Luận văn thạc sĩ ngành luật: Áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm đối với người chưa thành niên phạm tội – Qua thực tiễn tỉnh Thanh Hoá, cho các bạn tham khảo
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...
Pháp luật trong xét xử sơ thẩm người chưa thành niên phạm tội
1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LÊ ANH XUÂN
¸P DôNG PH¸P LUËT
TRONG XÐT Xö S¥ THÈM NG¦êI CH¦A THµNH NI£N PH¹M TéI -
QUA THùC TIÔN TØNH THANH HãA
Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật
Mã số: 60 38 01 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: GS. TS. HOÀNG THỊ KIM QUẾ
HÀ NỘI - 2014
2. LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Lê Anh Xuân
3. MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục bảng
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG
XÉT XỬ SƠ THẨM ĐỐI VỚI NGƢỜI CHƢA THÀNH
NIÊN PHẠM TỘI CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN .............................. 8
1.1. Khái niệm và đặc điểm áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm
đối với ngƣời chƣa thành niên phạm tội của Tòa án nhân dân......... 8
1.1.1. Khái niệm áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm đối với người
chưa thành niên phạm tội của Tòa án nhân dân.................................... 8
1.1.2. Đặc điểm áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm đối với người
chưa thành niên phạm tội của Tòa án nhân dân..................................19
1.2. Quy trình áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm đối với
ngƣời chƣa thành niên phạm tội của Tòa án nhân dân ................27
1.2.1. Giai đoạn thụ lý, nghiên cứu hồ sơ vụ án đánh giá về thủ tục tố
tụng và chứng cứ.................................................................................28
1.2.2. Giai đoạn lựa chọn quy phạm pháp luật áp dụng đối với bị cáo............37
1.2.3. Giai đoạn ban hành quyết định hoặc bản án hình sự ..........................41
1.3. Các điều kiện bảo đảm áp dụng pháp luật trong xét xử sơ
thẩm đối với ngƣời chƣa thành niên phạm tội của Tòa án
nhân dân.............................................................................................46
4. 1.3.1. Nội dung áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm người chưa
thành niên phạm tội.............................................................................46
1.3.2. Các yếu tố đảm bảo áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm đối
với người chưa thành niên phạm tội của Tòa án nhân dân.................47
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG XÉT XỬ
SƠ THẨM ĐỐI VỚI NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN PHẠM
TỘI CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN Ở TỈNH THANH HOÁ...............57
2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh Thanh Hoá..............57
2.1.1. Về đặc điểm tự nhiên ..........................................................................57
2.1.2. Về phát triển kinh tế - xã hội ..............................................................57
2.2. Tình hình ngƣời chƣa thành niên phạm tội ở tỉnh Thanh Hoá....58
2.3. Thực trạng áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm đối với
ngƣời chƣa thành niên phạm tội của Tòa án nhân dân ở tỉnh
Thanh Hoá .........................................................................................65
2.3.1. Khái quát về tổ chức bộ máy Tòa án nhân dân ở tỉnh Thanh Hoá ..........65
2.3.2. Những ưu điểm chủ yếu về áp dụng pháp luật trong xét xử sơ
thẩm đối với người chưa thành niên phạm tội của Tòa án nhân
dân ở tỉnh Thanh Hoá..........................................................................69
2.3.3. Những hạn chế chủ yếu về áp dụng pháp luật trong xét xử sơ
thẩm đối với người chưa thành niên phạm tội của Tòa án nhân
dân ở tỉnh Thanh Hoá và nguyên nhân...............................................72
Chƣơng 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG
PHÁP LUẬT TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM ĐỐI VỚI
NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI CỦA TÒA ÁN
NHÂN DÂN Ở TỈNH THANH HOÁ..............................................81
3.1. Quan điểm áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm đối với
ngƣời chƣa thành niên phạm tội .....................................................81
5. 3.1.1. Quán triệt quan điểm của Đảng về xử lý người chưa thành niên
phạm tội ..............................................................................................81
3.1.2. Trong áp dụng pháp luật đối với người chưa thành niên phạm tội
phải đảm bảo nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp
luật, kết hợp chặt chẽ cưỡng chế với giáo dục thuyết phục................82
3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng pháp luật trong xét xử sơ
thẩm đối với ngƣời chƣa thành niên phạm tội của Tòa án
nhân dân ở tỉnh Thanh Hoá.............................................................85
3.2.1. Nhóm giải pháp chung........................................................................85
3.2.2. Nhóm giải pháp cụ thể......................................................................100
KÕT LUËN..................................................................................................108
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................111
6. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ADPL: Áp dụng pháp luật
BLHS: Bộ luật hình sự
BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự
HĐXX: Hội đồng xét xử
NCTT: Người chưa thành niên
QPPL: Quy phạm pháp luật
TAND: Tòa án nhân dân
TNHS: Trách nhiệm hình sự
TTHS: Tố tụng hình sự
7. DANH MỤC BẢNG
Số hiệu bảng Tên bảng Trang
Bảng 2.1: Thống kê tội phạm trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá từ năm
2009 - 2013 59
Bảng 2.2: Thống kê tội phạm người chưa thành niên trên địa bàn
tỉnh Thanh Hoá từ năm 2009 - 2013 60
Bảng 2.3: Thống kê vụ án do người chưa thành niên phạm tội được
đưa ra xét xử từ năm 2009 - 2013 61
8. 1
MỞ ĐẦU
1. TÝnh cÊp thiÕt cña đề tài
Thanh thiếu niên là nguồn nhân lực tương lai của đất nước , có vai trò
quan trọng, xung kích trong công cuô ̣c xây dựng và bảo vê ̣Tổ quốc . Vấn đề
chăm sóc, giáo dục thế hệ trẻ và phòng ngừa , ngăn chă ̣n ng ười chưa thành
niên pha ̣m tội là một viê ̣c làm không chỉ có ở Viê ̣t Nam mà tất cả các quốc gia
trên thế giới cũng đă ̣c biê ̣t quan tâm, nghiên cứ u và thực hiê ̣n. Bởi thế hê ̣trẻ là
tương lai của đất n ước, là lớp người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ
quốc vì một ngày mai tươi sáng, "Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai". Vì vậy,
viê ̣c bảo vê ̣, chăm sóc và giáo dục thế hê ̣trẻ là một trong những mối quan tâm
hàng đầu, là vấn đề chiến lược của Đảng và Nhà nước ta ; Chủ tịch Hồ Chí
Minh kính yêu của chúng ta đã căn dă ̣n : "Bồi dưỡng thế hệcá ch mạng cho đờ i
sau là việc là m rất quan trọng và cần thiết" [13].
Người chưa thành niên phạm tội là một hiện tượng thực tế, tồn tại trong
tất cả các xã hội. Trong những năm qua và nhất là thời điểm hiện nay, tình
trạng người chưa thành niên phạm tội ở Việt Nam diễn biến rất phức tạp.
Việc giải quyết vấn đề người chưa thành niên phạm tội là việc làm cần thiết
để giữ nghiêm ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội, nhưng cũng là một
vấn đề phức tạp và tế nhị. Tội phạm do người chưa thành niên gây ra đang là
nỗi đau của gia đình, đồng thời là vấn đề nhức nhối của xã hội. Dưới tác động
nhiều mặt của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, của xu
hướng hội nhập quốc tế… đời sống kinh tế, đời sống xã hội của nước nhà đã
có bước phát triển vượt bậc. Song những ảnh hưởng từ mặt trái của kinh tế thị
trường, từ những luồng văn hoá phẩm độc hại xâm nhập thông qua các con
đường khác nhau trong quá trình mở cửa hội nhập đã có tác động tiêu cực đến
tư tưởng lối sống của không ít cá nhân, trong đó có người chưa thành niên.
Tình trạng người chưa thành niên phạm tội có chiều hướng gia tăng, tính chất
9. 2
mức độ phạm tội ngày một nghiêm trọng phức tạp. Trong thời gian qua, cùng
với việc xây dựng chủ trương đường lối chính sách phát triển trên tất cả các
lĩnh vực. Đảng và Nhà nước ta luôn giành sự quan tâm, chăm lo về mọi mặt
cho trẻ vị thành niên. Phần lớn các em đáp ứng được mong mỏi của gia đình
và xã hội, sống có lý tưởng, không ngừng tu dưỡng về đạo đức, nỗ lực học tập
tiếp thu kiến thức nhằm cống hiến sức lực, trí tuệ của mình cho sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, bên cạnh đó còn một bộ phận không nhỏ
thanh thiếu niên ở độ tuổi chưa thành niên không chịu rèn luyện, sống buông
thả, đua đòi dẫn đến những hành vi vi phạm pháp luật.
Chính vì vậy, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề giải quyết
tội phạm về người chưa thành niên là không phải chỉ đơn giản là xử một vụ án,
trừng phạt một tội phạm nào đó, điều quan trọng là phải tìm ra mọi cách để làm
giảm bớt những hoạt động phạm pháp và tốt hơn hết là ngăn ngừa đừng để các
việc sai trái ấy xảy ra, quán triệt tinh thần đó, Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam
năm 2003 đã dành nguyên một chương riêng biệt (Chương XXXII) quy định về
thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên.
