SlideShare a Scribd company logo
1 of 168
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
TRẦN THU HƢỜNG
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA
DỊCH VỤ CÔNG TRONG LĨNH VỰC TƯ PHÁP
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SỸ LUẬT HỌC
Hà Nội - 2017
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
TRẦN THU HƢỜNG
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA
DỊCH VỤ CÔNG TRONG LĨNH VỰC TƯ PHÁP
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SỸ LUẬT HỌC
Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử Nhà nước và Pháp luật
Mã số : 62 38 01 01
Người hướng dẫn khoa học: TS. DƢƠNG THANH MAI
PGS.TS. NGUYỄN THỊ BÁO
Hà Nội - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các số liệu nêu trong luận án là trung thực, có nguồn
gốc rõ ràng. Những kết luận khoa học của luận án chưa
được ai công bố trong bất kỳ công trình nào.
Tác giả
Trần Thu Hƣờng
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ...............................................................................................................1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC
NGHIÊN CỨU TRONG LUẬN ÁN...................................................................8
1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước có liên quan đến đề tài ...................................8
1.2. Tình hình nghiên cứu của nước ngoài có liên quan đến đề tài ..........................18
1.3. Khái quát kết quả nghiên cứu liên quan đến đề tài và những vấn đề đặt ra
cần tiếp tục nghiên cứu.....................................................................................23
Chƣơng 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ
HỘI HÓA DỊCH VỤ CÔNG TRONG LĨNH VỰC TƢ PHÁP.....................29
2.1. Khái niệm, đặc điểm, nội dung pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công trong
lĩnh vực tư pháp ...............................................................................................29
2.2. Tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện và các yếu tố ảnh hưởng đến việc
hoàn thiện pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp ở
Việt Nam hiện nay............................................................................................53
2.3. Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp ở một số
nước trên thế giới và giá trị tham khảo cho Việt Nam.....................................63
Chƣơng 3: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ THỰC TRẠNG
PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH VỤ CÔNG TRONG LĨNH VỰC TƢ PHÁP
Ở VIỆT NAM....................................................................................................................................... 72
3.1. Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về xã hội hóa dịch vụ
công trong lĩnh vực tư pháp ở Việt Nam .........................................................72
3.2. Thực trạng pháp luật xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp ở
Việt Nam hiện nay............................................................................................78
Chƣơng 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
XÃ HỘI HÓA DỊCH VỤ CÔNG TRONG LĨNH VỰC TƢ PHÁP Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY........................................................................................................................113
4.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực
tư pháp ở Việt Nam hiện nay ........................................................................113
4.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực
tư pháp ở Việt Nam hiện nay .........................................................................120
KẾT LUẬN.......................................................................................................................148
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN................................................................................................................151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................152
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BĐGTS : Bán đấu giá tài sản
GATS : Hiệp định thương mại dịch vụ
GĐTP : Giám định tư pháp
QLNN : Quản lý nhà nước
QPPL : Quy phạm pháp luật
TGPL : Trợ giúp pháp lý
THADS : Thi hành án dân sự
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
XHHDVC : Xã hội hóa dịch vụ công
WTO : Tổ chức thương mại thế giới
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cung cấp dịch vụ công là một trong những chức năng cơ bản của Nhà nước
nhằm đáp ứng nhu cầu cơ bản, thiết yếu chung của người dân và cộng đồng, bảo đảm
ổn định và công bằng xã hội. Hiện nay, xã hội hóa việc cung cấp dịch vụ công trở
thành một xu hướng phổ biến của các nhà nước trong một thế giới đang chuyển đổi
nhằm đa dạng hóa, tăng nguồn cung ứng và nâng cao chất lượng dịch vụ phục vụ nhu
cầu, lợi ích chung của xã hội, cộng đồng và của người dân. Yêu cầu căn bản của quá
trình XHHDVC là nhà nước trực tiếp thực hiện một số loại dịch vụ công quan trọng
và thông qua các cơ chế cụ thể để dần chuyển giao việc cung ứng dịch vụ công này
cho các chủ thể khác, đồng thời, chịu trách nhiệm kiểm soát chặt chẽ chất lượng của
việc cung ứng các dịch vụ công này.
Ở Việt Nam, XHHDVC là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta, được
triển khai thực hiện trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội và là một trong những
trọng tâm trong thực hiện cải cách hành chính, đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ
máy nhà nước. Trong những năm đầu của thời kỳ đổi mới, XHHDVC trước hết được
thực hiện trong lĩnh vực y tế, chăm sóc sức khỏe của nhân dân (Nghị quyết Hội nghị
lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII), sau đó, được mở rộng đến các
vấn đề chính sách xã hội (Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII). Đến nay,
XHHDVC đã được triển khai trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, là một trong
những trọng tâm trong thực hiện cải cách hành chính, đổi mới tổ chức và hoạt động
của bộ máy nhà nước. Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011-2020 được Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ XI thông qua đã xác định quan điểm phát triển: “hoàn thiện
thể chế để tháo gỡ mọi cản trở, tạo điều kiện thuận lợi để giải phóng và phát triển
mạnh mẽ lực lượng sản xuất, đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ; huy động và
sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển” [42, tr.101]. Chương trình tổng
thể cải cách nền hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020 ban hành kèm theo Nghị
quyết số 30c/NQ-CP đặt ra nhiệm vụ: “Sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật về
xã hội hóa theo hướng quy định rõ trách nhiệm của Nhà nước trong việc chăm lo đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân; khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia
cung ứng các dịch vụ trong môi trường cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh” [29, tr.2].
Trong lĩnh vực tư pháp, XHHDVC được xác định là nhiệm vụ chiến lược quan
trọng trong thực hiện cải cách tư pháp, xây dựng và hoàn thiện pháp luật. Nghị quyết
số 49-NQ/TW ngày 2/6/2006 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020 đã chỉ rõ: “thực hiện xã hội hóa mạnh mẽ các hoạt động bổ trợ tư pháp”.
Đồng thời, Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2006 của Bộ Chính trị về Chiến lược
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đến năm 2010, định hướng 2020 cũng xác
định xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bổ trợ tư pháp (luật sư, công chứng, giám
định, cảnh sát tư pháp...) theo hướng đáp ứng ngày càng đầy đủ, thuận lợi các nhu cầu
đa dạng về hỗ trợ pháp lý của nhân dân, doanh nghiệp; thực hiện xã hội hóa mạnh mẽ
các hoạt động bổ trợ tư pháp; kết hợp quản lý nhà nước với tự quản của các tổ chức
xã hội nghề nghiệp.
Thực hiện định hướng chiến lược cải cách pháp luật, cải cách tư pháp, các văn
bản trong các lĩnh vực tư pháp như Luật luật sư, Luật công chứng, Luật thi hành án
dân sự, Luật giám định tư pháp, Luật trợ giúp pháp lý, Luật phổ biến giáo dục pháp
luật, Luật đấu giá tài sản... đang ngày càng khẳng định xu hướng XHHDVC trong
lĩnh vực tư pháp như xác định luật sư là một nghề, hoạt động chuyên nghiệp; hình
thành Liên đoàn luật sư là tổ chức tự quản của luật sư trong toàn quốc; hệ thống Văn
phòng công chứng được thành lập bên cạnh Phòng công chứng của Nhà nước; từng
bước hình thành Hội công chứng thực hiện chức năng tự quản đối với những người
hành nghề công chứng ở các địa phương; huy động các nguồn lực xã hội tham gia
vào hoạt động TGPL; cho phép thành lập các tổ chức GĐTP ngoài công lập đối với
các lĩnh vực về tài chính, xây dựng, di vật, cổ vật; chế định thừa phát lại đã được
chính thức thực hiện trong phạm vi cả nước. Các văn bản này đã tạo cơ sở pháp lý
cho việc XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp, góp phần vào việc nâng cao chất lượng,
hiệu quả hoạt động tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam cũng
như bảo đảm và phục vụ tốt hơn nhu cầu của người dân.
Tuy nhiên, pháp luật về XHHDVC cũng đang cho thấy có những bất cập, hạn
chế cần được nghiên cứu, hoàn thiện so với yêu cầu XHHDVC nói chung và trong
bối cảnh thực hiện cải cách pháp luật, cải cách tư pháp. Quy định về thực hiện xã hội
hóa được điều chỉnh trong các văn bản ở các cấp độ hiệu lực, ngành, lĩnh vực khác
nhau dẫn đến có những mâu thuẫn, khoảng trống và khó khăn nhất định trong áp
dụng. Pháp luật cũng chưa điều chỉnh đầy đủ, toàn diện các vấn đề phát sinh trong
thực hiện xã hội hóa như bảo đảm tính xã hội, không vì mục đích lợi nhuận của việc
cung cấp dịch vụ công, chưa có các cơ chế, chính sách khuyến khích phù hợp với đặc
thù của các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp… Quy định về trách nhiệm của các
chủ thể trong cung cấp dịch vụ công trong điều kiện xã hội hóa còn chưa đầy đủ, cụ
thể, đặc biệt là trách nhiệm của Nhà nước trong bảo đảm chất lượng dịch vụ công nên
thực tế triển khai có lúng túng và chưa đạt được kết quả như mong muốn. Việc tổng
kết thực tiễn thi hành và nghiên cứu lý luận về pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực
tư pháp chưa được quan tâm thực hiện đúng mức nên dẫn đến những khó khăn, lúng
túng, thiếu cơ sở khoa học cho việc hoạch định chính sách dài hạn và hoàn thiện pháp
luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp.
Pháp luật là nền tảng của Nhà nước pháp quyền và pháp luật trong Nhà nước
phải bảo đảm quyền tự do, dân chủ, bảo đảm công bằng và công lý trong xã hội. Yêu
cầu cơ bản của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là hoàn thiện
hệ thống pháp luật. Trong quá trình XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp hiện nay, pháp
luật phải tạo hành lang pháp lý ổn định, khả thi cho sự tham gia bình đẳng của các
chủ thể trong xã hội trong cung cấp dịch vụ công có chất lượng, bảo đảm cho người
dân ngày càng dễ dàng hơn trong tiếp cận và thụ hưởng dịch vụ công, cũng như góp
phần hoàn thành các nhiệm vụ cải cách tư pháp, thực hiện và bảo vệ pháp luật. Pháp
luật không phải chỉ thể hiện cam kết của Nhà nước trước xã hội về việc bảo đảm
quyền, lợi ích của tổ chức, cá nhân khi tham gia cung cấp dịch vụ công mà còn thể
hiện cam kết của Nhà nước trước người dân về việc cung cấp dịch vụ công có chất
lượng dù trong bối cảnh Nhà nước không tham gia trực tiếp vào việc cung cấp dịch
vụ công, gắn với các mục tiêu, nhiệm vụ cải cách pháp luật, cải cách tư pháp.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, nghiên cứu sinh chọn đề tài “Hoàn thiện
pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp ở Việt Nam hiện
nay” là đề tài nghiên cứu luận án tiến sỹ luật học nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý
luận, thực tiễn trong hoàn thiện pháp luật và đưa ra những kiến nghị, đề xuất cho
việc hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp ở Việt Nam hiện nay.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích
Mục đích nghiên cứu của luận án nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và
thực tiễn, từ đó đề xuất quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong
lĩnh vực tư pháp ở Việt Nam hiện nay đáp ứng yêu cầu thực hiện cải cách hành chính,
cải cách tư pháp của Việt Nam.
2.2. Nhiệm vụ
- Thực hiện tổng quan các vấn đề nghiên cứu có liên quan đến đề tài để chỉ ra
những vấn đề luận án có thể kế thừa và xác định các vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu.
- Phân tích khái niệm, đặc điểm, nội dung điều chỉnh của pháp luật và xác
định các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện cũng như yếu tố ảnh hưởng đến việc
hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp; đồng thời ở một mức độ
nhất định, nghiên cứu pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp trên thế giới
và chỉ ra những giá trị tham khảo đối với Việt Nam.
- Nghiên cứu tổng quan quá trình phát triển của pháp luật về XHHDVC
trong lĩnh vực tư pháp, trọng tâm từ năm 2001 đến nay; phân tích, đánh giá thực
trạng pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp ở Việt Nam hiện nay để rút ra
những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân.
- Phân tích, đề xuất các quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật về
XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp ở Việt Nam hiện nay theo yêu cầu cải cách hành
chính, chiến lược hoàn thiện pháp luật, cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
Dưới góc độ lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật, Luận án nghiên cứu
những vấn đề lý luận, thực tiễn của pháp luật và hoàn thiện pháp luật về XHHDVC
trong lĩnh vực tư pháp ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp, ở Việt Nam hiện nay, pháp luật về
XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp được tiếp cận khá rộng, bao gồm nhiều hoạt động
khác nhau, có thể là các hoạt động trực tiếp liên quan đến thực hiện quyền tư pháp
(xét xử) nhưng cũng có thể là những hoạt động bổ trợ tư pháp và hành chính tư pháp.
Trong phạm vi giới hạn của Luận án, với mục đích đóng góp các đề xuất cho
việc hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp phù hợp yêu cầu cải
cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, Luận án tập trung
nghiên cứu và đề xuất các giải pháp đối với việc hoàn thiện pháp luật XHHDVC
trong lĩnh vực tư pháp được xác định theo Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính
trị ngày 2/1/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới
và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách
tư pháp đến năm 2020.
- Về thời gian, Luận án nghiên cứu về quá trình hình thành và phát triển của
pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp và tập trung nghiên cứu, đánh giá về
tình hình, kết quả hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong giai đoạn từ năm 2001
đến nay (là giai đoạn bắt đầu thực hiện các nhiệm vụ XHHDVC trong lĩnh vực tư
pháp theo Nghị quyết số 08-NQ/TW).
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin, trong đó vận
dụng linh hoạt, tổng hợp các phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử để
thấy được tiến trình hình thành, phát triển của pháp luật XHHDVC trong lĩnh vực tư
pháp ở Việt Nam.
Trong quá trình nghiên cứu, các phương pháp nghiên cứu khoa học đã được
sử dụng phù hợp với yêu cầu nghiên cứu từng nội dung của luận án như phương
pháp phân tích, tổng hợp; luật học so sánh; thống kê, khảo sát văn bản; phương
pháp quy nạp, diễn dịch. Cụ thể như sau:
- Chương 1: Sử dụng phương pháp tổng hợp, phân tích, hệ thống hóa các tài
liệu, công trình nghiên cứu khoa học đã được công bố để làm rõ các nội dung, kết
quả nghiên cứu có liên quan đến đề tài, xác định những vấn đề cần tiếp tục nghiên
cứu của luận án.
- Chương 2: Sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa,
phương pháp quy nạp, diễn dịch để phân tích, luận giải, khái quát các phạm trù có
tính lý luận về pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp. Chương này cũng sử
dụng phương pháp luật học so sánh để tìm hiểu kinh nghiệm của một số nước trong
hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp.
- Chương 3: Sử dụng phương pháp thống kê, tổng hợp, phân tích để hệ
thống, luận giải, làm rõ thực trạng pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp ở
Việt Nam hiện nay.
- Chương 4: Sử dụng phương pháp quy nap, diễn dịch, tổng hợp, phân tích
để luận giải và đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh
vực tư pháp ở Việt Nam hiện nay.
5. Những đóng góp mới về khoa học của luận án
Luận án là công nghiên cứu chuyên sâu đầu tiên tiếp cận chung về hoàn thiện
pháp luật XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp ở Việt Nam hiện nay. Luận án có những
điểm mới sau:
- Trên cơ sở kế thừa kết quả nghiên cứu trước đó, Luận án đã đưa ra được
khái niệm, phân tích và làm sáng tỏ bốn đặc điểm, ba nội dung điều chỉnh và vai trò
quan trọng của pháp luật XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp
- Luận án đã xây dựng bảy tiêu chí hoàn thiện pháp luật, xác định năm yếu tố
ảnh hưởng đến việc hoàn trình hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư
pháp.
- Luận án đã phân tích và chỉ ra kinh nghiệm của một số nước trong hoàn thiện
pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp, bao gồm kinh nghiệm hoàn thiện nhóm
các quy định về tổ chức và hoạt động cung cấp dịch vụ công; về thực hiện XHHDVC
trong lĩnh vực tư pháp; về quy định quản lý cung cấp dịch vụ công.
- Luận án đã phân tích, làm rõ được những vấn đề cơ bản của quá trình hình thành
và phát triển của pháp luật Việt Nam về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp.
- Luận án nghiên cứu, phân tích một cách có hệ thống và chỉ ra được những
kết quả, hạn chế và nguyên nhân của thực trạng pháp luật XHHDVC trong lĩnh vực
tư pháp ở Việt Nam hiện nay.
- Luận án xác định được các quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật
XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp ở Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Về lý luận, kết quả nghiên cứu của Luận án cung cấp thêm các thông tin lý
luận hoàn thiện pháp luật XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp trong điều kiện cải cách
hành chính, cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
- Về thực tiễn, Luận án là công trình đầu tiên tiếp cận và nghiên cứu chung
liên quan đến pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp một cách có hệ thống
và toàn diện. Kết quả nghiên cứu của luận án có giá trị tham khảo đối với các cơ
quan có thẩm quyền trong xây dựng, hoạch định chính sách, xây dựng, hoàn thiện
và tổ chức thi hành pháp luật XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp nói chung và từng
dịch vụ công cụ thể. Luận án còn có thể là tài liệu tham khảo, phục vụ cho công tác
nghiên cứu, giảng dạy pháp luật XHHDVC nói chung và trong lĩnh vực tư pháp nói
riêng.
7. Kết cấu của Luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Luận án gồm có
04 chương và 10 tiết.
Chƣơng 1
TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU TRONG LUẬN ÁN
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG NƢỚC LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI
1.1.1. Tình hình nghiên cứu trong nƣớc về hoàn thiện pháp luật về xã hội
hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tƣ pháp nói chung
Hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp là một trong những
nội dung được quan tâm nghiên cứu dưới các hình thức Đề tài, Hội thảo khoa học,
luận án, luận văn và các bài viết theo từng nội dung cụ thể.
Về các đề tài, hội thảo khoa học, Đề tài khoa học cấp Bộ về “Đổi mới quản lý
Ngành Tư pháp - một số vấn đề lý luận và thực tiễn” [93] do TS Nguyễn Ngọc Hiến
làm chủ nhiệm và bảo vệ năm 1996 đã đưa ra nhiều nội dung liên quan đến định
hướng phát triển tổ chức và hoạt động cho Ngành Tư pháp trên những nhóm nhiệm
vụ cơ bản của Ngành trong giai đoạn đến năm 2005 và sau năm 2005. Đề tài đề cập
nhiều nội dung đổi mới QLNN gắn với hoàn thiện pháp luật đối với hoạt động luật
sư, tư vấn pháp luật, GĐTP phù hợp với chủ trương xã hội hóa, kết hợp quản lý nhà
nước với vai trò tự quản của các tổ chức nghề nghiệp. Năm 2006, Đề án khoa học
của Bộ Tư pháp về Chiến lược xây dựng và phát triển ngành Tư pháp thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng đề cập đến vấn đề XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp,
tuy nhiên mô hình quản lý dịch vụ công mới chỉ được đề cập đến ở phần kiến nghị và
chưa gắn với các đề xuất cụ thể về nội dung, cách thức, phương pháp, phạm vi điều
chỉnh của pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp.
Đề tài khoa học “Hoàn thiện khung pháp luật về xã hội hóa cung ứng dịch vụ
công ở Việt Nam” do TS Nguyễn Văn Quang làm chủ nhiệm năm 2010 đã tập trung
nghiên cứu khía cạnh pháp lý của vấn đề xã hội hóa cung ứng dịch vụ công [72].
Một trong những kết quả nghiên cứu quan trọng của Đề tài là xác định khung pháp
luật về xã hội hóa cung ứng dịch vụ công bao gồm quy định về quản lý nhà nước
đối với việc XHHDVC và quy định điều chỉnh các hoạt động XHHDVC. Đề tài
nhấn mạnh quan điểm bảo đảm các dịch vụ công đều phải được điều chỉnh bằng
pháp luật, mọi chủ thể bình đẳng trong việc yêu cầu, sử dụng và thụ hưởng dịch vụ
công, bảo đảm cho mọi tổ chức, cá nhân có đủ điều kiện theo quy định của pháp
luật được tham gia cung ứng dịch vụ công và vai trò của nhà nước đối với việc cung
ứng dịch vụ công. Đề tài cũng đưa ra các phương thức pháp lý chuyển giao cung
ứng dịch vụ công trong quá trình XHHDVC thông qua việc thành lập và cho phép
hoạt động các đơn vị cung ứng dịch vụ công ngoài công lập, ký kết hợp đồng để
cung ứng dịch vụ công. Từ đó khẳng định hoàn thiện pháp luật về xã hội hóa cung
ứng dịch vụ công nhằm tạo ra môi trường pháp lý đồng bộ, hoàn chỉnh để điều
chỉnh hiệu quả hoạt động cung ứng dịch vụ công của mọi thành phần tham gia là
giải pháp quan trọng thúc đẩy xã hội hóa cung ứng dịch vụ công ở nước ta. Có thể
nói, với ý nghĩa là một trong những nghiên cứu tập trung vào vấn đề pháp luật về
XHHDVC ở Việt Nam, Đề tài đã cung cấp nhiều luận cứ quan trọng cho nghiên cứu
sinh khi nghiên cứu đề tài của mình, đặc biệt là những vấn đề lý luận chung và khung
pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp.
Đề tài khoa học cấp Bộ về “Mô hình quản lý dịch vụ công của Ngành Tư
pháp” do Ths Dương Bạch Long là chủ nhiệm đề tài năm 2014 [99]. Đề tài đã thực
hiện rà soát pháp luật hiện hành để nhận diện các dịch vụ công và tập trung nghiên
cứu dịch vụ hành chính công trong ngành Tư pháp. Đề tài xác định được mô hình
quản lý dịch vụ công trên cơ sở tiếp cận từ chủ thể quản lý dịch vụ hành chính công,
bao gồm mô hình quản lý một cấp, hai cấp, nhiều cấp và liên tịch quản lý. Đây là
các nội dung có giá trị tham khảo đối với nghiên cứu sinh khi xác định phạm vi và
nội dung pháp luật quy định về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp. Tuy nhiên, do
nghiên cứu về mô hình quản lý nên vấn đề pháp luật chỉ được đề cập từ khía cạnh là
nguyên nhân của những hạn chế trong quản lý các dịch vụ công và khi khuyến nghị
các giải pháp đổi mới mô hình quản lý dịch vụ công của ngành Tư pháp.
Về các hội thảo khoa học, chương trình nghiên cứu, trong năm 2006, Viện
Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp đã tổ chức Hội thảo khoa học cấp Bộ về Dịch vụ
công trong ngành Tư pháp. Hội thảo bước đầu đặt ra vấn đề về nhận diện các dịch
vụ công trong ngành Tư pháp. Kết quả của Hội thảo được biên tập và phát hành
dưới dạng số thông tin Khoa học pháp lý chuyên đề: “Nhận diện và một số giải
pháp nâng cao hiệu quả quản lý, chất lượng dịch vụ công trong ngành Tư pháp”
[92]. Với quan điểm dịch vụ công hiện diện trong hầu hết các lĩnh vực quản lý nhà
nước của Bộ và rất phong phú, đa dạng, Báo cáo kết quả hội thảo đề cập đến kết
quả xã hội hóa hoạt động công chứng, TGPL, THADS, giao dịch bảo đảm, đào tạo,
nghiên cứu khoa học pháp lý… Bên cạnh một số vấn đề đã được phân tích và đi đến
kết luận thì Hội thảo cũng thống nhất còn nhiều vấn đề vướng mắc liên quan đến
việc xác định loại hình dịch vụ công để phân định với hoạt động QLNN và tiếp tục
xác định các nội dung, giải pháp về xây dựng pháp luật về xã hội hóa hoạt động
THADS, nghiên cứu và đào tạo pháp luật.
Trung tâm nghiên cứu hỗ trợ phát triển cộng đồng, Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và Chương trình phát triển của Liên hợp quốc (UNDP) khảo sát, xây dựng và
công bố Báo cáo Chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh (PAPI) [43].
Báo cáo bao gồm những chỉ số đo lường đối với hoạt động công chứng, chứng thực
trên cơ sở pháp luật, thông qua các tiêu chí về thông tin rõ ràng về thủ tục cần làm;
phí được niêm yết công khai; công chức có trình độ nghiệp vụ; được đối xử hợp lý;
không có quá nhiều giấy tờ và được hẹn ngày trả kết quả rõ ràng; nhận được kết quả
như lịch hẹn; hài lòng với kết quả nhận được. Các tiêu chí này cho phép đánh giá
tương đối toàn diện về việc cung cấp dịch vụ công chứng, chứng thực - một trong
những dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp. Nhưng do kết quả khảo sát là ý kiến trực
tiếp của người dân về việc thực hiện và cung cấp dịch vụ nên không có những đánh
giá về mức độ hoàn thiện của pháp luật.
Cùng với chỉ số PAPI, trong giai đoạn từ năm 2012, Bộ Nội vụ tiến hành
đánh giá kết quả thực hiện cải cách hành chính ở các Bộ, ngành và Ủy ban nhân dân
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (cấp tỉnh) thông qua việc đánh giá và công
bố Chỉ số cải cách hành chính (Par index) trong Báo cáo kết quả xác định Par index
năm của Bộ Nội vụ [11]. Chỉ số cho phép đánh giá kết quả thực hiện cải cách hành
chính của các Bộ, ngành theo các nội dung bao gồm: điều hành cải cách hành chính;
xây dựng và tổ chức thực hiện thể chế thuộc phạm vi quản lý của Bộ; cải cách thủ
tục hành chính; cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước; xây dựng và nâng
cao chất lượng đội ngũ công chức, viên chức; đổi mới cơ chế tài chính đối với cơ
quan hành chính và đơn vị sự nghiệp; hiện đại hóa hành chính. Việc đo lường và
công bố Chỉ số cải cách hành chính cũng cho thấy mức độ hoàn thiện của pháp luật
về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp thông qua chỉ số đánh giá đối với các Bộ,
