất, xuất phát từ tình hình một số nước đang tiến hành cải cách bộ máy
quyền lực Nhà nước trong bối cảnh chuyển đổi cơ chế chính trị và kinh tế-xã
hội, vấn đề giám sát Hiến pháp đã được bàn ở nhiều diễn đàn. Đó là những tư
liệu rất cần được nghiên cứu, tham khảo theo hướng tiếp cận về giám sát và
kiểm soát quyền lực.
5. Những điểm mới và đóng góp của đề tài
Vấn đề phân quyền trong lý luận chính trị pháp lý nước ta là một vấn
đề chưa được quan tâm nghiên cứu đúng mức. Vì vậy, bản thân sự lựa chọn
và tiến hành nghiên cứu đề tài này có thể được coi là một hướng nghiên cứu
mới trong khoa học pháp lý nước ta.
Đề tài là công trình nghiên cứu có mục đích đóng góp thiết thực cho
việc tổng kết việc thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, Nghị quyết lần
thứ 5, Ban chấp hành Trung ương về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo
của Đảng đối với hệ thống chính trị, góp phần tổng kết việc thực hiện các
chiến lược của Đảng trong lĩnh vực cải cách bộ máy nhà nước và pháp luật,
8
triển khai thi hành Hiến pháp 2013, xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý
phù hợp với Hiến pháp.
6. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu của đề tài
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lê Nin và tư tưởng
Hồ Chí Minh cũng như quan điểm, tư tưởng của Đảng cộng sản Việt Nam
thể hiện trong các nghị quyết của Đảng, đặc biệt là trong các văn kiện Đại
hội lần thứ XI của Đảng, Đề tài sử dụng các phương pháp tiếp cận nghiên
cứu: phân tích lý luận, nghiên cứu lịch sử các học thuyết về tư tưởng chính
trị - pháp lý; đề tài đã đặc biệt chú ý sử dụng phương pháp lịch sử để phục
vụ cho việc tìm hiểu và rút ra những bài học lịch sử, đánh giá đúng những
giá trị lịch sử trong tổ chức quyền lực nhà nước. Là một công trình quan tâm
đến kinh nghiệm quốc tế, đề tài cũng đã sử dụng phổ biến phương pháp
nghiên cứu so sánh mà cụ thể là chính trị học so sánh, nhà nước học so sánh,
luật học so sánh và Hiến pháp học so sánh. Bên cạnh đó, các phương pháp
xã hội học như điều tra xã hội học, tọa đàm chuyên gia, v.v.. đã được sử
dụng rộng rãi trong quá trình nghiên cứu.
Đề tài sử dụng cách tiếp cận tổng thể, liên ngành, trên cơ sở lấy phương
diện pháp lý làm lát cắt chủ đạo kết hợp với các khía cạnh chính trị học, xã
hội học, sử học.
7. Cấu trúc của Đề tài
Đề tài bao gồm phần Mở đầu, Kết luận và 03 Chương.
Chương 1: Lý thuyết phân quyền trong lịch sử tư tưởng nhà nước
pháp quyền.
Chương 2: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập hiến Việt Nam.
Chương 3: Quan điểm, định hướng và các giải pháp hoàn thiện yếu tố
phân quyền trong tổ chức quyền lực nhà nước Việt Nam.
9
Chương 1
LÝ THUYẾT PHÂN QUYỀN
TRONG LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
1.1. Lịch sử hình thành và nội dung tư tưởng của lý thuyết phân quyền
Cả lý thuyết và trong thực tiễn, sự thống nhất của quyền lực về mặt bản
chất, về mặt xã hội và tổ chức - pháp lý không loại trừ mà ngược lại , đòi hỏi
có sự phân quyền. Trong trường hợp này, cơ chế phân quyền được hiểu như là
khía cạnh tổ chức - pháp lý của quyền lực nhà nước mà không mang tính bản
chất. Tính thống nhất và sự phân chia quyền lực là hai phương diện của cùng
một vấn đề. Sự phân quyền chỉ là biểu hiện về mặt tổ chức -pháp lý của một
quyền lực thống nhất về bản chất và về định hướng chính trị -xã hội trên
những mặt quan trọng nhất của việc thực hiện quyền lực nhà nước.
Lý thuyết, tư tưởng phân quyền nhà nước được hiểu là tổng thể các
quan điểm về việc chia tách quyền lực nhà nước thành các loại khác nhau có
cơ chế hoạt động, chức năng, nhiệm vụ khác nhau và có mối quan hệ theo
hướng phân công, phối hợp, kiểm soát đối trọng với nhau trong quá trình thực
hiện quyền lực nhà nước. Nói cách khác, tư tưởng phân quyền ngược lại với
tư tưởng tập quyền thể hiện việc tập trung quyền lực vào tay một người hoặc
một cơ quan. Theo đó, phân quyền được nhận biết qua các biểu hiện sau đây.
Có thể tóm tắt nội dung của cơ chế phân quyền như sau:
1. Có sự hiện diện của các nhánh quyền lực nhà nước: quyền lập pháp,
quyền hành pháp, quyền tư pháp và các nhánh quyền lực đó độc lập với nhau
về phạm vi thẩm quyền, chức năng nhiệm vụ và phương thức hoạt động.
2. Các nhánh quyền lực đó cần được bảo đảm cân bằng thông qua cơ
chế kiểm soát và đối trọng (“checks and balance”).
3. Các nhánh quyền lực độc lập, kiểm soát và đối trọng nhưng luôn
luôn phối hợp, tương tác, hỗ trợ lẫn nhau.
10
1.1.1. Thời Cổ đại
1.1.1.1. Tư tưởng của Aristotle
Ở thời kỳ cổ đại, Aristotle (385-322 TCN) là người đầu tiên đề cập tới
việc phân chia quyền lực trong các nhà nước. Trong tác phẩm “Chính trị”,
ông cho rằng để đảm bảo sự công bằng trong dân chúng, để có được những
đạo luật công bằng thì nhà nước phải được tổ chức có quy củ gồm ba bộ phận:
bộ phận thứ nhất làm nhiệm vụ tư vấn pháp lý về hoạt động của nhà nước, bộ
phận thứ hai là các tòa thị chính, bộ phận thứ ba là các cơ quan tư pháp [38].
Bộ phận thứ nhất còn gọi là Hội nghị nhân dân có chức năng quyết
định các vấn đề chiến tranh và hòa bình, lập ra hoặc rút khỏi những liên minh,
ban hành các đạo luật, những án tử hình, án đi đày hoặc tịch thu tài sản và yêu
cầu các pháp quan giải thích về cách xử sự của họ trong thời gian giữ chức
vụ. Như vậy, Hội nghị nhân dân được nắm quyền lập pháp và quyết định
những vấn đề quan trọng nhất của quốc gia.
Về các Tòa thị chính (các pháp quan) Aristotle cho rằng cần có nhiều
pháp quan để chăm lo từng việc cụ thể của nhà nước: ví dụ như - quản lý thị
trường, quản lý đất đai… nhưng cần có một pháp quan cao nhất, có quyền chỉ
huy toàn bộ nhân dân với tư cách là người đứng đầu nhà nước.
Về cơ quan tư pháp tòa án, Aristotle chia ra rất nhiều loại khác nhau
tùy theo tính chất và đặc điểm các vụ việc mà tòa án đó chuyên giải quyết.
Với vai trò là nhà tư tưởng đi tiên phong, Aristotle đã đề cập đến một
vấn đề hết sức mới mẻ so với thời đại của ông. Tuy nhiên, ông mới chỉ dừng
lại ở việc mô tả bộ máy nhà nước mà chưa đi sâu, chỉ ra mối liên hệ giữa các
cơ quan nhà nước, cũng như chưa chỉ ra nguyên nhân phải chia quyền lực nhà
nước thành các nhánh quyền lực như vậy.
Aristotle còn là cha đẻ của tư tưởng sơ khai về phân quyền. Theo ông,
trong mọi chế độ chính thể đều có mặt ba thành tố: thứ nhất, cơ quan bàn luận
11
về pháp luật, về các công việc của quốc gia; thứ hai, cơ quan điều hành công
việc thực tế; thứ ba, cơ quan xét xử. Đương nhiên, ý tưởng này của Aristotle
chưa phải là quan niệm về phân quyền như là một thành tố của Nhà nước
pháp quyền sau này, vì đối với phân quyền trong Nhà nước pháp quyền thì
ngoài việc có các nhánh quyền lực còn có sự độc lập, có sự tương tác về thẩm
quyền và mức độ giới hạn của thẩm quyền trong sự tương tác, phối hợp với
nhau giữa ba nhánh quyền lực đó. Tuy vậy, ý tưởng của Aristotle đã gieo hạt
giống cho sự nảy mầm sau này của học thuyết phân quyền.
Tư tưởng phân quyền của các nhà thông thái Hy Lạp cổ đại chủ yếu đi
theo hướng phân biệt và kết hợp giữa các phương thức cai trị mà chưa phải là
giữa các nhánh quyền lực: Cai trị đúng đắn trên nền tảng pháp luật và những
cách “cai trị dung dị” khiến cho người cầm quyền gần với dân hơn và cho sự
tham gia dễ dàng, thuận tiện của thường dân vào đời sống chính trị.
Sự sụp đổ của nền dân chủ Athens vào giữa thế kỷ thứ IV TCN đã làm
cho Aristotle đi đến những kết luận mới về nhà nước. Theo đó, quyền lực nhà
nước hình thành một cách tự nhiên. Pháp luật là quy tắc khách quan, chính
trực và vô tư. Pháp luật chỉ tồn tại giữa các công dân bình đẳng và tự do. Nó
phải được bổ sung và điều chỉnh theo yêu cầu của đời sống xã hội. Hình thức
nhà nước thích hợp là hình thức mà ở đó có sự phân biệt cần thiết giữa ba loại
quyền lực: nghị viện, chấp hành và xét xử. Tiến hóa tất yếu của các nhà nước
là từ chỗ nằm trong tay một người (Vua) đến một số người (quý tộc) và của
đa số người (nhân dân). Theo Aristotle, nguyên nhân chủ yếu làm cho nhà
nước sụp đổ là quá trình bình đẳng hay quá bất bình đẳng. Khi quyền lực nhà
nước bị lạm dụng thì kẻ thống trị sợ mất quyền, người bị trị sợ trừng phạt;
người cai trị tàn ác và tham lam, người bị trị sát hại lẫn nhau. Tư cách người
công dân (động vật công dân) là can đảm, tự do, cao thượng và chính nghĩa.
Tuy vậy nền cộng hòa của Aristotle là nền cộng hòa của các nhà thông thái,
12
các công dân-triết gia có đủ điều kiện vật chất và tinh thần thực hiện các
quyền của mình .E.J.Cheaolier nhận xét: “Tia sáng từ Hy Lạp cổ đại chắc
chắn không phải là cái duy nhất soi sáng thời hiện đại, nhưng không có nó thì
nền văn mình và ý thức châu Âu ngày nay sẽ đụng phải cơn kịch phát của
cuộc khủng hoảng của nó, sẽ không được hiểu biết một cách đầy đủ”.
1.1.1.2. Tư tưởng của Ph.Polype và M.T.Ciceron
Ngoài Aristotle, ở Hy Lạp thời kỳ La Mã Cổ đại còn có tư tưởng phân
chia quyền lực của Polype và Ciceron khi hai ông đưa ra quan điểm về sự cai
trị hỗn hợp. Ph.Polype (khoảng 200-120 TCN) cho rằng, một nhà nước lý
tưởng là nhà nước hỗn hợp của ba chính quyền - ba thế lực chính trị: chính
quyền quốc vương, chính quyền quý tộc và chính quyền nhân dân. Đó chính
là ba thứ quyền lực: quyền hành pháp trong tay vua, quyền lập pháp trong tay
Viện nguyên lão của giới quý tộc và quyền tư pháp thuộc về sự phán xét của
dư luận nhân dân.
M.T. Ciceron (106-143 TCN) là nhà lập pháp nổi tiếng của Roma thời
kỳ Cộng hòa, trong tác phẩm “Đối thoại” ông viết: “…một phần quyền lực
nhà nước phải được phân chia và trao cho những người chiếm hàng đầu, còn
một số công việc phải dành cho nhân dân xét đoán và giải quyết…”. Ciceron
đã nghiên cứu nhiều hình thức của nhà nước hỗn hợp và cuối cùng ủng hộ cho
hình thức nhà nước có sự cân bằng giữa các nhánh quyền lực: “phân chia
quyền lực: nghĩa vụ và quyền hạn công bằng”.
1.1.2. Thời Trung đại (thế kỷ XV-XVI)
Ở thời kỳ này, do ảnh hưởng của tư tưởng Thiên chúa giáo mà, luôn
nhấn mạnh vai trò tuyệt đối của Thượng đế, không có nhà tư tưởng nào kế
thừa và phát triển những tư tưởng tam quyền phân lập thời Cổ đại.
1.1.3. Thời Cận đại (thế kỷ XVI – XIX)
Ngay từ đầu thế kỷ XVI, chế độ phong kiến và hệ tư tưởng chính trị bị
13
các trào lưu tư tưởng nảy sinh ở Tây Âu tấn công mạnh mẽ, chế độ phong
kiến bắt đầu tan ra, các quan hệ tư bản chủ nghĩa dần hình thành. Các nhà tư
tưởng thời kỳ này mạnh mẽ chống lại giáo hội và tòa án Thiên chúa giáo.
Thời kỳ này còn được gọi là thời Phục hưng vì đã áp dụng, phục hưng lại
những giá trị, lý tưởng tốt đẹp từ thời cổ đại vào việc xây dựng hệ tư tưởng
mới, trong đó có tư tưởng về phân quyền.
Ở thời kỳ Cận đại có một số tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước
như sau:
1.1.3.1. Tư tưởng của John Loke và C.L.Montesquieu
Tiếp thu tư tưởng của Aristotle và J.Locke, Montesquieu quan niệm
trong mỗi quốc gia đều có ba thứ quyền là quyền lập pháp, quyền thi hành
những điều luật về công pháp (quyền hành pháp) và quyền thi hành những
điều trong luật dân sự (quyền tư pháp). Quyền lập pháp giao cho nghị viện,
quyền hành pháp giao cho Chính phủ, quyền tư pháp giao cho Tòa án.
Montesquieu cho rằng:
Khi quyền lập pháp và quyền hành pháp nhập lại trong tay
một người hay một viện nguyên lão, thì sẽ không còn gì là tự do
nữa; vì rằng người ta sợ chính con người ấy hay viện ấy chỉ đặt ra
luật độc tài để thi hành một cách độc tài. Cũng không có gì là tự do
nếu quyền tư pháp không tách khỏi quyền lập pháp và quyền hành
pháp. Nếu quyền tư pháp nhập lại với quyền lập pháp, thì người ta
sẽ độc đoán đối với quyền sống, quyền tự do của công dân; quan
tòa sẽ là người đặt ra luật. Nếu quyền tư pháp nhập với quyền hành
pháp thì quan tòa có thể hành xử như một kẻ áp bức [22].
Sơ đồ phân quyền này không chấp nhận một cơ quan nhà nước đứng trên
hoặc nắm trọn vẹn cả ba quyền.“Không một cơ quan nào vượt lên những cơ
quan kia, và không một cơ quan có thể tước đoạt quyền cá nhân của công dân”.
14
Tam quyền phân lập là nhằm dùng quyền lực kiểm soát và kiềm chế quyền
lực.Quyền lập pháp giao cho nghị viện có đại biểu của quý tộc phong kiến và
tư sản. Quyền hành pháp giao cho vua, nhưng vua phải chịu trách nhiệm trước
nhân dân mà đại biểu là giai cấp tư sản. Quyền tư pháp độc lập, được trao cho
cơ quan do dân cử và được bầu theo định kỳ. Tư tưởng phân quyền này thể
hiện tính chất thỏa hiệp giữa giai cấp tư sản đang lên nhưng còn non yếu và
tầng lớp quý tộc phong kiến lạc hậu, phản động nhưng vẫn còn thế lực. Giai
cấp tư sản chưa giành được ưu thế trong tương quan lực lượng với giai cấp
phong kiến, quý tộc. Vì vậy, đã đến lúc giai cấp tư sản cần tập hợp lực lượng
từ các giai cấp xã hội khác nhau và phân hóa giai cấp phong kiến quý tộc, tạo
tiền đề cho cuộc cách mạng tư sản.Tư tưởng tam quyền phân lập của
Montesquieu đã trở thành một trong những nội dung cơ bản của học thuyết
Nhà nước pháp quyền tư sản.
Học thuyết của J.Locke và S.Montesquieu về phân quyền, về quyền và
tự do của con người đã có ảnh hưởng sâu sắc không chỉ đối với các trào lưu tư
tưởng tiếp đó mà còn đối với sự phát triển của Hiến pháp và thực tiễn chính
trị - pháp lý tư sản.
Tuy có nguồn gốc sâu xa trong lịch sử nhưng lý luận về phân quyền chỉ
trở thành một học thuyết toàn diện và độc lập trong thời đại mới. Học thuyết
này xuất hiện là do sự thỏa hiệp giữa giai cấp tư sản và tầng lớp quý tộc có tư
tưởng tự do trong việc phân chia quyền lực trong bộ máy nhà nước giữa các
giai tầng này. Người khai sinh ra lý thuyết này là triết gia người Anh John
Locke (1632-1704) và nhà luật học người Pháp C.L.Montesquieu (1689-
1755) Hai ông chung quan điểm là ngăn chặn sự lạm quyền của (Nhà vua) đối
với các thần dân, hạn chế sự tập trung quyền hành một cách quá đáng vào tay
một số người. Tuy nhiên hai ông lại có quan niệm khác nhau về nguyên lý và
cơ chế hoạt động của việc phân quyền.
15
Trong tác phẩm “Hai luận thuyết về quản trị”, John Locke lần đầu tiên
đưa ra luận cứ về tư tưởng phân quyền thành cơ quan lập pháp và cơ quan
hành pháp. Cơ quan lập pháp chính là biểu hiện ý chí của toàn dân, giữ địa vị
tối cao. “Cơ quan ban hành luật cho những cơ quan khác phải đứng cao hơn
cơ quan thực thi”. Ngoài ra, Locke khẳng định rằng để quản lý các công việc
quốc gia cần phải có chính quyền liên bang, nhưng ông coi cơ quan tư pháp là
một phần của chính quyền hành pháp.
Montesquieu nêu ra một số khía cạnh mới của học thuyết này. Ông là
người đầu tiên tuyên bố rằng việc phân quyền phải là luật tối thượng của bộ
máy nhà nước vì chỉ có như thế mới bảo đảm được quyền tự do chính trị của
các công dân. Ông đã đi xa hơn Locke khi đề cập đến ba thành tố chính của
chính quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nhưng sự khác nhau căn bản
giữa lý thuyết của Locke và của Montesquieu chính là ở chỗ hai ông đã có
quan nhiệm hoàn toàn khác nhau về vai trò của cơ quan lập pháp. Nếu như
Locke nhấn mạnh vai trò tối cao của cơ quan lập pháp, coi nó là sự bảo đảm
cho việc thống nhất quyền lực nói chung thì Montesquieu lại nhìn thấy vai trò
tiêu cực của mọi loại quyền lực, dù quyền ấy thuộc về ai. Montesquieu cũng
nhấn mạnh tầm quan trọng của sự độc lập của chính quyền và các cơ quan
thực thi quyền lực [22].
Các học giả đã dành sự chú ý đặc biệt đến mối quan hệ phức tạp của
các nhánh quyền lực. Các nhánh này tuy được chia tách nhưng lại có vai trò
bổ trợ cho nhau, cùng nhau tạo ra một “cơ chế chính trị” duy nhất. Theo
Montesquieu cần tạo ra một hệ thống kiềm chế và đối trọng giữa các nhánh
quyền lực đó. Cần phải tạo lập một mối quan hệ giữa các nhánh quyền lực sao
cho các nhánh đó có thể độc lập giải quyết các nhiệm vụ quốc gia bằng những
phương tiện pháp lý của mình, đồng thời giữ được sự thăng bằng, có thể ngăn
chặn được sự độc chiếm quyền lực của một trong các nhánh đó.
16
Theo Montesquieu thì hệ thống kiềm chế và đối trọng bao gồm: giao
quyền có thời hạn, sự độc lập của các quan toà, quyền phủ quyết, quyền giải
tán quốc hội, giám sát chính cơ quan lập pháp, trách nhiệm của quan chức
trước cơ quan dân cử. Montesquieu đã nhiều lần nói đến trách nhiệm của các
quan chức trước cơ quan dân cử. Ông là người đầu tiên đưa ra phạm trù trách
nhiệm chính trị và chỉ rõ đặc thù của mối quan hệ giữa cơ quan lập pháp và cơ
quan hành pháp. Theo quan điểm của Montesquieu thì cơ quan hành pháp
nắm các quan chức, nắm ngân khố quốc gia và lực lượng quân sự nên dễ bị
tha hóa, dễ có xu hướng độc đoán và lạm dụng, vì vậy cần phải được kiềm
chế và phải báo cáo với cơ quan lập pháp. Montesquieu không đề xuất thành
lập một cơ quan điều phối trung tâm, vì ông cho rằng các nhánh quyền lực sẽ
tự cân bằng và tìm được lối thoát trong những trường hợp có khủng hoảng.
Ông cũng không đưa ra cơ chế chính trị hay pháp lý để có thể giải quyết xung
đột có thể xảy ra giữa các nhánh quyền lực.
Lý thuyết phân quyền của Montesquieu nhận được sự ủng hộ rộng rãi
của các nhà tư tưởng thế kỷ XVIII-XIX. Trước hết đó là Immanuel Kant
(1724-1804), cha đẻ của nền triết học cổ điển Đức - người đặt nền móng triết
học cho lý thuyết này. Sau đó là Banjamin Constant (1767-1830) cha đẻ của
trường phái tự do ở Pháp - người đã đưa ra lý thuyết về bốn nhánh quyền lực,
cho phù hợp với sự phân chia quyền lực trong chế độ quân chủ lập hiến.
Tư tưởng chính trị của Montesquieu được thể hiện trong tác phẩm “Bàn
về tinh thần pháp luật”. Trong tác phẩm này ông đã nêu lên những nét cơ bản
về xã hội công dân, nhà nước pháp quyền, sự phân chia và kiểm soát quyền
lực nhà nước. Ông là người có công lao tổng kết tất cả những quan điểm về
“phân chia quyền lực” trong lịch sử tư tưởng chính trị trước ông và đưa ra học
thuyết “tam quyền phân lập” một cách tương đối hoàn thiện về mặt nội dung.
Tư tưởng tam quyền phân lập của Montesquieu đã góp phần chống lại
17
chế độ quân chủ chuyên chế phong kiến ở Anh, Pháp thời kỳ bấy giờ, mở
đường cho cách mạng tư sản lật đổ chế độ phong kiến, mang lại quyền tự do
cho con người. Nội dung chính yếu và giá trị của tư tưởng tam quyền phân lập
cho đến nay vẫn còn ý nghĩa thiết thực. Bởi vì nguyên tắc của tam quyền phân
lập là phân chia ba hình thái quyền lực: lập pháp, hành pháp, tư pháp thành ba
hình thái tách biệt nhau, độc lập nhau và có phương thức hình thành và hoạt
động khác nhau. Quyền lập pháp thuộc về Quốc hội; quyền hành pháp thuộc
về Chính phủ và quyền tư pháp thuộc về Tòa án. Quyền lập pháp phản ánh ý
muốn chung của nhân dân. Quyền hành pháp nhằm mục đích thực hiện ý
muốn chung của nhân dân.
Việc phân chia và kiểm soát quyền lực nhà nước cho thấy quan điểm về
quyền lực nhà nước là quyền lực chung của toàn xã hội, do vậy nó phải được
sử dụng đúng mục đích là bảo vệ quyền lợi chung của mọi người, chống lại sự
độc chiếm quyền lực về tay một người hay một tổ chức, đảm bảo không có cơ
quan quyền lực nào vượt qua giới hạn cho phép để độc chiếm quyền lực.
Học thuyết tam quyền phân lập của Montesquieu là một trong những
học thuyết chính trị quan trọng nhất của nhân loại cho đến nay. Nó tác động,
ảnh hưởng sâu sắc đến thực tiễn tổ chức nhà nước của hầu hết các quốc gia
cho đến nay. Nội dung tư tưởng của học thuyết tam quyền phân lập này chính
là các nguyên tắc cơ bản trong Hiến pháp của nhiều quốc gia.
Tuy nhiên, học thuyết tam quyền phân lập của Montesquieu bên cạnh
những điểm tích cực nêu trên, cũng còn bộc lộ những hạn chế nhất định, đó
là: (i) Dù quan điểm tam quyền phân lập có được thực hiện triệt để đến đâu
thì vẫn không tránh được xu hướng quyền lực tập trung vào giai cấp thống trị.
Bởi vì, bản thân quyền lực nhà nước là một chỉnh thể gồm các bộ phận cấu
thành và có quan hệ hữu cơ với nhau; (ii) Trong tư tưởng tam quyền phân lập,
mặc dù khi nói đến quyền tư pháp có sự lựa chọn quan toà từ đa số người dân,
18
tuy nhiên, đối với những người phạm tội là giới quý tộc thì ông lại đưa ra ba
trường hợp, trong đó nhà quý tộc được đối xử đặc biệt. Do vậy, quan điểm
của ông chưa thực sự triệt để, vẫn bảo vệ quyền lợi cho giai cấp quý tộc; (iii)
Thực hiện tam quyền phân lập một cách triệt để có thể dẫn tới tính tách rời
của các cơ quan quyền lực, mâu thuẫn giữa các cơ quan quyền lực vì lợi ích
của các đảng phái dẫn đến ảnh hưởng tới lợi ích của những người dân bầu lên
các cơ quan quyền lực này.
1.1.3.2. Tư tưởng của J.J.Rousseau
Sau John Locke và Montesquieu, nhà tư tưởng Pháp J.J.Rousseau
(1712 -1778) là người có những tư tưởng mới mẻ và tiến bộ về sự phân chia
quyền lực trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước hơn cả. Trong tác
phẩm “Bàn về khế ước xã hội” J.J.Rousseau cho rằng, quyền lực nhà nước
phải thống nhất, quyền lực đó phải từ nhân dân mà ra, chính nhân dân mới là
người giao cho tổ chức nhà nước thực hiện quyền lực của mình. Tuy nhiên,
ông cũng nhận định, phân chia các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp cho
các cơ quan khác nhau trong tổ chức nhà nước đảm nhận là cần thiết, là cách
thức hợp lý duy nhất để đảm bảo sự hoạt động có hiệu quả của nhà nước,
cũng như ngăn chặn được xu hướng lạm quyền của cơ quan hành pháp.
Khi bàn về cơ quan lập pháp, J.J.Rousseau cho rằng, “lập pháp là đỉnh
cao nhất của sự hoàn thiện mà sức mạnh tập thể có thể đạt tới, cơ quan lập pháp
bao gồm toàn thể nhân dân hội họp thường xuyên sẽ đưa ra ý muốn chung của
quốc gia. Dân chúng tuân theo luật phải là người làm ra luật” [19]. Để luật
pháp thực sự là cơ quan quyền lực tối cao, cơ quan lập pháp phải phản ánh ý
muốn chung của toàn dân chứ không phải ý muốn của các đại diện nhân dân.
Để thuận lợi cho việc lập pháp, quốc gia cần đến những nhà lập pháp thông
thái, có khả năng đưa ra những dự luật phản ánh ý chí chung để nhân dân biểu