Đây là cơ sở pháp lý để áp dụng khi xử lý đối với người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo là người chưa thành niên. Tuy nhiên, trong thực tiễn áp dụng các
quy định này đã nảy sinh nhiều vướng mắc và bất cập. Qua quá trình nghiên
cứu lý luận và thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự
trong việc giải quyết các vụ án mà bị cáo là người chưa thành niên, chúng tôi
thấy, những người tiến hành tố tụng không những phải nắm vững các quy
định của pháp luật, tuân thủ chặt chẽ các thủ tục tố tụng đặc biệt này mà còn
phải có kiến thức nhất định về đặc điểm tâm sinh lý của lứa tuổi chưa thành
niên để phục vụ cho công tác xét xử đạt chất lượng cao.
Thanh Hoá là một tỉnh duyên hải Bắc miÒn trung có diện tích đất tự
nhiên lớn, điều kiện địa lý có cả đồng bằng, miền núi và trung du, là một
10. 3
trong những tỉnh có số lượng dân cư lớn. Trong những năm vừa qua hòa
chung công cuộc đổi mới hội nhập phát triển của cả nước, tình hình kinh tế-
xã hội trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá đã có những bước phát triển tích cực,
nhiều khu kinh tế, khu công nghiệp được hình thành. Khu vực kinh tế vừa và
nhỏ phát triển mạnh, tốc độ đô thị hóa diễn ra nhanh, diện mạo xã hội có
nhiều thay đổi kể cả nông thôn và thành thị. Tuy nhiên mặt trái của nền kinh
tế thị trường đã nảy sinh nhiều hành vi phạm tội mới, trong đó tội phạm do
người chưa thành niên phạm tội gây ra có những diễn biến hết sức phức tạp,
những hành vi trên không chỉ diễn ra ở thành thị mà nó đã lan rộng ra địa bàn
vùng sâu vùng xa. Số lượng người chưa thành niên phạm tội năm sau cao hơn
năm trước, tính chất mức độ hành vi phạm tội ngày càng nghiêm trọng hơn.
Bên cạnh đó hoạt động xét xử đối với các tội phạm do người chưa thành niên
gây ra còn bộc lộ những bất cập, hạn chế. Đây là nguyên nhân dẫn đến việc
một số vụ án bị tòa án cấp trên sửa hoặc hủy, quyền của người chưa thành
niên phạm tội có lúc, có nơi chưa được tôn trọng và bảo vệ, tác dụng giáo
dục, phòng ngừa tội phạm do người chưa thành niên gây ra bị hạn chế.
Thời gian qua đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề
áp dụng pháp luật của tòa án nhân dân, áp dụng pháp luật trong xét xử hình
sự, nghiên cứu các biện pháp phòng ngừa người chưa thành niên phạm tội,
quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội… tuy nhiên,
chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống về áp dụng pháp
luật trong xét xử sơ thẩm người chưa thành niên phạm tội của Tòa án nhân
dân tỉnh Thanh Hoá tạo cơ sở lý luận nhằm đưa ra những giải pháp thiết thực,
nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong xét xử và góp phần ngăn chặn tình
trạng người chưa thành niên phạm tội một cách hiệu quả. Thực trạng ADPL
trong xét xử sơ thẩm các vụ án đối với người chưa thành niên phạm tội ở
Thanh Hoá cũng còn không ít những hạn chế yếu kém. Xuất phát từ những lý
11. 4
do trên và trước những đòi hỏi của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, việc
nghiên cứu sâu để ADPL xét xử đối với những vụ án mà bị cáo là người chưa
thành niên trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam nói chung và áp dụng
pháp luật trong hoạt động xét xử sơ thẩm người chưa thành niên phạm tội của
Tòa án nhân dân ở Tỉnh Thanh Hoá nói riêng là vấn đề có ý nghĩa sâu sắc cả
về mặt lý luận cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật. Từ những lý do đó tác
giả chọn đề tài: "Áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm đối với người
chưa thành niên phạm tội – Qua thực tiễn tỉnh Thanh Hoá" làm luận văn
thạc sỹ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu những vấn đề liên quan đến người chưa thành niên phạm
tội và áp dụng pháp luật trong xét xử hình sự, xét xử người chưa thành niên
phạm tội đã được một số nhà khoa học và cán bộ làm công tác thực tiễn tiến
hành, công bố trong nhiều công trình khoa học. Có một số luận án tiến sỹ,
luận văn thạc sĩ, một số giáo trình giảng dạy, bài viết trên tạp chí và một số
sách chuyên khảo đã nghiên cứu về vấn đề này.
Cụ thể có những công trình tiêu biểu sau đây:
- Một số sách chuyên khảo và một luận án, luận văn đề cập đến áp
dụng pháp luật nói chung, áp dụng pháp luật của tòa án nhân dân trong xét
xử hình sự và áp dụng pháp luật đối với người chưa thành niên phạm tội:
+ GS.TSKH Đào Trí Úc trong “Những vấn đề lý luận cơ bản về pháp
luật” đã đi sâu phân tích về áp dụng pháp luật và hoạt động xét xử của tòa
án nhân dân.
+ Luận án tiến sỹ Luật học của Lê Xuân Thân về “Áp dụng pháp luật
trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân ở Việt Nam hiện nay”, 2004.
+ Luận văn thạc sỹ Luật học của Vũ Thị Thu Quyên về “Hoàn thiện
pháp luật bảo đảm quyền của người chưa thành niên phạm tội ở Việt Nam
hiện nay”, 2003.
12. 5
+ Đại học Quốc gia Hà Nội - Khoa Luật: “Cải cách tư pháp ở Việt Nam
trong giai đoạn xây dựng Nhà nước Pháp quyền” do TSKH Lê Cảm và TS
Nguyễn Ngọc Chí đồng chủ biên.
- Một số các bài viết trên các tạp chí chuyên ngành của các tác giả:
+ Đỗ Thị Phượng: Sự cần thiết phải thành lập Tòa án Người chưa
thành niên ở Việt Nam; Tạp chí Tòa án nhân dân số 21,22-11/2009.
+ Cao Thị Oanh: Hoàn thiện những quy định về trách nhiệm hình sự
của người chưa thành niên phạm tội; Tạp chí Luật học số 10/2007.
+ Nguyễn Tất Viễn: “Tòa án người chưa thành niên”, Tạp chí Vì trẻ
thơ, số chuyên đề, năm 2000.
+ Lê Cảm: “Một số vấn đề lý luận chung về các giai đoạn tố tụng hình
sự", Tạp chí Kiểm sát số 2/2004.
+ Đặng Thanh Nga: “Khía cạnh tâm lý của tội phạm vị thành niên cần
được chú ý trong điều tra truy tố và xét xử”, Tạp chí Tâm lý học số 5/2002.
+ Dương Tuyết Miên: “Quyết định hình phạt đối với người chưa thành
niên phạm tội”, Tạp chí Luật học số 4/2002.
+ Trần Văn Dũng: “Quyết định hình phạt trong trường hợp người chưa
thành niên phạm nhiều tội”, Tạp chí Luật học số 5/2000.
+ Chương Minh Mạnh: “Phân loại tội phạm với việc quy định trách
nhiệm hình sự của người chưa thành niên”, Tạp chí Kiểm sát số 8/2002.
Tuy nhiên cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách có
hệ thống dưới góc độ lý luận chung vấn đề nhà nước và pháp luật về việc áp
dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm người chưa thành niên phạm tội của tòa án
nhân dân nói chung và của tòa án nhân dân các cấp ở tỉnh Thanh Hoá nói riêng.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
* Về đối tượng nghiên cứu, luận văn tập trung nghiên cứu những vấn
đề sau
- Những vấn đề lý luận về ADPL nói chung và ADPL trong hoạt động
xét xử sơ thẩm người chưa thành niên phạm tội nói riêng.
13. 6
- Thực tiễn ADPL trong hoạt động xét xử sơ thẩm người chưa thành
niên phạm tội ở Thanh Hoá.
- Những tồn tại và nguyên nhân phát sinh tồn tại của việc ADPL trong
hoạt động xét xử sơ thẩm người chưa thành niên phạm tội.
- Những giải pháp góp phần nâng cao chất lượng ADPL trong hoạt
động xét xử sơ thẩm người chưa thành niên phạm tội.
* Về phạm vi nghiên cứu của đề tài
Trên cơ sở lý luận về ADPL trong hoạt động xét xử luận văn chủ yếu
đi sâu nghiên cứu thực tiễn ADPL trong hoạt động xét xử sơ thẩm người
chưa thành niên phạm tội của Ngành Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hoá từ
năm 2009-2014.
4. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Về mục đích:
Mục đích nghiên cứu cơ sở lý luận về áp dụng pháp luật trong xét xử sơ
thẩm đối với người chưa thành niên phạm tội; Đánh giá thực trạng và đề xuất
các giải pháp nhằm đảm bảo ADPL đúng đắn trong xét xử sơ thẩm người
chưa thành niên phạm tội của Tòa án nhân dân ở tỉnh Thanh Hoá trong giai
đoạn hiện nay.