ngành có liên quan, trực tiếp là Bộ Tư pháp. Tuy nhiên, do đây là các chỉ số được
đánh giá chung nên khó rút ra được các nhận định, đánh giá về pháp luật XHHDVC
trong lĩnh vực tư pháp.
Về công trình nghiên cứu luận án tiến sĩ, tác giả Nguyễn Ngọc Bích trong
luận án “Hoàn thiện pháp luật về dịch vụ công trong lĩnh vực hành chính” [8] tiếp
cận dịch vụ công trong lĩnh vực hành chính với ý nghĩa là một bộ phận trong dịch
vụ công trên cơ sở phân biệt tính chất và tác dụng của dịch vụ công (khác với cách
phân biệt về hình thức dịch vụ cụ thể; chủ thể cung ứng dịch vụ công; chi phí của
người sử dụng) để thấy những đặc thù của dịch vụ công trong lĩnh vực hành chính.
Khác với các dịch vụ công khác, dịch vụ công trong lĩnh vực hành chính ra đời là
kết quả của quá trình chuyển đổi cách thức giải quyết yêu cầu của cá nhân, tổ chức,
gắn với tiến trình cải cách hành chính nhà nước và phù hợp với yêu cầu phát triển
kinh tế - xã hội trong nền kinh tế thị trường. Pháp luật về dịch vụ công trong lĩnh
vực hành chính thể hiện cam kết của nhà nước về bảo đảm cung cấp các dịch vụ
công cho công dân và là công cụ để quản lý nhà nước. Trong nghiên cứu của mình,
tác giả cũng đề cập đến các dịch vụ công chứng, TGPL và coi đây là các dịch vụ công
trong lĩnh vực hành chính và từ đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật để thực
hiện xã hội hóa đối với các dịch vụ này. Luận án có giá trị tham khảo về phương pháp
luận cho nghiên cứu sinh khi tiếp cận, nghiên cứu và kiến nghị giải pháp hoàn thiện
pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu về hoàn thiện pháp luật về xã hội hóa đối với
một số dịch vụ công cụ thể trong lĩnh vực tƣ pháp
Bên cạnh các nghiên cứu về dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp nói chung,
trong thời gian qua, nhiều nghiên cứu về xã hội hóa đối với một số dịch vụ công
trong từng lĩnh vực hoạt động cụ thể đã được thực hiện. Khái quát một số kết quả
nghiên cứu như sau:
* Trong lĩnh vực luật sư: Luật sư là một trong những chế định pháp luật liên
quan đến XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà
nghiên cứu, các cơ quan QLNN cũng như hoạt động thực tiễn. Đây có thể coi là một
trong những lĩnh vực điển hình trong nghiên cứu về xã hội hóa với hai xu hướng
nhu cầu chuyển giao từ nhà nước cho xã hội thực hiện với đội ngũ luật sư tư và nhu
cầu về sự tham gia trực tiếp của nhà nước trong cung cấp dịch vụ luật sư với việc
hình thành chế định luật sư công.
Trong sách “Một số vấn đề về luật sư và nghề luật sư” của TS Nguyễn Văn
Tuân [82], thông qua việc nghiên cứu, cung cấp thông tin về quá trình xây dựng,
hoàn thiện pháp luật luật sư, tác giả đã cho thấy một quá trình hình thành và phát
triển nghề luật sư ở Việt Nam trước năm 1945 và từ năm 1945 đến nay. Lịch sử
phát triển nghề luật sư cho thấy quá trình chuyển giao mạnh mẽ các công việc do
Nhà nước đang thực hiện cho xã hội thực hiện trên cơ sở hình thành một đội ngũ
luật sư hoạt động chuyên nghiệp, phát triển tổ chức xã hội nghề nghiệp của luật sư
theo hướng kết hợp giữa QLNN và tự quản của luật sư, chuyển giao nhiều công
việc quản lý hành nghề của luật sư sang cho tổ chức xã hội nghề nghiệp của luật sư.
Tác giả Nguyễn Văn Thảo trong Đề tài“Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc
hoàn thiện pháp luật về tổ chức luật sư và hành nghề luật sư trong điều kiện mới ở
Việt Nam” [90] khẳng định vai trò của luật sư trong đời sống xã hội và yêu cầu tạo
hành lang pháp lý thích hợp để chính quy hóa, chuyên nghiệp hóa nghề luật sư, tạo
điều kiện để nghề luật sư hội nhập khu vực và quốc tế. Công trình nghiên cứu này
có giá trị tham khảo cho nghiên cứu sinh khi đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật
đối với việc hành nghề và vai trò của các tổ chức xã hội nghề nghiệp trong quản lý
hành nghề khi thực hiện xã hội hóa, chuyển giao việc cung ứng dịch vụ công trong
lĩnh vực tư pháp cho các tổ chức ngoài Nhà nước thực hiện.
Cùng với quan điểm phải tiếp tục hoàn thiện pháp luật về luật sư và hành
nghề luật sư để tạo điều kiện cho sự phát triển của luật sư ở Việt Nam, tác giả Phan
Trung Hoài trong Luận án tiến sỹ với chủ đề “Cơ sở lý luận của việc hoàn thiện
pháp luật về luật sư ở Việt Nam hiện nay” [56] nhấn mạnh quan điểm cơ bản cho
việc hoàn thiện pháp luật luật sư đó là phải tạo được một môi trường pháp lý rộng
rãi cho tổ chức và hoạt động luật sư phát triển, đáp ứng ngày càng tăng nhu cầu tư
vấn pháp luật của nền kinh tế thị trường, phát huy dân chủ, bảo vệ công lý và công
bằng xã hội.
* Trong lĩnh vực công chứng: Tiếp sau lĩnh vực luật sư, xã hội hóa công
chứng là một trong những nội dung được quan tâm nghiên cứu trong tổng thể về
hoàn thiện pháp luật công chứng và được coi là một trong những định hướng, giải
pháp cho việc nâng cao chất lượng hoạt động công chứng. Kỷ yếu Hội thảo cấp Bộ
“Xã hội hóa hoạt động công chứng sau gần 5 năm triển khai Luật công chứng”[96]
bao gồm tập hợp các bài viết đánh giá pháp luật xã hội hóa công chứng theo Luật
công chứng cùng với thực tiễn triển khai tại một số địa phương. Hội thảo đề cập
những ưu điểm, hạn chế của pháp luật về xã hội hóa công chứng và khẳng định xã hội
hóa công chứng là chủ trương đúng đắn nhưng thể chế cho việc xã hội hóa hoạt động
công chứng trong Luật công chứng còn khá hạn chế. Để xã hội hóa đạt hiệu quả hơn,
Hội thảo đề nghị cần có nghiên cứu về mức độ xã hội hóa phù hợp tại từng vùng, miền
gắn với nâng cao chất lượng cung ứng dịch vụ công chứng của các cơ sở công lập trên
quan điểm lưu ý cần tránh tình trạng biến tướng từ xã hội hóa thành tư nhân hóa.
Luận án thạc sỹ luật học “Xã hội hóa công chứng ở Việt Nam hiện nay” [55]
của tác giả Nguyễn Phương Hoa đã nghiên cứu toàn diện về vấn đề xã hội hóa công
chứng, trong đó tác giả cũng khẳng định hoàn thiện pháp luật về xã hội hóa công
chứng là một giải pháp cho việc thực hiện xã hội hóa công chứng.
Trong bài viết“Yêu cầu và thách thức của xã hội hóa công chứng” [69], tác
giả Võ Đình Nho lưu ý công chứng là hoạt động vừa mang tính hành chính nhà
nước và vừa mang tính chất dịch vụ công nên việc xã hội hóa đặt ra nhiều vấn đề
cần giải quyết nhưng đó là xu thế tất yếu. Nêu lên một đặc thù khác trong xã hội
hóa công chứng, Ths Nguyễn Hoàng Anh trong bài “Xã hội hóa hoạt động công
chứng - Từ ý tưởng đến thực tiễn”[2] đã khẳng định xã hội hóa công chứng là một
bước đi tiên phong trong xã hội hóa các lĩnh vực hoạt động tư pháp pháp - xưa nay
vẫn được coi như lãnh địa riêng của công quyền. Tác giả nhấn mạnh quan điểm
không thể quan niệm việc xã hội hóa hoạt động công chứng đơn giản như các lĩnh
vực giáo dục, y tế vì đây là việc ủy quyền của nhà nước. Từ đó, tác giả đưa ra các
kiến nghị không nên tồn tại hai mô hình công chứng nhà nước và công chứng tư,
hoàn thiện pháp luật cho phép thành lập văn phòng công chứng.
* Trong lĩnh vực giám định tư pháp:
PGS.TS Nguyễn Tất Viễn trong sách “Đổi mới tổ chức, hoạt động giám định
tư pháp”[87], chuyên đề Đổi mới tổ chức và hoạt động giám định tư pháp trong
quá trình cải cách tư pháp trong sách Hệ thống tư pháp và cải cách tư pháp ở Việt
Nam [88] và chuyên đề “Giám định tư pháp” trong sách Cải cách tư pháp ở Việt
Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền [28]. Các công trình này đã
nghiên cứu về quá trình phát triển của hoạt động GĐTP, tổ chức GĐTP trong một
số lĩnh vực của Việt Nam từ năm 1945; nghiên cứu một số vấn đề lý luận, những
bất cập của hoạt động GĐTP và bước đầu đưa ra những kiến nghị khắc phục, trong
đó có kiến nghị nội dung thực hiện xã hội hóa và xây dựng khuôn khổ pháp lý cho
việc xã hội hóa hoạt động GĐTP.
Trong bối cảnh đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động GĐTP, Đề tài khoa học cấp
Bộ về “Xã hội hóa hoạt động giám định tư pháp đáp ứng yêu cầu cải cách tư
pháp” do TS Nguyễn Mạnh Đạt làm chủ nhiệm [97] hay Hội thảo khoa học cấp Bộ
về “Hoạt động giám định tư pháp ở Thành phố Đà Nẵng - Thực trạng và khả năng
xã hội hóa” do tác giả Võ Như Hoa làm chủ nhiệm [22]… đã đề cập trực tiếp đến
vấn đề xã hội hóa trong lĩnh vực GĐTP phục vụ cho việc nghiên cứu, xây dựng
Luật giám định tư pháp. Các đề tài này xác định quan điểm xã hội hóa hoạt động
giám định tư pháp là quá trình đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động GĐTP,
theo đó Nhà nước kết hợp việc tập trung đầu tư cho các tổ chức GĐTP ở các lĩnh
vực giám định có nhu cầu lớn và thường xuyên với việc huy động, thú hút các cá
nhân, tổ chức có đủ điều kiện tham gia theo quy định của pháp luật tham gia vào
hoạt động GĐTP ở các lĩnh vực không thành lập tổ chức GĐTP nhằm đáp ứng cho
hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và đáp ứng nhu cầu xã hội trong điều kiện kinh tế
thị trường. Từ đó Đề tài đưa ra đề xuất thí điểm thực hiện xã hội hóa, thành lập các
công ty thực hiện giám định tại Thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh. Có thể
nói, việc nghiên cứu xã hội hóa GĐTP được đề cập khá toàn diện trong các đề tài
này, trong đó có vấn đề về pháp luật. Các nghiên cứu có giá trị tham khảo, giúp cho
nghiên cứu sinh đưa ra các định hướng hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong
lĩnh vực tư pháp.
* Trong lĩnh vực thi hành án dân sự:
Đề tài khoa học “Xã hội hóa hoạt động thi hành án dân sự - một số vấn đề lý
luận và thực tiễn” cùng do tác giả Nguyễn Đức Chính làm chủ nhiệm [89] và Đề tài
khoa học cấp Bộ về “Những cơ sở lý luận và thực tiễn về chế định Thừa phát lại”
cùng do tác giả Nguyễn Đức Chính làm chủ nhiệm [94] là những công trình nghiên
cứu của ngành Tư pháp về xã hội hóa hoạt động THADS thông qua việc hình thành
chế định thừa phát lại. Qua hai công trình này, tác giả nghiên cứu cơ sở lý luận và
thực tiễn cho việc xã hội hóa hoạt động THADS và từ đó đề xuất về chế định thừa
phát là hình thức của xã hội tham gia vào hoạt động THADS. Một điểm lưu ý chung
là nói đến THADS là nói đến sự thực thi quyền lực tư pháp của Nhà nước nhưng
trong hoạt động THADS, có những hoạt động không cần phải sử dụng quyền lực tư
pháp và đây là địa hạt để xã hội hóa nhằm giảm bớt khối lượng công việc đang quá
tải của các cơ quan THADS. Đặc biệt, xã hội hóa hoạt động THADS sẽ thể hiện đậm
nét hơn tính dân chủ, nhân dân của Nhà nước, phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế
thị trường với nguyên tắc coi trọng và đối xử bình đẳng giữa các thành phần kinh tế.
Đề tài khoa học cấp Bộ về “Luận cứ khoa học và thực tiễn của việc đổi mới
hoạt động thi hành án tại Việt Nam trong giai đoạn mới”[95] do TS Nguyễn Đình
Lộc làm chủ nhiệm đã đề cập đến giải pháp hoàn thiện pháp luật để thực hiện xã hội
hóa hoạt động thi hành án, bao gồm THADS và hình sự. Nội dung xã hội hóa được
thực hiện bằng cách giao một số hoạt động nghiệp vụ có tính hành chính, kỹ thuật
cho tổ chức, công dân thực hiện việc thi hành án dưới sự quản lý của Nhà nước. Đó là
việc giám sát người bị án treo, cải tạo không giam giữ, quản chế, tống đạt các loại
giấy tờ, quyết định liên quan đến thi hành án, xác minh tài sản... Mức độ xã hội hóa
tùy thuộc vào tính chất của từng loại án. Trong trường hợp xã hội hóa hoạt động thi
hành án hình sự thì cần thiết kế mô hình hợp tác, cộng tác hiệu quả giữa nhà nước và
xã hội để bảo đảm mục đích của hình phạt có tính răn đe, phòng ngừa.
Sau khi Quốc hội thông qua thí điểm thực hiện chế định Thừa phát lại năm
2011, số Chuyên đề về Thừa phát lại [74] đã tập hợp một loạt các bài viết nghiên
cứu về lý luận và thực tiễn thực hiện chế định Thừa phát lại. Trong “Quan điểm
khoa học, chính trị - pháp lý về Thừa phát lại trong tiến trình cải cách tư pháp, cải
cách hành chính ở Việt Nam” [71], TS Dương Thanh Mai tổng hợp những kết quả
nghiên cứu khoa học và chính trị, pháp lý liên quan đến chế định Thừa phát lại. Bài
viết đề cập đến quan điểm coi THADS có bản chất là một hoạt động nghề nghiệp
mang tính pháp lý hành chính, có những đặc trưng của một loại dịch vụ công có thể
xã hội hóa, chuyển công việc THADS (toàn bộ hay từng phần) đang do cơ quan
THADS nhà nước trực tiếp thực hiện sang cho các cá nhân, tổ chức phi nhà nước
thực hiện. Cũng trong số chuyên đề này, Ths Lê Xuân Hồng đã nêu lên những kết
quả và hạn chế trong thực hiện thí điểm thừa phát lại tại thành phố Hồ Chí Minh
trong bài viết “Từ nhu cầu xã hội, đến chủ trương và kết quả bước đầu của việc
thực hiện thí điểm thừa phát lại”[58]. Khi đề cập đến pháp luật về thừa phát lại, tác
giả cho rằng hoạt động thừa phát lại được điều chỉnh bởi các quy định pháp luật
thuộc nhiều lĩnh vực nhưng bản thân các quy định này lại chưa đầy đủ, không đồng
bộ và thiếu cụ thể. Luật thi hành án dân sự cũng như các luật tố tụng có liên quan
(như bộ luật tố tụng dân sự, luật tố tụng hành chính...) chưa có quy định cụ thể gắn
với hoạt động của Thừa phát lại như bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp, chi phí
tống đạt giấy tờ…và do đó đặt ra yêu cầu đối với việc hoàn thiện pháp luật để tạo
cơ sở pháp lý thực hiện xã hội hóa hoạt động THADS.
* Đối với lĩnh vực trợ giúp pháp lý:
TGPL là loại hình dịch vụ công rất đặc thù trong lĩnh vực tư pháp với việc
cung cấp các dịch vụ cho đối tượng được TGPL không thu phí. Từ đặc thù này,
Luận án tiến sỹ luật học của Tác giả Tạ Thị Minh Lý về “Điều chỉnh pháp luật về
trợ giúp pháp lý ở Việt Nam trong điều kiện đổi mới” [66]… đã đưa ra quan điểm
về vai trò nòng cốt của Nhà nước trong TGPL cùng với việc khuyến khích sự tham
gia của các chủ thể trong hoạt động TGPL. Đây cũng là quan điểm của tác giả Lê
Thị Phương Hoa trong “Xã hội hoá hoạt động trợ giúp pháp lý, nhìn từ góc độ xã
hội hoá dịch vụ công” [54].
Cùng với sự phát triển của điều kiện kinh tế - xã hội gắn với sư gia tăng khả
năng cung cấp dịch vụ TGPL cũng như yêu cầu ngày càng cao của các đối tượng
được TGPL, đặc biệt với sự thông qua Đề án đổi mới công tác trợ giúp pháp lý giai
đoạn 2015-2025 (ban hành kèm theo Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 1/6/2016 của
Thủ tướng Chính phủ), vấn đề xã hội hóa TGPL lại thu hút sự quan tâm nghiên cứu
về cách thức, nội dung và phạm vi xã hội hóa. Tham khảo loạt bài viết trên Cổng
thông tin điện tử của Bộ Tư pháp về TGPL như “Bàn về vai trò nòng cốt của nhà
nước trong hoạt động Trợ giúp pháp lý của Việt Nam hiện nay” của Ths Đào Dư
Long [64], “Kết quả 10 năm xây dựng và hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực trợ
giúp pháp lý (2005-2015) và định hướng, nhu cầu hoàn thiện pháp luật giai đoạn
2016-2020” [82] và “Một số bất cập của Luật Trợ giúp pháp lý trong so sánh kinh
nghiệm nước ngoài về trợ giúp pháp lý”[83] của Thanh Trịnh cho thấy bên cạnh
quan điểm tiếp tục khẳng định TGPL là trách nhiệm của Nhà nước và vai trò nòng
cốt của Nhà nước trong hoạt động TGPL thì các tác giả cũng thấy cần thiết phải có
sự điều chỉnh về vai trò nòng cốt của Nhà nước cho phù hợp. Thay vì trực tiếp thực
hiện các hoạt động TGPL như hiện nay, Nhà nước có thể đóng vai trò cung cấp
nguồn lực, điều phối, quản lý nguồn lực để bảo đảm sự công bằng trong tiếp cận và
chất lượng dịch vụ TGPL cung cấp cho người dân. Đồng thời, các tác giả cũng đề
cập đến định hướng hoàn thiện pháp luật theo hướng tăng cường sự tham gia của
luật sư trong hoạt động TGPL và cơ chế để các Trợ giúp viên TGPL hiện nay có vị
thế, vai trò ngang bằng với các luật sư, qua đó bảo đảm cung cấp các dịch vụ TGPL
có chất lượng đến người dân.
* Trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản
Liên quan đến chủ đề XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp, một số nghiên cứu
cũng đã được thực hiện đối với các hoạt động BĐGTS, chứng thực, phổ biến, giáo
dục pháp luật…Đề tài khoa học cấp Bộ “Hoàn thiện pháp luật về bán đấu giá tài
sản nhằm thúc đẩy thể chế nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt
Nam” do TS Võ Đình Toàn làm chủ nhiệm [25]. Đề tài đã đánh giá một cách toàn
diện, có hệ thống về pháp luật BĐGTS ở Việt Nam và đưa ra nhu cầu và định
hướng để hoàn thiện pháp luật BĐGTS ở Việt Nam nhằm thúc đẩy thể chế nền kinh
tế thị trường định hướng XHCN. Theo quan điểm của các tác giả thì hoạt động bán
BĐGTS lại bổ trợ rất thường xuyên cho hoạt động thi hành án và xử lý vi phạm
hành chính. Đề tài khẳng định quan điểm trong hoàn thiện pháp luật BĐGTS là vừa
phải bảo đảm sự quản lý có hiệu quả của Nhà nước và vừa đồng thời phải xã hội
hóa mạnh mẽ hoạt động BĐGTS. Mặc dù vậy, do đặt vấn đề chung trong hoàn thiện
pháp luật BĐGTS nên Đề tài chưa đi sâu làm rõ các nội dung xã hội hóa hoạt động
bán đấu giá trên cơ sở quan điểm mang tính nguyên tắc trong hoàn thiện pháp luật
BĐGTS nêu trên.
Trong bài viết “Xây dựng Luật đấu giá tài sản đáp ứng yêu cầu cải cách tư
pháp”, tác giả Đỗ Hoàng Yến đã nêu những bất cập, hạn chế của pháp luật hiện
hành về BĐGTS và đưa ra một số định hướng xây dựng Luật đấu giá tài sản [102].
Theo đó, bên cạnh bổ sung các quy định để tạo cơ sở pháp lý và củng cố hoạt động
của các doanh nghiệp BĐGTS thì Luật cũng cần bao gồm các quy định về việc
chuyển đổi mô hình hoạt động của Trung tâm dịch vụ BĐGTS trực thuộc Sở Tư
pháp các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nhằm thực hiện chủ trương xã hội
hóa và góp phần chuyên nghiệp hóa hoạt động nghề nghiệp đấu giá tài sản.
1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CỦA NƯỚC NGOÀI LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.2.1. Tình hình nghiên cứu của nƣớc ngoài về hoàn thiện pháp luật về
xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tƣ pháp nói chung
Năm 1998, Ngân hàng Thế giới công bố sách về Báo cáo về tình hình phát
triển kinh tế thế giới năm 1997 [111]. Báo cáo nghiên cứu một cách toàn diện về vai
trò của Nhà nước trong thế giới mới theo các khía cạnh thực hiện quyền lực nhà
nước cũng như trách nhiệm cung cấp các dịch vụ cần thiết cho xã hội của nhiều
quốc gia trên thế giới. Một phần lớn của Báo cáo tập trung bàn về Nhà nước, Nhà
nước nên làm gì, làm thế nào và có thể làm thế nào để đạt được kết quả tốt hơn
trong một thế giới đang thay đổi nhanh chóng. Báo cáo đưa ra các khuyến nghị để
cải cách các nhà nước trên thế giới, tập trung vào các hoạt động của Nhà nước sao
cho tương ứng với khả năng của mình. Nhiều Nhà nước tìm cách làm quá nhiều
việc dù họ chỉ có ít nguồn lực và khả năng. Điều tốt hơn là nên tập trung sức vào
các hoạt động cốt lõi có tầm quan trọng then chốt đối với phát triển, tăng cường các
thiết chế công cộng và điều đó sẽ nâng cao hiệu quả hoạt động của Nhà nước. Các
thông tin trong báo cáo giúp nghiên cứu sinh xác định những vấn đề lý luận về cung
cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp và nội dung hoàn thiện pháp luật liên quan
chuyển giao các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp cho khu vực ngoài nhà nước
thực hiện và chính sách bảo đảm công bằng trong tiếp cận các dịch vụ công này
trong điều kiện xã hội hóa.
Tác giả Clause Henry trong bài viết Dịch vụ công và sự cạnh tranh trong
lĩnh vực dịch vụ công ở Liên minh Châu Âu đăng trên International Advances
Economic Research Journal số tháng 8/1997 đã khẳng định tiếp cận dịch vụ công
được coi là quyền cơ bản của tất cả người dân. Do đó, nhằm đáp ứng yêu cầu của
dân chúng, một số dịch vụ công được cung cấp trên cơ sở ba nguyên tắc cơ bản là
bảo đảm tính liên tục, tính bình đẳng và tính toàn cầu (tính có thể thay đổi ở mỗi quốc
gia). Tất cả các quốc gia trong Liên minh Châu Âu phải tôn trọng những nguyên tắc
này. Tuy nhiên, pháp luật của Liên minh Châu Âu cũng không thể bảo đảm sự hưởng
thụ các dịch vụ như nhau của công dân các quốc gia thành viên. Liên minh khuyến
khích các quốc gia thành viên tiến hành thương lượng để hoàn thiện pháp luật trên cơ
sở hòa hợp các dịch vụ với nhau để nâng cao quyền hưởng thụ dịch vụ của dân
chúng. Các quốc gia có thể kết hợp với nhau để cung cấp dịch vụ không biên giới đến
dân cư ở những khu vực tiếp giáp biên giới.
Các tác giả Martine Lombard - giáo sư trường Đại học Tổng hợp Pantheon
Assas Paris II và Gilles Dumont giáo sư trường Đại học Luật và Kinh tế Limoges
trong cuốn Pháp luật hành chính của Cộng hòa Pháp [61] đã trình bày những kiến
thức cơ bản về dịch vụ công như khái niệm, các nguyên tắc, các yếu tố cấu thành,
mô hình cung cấp dịch vụ. Khái niệm dịch vụ công mà các tác giả đưa ra là sự kết
hợp giữa những yếu tố về mặt tổ chức thể hiện đây là những dịch vụ trực tiếp hoặc
gián tiếp do các cơ quan nhà nước thực hiện và những yếu tố nội dung thể hiện đây
là dịch vụ công bao giờ cũng nhằm phục vụ lợi ích chung”. Hai tác giả cũng nhấn
mạnh pháp luật về dịch vụ công vừa bao gồm các quy định của pháp luật hành
chính, vừa có các quy định của pháp luật dân sự và pháp luật thương mại, công
nghiệp. Đặc biệt các tác giả khẳng định có sự ảnh hưởng của pháp luật Liên minh
Châu Âu đến pháp luật của các quốc gia thành viên về dịch vụ công nhưng pháp
luật các quốc gia thành viên có những quy định độc lập về dịch vụ công phù hợp
với điều kiện, hoàn cảnh của từng nước. Lý do là tại mỗi quốc gia tính chất, đặc
điểm, phạm vi các dịch vụ công khác nhau, cùng với truyền thống xây dựng và tổ
chức thực hiện pháp luật khác nhau nên pháp luật dịch vụ công của mỗi quốc gia
phản ánh những điểm riêng biệt đó. Các luận điểm này giúp cho nghiên cứu sinh về
phương pháp luận trong việc đề xuất các hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong
lĩnh vực tư pháp gắn với điều kiện kinh tế - xã hội, chính trị đặc thù của Việt Nam.
Trong một nghiên cứu của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD),
chuyên đề “Quy định về dịch vụ công của các quốc gia OECD-Các vấn đề cần được
thảo luận” đã đề cập đến khung pháp luật về dịch vụ công của các nước OECD
[107], tập trung vào việc cung cấp các dịch vụ hạ tầng công cộng như nước, kiểm
soát chất thải, giao thông công cộng… Theo đó, khung pháp luật cung cấp dịch vụ
công bao gồm các nhóm quy định gia nhập thị trường, kiểm soát giá cả, quản lý
chất lượng dịch vụ công được cung cấp. Mục đích hoàn thiện khung pháp luật là
bảo đảm việc cung cấp các dịch vụ công một cách hiệu quả, tiết kiệm, an toàn và
đáp ứng đủ điều kiện trên nguyên tắc duy trì nguyên tắc cạnh tranh trong cung cấp
dịch vụ công. Nghiên cứu cũng nêu lên mô hình cơ quan quản lý dịch vụ công phải
bảo đảm được tính chuyên môn và độc lập trong quản lý. Mô hình bao gồm cơ quan
trung ương, cấp tỉnh hoặc các tổ chức phi chính phủ. Cơ quan trung ương sẽ có
trách nhiệm giám sát toàn bộ thị trường, giải quyết các vấn đề về giá cả và liên kết
giữa các doanh nghiệp chi phối. Các cơ quan cấp tỉnh hoặc các tổ chức phi chính phủ
sẽ kiểm soát việc cung cấp dịch vụ công, giải quyết các khiếu nại của khách hàng và hỗ
trợ cho điều phối quan hệ của các cộng đồng tại địa phương. Công trình đã gợi mở cho
nghiên cứu sinh những vấn đề liên quan đến định hướng hoàn thiện pháp luật về
XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp.
Cũng trong phạm vi của OECD, năm 2011, Báo cáo nghiên cứu về dịch vụ
công với chủ đề “Cùng nhau thực hiện các dịch vụ công tốt hơn - hợp tác đối tác
với xã hội và công dân” đặt lại vấn đề cung cấp dịch vụ công truyền thống trong
môi trường kinh tế - xã hội mới [108]. Nghiên cứu đưa ra giả thuyết thu hút sự tham
gia của các cá nhân và tổ chức xã hội với vai trò là một đối tác hợp tác với Chính
phủ trong thiết kế, sản xuất và cung cấp dịch vụ công, giúp nâng cao sự hài lòng của
người sử dụng và giảm giá thành. Báo cáo đề cập đến những thách thức, lưu ý trong
việc tạo cơ sở pháp lý để bảo đảm thành công trong việc liên kết hợp tác cung cấp
dịch vụ công giữa Chính phủ với công dân và các tổ chức xã hội. Cách thức cung
cấp dịch vụ mới thách thức các giá trị và thực tiễn đang tồn tại có hệ thống trong lĩnh
vực công, do vậy, cần phải chuẩn bị tốt cho các nhân viên trong khu vực công thực
hiện vai trò một cách chuyên nghiệp hơn, mang tính tư vấn, hỗ trợ, định hướng gắn
với các chi phí cho việc đào tạo và thay đổi cơ chế quản lý. Công trình có giá trị tham
khảo đối với nghiên cứu sinh trong việc đề xuất hoàn thiện pháp luật về chuyển giao
cung ứng dịch vụ công gắn với các bảo đảm dành cho các cơ quan nhà nước trong
việc quản lý và thích nghi với điều kiện mới.
Năm 2015, cuốn sách về “Dịch vụ công trong pháp luật của Liên minh Châu
Âu” do tác giả Wolf Sauter [110] thực hiện đã được công bố. Trong nghiên cứu của
mình, tác giả đã cung cấp toàn diện các quy định của pháp luật Liên minh Châu Âu
(EU), bao gồm luật và các án lệ về dịch vụ công. Điểm đáng lưu ý đó là tác giả đã
đi sâu phân tích các khái niệm liên quan đến dịch vụ công, phân biệt dịch vụ công
với các khái niệm tương tự khác như dịch vụ công ích, dịch vụ công cộng, dịch vụ
công phổ quát, nghĩa vụ cung cấp dịch vụ công phổ quát, dịch vụ phúc lợi…Cùng
với việc phân tích các khái niệm, tác giả đã cung cấp các quy định của pháp luật EU
về dịch vụ công, đặt dịch vụ công trong mối quan hệ giữa quyền công dân, vấn đề
cạnh tranh và trợ cấp của nhà nước để làm rõ các khía cạnh của dịch vụ công. Đây
là cuốn sách có nhiều thông tin cung cấp cho nghiên cứu sinh trong việc xác định
bản chất của dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp cũng như đưa ra các đề xuất hoàn
thiện pháp luật XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp, tập trung vào nhóm quy định về
điều chỉnh các hoạt động xã hội hóa cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp.
1.2.2. Tình hình nghiên cứu của nƣớc ngoài về hoàn thiện pháp luật về xã
hội hóa đối với một số dịch vụ công cụ thể trong lĩnh vực tƣ pháp
Tài liệu tham khảo về Thừa phát lại và Thi hành án được Nhà Pháp luật Việt
Pháp trích dịch từ cuốn “L’Huissier de Justice” do Hội đồng Thừa phát lại Pháp ấn
hành tháng 2/1994 tổng hợp giới thiệu về tổ chức và hoạt động thừa phát lại trong
THADS [68]. Thừa phát lại tại Pháp hành nghề tự do và có thể can thiệp vào quá
trình thi hành án nhân danh Nhà nước, theo sự ủy nhiệm của cơ quan quyền lực
công. Thừa phát lại do Chưởng ấn, Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm. Thừa phát lại
hoàn toàn độc lập với chính quyền về mặt thi hành án nhằm bảo đảm tính hiệu quả,
chịu trách nhiệm trước tòa án về những sai phạm chuyên môn và chịu trách nhiệm
trước các tổ chức chuyên môn của nghề hoặc trước Viện trưởng Viện Công tố bên
cạnh Tòa sơ thẩm quyền rộng về những sai phạm kỷ luật của mình. Thừa phát lại
quản lý hoạt động của mình giống như một chủ doanh nghiệp, có nhân viên riêng,
có thiết bị văn phòng riêng, sử dụng các thiết bị tin học thông tin tiên tiến. Thông
tin này có giá trị tham khảo đối với nghiên cứu sinh khi xác định xu hướng