quyết. Nhà lập pháp phải có khả năng thuyết phục nhân dân chấp thuận các
19
dự luật vì nhà lập pháp không có quyền sai khiến nhân dân làm theo ý muốn
của mình.
Cơ quan hành pháp (còn được gọi là Chính phủ) được thành lập trên cơ
sở của luật pháp chứ không phải trên cơ sở của khế ước như cơ quan lập pháp.
Theo ông, quyền hành pháp phải thuộc về một cá nhân cụ thể, cá nhân ấy có
thể là pháp quan hoặc nhà vua, tức là người cai trị. Ở đây, tư tưởng phân
quyền được thể hiện một cách gián tiếp khi ông khẳng định quyền hành pháp
không thể trao vào tay cơ quan quyền lực tối cao - tức nhân dân, là cơ quan đã
có quyền lập pháp.
Cơ quan tư pháp được J.J.Rousseau nhắc tới là cơ quan “đặt mỗi bộ
phận” của nhà nước” “vào đúng chỗ của nó, làm mối dây liên lạc và yếu tố
trung gian giữa Chính phủ với nhân dân, hoặc giữa Chính phủ với cơ quan
quyền lực tối cao, hoặc giữa cả ba vế ấy khi cần”. Nhiệm vụ của cơ quan này
là bảo tồn luật và quyền lập pháp, bởi vậy nó được coi là “cơ quan thiêng
liêng nhất và được coi trọng nhất”.
1.1.4. Thời hiện đại
Ngày nay, trên cơ sở tiếp thu tư tưởng của các học giả đi trước, cũng
như từ kinh nghiệm và nhu cầu thực tiễn đặt ra, nội dung của tư tưởng phân
chia quyền lực ngày nay đã có nhiều thay đổi. Khi nhắc đến phân chia quyền
lực, người ta không còn chỉ nghĩ đến việc phân chia quyền lực thành các
nhánh (ngang hàng): lập pháp, hành pháp, tư pháp mà còn có cả sự phân chia
quyền lực theo chiều dọc: giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa
phương trong một quốc gia.
1.1.4.1. Cách thức phân quyền ngang
Phân quyền ngang là cách thức phân quyền cổ điển đã có từ thời của
Aristote và được hoàn thiện bởi Locke, Montesquieu và J.J.Rousseau. Không
có nhiều sự thay đổi của cách thức phân quyền này ở ngày nay so với trước
đây. Nội dung cụ thể của cách thức phân quyền ngang như sau:
20
- Quyền lực nhà nước được phân chia thành các nhánh khác nhau, do
các cơ quan khác nhau nắm giữ để không một cá nhân hay tổ chức nào được
nắm trọn vẹn quyền lực nhà nước. Điển hình như ở Mỹ: Nghị viện nắm quyền
lập pháp, Chính phủ nắm quyền hành pháp và Tòa án nắm quyền tư pháp.
- Có sự chuyên môn hóa trong hoạt động của các cơ quan quyền lực
công- Mỗi cơ quan chỉ hoạt động nhằm thực hiện chức năng riêng của mình,
không ảnh hưởng tới công việc của cơ quan khác.
- Giữa các cơ quan quyền lực tồn tại thế cân bằng, các cơ quan có thể
giám sát, kiểm tra, đối trọng và chế ước lẫn nhau, để không cho một cơ quan
nào có khả năng lạm quyền.
1.1.4.2. Cách thức phân quyền dọc
Cách thức phân quyền dọc có các nội dung cơ bản sau đây:
- Tồn tại hệ thống các cơ quan quyền lực nhà nước do dân bầu ở các
cấp địa phương, song song với bộ máy nhà nước trung ương.
- Có sự phân công nhiệm vụ, trách nhiệm và quyền hạn cụ thể giữa
chính quyền trung ương và chính quyền địa phương trong những lĩnh vực cụ
thể. Chính quyền trung ương sẽ giải quyết các vấn đề công, vì lợi ích của cả
cộng đồng xã hội, như vấn đề an ninh quốc phòng, về chủ quyền quốc gia…
còn chính quyền địa phương sẽ phụ trách những vấn đề định hướng phát triển
kinh tế, xã hội, văn hóa ở địa phương, ngoài ra còn có thể chủ động tiến hành
hợp tác, giao lưu với các địa phương khác hoặc các tổ chức quốc tế trong
khuôn khổ quyền hạn của mình.
- Tổ chức và hoạt động của các cấp chính quyền trong phạm vi nhiệm
vụ và quyền hạn của mình là tương đối độc lập với nhau. Chính quyền trung
ương không có quyền điều hành, chỉ đạo chính quyền địa phương, mà chỉ có
quyền xây dựng chủ trương, chính sách, tạo dựng khuôn khổ pháp lý và kiểm
tra, giám sát hoạt động của các chính quyền cấp dưới, mọi vi phạm của chính
quyền địa phương sẽ do tòa án hành chính xét xử độc lập.
21
Cách thức phân quyền dọc còn được gọi bằng những cái tên khác như
phi tập trung hóa hay tản quyền, nó tồn tại ở gần như hầu khắp các chính thể
nhà nước hiện đại với nhiều mức độ khác nhau. Ví dụ, ở Philippine mới dừng
lại ở mức độ tự chủ tương đối của chính quyền địa phương; ở Đức đã thừa
nhận mỗi cấp chính quyền chỉ chuyên trách một số lĩnh vực nhất định, không
có sự trùng lặp, chồng chéo quản lý giữa các cấp.
Phân quyền dọc có thể thực hiện theo hai phương pháp:
Thứ nhất, là phân quyền theo lãnh thổ: là cách phân quyền của chính quyền
trung ương cho chính quyền địa phương theo địa giới hành chính - lãnh thổ.
- Chính quyền trung ương giao quyền tự quyết, tự quản lý cho chính
quyền địa phương. Trong phạm vi quyền hạn được giao, chính quyền địa
phương có thể tự mình ra nghị quyết mà không cần xin ý kiến từ cấp trên, chỉ
tuân theo đúng pháp luật và quy định của trung ương. Chính quyền trung
ương chỉ thực hiện sự kiểm tra, giám sát với các nghị quyết của địa phương,
và nếu xét thấy chúng có sai phạm thì có quyền đình chỉ, bãi bỏ và tiến hành
kỳ luật hành chính.
- Chính quyền địa phương có ngân sách độc lập, được tự quản lý việc
thu chi theo khuôn khổ pháp luật, địa phương có quyền vay tiền, phát hành
công trái địa phương.
- Cơ cấu tự trị yêu cầu chính quyền địa phương phải có một cơ quan ra
nghị quyết và một cơ quan thi hành các nghị quyết đó, giống như mô hình
Nghị viện và Chính phủ ở địa phương.
Thứ hai, là phân quyền theo ngành chuyên môn: là cách phân quyền
giữa các bộ chuyên môn với chính quyền địa phương. Ví dụ - như việc quản
lý đất đai ở Malaysia được giao hoàn toàn cho chính quyền các tỉnh, chính
quyền trung ương chỉ ban hành các quy định về thể chế mà không quyết định
việc chi phối đất đai, các cơ quan trung ương muốn sử dụng đất phải được
22
chính quyền tỉnh phân phối và phải trả tiền thuê đất cho chính quyền tỉnh.
Hay như ở New Zealand, về lĩnh vực y tế, Chính phủ không quản lý bất kỳ
một bệnh viện công nào, tất cả các bệnh viện đều được giao về cho các bang.
Như vậy, tư tưởng phân quyền - phân chia quyền lực của các nhà tư
tưởng chính trị nêu trên có ý nghĩa vô cùng quan trọng, là cơ sở lý luận cho
việc thiết kế và xây dựng các mô hình thể chế nhà nước. Trong khuôn khổ của
lý thuyết phân quyền, thực tiễn đã hình thành những chính thể khác nhau phù
hợp với đặc điểm kinh tế, xã hội và truyền thống văn hoá của mỗi nước: chính
thể Tổng thống, chính thể đại nghị (cả cộng hoà và quân chủ) và chính thể
hỗn hợp. Ở các nước này, các nhánh quyền lực nhà nước được thể chế hoá
cao độ, các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp được chuyên nghiệp hoá rất
cao, cơ chế kiểm soát quyền lực tỏ rõ tính hiệu quả trong việc hạn chế tình
trạng lạm quyền, chuyên quyền, quan liêu, tham nhũng trong bộ máy nhà
nước. Những giá trị này đã được kiểm chứng trong thực tiễn chính trị hàng
trăm năm ở các nước tư bản phát triển, cụ thể là:
Thứ nhất, lý thuyết phân quyền được hình thành như là sự phủ định
biện chứng về mặt tư tưởng các lý thuyết thuyết tập quyền chuyên chế, đánh
dấu sự chấm dứt của chế độ quân chủ chuyên chế, độc tài và đặt nền móng
cho sự hình thành các thể chế tự do, dân chủ.
Thứ hai, với việc trao quyền lực của nhân dân cho các nhánh quyền lực
nhà nước khác nhau (lập pháp, hành pháp, tư pháp) đã hình thành nên quá
trình phân công quyền lực nhằm tạo sự chuyên nghiệp hoá, chuyên môn hoá
chức năng, nhiệm vụ của mỗi nhánh quyền lực, tăng cường tính hiệu quả và
tác dụng của chính quyền, khẳng định vị trí, vai trò của mỗi ngành trong cơ
chế thực thi quyền lực nhà nước.
Thứ ba, lý thuyết phân quyền đánh dấu sự phát triển hiện đại về tính kỹ
thuật chính trị - pháp lý trong tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước, dùng
23
phân quyền để kiểm soát sự lạm quyền. Đó là cơ chế kiềm chế và đối trọng,
kiểm tra và chế ước lẫn nhau trong hoạt động của ba nhánh quyền lực, nhờ đó
loại trừ nguy cơ tập trung tất cả quyền lực nhà nước vào tay một cá nhân,
nhóm người hay một cơ quan quyền lực duy nhất nào đó.
Thứ tư, lý thuyết phân quyền là một đóng góp lớn cho lý luận và thực
tiễn chính trị về nhà nước pháp quyền, bởi nó được tổ chức và hoạt động trên
nguyên tắc lấy pháp luật làm tối thượng, lấy bảo đảm các quyền tự do công
dân làm mục đích cuối cùng. Lý thuyết này đã khẳng định bất cứ một chế độ
nào mà không thực hiện sự phân chia quyền lực, không đề cao pháp luật và
kiểm soát quyền lực thì đó không phải là nhà nước pháp quyền.
Mặc dù thực tiễn chính trị đã thay đổi nhiều so với thời kỳ lý thuyết
phân quyền ra đời nhưng đến nay, lý thuyết phân quyền với những giá trị
mang tính phổ quát của nó vẫn đang được khai thác và nhân rộng trong tổ
chức quyền lực của tất cả các nước, không phân biệt điều kiện kinh tế, văn
hoá và chế độ chính trị. Ở các nước tư bản phát triển, phân quyền vẫn là
nguyên tắc cơ bản để tiến hành cải cách, đổi mới phương thức tổ chức quyền
lực nhà nước cho phù hợp với sự xuất hiện và biến đổi của những nhân tố
kinh tế, chính trị mới. Còn ở các nước đang phát triển, lý thuyết phân quyền
cũng đã gợi mở nhiều vấn đề mang tính nguyên tắc khách quan trong quá
trình tìm kiếm mô hình dân chủ, xây dựng nhà nước pháp quyền và thiết lập
các yếu tố nền tảng của văn minh chính trị của từng quốc gia.
1.2. Một số mô hình phân quyền chủ yếu
1.2.1. Mô hình phân quyền ở Anh
Nước Anh là quốc gia vận dụng nguyên tắc phân quyền một cách mềm
dẻo trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước tư sản theo chính thể
quân chủ đại nghị [18].
Trong chính thể quân chủ đại nghị ở Anh, quyền lập pháp thuộc về Nghị
24
viện, quyền hành pháp thuộc về Chính phủ, quyền tư pháp thuộc về Tòa án.
Khác với những nhà nước áp dụng nguyên tắc phân quyền một cách “cứng rắn”
- lập pháp và hành pháp được phân định rạch ròi thì trong nhà nước này giữa
lập pháp và hành pháp có mối liên hệ với nhau, phối kết hợp lẫn nhau: Nghị
viện trong đó Hạ nghị viện được thành lập do bầu cử trực tiếp - có thực quyền
trong Nghị viện. Chính phủ do Hạ nghị viện lập ra: Thủ tướng đứng đầu bộ
máy hành pháp, được hình thành trên cơ sở đảng chiếm đa số ghế trong Hạ
nghị viện. Có nghĩa là Thủ tướng cũng chính là thủ lĩnh của đảng cầm quyền.
Các Bộ trưởng đều là những nghị sĩ trong Hạ nghị viện do vua bầu ra. Bên
cạnh việc lập pháp, Nghị viện còn phải thành lập, giám sát các hoạt động của
Chính phủ. Chính phủ phải chịu trách nhiệm trước Hạ nghị viện - Hạ nghị viện
có thể lật đổ Chính phủ nếu như Chính phủ không còn sự tín nhiệm. Đây chính
là một đặc điểm quan trọng của sự hạn chế quyền lực trong nhà nước chính thể
đại nghị, áp dụng nguyên tắc phân quyền một cách “mềm dẻo”.
Trong quá trình hoạt động - giữa cơ quan lập pháp và cơ quan hành
pháp cũng có sự phối kết hợp lẫn nhau: Quyền sáng kiến pháp luật thuộc về
Chính phủ, Chính phủ sẽ dự thảo các dự luật cho Hạ nghị viện thảo luận và
thông qua. Tuy vậy, về mặt Hiến định, Chính phủ phải chịu trách nhiệm trước
Nghị viện nhưng trên thực tế Chính phủ được thành lập từ đảng phái chiếm đa
số ghế trong Hạ nghị viện; Với Thủ tướng chính là thủ lĩnh của đảng cầm
quyền trong Nghị viện nên mọi quyết định của Nghị viện cũng là của Chính
phủ, Chính phủ bao giờ cũng khống chế Nghị viện. Có thể nói, Chính phủ và
Hạ nghị viện là hai cơ quan trực thuộc đảng cầm quyền, trong đó Hạ nghị
viện do Chính phủ toàn quyền định đoạt. Vì vậy, sự phân chia quyền lực nhà
nước giữa lập pháp và hành pháp theo nguyên tắc phân quyền không còn nữa,
mà có chăng chỉ là sự phân chia giữa một đảng cầm quyền và một đảng đối
lập có trách nhiệm.
25
Khác với việc kiềm chế, kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà
nước với nhau, các nhà nước theo chế độ đại nghị nói chung và nước Anh nói
riêng thì cơ quan tối cao là Hạ nghị viện lại bị tiết chế ngay trong nội bộ của
nó bằng hoạt động của các đảng đối lập, vì đảng đối lập luôn tìm cách đánh
bại để có cơ hôi thay thế Chính phủ của đảng cầm quyền bằng cách gây nghi
ngờ cho cử tri rằng các chính sách của Chính phủ là sai lầm để có cơ hội
chiếm đa số trong các cuộc tuyển cử của nhân dân.
Ngoài ra, đảng đối lập còn có quyền tham dự vào cuộc tranh luận,
chống đối các chính sách của Chính phủ, vì thế, Chính phủ cũng như Hạ nghị
viện bị hạn chế quyền lực của mình. Chính phủ không thể quyết định một
cách bừa bãi hay lạm quyền mà phải dè dặt trước những phản ứng hay ủng hộ
của các dân biểu mà đặc biệt là của các đảng viên nghị sĩ đảng đối lập để duy
trì vị trí cầm quyền trong bộ máy nhà nước cũng như phải bảo vệ cả lợi ích
của các đảng đối lập để tránh việc các đảng đối lập gây hậu quả nghiêm trọng
cho Chính phủ và đảng cầm quyền.
1.2.2. Mô hình phân quyền ở Mỹ
Mỹ là quốc gia theo chính thể cộng hòa tổng thống: Tư tưởng phân
quyền được áp dụng ở mức độ “cứng rắn” với các đặc trưng là các cơ quan
lập pháp, hành pháp, tư pháp độc lập với nhau trong hoạt động nhờ không
chung nhân viên, đồng thời có sự ngăn cản, kiềm chế lẫn nhau theo nguyên
tắc “quyền lực ngăn cản quyền lực”. Hành pháp thuộc về nguyên thủ quốc gia
và không phải chịu trách nhiệm trước lập pháp. Sự phân quyền đã được ghi
nhận trong Hiến pháp.
Mỹ là quốc gia áp dụng nguyên tắc phân quyền một cách triệt để - tức
là có sự phân chia rạch ròi quyền lực giữa các cơ quan nhà nước. Trong đó,
quyền lập pháp trao cho Quốc hội, quyền hành pháp trao cho Tổng thống và
quyền tư pháp trao cho Tòa án.
26
Thứ nhất, sự phân định rõ ràng giữa lập pháp và hành pháp: Theo quy
định của Hiến pháp Mỹ thì lập pháp được hình thành độc lập với hành pháp:
Nghị viện được thành lập do bầu cử thông qua cử tri bầu ra. Đồng thời Tổng
thống cũng do nhân dân bầu cử trực tiếp và không phụ thuộc vào bầu cử Quốc
hội, Tổng thống có toàn quyền quyết định nhân sự trong Chính phủ: lựa chọn,
bổ nhiễm, miễn nhiệm Bộ trưởng...
Ngoài ra, để đảm bảo tính chất phân quyền một cách triệt để, Hiến pháp
Mỹ còn quy định: Tất cả quyền lập pháp thuộc về Quốc hội Mỹ bao gồm hai
viện: Thượng nghị viện và Hạ nghị viện và quyền hành pháp chỉ giao cho một
người đó là Tổng thống. Tổng thống cũng như Chính phủ không có quyền
sáng lập, xây dựng luật, không phải chịu trách nhiệm trước Quốc hội. Cả
Quốc hội và Chính phủ đều phải chịu trách nhiệm trước dân chúng. Tổng
thống không có quyền giải tán Quốc hội và Quốc hội cũng không có quyền lật
đổ Tổng thống.
Thứ hai, là sự độc lập của tư pháp với hành pháp và lập pháp: Toà án
độc lập với chính quyền hành pháp và lập pháp. Trong nhà nước Mỹ, tư pháp
là một nhánh quyền lực rất được đề cao.
Theo Hiến pháp Mỹ, quyền tư pháp được trao cho một pháp viện tối
cao và các tòa án cấp dưới. Các thẩm phán đều có nhiệm kỳ suốt đời và có thể
tập trung vào vấn đề công lý mà không bị các hoạt động chính trị của lập pháp
và hành pháp chi phối. Không ai có quyền cách chức thẩm phán trừ trường
hợp thẩm phán vi phạm pháp luật và bị thải hồi theo thủ tục “đàn hạch”. Theo
đó, Ủy ban pháp luật của Hạ viện soạn thảo bản buộc tội rồi đưa ra Hạ viện
xem xét. Nếu Hạ viện thông qua bằng đa số phiếu thuận, bản cáo buộc sẽ
được chuyển cho Thượng viện quyết định. Chủ tọa phiên tòa của Thượng viện
để cáo buộc Tổng thống là Chánh án tòa án tối cao. Thượng viện thông qua
quyết định bằng cách bỏ phiếu kín, theo từng điều khoản của bản cáo buộc.
27
Để có quyết định buộc tội, cần có sự tán thành của hai phần ba số nghị sỹ có
mặt. Cơ sở để cáo buộc Tổng thống theo thủ tục “đàn hạch” là các hành vi
phản bội Tổ quốc, nhận hối lộ hay phạm những tội nghiêm trọng khác. Thủ
tục “đàn hạch” thể hiện quyền giám sát của Quốc hội đối với Tổng thống,
nhằm ngăn chặn sự lạm quyền của người đứng đầu cơ quan hành pháp ở Mỹ.
Trong lịch sử nước Mỹ, đã có các Tổng thống Giôn-xơn, Ních-xơn, Clin-tơn
bị khởi tố theo thủ tục này, trong đó Ních-xơn phải từ chức.
Tuy nhiên các nhánh quyền lực có thể kiềm chế, đối trọng lẫn nhau:
Các quyết định bổ nhiệm những cá nhân quan trọng trong bộ máy hành pháp
và tư pháp của tổng thống phải được Quốc hội phê chuẩn. Tổng thống có
quyền kiềm chế Quốc hội bằng quyền phủ quyết các dự luật mà hai viện
thông qua. Nếu Tổng thống không phê chuẩn thì Quốc hội phải thảo luận và
dự luật được thông qua nếu có trên hai phần ba phiếu thuận. Quốc hội có
quyền quyết định ngân sách hoạt động của Tổng thống và Tòa án. Quốc hội
còn có quyền xét xử và buộc tội các quan chức cao cấp kể cả Tổng thống theo
tục “đàn hạch”.
Bên cạnh đó, Hiến pháp Mỹ trao cho pháp viện tối cao và các tòa án có
quyền tuyên bố các đạo luật đã được Quốc hội ban hành là vi hiến, không có
hiệu lực thực thi, cũng như ngăn cấm các hành vi vi phạm hiến pháp của Tổng
thống. Tòa án là nơi cuối cùng có thể xác định nội dung các quy định của hiến
pháp mà các cơ quan Chính phủ có thể vượt quá giới hạn thẩm quyền.
Sự phân quyền còn được đưa vào để phân định về mặt nhân sự đảm
nhiệm trong bộ máy nhà nước. Theo đó, một cá nhân chỉ có thể được bổ
nhiệm vào một trong ba cơ quan là: lập pháp, hành pháp, tư pháp. Ví dụ: Nếu
là nghị sĩ thì sẽ không được bổ nhiệm làm Bộ trưởng, thẩm phán hay các chức
danh khác trong chính quyền hành pháp, tư pháp. Như vậy, qua việc phân tích
các tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước tư sản Mỹ cho thấy nguyên tắc
28
phân chia quyền lực được thể hiện rõ nét với sự vận dụng một cách cứng rắn
của chính thể cộng hòa tổng thống.
1.2.3. Mô hình phân quyền ở Pháp
Pháp là nước điển hình theo chính thể cộng hòa lưỡng tính. Đặc điểm
của chính thể cộng hòa lưỡng tính là sự kết hợp các yếu tố của chính thể cộng
hòa đại nghị và cộng hòa tổng thống. Ở đây, nguyên tắc phân chia quyền lực
vừa được áp dụng một cách mềm dẻo, vừa có sự điều hòa, phối hợp giữa các
ngành quyền lực lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Đặc trưng cơ bản của chính thể cộng hòa lưỡng tính là sự độc lập của
hành pháp với lập pháp cao hơn trong chính thể cộng hòa đại nghị nhờ không
có sự chung nhân viên giữa chúng. Ở Pháp, khi nghị sĩ được cử làm bộ trưởng
trong Chính phủ thì họ có thời gian một tháng để chọn lựa giữa hai chức vụ
bộ trưởng và nghị sĩ. Hết thời gian này, nếu họ được cử làm thành viên của
Chính phủ thì vị trí của họ tại Thượng viện hay Hạ viện sẽ được thay thế bằng
người dự bị đã được bầu qua tổng tuyển cử.
Tuy nhiên, sự độc lập giữa hành pháp và lập pháp lại thấp hơn trong
chính thể cộng hòa Tổng thống vì Chính phủ và Quốc hội có mối quan hệ chặt
chẽ với nhau trong quá trình làm luật. Nghị viện có quyền giám sát hoạt động
của Chính phủ. Chính phủ phải chịu trách nhiệm trước Nghị viện và Nghị
viện có thể lật đổ Chính phủ. Ngược lại, Nghị viện cũng có thể bị giải tán
trước thời hạn hay bị kiểm soát ngân sách bởi Chính phủ.
Quan hệ hành pháp và lập pháp ở đây mật thiết hơn so với chính thể
cộng hòa Tổng thống vì quyền sáng kiến luật ở đây thuộc về cả Chính phủ
lẫn các nghị sĩ. Ở Pháp, dự luật (do Chính phủ đưa ra) hay đề nghị luật (do
nghị sĩ đưa ra) có thể được đưa ra đệ trình trước Thượng viện hay Hạ viện.
Nếu như dự luật hay đề nghị luật ấy gặp phải mâu thuẫn giữa hai viện và sau
2 lần biểu quyết tại mỗi viện hoặc Chính phủ tuyên bố tình trạng khẩn cấp
29
thì Thủ tướng sẽ thiết lập Ủy ban hỗn hợp các nghị sĩ bằng nhau trong viện
đề nghị một phương án cho các điều khoản tranh luận. Nếu như Ủy ban trên
không thống nhất thì Chính phủ sẽ kết thúc thảo luận bằng cách đề nghị nghị
viện quyết định, hoặc Chính phủ có thể rút lại các dự luật bất cứ lúc nào nếu
không thấy thỏa mãn.
Ngoài ra, ở Pháp, Nghị viện có thể đặt câu hỏi chất vấn các Bộ trưởng,
Tổng thống hay các thành viên Chính phủ, thậm chí là khởi tố và xét xử
Tổng thống, bỏ phiếu bất tín nhiệm Chính phủ khi họ phạm tội. Việc xét xử
Thủ tướng Chính phủ khi ông ta phạm tội còn nằm trong thẩm quyền của tòa
án và ngành tư pháp. Ngoài ra, trong nội bộ Chính phủ, Tổng thống nắm
quyền cao nhất của nhà nước, có ý nghĩa quyết định tới việc ban hành luật,
nhưng trên thực tế, quyền lực nhà nước lớn hay không còn phụ thuộc vào
việc ông ta và Thủ tướng có cùng đảng phái hay không. Nếu cùng đảng thì
quyền lực của Tổng thống là rất lớn do có sự hậu thuẫn của đa số trong quốc
hội. Ngược lại, khi khác đảng phái thì Tổng thống phải nhượng bộ Thủ
tướng trong vấn đề chính trị và cả hai phải chung sống hòa bình vì Thủ
tướng có chỗ dựa là đa số Quốc hội.
Ở Pháp, trung tâm của bộ máy chính quyền là Tổng thống. Tổng thống
không do Nghị viện hoặc dựa trên cơ sở nghị viện bầu ra như các nước theo
chính thể cộng hòa đại nghị, mà do nhân dân trực tiếp bầu ra. Tổng thống có
nhiệm vụ, quyền hạn rất lớn, kể cả quyền giải tán nghị viện của cộng hòa đại
nghị và quyền tự thành lập Chính phủ của cộng hòa tổng thống. Hiến pháp
năm 1958 của Pháp tăng cường sự chịu trách nhiệm của Bộ trưởng trước
Tổng thống và giảm tính chịu trách nhiệm của Bộ trưởng trước Nghị viện.
Giống như chính thể cộng hòa đại nghị, Chính phủ Pháp có Thủ tướng
đứng đầu. Nhưng thực ra Chính phủ đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Tổng
thống. Tổng thống chủ tọa các phiên họp của Hội đồng Bộ trưởng để quyết
30
định các chính sách quốc gia. Thủ tướng chỉ được quyền lãnh đạo các phiên
họp này khi Tổng thống cho phép. Ngoài ra, Thủ tướng chỉ được quyền chủ
tọa các phiên họp Nội các để chuẩn bị cho các phiên họp chính thức của Hội
đồng Bộ trưởng (Chính phủ) dưới sự chỉ đạo của Tổng thống.
Ở Pháp, quyền lập pháp thuộc về Nghị viện- hành pháp thuộc về Tổng
thống và Chính phủ; tư pháp thuộc về hệ thống tư pháp. Giữa lập pháp và
hành pháp có mối quan hệ mật thiết hơn so với chính thể cộng hòa tổng thống
nhưng vẫn kiểm soát, hạn chế quyền lực lẫn nhau- Nghị viện - cơ quan lập
pháp được thành lập do bầu cử. Cơ quan hành pháp bao gồm Tổng thống và
Chính phủ, Thủ tướng đứng đầu Chính phủ, Tổng thống do dân trực tiếp bầu
ra và có quyền bổ nhiệm, phê chuẩn việc thành lập Chính phủ. Tổng thống là