Về nhiệm vụ:
- Phân tích cơ sở lý luận về áp dụng pháp luật và áp dụng pháp luật
trong hoạt động xét xử người chưa thành niên phạm tội của tòa án nhân dân ở
tỉnh Thanh Hoá như xây dựng khái niệm, nêu lên các đặc điểm và làm rõ quy
trình ADPL trong xét xử sơ thẩm đối với người chưa thành niên phạm tội.
- Đánh giá những thành tựu và hạn chế về ADPL trong hoạt động xét
xử sơ thẩm người chưa thành niên phạm tội của tòa án nhân dân.
- Nêu lên những quan điểm và đề xuất những giải pháp có tính khả thi
đảm bảo ADPL trong hoạt động xét xử sơ thẩm người chưa thành niên phạm
tội của tòa án nhân dân ở tỉnh Thanh Hoá trong giai đoạn hiện nay.
14. 7
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của
Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật: các
quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về tăng cường pháp chế trong đấu tranh
phòng chống tội phạm, xây dựng Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân. Nhất là quan điểm chỉ đạo của Đảng về cải cách tư
pháp trong Nghị quyết số 08-NQ/TW, ngày 02/01/2002 và Nghị quyết số 49-
NQ/TW, ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp luận của
Triết học Mác-Lênin, kết hợp các phương pháp: thực tiễn, tổng hợp, thống kê,
so sánh, phân tích.
6. Ý nghĩa của luận văn
Ở mức độ nhất định, kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng
làm tư liệu tham khảo phục vụ yêu cầu nâng cao chất lượng ADPL trong hoạt
động xét xử người chưa thành niên phạm tội của Tòa án nhân dân trong giai
đoạn hiện nay. Bên cạnh đó, luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho
việc giảng dạy và nghiên cứu một số chuyên đề khác, trong việc giảng dạy,
học tập liên quan đến hoạt động xét xử nói chung, xét xử người chưa thành
niên phạm tội của Tòa án nhân dân ở tỉnh Thanh Hoá nói riêng.
Mặt khác nội dung của luận văn có thể sử dụng nhằm xây dựng kỹ
năng nghề nghiệp, thao tác nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác xét xử trước
yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo. Nội dung luận
văn gồm 3 chương.
15. 8
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT
TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM ĐỐI VỚI NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN
PHẠM TỘI CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
1.1. Khái niệm và đặc điểm áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm
đối với ngƣời chƣa thành niên phạm tội của Tòa án nhân dân
1.1.1. Khái niệm áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm đối với
người chưa thành niên phạm tội của Tòa án nhân dân
1.1.1.1. Khái niệm người chưa thành niên phạm tội
Theo Từ điển tiếng Việt thì khái niệm người chưa thành niên được
định nghĩa như sau: "Người chưa thành niên là người chưa phát triển đầy
đủ, toàn diện về thể lực, trí tuệ, tinh thần cũng như chưa có đầy đủ quyền và
nghĩa vụ công dân" [28]. Theo quy định tại Công ước quốc tế về quyền trẻ
em năm 1990 thì "Trẻ em có nghĩa là người dưới 18 tuổi trừ trường hợp luật
pháp áp dụng với trẻ em đó có quy định tuổi thành niên sớm hơn" [15, Điều 1].
Bên cạnh Công ước về quyền trẻ em thì Quy tắc tối thiểu phổ biến của Liên
Hợp Quốc về việc áp dụng pháp luật đối với người chưa thành niên (Quy tắc
Bắc Kinh) do Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua ngày 14.12.1992 cũng
là một văn bản pháp luật quốc tế quan trọng đề cập đến khái niệm "người
chưa thành niên là người dưới 18 tuổi" như là một sự kế thừa của Công ước
về Quyền trẻ em. Quy tắc Riát về phòng ngừa phạm pháp ở người chưa
thành niên được Liên Hợp Quốc thông qua ngày 14.12.1990 mặc dù không
đưa ra một cách cụ thể về khái niệm người chưa thành niên, song thông qua
các quy định cũng giúp chúng ta hiểu người chưa thành niên là người dưới
18 tuổi. Tuy nhiên, do sự phát triển của từng quốc gia khác nhau, nên khái
niệm người chưa thành niên ở các quốc gia cũng khác nhau, bên cạnh việc
16. 9
đưa ra khái niệm này thì Công ước về Quyền trẻ em vẫn còn những điều
khoản để ngỏ cho các nước quy định về độ tuổi cho người chưa thành niên,
thậm chí ngay trong một quốc gia các văn bản pháp luật cũng quy định
không thống nhất về vấn đề này.
Theo pháp luật Việt Nam, từ những kinh nghiệm được thừa nhận trong
quá khứ, dựa trên những thành tựu do các ngành khoa học khác mang lại cũng
như tiếp thu các văn bản pháp luật quốc tế mà các nhà làm luật đã đưa ra khái
niệm về người chưa thành niên, tuỳ theo từng lĩnh vực điều chỉnh của từng
ngành luật, như sau: Điều 18 Bộ luật dân sự Việt Nam quy định: "Người từ đủ
mười tám tuổi trở lên là người thành niên. Người chưa đủ mười tám tuổi là
người chưa thành niên" [23] và Bộ luật lao động Việt Nam cũng quy định:
"Người lao động chưa thành niên là người dưới 18 tuổi" [25]. Như vậy, có thể
thống nhất một quan điểm là người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi.
Quan niệm này cũng hoàn toàn phù hợp với Công ước quốc tế về quyền trẻ em
ngày 20.2.1990 mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
Theo quy định của Bộ luật hình sự thì người chưa thành niên là những
người chưa đủ 18 tuổi, nhưng chỉ những người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi
đến dưới 16 tuổi mới phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội, còn
người chưa thành niên dưới 14 tuổi thì không phải chịu trách nhiệm hình sự.
Trong đó, người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu
trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc
biệt nghiêm trọng, còn người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình
sự về mọi tội phạm [20, Điều 12].
Vấn đề đặt ra là tại sao pháp luật hình sự lại quy định người chưa đủ 14
tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự và người từ đủ 14 tuổi đến chưa đủ
18 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về một số tội phạm nhất định? Quy
định này của Bộ luật hình sự về mặt lý luận có thể hiểu, người chưa đủ 14
17. 10
tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi nguy hiểm cho xã hội mà
họ gây ra vì người chưa đủ 14 tuổi, trí tuệ chưa phát triển đầy đủ nên chưa
nhận thức được tính nguy hiểm cho xã hội về hành vi của mình, chưa đủ khả
năng tự chủ khi hành động nên họ không bị coi là có lỗi về hành vi nguy hiểm
cho xã hội mà họ thực hiện. Một hành vi được coi là không có lỗi cũng tức là
không đủ yếu tố cấu thành tội phạm nên họ không phải chịu trách nhiệm hình
sự (loại trừ trách nhiệm hình sự). Người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ
16 tuổi được coi là người chưa có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ. Do
đó, họ cũng chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về một số tội phạm (rất nghiêm
trọng do cố ý hoặc đặc biệt nghiêm trọng) chứ không phải chịu trách nhiệm
hình sự về tất cả các tội phạm. Quy định này cũng thể hiện chính sách nhân
đạo trong pháp luật hình sự của Đảng và Nhà nước ta.
Điều 50 Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành quy định bị cáo là người đã
bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử, như vậy, căn cứ vào quy định này và quy
định tại Điều 12 của Bộ luật hình sự về tuổi chịu trách nhiệm hình sự nêu
trên, thì có thể hiểu bị cáo là người chưa thành niên là người từ đủ 14 tuổi
đến chưa đủ 18 tuổi ở thời điểm đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử.
Từ phân tích trên có thể đưa ra định nghĩa về người chưa thành niên
phạm tội như sau:
Người chưa thành niên phạm tội là người từ đủ 14 tuổi đến chưa đủ 18
tuổi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự quy định là tội
phạm bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử.
Việc xác định tuổi của bị cáo là người chưa thành niên rất quan trọng vì
đây là căn cứ ngăn chặn, áp dụng các thủ tục đặc biệt đối với bị cáo nhằm
đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho người chưa thành niên. Việc xác định
tuổi của bị cáo còn giúp Cơ quan tiến hành tố tụng xác định được việc xét xử
và áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên.
18. 11
1.1.1.2. Khái niệm áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm đối với
người chưa thành niên phạm tội của Tòa án nhân dân
Như đã nêu trên, người chưa thành niên là người đang ở lứa tuổi mà
khả năng nhận thức về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội bị
hạn chế và nhiều khi do bị tác động mạnh của điều kiện bên ngoài. Chính
sách hình sự của Nhà nước ta đối với người chưa thành niên chủ yếu là nhằm
giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm để phát triển lành mạnh, trở thành công
dân có ích cho xã hội.
Pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng luôn luôn coi trẻ em
là đối tượng đặc biệt cần được bảo vệ không chỉ trong cuộc sống hàng ngày
mà ngay cả khi quyền trẻ em bị xâm phạm cần được bảo vệ hoặc khi đối
tượng này vi phạm pháp luật. Luật hình sự bảo vệ người chưa thành niên bị
coi là người phạm tội và cũng quy định một chế tài riêng để xử lý, thủ tục tố
tụng cũng phải phù hợp với lứa tuổi chưa thành niên nhằm thể hiện tính nhân
đạo trong chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Vì vậy, Bộ
luật tố tụng hình sự năm 2003 đã có một chương riêng (Chương XXXII) quy
định về thủ tục tố tụng đối với vụ án mà người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là
người chưa thành niên. Tuy nhiên, trong Điều 301 quy định về phạm vi áp
dụng "Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên", nhà làm luật Việt Nam
không hề ghi nhận khái niệm pháp lý "thủ tục tố tụng đối với người chưa
thành niên" là gì? Qua nghiên cứu các quy định về thủ tục tố tụng đối với
người chưa thành niên trong chương này, chúng ta có thể hiểu: Các quy định
về thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên có những đặc trưng riêng so
với thủ tục tố tụng áp dụng đối với người thành niên. Những đặc trưng này
thể hiện ở các quy định về tiêu chuẩn của người tiến hành tố tụng, về đối
tượng phải chứng minh, về việc áp dụng biện pháp ngăn chặn, về việc bào
chữa, việc tham gia của gia đình, nhà trường và tổ chức xã hội vào tố tụng
19. 12
cũng như công tác xét xử và thi hành án. Bộ luật tố tụng hình sự cũng quy
định các quyền tố tụng và bảo đảm cho việc điều tra, truy tố, xét xử vụ án
được khách quan, toàn diện, đúng pháp luật đối với đối tượng này.
Để đưa ra khái niệm ADPL trong xét xử sơ thẩm NCTN phạm tội,
trước hết cần làm rõ khái niệm xét xử sơ thẩm người chưa thành niên phạm
tội là gì?
“Xét xử” là từ Hán Việt được hiểu theo nghĩa là xem xét và phán xử.
Theo từ điển Luật học năm 2006, xét xử là “hoạt động xem xét, đánh giá bản
chất pháp lí của vụ việc, từ đó nhân danh Nhà nước đưa ra một phán quyết
tương ứng với bản chất, mức độ trái hay không trái pháp luật của vụ việc” [3].
Xét xử là hoạt động đặc trưng, là chức năng, nhiệm vụ của Tòa án và Tòa án
là cơ quan duy nhất được đảm nhiệm chức năng xét xử theo quy định của
pháp luật Việt Nam hiện nay. Hiến pháp năm 1946 tuy qui định tổ chức Tòa
án còn chưa mang tính độc lập hoàn toàn vì các Thẩm phán do Chính phủ bổ
nhiệm (Điều 64), nhưng theo tinh thần của Hiến pháp, có thể hiểu Tòa án là
cơ quan xét xử. Các Hiến pháp 1959, 1980 và 1992 đã qui định rõ về chức
năng xét xử của Tòa án. Hiến pháp 1992 qui định: “Tòa án nhân dân tối cao,
các Tòa án nhân dân địa phương, các Tòa án quân sự và các Tòa án khác do
luật định là những cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam” [19, Điều 127]. Trên cơ sở Hiến pháp, Luật Tổ chức TAND qui định về
thẩm quyền xét xử của Tòa án tại Điều 1, đồng thời qui định cụ thể về chức
năng xét xử của Tòa án: “Tòa án xét xử những vụ án hình sự, dân sự, hôn
nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính và giải quyết những việc khác
theo qui định của pháp luật” [21, Điều 1]. Xét xử những vụ án hình sự là một
chức năng quan trọng của Tòa án, thông qua đó Tòa án thực hiện nhiệm vụ
bảo vệ pháp chế XHCN và các quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ.
Hoạt động xét xử vụ án hình sự của Tòa án là một khâu trong quá trình
20. 13
giải quyết vụ án hình sự bao gồm điều tra, truy tố, xét xử. Hoạt động xét xử
vụ án hình sự của Tòa án là một giai đoạn tố tụng độc lập, những phán quyết
của Tòa án ngoài việc dựa trên những chứng cứ tài liệu được Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát thu thập trước đó còn phải dựa vào kết quả điều tra công
khai tại phiên tòa. Hiện nay, những yêu cầu về đảm bảo tính khách quan, công
bằng, đúng pháp luật trong các phán quyết của Tòa án bảo vệ được các quyền
lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức ngày càng được đề cao thì việc tổ chức
thực hiện các phiên tòa xét xử vụ án hình sự thật dân chủ, khách quan là một
đòi hỏi bức xúc. Yêu cầu đặt ra đối với hoạt động xét xử nói chung, hoạt động
xét xử vụ án hình sự nói riêng của Tòa án là:
Phải bảo đảm cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, thực sự
dân chủ khách quan, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật; việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng
tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của
Kiểm sát viên, người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và
những người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định đúng
pháp luật, có sức thuyết phục trong thời hạn pháp luật qui định.
Pháp luật TTHS Việt Nam hiện nay xác định nguyên tắc hai cấp xét xử:
Xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm về hình sự, trong đó xét xử sơ thẩm là
trọng tâm và có vai trò quan trọng trong hoạt động của Tòa án. Theo từ điển
Luật thì “Xét xử sơ thẩm là một từ Hán Việt, có nghĩa là lần đầu tiên đưa vụ
án ra xét xử tại một Tòa án có thẩm quyền [3, tr.870]. Xét xử sơ thẩm được
xác định như là một giai đoạn kết thúc của quá trình giải quyết vụ án hình sự,
mọi tài liệu chứng cứ của vụ án do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát thu thập
trong quá trình điều tra đều được xem xét một cách công khai tại phiên tòa,
quyền và nghĩa vụ của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng
được thực hiện một cách công khai, đầy đủ nhất.
21. 14
Theo qui định của Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) và Luật Tổ chức
TAND, Tòa án có thẩm quyền xét xử sơ thẩm là TAND cấp huyện, Tòa án
nhân dân cấp Tỉnh, Tòa án quân sự khu vực, Tòa án quân sự cấp quân khu.
Xét xử sơ thẩm hình sự được hiểu là một giai đoạn tố tụng, bắt đầu từ
khi Tòa án nhận hồ sơ vụ án hình sự cùng bản cáo trạng hay quyết định truy tố
do Viện kiểm sát chuyển đến và Tòa án vào sổ thụ lý, cho đến khi ra bản án
hoặc quyết định hình sự sơ thẩm. Bản án, quyết định hình sự sơ thẩm có thể bị
kháng cáo, kháng nghị theo trình tự phúc thẩm. Nếu không bị kháng cáo, kháng
nghị trong thời hạn luật định thì có hiệu lực thi hành. Xét xử sơ thẩm hình sự
của Tòa án là một giai đoạn độc lập trong TTHS. Trong giai đoạn này, hoạt
động của Tòa án đóng vai trò chính và là trọng tâm. Hoạt động xét xử hình sự
nói chung, xét xử sơ thẩm hình sự nói riêng có những đặc điểm riêng khác với
giai đoạn điều tra, truy tố trong quá trình giải quyết vụ án hình sự:
Thứ nhất, hoạt động xét xử hình sự của Tòa án là hoạt động nhân danh
quyền lực nhà nước, Tòa án với tư cách là cơ quan thực hiện quyền lực tư
pháp và là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Tòa án nhân danh nhà nước đưa ra những phán quyết về trách nhiệm hình sự
mà người phạm tội gây ra và hình phạt trong hoạt động xét xử hình sự.
Thứ hai, hoạt động xét xử hình sự của Tòa án là hoạt động mang tính
công khai, dân chủ trên cơ sở pháp luật, nó được biểu hiện tập trung ở phiên
tòa hình sự và là một nguyên tắc trong hoạt động xét xử của Tòa án được
BLTTHS qui định.
Thứ ba, hoạt động xét xử hình sự là hoạt động nhằm xác định sự thật
khách quan về tội phạm, người thực hiện tội phạm, quyết định trách nhiệm
hình sự và hình phạt; biện pháp tư pháp đối với người đó.