XHHDVC đối với từng hoạt động cụ thể trong lĩnh vực tư pháp.
Theo bảng phân loại các lĩnh vực dịch vụ của WTO, “dịch vụ pháp lý” là một
phân ngành “dịch vụ nghề nghiệp” (Professional Services) thuộc lĩnh vực “dịch vụ
kinh doanh” (Bussiness Services). Theo Danh mục phân loại tạm thời các lĩnh vực
dịch vụ (PCPC) của Liên Hợp quốc kèm theo mã số cho từng lĩnh vực và phân
ngành dịch vụ cụ thể thì dịch vụ pháp lý có mã số 861 và được phân chia thành
nhiều tiểu phân ngành như: (a) dịch vụ tư vấn và đại diện liên quan đến pháp luật
hình sự (PCPC 86111); (b) dịch vụ tư vấn và đại diện trong tố tụng tư pháp liên
quan đến các lĩnh vực khác của pháp luật (PCPC 86119); (c) dịch vụ tư vấn và đại
diện trong các thủ tục hành chính, trọng tài (PCPC 86120); (d) dịch vụ lập và xác
nhận các giấy tờ pháp lý (PCPC 86130) và (e) các dịch vụ pháp lý khác (PCPC
8619)…[109].
Trong bài “Dịch vụ công và phạm vi của Hiệp định chung về thương mại
dịch vụ” [107], tác giả Markus Kajewski đã cung cấp khá toàn diện về quan điểm
của GATS về khái niệm, phạm vi dịch vụ công. Hiệp định chung về thương mại
dịch vụ (GATS) trong khuôn khổ của Tổ chức thương mại thế giới. Theo GATS,
khái niệm dịch vụ pháp lý theo nghĩa rộng bao gồm dịch vụ tư vấn pháp luật
(Advisory Services), dịch vụ đại diện (Representation Services) và tất cả các hoạt
động liên quan đến tư pháp như xét xử, công tố, bào chữa công… Tuy nhiên, GATS
sử dụng khái niệm các dịch vụ được cung cấp trong phạm vi thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của Chính phủ, tức là các dịch vụ được cung cấp không dựa trên cơ sở
thương mại cũng như trong sự cạnh tranh với các nhà cung cấp các dịch vụ khác.
Việc sử dụng khái niệm dịch vụ được cung cấp trong phạm vi thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của Chính phủ có sự tương đồng nhất định với quan niệm về dịch vụ
công. Tác giả Markus Kajewski cho rằng quy định như vậy là rất mơ hồ và việc áp
dụng phụ thuộc nhiều vào điều kiện và hoàn cảnh của từng quốc gia thành viên.
Trong quá trình đưa ra các luận điểm làm rõ phạm vi về các dịch vụ, tác giả cũng đề
cập đến dịch vụ pháp lý. Tác giả nêu ra quan điểm của Ban Thư ký WTO cho rằng
các dịch vụ hành chính pháp lý như thẩm phán, nhân viên toà án, công tố viên, luật
sư của nhà nước… được loại trừ khỏi phạm vi điều chỉnh của GATS vì nhiều quốc
gia coi đây là các dịch vụ được cung cấp trong phạm vi thực hiện quyền lực của nhà
nước. Tuy nhiên, khi xem xét đến các dịch vụ hành chính tư pháp khác như công
chứng - chứng thực thì Ban Thư ký WTO lại cho rằng không giống với thẩm phán,
thư ký tòa án, công tố viên là các công chức nhà nước thì công chứng viên thường
cung cấp dịch vụ của họ trong điều kiện thương mại và vì vậy công chứng thuộc
phạm vi điều chỉnh của GATS. Nghiên cứu đã giúp đưa ra những quan điểm của
GATS về thương mại dịch vụ, trong đó có các vấn đề dịch vụ công - khái niệm gắn
với dịch vụ để thực hiện thẩm quyền của Chính phủ. Đặc biệt, bước đầu tác giả
cũng đã có sự phân định về bản chất của các dịch vụ công trong lĩnh vực pháp luật.
Bài viết đã cung cấp cho nghiên cứu những luận cứ trong việc xác định phạm vi và
bản chất của các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp.
1.3. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU
1.3.1. Khái quát kết quả nghiên cứu liên quan đến đề tài
1.3.1.1. Về kết quả nghiên cứu trong nước
Tại Việt Nam, các công trình nghiên cứu cho thấy cách tiếp cận pháp luật về
XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp được thực hiện theo nhiều góc độ và phạm vi
khác nhau, bao gồm các nghiên cứu chuyên sâu, sách, bài viết, luận án, luận văn, đề
tài khoa học. Sự phong phú của các công trình nghiên cứu cho thấy yêu cầu của việc
nghiên cứu, làm rõ các nội dung cũng như định hướng hoàn thiện pháp luật về
XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp. Tham khảo một số công trình nghiên cứu trong
nước nêu trên có thể đưa ra một số nhận xét cơ bản sau:
Thứ nhất, nghiên cứu về pháp luật XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp được
thực hiện và đẩy mạnh thực hiện kể từ sau năm 2002 theo yêu cầu nhiệm vụ chiến
lược cải cách tư pháp của Nghị quyết số 08-NQ/TW và Nghị quyết số 49-NQ/TW.
Các công trình nghiên cứu đã làm sáng tỏ định hướng thực hiện xã hội hóa đối với
nhiều dịch vụ công cụ thể trong lĩnh vực tư pháp trong quá trình hoàn thiện pháp luật
đối với từng lĩnh vực. Những kết quả trong từng lĩnh vực cụ thể giúp cho việc khái
quát và xây dựng những vấn đề cơ bản về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp.
Thứ hai, nhóm các nghiên cứu liên quan đến pháp luật về XHHDVC trong
lĩnh vực tư pháp tuy chưa tập trung nghiên cứu vấn đề pháp luật nhưng đã đề cập
được nhiều khía cạnh xác định dịch vụ công và XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp
cũng như định hướng tiếp tục thực hiện XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp. Những
kết quả nghiên cứu thu được có ý nghĩa tạo ra sự thống nhất nhận thức về dịch vụ
công cũng như xác định định hướng XHHDVC trên nguyên tắc vừa đẩy mạnh
XHHDVC, vừa gắn với việc nâng cao chất lượng và hiệu quả cung ứng dịch vụ
công. Đây là những nội dung có giá trị tham khảo gợi mở cho nghiên cứu sinh khi
đưa ra các đề xuất hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp trong
luận án của mình.
Thứ ba, nhóm các nghiên cứu pháp luật về xã hội hóa đối với một số dịch vụ
công trong lĩnh vực tư pháp đã được thực hiện có hệ thống, đề cập một cách toàn
diện về việc thực hiện xã hội hóa dịch vụ công đó, bao gồm yêu cầu hoàn thiện
pháp luật. Tuy được thực hiện trong từng lĩnh vực cụ thể, nhưng những kết quả
nghiên cứu này có ý nghĩa quan trọng giúp cho nghiên cứu sinh trong việc khái quát
hóa các quan điểm, định hướng hoàn thiện pháp luật và đề xuất nội dung pháp luật
cần tiếp tục được hoàn thiện cho từng lĩnh vực cụ thể.
1.3.1.2.Về kết quả nghiên cứu của nước ngoài
Trên thế giới, các nghiên cứu về dịch vụ công, pháp luật về dịch vụ công và
XHHDVC cũng đã được thực hiện. Đánh giá chung cho thấy có những khó khăn
nhất định trong việc tìm hiểu, tiếp cận các thông tin trực tiếp liên quan đến xã hội
hóa một lĩnh vực hay công việc do XHHDVC là khái niệm mang tính chất khá đặc
thù của Việt Nam nhưng qua các kết quả nghiên cứu cũng thu thập được các thông
tin có giá trị tham khảo cơ bản như sau:
Một là, dịch vụ công là một khái niệm được sử dụng khá phổ biến trong các
nghiên cứu của nước ngoài nhưng cách hiểu, đặc biệt là việc xác định các dịch vụ
công cụ thể lại rất khác nhau trong các trường hợp khác nhau. Nhìn chung, quan
điểm về dịch vụ công là một khái niệm phụ thuộc nhiều vào điều kiện kinh tế - xã
hội của các quốc gia, trong đó có trình độ phát triển kinh tế - xã hội. Khái niệm dịch
vụ công là một khái niệm mở và do vậy đang được tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện
trong bối cảnh mới.
Hai là, cách tiếp cận với thuật ngữ “xã hội hóa” [socialization] trên thế giới
có sự khác biệt nhất định với quan niệm phổ biến về XHHDVC ở Việt Nam. Trong
thế giới hiện đại, vai trò của Nhà nước đang có sự thay đổi và đang đứng trước
những yêu cầu, thách thức mới. Việc thay đổi này có liên hệ mật thiết với vấn đề
dịch vụ công với ý nghĩa là những trách nhiệm xã hội của Nhà nước. Đây là lý do
khi các nghiên cứu hướng đến những biện pháp, cách thức để có thể giúp cho Nhà
nước vượt qua những yêu cầu, thách thức mới, hoàn thành trách nhiệm của mình
với xã hội. Các nghiên cứu được thực hiện trên nhiều khía cạnh, nhiều định hướng,
trong đó có sự tăng cường hợp tác giữa Nhà nước với công dân và xã hội. Mặc dù
không sử dụng thuật ngữ “xã hội hóa dịch vụ công” nhưng việc chuyển giao nói
trên có sự tương đồng với khái niệm XHHDVC đang được thực hiện ở Việt Nam từ
khía cạnh về sự tham gia của Nhà nước và xã hội trong cung cấp dịch vụ công. Điều
này cho thấy việc thực hiện XHHDVC như ở Việt Nam phù hợp với xu hướng của
thế giới và phát triển trong một xã hội hiện đại.
Ba là, pháp luật về xã hội hóa các hoạt động cụ thể trong lĩnh vực tư pháp ở
các nước khác nhau phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội, pháp luật,
trong đó có phụ thuộc vào trường phái pháp luật của mỗi nước. Vì vậy, cách giải
quyết vấn đề pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp ở các nước cũng có
những sự khác biệt nhất định so với Việt Nam.
Từ những công trình nghiên cứu trong nước và thế giới đã được tham khảo
có thể rút ra một số nhận xét phục vụ cho việc đánh giá tình hình nghiên cứu có liên
quan tới đề tài như sau:
Trên cả bình diện quốc tế và Việt Nam, chưa có công trình khoa học nào đi
sâu nghiên cứu toàn diện, có hệ thống về pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư
pháp. Các công trình nghiên cứu được thực hiện theo hai hướng chính, bao gồm
nghiên cứu chung về XHHDVC ở phạm vi rộng, liên quan đến những vấn đề lý
luận chung về nhà nước, pháp luật, vai trò của nhà nước và sự chuyển giao công
việc của nhà nước cho xã hội ở các nghiên cứu, các sách, đề tài, luận án, luận văn,
giáo trình, tài liệu bồi dưỡng; hoặc nghiên cứu ở phạm vi hẹp về các vấn đề cụ thể
liên quan tới xã hội hóa đối với từng loại dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp trong
các bài viết, đề tài nghiên cứu khoa học, báo cáo, tham luận, luận văn.
Tuy nhiên, dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp trong thời gian qua được
nghiên cứu phục vụ cho các yêu cầu xây dựng pháp luật hay QLNN, cải cách tư
pháp nói chung mà ít được quan tâm tiếp cận dưới góc độ cụ thể về dịch vụ công và
XHHDVC. Các nghiên cứu tập trung vào từng lĩnh vực mà chưa có các nghiên cứu
tổng thể, khái quát để chỉ ra những đặc điểm chung từ đó có định hướng cho việc
hoàn thiện pháp luật mang tính dài hạn, chiến lược, được xem xét trong tổng thể
chung về vai trò của Nhà nước và XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp. Nhiều vấn đề
lý luận cơ bản cũng như thực trạng pháp luật chưa được nghiên cứu một cách khách
quan, toàn diện gắn với điều kiện, bối cảnh cụ thể ở Việt Nam nên chưa xác định
được những định hướng chung cho việc hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong
lĩnh vực tư pháp. Đặc biệt, ở cấp độ nghiên cứu luận án tiến sĩ, chưa có một công
trình nào nghiên cứu về hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp.
Do đó, đây là vấn đề cần thiết được nghiên cứu, đặc biệt là để tiếp tục thực hiện có
hiệu quả chủ trương XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp theo yêu cầu cải cách tư pháp,
đổi mới hoạt động của bộ máy nhà nước của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
1.3.2. Những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu
Trên cơ sở kế thừa kết quả của các công trình nghiên cứu đã thực hiện, trong
phạm vi nghiên cứu của mình, nghiên cứu sinh cần thiết phải tiếp tục làm sáng tỏ
các vấn đề lý luận và thực tiễn đối với việc hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong
lĩnh vực tư pháp nói chung (không đi vào từng lĩnh vực cụ thể). Cụ thể như sau:
Về lý luận, luận án cần tiếp tục làm sáng tỏ các vấn đề lý luận cho hoàn thiện
pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp, bao gồm:
- Khái niệm, đặc điểm, nội dung và vai trò của pháp luật về XHHDVC trong
lĩnh vực tư pháp.
- Xác định các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện của pháp luật và các yếu
tố ảnh hướng đến việc hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp ở
Việt Nam.
- Nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước về pháp luật về XHHDVC trong
lĩnh vực tư pháp và rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
Về thực tiễn, luận án cần phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về
XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp, bao gồm:
- Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về XHHDVC trong lĩnh
vực tư pháp.
- Đánh giá những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của ưu điểm, hạn chế
của pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp ở Việt Nam hiện nay.
- Xác định các quan điểm và giải pháp, nội dung hoàn thiện pháp luật về
XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp ở Việt Nam hiện nay phù hợp với định hướng của
Đảng và Nhà nước XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp theo yêu cầu cải cách hành
chính, cải cách pháp luật, cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN
Việt Nam.
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến Luận án đã được nghiên cứu, khảo sát
trên hai phương diện, bao gồm những công trình nghiên cứu ở Việt Nam và một số
công trình nghiên cứu trên thế giới có liên quan đến đề tài.
Đánh giá chung cho thấy ở trong nước, pháp luật XHHDVC trong lĩnh vực
tư pháp là vấn đề mới nhưng đã thu hút được sự quan tâm nghiên cứu ở các cấp độ
từ luận văn, luận án tiến sỹ đến các chuyên đề, bài báo... Mặc dù vậy, các kết quả
nghiên cứu mới chỉ dừng ở những vấn đề cơ bản hoặc tập trung vào những khía
cạnh, từng lĩnh vực hoạt động tư pháp cụ thể mà chưa có nghiên cứu chung về vấn
đề này làm cơ sở, định hướng cho việc hoàn thiện pháp luật cũng như đánh giá mức
độ hoàn thiện của pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp. Trên phương diện
quốc tế, vấn đề XHHDVC nói chung và XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp được đề
cập đến trong bối cảnh chuyển giao, huy động xã hội vào việc thực hiện dịch vụ
công gắn với vai trò, trách nhiệm xã hội của Nhà nước. Kết quả nghiên cứu pháp
luật XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp trên thế giới cho thấy có những quan điểm,
cách thức khác nhau trong việc xác định dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp và
phạm vi, cách thức xây dựng và hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực
tư pháp cũng có những điểm khác biệt, phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội, lịch
sử cụ thể của từng quốc gia.
2. Các kết quả nghiên cứu có giá trị tham khảo quan trọng để xác định nội dung
nghiên cứu, đánh giá thực trạng và định hướng kiến nghị các giải pháp hoàn thiện pháp
luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp trong Luận án.
3. Dựa trên kết quả khảo sát các công trình nghiên cứu, tác giả đã xác định
những vấn đề về lý luận và thực tiễn cần tiếp tục nghiên cứu nhằm đề xuất quan điểm
định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về XHHDVC ở Việt Nam hiện nay.
Chƣơng 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA
DỊCH VỤ CÔNG TRONG LĨNH VỰC TƢ PHÁP
2.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, NỘI DUNG PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA
DỊCH VỤ CÔNG TRONG LĨNH VỰC TƢ PHÁP
2.1.1. Khái niệm, đặc điểm và nội dung xã hội hóa dịch vụ công trong
lĩnh vực tƣ pháp
2.1.1.1. Khái quát chung về dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp
Có những quan niệm khác nhau về dịch vụ công nhưng khái quát chung thì
dịch vụ công được hiểu là những dịch vụ gắn với lợi ích chung, thiết yếu của đa số
nhân dân hay dịch vụ công gắn với trách nhiệm của Nhà nước đối với dân chúng [12,
tr.154]. Dịch vụ công ra đời và tồn tại xuất phát từ chức năng phục vụ của Nhà nước,
phù hợp với sự vận động của xã hội và nhu cầu thực tiễn về dịch vụ công trong xã hội
[72, tr.65]. Ví dụ hệ thống y tế công ở Anh phát triển rất mạnh nhưng trong khi đó ở
Mỹ thì dịch vụ này phần lớn lại được cung cấp bởi khu vực tư [106, tr.4]. Trong phạm
vi Khối cộng đồng chung Châu Âu (EU), dịch vụ công thường được dùng với ý nghĩa
dịch vụ được cung cấp cho công dân hay vì lợi ích chung theo những tiêu chuẩn và quy
định chung của Nhà nước và bởi các thiết chế thuộc sở hữu công. Dịch vụ công có thể
được hiểu bao gồm các dịch vụ công cộng như năng lượng, giao thông hay các dịch vụ
phúc lợi như y tế, giáo dục, hưu trí...[110, tr.2]. Tổ chức thương mại thế giới (WTO),
trong khuôn khổ của Hiệp định chung về dịch vụ (GATS) sử dụng khái niệm về dịch
vụ được cung cấp trong phạm vi thực hiện trách nhiệm của Chính phủ, tức là các dịch
vụ được cung cấp không dựa trên cơ sở thương mại cũng như trong sự cạnh tranh với
các nhà cung cấp dịch vụ khác [104, tr.6]. Khái niệm dịch vụ được cung cấp trong
phạm vi thực hiện trách nhiệm của Chính phủ có sự tương đồng nhất định với quan
niệm về dịch vụ công.
Có thể thấy, việc xác định dịch vụ công phụ thuộc vào mỗi quốc gia và mỗi
giai đoạn khác nhau. Phạm vi dịch vụ công có thể rất rộng, bao gồm tất cả các hoạt
động nhằm thực hiện chức năng vốn có của Chính phủ. Theo phạm vi hẹp hơn, dịch
vụ công bao gồm những hàng hóa, dịch vụ trực tiếp phục vụ nhu cầu của nhân dân
mà Chính phủ can thiệp vào việc cung cấp. Trong điều kiện nước ta hiện nay, khái
niệm dịch vụ công thường được hiểu theo nghĩa hẹp, xuất phát từ nhu cầu tách biệt
giữa chức năng quản lý và chức năng phục vụ của Nhà nước, cũng như xu hướng ngày
càng chú trọng đến vai trò xã hội của Nhà nước trong việc bảo đảm các lợi ích thiết yếu
của xã hội, các quyền, nghĩa vụ cơ bản của tổ chức và công dân [12, tr.155-156].
Với nhận thức và cách xác định phạm vi dịch vụ công khác nhau thì các loại
hình dịch vụ công được tổ chức thực hiện trên thực tế khá đa dạng. Dịch vụ công
trong lĩnh vực tư pháp là một loại hình dịch vụ công được xác định trên cơ sở phân
loại theo hình thức, nội dung dịch vụ cụ thể.
Tiếng Anh sử dụng cụm từ “justice” để chỉ tư pháp, công lý, là một trong ba
nhánh quyền lực để tổ chức và duy trì trật tự xã hội, xuất phát từ lý thuyết về sự phân
chia quyền lực, được khởi xướng bởi các nhà triết học xưa, phát triển qua thời kỳ La
Mã cổ đại và được Montesquieu phát triển toàn diện thành học thuyết tam quyền
phân lập thể hiện trong tác phẩm Tinh thần pháp luật [45]. Quyền tư pháp theo quan
niệm của Montesquieu là quyền trừng trị tội phạm, phân xử tranh chấp cá nhân hay
nói cách khác quyền tư pháp chính là quyền xét xử tranh chấp giữa các chủ thể pháp
lý trong xã hội. Thông qua việc thực hiện quyền tư pháp, pháp luật được áp dụng, tôn
trọng và chấp hành bởi các tổ chức, cá nhân trong xã hội. Theo định nghĩa của cuốn
từ điển nổi tiếng thế giới (Black’s Law Dictionary), quyền tư pháp (judicial power) là
“thẩm quyền được trao cho tòa án và các thẩm phán xem xét và quyết định các vụ
việc và đưa ra phán quyết có giá trị bắt buộc thi hành đối với các vụ việc ấy; quyền
giải thích và áp dụng pháp luật khi có tranh cãi phát sinh từ việc một điều gì đó có
phù hợp hay không phù hợp với pháp luật điều chỉnh việc ấy”[26, tr.2].
Ở Việt Nam, “tư pháp” được tiếp cận theo những quan điểm khác nhau về
phạm vi. Tư pháp có thể được hiểu là một lĩnh vực quyền lực nhà nước được thực
hiện thông qua hoạt động phân xử và phán xét tính đúng đắn, tính hợp pháp của các
hành vi, các quyết định pháp luật khi có sự tranh chấp về các quyền và lợi ích giữa
các chủ thể [35, tr.11], qua đó, bảo vệ pháp luật, công lý, tự do của công dân và trật tự
an toàn xã hội. Quan điểm về tư pháp này của các nhà nghiên cứu Việt Nam có sự
tương đồng với các nhà nghiên cứu trên thế giới. Tư pháp gắn với quyền tư pháp hay
là quyền xét xử [72, tr.21].
Tư pháp cũng có thể được hiểu ở phạm vi rộng hơn là hoạt động bảo vệ pháp
luật, trong đó hoạt động xét xử của Tòa án là trung tâm. Hoạt động tư pháp không chỉ
là các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án mà còn là các hoạt động luật sư,
công chứng, giám định, đấu giá, thống kê tư pháp. Tương ứng với đó, các cơ quan tư
pháp bao gồm Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan điều tra, cơ quan thi
hành án dân sự, đồng thời còn bao gồm các cơ quan tư pháp trong hệ thống hành
pháp, cụ thể là Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp và ở cấp xã đó là các công
chức Tư pháp - Hộ tịch [45]. Cách tiếp cận tư pháp phạm vi rộng này được thể hiện
trong các Nghị quyết về cải cách tư pháp và thông qua cách thức tổ chức bộ máy nhà
nước cùng với các hoạt động thực thi quyền lực nhà nước. Nghị quyết số 08-NQ/TW
ngày 02/1/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp
trong thời gian tới đã tiếp cận “tư pháp” và “công tác tư pháp” với phạm vi từ điều
tra, truy tố, xét xử đến thi hành án (bao gồm cả thi hành án hình sự và dân sự). Nghị
quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp
đến năm 2020 tiếp tục chỉ ra hệ thống cơ quan tư pháp với trọng tâm là Tòa án nhân
dân thực hiện quyền xét xử. Viện Kiểm sát nhân dân thực hiện quyền công tố và kiểm
sát hoạt động tư pháp; các cơ quan điều tra thực hiện nhiệm vụ điều tra trong tố tụng
hình sự và các cơ quan thi hành án dân sự. Ngoài những hoạt động tư pháp nói trên,
Nghị quyết số 08-NQ/TW đề cập đến hoạt động luật sư, cảnh sát tư pháp, công
chứng, giám định, thống kê tư pháp với tư cách là các hoạt động bổ trợ tư pháp. Nghị
quyết số 49-NQ/TW xác định nhiệm vụ hoàn thiện các chế định bổ trợ tư pháp như
một hoạt động quan trọng trong công tác tư pháp và hoàn thiện các chế định bổ trợ tư
pháp là một khâu quan trọng trong cải cách tư pháp. So với Nghị quyết số 08-
NQ/TW, Nghị quyết số 49-NQ/TW bổ sung thêm hoạt động thừa phát lại cũng là một
trong những chế định trong thực hiện xã hội hóa. Như vậy, mặc dù có những quan
niệm, phạm vi tiếp cận khác nhau nhưng xuất phát từ quan điểm, định hướng và thực
tiễn thực hiện cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay thì tư pháp không chỉ bao gồm
hoạt động xét xử mà còn bao gồm các hoạt động hỗ trợ cho xét xử nhằm tổ chức thực
hiện và bảo vệ pháp luật, duy trì công lý, lẽ phải, công bằng trong xã hội.
Cũng như các lĩnh vực khác trong đời sống xã hội, lĩnh vực tư pháp cũng bao
gồm dịch vụ công phục vụ cho nhu cầu cơ bản, thiết yếu của người dân, gắn với trách
nhiệm của Nhà nước trước công dân, vì lợi ích chung của xã hội. Những hoạt động
này không trực tiếp sử dụng quyền lực nhà nước - quyền tư pháp, do vậy có thể do
các cơ quan Nhà nước thực hiện hoặc ủy quyền cho các tổ chức, cá nhân trong xã hội
thực hiện theo các nguyên tắc, tiêu chuẩn được pháp luật quy định nhằm mục đích
đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người dân trong sử dụng dịch vụ để bảo vệ quyền và lợi
ích của mình. Dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp cũng mang đặc điểm cơ bản của
dịch vụ công nói chung như tính chất xã hội, việc cung ứng dịch vụ công không
thông qua quan hệ thị trường đầy đủ, Nhà nước chịu trách nhiệm trước xã hội, bảo
đảm tính công bằng, hiệu quả trong cung cấp dịch vụ công... Đồng thời, dịch vụ công
trong lĩnh vực tư pháp cũng có những đặc điểm riêng gắn với hoạt động xét xử, thực
hiện và bảo vệ pháp luật. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp là các dịch vụ phục vụ các nhu
cầu cơ bản, thiết yếu của người dân mà các nhu cầu, cơ bản thiết yếu này là cơ sở cho
việc bảo đảm thực hiện các quyền và lợi ích chính đáng của công dân. Thông qua
việc sử dụng các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp, người dân có thể bảo vệ được
lợi ích của mình bằng các cơ chế phòng ngừa hoặc đưa ra yêu cầu để các cơ quan
Nhà nước thực hiện nghĩa vụ nhằm bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân được thực hiện trên thực tế.
Thứ hai, lợi ích chung của xã hội mà dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp
hướng đến là bảo vệ pháp luật, duy trì công bằng, công lý, lẽ phải trong xã hội.
Quyền tư pháp là một trong ba nhánh quyền lực cơ bản (quyền lập pháp, hành pháp
và tư pháp) cấu thành nên quyền lực nhà nước. Chức năng của quyền tư pháp là bảo
vệ pháp luật với phương thức đặc thù thực hiện chức năng này tài phán cùng với các
hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án và các hoạt động bổ trợ khác phục vụ
cho hoạt động xét xử [26, tr.3]. Các hoạt động này hướng đến nhu cầu của người dân
trong thực hiện pháp luật, bảo vệ cũng như phòng ngừa các vi phạm có thể ảnh hưởng
quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Việc mỗi người dân bảo vệ được quyền và lợi
ích chính đáng của mình không chỉ có ý nghĩa đối với cá nhân đó, mà còn tạo được
niềm tin chung của cộng đồng vào công lý, công bằng, tạo nên ý thức và hành động
ứng xử theo quy định của pháp luật, bảo đảm cho pháp luật được thực thi trên thực tế.
Thứ ba, chủ thể thực hiện dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp là các cơ quan tư
pháp được tiếp cận theo phạm vi rộng, không chỉ trực tiếp là tòa án, viện kiểm sát, cơ
quan, tổ chức thuộc hệ thống hành pháp (như cơ quan điều tra, thi hành án của ngành
công an; cơ quan thi hành án, cơ quan tư pháp của ngành tư pháp) mà còn bao gồm các
tổ chức nghề nghiệp nằm ngoài quyền lực nhà nước được Nhà nước ủy quyền hoặc cho
phép thực hiện các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp như các tổ chức hành nghề của
luật sư, công chứng viên, giám định tư pháp, thừa phát lại. Nghị quyết số 49-NQ/TW
gọi đây là các thiết chế bổ trợ tư pháp. Các thiết chế bổ trợ tư pháp này có thể được vận
hành bởi các tổ chức, cá nhân khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện do pháp luật đặt ra.
Thứ tư, việc thực hiện các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp không chỉ phải
tuân thủ các quy trình, tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ chuyên ngành mà còn phải
bảo đảm phù hợp với các nguyên tắc, quy định tố tụng, thực hiện quyền tư pháp. Dịch
vụ công bắt nguồn từ chức năng phục vụ của Nhà nước, gắn với trách nhiệm của Nhà
nước nên việc cung ứng các dịch vụ công dù do chủ thể nào thực hiện thì cần phải
bảo đảm chất lượng theo những tiêu chuẩn nhất định với các quy trình, cách thức, tiêu
chí thực hiện dịch vụ công [74, tr.22]. Các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp được
thực hiện gắn với quyền tư pháp mà trung tâm là hoạt động xét xử, đưa ra phán quyết
của Tòa án. Quy trình ra phán quyết của tòa án khá đặc biệt so với các quá trình ra
quyết định của các cơ quan lập pháp hoặc các cơ quan hành pháp. Trong quá trình tố
tụng tư pháp, chất lượng quyết định của các tòa án không chỉ phụ thuộc vào năng lực
chuyên môn của người ra quyết định (thẩm phán, hội thẩm) mà còn phụ thuộc vào
chất lượng thông tin và năng lực của các bên tham gia tố tụng với các chức năng tố
tụng khác nhau có các quyền và nghĩa vụ khác nhau, thậm chí là đối ngược nhau. Nói
cách khác, các bên tham gia không chỉ là đối tượng bị áp đặt bởi các quyết định của
Tòa án mà bản thân họ cũng là những người tham gia vào quá trình ra quyết định của
tòa án, thông qua việc cung cấp, kiểm tra chéo các thông tin, chứng cứ về tình tiết đã
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT

More Related Content

What's hot

What's hot (20)

Luận văn: Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên tỉnh Quảng Ngãi
Luận văn: Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên tỉnh Quảng NgãiLuận văn: Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên tỉnh Quảng Ngãi
Luận văn: Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên tỉnh Quảng Ngãi
 
Luận văn: Pháp luật quốc tế, Việt Nam về trợ giúp pháp lí, HAY
Luận văn: Pháp luật quốc tế, Việt Nam về trợ giúp pháp lí, HAYLuận văn: Pháp luật quốc tế, Việt Nam về trợ giúp pháp lí, HAY
Luận văn: Pháp luật quốc tế, Việt Nam về trợ giúp pháp lí, HAY
 
Luận văn: Cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở địa phương, HOT
Luận văn: Cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở địa phương, HOTLuận văn: Cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở địa phương, HOT
Luận văn: Cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở địa phương, HOT
 
Báo cáo thực tập ủy ban nhân dân huyện Như Xuân - TẢI FREE ZALO: 0934 573 149
Báo cáo thực tập ủy ban nhân dân huyện Như Xuân - TẢI FREE ZALO: 0934 573 149Báo cáo thực tập ủy ban nhân dân huyện Như Xuân - TẢI FREE ZALO: 0934 573 149
Báo cáo thực tập ủy ban nhân dân huyện Như Xuân - TẢI FREE ZALO: 0934 573 149
 
Luận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOT
Luận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOTLuận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOT
Luận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOT
 
Luận văn: Hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Chế tài Hủy hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, 9đ
Luận văn: Chế tài Hủy hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, 9đLuận văn: Chế tài Hủy hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, 9đ
Luận văn: Chế tài Hủy hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, 9đ
 
Luận văn: Xây dựng ban hành văn bản quy phạm pháp luật, HOT
Luận văn: Xây dựng ban hành văn bản quy phạm pháp luật, HOTLuận văn: Xây dựng ban hành văn bản quy phạm pháp luật, HOT
Luận văn: Xây dựng ban hành văn bản quy phạm pháp luật, HOT
 
Luận án: Quản lý về địa giới hành chính cấp huyện ở Việt Nam
Luận án: Quản lý về địa giới hành chính cấp huyện ở Việt NamLuận án: Quản lý về địa giới hành chính cấp huyện ở Việt Nam
Luận án: Quản lý về địa giới hành chính cấp huyện ở Việt Nam
 
Luận văn: Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước
Luận văn: Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nướcLuận văn: Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước
Luận văn: Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước
 
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân, HOT
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân, HOTLuận văn: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân, HOT
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân, HOT
 
Đề tài: Hiệu lực thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng, HOT
Đề tài: Hiệu lực thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng, HOTĐề tài: Hiệu lực thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng, HOT
Đề tài: Hiệu lực thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng, HOT
 
Luận văn: Đăng ký khai sinh theo pháp luật về hộ tịch hiện nay
Luận văn: Đăng ký khai sinh theo pháp luật về hộ tịch hiện nayLuận văn: Đăng ký khai sinh theo pháp luật về hộ tịch hiện nay
Luận văn: Đăng ký khai sinh theo pháp luật về hộ tịch hiện nay
 
Luận văn: Chế độ hưu trí trong Luật bảo hiểm xã hội, HAY
Luận văn: Chế độ hưu trí trong Luật bảo hiểm xã hội, HAYLuận văn: Chế độ hưu trí trong Luật bảo hiểm xã hội, HAY
Luận văn: Chế độ hưu trí trong Luật bảo hiểm xã hội, HAY
 
Luận văn: Bảo hiểm thất nghiệp theo pháp luật Việt Nam, HAY
Luận văn: Bảo hiểm thất nghiệp theo pháp luật Việt Nam, HAYLuận văn: Bảo hiểm thất nghiệp theo pháp luật Việt Nam, HAY
Luận văn: Bảo hiểm thất nghiệp theo pháp luật Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Quản lý hộ tịch - qua thực tiễn Hải Phòng, HAY
Luận văn: Quản lý hộ tịch - qua thực tiễn Hải Phòng, HAYLuận văn: Quản lý hộ tịch - qua thực tiễn Hải Phòng, HAY
Luận văn: Quản lý hộ tịch - qua thực tiễn Hải Phòng, HAY
 