trung tâm nền chính trị, bảo vệ hiến pháp và là trọng tài điều hòa hoạt động
của các cơ quan nhà nước. Tổng thống có quyền yêu cầu Nghị viện thảo luận
lại các dự thảo luật đã thông qua - đồng thời có quyền giải tán Hạ nghị viện.
Nghị viện có quyền giám sát các hoạt động của Chính phủ còn Chính phủ bao
gồm các Bộ trưởng và Thủ tướng không những phải chịu trách nhiệm trước
Nghị viện, mà còn chịu trách nhiệm thực sự trước Tổng thống. Nếu Thủ
tướng và các Bộ trưởng không thực thi được các chính sách của Tổng thống
thì phải từ chức. Ngoài ra, trong lĩnh vực lập pháp, Nghị viện bị hạn chế
quyền lập pháp của mình trong phạm vi nhất định được quy định trong hiến
pháp - còn những lĩnh vực khác thì do Chính phủ dự thảo luật và ban hành
(trên thực tế các dự án luật do các Nghị viện đề xuất ngày càng ít đi còn từ
phía Chính phủ lại tăng lên).
Sự phân quyền trong phân định về mặt nhân sự của bộ máy nhà nước
Pháp cũng giống như ở các nước theo thiết chế cộng hòa Tổng thống.
Những người nắm quyền lập pháp không thể được trao quyền hành pháp
hoặc tư pháp. Điều này đã hạn chế được việc lạm dụng quyền lực, tạo cho
31
cơ quan lập pháp có điều kiện để kiểm soát hoạt động của Chính phủ và
toàn bộ cơ quan hành pháp.
Có thể nói, chính thể cộng hòa lưỡng tính ở Pháp có ưu điểm là bảo đảm
tính thực quyền, năng động, quyết đoán và độc lập trong hoạt động của nguyên
thủ quốc gia.Vì vậy, tăng quyền lực và vai trò của hành pháp cũng như khẳng
định năng lực của nguyên thủ quốc gia - từ đó, tạo được sự độc lập, cạnh tranh
và nâng cao vai trò tác dụng kiềm chế lẫn nhau giữa lập pháp và hành pháp.
Nhưng sự hạn chế của nó là gây nên những biến động lớn trong đời sống chính
trị đất nước khi hai nhánh quyền lực này có những sự mâu thuẫn nhau.
1.2.4. Mô hình phân quyền ở Đức
Đức là quốc gia theo chính thể. Đây là một mô hình nhà nước áp dụng
tư tưởng phân chia quyền lực một cách mềm dẻo. Điều này được thể hiện ở
chỗ lập pháp và hành pháp không hoàn toàn độc lập mà có mối liên hệ mật
thiết, song giữa chúng vẫn có sự phối hợp với nhau. Tư pháp độc lập với hành
pháp trong hoạt động song không hoàn toàn độc lập trong tổ chức và hoạt
động với lập pháp [51].
Ở Cộng hòa Liên bang Đức, đặc trưng của nguyên tắc phân quyền được
thể hiện cụ thể ở Điều 20 khoản 2 Câu 2 và Điều 20 khoản 3 và Điều 1 khoản
3 Luật cơ bản Cộng hòa Liên bang Đức. Điều 20 khoản 2 Câu 2 Luật cơ bản
quy định rằng: “Quyền lực nhà nước được thực hiện thông qua các cơ quan
độc lập thực hiện của quyền lập pháp (besondere Organe der Gesetzgebung),
của quyền thi hành pháp luật (der vollziehenden Gewalt) và của quyền tư
pháp (der Rechtsprechung)”.
Phân quyền ở Đức được hiểu một cách toàn diện trên cả 3 góc độ: chức
năng, tổ chức và nhân sự.
Thứ nhất, phân quyền về chức năng
Chức năng của lập pháp là xây dựng một trật tự pháp luật, đưa ra các
32
quy định ổn định, giải quyết các vấn đề của cuộc sống liên quan đến cả các
vấn đề của tương lai. Chức năng của hành pháp được hiểu là hoạt động của cơ
quan hành chính nhằm thi hành luật ở thời hiện tại. Chức năng của tư pháp là
quyết định về tính hợp pháp của các vấn đề đã diễn ra ở thời quá khứ.
Thứ hai, phân quyền về tổ chức
Ở Đức, quyền lực cũng không tập trung vào một cơ quan nào mà được
phân chia cho các cơ quan nhà nước khác nhau mang tính chuyên môn hóa.
Mỗi cơ quan có những thẩm quyền và trách nhiệm khác nhau như: Hạ viện,
Thượng viện, Chính phủ liên bang, các cơ quan hành chính, các Tòa án. Ví
dụ, cùng một hoạt động lập pháp nhưng do nhiều cơ quan cùng thực hiện. Cụ
thể, quyền trình dự án luật là Chính phủ, Thượng viện hay Nghị sĩ hoặc Ủy
ban của Hạ viện; quyền thông qua luật là Hạ viện và Thượng viện; quyền ký
phê chuẩn là Tổng thống liên bang. Như vậy sẽ không ai hiểu máy móc rằng,
lập pháp ở Đức chỉ là chức năng hay công việc của Nghị viện. Đây là điểm
khác với cơ chế phân chia quyền lực cứng rắn theo mô hình ở Mỹ.
Thứ ba, phân quyền về nhân sự
Quyền lực cũng được thực hiện thông qua những con người cụ thể có
thẩm quyền và nhiệm vụ cụ thể. Một người về cơ bản không thể đồng thời
thực hiện nhiều chức năng, nhiệm vụ khác nhau (Inkompatibilitaeten - Điều
55, Điều 94 khoản 1 câu 3, Điều 137 khoản 1 Luật cơ bản). Ví dụ, Thẩm phán
không thể là thành viên của Hạ viện, Thượng viện, Chính phủ lên bang (Điều
94 khoản 1 câu 3 Luật cơ bản), hay không thể một người vừa là Tổng thống,
vừa là Thủ tướng, vừa là Chủ tịch Hạ viện (Điều 63 Luật cơ bản).
Khác với các bản Hiến pháp của Cộng hòa dân chủ Đức (Hiến pháp của
Đông Đức - DDR) trước đây thừa nhận cơ chế tập trung quyền lực, trong Luật
cơ bản của Cộng hòa liên bang Đức hiện nay không có một điều nào khẳng
định Hạ viện là cơ quan quyền lực tối cao, cho dù đây là cơ quan do dân bầu
33
ra hay Thượng viện cũng vậy. Với quy định của Điều 20 khoản 2 câu 2 Luật
cơ bản, các ngành quyền lực lập pháp, hành pháp và tư pháp về nguyên tắc là
quan hệ ngang hàng, không phải là quan hệ có tính thứ bậc trên dưới. Sự phân
quyền như vậy trong Luật cơ bản được gọi là phân quyền mang đặc tính pháp
quyền, hay phân quyền theo chiều ngang.
Hành pháp và Chính phủ ở Đức không đồng nhất là một và chức năng
giữa Chính phủ với hành chính cũng được phân biệt rõ. Xuất phát từ bản chất
hoạt động của Nghị viện và Chính phủ là hoạt động có những yếu tố “động”,
chịu ảnh hưởng mạnh về yếu tố đảng phái chính trị, còn hoạt động hành chính
- thi hành luật và hoạt động tư pháp - xét xử lại mang nhiều yếu tố “tĩnh”,
mang tính ổn định, nên ngành hành pháp được phân chia thành Chính phủ và
Hành chính với những chức năng, nhiệm vụ khác nhau.
Với tính chất là nhà nước liên bang, ở Đức còn có sự phân quyền theo
chiều dọc giữa liên bang và các tiểu bang (Điều 30 Luật cơ bản). Mỗi tiểu
bang có Hiến pháp riêng của bang, có những cơ quan lập pháp, hành pháp, tư
pháp riêng được tổ chức và hoạt động trên cơ sở một hệ thống pháp luật riêng,
không trái với Hiến pháp và những đạo luật của Liên bang.
Cơ chế phân quyền theo chiều ngang và chiều dọc ở Đức hiện nay
hoạt động và đặt trong liên hệ với những yếu tố khác có ảnh hưởng hay tác
động đến cơ chế này như: Hệ thống đa đảng (điều 21 Luật cơ bản); tính cạnh
tranh bởi nguyên tắc đa số và bảo vệ quyền lợi thiểu số trong Hạ viện (điều
42 II, 63, 67, 68 Luật cơ bản; Điều 44, 46, 93 I Nr.1, 2 Luật Cơ bản); Thiết
chế Thượng viện trong việc tham gia vào hoạt động lập pháp (Điều 50 ff.,
77, 80 II, III GG); Tự quản địa phương (Điều 28 II Luật cơ bản); Ràng buộc
bởi các quy định của EU (Điều 23 Luật cơ bản)… Mặc dù có phân quyền
nhưng ở Đức vẫn bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân và bảo vệ những
quyền tự do của công dân.
34
Như vậy, phân quyền ở Đức không phải là sự phân quyền tuyệt đối mà
là phân quyền tương đối, có những đặc điểm quan trọng là:
- Ngành lập pháp, hành pháp và tư pháp về cơ bản là ngang hàng nhau.
Hành pháp tiếp tục được phân thành 2 bộ phận: Chính phủ với tính chất là hệ
thống điều hành, lập chính sách và Hành chính với tính chất là các hệ thống
thi hành luật.
- Phân quyền toàn diện theo chức năng, theo cơ quan và nhân sự.
- Phân quyền toàn diện theo cả theo chiều ngang và chiều dọc đảm bảo
sự kiểm soát và cân bằng quyền lực.
Bên cạnh đó, ở Đức, Tòa án Hiến pháp có thể kiềm chế lập pháp qua
việc giải quyết kháng nghị chống lại quyết định của Hạ viện, kiềm chế hành
pháp thông qua việc tước cương vị Tổng thống liên bang hoặc quy định
không cho tiếp tục giữ cương vị của mình khi xác định được rằng Tổng thống
liên bang cố tình vi phạm Hiến pháp hoặc pháp luật. Một mặt, tòa án độc lập
trong hoạt động song vẫn chịu ảnh hưởng từ Chính phủ trong tổ chức. Đơn cử
đó là việc bổ nhiệm, thăng chức cho các thẩm phán.
Chính sự phân quyền thông qua việc cùng thực hiện quyền lực và kiểm
soát lẫn nhau giữa các cơ quan theo cả chiều dọc và chiều ngang như vậy sẽ
giới hạn được quyền lực nhà nước, ngăn ngừa nguy cơ lạm quyền và độc
quyền, qua đó cũng bảo vệ được tự do cá nhân. Nói cách khác, phân quyền là
làm cho quyền lực giữa các cơ quan cân bằng, không có quyền lực nào vượt
trội hơn quyền lực nào. Quyền lực được kiểm soát và cân bằng ở bên trong là
chính các cơ quan nhà nước và bên ngoài với các quyền tự do ngôn luận, tự do
báo chí, tự do biểu tình, tự do lập hội để tránh nguy cơ độc quyền, lạm quyền.
Ưu điểm của sự phân quyền mềm dẻo này là dễ dàng tạo ra sự bình ổn
trong đời sống chính trị đất nước, còn nhược điểm là sự bị động, thiếu linh
hoạt trong vai trò của nguyên thủ quốc gia và không bảo đảm được đối lập,
35
cạnh tranh, kiềm chế - đối trọng giữa hành pháp và lập pháp - từ đó biến Nghị
viện và Chính phủ từ chỗ thể hiện sự phân chia quyền lực thành hai cơ quan
thực hiện chính sách của đảng cầm quyền.
Tiểu kết Chương 1
Chương 1 đã đề cập và phân tích những vấn đề lý luận cơ bản về lịch
sử hình thành và nội dung của lý thuyết phân quyền qua các thời kỳ Cổ đại,
Trung đại, Cận đại, Hiện đại và thực tiễn vận dụng mô hình phân quyền ơ một
số nước tư bản tiêu biểu: Anh, Mỹ, Pháp, Đức. Lý thuyết phân quyền của các
nhà tư tưởng qua các thời kỳ cũng như thực tiễn vận dụng nguyên tắc phân
quyền trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ở một số nước tư bản
điển hình cho thấy, ở mỗi nước có mức độ áp dụng khác nhau tùy thuộc vào
từng loại chính thể khác nhau nhưng đều nhằm mục tiêu kiểm soát quyền lực
nhà nước, hạn chế sự lạm quyền giữa các cơ quan trong tổ chức bộ máy nhà
nước và bảo vệ quyền lợi chung cho toàn xã hội.
36
Chương 2
QUY ĐỊNH VỀ PHÂN QUYỀN
TRONG CÁC HIẾN PHÁP VIỆT NAM
2.1. Nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước và yếu tố phân quyền
trong các Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980 và Hiến pháp năm 1992
2.1.1. Phân quyền theo Hiến pháp năm 1946
* Nghị viện - cơ quan thực hiện quyền lập pháp
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã đập tan hệ thống chính quyền thực dân
và chế độ phong kiến giành chính quyền về tay nhân dân. Nhiệm vụ quan
trọng nhất của chính quyền lúc đó là thành lập ra một Nhà nước kiểu mới của
nhân dân và tiến hành cuộc tổng tuyển cử bầu Quốc hội. Bản Hiến pháp ra đời
năm 1946 có một ý nghĩa hết sức quan trọng. Đây là bản Hiến pháp dân chủ,
phản ánh bản chất của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa – nhà nước của
dân, do nhân dân và vì nhân dân. Hoạt động của các kỳ họp Quốc hội/Nghị
viện cũng như nội dung và tinh thần dân chủ thực sự chưa từng có ở nước ta.
Nhiều điều của Hiến pháp mang nội dung dân chủ sâu sắc vượt xa thể chế dân
chủ của nhiều nước cùng thời điểm lịch sử đó và cả nhiều năm sau:
Tất cả quyền binh trong nước là của toàn thể nhân dân Việt
Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp,
tôn giáo [25, Điều 17]; Nhân dân có quyền phúc quyết về Hiến
pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia, theo Điều thứ
32 và 70 [25, Điều 21]; Nghị viện họp công khai, công chúng được
vào nghe [25, Điều 30]; Thủ tướng phải chịu trách nhiệm về con
đường chính trị của Nội các. Nhưng Nghị viện chỉ có thể biểu quyết
về vấn đề tín nhiệm khi Thủ tướng, Ban thường vụ hoặc một phần
tư tổng số Nghị viện nêu vấn đề ấy ra [25, Điều 54].
37
Hiến pháp 1946 đã xác định vị trí pháp lý của Quốc hội, Chính phủ, cơ quan
tư pháp như sau:
Hiến pháp 1946 quy định “Nghị viện nhân dân có quyền cao nhất
của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa” [25, Điều 22], Nghị viện có vị trí
pháp lý cao nhất trong bộ máy nhà nước được thể hiện qua các quyền năng
như “Nghị viện giải quyết mọi vấn đề chung cho toàn quốc, đặt ra các
pháp luật, biểu quyết ngân sách, chuẩn y các hiệp ước mà Chính phủ ký
với nước ngoài [25, Điều 23]. Nghị viện có quyền giám sát trực tiếp đối với
Ban thường vụ, Chính phủ bằng các hình thức biểu quyết tín nhiệm đối với
Ban Thường vụ, Nội các, bộ trưởng. Nghị viện có quyền lập ra Chính phủ ,
bầu Chủ ti ̣ch nước và Thủ tướng ; biểu quyết phê chuẩn danh sách Nô ̣i các do
Thủ tướng đề nghị . Nghị viện cũng có quyền biểu quyết về vấn đề tín nhiệm
Nô ̣i các, có quyền chất vấn các Bộ trưởng , nếu không được Nghi ̣viê ̣n tín
nhiê ̣m thì Nô ̣i các cũng như cá nhân các Bô ̣trưởng phải từ chứ c; có quyền lập
Tòa án đặc biệt để xét xử Chủ tịch, Phó chủ tịch nước hay nhân viên Nội các.
Nghị viện nhân dân/ - Quốc hội là cơ quan có quyền cao nhất của nước
Viê ̣t Nam Dân chủ Cô ̣ng hòa . Điều này thể hiện - dáng dấp của mô hình chế
đô ̣đa ̣i nghi ̣với tính trội của cơ quan đa ̣i biểu của nhân dân. Hiến pháp năm
1946 của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cho th ấy “lối rẽ” từ mô hình chế
đô ̣đa ̣i nghi ̣kinh điển đã được thiết kế theo sự pha trô ̣n với chế độTổng
thống. Mô hình này đã ta ̣o ra ba nhánh quyền lực có vi ̣trí độc lâ ̣p : Nghị viện
– cơ quan có quyền cao nhất của quốc gia , Chính phủ – cơ quan hành ch ính
cao nhất của toàn quốc, các cơ quan tư pháp độc lập. bảo đảm khả năng kiểm
soát từ phía cơ quan dân cử đối với cơ quan hành pháp , vừ a thể hiê ̣n rõ tính
đô ̣c lâ ̣p của cơ quan hành pháp.
Chức năng giám sát của nghị viện đã được Hiến pháp đầu tiên của Nhà
nước ta 1946 quy định, tuy nhiên, quyền giám sát chưa được coi là một chức
38
năng trực tiếp như quyền lập hiến, lập pháp, hay quyền quyết định những vấn đề
quan trọng. Thay vào đó, chức năng giám sát mới chỉ được quy định thông qua
một nhiệm vụ của Ban thường vụ và chỉ được thực hiện quyền này khi Nghị viện
không họp. Cụ thể, Hiến pháp 1946 quy định, Ban thường vụ “biểu quyết những
dự án sắc luật của Chính phủ. Nhưng sắc luật đó phải được đem trình Nghị viện
vào phiên họp gần nhất để Nghị viện ưng chuẩn hoặc phế bỏ” [25, Điều 36].
Đây là quy định đầu tiên trao cho Nghị viện quyền giám sát hoạt động của
Chính phủ trong việc ban hành các văn bản pháp luật phù hợp với Hiến pháp.
Quy định đó, được các bản Hiến pháp sau này kế thừa.
Hiến pháp 1946 còn quy định Nghị viện có quyền kiểm soát và phê
bình Chính phủ quyền yêu cầu các bộ trưởng phải trả lời bằng thư từ hoặc
bằng lời nói những điều chất vấn của Nghị viện hoặc của Ban thường vụ.
Điều đặc biệt là việc bỏ phiếu bất tín nhiệm đối với Chính phủ.
Tuy nhiên, Nghị viện chỉ có thể biểu quyết về vấn đề tín nhiê ̣m khi Thủ
tướ ng, Ban Thườ ng vụ hoặc một phần tư tổng số nghi ̣viện nêu vấn đề ấy ra .
Trong thời ha ̣n 24 giờ sau khi Nghi ̣viê ̣n biểu quyết không tín nhiê ̣m Nội các
thì Chủ tịch nước mới có quy ền đưa vấn đề tín nhiệm ra thảo luận lại . Cuô ̣c
thảo luận lần thứ hai phải cách cuộc thảo luận lần thứ nhất 48 giờ. Sau cuô ̣c
biểu quyết này, Nội các mất tín nhiê ̣m phải từ chứ c [25, Điều 54]. Đây là một
thủ tục pháp lý hết sứ c chă ̣t chẽ trong cơ chế quan hê ̣giữa cơ quan lâ ̣p pháp
và cơ quan hành pháp ở Việt Nam trong thời kỳ đó. Nó vừa bảo đảm khả năng
kiểm soát từ phía cơ quan dân cử đối với cơ quan hành pháp , vừ a thể hiê ̣n rõ
tính độc lâ ̣p của cơ quan hành pháp.
Chức năng giám sát được quy định rõ trong Hiến pháp của các chế độ
đại nghị mà theo logic của chức năng giám sát là thực hiện quyền lực Nhà
nước thuộc về Nhân dân bầu ra Quốc hội, Quốc hội thay mặt cho nhân dân
thực hiện chức năng lập pháp, làm luật và thành lập ra Chính phủ - hành pháp.
39
Tuy nhiên trong khi thực hiện chức năng lập pháp Quốc hội/Nghị viện còn
nhường lại hoạt động trình dự án luật cho Chính phủ, chính vì thế Chính phủ
phải chịu trách nhiệm trước Quốc hội và chính sự chịu trách nhiệm này mà
Quốc hội có chức năng giám sát Chính phủ.
Chức năng giám sát ngày càng có tính chất lấn át, thay thế chức năng lập
pháp. Giám sát của Quốc hội lập pháp mang tính chất chính trị, thể hiện ý chí
của cử tri. Không có giám sát tư pháp, giám sát nguyên thủ quốc gia, giám sát
chính quyền địa phương, giám sát cơ quan tư pháp, xét xử mà giám sát chỉ tập
trung vào Chính phủ hành pháp. Bởi vì cơ quan xét xử là hoạt động của tòa án
mà tòa án khi xét xử thì độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, tòa án là cơ quan
xét xử cao nhất của mỗi quốc gia, hoạt động xét xử mang tính chuyên môn.
Tòa án thực hiện hoạt động xét xử của cả lập pháp và hành pháp của mình.
Hiến pháp năm 1946 quy định chức năng của Quốc hội là giám sát và
kiểm soát Chính phủ, buộc Chính phủ phải giải trình khi bất cứ thấy chúng
đáng nghi ngờ, đáng lên án và cảnh báo những thành viên Chính phủ lạm dụng
sự tín nhiệm trong các công việc được giao hay thực hiện xung đột với lợi ích
quốc gia sẽ bị phê bình, nhắc nhở hoặc phải đuổi họ ra khỏi cơ quan (sở nhiệm)
và bổ nhiệm những người khác thay thế công việc đó. Đây là một quyền năng
lớn đảm bảo cho một nền an ninh quốc gia được trong sạch và bền vững.
Hiến pháp năm 1946 đảm bảo cho pháp luật được thi hành nghiêm
minh, góp phần làm cho quyền lực nhà nước luôn luôn được thống nhất. Tạo
lập được sự kiểm soát quyền lực của cơ quan thực hiện quyền lập pháp đối
với cơ quan thực hiện quyền hành pháp (Chính phủ). Tuy nhiên, việc kiểm
soát đối với cơ quan tư pháp chưa được đặt ra trong Hiến pháp năm 1946.
* Chính phủ - cơ quan hành pháp
Hiến pháp năm 1946 quy định về Chính phủ, với tính cách là cơ quan
Luận văn: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp, HAY
Luận văn: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp, HAY
Luận văn: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp, HAY
Luận văn: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp, HAY
Luận văn: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp, HAY
Luận văn: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp, HAY
Luận văn: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp, HAY
Luận văn: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp, HAY
Luận văn: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp, HAY
Luận văn: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp, HAY
Luận văn: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp, HAY
Luận văn: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp, HAY
Luận văn: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp, HAY
Luận văn: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp, HAY
Luận văn: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp, HAY
Luận văn: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp, HAY
Luận văn: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp, HAY
Luận văn: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp, HAY
Luận văn: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp, HAY
Luận văn: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp, HAY
Luận văn: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp, HAY
Luận văn: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp, HAY
Luận văn: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp, HAY
Luận văn: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp, HAY
Luận văn: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp, HAY
Luận văn: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp, HAY
Luận văn: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp, HAY
Luận văn: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp, HAY
Luận văn: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp, HAY
Luận văn: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp, HAY
Luận văn: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp, HAY
Luận văn: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp, HAY
Luận văn: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp, HAY
Luận văn: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp, HAY
Luận văn: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp, HAY
Luận văn: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp, HAY
Luận văn: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp, HAY
Luận văn: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp, HAY
Luận văn: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp, HAY
Luận văn: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp, HAY
Luận văn: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp, HAY
Luận văn: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp, HAY
Luận văn: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp, HAY
Luận văn: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp, HAY
Luận văn: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp, HAY
Luận văn: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp, HAY
Luận văn: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp, HAY
Luận văn: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp, HAY
Luận văn: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp, HAY
Luận văn: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp, HAY
Luận văn: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp, HAY
Luận văn: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp, HAY
Luận văn: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp, HAY
Luận văn: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp, HAY
Luận văn: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp, HAY
Luận văn: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp, HAY
Luận văn: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp, HAY
Luận văn: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp, HAY
Luận văn: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp, HAY
Luận văn: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp, HAY
Luận văn: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp, HAY
Luận văn: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp, HAY
Luận văn: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp, HAY
Luận văn: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp, HAY