Theo qui định của pháp luật hình sự ở một số nước, việc xét xử người
chưa thành niên phạm tội được tiến hành bởi các Tòa án chuyên biệt. Pháp
22. 15
luật hình sự Việt Nam lại không qui định một mô hình tòa án riêng để xét xử
về hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội mà qui định việc xét xử
người chưa thành niên phạm tội trong hệ thống cơ quan tòa án thống nhất, bao
gồm cả việc xét xử người đã thành niên phạm tội. Theo Điều 131 Hiến pháp
1992; Điều 17 BLTTHS năm 2003 và Điều 6 Luật Tổ chức tòa án nhân dân
năm 2002 đều ghi nhận nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo
đa số; theo qui định tại Điều 185 BLTTHS năm 2003, Hội đồng xét xử sơ
thẩm gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm; trong trường hợp vụ án có tính
chất nghiêm trọng, phức tạp thì HĐXX có thể gồm hai thẩm phán và ba Hội
thẩm… Song đối tượng phạm tội là NCTN có những đặc điểm riêng, để đảm
bảo giải quyết đúng đắn vụ án hình sự có NCTN phạm tội là bị cáo, ngoài
những nguyên tắc, qui định về xét xử nói chung, khi xét xử NCTN còn phải
tuân theo những qui định riêng. Pháp luật TTHS qui định khi xét xử bị cáo là
người chưa thành niên, thành phần HĐXX phải có một Hội thẩm là giáo viên
hoặc là cán bộ Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. Đây là qui định bắt
buộc, mang tính đặc thù nhằm bảo đảm trong HĐXX NCTN phạm tội phải có
người có khả năng hiểu biết tâm lý lứa tuổi NCTN và có những kinh nghiệm
nhất định về giáo dục đối với họ.
Tính công khai, dân chủ trong hoạt động xét xử đối với người chưa
thành niên phạm tội cũng là một nguyên tắc được áp dụng đối với việc xét xử
những vụ án mà bị cáo là NCTN. Tòa án thực hiện xét xử công khai, nhưng
cũng có thể xét xử kín trong một số trường hợp cần thiết, như giữ bí mật về
hành vi và những khúc mắc về đời tư của người chưa thành niên và gia đình
họ, nhằm tránh gây ảnh hưởng không tốt đến quá trình phát triển, hoàn thiện
bản thân người chưa thành niên trong tương lai.
Tính công khai dân chủ trong phiên tòa xét xử người chưa thành niên
phạm tội còn được thể hiện ở chỗ Tòa án còn phải đảm bảo quyền tự bào chữa
hoặc mời người khác bào chữa cho người chưa thành niên:
23. 16
Trong trường hợp bị can, bị cáo là NCTN hoặc người đại diện hợp
pháp của họ không lựa chọn được người bào chữa thì Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát, Tòa án phải yêu cầu Đoàn luật sư phân công Văn phòng luật
sư cử người bào chữa cho họ hoặc đề nghị Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt
Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử người bào chữa cho thành viên
của tổ chức mình [22, Điều 305].
Mặt khác, pháp luật Tố tụng hình sự qui định phiên tòa xét xử NCTN
phải có mặt đại diện của gia đình bị cáo (trừ trường hợp gia đình cố ý vắng
mặt mà không có lý do chính đáng), đại diện của nhà trường, tổ chức.
Hoạt động xác định sự thật khách quan về tội phạm và người thực hiện
tội phạm trong xét xử người chưa thành niên phạm tội cũng như việc xác định
tổng hợp các yếu tố cấu thành tội phạm là: khách thể, mặt khách quan, chủ
thể, mặt chủ quan của tội phạm thì phải chú trọng đến: tuổi, trình độ phát triển
về thể chất và tinh thần, mức độ nhận thức về hành vi phạm tội của NCTN;
điều kiện sinh hoạt và giáo dục; có hay không có người thành niên xúi giục;
nguyên nhân và điều kiện phạm tội.
Các qui định trên thể hiện quan điểm coi trọng việc xử lý NCTN phạm
tội trong hoạt động xét xử của tòa án, nó đòi hỏi phải xem xét đầy đủ các khía
cạnh liên quan đến NCTN để từ đó áp dụng biện pháp xử lý đúng đắn, có hiệu
quả trong giáo dục cải tạo NCTN phạm tội, đồng thời có ý nghĩa trong phòng
ngừa tội phạm.
ADPL là một hình thức thực hiện pháp luật, ADPL trong xét xử sơ thẩm
NCTN phạm tội là một dạng của áp dụng pháp luật nói chung. Đây là trường
hợp chủ thể bị ADPL là những người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới
18 tuổi có hành vi vi phạm pháp luật mà hành vi đó bị coi là tội phạm được qui
định trong BLHS. Nhà nước thông qua Tòa án bằng hoạt động xét xử quyết
định về trách nhiệm hình sự và những chế tài hình sự đối với NCTN phạm tội
24. 17
trong phiên tòa sơ thẩm. Có thể nói, ADPL là nội dung của hoạt động xét xử vụ
án hình sự nói chung, ADPL trong xét xử sơ thẩm NCTN phạm tội nói riêng,
những hành vi tố tụng trong xét xử của HĐXX là hình thức biểu hiện của nội
dung ADPL. ADPL trong xét xử NCTN phạm tội ngoài việc đảm bảo những
nguyên tắc chung về ADPL trong xét xử hình sự của Tòa án còn phải tuân thủ
những qui định có tính nguyên tắc đặc thù nhằm đáp ứng yêu cầu có tính nhân
đạo trong chính sách hình sự của Nhà nước là: Việc xử lý NCTN phạm tội chủ
yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở
thành công dân có ích cho xã hội. Chính vì vậy việc nghiên cứu về ADPL trong
xét xử sơ thẩm đối với NCTN phạm tội của TAND có ý nghĩa quan trọng nhằm
phát triển lý luận về ADPL nói chung trong các lĩnh vực cụ thể. Mặt khác, việc
nghiên cứu ADPL trong xét xử sơ thẩm NCTN phạm tội còn có ý nghĩa thực
tiễn nhằm nâng cao chất lượng ADPL của Tòa án, cụ thể là HĐXX đảm bảo
tính thống nhất của ADPL hình sự, dân sự và tố tụng trong các phán quyết của
Tòa án đối với NCTN phạm tội.
Như đã phân tích, xét xử sơ thẩm hình sự là một giai đoạn độc lập trong
tố tụng hình sự, giai đoạn này được tính từ khi Tòa án nhận được hồ sơ kèm
theo quyết định truy tố của Viện kiểm sát chuyển đến và Tòa án vào sổ thụ lí.
Cũng bắt đầu thời điểm này Tòa án cấp sơ thẩm tiến hành ADPL.
Pháp luật TTHS Việt Nam phân chia giai đoạn xét xử sơ thẩm hình sự
thành các bước cụ thể theo tiến trình hoạt động tố tụng của Tòa án: chuẩn bị xét
xử và xét xử tại phiên tòa. Việc ADPL trong các bước này có sự khác biệt nhau.
Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là chuẩn bị những điều kiện cần
thiết để đưa vụ án hình sự ra xét xử theo qui định của pháp luật. BLTTHS
năm 2003 qui định trong quá trình chuẩn bị xét xử sơ thẩm, Tòa án có thể đưa
ra các quyết định ADPL sau đây: a) Đưa vụ án ra xét xử; b) Trả hồ sơ để điều
tra bổ sung; c) Đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án; d) Áp dụng thay đổi hoặc
25. 18
hủy bỏ biện pháp ngăn chặn. Ngoài ra đối với những vụ án phức tạp Tòa án
có thể quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử. Đối với vụ án không thuộc
thẩm quyền giải quyết, Tòa án quyết định chuyển vụ án đến Tòa án có thẩm
quyền giải quyết.
Xét xử sơ thẩm tại phiên tòa là trọng tâm của cả giai đoạn xét xử sơ
thẩm. Tại đây HĐXX nhân danh Nhà nước tổ chức cho những người tiến hành
tố tụng (trong đó có HĐXX) và người tham gia tố tụng thực hiện các quyền và
nghĩa vụ pháp lý theo qui định của pháp luật, nhằm thẩm tra đánh giá toàn bộ
các chứng cứ được thu thập trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa;
xem xét các lý lẽ cơ sở buộc tội và gỡ tội của các bên đưa ra để từ đó HĐXX
đưa ra những phán quyết là văn bản áp dụng pháp luật. Trong xét xử sơ thẩm
tại phiên tòa, HĐXX quyết định về việc thay đổi thành viên của HĐXX, Kiểm
sát viên, Thư ký phiên tòa, người giám định, người phiên dịch, chuyển vụ án
yêu cầu điều tra bổ sung, tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án về việc bắt giam
hoặc trả tự do cho bị cáo… Đặc biệt, thông qua hoạt động xét xử tại phiên tòa,
Tòa án ra bản án là văn bản áp dụng pháp luật, quyết định bị cáo có phạm tội
hay không phạm tội, hình phạt và các biện pháp tư pháp khác.
Nghiên cứu về ADPL trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nói chung,
xét xử sơ thẩm người chưa thành niên phạm tội nói riêng chủ yếu là nghiên
cứu việc ADPL thông qua hoạt động của tòa án, HĐXX (thẩm phán, hội
thẩm) bằng các quyết định, bản án kể từ khi Tòa án thụ lý giải quyết vụ án
đến khi Tòa án ra bản án hoặc quyết định hình sự sơ thẩm.
Từ những phân tích trên, có thể hiểu: Áp dụng pháp luật trong xét xử sơ
thẩm đối với NCTN phạm tội của Tòa án nhân dân là một hoạt động mang
tính tổ chức, tính quyền lực Nhà nước. Trong đó lần đầu tiên Tòa án nhân
danh Nhà nước, căn cứ vào các quy định của pháp luật hình sự và các quy
định khác của pháp luật để đưa vụ án ra xét xử và ban hành một bản án, một
26. 19
quyết định, quyết định người đó có tội hay không có tội, quyết định trách
nhiệm hình sự nếu họ có tội và trách nhiệm dân sự nếu có.