Luận văn: Pháp luật về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Luận văn: Pháp luật về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đấtLuận văn: Pháp luật về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Luận văn: Pháp luật về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
 
Đề tài: Tòa án trong nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, HAY
Đề tài: Tòa án trong nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, HAYĐề tài: Tòa án trong nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, HAY
Đề tài: Tòa án trong nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, HAY
 
Hoàn thiện chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HOT
Hoàn thiện chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HOTHoàn thiện chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HOT
Hoàn thiện chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HOT
 
Báo cáo thực tập tại UBND huyện Yên Lập, tỉnh Phú Thọ
Báo cáo thực tập tại UBND huyện Yên Lập, tỉnh Phú ThọBáo cáo thực tập tại UBND huyện Yên Lập, tỉnh Phú Thọ
Báo cáo thực tập tại UBND huyện Yên Lập, tỉnh Phú Thọ
 

Similar to Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT

Xã hội hóa công chứng ở việt nam hiện nay, thực trạng và giải pháp luận văn ...
Xã hội hóa công chứng ở việt nam hiện nay, thực trạng và giải pháp  luận văn ...Xã hội hóa công chứng ở việt nam hiện nay, thực trạng và giải pháp  luận văn ...
Xã hội hóa công chứng ở việt nam hiện nay, thực trạng và giải pháp luận văn ...nataliej4
 
TS. BÙI QUANG XUÂN - PHÁP LUẬT TRONG HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC .docx
TS. BÙI QUANG XUÂN   -  PHÁP LUẬT TRONG HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC .docxTS. BÙI QUANG XUÂN   -  PHÁP LUẬT TRONG HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC .docx
TS. BÙI QUANG XUÂN - PHÁP LUẬT TRONG HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC .docxBùi Quang Xuân
 
Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của UBND tỉnh Bến Tre - Gửi miễn phí qua ...
Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của UBND tỉnh Bến Tre - Gửi miễn phí qua ...Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của UBND tỉnh Bến Tre - Gửi miễn phí qua ...
Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của UBND tỉnh Bến Tre - Gửi miễn phí qua ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

Similar to Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT (20)

Luận văn: Tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý tỉnh Ninh Thuận
Luận văn: Tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý tỉnh Ninh ThuậnLuận văn: Tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý tỉnh Ninh Thuận
Luận văn: Tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý tỉnh Ninh Thuận
 
Luận văn: Pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam hiêṇ nay, HOT
Luận văn: Pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam hiêṇ nay, HOTLuận văn: Pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam hiêṇ nay, HOT
Luận văn: Pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam hiêṇ nay, HOT
 
Luận văn: Trợ giúp pháp lý từ thực tiễn tỉnh Ninh Bình, HAY, 9đ
Luận văn: Trợ giúp pháp lý từ thực tiễn tỉnh Ninh Bình, HAY, 9đLuận văn: Trợ giúp pháp lý từ thực tiễn tỉnh Ninh Bình, HAY, 9đ
Luận văn: Trợ giúp pháp lý từ thực tiễn tỉnh Ninh Bình, HAY, 9đ
 
Xã hội hóa công chứng ở việt nam hiện nay, thực trạng và giải pháp luận văn ...
Xã hội hóa công chứng ở việt nam hiện nay, thực trạng và giải pháp  luận văn ...Xã hội hóa công chứng ở việt nam hiện nay, thực trạng và giải pháp  luận văn ...
Xã hội hóa công chứng ở việt nam hiện nay, thực trạng và giải pháp luận văn ...
 
Luận văn: Xã hội hóa công chứng từ thực tiễn tỉnh Ninh Bình, HAY
Luận văn: Xã hội hóa công chứng từ thực tiễn tỉnh Ninh Bình, HAYLuận văn: Xã hội hóa công chứng từ thực tiễn tỉnh Ninh Bình, HAY
Luận văn: Xã hội hóa công chứng từ thực tiễn tỉnh Ninh Bình, HAY
 
Luận văn: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp, HAY
Luận văn: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp, HAYLuận văn: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp, HAY
Luận văn: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp, HAY
 
Luận án: Hoạt động trợ giúp pháp lý theo pháp luật Việt Nam
Luận án: Hoạt động trợ giúp pháp lý theo pháp luật Việt NamLuận án: Hoạt động trợ giúp pháp lý theo pháp luật Việt Nam
Luận án: Hoạt động trợ giúp pháp lý theo pháp luật Việt Nam
 
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sựLuận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự
 
Pháp luật về dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính
Pháp luật về dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chínhPháp luật về dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính
Pháp luật về dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính
 
Pháp luật về dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính, HOT
Pháp luật về dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính, HOTPháp luật về dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính, HOT
Pháp luật về dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính, HOT
 
Hoạt động pháp chế của cơ quan chuyên môn Tỉnh Phú Yên, HAY
Hoạt động pháp chế của cơ quan chuyên môn Tỉnh Phú Yên, HAYHoạt động pháp chế của cơ quan chuyên môn Tỉnh Phú Yên, HAY
Hoạt động pháp chế của cơ quan chuyên môn Tỉnh Phú Yên, HAY
 
TS. BÙI QUANG XUÂN - PHÁP LUẬT TRONG HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC .docx
TS. BÙI QUANG XUÂN   -  PHÁP LUẬT TRONG HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC .docxTS. BÙI QUANG XUÂN   -  PHÁP LUẬT TRONG HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC .docx
TS. BÙI QUANG XUÂN - PHÁP LUẬT TRONG HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC .docx
 
Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của UBND tỉnh Bến Tre - Gửi miễn phí qua ...
Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của UBND tỉnh Bến Tre - Gửi miễn phí qua ...Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của UBND tỉnh Bến Tre - Gửi miễn phí qua ...
Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của UBND tỉnh Bến Tre - Gửi miễn phí qua ...
 
Luận văn: Văn hóa pháp luật trong các cơ quan hành chính Việt Nam
Luận văn: Văn hóa pháp luật trong các cơ quan hành chính Việt Nam Luận văn: Văn hóa pháp luật trong các cơ quan hành chính Việt Nam
Luận văn: Văn hóa pháp luật trong các cơ quan hành chính Việt Nam
 
Luận án: Văn hóa pháp luật trong các cơ quan hành chính, HAY
Luận án: Văn hóa pháp luật trong các cơ quan hành chính, HAYLuận án: Văn hóa pháp luật trong các cơ quan hành chính, HAY
Luận án: Văn hóa pháp luật trong các cơ quan hành chính, HAY
 
Đề tài: Đặc điểm của pháp luật trong nhà nước pháp quyền, HAY
Đề tài: Đặc điểm của pháp luật trong nhà nước pháp quyền, HAYĐề tài: Đặc điểm của pháp luật trong nhà nước pháp quyền, HAY
Đề tài: Đặc điểm của pháp luật trong nhà nước pháp quyền, HAY
 
Luận án: Hoàn thiện các quy định của Phần chung luật hình sự
Luận án: Hoàn thiện các quy định của Phần chung luật hình sựLuận án: Hoàn thiện các quy định của Phần chung luật hình sự
Luận án: Hoàn thiện các quy định của Phần chung luật hình sự
 
Luận văn: Các quy định của Phần chung luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Các quy định của Phần chung luật hình sự Việt Nam, HAYLuận văn: Các quy định của Phần chung luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Các quy định của Phần chung luật hình sự Việt Nam, HAY
 
Tổ chức và hoạt động của trung tâm trợ giúp pháp lý tỉnh Gia Lai
Tổ chức và hoạt động của trung tâm trợ giúp pháp lý tỉnh Gia LaiTổ chức và hoạt động của trung tâm trợ giúp pháp lý tỉnh Gia Lai
Tổ chức và hoạt động của trung tâm trợ giúp pháp lý tỉnh Gia Lai
 
Luận văn: Phổ biến, giáo dục pháp luật tại tỉnh Thanh Hoá, HAY
Luận văn: Phổ biến, giáo dục pháp luật tại tỉnh Thanh Hoá, HAYLuận văn: Phổ biến, giáo dục pháp luật tại tỉnh Thanh Hoá, HAY
Luận văn: Phổ biến, giáo dục pháp luật tại tỉnh Thanh Hoá, HAY
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfxemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfXem Số Mệnh
 
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfhoangtuansinh1
 
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.pptAccess: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.pptPhamThiThuThuy1
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdfTrnHoa46
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanmyvh40253
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docxbài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docxTrnHiYn5
 
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgsNmmeomeo
 
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfXem Số Mệnh
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...hoangtuansinh1
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfTrnHoa46
 
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiTrắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiNgocNguyen591215
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngYhoccongdong.com
 
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...ChuThNgnFEFPLHN
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 

Recently uploaded (20)

xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfxemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
 
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
 
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.pptAccess: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
 
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docxbài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
 
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
 
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
 
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiTrắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
 