More Related Content

What's hot

Đề thi công chức chuyên ngành Tư pháp ( Thi viết )
Đề thi công chức chuyên ngành Tư pháp ( Thi viết )Đề thi công chức chuyên ngành Tư pháp ( Thi viết )
Đề thi công chức chuyên ngành Tư pháp ( Thi viết )Nguyễn Ngọc Phan Văn
 
Hội thảo Khoa học: Tổ chức Bộ máy Nhà nước theo Hiến pháp năm 2013 (5-2014)
Hội thảo Khoa học: Tổ chức Bộ máy Nhà nước theo Hiến pháp năm 2013 (5-2014)Hội thảo Khoa học: Tổ chức Bộ máy Nhà nước theo Hiến pháp năm 2013 (5-2014)
Hội thảo Khoa học: Tổ chức Bộ máy Nhà nước theo Hiến pháp năm 2013 (5-2014)Kien Thuc
 
Tính tối cao của hiến pháp
Tính tối cao của hiến phápTính tối cao của hiến pháp
Tính tối cao của hiến phápnguoitinhmenyeu
 

What's hot (20)

Luận văn: Hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội, HAY
Luận văn: Hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội, HAYLuận văn: Hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội, HAY
Luận văn: Hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội, HAY
 
Luận văn: Thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, HAY
Luận văn: Thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, HAYLuận văn: Thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, HAY
Luận văn: Thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, HAY
 
Đề thi công chức chuyên ngành Tư pháp ( Thi viết )
Đề thi công chức chuyên ngành Tư pháp ( Thi viết )Đề thi công chức chuyên ngành Tư pháp ( Thi viết )
Đề thi công chức chuyên ngành Tư pháp ( Thi viết )
 
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOTLuận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
 
Pháp chế trong xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật
Pháp chế trong xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luậtPháp chế trong xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật
Pháp chế trong xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật
 
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOTLuận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
 
Luận văn: Văn bản quy phạm pháp luật của HĐND & UBND, HOT
Luận văn: Văn bản quy phạm pháp luật của HĐND & UBND, HOTLuận văn: Văn bản quy phạm pháp luật của HĐND & UBND, HOT
Luận văn: Văn bản quy phạm pháp luật của HĐND & UBND, HOT
 
Hội thảo Khoa học: Tổ chức Bộ máy Nhà nước theo Hiến pháp năm 2013 (5-2014)
Hội thảo Khoa học: Tổ chức Bộ máy Nhà nước theo Hiến pháp năm 2013 (5-2014)Hội thảo Khoa học: Tổ chức Bộ máy Nhà nước theo Hiến pháp năm 2013 (5-2014)
Hội thảo Khoa học: Tổ chức Bộ máy Nhà nước theo Hiến pháp năm 2013 (5-2014)
 
Đề tài: Tổ chức thực hiện pháp luật về công chức ở Hà Nội, HOT
Đề tài: Tổ chức thực hiện pháp luật về công chức ở Hà Nội, HOTĐề tài: Tổ chức thực hiện pháp luật về công chức ở Hà Nội, HOT
Đề tài: Tổ chức thực hiện pháp luật về công chức ở Hà Nội, HOT
 
Luận văn: Pháp luật về trợ giúp xã hội cho người cao tuổi, HAY
Luận văn: Pháp luật về trợ giúp xã hội cho người cao tuổi, HAYLuận văn: Pháp luật về trợ giúp xã hội cho người cao tuổi, HAY
Luận văn: Pháp luật về trợ giúp xã hội cho người cao tuổi, HAY
 
Luận văn: Thực hiện pháp luật hòa giải ở cơ sở, tỉnh Quảng Ngãi
Luận văn: Thực hiện pháp luật hòa giải ở cơ sở, tỉnh Quảng NgãiLuận văn: Thực hiện pháp luật hòa giải ở cơ sở, tỉnh Quảng Ngãi
Luận văn: Thực hiện pháp luật hòa giải ở cơ sở, tỉnh Quảng Ngãi
 
Đề tài: Pháp luật trong giải quyết vụ án về Hôn nhân gia đình, HAY
Đề tài: Pháp luật trong giải quyết vụ án về Hôn nhân gia đình, HAYĐề tài: Pháp luật trong giải quyết vụ án về Hôn nhân gia đình, HAY
Đề tài: Pháp luật trong giải quyết vụ án về Hôn nhân gia đình, HAY
 
Đề tài: Vai trò của án lệ và thực tiễn xét xử trong pháp luật, HOT
Đề tài: Vai trò của án lệ và thực tiễn xét xử trong pháp luật, HOTĐề tài: Vai trò của án lệ và thực tiễn xét xử trong pháp luật, HOT
Đề tài: Vai trò của án lệ và thực tiễn xét xử trong pháp luật, HOT
 
Đề tài: Bảo đảm quyền của nhóm người yếu thế trong xã hội
Đề tài: Bảo đảm quyền của nhóm người yếu thế trong xã hộiĐề tài: Bảo đảm quyền của nhóm người yếu thế trong xã hội
Đề tài: Bảo đảm quyền của nhóm người yếu thế trong xã hội
 
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOTLuận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Quản lý Nhà nước đối với người có công với cách mạng
Luận văn: Quản lý Nhà nước đối với người có công với cách mạngLuận văn: Quản lý Nhà nước đối với người có công với cách mạng
Luận văn: Quản lý Nhà nước đối với người có công với cách mạng
 
Tính tối cao của hiến pháp
Tính tối cao của hiến phápTính tối cao của hiến pháp
Tính tối cao của hiến pháp
 
Đề tài: Hoạt động của tổ chức phi chính phủ nước ngoài tại Đà Nẵng
Đề tài: Hoạt động của tổ chức phi chính phủ nước ngoài tại Đà NẵngĐề tài: Hoạt động của tổ chức phi chính phủ nước ngoài tại Đà Nẵng
Đề tài: Hoạt động của tổ chức phi chính phủ nước ngoài tại Đà Nẵng
 
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về quản lý biên chế, HOT
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về quản lý biên chế, HOTLuận văn: Hoàn thiện pháp luật về quản lý biên chế, HOT
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về quản lý biên chế, HOT
 
Luận văn: Hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp xã theo Luật, HOT
Luận văn: Hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp xã theo Luật, HOTLuận văn: Hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp xã theo Luật, HOT
Luận văn: Hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp xã theo Luật, HOT
 

Similar to Luận văn: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp, HAY

7. quyen 3
7. quyen 37. quyen 3
7. quyen 3NhnTrn71
 
Luận Văn Thạc Sĩ Các Tổ Chức Chính Trị - Xã Hội Trong Việc Kiểm Soát Quyền Lự...
Luận Văn Thạc Sĩ Các Tổ Chức Chính Trị - Xã Hội Trong Việc Kiểm Soát Quyền Lự...Luận Văn Thạc Sĩ Các Tổ Chức Chính Trị - Xã Hội Trong Việc Kiểm Soát Quyền Lự...
Luận Văn Thạc Sĩ Các Tổ Chức Chính Trị - Xã Hội Trong Việc Kiểm Soát Quyền Lự...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
CÁC TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI TRONG VIỆC KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC Ở VIỆT...
CÁC TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI TRONG VIỆC KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC Ở VIỆT...CÁC TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI TRONG VIỆC KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC Ở VIỆT...
CÁC TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI TRONG VIỆC KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC Ở VIỆT...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Tai_lieu_on_mon_KTC_20190905112352915910.pdf
Tai_lieu_on_mon_KTC_20190905112352915910.pdfTai_lieu_on_mon_KTC_20190905112352915910.pdf
Tai_lieu_on_mon_KTC_20190905112352915910.pdfMaiPhuong883623
 

Similar to Luận văn: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp, HAY (20)

Đề tài: Đặc điểm của pháp luật trong nhà nước pháp quyền, HAY
Đề tài: Đặc điểm của pháp luật trong nhà nước pháp quyền, HAYĐề tài: Đặc điểm của pháp luật trong nhà nước pháp quyền, HAY
Đề tài: Đặc điểm của pháp luật trong nhà nước pháp quyền, HAY
 
Pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước trong quyền hành pháp, HAY
Pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước trong quyền hành pháp, HAYPháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước trong quyền hành pháp, HAY
Pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước trong quyền hành pháp, HAY
 
Luận văn: Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, HAY
Luận văn: Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, HAYLuận văn: Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, HAY
Luận văn: Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, HAY
 
Pháp luật về dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính
Pháp luật về dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chínhPháp luật về dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính
Pháp luật về dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính
 
Pháp luật về dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính, HOT
Pháp luật về dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính, HOTPháp luật về dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính, HOT
Pháp luật về dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính, HOT
 
7. quyen 3
7. quyen 37. quyen 3
7. quyen 3
 
Luận Văn Thạc Sĩ Các Tổ Chức Chính Trị - Xã Hội Trong Việc Kiểm Soát Quyền Lự...
Luận Văn Thạc Sĩ Các Tổ Chức Chính Trị - Xã Hội Trong Việc Kiểm Soát Quyền Lự...Luận Văn Thạc Sĩ Các Tổ Chức Chính Trị - Xã Hội Trong Việc Kiểm Soát Quyền Lự...
Luận Văn Thạc Sĩ Các Tổ Chức Chính Trị - Xã Hội Trong Việc Kiểm Soát Quyền Lự...
 
Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay, HAY
Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay, HAYCơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay, HAY
Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay, HAY
 
Luận án: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam
Luận án: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt NamLuận án: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam
Luận án: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam
 
Luận án: Hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở, HAY
Luận án: Hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở, HAYLuận án: Hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở, HAY
Luận án: Hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở, HAY
 
Đề tài: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam, HAY
Đề tài: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam, HAYĐề tài: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam, HAY
Đề tài: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam, HAY
 
Luận án: Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về tư pháp, HAY
Luận án: Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về tư pháp, HAYLuận án: Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về tư pháp, HAY
Luận án: Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về tư pháp, HAY
 
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOTPháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
 
CÁC TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI TRONG VIỆC KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC Ở VIỆT...
CÁC TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI TRONG VIỆC KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC Ở VIỆT...CÁC TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI TRONG VIỆC KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC Ở VIỆT...
CÁC TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI TRONG VIỆC KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC Ở VIỆT...
 