1.1.2. Đặc điểm áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm đối với người
chưa thành niên phạm tội của Tòa án nhân dân
Nghiên cứu về ADPL trong xét xử sơ thẩm đối với người chưa thành
niên phạm tội của Tòa án là nghiên cứu việc ADPL của Tòa án với đối tượng
có tính đặc thù- người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội - trong một giai
đoạn tố tụng độc lập là xét xử sơ thẩm. Cũng như hoạt động áp dụng pháp
luật trong xét xử sơ thẩm đối với mọi đối tượng phạm tội nói chung, có thể
phân loại ADPL trong xét xử sơ thẩm đối với người chưa thành niên phạm tội
thành những dạng sau đây dựa trên một số tiêu chí nhất định:
Dựa vào các loại QPPL áp dụng, chia thành: ADPL nội dung(QPPL
hình sự); ADPL hình thức (QPPL tố tụng hình sự).
Dựa vào trình tự xét xử sơ thẩm với ý nghĩa là một giai đoạn tố tụng
độc lập bao gồm nhiều bước (phân đoạn), chia thành: ADPL trong chuẩn bị
xét xử sơ thẩm của Tòa án; ADPL của HĐXX tại phiên tòa; ADPL của Tòa
án sau phiên tòa sơ thẩm - với ý nghĩa là để tổ chức thực hiện văn bản áp
dụng pháp luật.
Trên thực tế các dạng ADPL trong quá trình xét xử sơ thẩm đối với vụ
án hình sự thường đan xen giữa ADPL nội dung và ADPL hình thức; và ở bất
cứ công đoạn nào cũng là việc áp dụng cùng lúc, trong một thể thống nhất luật
hình thức và luật nội dung. Chính vì vậy việc phân chia các dạng ADPL như đã
nêu trên đây là tương đối và chỉ có ý nghĩa trong việc nghiên cứu khoa học.
Trên cơ sở những đặc điểm của Áp dụng pháp luật nói chung và xuất phát
từ khái niệm áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm NCTN phạm tội, kết hợp
với thực tiễn của hoạt động xét xử có thể thấy áp dụng pháp luật trong xét xử sơ
thẩm NCTN phạm tội của Tòa án nhân dân có một số đặc điểm cơ bản sau:
27. 20
Thứ nhất, ADPL trong xét xử sơ thẩm đối với NCTN phạm tội của Toà
án nhân dân là hoạt động nhân danh quyền lực Nhà nước của Toà án có thẩm
quyền lần đầu tiên đưa vụ án ra xét xử với HĐXX đảm bảo sự hiểu biết cần
thiết để xử lý đúng đắn NCTN phạm tội.
Toà án nhân dân là chủ thể ADPL. Theo quy định của Hiến pháp năm
2013, hệ thống TAND từ Trung ương đến địa phương "Toà án nhân dân là cơ
quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện quyền
tư pháp" [24, Điều 102]. Toà án thực hiện hai cấp xét xử là: Xét xử sơ thẩm
và xét xử phúc thẩm. Việc xét xử đối với mọi tội phạm nói chung và NCTN
phạm tội nói riêng đều được thực hiện bởi các Toà án có thẩm quyền xét xử
sơ thẩm. BLTTHS năm 2003 quy định TAND cấp huyện (gọi tắt là Toà án
cấp huyện); TAND cấp tỉnh (gọi tắt là Toà án cấp tỉnh) được xét xử sơ thẩm
các vụ án hình sự theo thẩm quyền của mỗi cấp.
Xác định Toà án có thẩm quyền xét xử sơ thẩm cũng chính là xác định
chủ thể ADPL trong xét xử vụ án hình sự cụ thể nào đó. Nhưng chủ thể trực
tiếp ADPL trong hoạt động xét xử là HĐXX với vai trò chính là Thẩm phán
chủ toạ phiên toà.
HĐXX sơ thẩm thông thường có một Thẩm phán (đồng thời là Thẩm
phán chủ toạ phiên toà) và hai Hội thẩm nhân dân. Nhưng theo quy định của
pháp luật: “có những vụ án khi xét xử sơ thẩm phải có hai Thẩm phán và ba
Hội thẩm nhân dân” [22, Điều 185]. Như vậy vừa có Thẩm phán tham gia
giải quyết, xét xử, vừa có Thẩm phán chủ toạ phiên toà xét xử trong những
trường hợp cụ thể này.
Tuy nhiên như đã phân tích ở trên, NCTN phạm tội chủ yếu chịu sự tác
động của hoạt động ADPL của Toà án, có những đặc điểm mang tính đặc
trưng. Đây là những người chưa phát triển hoàn thiện về thể chất và tâm lý,
trình độ nhận thức còn hạn chế, thiếu bản lĩnh, khả năng kiềm chế chưa cao, dễ
28. 21
bị kích động lôi kéo. Chính vì vậy khi xét xử NCTN phạm tội, HĐXX đòi hỏi
phải do những Thẩm phán tiến hành tố tụng "có những hiểu biết cần thiết về
tâm lý học, khoa học giáo dục cũng như về hoạt động đấu tranh phòng chống
tội phạm của người chưa thành niên" [22, Điều 302, Khoản 1]. Đặc biệt là giáo
viên hoặc là cán bộ Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh [22 Điều 307].
Như vậy, Toà án thông qua HĐXX với vai trò của Thẩm phán và Hội
thẩm thực hiện quyền lực Nhà nước giao cho HĐXX đồng thời phải đảm bảo
những yêu cầu về hiểu biết cần thiết của những người này trong hoạt động
ADPL đối với NCTN phạm tội. Có như vậy mới đảm bảo hoạt động ADPL
của Toà án đối với NCTN phạm tội "chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa
chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội"
[20, Điều 36, Khoản 1].
Thứ hai, ADPL trong xét xử sơ thẩm đối với NCTN phạm tội của
TAND ngoài việc đảm bảo quy định chung còn phải tuân theo những quy định
riêng chặt chẽ về trình tự thủ tục tố tụng đối với NCTN do BLTTHS quy định.
ADPL trong hoạt động xét xử vụ án hình sự của Toà án được quy định
trong một đạo luật về luật hình thức, có tính pháp điển hoá cao là BLTTHS.
Cũng như ADPL của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát trong TTHS, việc
ADPL trong xét xử vụ án hình sự của Toà án phải bảo đảm trình tự, thủ tục
chặt chẽ và có căn cứ pháp luật. Mọi hành vi của những người tiến hành tố
tụng và tham gia tố tụng trong quá trình xét xử từ khi thụ lý hồ sơ đến khi bản
án có hiệu lực pháp luật và tổ chức thi hành các quyết định của bản án đều
được BLTTHS điều chỉnh.
Nếu xét việc ADPL trong xét xử sơ thẩm hình sự thì việc những người
tiến hành tố tụng (Thẩm phán, Hội thẩm) tuân thủ các quy định của BLTTHS
chính là việc ADPL (nhưng ở đây là áp dụng QPPL hình thức). Tuy nhiên
ADPL về thủ tục trong xét xử sơ thẩm NCTN phạm tội ngoài việc tuân thủ
29. 22
những quy định chung của BLTTHS về xét xử sơ thẩm còn phải tuân theo
những quy định riêng về thủ tục tố tụng đối với NCTN phạm tội. Pháp luật
TTHS coi đây là thủ tục đặc biệt và quy định thành một chương riêng trong
BLTTHS năm 1988 cũng như BLTTHS năm 2003 và đòi hỏi mọi hoạt động
điều tra, truy tố, xét xử phải tuân theo. Theo đó việc ADPL trong xét xử sơ
thẩm NCTN phạm tội về trình tự, thủ tục phải đảm bảo sự tuân thủ đầy đủ các
quy định của chương này đồng thời theo quy định về thủ tục tố tụng đối với
NCTN là điều kiện đủ để Toà án ADPL về trình tự thủ tục trong xét xử sơ
thẩm đối với NCTN phạm tội. Tuy nhiên, khi Toà án ADPL về trình tự thủ
tục (hay ADPL về luật hình thức) trong nhiều trường hợp cũng không thể
không ADPL về luật nội dung bởi lẽ trong một số QPPL hình thức đã chứa
đựng luật nội dung hoặc bao hàm các khái niệm đòi hỏi cả việc áp dụng
QPPL nội dung mới có thể ra được quyết định ADPL đúng đắn.
Việc Toà án áp dụng các quy định của BLTTHS trong hoạt động xét xử
sơ thẩm NCTN phạm tội là điều kiện bắt buộc và là tiền đề cho việc áp dụng
các QPPL nội dung. Việc Toà án tuân thủ những quy định riêng về thủ tục tố
tụng đối với NCTN phạm tội trong BLTTHS đồng thời là đảm bảo các quyền
của NCTN, nhằm thực hiện chính sách nhân đạo của Nhà nước trong ADPL
xử lý NCTN phạm tội.