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 

Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT

  • 1. HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH VỤ CÔNG TRONG LĨNH VỰC TƯ PHÁP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN ÁN TIẾN SỸ LUẬT HỌC Hà Nội - 2017
  • 2. HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH VỤ CÔNG TRONG LĨNH VỰC TƯ PHÁP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN ÁN TIẾN SỸ LUẬT HỌC Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử Nhà nước và Pháp luật Mã số : 62 38 01 01 Người hướng dẫn khoa học: TS. DƢƠNG THANH MAI PGS.TS. NGUYỄN THỊ BÁO Hà Nội - 2017
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng. Những kết luận khoa học của luận án chưa được ai công bố trong bất kỳ công trình nào. Tác giả Trần Thu Hƣờng
  • 4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ...............................................................................................................1 Chƣơng 1: TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU TRONG LUẬN ÁN...................................................................8 1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước có liên quan đến đề tài ...................................8 1.2. Tình hình nghiên cứu của nước ngoài có liên quan đến đề tài ..........................18 1.3. Khái quát kết quả nghiên cứu liên quan đến đề tài và những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu.....................................................................................23 Chƣơng 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH VỤ CÔNG TRONG LĨNH VỰC TƢ PHÁP.....................29 2.1. Khái niệm, đặc điểm, nội dung pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp ...............................................................................................29 2.2. Tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện và các yếu tố ảnh hưởng đến việc hoàn thiện pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp ở Việt Nam hiện nay............................................................................................53 2.3. Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp ở một số nước trên thế giới và giá trị tham khảo cho Việt Nam.....................................63 Chƣơng 3: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH VỤ CÔNG TRONG LĨNH VỰC TƢ PHÁP Ở VIỆT NAM....................................................................................................................................... 72 3.1. Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp ở Việt Nam .........................................................72 3.2. Thực trạng pháp luật xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp ở Việt Nam hiện nay............................................................................................78 Chƣơng 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH VỤ CÔNG TRONG LĨNH VỰC TƢ PHÁP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY........................................................................................................................113 4.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp ở Việt Nam hiện nay ........................................................................113 4.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp ở Việt Nam hiện nay .........................................................................120 KẾT LUẬN.......................................................................................................................148 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN................................................................................................................151 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................152
  • 5. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BĐGTS : Bán đấu giá tài sản GATS : Hiệp định thương mại dịch vụ GĐTP : Giám định tư pháp QLNN : Quản lý nhà nước QPPL : Quy phạm pháp luật TGPL : Trợ giúp pháp lý THADS : Thi hành án dân sự XHCN : Xã hội chủ nghĩa XHHDVC : Xã hội hóa dịch vụ công WTO : Tổ chức thương mại thế giới
  • 6. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Cung cấp dịch vụ công là một trong những chức năng cơ bản của Nhà nước nhằm đáp ứng nhu cầu cơ bản, thiết yếu chung của người dân và cộng đồng, bảo đảm ổn định và công bằng xã hội. Hiện nay, xã hội hóa việc cung cấp dịch vụ công trở thành một xu hướng phổ biến của các nhà nước trong một thế giới đang chuyển đổi nhằm đa dạng hóa, tăng nguồn cung ứng và nâng cao chất lượng dịch vụ phục vụ nhu cầu, lợi ích chung của xã hội, cộng đồng và của người dân. Yêu cầu căn bản của quá trình XHHDVC là nhà nước trực tiếp thực hiện một số loại dịch vụ công quan trọng và thông qua các cơ chế cụ thể để dần chuyển giao việc cung ứng dịch vụ công này cho các chủ thể khác, đồng thời, chịu trách nhiệm kiểm soát chặt chẽ chất lượng của việc cung ứng các dịch vụ công này. Ở Việt Nam, XHHDVC là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta, được triển khai thực hiện trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội và là một trong những trọng tâm trong thực hiện cải cách hành chính, đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Trong những năm đầu của thời kỳ đổi mới, XHHDVC trước hết được thực hiện trong lĩnh vực y tế, chăm sóc sức khỏe của nhân dân (Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII), sau đó, được mở rộng đến các vấn đề chính sách xã hội (Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII). Đến nay, XHHDVC đã được triển khai trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, là một trong những trọng tâm trong thực hiện cải cách hành chính, đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011-2020 được Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI thông qua đã xác định quan điểm phát triển: “hoàn thiện thể chế để tháo gỡ mọi cản trở, tạo điều kiện thuận lợi để giải phóng và phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ; huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển” [42, tr.101]. Chương trình tổng thể cải cách nền hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020 ban hành kèm theo Nghị quyết số 30c/NQ-CP đặt ra nhiệm vụ: “Sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật về xã hội hóa theo hướng quy định rõ trách nhiệm của Nhà nước trong việc chăm lo đời
  • 7. sống vật chất và tinh thần của nhân dân; khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia cung ứng các dịch vụ trong môi trường cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh” [29, tr.2]. Trong lĩnh vực tư pháp, XHHDVC được xác định là nhiệm vụ chiến lược quan trọng trong thực hiện cải cách tư pháp, xây dựng và hoàn thiện pháp luật. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2006 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã chỉ rõ: “thực hiện xã hội hóa mạnh mẽ các hoạt động bổ trợ tư pháp”. Đồng thời, Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2006 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đến năm 2010, định hướng 2020 cũng xác định xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bổ trợ tư pháp (luật sư, công chứng, giám định, cảnh sát tư pháp...) theo hướng đáp ứng ngày càng đầy đủ, thuận lợi các nhu cầu đa dạng về hỗ trợ pháp lý của nhân dân, doanh nghiệp; thực hiện xã hội hóa mạnh mẽ các hoạt động bổ trợ tư pháp; kết hợp quản lý nhà nước với tự quản của các tổ chức xã hội nghề nghiệp. Thực hiện định hướng chiến lược cải cách pháp luật, cải cách tư pháp, các văn bản trong các lĩnh vực tư pháp như Luật luật sư, Luật công chứng, Luật thi hành án dân sự, Luật giám định tư pháp, Luật trợ giúp pháp lý, Luật phổ biến giáo dục pháp luật, Luật đấu giá tài sản... đang ngày càng khẳng định xu hướng XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp như xác định luật sư là một nghề, hoạt động chuyên nghiệp; hình thành Liên đoàn luật sư là tổ chức tự quản của luật sư trong toàn quốc; hệ thống Văn phòng công chứng được thành lập bên cạnh Phòng công chứng của Nhà nước; từng bước hình thành Hội công chứng thực hiện chức năng tự quản đối với những người hành nghề công chứng ở các địa phương; huy động các nguồn lực xã hội tham gia vào hoạt động TGPL; cho phép thành lập các tổ chức GĐTP ngoài công lập đối với các lĩnh vực về tài chính, xây dựng, di vật, cổ vật; chế định thừa phát lại đã được chính thức thực hiện trong phạm vi cả nước. Các văn bản này đã tạo cơ sở pháp lý cho việc XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp, góp phần vào việc nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam cũng như bảo đảm và phục vụ tốt hơn nhu cầu của người dân. Tuy nhiên, pháp luật về XHHDVC cũng đang cho thấy có những bất cập, hạn chế cần được nghiên cứu, hoàn thiện so với yêu cầu XHHDVC nói chung và trong
  • 8. bối cảnh thực hiện cải cách pháp luật, cải cách tư pháp. Quy định về thực hiện xã hội hóa được điều chỉnh trong các văn bản ở các cấp độ hiệu lực, ngành, lĩnh vực khác nhau dẫn đến có những mâu thuẫn, khoảng trống và khó khăn nhất định trong áp dụng. Pháp luật cũng chưa điều chỉnh đầy đủ, toàn diện các vấn đề phát sinh trong thực hiện xã hội hóa như bảo đảm tính xã hội, không vì mục đích lợi nhuận của việc cung cấp dịch vụ công, chưa có các cơ chế, chính sách khuyến khích phù hợp với đặc thù của các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp… Quy định về trách nhiệm của các chủ thể trong cung cấp dịch vụ công trong điều kiện xã hội hóa còn chưa đầy đủ, cụ thể, đặc biệt là trách nhiệm của Nhà nước trong bảo đảm chất lượng dịch vụ công nên thực tế triển khai có lúng túng và chưa đạt được kết quả như mong muốn. Việc tổng kết thực tiễn thi hành và nghiên cứu lý luận về pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp chưa được quan tâm thực hiện đúng mức nên dẫn đến những khó khăn, lúng túng, thiếu cơ sở khoa học cho việc hoạch định chính sách dài hạn và hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp. Pháp luật là nền tảng của Nhà nước pháp quyền và pháp luật trong Nhà nước phải bảo đảm quyền tự do, dân chủ, bảo đảm công bằng và công lý trong xã hội. Yêu cầu cơ bản của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là hoàn thiện hệ thống pháp luật. Trong quá trình XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp hiện nay, pháp luật phải tạo hành lang pháp lý ổn định, khả thi cho sự tham gia bình đẳng của các chủ thể trong xã hội trong cung cấp dịch vụ công có chất lượng, bảo đảm cho người dân ngày càng dễ dàng hơn trong tiếp cận và thụ hưởng dịch vụ công, cũng như góp phần hoàn thành các nhiệm vụ cải cách tư pháp, thực hiện và bảo vệ pháp luật. Pháp luật không phải chỉ thể hiện cam kết của Nhà nước trước xã hội về việc bảo đảm quyền, lợi ích của tổ chức, cá nhân khi tham gia cung cấp dịch vụ công mà còn thể hiện cam kết của Nhà nước trước người dân về việc cung cấp dịch vụ công có chất lượng dù trong bối cảnh Nhà nước không tham gia trực tiếp vào việc cung cấp dịch vụ công, gắn với các mục tiêu, nhiệm vụ cải cách pháp luật, cải cách tư pháp. Xuất phát từ những lý do nêu trên, nghiên cứu sinh chọn đề tài “Hoàn thiện pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp ở Việt Nam hiện nay” là đề tài nghiên cứu luận án tiến sỹ luật học nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý
  • 9. luận, thực tiễn trong hoàn thiện pháp luật và đưa ra những kiến nghị, đề xuất cho việc hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp ở Việt Nam hiện nay. 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích Mục đích nghiên cứu của luận án nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn, từ đó đề xuất quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp ở Việt Nam hiện nay đáp ứng yêu cầu thực hiện cải cách hành chính, cải cách tư pháp của Việt Nam. 2.2. Nhiệm vụ - Thực hiện tổng quan các vấn đề nghiên cứu có liên quan đến đề tài để chỉ ra những vấn đề luận án có thể kế thừa và xác định các vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu. - Phân tích khái niệm, đặc điểm, nội dung điều chỉnh của pháp luật và xác định các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện cũng như yếu tố ảnh hưởng đến việc hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp; đồng thời ở một mức độ nhất định, nghiên cứu pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp trên thế giới và chỉ ra những giá trị tham khảo đối với Việt Nam. - Nghiên cứu tổng quan quá trình phát triển của pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp, trọng tâm từ năm 2001 đến nay; phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp ở Việt Nam hiện nay để rút ra những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân. - Phân tích, đề xuất các quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp ở Việt Nam hiện nay theo yêu cầu cải cách hành chính, chiến lược hoàn thiện pháp luật, cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu: Dưới góc độ lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật, Luận án nghiên cứu những vấn đề lý luận, thực tiễn của pháp luật và hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp ở Việt Nam hiện nay.
  • 10. 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Về dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp, ở Việt Nam hiện nay, pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp được tiếp cận khá rộng, bao gồm nhiều hoạt động khác nhau, có thể là các hoạt động trực tiếp liên quan đến thực hiện quyền tư pháp (xét xử) nhưng cũng có thể là những hoạt động bổ trợ tư pháp và hành chính tư pháp. Trong phạm vi giới hạn của Luận án, với mục đích đóng góp các đề xuất cho việc hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp phù hợp yêu cầu cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, Luận án tập trung nghiên cứu và đề xuất các giải pháp đối với việc hoàn thiện pháp luật XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp được xác định theo Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 2/1/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. - Về thời gian, Luận án nghiên cứu về quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp và tập trung nghiên cứu, đánh giá về tình hình, kết quả hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong giai đoạn từ năm 2001 đến nay (là giai đoạn bắt đầu thực hiện các nhiệm vụ XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp theo Nghị quyết số 08-NQ/TW). 4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu Luận án sử dụng phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin, trong đó vận dụng linh hoạt, tổng hợp các phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử để thấy được tiến trình hình thành, phát triển của pháp luật XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp ở Việt Nam. Trong quá trình nghiên cứu, các phương pháp nghiên cứu khoa học đã được sử dụng phù hợp với yêu cầu nghiên cứu từng nội dung của luận án như phương pháp phân tích, tổng hợp; luật học so sánh; thống kê, khảo sát văn bản; phương pháp quy nạp, diễn dịch. Cụ thể như sau: - Chương 1: Sử dụng phương pháp tổng hợp, phân tích, hệ thống hóa các tài liệu, công trình nghiên cứu khoa học đã được công bố để làm rõ các nội dung, kết
  • 11. quả nghiên cứu có liên quan đến đề tài, xác định những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu của luận án. - Chương 2: Sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa, phương pháp quy nạp, diễn dịch để phân tích, luận giải, khái quát các phạm trù có tính lý luận về pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp. Chương này cũng sử dụng phương pháp luật học so sánh để tìm hiểu kinh nghiệm của một số nước trong hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp. - Chương 3: Sử dụng phương pháp thống kê, tổng hợp, phân tích để hệ thống, luận giải, làm rõ thực trạng pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp ở Việt Nam hiện nay. - Chương 4: Sử dụng phương pháp quy nap, diễn dịch, tổng hợp, phân tích để luận giải và đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp ở Việt Nam hiện nay. 5. Những đóng góp mới về khoa học của luận án Luận án là công nghiên cứu chuyên sâu đầu tiên tiếp cận chung về hoàn thiện pháp luật XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp ở Việt Nam hiện nay. Luận án có những điểm mới sau: - Trên cơ sở kế thừa kết quả nghiên cứu trước đó, Luận án đã đưa ra được khái niệm, phân tích và làm sáng tỏ bốn đặc điểm, ba nội dung điều chỉnh và vai trò quan trọng của pháp luật XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp - Luận án đã xây dựng bảy tiêu chí hoàn thiện pháp luật, xác định năm yếu tố ảnh hưởng đến việc hoàn trình hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp. - Luận án đã phân tích và chỉ ra kinh nghiệm của một số nước trong hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp, bao gồm kinh nghiệm hoàn thiện nhóm các quy định về tổ chức và hoạt động cung cấp dịch vụ công; về thực hiện XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp; về quy định quản lý cung cấp dịch vụ công. - Luận án đã phân tích, làm rõ được những vấn đề cơ bản của quá trình hình thành và phát triển của pháp luật Việt Nam về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp.
  • 12. - Luận án nghiên cứu, phân tích một cách có hệ thống và chỉ ra được những kết quả, hạn chế và nguyên nhân của thực trạng pháp luật XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp ở Việt Nam hiện nay. - Luận án xác định được các quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp ở Việt Nam hiện nay. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án - Về lý luận, kết quả nghiên cứu của Luận án cung cấp thêm các thông tin lý luận hoàn thiện pháp luật XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp trong điều kiện cải cách hành chính, cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. - Về thực tiễn, Luận án là công trình đầu tiên tiếp cận và nghiên cứu chung liên quan đến pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp một cách có hệ thống và toàn diện. Kết quả nghiên cứu của luận án có giá trị tham khảo đối với các cơ quan có thẩm quyền trong xây dựng, hoạch định chính sách, xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thi hành pháp luật XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp nói chung và từng dịch vụ công cụ thể. Luận án còn có thể là tài liệu tham khảo, phục vụ cho công tác nghiên cứu, giảng dạy pháp luật XHHDVC nói chung và trong lĩnh vực tư pháp nói riêng. 7. Kết cấu của Luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Luận án gồm có 04 chương và 10 tiết.
  • 13. Chƣơng 1 TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU TRONG LUẬN ÁN 1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG NƢỚC LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1.1.1. Tình hình nghiên cứu trong nƣớc về hoàn thiện pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tƣ pháp nói chung Hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp là một trong những nội dung được quan tâm nghiên cứu dưới các hình thức Đề tài, Hội thảo khoa học, luận án, luận văn và các bài viết theo từng nội dung cụ thể. Về các đề tài, hội thảo khoa học, Đề tài khoa học cấp Bộ về “Đổi mới quản lý Ngành Tư pháp - một số vấn đề lý luận và thực tiễn” [93] do TS Nguyễn Ngọc Hiến làm chủ nhiệm và bảo vệ năm 1996 đã đưa ra nhiều nội dung liên quan đến định hướng phát triển tổ chức và hoạt động cho Ngành Tư pháp trên những nhóm nhiệm vụ cơ bản của Ngành trong giai đoạn đến năm 2005 và sau năm 2005. Đề tài đề cập nhiều nội dung đổi mới QLNN gắn với hoàn thiện pháp luật đối với hoạt động luật sư, tư vấn pháp luật, GĐTP phù hợp với chủ trương xã hội hóa, kết hợp quản lý nhà nước với vai trò tự quản của các tổ chức nghề nghiệp. Năm 2006, Đề án khoa học của Bộ Tư pháp về Chiến lược xây dựng và phát triển ngành Tư pháp thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng đề cập đến vấn đề XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp, tuy nhiên mô hình quản lý dịch vụ công mới chỉ được đề cập đến ở phần kiến nghị và chưa gắn với các đề xuất cụ thể về nội dung, cách thức, phương pháp, phạm vi điều chỉnh của pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp. Đề tài khoa học “Hoàn thiện khung pháp luật về xã hội hóa cung ứng dịch vụ công ở Việt Nam” do TS Nguyễn Văn Quang làm chủ nhiệm năm 2010 đã tập trung nghiên cứu khía cạnh pháp lý của vấn đề xã hội hóa cung ứng dịch vụ công [72]. Một trong những kết quả nghiên cứu quan trọng của Đề tài là xác định khung pháp luật về xã hội hóa cung ứng dịch vụ công bao gồm quy định về quản lý nhà nước
  • 14. đối với việc XHHDVC và quy định điều chỉnh các hoạt động XHHDVC. Đề tài nhấn mạnh quan điểm bảo đảm các dịch vụ công đều phải được điều chỉnh bằng pháp luật, mọi chủ thể bình đẳng trong việc yêu cầu, sử dụng và thụ hưởng dịch vụ công, bảo đảm cho mọi tổ chức, cá nhân có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật được tham gia cung ứng dịch vụ công và vai trò của nhà nước đối với việc cung ứng dịch vụ công. Đề tài cũng đưa ra các phương thức pháp lý chuyển giao cung ứng dịch vụ công trong quá trình XHHDVC thông qua việc thành lập và cho phép hoạt động các đơn vị cung ứng dịch vụ công ngoài công lập, ký kết hợp đồng để cung ứng dịch vụ công. Từ đó khẳng định hoàn thiện pháp luật về xã hội hóa cung ứng dịch vụ công nhằm tạo ra môi trường pháp lý đồng bộ, hoàn chỉnh để điều chỉnh hiệu quả hoạt động cung ứng dịch vụ công của mọi thành phần tham gia là giải pháp quan trọng thúc đẩy xã hội hóa cung ứng dịch vụ công ở nước ta. Có thể nói, với ý nghĩa là một trong những nghiên cứu tập trung vào vấn đề pháp luật về XHHDVC ở Việt Nam, Đề tài đã cung cấp nhiều luận cứ quan trọng cho nghiên cứu sinh khi nghiên cứu đề tài của mình, đặc biệt là những vấn đề lý luận chung và khung pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp. Đề tài khoa học cấp Bộ về “Mô hình quản lý dịch vụ công của Ngành Tư pháp” do Ths Dương Bạch Long là chủ nhiệm đề tài năm 2014 [99]. Đề tài đã thực hiện rà soát pháp luật hiện hành để nhận diện các dịch vụ công và tập trung nghiên cứu dịch vụ hành chính công trong ngành Tư pháp. Đề tài xác định được mô hình quản lý dịch vụ công trên cơ sở tiếp cận từ chủ thể quản lý dịch vụ hành chính công, bao gồm mô hình quản lý một cấp, hai cấp, nhiều cấp và liên tịch quản lý. Đây là các nội dung có giá trị tham khảo đối với nghiên cứu sinh khi xác định phạm vi và nội dung pháp luật quy định về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp. Tuy nhiên, do nghiên cứu về mô hình quản lý nên vấn đề pháp luật chỉ được đề cập từ khía cạnh là nguyên nhân của những hạn chế trong quản lý các dịch vụ công và khi khuyến nghị các giải pháp đổi mới mô hình quản lý dịch vụ công của ngành Tư pháp. Về các hội thảo khoa học, chương trình nghiên cứu, trong năm 2006, Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp đã tổ chức Hội thảo khoa học cấp Bộ về Dịch vụ công trong ngành Tư pháp. Hội thảo bước đầu đặt ra vấn đề về nhận diện các dịch
  • 15. vụ công trong ngành Tư pháp. Kết quả của Hội thảo được biên tập và phát hành dưới dạng số thông tin Khoa học pháp lý chuyên đề: “Nhận diện và một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý, chất lượng dịch vụ công trong ngành Tư pháp” [92]. Với quan điểm dịch vụ công hiện diện trong hầu hết các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ và rất phong phú, đa dạng, Báo cáo kết quả hội thảo đề cập đến kết quả xã hội hóa hoạt động công chứng, TGPL, THADS, giao dịch bảo đảm, đào tạo, nghiên cứu khoa học pháp lý… Bên cạnh một số vấn đề đã được phân tích và đi đến kết luận thì Hội thảo cũng thống nhất còn nhiều vấn đề vướng mắc liên quan đến việc xác định loại hình dịch vụ công để phân định với hoạt động QLNN và tiếp tục xác định các nội dung, giải pháp về xây dựng pháp luật về xã hội hóa hoạt động THADS, nghiên cứu và đào tạo pháp luật. Trung tâm nghiên cứu hỗ trợ phát triển cộng đồng, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Chương trình phát triển của Liên hợp quốc (UNDP) khảo sát, xây dựng và công bố Báo cáo Chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh (PAPI) [43]. Báo cáo bao gồm những chỉ số đo lường đối với hoạt động công chứng, chứng thực trên cơ sở pháp luật, thông qua các tiêu chí về thông tin rõ ràng về thủ tục cần làm; phí được niêm yết công khai; công chức có trình độ nghiệp vụ; được đối xử hợp lý; không có quá nhiều giấy tờ và được hẹn ngày trả kết quả rõ ràng; nhận được kết quả như lịch hẹn; hài lòng với kết quả nhận được. Các tiêu chí này cho phép đánh giá tương đối toàn diện về việc cung cấp dịch vụ công chứng, chứng thực - một trong những dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp. Nhưng do kết quả khảo sát là ý kiến trực tiếp của người dân về việc thực hiện và cung cấp dịch vụ nên không có những đánh giá về mức độ hoàn thiện của pháp luật. Cùng với chỉ số PAPI, trong giai đoạn từ năm 2012, Bộ Nội vụ tiến hành đánh giá kết quả thực hiện cải cách hành chính ở các Bộ, ngành và Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (cấp tỉnh) thông qua việc đánh giá và công bố Chỉ số cải cách hành chính (Par index) trong Báo cáo kết quả xác định Par index năm của Bộ Nội vụ [11]. Chỉ số cho phép đánh giá kết quả thực hiện cải cách hành chính của các Bộ, ngành theo các nội dung bao gồm: điều hành cải cách hành chính; xây dựng và tổ chức thực hiện thể chế thuộc phạm vi quản lý của Bộ; cải cách thủ