Tai_lieu_on_mon_KTC_20190905112352915910.pdf
Tai_lieu_on_mon_KTC_20190905112352915910.pdfTai_lieu_on_mon_KTC_20190905112352915910.pdf
Tai_lieu_on_mon_KTC_20190905112352915910.pdf
 
Mối quan hệ giữa tổ chức xã hội và nhà nước pháp quyền Việt Nam
Mối quan hệ giữa tổ chức xã hội và nhà nước pháp quyền Việt NamMối quan hệ giữa tổ chức xã hội và nhà nước pháp quyền Việt Nam
Mối quan hệ giữa tổ chức xã hội và nhà nước pháp quyền Việt Nam
 
Hoàn thiện cơ chế pháp lý nd kiểm soát qlnn ở vn
Hoàn thiện cơ chế pháp lý nd kiểm soát qlnn ở vnHoàn thiện cơ chế pháp lý nd kiểm soát qlnn ở vn
Hoàn thiện cơ chế pháp lý nd kiểm soát qlnn ở vn
 
Luận văn: Cơ chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước, HOT
Luận văn: Cơ chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước, HOTLuận văn: Cơ chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước, HOT
Luận văn: Cơ chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước, HOT
 
Đề tài: Cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước
Đề tài: Cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nướcĐề tài: Cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước
Đề tài: Cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước
 
Luận văn: Vai trò của án lệ trong hệ thống pháp luật Việt Nam, 9đ
Luận văn: Vai trò của án lệ trong hệ thống pháp luật Việt Nam, 9đLuận văn: Vai trò của án lệ trong hệ thống pháp luật Việt Nam, 9đ
Luận văn: Vai trò của án lệ trong hệ thống pháp luật Việt Nam, 9đ
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864

Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docDịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864 (20)

Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.docYếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
 
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.docTừ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
 
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
 
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.docTác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
 
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.docSong Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
 
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.docỨng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
 
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.docVai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
 
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.docThu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
 

Recently uploaded

TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...Nguyen Thanh Tu Collection
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxendkay31
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdftohoanggiabao81
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa2353020138
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxnhungdt08102004
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNguyễn Đăng Quang
 

Recently uploaded (19)

TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
 

Luận văn: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp, HAY

  • 1. ĐẠI QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ KHOA YÕU Tè PH¢N QUYÒN TRONG LÞCH Sö LËP HIÕN VIÖT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015
  • 2. ĐẠI QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ KHOA YÕU Tè PH¢N QUYÒN TRONG LÞCH Sö LËP HIÕN VIÖT NAM Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử Nhà nước và Pháp luật Mã số: 60 38 01 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: GS. TSKH. ĐÀO TRÍ ÚC HÀ NỘI - 2015
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Nguyễn Thị Khoa
  • 4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: LÝ THUYẾT PHÂN QUYỀN TRONG LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN ............................................ 9 1.1. Lịchsửhìnhthànhvànộidungtưtưởngcủalýthuyếtphânquyền ........ 9 1.1.1. Thời Cổ đại.........................................................................................10 1.1.2. Thời Trung đại (thế kỷ XV-XVI).......................................................12 1.1.3. Thời Cận đại (thế kỷ XVI – XIX)......................................................12 1.1.4. Thời hiện đại.......................................................................................19 1.2. Một số mô hình phân quyền chủ yếu..............................................23 1.2.1. Mô hình phân quyền ở Anh................................................................23 1.2.2. Mô hình phân quyền ở Mỹ.................................................................25 1.2.3. Mô hình phân quyền ở Pháp ..............................................................28 1.2.4. Mô hình phân quyền ở Đức................................................................31 Tiểu kết Chương 1.........................................................................................35 Chương 2: QUY ĐỊNH VỀ PHÂN QUYỀN TRONG CÁC HIẾN PHÁP VIỆT NAM............................................................................36 2.1. Nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước và yếu tố phân quyền trong các Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980 và Hiến pháp năm 1992..................................................................................36 2.1.1. Phân quyền theo Hiến pháp năm 1946...............................................36 2.1.2. Phân quyền theo Hiến pháp năm 1959, 1980 và Hiến pháp năm 1992 ...........................................................................................45
  • 5. 2.2. Phân quyền trong tổ chức quyền lực nhà nước theo Hiến pháp năm 2013..................................................................................61 2.2.1. Quốc hội - cơ quan thực hiện quyền lập pháp ...................................61 2.2.2. Chính phủ - cơ quan thực hiện quyền hành pháp...............................65 2.2.3. Tòa án - cơ quan thực hiện quyền tư pháp.........................................66 2.3. Mối quan hệ giữa ba nhánh quyền lực...........................................71 2.3.1. Mối quan hệ giữa quyền hành pháp và quyền lập pháp trong Hiến pháp năm 2013 ..........................................................................71 2.3.2. Mối quan hệ giữa quyền hành pháp và quyền tư pháp ......................72 2.3.3. Mối quan hệ giữa quyền lập pháp và quyền tư pháp .........................72 Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN YẾU TỐ PHÂN QUYỀN TRONG TỔ CHỨC QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM.................................................................................74 3.1. Phương hướng và các giải pháp hoàn thiện yếu tố phân quyền trong tổ chức quyền lực nhà nước ở Việt Nam..................74 3.1.1. Thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền con người, quyền công dân – cơ sở cho việc thực hiện nguyên tắc phân quyền trong tổ chức quyền lực nhà nước...........................................74 3.1.2. Yêu cầu về kiểm soát quyền lực nhà nước và cơ chế phân quyền.....77 3.2. Các giải pháp hoàn thiện và phát triển yếu tố phân quyền trong tổ chức quyền lực nhà nước..................................................85 3.2.1. Tăng cường các chức năng lập pháp và giám sát tối cao của Quốc hội .............................................................................................85 3.2.2. Xác lập rõ hơn phạm vi chức năng hành pháp của Chính phủ ..........89 3.2.3. Bảo đảm sự độc lập của Tòa án..........................................................93 3.2.4. Phân cấp, phân quyền giữa Trung ương và địa phương và việc tăng cường khả năng tự quản của chính quyền địa phương...............95 KẾT LUẬN....................................................................................................98 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................100
  • 6. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong tiến trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ở nước ta đã có những bước tiến về cải cách và đổi mới trên nhiều mặt. Hoạt động lập pháp của Quốc hội đã được đẩy mạnh trên cơ sở chiến lược xây dựng và hoàn thiện pháp luật đến năm 2010 tầm nhìn 2020. Kết quả là đã tạo ra được khung pháp luật tương đối đầy đủ nhằm điều chỉnh hầu hết các lĩnh vực quan hệ xã hội phục vụ đắc lực cho sự vận hành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu hơn, rộng hơn, có hiệu quả hơn và cho hoạt động bình thường của các lĩnh vực quan hệ xã hội và sinh hoạt quốc gia. Cải cách hành chính đã được Đảng và Nhà nước ta chủ trương triển khai với việc xây dựng và thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010. Kết quả là trên các mặt: cải cách thể chế hành chính nhà nước, cải cách bộ máy hành chính, cải cách chế độ công vụ và công chức, cải cách tài chính công đều đã tạo được một số chuyển biến tích cực với mục tiêu xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp hóa, hiện đại hóa, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả theo các nguyên tắc và đòi hỏi của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng mà điểm cốt yếu nhất là tăng cường năng lực tiếp nhận nhu cầu và lợi ích của xã hội, tạo thuận lợi tối đa cho các doanh nghiệp, cho người dân trong việc sử dụng các dịch vụ công.Nhiều nỗ lực cũng đang được đặt theo hướng tăng cường các bảo đảm cho việc gắn kết hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước với nhân dân, chống quan liêu, các hiện tượng hách dịch, cửa quyền, tham nhũng.
  • 7. 2 Những định hướng và giải pháp cơ bản và toàn diện cho công cuộc cải cách tư pháp được xác định trong Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”. Thông qua các nỗ lực cải cách, hệ thống tư pháp Việt Nam đã từng bước được củng cố về tổ chức, làm trong sạch đội ngũ cán bộ các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử; tăng cường khả năng tiếp cận công lý cho công dân, khắc phục tình trạng án oan, sai, xâm phạm nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Tuy nhiên, tổ chức bộ máy của các cơ quan nhà nước còn cồng kềnh, nhiều đầu mối và tầng nấc trung gian, chất lượng hoạt động và hiệu quả thấp. Chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và chế độ trách nhiệm của nhiều cơ quan và người đứng đầu chưa thật rõ, cơ chế vận hành và mối quan hệ còn bất hợp lý, đội ngũ cán bộ, công chức còn hạn chế cả về năng lực chuyên môn, tinh thần trách nhiệm, đạo đức công vụ. Tình hình đó làm giảm hiệu quả lãnh đạo của Đảng, làm yếu hiệu lực quản lý của Nhà nước là năng lực lãnh đạo điều hành của hệ thống chính trị. Tệ quan liêu, tình hình tham nhũng có chiều hướng gia tăng, nhưng chưa kiểm soát được. Hiến pháp năm 2013 được ban hành đã xác định rõ hơn một bước vị trí và mối quan hệ mới giữa các cơ quan nhà nước theo nguyên tắc: “quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” [26, Điều 2]. Cơ chế của quyền lực nhà nước theo nguyên tắc này chứa đựng trong đó khả năng kiểm soát quyền lực cao hơn, minh bạch hơn và dân chủ hơn. Tuy nhiên, cho đến nay những câu hỏi: quyền lực thống nhất như thế nào và ở đâu? phân công là gì? phối hợp như thế nào giữa các chức năng lập pháp, hành pháp, tư pháp? Nói khác đi, các cơ chế pháp lý cho việc bảo đảm sự thống nhất của quyền lực nhà nước là gì? Sự phân công, phối hợp phải như thế nào để một mặt đảm bảo các cơ quan quyền lực nhà nước thực hiện đúng chức năng,
  • 8. 3 thẩm quyền và làm hết trách nhiệm của mình, mặt khác, không vi phạm thẩm quyền của cơ quan khác và xâm phạm các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, lợi ích của quốc gia, dân tộc, phát huy được hiệu lực tổng thể của bộ máy nhà nước? Trong khi đó, kinh nghiệm lịch sử cho thấy rằng, việc phân quyền đúng (bao gồm cả sự phân công và phối hợp) là cái lõi của cơ chế giám sát quyền lực trong Nhà nước pháp quyền, là điều kiện cần thiết để phòng và chống quan liêu, tha hóa quyền lực. Những điều trình bầy trên đây là cơ sở và lý do khách quan của việc lựa chọn đề tài: “Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp Việt Nam”. 2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục tiêu nghiên cứu Đề tài có mục tiêu xác định cho được những yếu tố phân quyền trong lịch sử lập hiến về tổ chức quyền lực Nhà nước ở Việt Nam và những tác nhân của quá trình nhận thức, vận dụng nguyên tắc phân quyền trong lịch sử, từ đó rút ra những bài học cần thiết cho quá trình cải cách bộ máy nhà nước ở nước ta. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Thứ nhất, hệ thống hoá các học thuyết phân quyền trong lịch sử nhằm thấy được tính phổ biến và các yếu tố đặc thù trong tổ chức quyền lực nhà nước; ý nghĩa của nguyên tắc phân quyền trong Nhà nước pháp quyền. Thứ hai, nghiên cứu để xác định nội dung của yếu tố phân quyền trong từng giai đoạn phát triển cụ thể của Hiến pháp Việt Nam thong qua việc tìm hiểu vị trí pháp lý, chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền được hiến định trong từng thời kỳ của các thiết chế quyền lực nhà nước. Thứ ba, làm rõ quan điểm, phương hướng tiếp tục cải cách bộ máy nhà nước đáp ứng nhu cầu xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong đó có yếu tố phân quyền; các giải pháp nhằm thi
  • 9. 4 hành Hiến pháp 2013 theo hướng áp dụng các yếu tố phân quyền, tăng cường kiểm soát quyền lực có hiệu quả. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu - Nghiên cứu lý luận phân quyền trong khuôn khổ các học thuyết về Nhà nước pháp quyền; một số mô hình phân quyền trên thế giới - Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử từ 1945 đến nay 3.2. Phạm vi nghiên cứu Đề tài có nội dung rộng lớn về lý luận và thực tiễn. Do vậy, phạm vi đề tài được đặt trong khuôn khổ nghiên cứu một số học thuyết tiêu biểu trong lịch sử tư tưởng chính trị - pháp lý; phân tích các quy định, các chế định của các bản Hiến pháp Việt Nam: 1946, 1959, 1980, 1992 và 2013. 4. Tình hình nghiên cứu 4.1. Tình hình nghiên cứu trong nước về đề tài Trước hết là các công trình nhằm làm rõ nhu cầu của việc tăng cường dân chủ, đưa ra các luận cứ khoa học cho việc xác định quyền kiểm tra, giám sát của nhân dân đối với hoạt động của bộ máy Đảng và Nhà nước, chỉ rõ nhu cầu về tính công khai, minh bạch cần có của hệ thống chính trị, của các cơ quan công quyền và khả năng tiếp cận công quyền của người dân. Một nhóm các công trình, đề tài khác đã tập trung vào việc nghiên cứu về các cơ chế kiểm tra, giám sát trong hệ thống các cơ quan thuộc bộ máy nhà nước. Trước hết đó là công trình bàn về cơ chế chung của việc giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước nhằm mục đích bảo đảm tính thống nhất của quyền lực nhà nước, đấu tranh có hiệu quả chống quan liêu, lãng phí, tham nhũng trong bộ máy Nhà nước: (Đào Trí Úc, Võ Khánh Vinh (đồng chủ biên), Giám sát và cơ chế giám sát việc thực hiện quyền lực Nhà nước ở nước ta hiện nay, Nxb
  • 10. 5 Công an nhân dân, Hà Nội 2003; Trịnh Thị Xuyến, Kiểm soát quyền lực nhà nước. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, 2006, Hà Nội; Trần Ngọc Đường, Phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Đề tài khoa học cấp Nhà nước, Mã số KX04-28/06-10). Đặc biệt, cơ chế giám sát của Quốc hội – cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất đã được bàn đến khá nhiều trong các diễn đàn nghiên cứu thời gian qua: (Trần Ngọc Đường: Giám sát của Quốc hội - giám sát ở tầng cao nhất - Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 3/2003; Lê Minh Thông: Về quyền giám sát tối cao của Quốc hội trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Báo cáo khoa học tại Hội thảo: “Quốc hội Việt Nam – 60 năm hình thành và phát triển”, Hà Nội, 23- 24/12/2005; TS. Trương Thị Hồng Hà: Hoàn thiện cơ chế pháp lý đảm bảo chức năng giám sát của Quốc hội, Nxb Chính trị quốc gia, 2009; TS. Nguyễn Sĩ Dũng (chủ biên): Quyền giám sát của Quốc hội: nội dung và thực tiễn từ góc nhìn tham chiếu. Nxb Tư pháp, 2004; Bùi Ngọc Thanh: Mấy giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của Đại biểu Quốc hội, Kỷ yếu hội thảo về hoạt động giám sát. Văn phòng Quốc hội, 1999). Từ Đại hội lần thứ X của Đảng năm 2006, nhu cầu về nghiên cứu để xây dựng cơ chế phán quyết về các vi phạm Hiến pháp trong các hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp đã được đặt ra (Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.126, 127). Trên cơ sở đó, đã có một số đề án nghiên cứu (Đảng đoàn Quốc hội: Đề án: Về cơ chế phán quyết các vi phạm Hiến pháp, tháng 12- 2009) và diễn đàn thật sự nghiêm túc tiếp cận vấn đề mới mẻ này ở nước ta (GS.TSKH Đào Trí Úc, PGS.TS Nguyễn Như Phát (chủ biên): Tài phán Hiến pháp và vấn đề xây dựng mô hình tài phán hiến pháp ở Việt Nam. Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2007; Đặng Ngọc Chiến (chủ biên): Cơ chế bảo hiến,
  • 11. 6 Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2005; Bùi Ngọc Sơn: Bảo hiến ở Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2006). Sự liên hệ yếu giữa các cơ chế và hình thức kiểm tra, giám sát quyền lực và sự chồng chéo đã dẫn đến có nơi, có lúc vô hiệu lẫn nhau, gây thêm phiền phức và khó khăn cho công dân, cho doanh nghiệp. Một số cơ chế kiểm tra, giám sát đã được xây dựng hoặc bãi bỏ nhưng chưa được đặt trên những cơ sở lý luận và thực tiễn thật sự xác đáng và có sức thuyết phục. Những nghiên cứu đã phản ánh những nỗ lực nhằm lập luận rõ hơn nội dung một nguyên tắc đã được hiến định ở nước ta từ năm 2001, nguyên tắc: “quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” [31, Điều 2], chỉ ra nhu cầu phải tiếp tục phản ánh, chức năng, thẩm quyền và quan hệ giữa các cơ quan Nhà nước theo chiều ngang và chiều dọc giữa trung ương và địa phương. Tuy nhiên, các kết quả nghiên cứu vẫn chưa đề ra được một mô hình căn bản và tổng thể về cơ chế quyền lực Nhà nước, nên mặc dù trong từng bộ phận hợp thành của quyền lực Nhà nước đã có sự đổi mới, cải cách nhất định nhưng hiệu quả của việc thục hiện quyền lực nhân dân, bảo đảm sự thống nhất, sự phân công và kiểm soát quyền lực vẫn tiếp tục là tâm điểm quan tâm của dư luận. 4.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài về đề tài Cơ chế quyền lực nhà nước là một trong những vấn đề trung tâm của các lĩnh vực khoa học chính trị, khoa học quản lý, của các bộ môn khoa học như triết học, xã hội học, luật học v.v.. và là đề tài nghiên cứu của nhiều công trình lý luận, hội nghị, hội thảo quốc tế và quốc gia ở nước ngoài. Trong các công trình nghiên cứu hiện đại, chúng ta có thể tìm thấy những quan điểm, những mô hình đề xuất xung quanh vấn đề cơ chế kiểm tra
  • 12. 7 và giám sát quyền lực chính trị. Đề tài này thường được đặt ra khi các tác giả bàn về những vấn đề như chức năng và hiệu quả của hệ thống chính trị (Easton D. A system analysis of Political life. N.Y.1965, về dân chủ (Held D. Models of Democracy. Cambridge (UK), 1992, Jean-Claude Laubeti: Tocqueville and the two Democracies. Harvard University Press, 1989), các đảng chính trị (Brookman Jame, E. Beukel: Elites, Parties and Democracy. Odence, Univ.Press, 1999). Nhà nước pháp quyền và sự ràng buộc của quyền lực (Barry M.Hager. The Rule of Law-A Lexicon for Policy Makers, N.Y, 1999), mối liên hệ giữa cấu trúc quyền lực và tham nhũng (Anti-corruption in Transition: A Contribution to the Policy Debate. Washingtion D.C.2000), cơ chế quyền lực và phân quyền giữa Nhà nước và xã hội dân sự, các cơ chế bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Đặc biệt, trong những năm gần đây nhất, xuất phát từ tình hình một số nước đang tiến hành cải cách bộ máy quyền lực Nhà nước trong bối cảnh chuyển đổi cơ chế chính trị và kinh tế-xã hội, vấn đề giám sát Hiến pháp đã được bàn ở nhiều diễn đàn. Đó là những tư liệu rất cần được nghiên cứu, tham khảo theo hướng tiếp cận về giám sát và kiểm soát quyền lực. 5. Những điểm mới và đóng góp của đề tài Vấn đề phân quyền trong lý luận chính trị pháp lý nước ta là một vấn đề chưa được quan tâm nghiên cứu đúng mức. Vì vậy, bản thân sự lựa chọn và tiến hành nghiên cứu đề tài này có thể được coi là một hướng nghiên cứu mới trong khoa học pháp lý nước ta. Đề tài là công trình nghiên cứu có mục đích đóng góp thiết thực cho việc tổng kết việc thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, Nghị quyết lần thứ 5, Ban chấp hành Trung ương về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị, góp phần tổng kết việc thực hiện các chiến lược của Đảng trong lĩnh vực cải cách bộ máy nhà nước và pháp luật,
  • 13. 8 triển khai thi hành Hiến pháp 2013, xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý phù hợp với Hiến pháp. 6. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu của đề tài Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như quan điểm, tư tưởng của Đảng cộng sản Việt Nam thể hiện trong các nghị quyết của Đảng, đặc biệt là trong các văn kiện Đại hội lần thứ XI của Đảng, Đề tài sử dụng các phương pháp tiếp cận nghiên cứu: phân tích lý luận, nghiên cứu lịch sử các học thuyết về tư tưởng chính trị - pháp lý; đề tài đã đặc biệt chú ý sử dụng phương pháp lịch sử để phục vụ cho việc tìm hiểu và rút ra những bài học lịch sử, đánh giá đúng những giá trị lịch sử trong tổ chức quyền lực nhà nước. Là một công trình quan tâm đến kinh nghiệm quốc tế, đề tài cũng đã sử dụng phổ biến phương pháp nghiên cứu so sánh mà cụ thể là chính trị học so sánh, nhà nước học so sánh, luật học so sánh và Hiến pháp học so sánh. Bên cạnh đó, các phương pháp xã hội học như điều tra xã hội học, tọa đàm chuyên gia, v.v.. đã được sử dụng rộng rãi trong quá trình nghiên cứu. Đề tài sử dụng cách tiếp cận tổng thể, liên ngành, trên cơ sở lấy phương diện pháp lý làm lát cắt chủ đạo kết hợp với các khía cạnh chính trị học, xã hội học, sử học. 7. Cấu trúc của Đề tài Đề tài bao gồm phần Mở đầu, Kết luận và 03 Chương. Chương 1: Lý thuyết phân quyền trong lịch sử tư tưởng nhà nước pháp quyền. Chương 2: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập hiến Việt Nam. Chương 3: Quan điểm, định hướng và các giải pháp hoàn thiện yếu tố phân quyền trong tổ chức quyền lực nhà nước Việt Nam.
  • 14. 9 Chương 1 LÝ THUYẾT PHÂN QUYỀN TRONG LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN 1.1. Lịch sử hình thành và nội dung tư tưởng của lý thuyết phân quyền Cả lý thuyết và trong thực tiễn, sự thống nhất của quyền lực về mặt bản chất, về mặt xã hội và tổ chức - pháp lý không loại trừ mà ngược lại , đòi hỏi có sự phân quyền. Trong trường hợp này, cơ chế phân quyền được hiểu như là khía cạnh tổ chức - pháp lý của quyền lực nhà nước mà không mang tính bản chất. Tính thống nhất và sự phân chia quyền lực là hai phương diện của cùng một vấn đề. Sự phân quyền chỉ là biểu hiện về mặt tổ chức -pháp lý của một quyền lực thống nhất về bản chất và về định hướng chính trị -xã hội trên những mặt quan trọng nhất của việc thực hiện quyền lực nhà nước. Lý thuyết, tư tưởng phân quyền nhà nước được hiểu là tổng thể các quan điểm về việc chia tách quyền lực nhà nước thành các loại khác nhau có cơ chế hoạt động, chức năng, nhiệm vụ khác nhau và có mối quan hệ theo hướng phân công, phối hợp, kiểm soát đối trọng với nhau trong quá trình thực hiện quyền lực nhà nước. Nói cách khác, tư tưởng phân quyền ngược lại với tư tưởng tập quyền thể hiện việc tập trung quyền lực vào tay một người hoặc một cơ quan. Theo đó, phân quyền được nhận biết qua các biểu hiện sau đây. Có thể tóm tắt nội dung của cơ chế phân quyền như sau: 1. Có sự hiện diện của các nhánh quyền lực nhà nước: quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp và các nhánh quyền lực đó độc lập với nhau về phạm vi thẩm quyền, chức năng nhiệm vụ và phương thức hoạt động. 2. Các nhánh quyền lực đó cần được bảo đảm cân bằng thông qua cơ chế kiểm soát và đối trọng (“checks and balance”). 3. Các nhánh quyền lực độc lập, kiểm soát và đối trọng nhưng luôn luôn phối hợp, tương tác, hỗ trợ lẫn nhau.
  • 15. 10 1.1.1. Thời Cổ đại 1.1.1.1. Tư tưởng của Aristotle Ở thời kỳ cổ đại, Aristotle (385-322 TCN) là người đầu tiên đề cập tới việc phân chia quyền lực trong các nhà nước. Trong tác phẩm “Chính trị”, ông cho rằng để đảm bảo sự công bằng trong dân chúng, để có được những đạo luật công bằng thì nhà nước phải được tổ chức có quy củ gồm ba bộ phận: bộ phận thứ nhất làm nhiệm vụ tư vấn pháp lý về hoạt động của nhà nước, bộ phận thứ hai là các tòa thị chính, bộ phận thứ ba là các cơ quan tư pháp [38]. Bộ phận thứ nhất còn gọi là Hội nghị nhân dân có chức năng quyết định các vấn đề chiến tranh và hòa bình, lập ra hoặc rút khỏi những liên minh, ban hành các đạo luật, những án tử hình, án đi đày hoặc tịch thu tài sản và yêu cầu các pháp quan giải thích về cách xử sự của họ trong thời gian giữ chức vụ. Như vậy, Hội nghị nhân dân được nắm quyền lập pháp và quyết định những vấn đề quan trọng nhất của quốc gia. Về các Tòa thị chính (các pháp quan) Aristotle cho rằng cần có nhiều pháp quan để chăm lo từng việc cụ thể của nhà nước: ví dụ như - quản lý thị trường, quản lý đất đai… nhưng cần có một pháp quan cao nhất, có quyền chỉ huy toàn bộ nhân dân với tư cách là người đứng đầu nhà nước. Về cơ quan tư pháp tòa án, Aristotle chia ra rất nhiều loại khác nhau tùy theo tính chất và đặc điểm các vụ việc mà tòa án đó chuyên giải quyết. Với vai trò là nhà tư tưởng đi tiên phong, Aristotle đã đề cập đến một vấn đề hết sức mới mẻ so với thời đại của ông. Tuy nhiên, ông mới chỉ dừng lại ở việc mô tả bộ máy nhà nước mà chưa đi sâu, chỉ ra mối liên hệ giữa các cơ quan nhà nước, cũng như chưa chỉ ra nguyên nhân phải chia quyền lực nhà nước thành các nhánh quyền lực như vậy. Aristotle còn là cha đẻ của tư tưởng sơ khai về phân quyền. Theo ông, trong mọi chế độ chính thể đều có mặt ba thành tố: thứ nhất, cơ quan bàn luận
  • 16. 11 về pháp luật, về các công việc của quốc gia; thứ hai, cơ quan điều hành công việc thực tế; thứ ba, cơ quan xét xử. Đương nhiên, ý tưởng này của Aristotle chưa phải là quan niệm về phân quyền như là một thành tố của Nhà nước pháp quyền sau này, vì đối với phân quyền trong Nhà nước pháp quyền thì ngoài việc có các nhánh quyền lực còn có sự độc lập, có sự tương tác về thẩm quyền và mức độ giới hạn của thẩm quyền trong sự tương tác, phối hợp với nhau giữa ba nhánh quyền lực đó. Tuy vậy, ý tưởng của Aristotle đã gieo hạt giống cho sự nảy mầm sau này của học thuyết phân quyền. Tư tưởng phân quyền của các nhà thông thái Hy Lạp cổ đại chủ yếu đi theo hướng phân biệt và kết hợp giữa các phương thức cai trị mà chưa phải là giữa các nhánh quyền lực: Cai trị đúng đắn trên nền tảng pháp luật và những cách “cai trị dung dị” khiến cho người cầm quyền gần với dân hơn và cho sự tham gia dễ dàng, thuận tiện của thường dân vào đời sống chính trị. Sự sụp đổ của nền dân chủ Athens vào giữa thế kỷ thứ IV TCN đã làm cho Aristotle đi đến những kết luận mới về nhà nước. Theo đó, quyền lực nhà nước hình thành một cách tự nhiên. Pháp luật là quy tắc khách quan, chính trực và vô tư. Pháp luật chỉ tồn tại giữa các công dân bình đẳng và tự do. Nó phải được bổ sung và điều chỉnh theo yêu cầu của đời sống xã hội. Hình thức nhà nước thích hợp là hình thức mà ở đó có sự phân biệt cần thiết giữa ba loại quyền lực: nghị viện, chấp hành và xét xử. Tiến hóa tất yếu của các nhà nước là từ chỗ nằm trong tay một người (Vua) đến một số người (quý tộc) và của đa số người (nhân dân). Theo Aristotle, nguyên nhân chủ yếu làm cho nhà nước sụp đổ là quá trình bình đẳng hay quá bất bình đẳng. Khi quyền lực nhà nước bị lạm dụng thì kẻ thống trị sợ mất quyền, người bị trị sợ trừng phạt; người cai trị tàn ác và tham lam, người bị trị sát hại lẫn nhau. Tư cách người công dân (động vật công dân) là can đảm, tự do, cao thượng và chính nghĩa. Tuy vậy nền cộng hòa của Aristotle là nền cộng hòa của các nhà thông thái,