ADPL về trình tự thủ tục đối với NCTN hay áp dụng QPPL hình thức
được coi là "thủ tục đặc biệt". Tính chất "đặc biệt" được thể hiện qua các quy
định rất chặt chẽ có ý nghĩa nhấn mạnh và đảm bảo quyền của NCTN phạm
tội. Chẳng hạn, Điều 305 BLTTHS năm 2003 quy định việc lựa chọn người
bào chữa của NCTN và đại diện hợp pháp của họ trong các giai đoạn tố tụng.
Nếu họ không lựa chọn được thì các cơ quan tố tụng tuỳ theo giai đoạn tố
tụng "phải yêu cầu Đoàn luật sư phân công Văn phòng luật sư cử người bào
chữa cho họ hoặc đề nghị Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành
viên của Mặt trận cử người bào chữa cho thành viên của tổ chức mình" [22].
30. 23
Việc ADPL theo thủ tục "đặc biệt" đối với NCTN phạm tội là một yêu
cầu có tính nguyên tắc nhằm đảm bảo đi đến quyết định ADPL cuối cùng
trong xét xử sơ thẩm là bản án, quyết định của Toà án được đúng đắn. Nếu
Toà án phát hiện trong các giai đoạn tố tụng trước đó, việc điều tra thu thập
chứng cứ có thiếu sót hoặc ADPL không đúng, vi phạm quyền của NCTN
phạm tội được BLTTHS quy định trong phần thủ tục thì Toà án áp dụng các
quy định của BLTTHS trả hồ sơ để điều tra bổ sung theo hướng khắc phục
những sai lầm trong việc ADPL. Chẳng hạn, Toà án trả hồ sơ khi thấy quá
trình điều tra việc lấy lời khai, hỏi cung những NCTN phạm tội từ đủ 14 tuổi
đến dưới 16 tuổi, cơ quan điều tra thực hiện không mời đại diện của gia đình
họ tham gia; hoặc Toà án ra quyết định thay đổi biện pháp ngăn chặn cho bị
can là NCTN dưới 16 tuổi phạm tội nghiêm trọng đã bị giam trong giai đoạn
điều tra, truy tố.
Các quy định chặt chẽ về thủ tục tố tụng đối với NCTN trong hoạt động
tố tụng nói chung, hoạt động xét xử sơ thẩm đối với NCTN phạm tội nói riêng
của BLTTHS năm 2003 là rất quan trọng, thể hiện sự điều chỉnh chặt chẽ của
pháp luật nhằm đảm bảo ADPL đúng đắn, chính xác của Toà án trong xét xử
sơ thẩm NCTN phạm tội, làm cho các quyết định ADPL của Toà án khách
quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Thứ ba, ADPL trong xét xử sơ thẩm đối với NCTN phạm tội của Toà
án là quá trình cá biệt hoá các QPPL hình sự đảm bảo các nguyên tắc xử lý
NCTN phạm tội được BLHS quy định để xác định có hay không có tội phạm,
quyết định một TNHS giảm nhẹ trong trường hợp họ có tội và trách nhiệm
dân sự nếu trường hợp pháp luật có quy định.
Thông thường để đi đến quyết định cuối cùng bằng bản án, Toà án phải
áp dụng QPPL hình sự để xem xét bị cáo có tội như cáo trạng của Viện kiểm
sát truy tố hay không để quyết định TNHS. Mặt khác, do tội phạm thường gây
31. 24
thiệt hại cho một quan hệ xã hội nào đó, trong đó có những thiệt hại vật chất
có thể tính toán được. Vì vậy, bước tiếp theo trong áp dụng QPPL nội dung là
xem xét trách nhiệm dân sự của người đã thực hiện tội phạm gây ra, thiệt hại
mà luật quy định phải chịu trách nhiệm dân sự.
Khác với người đã thành niên phạm tội, NCTN phạm tội là chủ thể chịu
sự tác động của việc ADPL của Toà án là một loại đối tượng đặc biệt. Đây là
những người đang ở độ tuổi phát triển, mặc dù họ đã nhận thức được những
đòi hỏi tất yếu của xã hội, nhưng trình độ nhận thức còn hạn chế, còn những
nhận thức sai lệch về chuẩn mực xã hội, từ đó hình thành nên tính tiêu cực
này không bền vững cao như ở người đã thành niên. Điều đó chứng tỏ khả
năng có thể cải tạo giáo dục NCTN phạm tội đạt hiệu quả cao nếu ADPL phù
hợp. Do vậy khi xét xử sơ thẩm NCTN phạm tội Toà án áp dụng QPPL nội
dung phải đảm bảo các nguyên tắc trong xử lý được quy định tại Điều 69
BLHS năm 1999.
Áp dụng QPPL hình sự được xác định là nội dung chính của quá trình
ADPL trong xét xử sơ thẩm NCTN phạm tội của Toà án. Quá trình này bao
gồm nhiều bước, nhưng toàn bộ quá trình ADPL phải đảm bảo các nguyên tắc
xử lý đối với NCTN phạm tội như đã nêu ở trên. Khi ADPL, Toà án sẽ đối
chiếu các yếu tố của một cấu thành tội phạm với hành vi thực tế của bị cáo đã
gây ra để xác định bị cáo có phạm tội hay không. Việc làm này của Toà án là
bước lựa chọn quy phạm pháp luật áp dụng đối với NCTN phạm tội.
Lựa chọn quy phạm pháp luật áp dụng đối với NCTN phạm tội cần đáp
ứng những yêu cầu sau:
+ Xác định chính xác, đầy đủ và khách quan các tình tiết cụ thể của
hành vi phạm tội thực tế và hậu quả do hành vi đó gây ra cho quan hệ xã hội
được BLHS quy định và bảo vệ - thông qua hoạt động chứng minh và việc tổ
chức thực hiện các biện pháp tố tụng quy định trong BLTTHS.
32. 25
+ Nhận thức đúng đắn về cấu thành tội phạm tương ứng và các quy
định có tính nguyên tắc đối với NCTN phạm tội được quy định trong BLHS.
Để thực hiện yêu cầu này, chủ thể lựa chọn quy phạm pháp luật áp dụng là
HĐXX cần có kiến thức pháp lý vững vàng, kinh nghiệm thực tiễn phong phú
và còn phải có sự hiểu biết những lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.
Xác định được sự phù hợp giữa hành vi phạm tội cụ thể được thực hiện
với những mô tả trong cấu thành tội phạm tương ứng quy định tại BLHS.
Quá trình lựa chọn quy phạm pháp luật áp dụng được Toà án tiến hành
kể từ khi thụ lý hồ sơ thông qua hoạt động nghiên cứu hồ sơ trong giai đoạn
chuẩn bị xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm và hoạt động xét xử của HĐXX
tại phiên toà. Toà án hay HĐXX căn cứ vào các chứng cứ thu thập trong quá
trình điều tra và việc điều tra của HĐXX tại phiên toà công khai để đi đến xác
định bị can, bị cáo có phạm tội hay không, phạm vào tội gì, vi phạm điều
khoản nào của BLHS.
Sau khi đã lựa chọn quy phạm pháp luật áp dụng đối với bị can, bị cáo.
Toà án thông qua vai trò của Thẩm phán và HĐXX phải quyết định TNHS
được quy định ở phần chế tài của QPPL hình sự. Phần chế tài này nằm trong
điều khoản đã lựa chọn quy phạm pháp luật áp dụng, nhưng cũng có thể nằm
ở khoản hoặc điều khoản khác của BLHS.
Quyết định TNHS là bước tiếp theo của quá trình ADPL trong xét xử
sơ thẩm đối với NCTN phạm tội. Đây là quá trình phức tạp bao gồm các bước
kế tiếp nhau, cụ thể là:
- Có áp dụng TNHS đối với bị can, bị cáo là NCTN phạm tội không.
Bởi vì trong xử lý NCTN phạm tội, BLHS năm 1999 còn có quy định miễn
TNHS cho NCTN phạm tội.
- Xác định có áp dụng hình phạt với bị cáo là NCTN phạm tội không?
loại hình phạt cần áp dụng?
33. 26
- Khi cần thiết áp dụng hình phạt đối với bị cáo là NCTN phạm tội Toà
án phải xuất phát từ nguyên tắc quyết định hình phạt chỉ trong trường hợp cần
thiết và phải căn cứ vào tính chất của hành vi phạm tội, vào những đặc điểm
về thân nhân và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm.
- Xác định một mức hình phạt cụ thể đối với bị cáo [20, Điều 69].
Những quy định về hình phạt được áp dụng đối với NCTN phạm tội thể
hiện rõ đường lối nhân đạo trong xử lý NCTN phạm tội chủ yếu nhằm giáo
dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm. Hình phạt nghiêm khắc nhất được áp dụng
đối với họ là tù có thời hạn. Song theo quy định tại Điều 74, 75 BLHS năm
1999 thì mức hình phạt tù được giảm nhẹ đáng kể so với người đã thành niên
phạm tội và việc tổng hợp hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội được áp
dụng có lợi cho NCTN.