  • 16. tục hành chính; cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước; xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ công chức, viên chức; đổi mới cơ chế tài chính đối với cơ quan hành chính và đơn vị sự nghiệp; hiện đại hóa hành chính. Việc đo lường và công bố Chỉ số cải cách hành chính cũng cho thấy mức độ hoàn thiện của pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp thông qua chỉ số đánh giá đối với các Bộ, ngành có liên quan, trực tiếp là Bộ Tư pháp. Tuy nhiên, do đây là các chỉ số được đánh giá chung nên khó rút ra được các nhận định, đánh giá về pháp luật XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp. Về công trình nghiên cứu luận án tiến sĩ, tác giả Nguyễn Ngọc Bích trong luận án “Hoàn thiện pháp luật về dịch vụ công trong lĩnh vực hành chính” [8] tiếp cận dịch vụ công trong lĩnh vực hành chính với ý nghĩa là một bộ phận trong dịch vụ công trên cơ sở phân biệt tính chất và tác dụng của dịch vụ công (khác với cách phân biệt về hình thức dịch vụ cụ thể; chủ thể cung ứng dịch vụ công; chi phí của người sử dụng) để thấy những đặc thù của dịch vụ công trong lĩnh vực hành chính. Khác với các dịch vụ công khác, dịch vụ công trong lĩnh vực hành chính ra đời là kết quả của quá trình chuyển đổi cách thức giải quyết yêu cầu của cá nhân, tổ chức, gắn với tiến trình cải cách hành chính nhà nước và phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong nền kinh tế thị trường. Pháp luật về dịch vụ công trong lĩnh vực hành chính thể hiện cam kết của nhà nước về bảo đảm cung cấp các dịch vụ công cho công dân và là công cụ để quản lý nhà nước. Trong nghiên cứu của mình, tác giả cũng đề cập đến các dịch vụ công chứng, TGPL và coi đây là các dịch vụ công trong lĩnh vực hành chính và từ đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật để thực hiện xã hội hóa đối với các dịch vụ này. Luận án có giá trị tham khảo về phương pháp luận cho nghiên cứu sinh khi tiếp cận, nghiên cứu và kiến nghị giải pháp hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp. 1.1.2. Tình hình nghiên cứu về hoàn thiện pháp luật về xã hội hóa đối với một số dịch vụ công cụ thể trong lĩnh vực tƣ pháp Bên cạnh các nghiên cứu về dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp nói chung, trong thời gian qua, nhiều nghiên cứu về xã hội hóa đối với một số dịch vụ công
  • 17. trong từng lĩnh vực hoạt động cụ thể đã được thực hiện. Khái quát một số kết quả nghiên cứu như sau: * Trong lĩnh vực luật sư: Luật sư là một trong những chế định pháp luật liên quan đến XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu, các cơ quan QLNN cũng như hoạt động thực tiễn. Đây có thể coi là một trong những lĩnh vực điển hình trong nghiên cứu về xã hội hóa với hai xu hướng nhu cầu chuyển giao từ nhà nước cho xã hội thực hiện với đội ngũ luật sư tư và nhu cầu về sự tham gia trực tiếp của nhà nước trong cung cấp dịch vụ luật sư với việc hình thành chế định luật sư công. Trong sách “Một số vấn đề về luật sư và nghề luật sư” của TS Nguyễn Văn Tuân [82], thông qua việc nghiên cứu, cung cấp thông tin về quá trình xây dựng, hoàn thiện pháp luật luật sư, tác giả đã cho thấy một quá trình hình thành và phát triển nghề luật sư ở Việt Nam trước năm 1945 và từ năm 1945 đến nay. Lịch sử phát triển nghề luật sư cho thấy quá trình chuyển giao mạnh mẽ các công việc do Nhà nước đang thực hiện cho xã hội thực hiện trên cơ sở hình thành một đội ngũ luật sư hoạt động chuyên nghiệp, phát triển tổ chức xã hội nghề nghiệp của luật sư theo hướng kết hợp giữa QLNN và tự quản của luật sư, chuyển giao nhiều công việc quản lý hành nghề của luật sư sang cho tổ chức xã hội nghề nghiệp của luật sư. Tác giả Nguyễn Văn Thảo trong Đề tài“Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện pháp luật về tổ chức luật sư và hành nghề luật sư trong điều kiện mới ở Việt Nam” [90] khẳng định vai trò của luật sư trong đời sống xã hội và yêu cầu tạo hành lang pháp lý thích hợp để chính quy hóa, chuyên nghiệp hóa nghề luật sư, tạo điều kiện để nghề luật sư hội nhập khu vực và quốc tế. Công trình nghiên cứu này có giá trị tham khảo cho nghiên cứu sinh khi đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật đối với việc hành nghề và vai trò của các tổ chức xã hội nghề nghiệp trong quản lý hành nghề khi thực hiện xã hội hóa, chuyển giao việc cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp cho các tổ chức ngoài Nhà nước thực hiện. Cùng với quan điểm phải tiếp tục hoàn thiện pháp luật về luật sư và hành nghề luật sư để tạo điều kiện cho sự phát triển của luật sư ở Việt Nam, tác giả Phan Trung Hoài trong Luận án tiến sỹ với chủ đề “Cơ sở lý luận của việc hoàn thiện
  • 18. pháp luật về luật sư ở Việt Nam hiện nay” [56] nhấn mạnh quan điểm cơ bản cho việc hoàn thiện pháp luật luật sư đó là phải tạo được một môi trường pháp lý rộng rãi cho tổ chức và hoạt động luật sư phát triển, đáp ứng ngày càng tăng nhu cầu tư vấn pháp luật của nền kinh tế thị trường, phát huy dân chủ, bảo vệ công lý và công bằng xã hội. * Trong lĩnh vực công chứng: Tiếp sau lĩnh vực luật sư, xã hội hóa công chứng là một trong những nội dung được quan tâm nghiên cứu trong tổng thể về hoàn thiện pháp luật công chứng và được coi là một trong những định hướng, giải pháp cho việc nâng cao chất lượng hoạt động công chứng. Kỷ yếu Hội thảo cấp Bộ “Xã hội hóa hoạt động công chứng sau gần 5 năm triển khai Luật công chứng”[96] bao gồm tập hợp các bài viết đánh giá pháp luật xã hội hóa công chứng theo Luật công chứng cùng với thực tiễn triển khai tại một số địa phương. Hội thảo đề cập những ưu điểm, hạn chế của pháp luật về xã hội hóa công chứng và khẳng định xã hội hóa công chứng là chủ trương đúng đắn nhưng thể chế cho việc xã hội hóa hoạt động công chứng trong Luật công chứng còn khá hạn chế. Để xã hội hóa đạt hiệu quả hơn, Hội thảo đề nghị cần có nghiên cứu về mức độ xã hội hóa phù hợp tại từng vùng, miền gắn với nâng cao chất lượng cung ứng dịch vụ công chứng của các cơ sở công lập trên quan điểm lưu ý cần tránh tình trạng biến tướng từ xã hội hóa thành tư nhân hóa. Luận án thạc sỹ luật học “Xã hội hóa công chứng ở Việt Nam hiện nay” [55] của tác giả Nguyễn Phương Hoa đã nghiên cứu toàn diện về vấn đề xã hội hóa công chứng, trong đó tác giả cũng khẳng định hoàn thiện pháp luật về xã hội hóa công chứng là một giải pháp cho việc thực hiện xã hội hóa công chứng. Trong bài viết“Yêu cầu và thách thức của xã hội hóa công chứng” [69], tác giả Võ Đình Nho lưu ý công chứng là hoạt động vừa mang tính hành chính nhà nước và vừa mang tính chất dịch vụ công nên việc xã hội hóa đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết nhưng đó là xu thế tất yếu. Nêu lên một đặc thù khác trong xã hội hóa công chứng, Ths Nguyễn Hoàng Anh trong bài “Xã hội hóa hoạt động công chứng - Từ ý tưởng đến thực tiễn”[2] đã khẳng định xã hội hóa công chứng là một bước đi tiên phong trong xã hội hóa các lĩnh vực hoạt động tư pháp pháp - xưa nay vẫn được coi như lãnh địa riêng của công quyền. Tác giả nhấn mạnh quan điểm
  • 19. không thể quan niệm việc xã hội hóa hoạt động công chứng đơn giản như các lĩnh vực giáo dục, y tế vì đây là việc ủy quyền của nhà nước. Từ đó, tác giả đưa ra các kiến nghị không nên tồn tại hai mô hình công chứng nhà nước và công chứng tư, hoàn thiện pháp luật cho phép thành lập văn phòng công chứng. * Trong lĩnh vực giám định tư pháp: PGS.TS Nguyễn Tất Viễn trong sách “Đổi mới tổ chức, hoạt động giám định tư pháp”[87], chuyên đề Đổi mới tổ chức và hoạt động giám định tư pháp trong quá trình cải cách tư pháp trong sách Hệ thống tư pháp và cải cách tư pháp ở Việt Nam [88] và chuyên đề “Giám định tư pháp” trong sách Cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền [28]. Các công trình này đã nghiên cứu về quá trình phát triển của hoạt động GĐTP, tổ chức GĐTP trong một số lĩnh vực của Việt Nam từ năm 1945; nghiên cứu một số vấn đề lý luận, những bất cập của hoạt động GĐTP và bước đầu đưa ra những kiến nghị khắc phục, trong đó có kiến nghị nội dung thực hiện xã hội hóa và xây dựng khuôn khổ pháp lý cho việc xã hội hóa hoạt động GĐTP. Trong bối cảnh đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động GĐTP, Đề tài khoa học cấp Bộ về “Xã hội hóa hoạt động giám định tư pháp đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp” do TS Nguyễn Mạnh Đạt làm chủ nhiệm [97] hay Hội thảo khoa học cấp Bộ về “Hoạt động giám định tư pháp ở Thành phố Đà Nẵng - Thực trạng và khả năng xã hội hóa” do tác giả Võ Như Hoa làm chủ nhiệm [22]… đã đề cập trực tiếp đến vấn đề xã hội hóa trong lĩnh vực GĐTP phục vụ cho việc nghiên cứu, xây dựng Luật giám định tư pháp. Các đề tài này xác định quan điểm xã hội hóa hoạt động giám định tư pháp là quá trình đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động GĐTP, theo đó Nhà nước kết hợp việc tập trung đầu tư cho các tổ chức GĐTP ở các lĩnh vực giám định có nhu cầu lớn và thường xuyên với việc huy động, thú hút các cá nhân, tổ chức có đủ điều kiện tham gia theo quy định của pháp luật tham gia vào hoạt động GĐTP ở các lĩnh vực không thành lập tổ chức GĐTP nhằm đáp ứng cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và đáp ứng nhu cầu xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường. Từ đó Đề tài đưa ra đề xuất thí điểm thực hiện xã hội hóa, thành lập các công ty thực hiện giám định tại Thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh. Có thể
  • 20. nói, việc nghiên cứu xã hội hóa GĐTP được đề cập khá toàn diện trong các đề tài này, trong đó có vấn đề về pháp luật. Các nghiên cứu có giá trị tham khảo, giúp cho nghiên cứu sinh đưa ra các định hướng hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp. * Trong lĩnh vực thi hành án dân sự: Đề tài khoa học “Xã hội hóa hoạt động thi hành án dân sự - một số vấn đề lý luận và thực tiễn” cùng do tác giả Nguyễn Đức Chính làm chủ nhiệm [89] và Đề tài khoa học cấp Bộ về “Những cơ sở lý luận và thực tiễn về chế định Thừa phát lại” cùng do tác giả Nguyễn Đức Chính làm chủ nhiệm [94] là những công trình nghiên cứu của ngành Tư pháp về xã hội hóa hoạt động THADS thông qua việc hình thành chế định thừa phát lại. Qua hai công trình này, tác giả nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc xã hội hóa hoạt động THADS và từ đó đề xuất về chế định thừa phát là hình thức của xã hội tham gia vào hoạt động THADS. Một điểm lưu ý chung là nói đến THADS là nói đến sự thực thi quyền lực tư pháp của Nhà nước nhưng trong hoạt động THADS, có những hoạt động không cần phải sử dụng quyền lực tư pháp và đây là địa hạt để xã hội hóa nhằm giảm bớt khối lượng công việc đang quá tải của các cơ quan THADS. Đặc biệt, xã hội hóa hoạt động THADS sẽ thể hiện đậm nét hơn tính dân chủ, nhân dân của Nhà nước, phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị trường với nguyên tắc coi trọng và đối xử bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Đề tài khoa học cấp Bộ về “Luận cứ khoa học và thực tiễn của việc đổi mới hoạt động thi hành án tại Việt Nam trong giai đoạn mới”[95] do TS Nguyễn Đình Lộc làm chủ nhiệm đã đề cập đến giải pháp hoàn thiện pháp luật để thực hiện xã hội hóa hoạt động thi hành án, bao gồm THADS và hình sự. Nội dung xã hội hóa được thực hiện bằng cách giao một số hoạt động nghiệp vụ có tính hành chính, kỹ thuật cho tổ chức, công dân thực hiện việc thi hành án dưới sự quản lý của Nhà nước. Đó là việc giám sát người bị án treo, cải tạo không giam giữ, quản chế, tống đạt các loại giấy tờ, quyết định liên quan đến thi hành án, xác minh tài sản... Mức độ xã hội hóa tùy thuộc vào tính chất của từng loại án. Trong trường hợp xã hội hóa hoạt động thi hành án hình sự thì cần thiết kế mô hình hợp tác, cộng tác hiệu quả giữa nhà nước và xã hội để bảo đảm mục đích của hình phạt có tính răn đe, phòng ngừa.
  • 21. Sau khi Quốc hội thông qua thí điểm thực hiện chế định Thừa phát lại năm 2011, số Chuyên đề về Thừa phát lại [74] đã tập hợp một loạt các bài viết nghiên cứu về lý luận và thực tiễn thực hiện chế định Thừa phát lại. Trong “Quan điểm khoa học, chính trị - pháp lý về Thừa phát lại trong tiến trình cải cách tư pháp, cải cách hành chính ở Việt Nam” [71], TS Dương Thanh Mai tổng hợp những kết quả nghiên cứu khoa học và chính trị, pháp lý liên quan đến chế định Thừa phát lại. Bài viết đề cập đến quan điểm coi THADS có bản chất là một hoạt động nghề nghiệp mang tính pháp lý hành chính, có những đặc trưng của một loại dịch vụ công có thể xã hội hóa, chuyển công việc THADS (toàn bộ hay từng phần) đang do cơ quan THADS nhà nước trực tiếp thực hiện sang cho các cá nhân, tổ chức phi nhà nước thực hiện. Cũng trong số chuyên đề này, Ths Lê Xuân Hồng đã nêu lên những kết quả và hạn chế trong thực hiện thí điểm thừa phát lại tại thành phố Hồ Chí Minh trong bài viết “Từ nhu cầu xã hội, đến chủ trương và kết quả bước đầu của việc thực hiện thí điểm thừa phát lại”[58]. Khi đề cập đến pháp luật về thừa phát lại, tác giả cho rằng hoạt động thừa phát lại được điều chỉnh bởi các quy định pháp luật thuộc nhiều lĩnh vực nhưng bản thân các quy định này lại chưa đầy đủ, không đồng bộ và thiếu cụ thể. Luật thi hành án dân sự cũng như các luật tố tụng có liên quan (như bộ luật tố tụng dân sự, luật tố tụng hành chính...) chưa có quy định cụ thể gắn với hoạt động của Thừa phát lại như bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp, chi phí tống đạt giấy tờ…và do đó đặt ra yêu cầu đối với việc hoàn thiện pháp luật để tạo cơ sở pháp lý thực hiện xã hội hóa hoạt động THADS. * Đối với lĩnh vực trợ giúp pháp lý: TGPL là loại hình dịch vụ công rất đặc thù trong lĩnh vực tư pháp với việc cung cấp các dịch vụ cho đối tượng được TGPL không thu phí. Từ đặc thù này, Luận án tiến sỹ luật học của Tác giả Tạ Thị Minh Lý về “Điều chỉnh pháp luật về trợ giúp pháp lý ở Việt Nam trong điều kiện đổi mới” [66]… đã đưa ra quan điểm về vai trò nòng cốt của Nhà nước trong TGPL cùng với việc khuyến khích sự tham gia của các chủ thể trong hoạt động TGPL. Đây cũng là quan điểm của tác giả Lê Thị Phương Hoa trong “Xã hội hoá hoạt động trợ giúp pháp lý, nhìn từ góc độ xã hội hoá dịch vụ công” [54].
  • 22. Cùng với sự phát triển của điều kiện kinh tế - xã hội gắn với sư gia tăng khả năng cung cấp dịch vụ TGPL cũng như yêu cầu ngày càng cao của các đối tượng được TGPL, đặc biệt với sự thông qua Đề án đổi mới công tác trợ giúp pháp lý giai đoạn 2015-2025 (ban hành kèm theo Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 1/6/2016 của Thủ tướng Chính phủ), vấn đề xã hội hóa TGPL lại thu hút sự quan tâm nghiên cứu về cách thức, nội dung và phạm vi xã hội hóa. Tham khảo loạt bài viết trên Cổng thông tin điện tử của Bộ Tư pháp về TGPL như “Bàn về vai trò nòng cốt của nhà nước trong hoạt động Trợ giúp pháp lý của Việt Nam hiện nay” của Ths Đào Dư Long [64], “Kết quả 10 năm xây dựng và hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực trợ giúp pháp lý (2005-2015) và định hướng, nhu cầu hoàn thiện pháp luật giai đoạn 2016-2020” [82] và “Một số bất cập của Luật Trợ giúp pháp lý trong so sánh kinh nghiệm nước ngoài về trợ giúp pháp lý”[83] của Thanh Trịnh cho thấy bên cạnh quan điểm tiếp tục khẳng định TGPL là trách nhiệm của Nhà nước và vai trò nòng cốt của Nhà nước trong hoạt động TGPL thì các tác giả cũng thấy cần thiết phải có sự điều chỉnh về vai trò nòng cốt của Nhà nước cho phù hợp. Thay vì trực tiếp thực hiện các hoạt động TGPL như hiện nay, Nhà nước có thể đóng vai trò cung cấp nguồn lực, điều phối, quản lý nguồn lực để bảo đảm sự công bằng trong tiếp cận và chất lượng dịch vụ TGPL cung cấp cho người dân. Đồng thời, các tác giả cũng đề cập đến định hướng hoàn thiện pháp luật theo hướng tăng cường sự tham gia của luật sư trong hoạt động TGPL và cơ chế để các Trợ giúp viên TGPL hiện nay có vị thế, vai trò ngang bằng với các luật sư, qua đó bảo đảm cung cấp các dịch vụ TGPL có chất lượng đến người dân. * Trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản Liên quan đến chủ đề XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp, một số nghiên cứu cũng đã được thực hiện đối với các hoạt động BĐGTS, chứng thực, phổ biến, giáo dục pháp luật…Đề tài khoa học cấp Bộ “Hoàn thiện pháp luật về bán đấu giá tài sản nhằm thúc đẩy thể chế nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam” do TS Võ Đình Toàn làm chủ nhiệm [25]. Đề tài đã đánh giá một cách toàn diện, có hệ thống về pháp luật BĐGTS ở Việt Nam và đưa ra nhu cầu và định hướng để hoàn thiện pháp luật BĐGTS ở Việt Nam nhằm thúc đẩy thể chế nền kinh
  • 23. tế thị trường định hướng XHCN. Theo quan điểm của các tác giả thì hoạt động bán BĐGTS lại bổ trợ rất thường xuyên cho hoạt động thi hành án và xử lý vi phạm hành chính. Đề tài khẳng định quan điểm trong hoàn thiện pháp luật BĐGTS là vừa phải bảo đảm sự quản lý có hiệu quả của Nhà nước và vừa đồng thời phải xã hội hóa mạnh mẽ hoạt động BĐGTS. Mặc dù vậy, do đặt vấn đề chung trong hoàn thiện pháp luật BĐGTS nên Đề tài chưa đi sâu làm rõ các nội dung xã hội hóa hoạt động bán đấu giá trên cơ sở quan điểm mang tính nguyên tắc trong hoàn thiện pháp luật BĐGTS nêu trên. Trong bài viết “Xây dựng Luật đấu giá tài sản đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp”, tác giả Đỗ Hoàng Yến đã nêu những bất cập, hạn chế của pháp luật hiện hành về BĐGTS và đưa ra một số định hướng xây dựng Luật đấu giá tài sản [102]. Theo đó, bên cạnh bổ sung các quy định để tạo cơ sở pháp lý và củng cố hoạt động của các doanh nghiệp BĐGTS thì Luật cũng cần bao gồm các quy định về việc chuyển đổi mô hình hoạt động của Trung tâm dịch vụ BĐGTS trực thuộc Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nhằm thực hiện chủ trương xã hội hóa và góp phần chuyên nghiệp hóa hoạt động nghề nghiệp đấu giá tài sản. 1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CỦA NƯỚC NGOÀI LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1.2.1. Tình hình nghiên cứu của nƣớc ngoài về hoàn thiện pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tƣ pháp nói chung Năm 1998, Ngân hàng Thế giới công bố sách về Báo cáo về tình hình phát triển kinh tế thế giới năm 1997 [111]. Báo cáo nghiên cứu một cách toàn diện về vai trò của Nhà nước trong thế giới mới theo các khía cạnh thực hiện quyền lực nhà nước cũng như trách nhiệm cung cấp các dịch vụ cần thiết cho xã hội của nhiều quốc gia trên thế giới. Một phần lớn của Báo cáo tập trung bàn về Nhà nước, Nhà nước nên làm gì, làm thế nào và có thể làm thế nào để đạt được kết quả tốt hơn trong một thế giới đang thay đổi nhanh chóng. Báo cáo đưa ra các khuyến nghị để cải cách các nhà nước trên thế giới, tập trung vào các hoạt động của Nhà nước sao cho tương ứng với khả năng của mình. Nhiều Nhà nước tìm cách làm quá nhiều việc dù họ chỉ có ít nguồn lực và khả năng. Điều tốt hơn là nên tập trung sức vào các hoạt động cốt lõi có tầm quan trọng then chốt đối với phát triển, tăng cường các
  • 24. thiết chế công cộng và điều đó sẽ nâng cao hiệu quả hoạt động của Nhà nước. Các thông tin trong báo cáo giúp nghiên cứu sinh xác định những vấn đề lý luận về cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp và nội dung hoàn thiện pháp luật liên quan chuyển giao các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp cho khu vực ngoài nhà nước thực hiện và chính sách bảo đảm công bằng trong tiếp cận các dịch vụ công này trong điều kiện xã hội hóa. Tác giả Clause Henry trong bài viết Dịch vụ công và sự cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ công ở Liên minh Châu Âu đăng trên International Advances Economic Research Journal số tháng 8/1997 đã khẳng định tiếp cận dịch vụ công được coi là quyền cơ bản của tất cả người dân. Do đó, nhằm đáp ứng yêu cầu của dân chúng, một số dịch vụ công được cung cấp trên cơ sở ba nguyên tắc cơ bản là bảo đảm tính liên tục, tính bình đẳng và tính toàn cầu (tính có thể thay đổi ở mỗi quốc gia). Tất cả các quốc gia trong Liên minh Châu Âu phải tôn trọng những nguyên tắc này. Tuy nhiên, pháp luật của Liên minh Châu Âu cũng không thể bảo đảm sự hưởng thụ các dịch vụ như nhau của công dân các quốc gia thành viên. Liên minh khuyến khích các quốc gia thành viên tiến hành thương lượng để hoàn thiện pháp luật trên cơ sở hòa hợp các dịch vụ với nhau để nâng cao quyền hưởng thụ dịch vụ của dân chúng. Các quốc gia có thể kết hợp với nhau để cung cấp dịch vụ không biên giới đến dân cư ở những khu vực tiếp giáp biên giới. Các tác giả Martine Lombard - giáo sư trường Đại học Tổng hợp Pantheon Assas Paris II và Gilles Dumont giáo sư trường Đại học Luật và Kinh tế Limoges trong cuốn Pháp luật hành chính của Cộng hòa Pháp [61] đã trình bày những kiến thức cơ bản về dịch vụ công như khái niệm, các nguyên tắc, các yếu tố cấu thành, mô hình cung cấp dịch vụ. Khái niệm dịch vụ công mà các tác giả đưa ra là sự kết hợp giữa những yếu tố về mặt tổ chức thể hiện đây là những dịch vụ trực tiếp hoặc gián tiếp do các cơ quan nhà nước thực hiện và những yếu tố nội dung thể hiện đây là dịch vụ công bao giờ cũng nhằm phục vụ lợi ích chung”. Hai tác giả cũng nhấn mạnh pháp luật về dịch vụ công vừa bao gồm các quy định của pháp luật hành chính, vừa có các quy định của pháp luật dân sự và pháp luật thương mại, công nghiệp. Đặc biệt các tác giả khẳng định có sự ảnh hưởng của pháp luật Liên minh
  • 25. Châu Âu đến pháp luật của các quốc gia thành viên về dịch vụ công nhưng pháp luật các quốc gia thành viên có những quy định độc lập về dịch vụ công phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của từng nước. Lý do là tại mỗi quốc gia tính chất, đặc điểm, phạm vi các dịch vụ công khác nhau, cùng với truyền thống xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật khác nhau nên pháp luật dịch vụ công của mỗi quốc gia phản ánh những điểm riêng biệt đó. Các luận điểm này giúp cho nghiên cứu sinh về phương pháp luận trong việc đề xuất các hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp gắn với điều kiện kinh tế - xã hội, chính trị đặc thù của Việt Nam. Trong một nghiên cứu của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD), chuyên đề “Quy định về dịch vụ công của các quốc gia OECD-Các vấn đề cần được thảo luận” đã đề cập đến khung pháp luật về dịch vụ công của các nước OECD [107], tập trung vào việc cung cấp các dịch vụ hạ tầng công cộng như nước, kiểm soát chất thải, giao thông công cộng… Theo đó, khung pháp luật cung cấp dịch vụ công bao gồm các nhóm quy định gia nhập thị trường, kiểm soát giá cả, quản lý chất lượng dịch vụ công được cung cấp. Mục đích hoàn thiện khung pháp luật là bảo đảm việc cung cấp các dịch vụ công một cách hiệu quả, tiết kiệm, an toàn và đáp ứng đủ điều kiện trên nguyên tắc duy trì nguyên tắc cạnh tranh trong cung cấp dịch vụ công. Nghiên cứu cũng nêu lên mô hình cơ quan quản lý dịch vụ công phải bảo đảm được tính chuyên môn và độc lập trong quản lý. Mô hình bao gồm cơ quan trung ương, cấp tỉnh hoặc các tổ chức phi chính phủ. Cơ quan trung ương sẽ có trách nhiệm giám sát toàn bộ thị trường, giải quyết các vấn đề về giá cả và liên kết giữa các doanh nghiệp chi phối. Các cơ quan cấp tỉnh hoặc các tổ chức phi chính phủ sẽ kiểm soát việc cung cấp dịch vụ công, giải quyết các khiếu nại của khách hàng và hỗ trợ cho điều phối quan hệ của các cộng đồng tại địa phương. Công trình đã gợi mở cho nghiên cứu sinh những vấn đề liên quan đến định hướng hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp. Cũng trong phạm vi của OECD, năm 2011, Báo cáo nghiên cứu về dịch vụ công với chủ đề “Cùng nhau thực hiện các dịch vụ công tốt hơn - hợp tác đối tác với xã hội và công dân” đặt lại vấn đề cung cấp dịch vụ công truyền thống trong môi trường kinh tế - xã hội mới [108]. Nghiên cứu đưa ra giả thuyết thu hút sự tham
  • 26. gia của các cá nhân và tổ chức xã hội với vai trò là một đối tác hợp tác với Chính phủ trong thiết kế, sản xuất và cung cấp dịch vụ công, giúp nâng cao sự hài lòng của người sử dụng và giảm giá thành. Báo cáo đề cập đến những thách thức, lưu ý trong việc tạo cơ sở pháp lý để bảo đảm thành công trong việc liên kết hợp tác cung cấp dịch vụ công giữa Chính phủ với công dân và các tổ chức xã hội. Cách thức cung cấp dịch vụ mới thách thức các giá trị và thực tiễn đang tồn tại có hệ thống trong lĩnh vực công, do vậy, cần phải chuẩn bị tốt cho các nhân viên trong khu vực công thực hiện vai trò một cách chuyên nghiệp hơn, mang tính tư vấn, hỗ trợ, định hướng gắn với các chi phí cho việc đào tạo và thay đổi cơ chế quản lý. Công trình có giá trị tham khảo đối với nghiên cứu sinh trong việc đề xuất hoàn thiện pháp luật về chuyển giao cung ứng dịch vụ công gắn với các bảo đảm dành cho các cơ quan nhà nước trong việc quản lý và thích nghi với điều kiện mới. Năm 2015, cuốn sách về “Dịch vụ công trong pháp luật của Liên minh Châu Âu” do tác giả Wolf Sauter [110] thực hiện đã được công bố. Trong nghiên cứu của mình, tác giả đã cung cấp toàn diện các quy định của pháp luật Liên minh Châu Âu (EU), bao gồm luật và các án lệ về dịch vụ công. Điểm đáng lưu ý đó là tác giả đã đi sâu phân tích các khái niệm liên quan đến dịch vụ công, phân biệt dịch vụ công với các khái niệm tương tự khác như dịch vụ công ích, dịch vụ công cộng, dịch vụ công phổ quát, nghĩa vụ cung cấp dịch vụ công phổ quát, dịch vụ phúc lợi…Cùng với việc phân tích các khái niệm, tác giả đã cung cấp các quy định của pháp luật EU về dịch vụ công, đặt dịch vụ công trong mối quan hệ giữa quyền công dân, vấn đề cạnh tranh và trợ cấp của nhà nước để làm rõ các khía cạnh của dịch vụ công. Đây là cuốn sách có nhiều thông tin cung cấp cho nghiên cứu sinh trong việc xác định bản chất của dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp cũng như đưa ra các đề xuất hoàn thiện pháp luật XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp, tập trung vào nhóm quy định về điều chỉnh các hoạt động xã hội hóa cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp. 1.2.2. Tình hình nghiên cứu của nƣớc ngoài về hoàn thiện pháp luật về xã hội hóa đối với một số dịch vụ công cụ thể trong lĩnh vực tƣ pháp Tài liệu tham khảo về Thừa phát lại và Thi hành án được Nhà Pháp luật Việt Pháp trích dịch từ cuốn “L’Huissier de Justice” do Hội đồng Thừa phát lại Pháp ấn