  • 17. 12 các công dân-triết gia có đủ điều kiện vật chất và tinh thần thực hiện các quyền của mình .E.J.Cheaolier nhận xét: “Tia sáng từ Hy Lạp cổ đại chắc chắn không phải là cái duy nhất soi sáng thời hiện đại, nhưng không có nó thì nền văn mình và ý thức châu Âu ngày nay sẽ đụng phải cơn kịch phát của cuộc khủng hoảng của nó, sẽ không được hiểu biết một cách đầy đủ”. 1.1.1.2. Tư tưởng của Ph.Polype và M.T.Ciceron Ngoài Aristotle, ở Hy Lạp thời kỳ La Mã Cổ đại còn có tư tưởng phân chia quyền lực của Polype và Ciceron khi hai ông đưa ra quan điểm về sự cai trị hỗn hợp. Ph.Polype (khoảng 200-120 TCN) cho rằng, một nhà nước lý tưởng là nhà nước hỗn hợp của ba chính quyền - ba thế lực chính trị: chính quyền quốc vương, chính quyền quý tộc và chính quyền nhân dân. Đó chính là ba thứ quyền lực: quyền hành pháp trong tay vua, quyền lập pháp trong tay Viện nguyên lão của giới quý tộc và quyền tư pháp thuộc về sự phán xét của dư luận nhân dân. M.T. Ciceron (106-143 TCN) là nhà lập pháp nổi tiếng của Roma thời kỳ Cộng hòa, trong tác phẩm “Đối thoại” ông viết: “…một phần quyền lực nhà nước phải được phân chia và trao cho những người chiếm hàng đầu, còn một số công việc phải dành cho nhân dân xét đoán và giải quyết…”. Ciceron đã nghiên cứu nhiều hình thức của nhà nước hỗn hợp và cuối cùng ủng hộ cho hình thức nhà nước có sự cân bằng giữa các nhánh quyền lực: “phân chia quyền lực: nghĩa vụ và quyền hạn công bằng”. 1.1.2. Thời Trung đại (thế kỷ XV-XVI) Ở thời kỳ này, do ảnh hưởng của tư tưởng Thiên chúa giáo mà, luôn nhấn mạnh vai trò tuyệt đối của Thượng đế, không có nhà tư tưởng nào kế thừa và phát triển những tư tưởng tam quyền phân lập thời Cổ đại. 1.1.3. Thời Cận đại (thế kỷ XVI – XIX) Ngay từ đầu thế kỷ XVI, chế độ phong kiến và hệ tư tưởng chính trị bị
  • 18. 13 các trào lưu tư tưởng nảy sinh ở Tây Âu tấn công mạnh mẽ, chế độ phong kiến bắt đầu tan ra, các quan hệ tư bản chủ nghĩa dần hình thành. Các nhà tư tưởng thời kỳ này mạnh mẽ chống lại giáo hội và tòa án Thiên chúa giáo. Thời kỳ này còn được gọi là thời Phục hưng vì đã áp dụng, phục hưng lại những giá trị, lý tưởng tốt đẹp từ thời cổ đại vào việc xây dựng hệ tư tưởng mới, trong đó có tư tưởng về phân quyền. Ở thời kỳ Cận đại có một số tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước như sau: 1.1.3.1. Tư tưởng của John Loke và C.L.Montesquieu Tiếp thu tư tưởng của Aristotle và J.Locke, Montesquieu quan niệm trong mỗi quốc gia đều có ba thứ quyền là quyền lập pháp, quyền thi hành những điều luật về công pháp (quyền hành pháp) và quyền thi hành những điều trong luật dân sự (quyền tư pháp). Quyền lập pháp giao cho nghị viện, quyền hành pháp giao cho Chính phủ, quyền tư pháp giao cho Tòa án. Montesquieu cho rằng: Khi quyền lập pháp và quyền hành pháp nhập lại trong tay một người hay một viện nguyên lão, thì sẽ không còn gì là tự do nữa; vì rằng người ta sợ chính con người ấy hay viện ấy chỉ đặt ra luật độc tài để thi hành một cách độc tài. Cũng không có gì là tự do nếu quyền tư pháp không tách khỏi quyền lập pháp và quyền hành pháp. Nếu quyền tư pháp nhập lại với quyền lập pháp, thì người ta sẽ độc đoán đối với quyền sống, quyền tự do của công dân; quan tòa sẽ là người đặt ra luật. Nếu quyền tư pháp nhập với quyền hành pháp thì quan tòa có thể hành xử như một kẻ áp bức [22]. Sơ đồ phân quyền này không chấp nhận một cơ quan nhà nước đứng trên hoặc nắm trọn vẹn cả ba quyền.“Không một cơ quan nào vượt lên những cơ quan kia, và không một cơ quan có thể tước đoạt quyền cá nhân của công dân”.
  • 19. 14 Tam quyền phân lập là nhằm dùng quyền lực kiểm soát và kiềm chế quyền lực.Quyền lập pháp giao cho nghị viện có đại biểu của quý tộc phong kiến và tư sản. Quyền hành pháp giao cho vua, nhưng vua phải chịu trách nhiệm trước nhân dân mà đại biểu là giai cấp tư sản. Quyền tư pháp độc lập, được trao cho cơ quan do dân cử và được bầu theo định kỳ. Tư tưởng phân quyền này thể hiện tính chất thỏa hiệp giữa giai cấp tư sản đang lên nhưng còn non yếu và tầng lớp quý tộc phong kiến lạc hậu, phản động nhưng vẫn còn thế lực. Giai cấp tư sản chưa giành được ưu thế trong tương quan lực lượng với giai cấp phong kiến, quý tộc. Vì vậy, đã đến lúc giai cấp tư sản cần tập hợp lực lượng từ các giai cấp xã hội khác nhau và phân hóa giai cấp phong kiến quý tộc, tạo tiền đề cho cuộc cách mạng tư sản.Tư tưởng tam quyền phân lập của Montesquieu đã trở thành một trong những nội dung cơ bản của học thuyết Nhà nước pháp quyền tư sản. Học thuyết của J.Locke và S.Montesquieu về phân quyền, về quyền và tự do của con người đã có ảnh hưởng sâu sắc không chỉ đối với các trào lưu tư tưởng tiếp đó mà còn đối với sự phát triển của Hiến pháp và thực tiễn chính trị - pháp lý tư sản. Tuy có nguồn gốc sâu xa trong lịch sử nhưng lý luận về phân quyền chỉ trở thành một học thuyết toàn diện và độc lập trong thời đại mới. Học thuyết này xuất hiện là do sự thỏa hiệp giữa giai cấp tư sản và tầng lớp quý tộc có tư tưởng tự do trong việc phân chia quyền lực trong bộ máy nhà nước giữa các giai tầng này. Người khai sinh ra lý thuyết này là triết gia người Anh John Locke (1632-1704) và nhà luật học người Pháp C.L.Montesquieu (1689- 1755) Hai ông chung quan điểm là ngăn chặn sự lạm quyền của (Nhà vua) đối với các thần dân, hạn chế sự tập trung quyền hành một cách quá đáng vào tay một số người. Tuy nhiên hai ông lại có quan niệm khác nhau về nguyên lý và cơ chế hoạt động của việc phân quyền.
  • 20. 15 Trong tác phẩm “Hai luận thuyết về quản trị”, John Locke lần đầu tiên đưa ra luận cứ về tư tưởng phân quyền thành cơ quan lập pháp và cơ quan hành pháp. Cơ quan lập pháp chính là biểu hiện ý chí của toàn dân, giữ địa vị tối cao. “Cơ quan ban hành luật cho những cơ quan khác phải đứng cao hơn cơ quan thực thi”. Ngoài ra, Locke khẳng định rằng để quản lý các công việc quốc gia cần phải có chính quyền liên bang, nhưng ông coi cơ quan tư pháp là một phần của chính quyền hành pháp. Montesquieu nêu ra một số khía cạnh mới của học thuyết này. Ông là người đầu tiên tuyên bố rằng việc phân quyền phải là luật tối thượng của bộ máy nhà nước vì chỉ có như thế mới bảo đảm được quyền tự do chính trị của các công dân. Ông đã đi xa hơn Locke khi đề cập đến ba thành tố chính của chính quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nhưng sự khác nhau căn bản giữa lý thuyết của Locke và của Montesquieu chính là ở chỗ hai ông đã có quan nhiệm hoàn toàn khác nhau về vai trò của cơ quan lập pháp. Nếu như Locke nhấn mạnh vai trò tối cao của cơ quan lập pháp, coi nó là sự bảo đảm cho việc thống nhất quyền lực nói chung thì Montesquieu lại nhìn thấy vai trò tiêu cực của mọi loại quyền lực, dù quyền ấy thuộc về ai. Montesquieu cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của sự độc lập của chính quyền và các cơ quan thực thi quyền lực [22]. Các học giả đã dành sự chú ý đặc biệt đến mối quan hệ phức tạp của các nhánh quyền lực. Các nhánh này tuy được chia tách nhưng lại có vai trò bổ trợ cho nhau, cùng nhau tạo ra một “cơ chế chính trị” duy nhất. Theo Montesquieu cần tạo ra một hệ thống kiềm chế và đối trọng giữa các nhánh quyền lực đó. Cần phải tạo lập một mối quan hệ giữa các nhánh quyền lực sao cho các nhánh đó có thể độc lập giải quyết các nhiệm vụ quốc gia bằng những phương tiện pháp lý của mình, đồng thời giữ được sự thăng bằng, có thể ngăn chặn được sự độc chiếm quyền lực của một trong các nhánh đó.
  • 21. 16 Theo Montesquieu thì hệ thống kiềm chế và đối trọng bao gồm: giao quyền có thời hạn, sự độc lập của các quan toà, quyền phủ quyết, quyền giải tán quốc hội, giám sát chính cơ quan lập pháp, trách nhiệm của quan chức trước cơ quan dân cử. Montesquieu đã nhiều lần nói đến trách nhiệm của các quan chức trước cơ quan dân cử. Ông là người đầu tiên đưa ra phạm trù trách nhiệm chính trị và chỉ rõ đặc thù của mối quan hệ giữa cơ quan lập pháp và cơ quan hành pháp. Theo quan điểm của Montesquieu thì cơ quan hành pháp nắm các quan chức, nắm ngân khố quốc gia và lực lượng quân sự nên dễ bị tha hóa, dễ có xu hướng độc đoán và lạm dụng, vì vậy cần phải được kiềm chế và phải báo cáo với cơ quan lập pháp. Montesquieu không đề xuất thành lập một cơ quan điều phối trung tâm, vì ông cho rằng các nhánh quyền lực sẽ tự cân bằng và tìm được lối thoát trong những trường hợp có khủng hoảng. Ông cũng không đưa ra cơ chế chính trị hay pháp lý để có thể giải quyết xung đột có thể xảy ra giữa các nhánh quyền lực. Lý thuyết phân quyền của Montesquieu nhận được sự ủng hộ rộng rãi của các nhà tư tưởng thế kỷ XVIII-XIX. Trước hết đó là Immanuel Kant (1724-1804), cha đẻ của nền triết học cổ điển Đức - người đặt nền móng triết học cho lý thuyết này. Sau đó là Banjamin Constant (1767-1830) cha đẻ của trường phái tự do ở Pháp - người đã đưa ra lý thuyết về bốn nhánh quyền lực, cho phù hợp với sự phân chia quyền lực trong chế độ quân chủ lập hiến. Tư tưởng chính trị của Montesquieu được thể hiện trong tác phẩm “Bàn về tinh thần pháp luật”. Trong tác phẩm này ông đã nêu lên những nét cơ bản về xã hội công dân, nhà nước pháp quyền, sự phân chia và kiểm soát quyền lực nhà nước. Ông là người có công lao tổng kết tất cả những quan điểm về “phân chia quyền lực” trong lịch sử tư tưởng chính trị trước ông và đưa ra học thuyết “tam quyền phân lập” một cách tương đối hoàn thiện về mặt nội dung. Tư tưởng tam quyền phân lập của Montesquieu đã góp phần chống lại
  • 22. 17 chế độ quân chủ chuyên chế phong kiến ở Anh, Pháp thời kỳ bấy giờ, mở đường cho cách mạng tư sản lật đổ chế độ phong kiến, mang lại quyền tự do cho con người. Nội dung chính yếu và giá trị của tư tưởng tam quyền phân lập cho đến nay vẫn còn ý nghĩa thiết thực. Bởi vì nguyên tắc của tam quyền phân lập là phân chia ba hình thái quyền lực: lập pháp, hành pháp, tư pháp thành ba hình thái tách biệt nhau, độc lập nhau và có phương thức hình thành và hoạt động khác nhau. Quyền lập pháp thuộc về Quốc hội; quyền hành pháp thuộc về Chính phủ và quyền tư pháp thuộc về Tòa án. Quyền lập pháp phản ánh ý muốn chung của nhân dân. Quyền hành pháp nhằm mục đích thực hiện ý muốn chung của nhân dân. Việc phân chia và kiểm soát quyền lực nhà nước cho thấy quan điểm về quyền lực nhà nước là quyền lực chung của toàn xã hội, do vậy nó phải được sử dụng đúng mục đích là bảo vệ quyền lợi chung của mọi người, chống lại sự độc chiếm quyền lực về tay một người hay một tổ chức, đảm bảo không có cơ quan quyền lực nào vượt qua giới hạn cho phép để độc chiếm quyền lực. Học thuyết tam quyền phân lập của Montesquieu là một trong những học thuyết chính trị quan trọng nhất của nhân loại cho đến nay. Nó tác động, ảnh hưởng sâu sắc đến thực tiễn tổ chức nhà nước của hầu hết các quốc gia cho đến nay. Nội dung tư tưởng của học thuyết tam quyền phân lập này chính là các nguyên tắc cơ bản trong Hiến pháp của nhiều quốc gia. Tuy nhiên, học thuyết tam quyền phân lập của Montesquieu bên cạnh những điểm tích cực nêu trên, cũng còn bộc lộ những hạn chế nhất định, đó là: (i) Dù quan điểm tam quyền phân lập có được thực hiện triệt để đến đâu thì vẫn không tránh được xu hướng quyền lực tập trung vào giai cấp thống trị. Bởi vì, bản thân quyền lực nhà nước là một chỉnh thể gồm các bộ phận cấu thành và có quan hệ hữu cơ với nhau; (ii) Trong tư tưởng tam quyền phân lập, mặc dù khi nói đến quyền tư pháp có sự lựa chọn quan toà từ đa số người dân,
  • 23. 18 tuy nhiên, đối với những người phạm tội là giới quý tộc thì ông lại đưa ra ba trường hợp, trong đó nhà quý tộc được đối xử đặc biệt. Do vậy, quan điểm của ông chưa thực sự triệt để, vẫn bảo vệ quyền lợi cho giai cấp quý tộc; (iii) Thực hiện tam quyền phân lập một cách triệt để có thể dẫn tới tính tách rời của các cơ quan quyền lực, mâu thuẫn giữa các cơ quan quyền lực vì lợi ích của các đảng phái dẫn đến ảnh hưởng tới lợi ích của những người dân bầu lên các cơ quan quyền lực này. 1.1.3.2. Tư tưởng của J.J.Rousseau Sau John Locke và Montesquieu, nhà tư tưởng Pháp J.J.Rousseau (1712 -1778) là người có những tư tưởng mới mẻ và tiến bộ về sự phân chia quyền lực trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước hơn cả. Trong tác phẩm “Bàn về khế ước xã hội” J.J.Rousseau cho rằng, quyền lực nhà nước phải thống nhất, quyền lực đó phải từ nhân dân mà ra, chính nhân dân mới là người giao cho tổ chức nhà nước thực hiện quyền lực của mình. Tuy nhiên, ông cũng nhận định, phân chia các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp cho các cơ quan khác nhau trong tổ chức nhà nước đảm nhận là cần thiết, là cách thức hợp lý duy nhất để đảm bảo sự hoạt động có hiệu quả của nhà nước, cũng như ngăn chặn được xu hướng lạm quyền của cơ quan hành pháp. Khi bàn về cơ quan lập pháp, J.J.Rousseau cho rằng, “lập pháp là đỉnh cao nhất của sự hoàn thiện mà sức mạnh tập thể có thể đạt tới, cơ quan lập pháp bao gồm toàn thể nhân dân hội họp thường xuyên sẽ đưa ra ý muốn chung của quốc gia. Dân chúng tuân theo luật phải là người làm ra luật” [19]. Để luật pháp thực sự là cơ quan quyền lực tối cao, cơ quan lập pháp phải phản ánh ý muốn chung của toàn dân chứ không phải ý muốn của các đại diện nhân dân. Để thuận lợi cho việc lập pháp, quốc gia cần đến những nhà lập pháp thông thái, có khả năng đưa ra những dự luật phản ánh ý chí chung để nhân dân biểu quyết. Nhà lập pháp phải có khả năng thuyết phục nhân dân chấp thuận các
  • 24. 19 dự luật vì nhà lập pháp không có quyền sai khiến nhân dân làm theo ý muốn của mình. Cơ quan hành pháp (còn được gọi là Chính phủ) được thành lập trên cơ sở của luật pháp chứ không phải trên cơ sở của khế ước như cơ quan lập pháp. Theo ông, quyền hành pháp phải thuộc về một cá nhân cụ thể, cá nhân ấy có thể là pháp quan hoặc nhà vua, tức là người cai trị. Ở đây, tư tưởng phân quyền được thể hiện một cách gián tiếp khi ông khẳng định quyền hành pháp không thể trao vào tay cơ quan quyền lực tối cao - tức nhân dân, là cơ quan đã có quyền lập pháp. Cơ quan tư pháp được J.J.Rousseau nhắc tới là cơ quan “đặt mỗi bộ phận” của nhà nước” “vào đúng chỗ của nó, làm mối dây liên lạc và yếu tố trung gian giữa Chính phủ với nhân dân, hoặc giữa Chính phủ với cơ quan quyền lực tối cao, hoặc giữa cả ba vế ấy khi cần”. Nhiệm vụ của cơ quan này là bảo tồn luật và quyền lập pháp, bởi vậy nó được coi là “cơ quan thiêng liêng nhất và được coi trọng nhất”. 1.1.4. Thời hiện đại Ngày nay, trên cơ sở tiếp thu tư tưởng của các học giả đi trước, cũng như từ kinh nghiệm và nhu cầu thực tiễn đặt ra, nội dung của tư tưởng phân chia quyền lực ngày nay đã có nhiều thay đổi. Khi nhắc đến phân chia quyền lực, người ta không còn chỉ nghĩ đến việc phân chia quyền lực thành các nhánh (ngang hàng): lập pháp, hành pháp, tư pháp mà còn có cả sự phân chia quyền lực theo chiều dọc: giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương trong một quốc gia. 1.1.4.1. Cách thức phân quyền ngang Phân quyền ngang là cách thức phân quyền cổ điển đã có từ thời của Aristote và được hoàn thiện bởi Locke, Montesquieu và J.J.Rousseau. Không có nhiều sự thay đổi của cách thức phân quyền này ở ngày nay so với trước đây. Nội dung cụ thể của cách thức phân quyền ngang như sau:
  • 25. 20 - Quyền lực nhà nước được phân chia thành các nhánh khác nhau, do các cơ quan khác nhau nắm giữ để không một cá nhân hay tổ chức nào được nắm trọn vẹn quyền lực nhà nước. Điển hình như ở Mỹ: Nghị viện nắm quyền lập pháp, Chính phủ nắm quyền hành pháp và Tòa án nắm quyền tư pháp. - Có sự chuyên môn hóa trong hoạt động của các cơ quan quyền lực công- Mỗi cơ quan chỉ hoạt động nhằm thực hiện chức năng riêng của mình, không ảnh hưởng tới công việc của cơ quan khác. - Giữa các cơ quan quyền lực tồn tại thế cân bằng, các cơ quan có thể giám sát, kiểm tra, đối trọng và chế ước lẫn nhau, để không cho một cơ quan nào có khả năng lạm quyền. 1.1.4.2. Cách thức phân quyền dọc Cách thức phân quyền dọc có các nội dung cơ bản sau đây: - Tồn tại hệ thống các cơ quan quyền lực nhà nước do dân bầu ở các cấp địa phương, song song với bộ máy nhà nước trung ương. - Có sự phân công nhiệm vụ, trách nhiệm và quyền hạn cụ thể giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương trong những lĩnh vực cụ thể. Chính quyền trung ương sẽ giải quyết các vấn đề công, vì lợi ích của cả cộng đồng xã hội, như vấn đề an ninh quốc phòng, về chủ quyền quốc gia… còn chính quyền địa phương sẽ phụ trách những vấn đề định hướng phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa ở địa phương, ngoài ra còn có thể chủ động tiến hành hợp tác, giao lưu với các địa phương khác hoặc các tổ chức quốc tế trong khuôn khổ quyền hạn của mình. - Tổ chức và hoạt động của các cấp chính quyền trong phạm vi nhiệm vụ và quyền hạn của mình là tương đối độc lập với nhau. Chính quyền trung ương không có quyền điều hành, chỉ đạo chính quyền địa phương, mà chỉ có quyền xây dựng chủ trương, chính sách, tạo dựng khuôn khổ pháp lý và kiểm tra, giám sát hoạt động của các chính quyền cấp dưới, mọi vi phạm của chính quyền địa phương sẽ do tòa án hành chính xét xử độc lập.
  • 26. 21 Cách thức phân quyền dọc còn được gọi bằng những cái tên khác như phi tập trung hóa hay tản quyền, nó tồn tại ở gần như hầu khắp các chính thể nhà nước hiện đại với nhiều mức độ khác nhau. Ví dụ, ở Philippine mới dừng lại ở mức độ tự chủ tương đối của chính quyền địa phương; ở Đức đã thừa nhận mỗi cấp chính quyền chỉ chuyên trách một số lĩnh vực nhất định, không có sự trùng lặp, chồng chéo quản lý giữa các cấp. Phân quyền dọc có thể thực hiện theo hai phương pháp: Thứ nhất, là phân quyền theo lãnh thổ: là cách phân quyền của chính quyền trung ương cho chính quyền địa phương theo địa giới hành chính - lãnh thổ. - Chính quyền trung ương giao quyền tự quyết, tự quản lý cho chính quyền địa phương. Trong phạm vi quyền hạn được giao, chính quyền địa phương có thể tự mình ra nghị quyết mà không cần xin ý kiến từ cấp trên, chỉ tuân theo đúng pháp luật và quy định của trung ương. Chính quyền trung ương chỉ thực hiện sự kiểm tra, giám sát với các nghị quyết của địa phương, và nếu xét thấy chúng có sai phạm thì có quyền đình chỉ, bãi bỏ và tiến hành kỳ luật hành chính. - Chính quyền địa phương có ngân sách độc lập, được tự quản lý việc thu chi theo khuôn khổ pháp luật, địa phương có quyền vay tiền, phát hành công trái địa phương. - Cơ cấu tự trị yêu cầu chính quyền địa phương phải có một cơ quan ra nghị quyết và một cơ quan thi hành các nghị quyết đó, giống như mô hình Nghị viện và Chính phủ ở địa phương. Thứ hai, là phân quyền theo ngành chuyên môn: là cách phân quyền giữa các bộ chuyên môn với chính quyền địa phương. Ví dụ - như việc quản lý đất đai ở Malaysia được giao hoàn toàn cho chính quyền các tỉnh, chính quyền trung ương chỉ ban hành các quy định về thể chế mà không quyết định việc chi phối đất đai, các cơ quan trung ương muốn sử dụng đất phải được
  • 27. 22 chính quyền tỉnh phân phối và phải trả tiền thuê đất cho chính quyền tỉnh. Hay như ở New Zealand, về lĩnh vực y tế, Chính phủ không quản lý bất kỳ một bệnh viện công nào, tất cả các bệnh viện đều được giao về cho các bang. Như vậy, tư tưởng phân quyền - phân chia quyền lực của các nhà tư tưởng chính trị nêu trên có ý nghĩa vô cùng quan trọng, là cơ sở lý luận cho việc thiết kế và xây dựng các mô hình thể chế nhà nước. Trong khuôn khổ của lý thuyết phân quyền, thực tiễn đã hình thành những chính thể khác nhau phù hợp với đặc điểm kinh tế, xã hội và truyền thống văn hoá của mỗi nước: chính thể Tổng thống, chính thể đại nghị (cả cộng hoà và quân chủ) và chính thể hỗn hợp. Ở các nước này, các nhánh quyền lực nhà nước được thể chế hoá cao độ, các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp được chuyên nghiệp hoá rất cao, cơ chế kiểm soát quyền lực tỏ rõ tính hiệu quả trong việc hạn chế tình trạng lạm quyền, chuyên quyền, quan liêu, tham nhũng trong bộ máy nhà nước. Những giá trị này đã được kiểm chứng trong thực tiễn chính trị hàng trăm năm ở các nước tư bản phát triển, cụ thể là: Thứ nhất, lý thuyết phân quyền được hình thành như là sự phủ định biện chứng về mặt tư tưởng các lý thuyết thuyết tập quyền chuyên chế, đánh dấu sự chấm dứt của chế độ quân chủ chuyên chế, độc tài và đặt nền móng cho sự hình thành các thể chế tự do, dân chủ. Thứ hai, với việc trao quyền lực của nhân dân cho các nhánh quyền lực nhà nước khác nhau (lập pháp, hành pháp, tư pháp) đã hình thành nên quá trình phân công quyền lực nhằm tạo sự chuyên nghiệp hoá, chuyên môn hoá chức năng, nhiệm vụ của mỗi nhánh quyền lực, tăng cường tính hiệu quả và tác dụng của chính quyền, khẳng định vị trí, vai trò của mỗi ngành trong cơ chế thực thi quyền lực nhà nước. Thứ ba, lý thuyết phân quyền đánh dấu sự phát triển hiện đại về tính kỹ thuật chính trị - pháp lý trong tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước, dùng
  • 28. 23 phân quyền để kiểm soát sự lạm quyền. Đó là cơ chế kiềm chế và đối trọng, kiểm tra và chế ước lẫn nhau trong hoạt động của ba nhánh quyền lực, nhờ đó loại trừ nguy cơ tập trung tất cả quyền lực nhà nước vào tay một cá nhân, nhóm người hay một cơ quan quyền lực duy nhất nào đó. Thứ tư, lý thuyết phân quyền là một đóng góp lớn cho lý luận và thực tiễn chính trị về nhà nước pháp quyền, bởi nó được tổ chức và hoạt động trên nguyên tắc lấy pháp luật làm tối thượng, lấy bảo đảm các quyền tự do công dân làm mục đích cuối cùng. Lý thuyết này đã khẳng định bất cứ một chế độ nào mà không thực hiện sự phân chia quyền lực, không đề cao pháp luật và kiểm soát quyền lực thì đó không phải là nhà nước pháp quyền. Mặc dù thực tiễn chính trị đã thay đổi nhiều so với thời kỳ lý thuyết phân quyền ra đời nhưng đến nay, lý thuyết phân quyền với những giá trị mang tính phổ quát của nó vẫn đang được khai thác và nhân rộng trong tổ chức quyền lực của tất cả các nước, không phân biệt điều kiện kinh tế, văn hoá và chế độ chính trị. Ở các nước tư bản phát triển, phân quyền vẫn là nguyên tắc cơ bản để tiến hành cải cách, đổi mới phương thức tổ chức quyền lực nhà nước cho phù hợp với sự xuất hiện và biến đổi của những nhân tố kinh tế, chính trị mới. Còn ở các nước đang phát triển, lý thuyết phân quyền cũng đã gợi mở nhiều vấn đề mang tính nguyên tắc khách quan trong quá trình tìm kiếm mô hình dân chủ, xây dựng nhà nước pháp quyền và thiết lập các yếu tố nền tảng của văn minh chính trị của từng quốc gia. 1.2. Một số mô hình phân quyền chủ yếu 1.2.1. Mô hình phân quyền ở Anh Nước Anh là quốc gia vận dụng nguyên tắc phân quyền một cách mềm dẻo trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước tư sản theo chính thể quân chủ đại nghị [18]. Trong chính thể quân chủ đại nghị ở Anh, quyền lập pháp thuộc về Nghị
  • 29. 24 viện, quyền hành pháp thuộc về Chính phủ, quyền tư pháp thuộc về Tòa án. Khác với những nhà nước áp dụng nguyên tắc phân quyền một cách “cứng rắn” - lập pháp và hành pháp được phân định rạch ròi thì trong nhà nước này giữa lập pháp và hành pháp có mối liên hệ với nhau, phối kết hợp lẫn nhau: Nghị viện trong đó Hạ nghị viện được thành lập do bầu cử trực tiếp - có thực quyền trong Nghị viện. Chính phủ do Hạ nghị viện lập ra: Thủ tướng đứng đầu bộ máy hành pháp, được hình thành trên cơ sở đảng chiếm đa số ghế trong Hạ nghị viện. Có nghĩa là Thủ tướng cũng chính là thủ lĩnh của đảng cầm quyền. Các Bộ trưởng đều là những nghị sĩ trong Hạ nghị viện do vua bầu ra. Bên cạnh việc lập pháp, Nghị viện còn phải thành lập, giám sát các hoạt động của Chính phủ. Chính phủ phải chịu trách nhiệm trước Hạ nghị viện - Hạ nghị viện có thể lật đổ Chính phủ nếu như Chính phủ không còn sự tín nhiệm. Đây chính là một đặc điểm quan trọng của sự hạn chế quyền lực trong nhà nước chính thể đại nghị, áp dụng nguyên tắc phân quyền một cách “mềm dẻo”. Trong quá trình hoạt động - giữa cơ quan lập pháp và cơ quan hành pháp cũng có sự phối kết hợp lẫn nhau: Quyền sáng kiến pháp luật thuộc về Chính phủ, Chính phủ sẽ dự thảo các dự luật cho Hạ nghị viện thảo luận và thông qua. Tuy vậy, về mặt Hiến định, Chính phủ phải chịu trách nhiệm trước Nghị viện nhưng trên thực tế Chính phủ được thành lập từ đảng phái chiếm đa số ghế trong Hạ nghị viện; Với Thủ tướng chính là thủ lĩnh của đảng cầm quyền trong Nghị viện nên mọi quyết định của Nghị viện cũng là của Chính phủ, Chính phủ bao giờ cũng khống chế Nghị viện. Có thể nói, Chính phủ và Hạ nghị viện là hai cơ quan trực thuộc đảng cầm quyền, trong đó Hạ nghị viện do Chính phủ toàn quyền định đoạt. Vì vậy, sự phân chia quyền lực nhà nước giữa lập pháp và hành pháp theo nguyên tắc phân quyền không còn nữa, mà có chăng chỉ là sự phân chia giữa một đảng cầm quyền và một đảng đối lập có trách nhiệm.
  • 30. 25 Khác với việc kiềm chế, kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước với nhau, các nhà nước theo chế độ đại nghị nói chung và nước Anh nói riêng thì cơ quan tối cao là Hạ nghị viện lại bị tiết chế ngay trong nội bộ của nó bằng hoạt động của các đảng đối lập, vì đảng đối lập luôn tìm cách đánh bại để có cơ hôi thay thế Chính phủ của đảng cầm quyền bằng cách gây nghi ngờ cho cử tri rằng các chính sách của Chính phủ là sai lầm để có cơ hội chiếm đa số trong các cuộc tuyển cử của nhân dân. Ngoài ra, đảng đối lập còn có quyền tham dự vào cuộc tranh luận, chống đối các chính sách của Chính phủ, vì thế, Chính phủ cũng như Hạ nghị viện bị hạn chế quyền lực của mình. Chính phủ không thể quyết định một cách bừa bãi hay lạm quyền mà phải dè dặt trước những phản ứng hay ủng hộ của các dân biểu mà đặc biệt là của các đảng viên nghị sĩ đảng đối lập để duy trì vị trí cầm quyền trong bộ máy nhà nước cũng như phải bảo vệ cả lợi ích của các đảng đối lập để tránh việc các đảng đối lập gây hậu quả nghiêm trọng cho Chính phủ và đảng cầm quyền. 1.2.2. Mô hình phân quyền ở Mỹ Mỹ là quốc gia theo chính thể cộng hòa tổng thống: Tư tưởng phân quyền được áp dụng ở mức độ “cứng rắn” với các đặc trưng là các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp độc lập với nhau trong hoạt động nhờ không chung nhân viên, đồng thời có sự ngăn cản, kiềm chế lẫn nhau theo nguyên tắc “quyền lực ngăn cản quyền lực”. Hành pháp thuộc về nguyên thủ quốc gia và không phải chịu trách nhiệm trước lập pháp. Sự phân quyền đã được ghi nhận trong Hiến pháp. Mỹ là quốc gia áp dụng nguyên tắc phân quyền một cách triệt để - tức là có sự phân chia rạch ròi quyền lực giữa các cơ quan nhà nước. Trong đó, quyền lập pháp trao cho Quốc hội, quyền hành pháp trao cho Tổng thống và quyền tư pháp trao cho Tòa án.
  • 31. 26 Thứ nhất, sự phân định rõ ràng giữa lập pháp và hành pháp: Theo quy định của Hiến pháp Mỹ thì lập pháp được hình thành độc lập với hành pháp: Nghị viện được thành lập do bầu cử thông qua cử tri bầu ra. Đồng thời Tổng thống cũng do nhân dân bầu cử trực tiếp và không phụ thuộc vào bầu cử Quốc hội, Tổng thống có toàn quyền quyết định nhân sự trong Chính phủ: lựa chọn, bổ nhiễm, miễn nhiệm Bộ trưởng... Ngoài ra, để đảm bảo tính chất phân quyền một cách triệt để, Hiến pháp Mỹ còn quy định: Tất cả quyền lập pháp thuộc về Quốc hội Mỹ bao gồm hai viện: Thượng nghị viện và Hạ nghị viện và quyền hành pháp chỉ giao cho một người đó là Tổng thống. Tổng thống cũng như Chính phủ không có quyền sáng lập, xây dựng luật, không phải chịu trách nhiệm trước Quốc hội. Cả Quốc hội và Chính phủ đều phải chịu trách nhiệm trước dân chúng. Tổng thống không có quyền giải tán Quốc hội và Quốc hội cũng không có quyền lật đổ Tổng thống. Thứ hai, là sự độc lập của tư pháp với hành pháp và lập pháp: Toà án độc lập với chính quyền hành pháp và lập pháp. Trong nhà nước Mỹ, tư pháp là một nhánh quyền lực rất được đề cao. Theo Hiến pháp Mỹ, quyền tư pháp được trao cho một pháp viện tối cao và các tòa án cấp dưới. Các thẩm phán đều có nhiệm kỳ suốt đời và có thể tập trung vào vấn đề công lý mà không bị các hoạt động chính trị của lập pháp và hành pháp chi phối. Không ai có quyền cách chức thẩm phán trừ trường hợp thẩm phán vi phạm pháp luật và bị thải hồi theo thủ tục “đàn hạch”. Theo đó, Ủy ban pháp luật của Hạ viện soạn thảo bản buộc tội rồi đưa ra Hạ viện xem xét. Nếu Hạ viện thông qua bằng đa số phiếu thuận, bản cáo buộc sẽ được chuyển cho Thượng viện quyết định. Chủ tọa phiên tòa của Thượng viện để cáo buộc Tổng thống là Chánh án tòa án tối cao. Thượng viện thông qua quyết định bằng cách bỏ phiếu kín, theo từng điều khoản của bản cáo buộc.
  • 32. 27 Để có quyết định buộc tội, cần có sự tán thành của hai phần ba số nghị sỹ có mặt. Cơ sở để cáo buộc Tổng thống theo thủ tục “đàn hạch” là các hành vi phản bội Tổ quốc, nhận hối lộ hay phạm những tội nghiêm trọng khác. Thủ tục “đàn hạch” thể hiện quyền giám sát của Quốc hội đối với Tổng thống, nhằm ngăn chặn sự lạm quyền của người đứng đầu cơ quan hành pháp ở Mỹ. Trong lịch sử nước Mỹ, đã có các Tổng thống Giôn-xơn, Ních-xơn, Clin-tơn bị khởi tố theo thủ tục này, trong đó Ních-xơn phải từ chức. Tuy nhiên các nhánh quyền lực có thể kiềm chế, đối trọng lẫn nhau: Các quyết định bổ nhiệm những cá nhân quan trọng trong bộ máy hành pháp và tư pháp của tổng thống phải được Quốc hội phê chuẩn. Tổng thống có quyền kiềm chế Quốc hội bằng quyền phủ quyết các dự luật mà hai viện thông qua. Nếu Tổng thống không phê chuẩn thì Quốc hội phải thảo luận và dự luật được thông qua nếu có trên hai phần ba phiếu thuận. Quốc hội có quyền quyết định ngân sách hoạt động của Tổng thống và Tòa án. Quốc hội còn có quyền xét xử và buộc tội các quan chức cao cấp kể cả Tổng thống theo tục “đàn hạch”. Bên cạnh đó, Hiến pháp Mỹ trao cho pháp viện tối cao và các tòa án có quyền tuyên bố các đạo luật đã được Quốc hội ban hành là vi hiến, không có hiệu lực thực thi, cũng như ngăn cấm các hành vi vi phạm hiến pháp của Tổng thống. Tòa án là nơi cuối cùng có thể xác định nội dung các quy định của hiến pháp mà các cơ quan Chính phủ có thể vượt quá giới hạn thẩm quyền. Sự phân quyền còn được đưa vào để phân định về mặt nhân sự đảm nhiệm trong bộ máy nhà nước. Theo đó, một cá nhân chỉ có thể được bổ nhiệm vào một trong ba cơ quan là: lập pháp, hành pháp, tư pháp. Ví dụ: Nếu là nghị sĩ thì sẽ không được bổ nhiệm làm Bộ trưởng, thẩm phán hay các chức danh khác trong chính quyền hành pháp, tư pháp. Như vậy, qua việc phân tích các tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước tư sản Mỹ cho thấy nguyên tắc
  • 33. 28 phân chia quyền lực được thể hiện rõ nét với sự vận dụng một cách cứng rắn của chính thể cộng hòa tổng thống. 1.2.3. Mô hình phân quyền ở Pháp Pháp là nước điển hình theo chính thể cộng hòa lưỡng tính. Đặc điểm của chính thể cộng hòa lưỡng tính là sự kết hợp các yếu tố của chính thể cộng hòa đại nghị và cộng hòa tổng thống. Ở đây, nguyên tắc phân chia quyền lực vừa được áp dụng một cách mềm dẻo, vừa có sự điều hòa, phối hợp giữa các ngành quyền lực lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đặc trưng cơ bản của chính thể cộng hòa lưỡng tính là sự độc lập của hành pháp với lập pháp cao hơn trong chính thể cộng hòa đại nghị nhờ không có sự chung nhân viên giữa chúng. Ở Pháp, khi nghị sĩ được cử làm bộ trưởng trong Chính phủ thì họ có thời gian một tháng để chọn lựa giữa hai chức vụ bộ trưởng và nghị sĩ. Hết thời gian này, nếu họ được cử làm thành viên của Chính phủ thì vị trí của họ tại Thượng viện hay Hạ viện sẽ được thay thế bằng người dự bị đã được bầu qua tổng tuyển cử. Tuy nhiên, sự độc lập giữa hành pháp và lập pháp lại thấp hơn trong chính thể cộng hòa Tổng thống vì Chính phủ và Quốc hội có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong quá trình làm luật. Nghị viện có quyền giám sát hoạt động của Chính phủ. Chính phủ phải chịu trách nhiệm trước Nghị viện và Nghị viện có thể lật đổ Chính phủ. Ngược lại, Nghị viện cũng có thể bị giải tán trước thời hạn hay bị kiểm soát ngân sách bởi Chính phủ. Quan hệ hành pháp và lập pháp ở đây mật thiết hơn so với chính thể cộng hòa Tổng thống vì quyền sáng kiến luật ở đây thuộc về cả Chính phủ lẫn các nghị sĩ. Ở Pháp, dự luật (do Chính phủ đưa ra) hay đề nghị luật (do nghị sĩ đưa ra) có thể được đưa ra đệ trình trước Thượng viện hay Hạ viện. Nếu như dự luật hay đề nghị luật ấy gặp phải mâu thuẫn giữa hai viện và sau 2 lần biểu quyết tại mỗi viện hoặc Chính phủ tuyên bố tình trạng khẩn cấp
  • 34. 29 thì Thủ tướng sẽ thiết lập Ủy ban hỗn hợp các nghị sĩ bằng nhau trong viện đề nghị một phương án cho các điều khoản tranh luận. Nếu như Ủy ban trên không thống nhất thì Chính phủ sẽ kết thúc thảo luận bằng cách đề nghị nghị viện quyết định, hoặc Chính phủ có thể rút lại các dự luật bất cứ lúc nào nếu không thấy thỏa mãn. Ngoài ra, ở Pháp, Nghị viện có thể đặt câu hỏi chất vấn các Bộ trưởng, Tổng thống hay các thành viên Chính phủ, thậm chí là khởi tố và xét xử Tổng thống, bỏ phiếu bất tín nhiệm Chính phủ khi họ phạm tội. Việc xét xử Thủ tướng Chính phủ khi ông ta phạm tội còn nằm trong thẩm quyền của tòa án và ngành tư pháp. Ngoài ra, trong nội bộ Chính phủ, Tổng thống nắm quyền cao nhất của nhà nước, có ý nghĩa quyết định tới việc ban hành luật, nhưng trên thực tế, quyền lực nhà nước lớn hay không còn phụ thuộc vào việc ông ta và Thủ tướng có cùng đảng phái hay không. Nếu cùng đảng thì quyền lực của Tổng thống là rất lớn do có sự hậu thuẫn của đa số trong quốc hội. Ngược lại, khi khác đảng phái thì Tổng thống phải nhượng bộ Thủ tướng trong vấn đề chính trị và cả hai phải chung sống hòa bình vì Thủ tướng có chỗ dựa là đa số Quốc hội. Ở Pháp, trung tâm của bộ máy chính quyền là Tổng thống. Tổng thống không do Nghị viện hoặc dựa trên cơ sở nghị viện bầu ra như các nước theo chính thể cộng hòa đại nghị, mà do nhân dân trực tiếp bầu ra. Tổng thống có nhiệm vụ, quyền hạn rất lớn, kể cả quyền giải tán nghị viện của cộng hòa đại nghị và quyền tự thành lập Chính phủ của cộng hòa tổng thống. Hiến pháp năm 1958 của Pháp tăng cường sự chịu trách nhiệm của Bộ trưởng trước Tổng thống và giảm tính chịu trách nhiệm của Bộ trưởng trước Nghị viện. Giống như chính thể cộng hòa đại nghị, Chính phủ Pháp có Thủ tướng đứng đầu. Nhưng thực ra Chính phủ đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Tổng thống. Tổng thống chủ tọa các phiên họp của Hội đồng Bộ trưởng để quyết
  • 35. 30 định các chính sách quốc gia. Thủ tướng chỉ được quyền lãnh đạo các phiên họp này khi Tổng thống cho phép. Ngoài ra, Thủ tướng chỉ được quyền chủ tọa các phiên họp Nội các để chuẩn bị cho các phiên họp chính thức của Hội đồng Bộ trưởng (Chính phủ) dưới sự chỉ đạo của Tổng thống. Ở Pháp, quyền lập pháp thuộc về Nghị viện- hành pháp thuộc về Tổng thống và Chính phủ; tư pháp thuộc về hệ thống tư pháp. Giữa lập pháp và hành pháp có mối quan hệ mật thiết hơn so với chính thể cộng hòa tổng thống nhưng vẫn kiểm soát, hạn chế quyền lực lẫn nhau- Nghị viện - cơ quan lập pháp được thành lập do bầu cử. Cơ quan hành pháp bao gồm Tổng thống và Chính phủ, Thủ tướng đứng đầu Chính phủ, Tổng thống do dân trực tiếp bầu ra và có quyền bổ nhiệm, phê chuẩn việc thành lập Chính phủ. Tổng thống là trung tâm nền chính trị, bảo vệ hiến pháp và là trọng tài điều hòa hoạt động của các cơ quan nhà nước. Tổng thống có quyền yêu cầu Nghị viện thảo luận lại các dự thảo luật đã thông qua - đồng thời có quyền giải tán Hạ nghị viện. Nghị viện có quyền giám sát các hoạt động của Chính phủ còn Chính phủ bao gồm các Bộ trưởng và Thủ tướng không những phải chịu trách nhiệm trước Nghị viện, mà còn chịu trách nhiệm thực sự trước Tổng thống. Nếu Thủ tướng và các Bộ trưởng không thực thi được các chính sách của Tổng thống thì phải từ chức. Ngoài ra, trong lĩnh vực lập pháp, Nghị viện bị hạn chế quyền lập pháp của mình trong phạm vi nhất định được quy định trong hiến pháp - còn những lĩnh vực khác thì do Chính phủ dự thảo luật và ban hành (trên thực tế các dự án luật do các Nghị viện đề xuất ngày càng ít đi còn từ phía Chính phủ lại tăng lên). Sự phân quyền trong phân định về mặt nhân sự của bộ máy nhà nước Pháp cũng giống như ở các nước theo thiết chế cộng hòa Tổng thống. Những người nắm quyền lập pháp không thể được trao quyền hành pháp hoặc tư pháp. Điều này đã hạn chế được việc lạm dụng quyền lực, tạo cho
  • 36. 31 cơ quan lập pháp có điều kiện để kiểm soát hoạt động của Chính phủ và toàn bộ cơ quan hành pháp. Có thể nói, chính thể cộng hòa lưỡng tính ở Pháp có ưu điểm là bảo đảm tính thực quyền, năng động, quyết đoán và độc lập trong hoạt động của nguyên thủ quốc gia.Vì vậy, tăng quyền lực và vai trò của hành pháp cũng như khẳng định năng lực của nguyên thủ quốc gia - từ đó, tạo được sự độc lập, cạnh tranh và nâng cao vai trò tác dụng kiềm chế lẫn nhau giữa lập pháp và hành pháp. Nhưng sự hạn chế của nó là gây nên những biến động lớn trong đời sống chính trị đất nước khi hai nhánh quyền lực này có những sự mâu thuẫn nhau. 1.2.4. Mô hình phân quyền ở Đức Đức là quốc gia theo chính thể. Đây là một mô hình nhà nước áp dụng tư tưởng phân chia quyền lực một cách mềm dẻo. Điều này được thể hiện ở chỗ lập pháp và hành pháp không hoàn toàn độc lập mà có mối liên hệ mật thiết, song giữa chúng vẫn có sự phối hợp với nhau. Tư pháp độc lập với hành pháp trong hoạt động song không hoàn toàn độc lập trong tổ chức và hoạt động với lập pháp [51]. Ở Cộng hòa Liên bang Đức, đặc trưng của nguyên tắc phân quyền được thể hiện cụ thể ở Điều 20 khoản 2 Câu 2 và Điều 20 khoản 3 và Điều 1 khoản 3 Luật cơ bản Cộng hòa Liên bang Đức. Điều 20 khoản 2 Câu 2 Luật cơ bản quy định rằng: “Quyền lực nhà nước được thực hiện thông qua các cơ quan độc lập thực hiện của quyền lập pháp (besondere Organe der Gesetzgebung), của quyền thi hành pháp luật (der vollziehenden Gewalt) và của quyền tư pháp (der Rechtsprechung)”. Phân quyền ở Đức được hiểu một cách toàn diện trên cả 3 góc độ: chức năng, tổ chức và nhân sự. Thứ nhất, phân quyền về chức năng Chức năng của lập pháp là xây dựng một trật tự pháp luật, đưa ra các
  • 37. 32 quy định ổn định, giải quyết các vấn đề của cuộc sống liên quan đến cả các vấn đề của tương lai. Chức năng của hành pháp được hiểu là hoạt động của cơ quan hành chính nhằm thi hành luật ở thời hiện tại. Chức năng của tư pháp là quyết định về tính hợp pháp của các vấn đề đã diễn ra ở thời quá khứ. Thứ hai, phân quyền về tổ chức Ở Đức, quyền lực cũng không tập trung vào một cơ quan nào mà được phân chia cho các cơ quan nhà nước khác nhau mang tính chuyên môn hóa. Mỗi cơ quan có những thẩm quyền và trách nhiệm khác nhau như: Hạ viện, Thượng viện, Chính phủ liên bang, các cơ quan hành chính, các Tòa án. Ví dụ, cùng một hoạt động lập pháp nhưng do nhiều cơ quan cùng thực hiện. Cụ thể, quyền trình dự án luật là Chính phủ, Thượng viện hay Nghị sĩ hoặc Ủy ban của Hạ viện; quyền thông qua luật là Hạ viện và Thượng viện; quyền ký phê chuẩn là Tổng thống liên bang. Như vậy sẽ không ai hiểu máy móc rằng, lập pháp ở Đức chỉ là chức năng hay công việc của Nghị viện. Đây là điểm khác với cơ chế phân chia quyền lực cứng rắn theo mô hình ở Mỹ. Thứ ba, phân quyền về nhân sự Quyền lực cũng được thực hiện thông qua những con người cụ thể có thẩm quyền và nhiệm vụ cụ thể. Một người về cơ bản không thể đồng thời thực hiện nhiều chức năng, nhiệm vụ khác nhau (Inkompatibilitaeten - Điều 55, Điều 94 khoản 1 câu 3, Điều 137 khoản 1 Luật cơ bản). Ví dụ, Thẩm phán không thể là thành viên của Hạ viện, Thượng viện, Chính phủ lên bang (Điều 94 khoản 1 câu 3 Luật cơ bản), hay không thể một người vừa là Tổng thống, vừa là Thủ tướng, vừa là Chủ tịch Hạ viện (Điều 63 Luật cơ bản). Khác với các bản Hiến pháp của Cộng hòa dân chủ Đức (Hiến pháp của Đông Đức - DDR) trước đây thừa nhận cơ chế tập trung quyền lực, trong Luật cơ bản của Cộng hòa liên bang Đức hiện nay không có một điều nào khẳng định Hạ viện là cơ quan quyền lực tối cao, cho dù đây là cơ quan do dân bầu
  • 38. 33 ra hay Thượng viện cũng vậy. Với quy định của Điều 20 khoản 2 câu 2 Luật cơ bản, các ngành quyền lực lập pháp, hành pháp và tư pháp về nguyên tắc là quan hệ ngang hàng, không phải là quan hệ có tính thứ bậc trên dưới. Sự phân quyền như vậy trong Luật cơ bản được gọi là phân quyền mang đặc tính pháp quyền, hay phân quyền theo chiều ngang. Hành pháp và Chính phủ ở Đức không đồng nhất là một và chức năng giữa Chính phủ với hành chính cũng được phân biệt rõ. Xuất phát từ bản chất hoạt động của Nghị viện và Chính phủ là hoạt động có những yếu tố “động”, chịu ảnh hưởng mạnh về yếu tố đảng phái chính trị, còn hoạt động hành chính - thi hành luật và hoạt động tư pháp - xét xử lại mang nhiều yếu tố “tĩnh”, mang tính ổn định, nên ngành hành pháp được phân chia thành Chính phủ và Hành chính với những chức năng, nhiệm vụ khác nhau. Với tính chất là nhà nước liên bang, ở Đức còn có sự phân quyền theo chiều dọc giữa liên bang và các tiểu bang (Điều 30 Luật cơ bản). Mỗi tiểu bang có Hiến pháp riêng của bang, có những cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp riêng được tổ chức và hoạt động trên cơ sở một hệ thống pháp luật riêng, không trái với Hiến pháp và những đạo luật của Liên bang. Cơ chế phân quyền theo chiều ngang và chiều dọc ở Đức hiện nay hoạt động và đặt trong liên hệ với những yếu tố khác có ảnh hưởng hay tác động đến cơ chế này như: Hệ thống đa đảng (điều 21 Luật cơ bản); tính cạnh tranh bởi nguyên tắc đa số và bảo vệ quyền lợi thiểu số trong Hạ viện (điều 42 II, 63, 67, 68 Luật cơ bản; Điều 44, 46, 93 I Nr.1, 2 Luật Cơ bản); Thiết chế Thượng viện trong việc tham gia vào hoạt động lập pháp (Điều 50 ff., 77, 80 II, III GG); Tự quản địa phương (Điều 28 II Luật cơ bản); Ràng buộc bởi các quy định của EU (Điều 23 Luật cơ bản)… Mặc dù có phân quyền nhưng ở Đức vẫn bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân và bảo vệ những quyền tự do của công dân.
  • 39. 34 Như vậy, phân quyền ở Đức không phải là sự phân quyền tuyệt đối mà là phân quyền tương đối, có những đặc điểm quan trọng là: - Ngành lập pháp, hành pháp và tư pháp về cơ bản là ngang hàng nhau. Hành pháp tiếp tục được phân thành 2 bộ phận: Chính phủ với tính chất là hệ thống điều hành, lập chính sách và Hành chính với tính chất là các hệ thống thi hành luật. - Phân quyền toàn diện theo chức năng, theo cơ quan và nhân sự. - Phân quyền toàn diện theo cả theo chiều ngang và chiều dọc đảm bảo sự kiểm soát và cân bằng quyền lực. Bên cạnh đó, ở Đức, Tòa án Hiến pháp có thể kiềm chế lập pháp qua việc giải quyết kháng nghị chống lại quyết định của Hạ viện, kiềm chế hành pháp thông qua việc tước cương vị Tổng thống liên bang hoặc quy định không cho tiếp tục giữ cương vị của mình khi xác định được rằng Tổng thống liên bang cố tình vi phạm Hiến pháp hoặc pháp luật. Một mặt, tòa án độc lập trong hoạt động song vẫn chịu ảnh hưởng từ Chính phủ trong tổ chức. Đơn cử đó là việc bổ nhiệm, thăng chức cho các thẩm phán. Chính sự phân quyền thông qua việc cùng thực hiện quyền lực và kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan theo cả chiều dọc và chiều ngang như vậy sẽ giới hạn được quyền lực nhà nước, ngăn ngừa nguy cơ lạm quyền và độc quyền, qua đó cũng bảo vệ được tự do cá nhân. Nói cách khác, phân quyền là làm cho quyền lực giữa các cơ quan cân bằng, không có quyền lực nào vượt trội hơn quyền lực nào. Quyền lực được kiểm soát và cân bằng ở bên trong là chính các cơ quan nhà nước và bên ngoài với các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do biểu tình, tự do lập hội để tránh nguy cơ độc quyền, lạm quyền. Ưu điểm của sự phân quyền mềm dẻo này là dễ dàng tạo ra sự bình ổn trong đời sống chính trị đất nước, còn nhược điểm là sự bị động, thiếu linh hoạt trong vai trò của nguyên thủ quốc gia và không bảo đảm được đối lập,
  • 40. 35 cạnh tranh, kiềm chế - đối trọng giữa hành pháp và lập pháp - từ đó biến Nghị viện và Chính phủ từ chỗ thể hiện sự phân chia quyền lực thành hai cơ quan thực hiện chính sách của đảng cầm quyền. Tiểu kết Chương 1 Chương 1 đã đề cập và phân tích những vấn đề lý luận cơ bản về lịch sử hình thành và nội dung của lý thuyết phân quyền qua các thời kỳ Cổ đại, Trung đại, Cận đại, Hiện đại và thực tiễn vận dụng mô hình phân quyền ơ một số nước tư bản tiêu biểu: Anh, Mỹ, Pháp, Đức. Lý thuyết phân quyền của các nhà tư tưởng qua các thời kỳ cũng như thực tiễn vận dụng nguyên tắc phân quyền trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ở một số nước tư bản điển hình cho thấy, ở mỗi nước có mức độ áp dụng khác nhau tùy thuộc vào từng loại chính thể khác nhau nhưng đều nhằm mục tiêu kiểm soát quyền lực nhà nước, hạn chế sự lạm quyền giữa các cơ quan trong tổ chức bộ máy nhà nước và bảo vệ quyền lợi chung cho toàn xã hội.
  • 41. 36 Chương 2 QUY ĐỊNH VỀ PHÂN QUYỀN TRONG CÁC HIẾN PHÁP VIỆT NAM 2.1. Nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước và yếu tố phân quyền trong các Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980 và Hiến pháp năm 1992 2.1.1. Phân quyền theo Hiến pháp năm 1946 * Nghị viện - cơ quan thực hiện quyền lập pháp Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã đập tan hệ thống chính quyền thực dân và chế độ phong kiến giành chính quyền về tay nhân dân. Nhiệm vụ quan trọng nhất của chính quyền lúc đó là thành lập ra một Nhà nước kiểu mới của nhân dân và tiến hành cuộc tổng tuyển cử bầu Quốc hội. Bản Hiến pháp ra đời năm 1946 có một ý nghĩa hết sức quan trọng. Đây là bản Hiến pháp dân chủ, phản ánh bản chất của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa – nhà nước của dân, do nhân dân và vì nhân dân. Hoạt động của các kỳ họp Quốc hội/Nghị viện cũng như nội dung và tinh thần dân chủ thực sự chưa từng có ở nước ta. Nhiều điều của Hiến pháp mang nội dung dân chủ sâu sắc vượt xa thể chế dân chủ của nhiều nước cùng thời điểm lịch sử đó và cả nhiều năm sau: Tất cả quyền binh trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo [25, Điều 17]; Nhân dân có quyền phúc quyết về Hiến pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia, theo Điều thứ 32 và 70 [25, Điều 21]; Nghị viện họp công khai, công chúng được vào nghe [25, Điều 30]; Thủ tướng phải chịu trách nhiệm về con đường chính trị của Nội các. Nhưng Nghị viện chỉ có thể biểu quyết về vấn đề tín nhiệm khi Thủ tướng, Ban thường vụ hoặc một phần tư tổng số Nghị viện nêu vấn đề ấy ra [25, Điều 54].
  • 42. 37 Hiến pháp 1946 đã xác định vị trí pháp lý của Quốc hội, Chính phủ, cơ quan tư pháp như sau: Hiến pháp 1946 quy định “Nghị viện nhân dân có quyền cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa” [25, Điều 22], Nghị viện có vị trí pháp lý cao nhất trong bộ máy nhà nước được thể hiện qua các quyền năng như “Nghị viện giải quyết mọi vấn đề chung cho toàn quốc, đặt ra các pháp luật, biểu quyết ngân sách, chuẩn y các hiệp ước mà Chính phủ ký với nước ngoài [25, Điều 23]. Nghị viện có quyền giám sát trực tiếp đối với Ban thường vụ, Chính phủ bằng các hình thức biểu quyết tín nhiệm đối với Ban Thường vụ, Nội các, bộ trưởng. Nghị viện có quyền lập ra Chính phủ , bầu Chủ ti ̣ch nước và Thủ tướng ; biểu quyết phê chuẩn danh sách Nô ̣i các do Thủ tướng đề nghị . Nghị viện cũng có quyền biểu quyết về vấn đề tín nhiệm Nô ̣i các, có quyền chất vấn các Bộ trưởng , nếu không được Nghi ̣viê ̣n tín nhiê ̣m thì Nô ̣i các cũng như cá nhân các Bô ̣trưởng phải từ chứ c; có quyền lập Tòa án đặc biệt để xét xử Chủ tịch, Phó chủ tịch nước hay nhân viên Nội các. Nghị viện nhân dân/ - Quốc hội là cơ quan có quyền cao nhất của nước Viê ̣t Nam Dân chủ Cô ̣ng hòa . Điều này thể hiện - dáng dấp của mô hình chế đô ̣đa ̣i nghi ̣với tính trội của cơ quan đa ̣i biểu của nhân dân. Hiến pháp năm 1946 của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cho th ấy “lối rẽ” từ mô hình chế đô ̣đa ̣i nghi ̣kinh điển đã được thiết kế theo sự pha trô ̣n với chế độTổng thống. Mô hình này đã ta ̣o ra ba nhánh quyền lực có vi ̣trí độc lâ ̣p : Nghị viện – cơ quan có quyền cao nhất của quốc gia , Chính phủ – cơ quan hành ch ính cao nhất của toàn quốc, các cơ quan tư pháp độc lập. bảo đảm khả năng kiểm soát từ phía cơ quan dân cử đối với cơ quan hành pháp , vừ a thể hiê ̣n rõ tính đô ̣c lâ ̣p của cơ quan hành pháp. Chức năng giám sát của nghị viện đã được Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước ta 1946 quy định, tuy nhiên, quyền giám sát chưa được coi là một chức
  • 43. 38 năng trực tiếp như quyền lập hiến, lập pháp, hay quyền quyết định những vấn đề quan trọng. Thay vào đó, chức năng giám sát mới chỉ được quy định thông qua một nhiệm vụ của Ban thường vụ và chỉ được thực hiện quyền này khi Nghị viện không họp. Cụ thể, Hiến pháp 1946 quy định, Ban thường vụ “biểu quyết những dự án sắc luật của Chính phủ. Nhưng sắc luật đó phải được đem trình Nghị viện vào phiên họp gần nhất để Nghị viện ưng chuẩn hoặc phế bỏ” [25, Điều 36]. Đây là quy định đầu tiên trao cho Nghị viện quyền giám sát hoạt động của Chính phủ trong việc ban hành các văn bản pháp luật phù hợp với Hiến pháp. Quy định đó, được các bản Hiến pháp sau này kế thừa. Hiến pháp 1946 còn quy định Nghị viện có quyền kiểm soát và phê bình Chính phủ quyền yêu cầu các bộ trưởng phải trả lời bằng thư từ hoặc bằng lời nói những điều chất vấn của Nghị viện hoặc của Ban thường vụ. Điều đặc biệt là việc bỏ phiếu bất tín nhiệm đối với Chính phủ. Tuy nhiên, Nghị viện chỉ có thể biểu quyết về vấn đề tín nhiê ̣m khi Thủ tướ ng, Ban Thườ ng vụ hoặc một phần tư tổng số nghi ̣viện nêu vấn đề ấy ra . Trong thời ha ̣n 24 giờ sau khi Nghi ̣viê ̣n biểu quyết không tín nhiê ̣m Nội các thì Chủ tịch nước mới có quy ền đưa vấn đề tín nhiệm ra thảo luận lại . Cuô ̣c thảo luận lần thứ hai phải cách cuộc thảo luận lần thứ nhất 48 giờ. Sau cuô ̣c biểu quyết này, Nội các mất tín nhiê ̣m phải từ chứ c [25, Điều 54]. Đây là một thủ tục pháp lý hết sứ c chă ̣t chẽ trong cơ chế quan hê ̣giữa cơ quan lâ ̣p pháp và cơ quan hành pháp ở Việt Nam trong thời kỳ đó. Nó vừa bảo đảm khả năng kiểm soát từ phía cơ quan dân cử đối với cơ quan hành pháp , vừ a thể hiê ̣n rõ tính độc lâ ̣p của cơ quan hành pháp. Chức năng giám sát được quy định rõ trong Hiến pháp của các chế độ đại nghị mà theo logic của chức năng giám sát là thực hiện quyền lực Nhà nước thuộc về Nhân dân bầu ra Quốc hội, Quốc hội thay mặt cho nhân dân thực hiện chức năng lập pháp, làm luật và thành lập ra Chính phủ - hành pháp.
  • 44. 39 Tuy nhiên trong khi thực hiện chức năng lập pháp Quốc hội/Nghị viện còn nhường lại hoạt động trình dự án luật cho Chính phủ, chính vì thế Chính phủ phải chịu trách nhiệm trước Quốc hội và chính sự chịu trách nhiệm này mà Quốc hội có chức năng giám sát Chính phủ. Chức năng giám sát ngày càng có tính chất lấn át, thay thế chức năng lập pháp. Giám sát của Quốc hội lập pháp mang tính chất chính trị, thể hiện ý chí của cử tri. Không có giám sát tư pháp, giám sát nguyên thủ quốc gia, giám sát chính quyền địa phương, giám sát cơ quan tư pháp, xét xử mà giám sát chỉ tập trung vào Chính phủ hành pháp. Bởi vì cơ quan xét xử là hoạt động của tòa án mà tòa án khi xét xử thì độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, tòa án là cơ quan xét xử cao nhất của mỗi quốc gia, hoạt động xét xử mang tính chuyên môn. Tòa án thực hiện hoạt động xét xử của cả lập pháp và hành pháp của mình. Hiến pháp năm 1946 quy định chức năng của Quốc hội là giám sát và kiểm soát Chính phủ, buộc Chính phủ phải giải trình khi bất cứ thấy chúng đáng nghi ngờ, đáng lên án và cảnh báo những thành viên Chính phủ lạm dụng sự tín nhiệm trong các công việc được giao hay thực hiện xung đột với lợi ích quốc gia sẽ bị phê bình, nhắc nhở hoặc phải đuổi họ ra khỏi cơ quan (sở nhiệm) và bổ nhiệm những người khác thay thế công việc đó. Đây là một quyền năng lớn đảm bảo cho một nền an ninh quốc gia được trong sạch và bền vững. Hiến pháp năm 1946 đảm bảo cho pháp luật được thi hành nghiêm minh, góp phần làm cho quyền lực nhà nước luôn luôn được thống nhất. Tạo lập được sự kiểm soát quyền lực của cơ quan thực hiện quyền lập pháp đối với cơ quan thực hiện quyền hành pháp (Chính phủ). Tuy nhiên, việc kiểm soát đối với cơ quan tư pháp chưa được đặt ra trong Hiến pháp năm 1946. * Chính phủ - cơ quan hành pháp Hiến pháp năm 1946 quy định về Chính phủ, với tính cách là cơ quan