  • 27. hành tháng 2/1994 tổng hợp giới thiệu về tổ chức và hoạt động thừa phát lại trong THADS [68]. Thừa phát lại tại Pháp hành nghề tự do và có thể can thiệp vào quá trình thi hành án nhân danh Nhà nước, theo sự ủy nhiệm của cơ quan quyền lực công. Thừa phát lại do Chưởng ấn, Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm. Thừa phát lại hoàn toàn độc lập với chính quyền về mặt thi hành án nhằm bảo đảm tính hiệu quả, chịu trách nhiệm trước tòa án về những sai phạm chuyên môn và chịu trách nhiệm trước các tổ chức chuyên môn của nghề hoặc trước Viện trưởng Viện Công tố bên cạnh Tòa sơ thẩm quyền rộng về những sai phạm kỷ luật của mình. Thừa phát lại quản lý hoạt động của mình giống như một chủ doanh nghiệp, có nhân viên riêng, có thiết bị văn phòng riêng, sử dụng các thiết bị tin học thông tin tiên tiến. Thông tin này có giá trị tham khảo đối với nghiên cứu sinh khi xác định xu hướng XHHDVC đối với từng hoạt động cụ thể trong lĩnh vực tư pháp. Theo bảng phân loại các lĩnh vực dịch vụ của WTO, “dịch vụ pháp lý” là một phân ngành “dịch vụ nghề nghiệp” (Professional Services) thuộc lĩnh vực “dịch vụ kinh doanh” (Bussiness Services). Theo Danh mục phân loại tạm thời các lĩnh vực dịch vụ (PCPC) của Liên Hợp quốc kèm theo mã số cho từng lĩnh vực và phân ngành dịch vụ cụ thể thì dịch vụ pháp lý có mã số 861 và được phân chia thành nhiều tiểu phân ngành như: (a) dịch vụ tư vấn và đại diện liên quan đến pháp luật hình sự (PCPC 86111); (b) dịch vụ tư vấn và đại diện trong tố tụng tư pháp liên quan đến các lĩnh vực khác của pháp luật (PCPC 86119); (c) dịch vụ tư vấn và đại diện trong các thủ tục hành chính, trọng tài (PCPC 86120); (d) dịch vụ lập và xác nhận các giấy tờ pháp lý (PCPC 86130) và (e) các dịch vụ pháp lý khác (PCPC 8619)…[109]. Trong bài “Dịch vụ công và phạm vi của Hiệp định chung về thương mại dịch vụ” [107], tác giả Markus Kajewski đã cung cấp khá toàn diện về quan điểm của GATS về khái niệm, phạm vi dịch vụ công. Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS) trong khuôn khổ của Tổ chức thương mại thế giới. Theo GATS, khái niệm dịch vụ pháp lý theo nghĩa rộng bao gồm dịch vụ tư vấn pháp luật (Advisory Services), dịch vụ đại diện (Representation Services) và tất cả các hoạt động liên quan đến tư pháp như xét xử, công tố, bào chữa công… Tuy nhiên, GATS
  • 28. sử dụng khái niệm các dịch vụ được cung cấp trong phạm vi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ, tức là các dịch vụ được cung cấp không dựa trên cơ sở thương mại cũng như trong sự cạnh tranh với các nhà cung cấp các dịch vụ khác. Việc sử dụng khái niệm dịch vụ được cung cấp trong phạm vi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ có sự tương đồng nhất định với quan niệm về dịch vụ công. Tác giả Markus Kajewski cho rằng quy định như vậy là rất mơ hồ và việc áp dụng phụ thuộc nhiều vào điều kiện và hoàn cảnh của từng quốc gia thành viên. Trong quá trình đưa ra các luận điểm làm rõ phạm vi về các dịch vụ, tác giả cũng đề cập đến dịch vụ pháp lý. Tác giả nêu ra quan điểm của Ban Thư ký WTO cho rằng các dịch vụ hành chính pháp lý như thẩm phán, nhân viên toà án, công tố viên, luật sư của nhà nước… được loại trừ khỏi phạm vi điều chỉnh của GATS vì nhiều quốc gia coi đây là các dịch vụ được cung cấp trong phạm vi thực hiện quyền lực của nhà nước. Tuy nhiên, khi xem xét đến các dịch vụ hành chính tư pháp khác như công chứng - chứng thực thì Ban Thư ký WTO lại cho rằng không giống với thẩm phán, thư ký tòa án, công tố viên là các công chức nhà nước thì công chứng viên thường cung cấp dịch vụ của họ trong điều kiện thương mại và vì vậy công chứng thuộc phạm vi điều chỉnh của GATS. Nghiên cứu đã giúp đưa ra những quan điểm của GATS về thương mại dịch vụ, trong đó có các vấn đề dịch vụ công - khái niệm gắn với dịch vụ để thực hiện thẩm quyền của Chính phủ. Đặc biệt, bước đầu tác giả cũng đã có sự phân định về bản chất của các dịch vụ công trong lĩnh vực pháp luật. Bài viết đã cung cấp cho nghiên cứu những luận cứ trong việc xác định phạm vi và bản chất của các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp. 1.3. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU 1.3.1. Khái quát kết quả nghiên cứu liên quan đến đề tài 1.3.1.1. Về kết quả nghiên cứu trong nước Tại Việt Nam, các công trình nghiên cứu cho thấy cách tiếp cận pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp được thực hiện theo nhiều góc độ và phạm vi khác nhau, bao gồm các nghiên cứu chuyên sâu, sách, bài viết, luận án, luận văn, đề tài khoa học. Sự phong phú của các công trình nghiên cứu cho thấy yêu cầu của việc nghiên cứu, làm rõ các nội dung cũng như định hướng hoàn thiện pháp luật về
  • 29. XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp. Tham khảo một số công trình nghiên cứu trong nước nêu trên có thể đưa ra một số nhận xét cơ bản sau: Thứ nhất, nghiên cứu về pháp luật XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp được thực hiện và đẩy mạnh thực hiện kể từ sau năm 2002 theo yêu cầu nhiệm vụ chiến lược cải cách tư pháp của Nghị quyết số 08-NQ/TW và Nghị quyết số 49-NQ/TW. Các công trình nghiên cứu đã làm sáng tỏ định hướng thực hiện xã hội hóa đối với nhiều dịch vụ công cụ thể trong lĩnh vực tư pháp trong quá trình hoàn thiện pháp luật đối với từng lĩnh vực. Những kết quả trong từng lĩnh vực cụ thể giúp cho việc khái quát và xây dựng những vấn đề cơ bản về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp. Thứ hai, nhóm các nghiên cứu liên quan đến pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp tuy chưa tập trung nghiên cứu vấn đề pháp luật nhưng đã đề cập được nhiều khía cạnh xác định dịch vụ công và XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp cũng như định hướng tiếp tục thực hiện XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp. Những kết quả nghiên cứu thu được có ý nghĩa tạo ra sự thống nhất nhận thức về dịch vụ công cũng như xác định định hướng XHHDVC trên nguyên tắc vừa đẩy mạnh XHHDVC, vừa gắn với việc nâng cao chất lượng và hiệu quả cung ứng dịch vụ công. Đây là những nội dung có giá trị tham khảo gợi mở cho nghiên cứu sinh khi đưa ra các đề xuất hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp trong luận án của mình. Thứ ba, nhóm các nghiên cứu pháp luật về xã hội hóa đối với một số dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp đã được thực hiện có hệ thống, đề cập một cách toàn diện về việc thực hiện xã hội hóa dịch vụ công đó, bao gồm yêu cầu hoàn thiện pháp luật. Tuy được thực hiện trong từng lĩnh vực cụ thể, nhưng những kết quả nghiên cứu này có ý nghĩa quan trọng giúp cho nghiên cứu sinh trong việc khái quát hóa các quan điểm, định hướng hoàn thiện pháp luật và đề xuất nội dung pháp luật cần tiếp tục được hoàn thiện cho từng lĩnh vực cụ thể. 1.3.1.2.Về kết quả nghiên cứu của nước ngoài Trên thế giới, các nghiên cứu về dịch vụ công, pháp luật về dịch vụ công và XHHDVC cũng đã được thực hiện. Đánh giá chung cho thấy có những khó khăn nhất định trong việc tìm hiểu, tiếp cận các thông tin trực tiếp liên quan đến xã hội
  • 30. hóa một lĩnh vực hay công việc do XHHDVC là khái niệm mang tính chất khá đặc thù của Việt Nam nhưng qua các kết quả nghiên cứu cũng thu thập được các thông tin có giá trị tham khảo cơ bản như sau: Một là, dịch vụ công là một khái niệm được sử dụng khá phổ biến trong các nghiên cứu của nước ngoài nhưng cách hiểu, đặc biệt là việc xác định các dịch vụ công cụ thể lại rất khác nhau trong các trường hợp khác nhau. Nhìn chung, quan điểm về dịch vụ công là một khái niệm phụ thuộc nhiều vào điều kiện kinh tế - xã hội của các quốc gia, trong đó có trình độ phát triển kinh tế - xã hội. Khái niệm dịch vụ công là một khái niệm mở và do vậy đang được tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện trong bối cảnh mới. Hai là, cách tiếp cận với thuật ngữ “xã hội hóa” [socialization] trên thế giới có sự khác biệt nhất định với quan niệm phổ biến về XHHDVC ở Việt Nam. Trong thế giới hiện đại, vai trò của Nhà nước đang có sự thay đổi và đang đứng trước những yêu cầu, thách thức mới. Việc thay đổi này có liên hệ mật thiết với vấn đề dịch vụ công với ý nghĩa là những trách nhiệm xã hội của Nhà nước. Đây là lý do khi các nghiên cứu hướng đến những biện pháp, cách thức để có thể giúp cho Nhà nước vượt qua những yêu cầu, thách thức mới, hoàn thành trách nhiệm của mình với xã hội. Các nghiên cứu được thực hiện trên nhiều khía cạnh, nhiều định hướng, trong đó có sự tăng cường hợp tác giữa Nhà nước với công dân và xã hội. Mặc dù không sử dụng thuật ngữ “xã hội hóa dịch vụ công” nhưng việc chuyển giao nói trên có sự tương đồng với khái niệm XHHDVC đang được thực hiện ở Việt Nam từ khía cạnh về sự tham gia của Nhà nước và xã hội trong cung cấp dịch vụ công. Điều này cho thấy việc thực hiện XHHDVC như ở Việt Nam phù hợp với xu hướng của thế giới và phát triển trong một xã hội hiện đại. Ba là, pháp luật về xã hội hóa các hoạt động cụ thể trong lĩnh vực tư pháp ở các nước khác nhau phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội, pháp luật, trong đó có phụ thuộc vào trường phái pháp luật của mỗi nước. Vì vậy, cách giải quyết vấn đề pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp ở các nước cũng có những sự khác biệt nhất định so với Việt Nam.
  • 31. Từ những công trình nghiên cứu trong nước và thế giới đã được tham khảo có thể rút ra một số nhận xét phục vụ cho việc đánh giá tình hình nghiên cứu có liên quan tới đề tài như sau: Trên cả bình diện quốc tế và Việt Nam, chưa có công trình khoa học nào đi sâu nghiên cứu toàn diện, có hệ thống về pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp. Các công trình nghiên cứu được thực hiện theo hai hướng chính, bao gồm nghiên cứu chung về XHHDVC ở phạm vi rộng, liên quan đến những vấn đề lý luận chung về nhà nước, pháp luật, vai trò của nhà nước và sự chuyển giao công việc của nhà nước cho xã hội ở các nghiên cứu, các sách, đề tài, luận án, luận văn, giáo trình, tài liệu bồi dưỡng; hoặc nghiên cứu ở phạm vi hẹp về các vấn đề cụ thể liên quan tới xã hội hóa đối với từng loại dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp trong các bài viết, đề tài nghiên cứu khoa học, báo cáo, tham luận, luận văn. Tuy nhiên, dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp trong thời gian qua được nghiên cứu phục vụ cho các yêu cầu xây dựng pháp luật hay QLNN, cải cách tư pháp nói chung mà ít được quan tâm tiếp cận dưới góc độ cụ thể về dịch vụ công và XHHDVC. Các nghiên cứu tập trung vào từng lĩnh vực mà chưa có các nghiên cứu tổng thể, khái quát để chỉ ra những đặc điểm chung từ đó có định hướng cho việc hoàn thiện pháp luật mang tính dài hạn, chiến lược, được xem xét trong tổng thể chung về vai trò của Nhà nước và XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp. Nhiều vấn đề lý luận cơ bản cũng như thực trạng pháp luật chưa được nghiên cứu một cách khách quan, toàn diện gắn với điều kiện, bối cảnh cụ thể ở Việt Nam nên chưa xác định được những định hướng chung cho việc hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp. Đặc biệt, ở cấp độ nghiên cứu luận án tiến sĩ, chưa có một công trình nào nghiên cứu về hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp. Do đó, đây là vấn đề cần thiết được nghiên cứu, đặc biệt là để tiếp tục thực hiện có hiệu quả chủ trương XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp theo yêu cầu cải cách tư pháp, đổi mới hoạt động của bộ máy nhà nước của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. 1.3.2. Những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu Trên cơ sở kế thừa kết quả của các công trình nghiên cứu đã thực hiện, trong phạm vi nghiên cứu của mình, nghiên cứu sinh cần thiết phải tiếp tục làm sáng tỏ
  • 32. các vấn đề lý luận và thực tiễn đối với việc hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp nói chung (không đi vào từng lĩnh vực cụ thể). Cụ thể như sau: Về lý luận, luận án cần tiếp tục làm sáng tỏ các vấn đề lý luận cho hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp, bao gồm: - Khái niệm, đặc điểm, nội dung và vai trò của pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp. - Xác định các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện của pháp luật và các yếu tố ảnh hướng đến việc hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp ở Việt Nam. - Nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước về pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp và rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. Về thực tiễn, luận án cần phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp, bao gồm: - Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp. - Đánh giá những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của ưu điểm, hạn chế của pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp ở Việt Nam hiện nay. - Xác định các quan điểm và giải pháp, nội dung hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp ở Việt Nam hiện nay phù hợp với định hướng của Đảng và Nhà nước XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp theo yêu cầu cải cách hành chính, cải cách pháp luật, cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến Luận án đã được nghiên cứu, khảo sát trên hai phương diện, bao gồm những công trình nghiên cứu ở Việt Nam và một số công trình nghiên cứu trên thế giới có liên quan đến đề tài. Đánh giá chung cho thấy ở trong nước, pháp luật XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp là vấn đề mới nhưng đã thu hút được sự quan tâm nghiên cứu ở các cấp độ từ luận văn, luận án tiến sỹ đến các chuyên đề, bài báo... Mặc dù vậy, các kết quả nghiên cứu mới chỉ dừng ở những vấn đề cơ bản hoặc tập trung vào những khía cạnh, từng lĩnh vực hoạt động tư pháp cụ thể mà chưa có nghiên cứu chung về vấn
  • 33. đề này làm cơ sở, định hướng cho việc hoàn thiện pháp luật cũng như đánh giá mức độ hoàn thiện của pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp. Trên phương diện quốc tế, vấn đề XHHDVC nói chung và XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp được đề cập đến trong bối cảnh chuyển giao, huy động xã hội vào việc thực hiện dịch vụ công gắn với vai trò, trách nhiệm xã hội của Nhà nước. Kết quả nghiên cứu pháp luật XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp trên thế giới cho thấy có những quan điểm, cách thức khác nhau trong việc xác định dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp và phạm vi, cách thức xây dựng và hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp cũng có những điểm khác biệt, phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội, lịch sử cụ thể của từng quốc gia. 2. Các kết quả nghiên cứu có giá trị tham khảo quan trọng để xác định nội dung nghiên cứu, đánh giá thực trạng và định hướng kiến nghị các giải pháp hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp trong Luận án. 3. Dựa trên kết quả khảo sát các công trình nghiên cứu, tác giả đã xác định những vấn đề về lý luận và thực tiễn cần tiếp tục nghiên cứu nhằm đề xuất quan điểm định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về XHHDVC ở Việt Nam hiện nay.
  • 34. Chƣơng 2 CƠ SỞ LÝ LUẬN HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH VỤ CÔNG TRONG LĨNH VỰC TƢ PHÁP 2.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, NỘI DUNG PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH VỤ CÔNG TRONG LĨNH VỰC TƢ PHÁP 2.1.1. Khái niệm, đặc điểm và nội dung xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tƣ pháp 2.1.1.1. Khái quát chung về dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp Có những quan niệm khác nhau về dịch vụ công nhưng khái quát chung thì dịch vụ công được hiểu là những dịch vụ gắn với lợi ích chung, thiết yếu của đa số nhân dân hay dịch vụ công gắn với trách nhiệm của Nhà nước đối với dân chúng [12, tr.154]. Dịch vụ công ra đời và tồn tại xuất phát từ chức năng phục vụ của Nhà nước, phù hợp với sự vận động của xã hội và nhu cầu thực tiễn về dịch vụ công trong xã hội [72, tr.65]. Ví dụ hệ thống y tế công ở Anh phát triển rất mạnh nhưng trong khi đó ở Mỹ thì dịch vụ này phần lớn lại được cung cấp bởi khu vực tư [106, tr.4]. Trong phạm vi Khối cộng đồng chung Châu Âu (EU), dịch vụ công thường được dùng với ý nghĩa dịch vụ được cung cấp cho công dân hay vì lợi ích chung theo những tiêu chuẩn và quy định chung của Nhà nước và bởi các thiết chế thuộc sở hữu công. Dịch vụ công có thể được hiểu bao gồm các dịch vụ công cộng như năng lượng, giao thông hay các dịch vụ phúc lợi như y tế, giáo dục, hưu trí...[110, tr.2]. Tổ chức thương mại thế giới (WTO), trong khuôn khổ của Hiệp định chung về dịch vụ (GATS) sử dụng khái niệm về dịch vụ được cung cấp trong phạm vi thực hiện trách nhiệm của Chính phủ, tức là các dịch vụ được cung cấp không dựa trên cơ sở thương mại cũng như trong sự cạnh tranh với các nhà cung cấp dịch vụ khác [104, tr.6]. Khái niệm dịch vụ được cung cấp trong phạm vi thực hiện trách nhiệm của Chính phủ có sự tương đồng nhất định với quan niệm về dịch vụ công. Có thể thấy, việc xác định dịch vụ công phụ thuộc vào mỗi quốc gia và mỗi giai đoạn khác nhau. Phạm vi dịch vụ công có thể rất rộng, bao gồm tất cả các hoạt động nhằm thực hiện chức năng vốn có của Chính phủ. Theo phạm vi hẹp hơn, dịch
  • 35. vụ công bao gồm những hàng hóa, dịch vụ trực tiếp phục vụ nhu cầu của nhân dân mà Chính phủ can thiệp vào việc cung cấp. Trong điều kiện nước ta hiện nay, khái niệm dịch vụ công thường được hiểu theo nghĩa hẹp, xuất phát từ nhu cầu tách biệt giữa chức năng quản lý và chức năng phục vụ của Nhà nước, cũng như xu hướng ngày càng chú trọng đến vai trò xã hội của Nhà nước trong việc bảo đảm các lợi ích thiết yếu của xã hội, các quyền, nghĩa vụ cơ bản của tổ chức và công dân [12, tr.155-156]. Với nhận thức và cách xác định phạm vi dịch vụ công khác nhau thì các loại hình dịch vụ công được tổ chức thực hiện trên thực tế khá đa dạng. Dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp là một loại hình dịch vụ công được xác định trên cơ sở phân loại theo hình thức, nội dung dịch vụ cụ thể. Tiếng Anh sử dụng cụm từ “justice” để chỉ tư pháp, công lý, là một trong ba nhánh quyền lực để tổ chức và duy trì trật tự xã hội, xuất phát từ lý thuyết về sự phân chia quyền lực, được khởi xướng bởi các nhà triết học xưa, phát triển qua thời kỳ La Mã cổ đại và được Montesquieu phát triển toàn diện thành học thuyết tam quyền phân lập thể hiện trong tác phẩm Tinh thần pháp luật [45]. Quyền tư pháp theo quan niệm của Montesquieu là quyền trừng trị tội phạm, phân xử tranh chấp cá nhân hay nói cách khác quyền tư pháp chính là quyền xét xử tranh chấp giữa các chủ thể pháp lý trong xã hội. Thông qua việc thực hiện quyền tư pháp, pháp luật được áp dụng, tôn trọng và chấp hành bởi các tổ chức, cá nhân trong xã hội. Theo định nghĩa của cuốn từ điển nổi tiếng thế giới (Black’s Law Dictionary), quyền tư pháp (judicial power) là “thẩm quyền được trao cho tòa án và các thẩm phán xem xét và quyết định các vụ việc và đưa ra phán quyết có giá trị bắt buộc thi hành đối với các vụ việc ấy; quyền giải thích và áp dụng pháp luật khi có tranh cãi phát sinh từ việc một điều gì đó có phù hợp hay không phù hợp với pháp luật điều chỉnh việc ấy”[26, tr.2]. Ở Việt Nam, “tư pháp” được tiếp cận theo những quan điểm khác nhau về phạm vi. Tư pháp có thể được hiểu là một lĩnh vực quyền lực nhà nước được thực hiện thông qua hoạt động phân xử và phán xét tính đúng đắn, tính hợp pháp của các hành vi, các quyết định pháp luật khi có sự tranh chấp về các quyền và lợi ích giữa các chủ thể [35, tr.11], qua đó, bảo vệ pháp luật, công lý, tự do của công dân và trật tự an toàn xã hội. Quan điểm về tư pháp này của các nhà nghiên cứu Việt Nam có sự
  • 36. tương đồng với các nhà nghiên cứu trên thế giới. Tư pháp gắn với quyền tư pháp hay là quyền xét xử [72, tr.21]. Tư pháp cũng có thể được hiểu ở phạm vi rộng hơn là hoạt động bảo vệ pháp luật, trong đó hoạt động xét xử của Tòa án là trung tâm. Hoạt động tư pháp không chỉ là các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án mà còn là các hoạt động luật sư, công chứng, giám định, đấu giá, thống kê tư pháp. Tương ứng với đó, các cơ quan tư pháp bao gồm Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án dân sự, đồng thời còn bao gồm các cơ quan tư pháp trong hệ thống hành pháp, cụ thể là Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp và ở cấp xã đó là các công chức Tư pháp - Hộ tịch [45]. Cách tiếp cận tư pháp phạm vi rộng này được thể hiện trong các Nghị quyết về cải cách tư pháp và thông qua cách thức tổ chức bộ máy nhà nước cùng với các hoạt động thực thi quyền lực nhà nước. Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/1/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới đã tiếp cận “tư pháp” và “công tác tư pháp” với phạm vi từ điều tra, truy tố, xét xử đến thi hành án (bao gồm cả thi hành án hình sự và dân sự). Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 tiếp tục chỉ ra hệ thống cơ quan tư pháp với trọng tâm là Tòa án nhân dân thực hiện quyền xét xử. Viện Kiểm sát nhân dân thực hiện quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp; các cơ quan điều tra thực hiện nhiệm vụ điều tra trong tố tụng hình sự và các cơ quan thi hành án dân sự. Ngoài những hoạt động tư pháp nói trên, Nghị quyết số 08-NQ/TW đề cập đến hoạt động luật sư, cảnh sát tư pháp, công chứng, giám định, thống kê tư pháp với tư cách là các hoạt động bổ trợ tư pháp. Nghị quyết số 49-NQ/TW xác định nhiệm vụ hoàn thiện các chế định bổ trợ tư pháp như một hoạt động quan trọng trong công tác tư pháp và hoàn thiện các chế định bổ trợ tư pháp là một khâu quan trọng trong cải cách tư pháp. So với Nghị quyết số 08- NQ/TW, Nghị quyết số 49-NQ/TW bổ sung thêm hoạt động thừa phát lại cũng là một trong những chế định trong thực hiện xã hội hóa. Như vậy, mặc dù có những quan niệm, phạm vi tiếp cận khác nhau nhưng xuất phát từ quan điểm, định hướng và thực tiễn thực hiện cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay thì tư pháp không chỉ bao gồm
  • 37. hoạt động xét xử mà còn bao gồm các hoạt động hỗ trợ cho xét xử nhằm tổ chức thực hiện và bảo vệ pháp luật, duy trì công lý, lẽ phải, công bằng trong xã hội. Cũng như các lĩnh vực khác trong đời sống xã hội, lĩnh vực tư pháp cũng bao gồm dịch vụ công phục vụ cho nhu cầu cơ bản, thiết yếu của người dân, gắn với trách nhiệm của Nhà nước trước công dân, vì lợi ích chung của xã hội. Những hoạt động này không trực tiếp sử dụng quyền lực nhà nước - quyền tư pháp, do vậy có thể do các cơ quan Nhà nước thực hiện hoặc ủy quyền cho các tổ chức, cá nhân trong xã hội thực hiện theo các nguyên tắc, tiêu chuẩn được pháp luật quy định nhằm mục đích đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người dân trong sử dụng dịch vụ để bảo vệ quyền và lợi ích của mình. Dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp cũng mang đặc điểm cơ bản của dịch vụ công nói chung như tính chất xã hội, việc cung ứng dịch vụ công không thông qua quan hệ thị trường đầy đủ, Nhà nước chịu trách nhiệm trước xã hội, bảo đảm tính công bằng, hiệu quả trong cung cấp dịch vụ công... Đồng thời, dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp cũng có những đặc điểm riêng gắn với hoạt động xét xử, thực hiện và bảo vệ pháp luật. Cụ thể như sau: Thứ nhất, dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp là các dịch vụ phục vụ các nhu cầu cơ bản, thiết yếu của người dân mà các nhu cầu, cơ bản thiết yếu này là cơ sở cho việc bảo đảm thực hiện các quyền và lợi ích chính đáng của công dân. Thông qua việc sử dụng các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp, người dân có thể bảo vệ được lợi ích của mình bằng các cơ chế phòng ngừa hoặc đưa ra yêu cầu để các cơ quan Nhà nước thực hiện nghĩa vụ nhằm bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân được thực hiện trên thực tế. Thứ hai, lợi ích chung của xã hội mà dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp hướng đến là bảo vệ pháp luật, duy trì công bằng, công lý, lẽ phải trong xã hội. Quyền tư pháp là một trong ba nhánh quyền lực cơ bản (quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp) cấu thành nên quyền lực nhà nước. Chức năng của quyền tư pháp là bảo vệ pháp luật với phương thức đặc thù thực hiện chức năng này tài phán cùng với các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án và các hoạt động bổ trợ khác phục vụ cho hoạt động xét xử [26, tr.3]. Các hoạt động này hướng đến nhu cầu của người dân trong thực hiện pháp luật, bảo vệ cũng như phòng ngừa các vi phạm có thể ảnh hưởng
  • 38. quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Việc mỗi người dân bảo vệ được quyền và lợi ích chính đáng của mình không chỉ có ý nghĩa đối với cá nhân đó, mà còn tạo được niềm tin chung của cộng đồng vào công lý, công bằng, tạo nên ý thức và hành động ứng xử theo quy định của pháp luật, bảo đảm cho pháp luật được thực thi trên thực tế. Thứ ba, chủ thể thực hiện dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp là các cơ quan tư pháp được tiếp cận theo phạm vi rộng, không chỉ trực tiếp là tòa án, viện kiểm sát, cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống hành pháp (như cơ quan điều tra, thi hành án của ngành công an; cơ quan thi hành án, cơ quan tư pháp của ngành tư pháp) mà còn bao gồm các tổ chức nghề nghiệp nằm ngoài quyền lực nhà nước được Nhà nước ủy quyền hoặc cho phép thực hiện các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp như các tổ chức hành nghề của luật sư, công chứng viên, giám định tư pháp, thừa phát lại. Nghị quyết số 49-NQ/TW gọi đây là các thiết chế bổ trợ tư pháp. Các thiết chế bổ trợ tư pháp này có thể được vận hành bởi các tổ chức, cá nhân khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện do pháp luật đặt ra. Thứ tư, việc thực hiện các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp không chỉ phải tuân thủ các quy trình, tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ chuyên ngành mà còn phải bảo đảm phù hợp với các nguyên tắc, quy định tố tụng, thực hiện quyền tư pháp. Dịch vụ công bắt nguồn từ chức năng phục vụ của Nhà nước, gắn với trách nhiệm của Nhà nước nên việc cung ứng các dịch vụ công dù do chủ thể nào thực hiện thì cần phải bảo đảm chất lượng theo những tiêu chuẩn nhất định với các quy trình, cách thức, tiêu chí thực hiện dịch vụ công [74, tr.22]. Các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp được thực hiện gắn với quyền tư pháp mà trung tâm là hoạt động xét xử, đưa ra phán quyết của Tòa án. Quy trình ra phán quyết của tòa án khá đặc biệt so với các quá trình ra quyết định của các cơ quan lập pháp hoặc các cơ quan hành pháp. Trong quá trình tố tụng tư pháp, chất lượng quyết định của các tòa án không chỉ phụ thuộc vào năng lực chuyên môn của người ra quyết định (thẩm phán, hội thẩm) mà còn phụ thuộc vào chất lượng thông tin và năng lực của các bên tham gia tố tụng với các chức năng tố tụng khác nhau có các quyền và nghĩa vụ khác nhau, thậm chí là đối ngược nhau. Nói cách khác, các bên tham gia không chỉ là đối tượng bị áp đặt bởi các quyết định của Tòa án mà bản thân họ cũng là những người tham gia vào quá trình ra quyết định của tòa án, thông qua việc cung cấp, kiểm tra chéo các thông tin, chứng cứ về tình tiết đã