Xác định một mức hình phạt cụ thể đối với NCTN phạm tội ngoài việc
tuân thủ triệt để các quy định riêng trên đây còn phải căn cứ vào các nguyên
tắc chung của BLHS về tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành
vi phạm tội, thân nhân người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng
TNHS quy định tại Điều 45, 46, 48 BLHS. Có như vậy việc xác định một
mức hình phạt cụ thể cho NCTN phạm tội của Toà án mới đảm bảo chính xác,
khoa học và đúng pháp luật.
- Tổng hợp hình phạt trong trường hợp NCTN phạm nhiều tội. Việc
tổng hợp hình phạt trong các trường hợp này được thực hiện theo quy định
chung tại Điều 50 BLHS năm 1999. Trong trường hợp có tội được thực hiện
trước khi đủ 18 tuổi, có tội được thực hiện sau khi đủ 18 tuổi thì áp dụng quy
định tổng hợp hình phạt tại Điều 75 BLHS năm 1999.
Bên cạnh việc quyết định TNHS đối với NCTN phạm tội, Toà án còn
phải quyết định trách nhiệm dân sự trong cùng bản án hình sự.
Ngoài quy định về năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại
34. 27
của cá nhân NCTN theo độ tuổi, khi ADPL để giải quyết vấn đề trách
nhiệm dân sự đối với NCTN phạm tội, Toà án còn phải căn cứ vào những
quy định khác về trách nhiệm bồi thường ngoài hợp đồng được quy định từ
Điều 609 đến 633 BLDS năm 1995 hoặc từ Điều 604 đến 630 BLDS năm
2005 để quyết định.
Như vậy, việc đảm bảo thực hiện các nguyên tắc xử lý đối với NCTN
phạm tội được BLHS quy định, cũng như các QPPL nội dung quy định về
trách nhiệm dân sự của NCTN trong BLDS là nét đặc thù trong hoạt động
ADPL của Toà án khi xét xử sơ thẩm NCTN phạm tội.
1.2. Quy trình áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm đối với
ngƣời chƣa thành niên phạm tội của Tòa án nhân dân
Qui trình áp dụng pháp luật là một là một quá trình phức tạp với sự
tham gia, phối hợp của nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân. Quá trình này được
xác định gồm bốn giai đoạn kế tiếp nhau có mối liên hệ chặt chẽ, giai đoạn
trước là tiền đề, cơ sở cho giai đoạn sau.
Giai đoạn 1: Phân tích, đánh giá các tình tiết khách quan, hoàn cảnh,
điều kiện của vụ việc được xem xét
Giai đoạn 2: Lựa chọn qui phạm pháp luật và phân tích làm rõ nội
dung, ý nghĩa của QPPL đối với trường hợp cần áp dụng
Giai đoạn 3: Ra văn bản ADPL
Giai đoạn 4: Tổ chức thực hiện văn bản áp dụng pháp luật.
Dựa vào lý luận về phân chia các giai đoạn của ADPL nói chung, có
thể vận dụng để nghiên cứu về các giai đoạn của qui trình áp dụng pháp luật
trong xét xử sơ thẩm đối với người chưa thành niên phạm tội của Tòa án.
Hoạt động ADPL trong xét xử sơ thẩm đối với người chưa thành niên phạm
tội của Tòa án là rất phức tạp, các vụ việc thực tế lại rất đa dạng và không
giống nhau. Việc ADPL là quá trình đồng thời áp dụng qui phạm pháp luật
35. 28
hình thức và quy phạm pháp luật nội dung. Tuy nhiên mục đích chính của
ADPL trong xét xử sơ thẩm đối với NCTN phạm tội của Tòa án là ra văn bản
ADPL, bằng bản án hình sự sơ thẩm quyết định trách nhiệm hình sự và trách
nhiệm dân sự đối với bị cáo. Thực tế trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự,
Tòa án có thể không đi đến bản án hình sự sơ thẩm mà bằng các văn bản
ADPL khác giải quyết vụ án. Chẳng hạn, việc Tòa án ra quyết định đình chỉ
vụ án mà không cần mở phiên tòa xét xử. Tuy nhiên, phần lớn các vụ án được
giải quyết theo trình tự tố tụng đều đi đến phiên tòa xét xử và ra bản án áp
dụng pháp luật của Tòa án, bởi lẽ các giai đoạn tố tụng trước đó là điều tra,
truy tố cũng đều hướng tới mục tiêu đưa các bị cáo ra trước Tòa án để xét xử
và phán xử các bị cáo bằng một bản án. Đây mới là quy trình đầy đủ và thông
thường của hoạt động ADPL trong xét xử sơ thẩm về hình sự nói chung. Việc
phân chia các giai đoạn ADPL trong xét xử sơ thẩm người chưa thành niên
phạm tội là dựa vào qui trình đầy đủ đó; đồng thời dựa trên tiêu chí áp dụng
các qui phạm nội dung. Quy trình áp dụng pháp luật xét xử sơ thẩm người
chưa thành niên phạm tội của Tòa án không phải là một qui trình riêng biệt
mà là qui trình áp dụng pháp luật chung trong xét xử sơ thẩm về hình sự
nhưng được thực hiện phù hợp theo những qui định, nguyên tắc đặc thù của
áp dụng pháp luật với đối tượng bị áp dụng là NCTN phạm tội. Theo đó có
thể phân thành các giai đoạn cụ thể sau:
1.2.1. Giai đoạn thụ lý, nghiên cứu hồ sơ vụ án đánh giá về thủ tục tố
tụng và chứng cứ
Giai đoạn này được coi là giai đoạn mở đầu trong quá trình áp dụng
pháp luật của Tòa án để giải quyết vụ án theo thủ tục xét xử sơ thẩm. Nó
không đồng nhất với các giai đoạn (hay các bước) của hoạt động xét xử kế
tiếp nhau. Như: Chuẩn bị xét xử, xét xử tại tòa… mà là một giai đoạn của quá
trình áp dụng pháp luật. Có thể thấy việc đánh giá về tính chất hợp pháp, đúng
36. 29
đắn của thủ tục tố tụng cũng như đánh giá về giá trị chứng minh của chứng cứ
diễn ra ở tất cả các giai đoạn của hoạt động xét xử, cả giai đoạn chuẩn bị xét
xử và xét xử tại phiên tòa. Theo lý luận chung về áp dụng pháp luật thì đây là
giai đoạn phân tích đánh giá các tình tiết khách quan, hoàn cảnh, điều kiện
của vụ việc được xem xét.
Chính vì lẽ đó BLTTHS năm 2003 không qui định cụ thể việc thụ lý hồ
sơ vụ án hình sự. Tuy nhiên, thực tế hoạt động tố tụng bao giờ cũng diễn ra
việc Tòa án tiếp nhận hồ sơ kèm theo văn bản truy tố của Viện kiểm sát
chuyển đến. Việc tiếp nhận hồ sơ, ghi vào sổ theo dõi (sổ thụ lý) là những
hành vi tố tụng ban đầu có ý nghĩa quan trọng cho công tác chuẩn bị xét xử
của Tòa án. Vì vậy, mặc dù luật không qui định nhưng việc tiếp nhận hồ sơ
vào sổ thụ lý của Tòa án được liên ngành tư pháp Trung ương, Tòa án nhân
dân tối cao qui định và hướng dẫn như một trình tự thủ tục bắt buộc. Theo
thông tư liên ngành số 07/TTLN ngày 15/9/1990 của Tòa án nhân dân tối cao
và Viện kiểm sát nhân dân tối cao, khi nhận hồ sơ từ Viện kiểm sát chuyển
sang, cán bộ Tòa án nhận hồ sơ (thông thường là thư ký Tòa án) phải kiểm tra
các bút lục trong hồ sơ, vật chứng (nếu có), đặc biệt phải chú ý xem có biên
bản về việc kiểm sát đã giao bản cáo trạng cho bị can chưa. Về nguyên tắc,
Viện kiểm sát phải hoàn tất thủ tục giao nhận cáo trạng cho các bị can bị truy
tố trong vụ án trước khi chuyển hồ sơ cho Tòa án. Tuy nhiên nếu Viện kiểm
sát gặp khó khăn trong việc giao nhận cáo trạng vì có bị can tại ngoại hoặc có
bị can tạm giam ở xa (hay chịu án) thì Tòa án vẫn nhận hồ sơ vụ án nhưng
chưa vào sổ thụ lý vụ án. Sau thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận hồ sơ mà
Viện kiểm sát không hoàn tất thủ tục giao nhận cáo trạng thì Tòa án trả lại hồ
sơ cho Viện kiểm sát vì lý do chưa hoàn thành thủ tục tố tụng.
Tuy nhiên việc thực hiện theo thông tư số 07/TTLN trên đây đã không
tránh khỏi nhiều trường hợp hồ sơ vụ án chưa hoàn thành thủ tục tố tụng (giao
37. 30
bản cáo trạng cho bị can) bị trả đi trả lại mà Tòa án không thể thụ lý giải
quyết được. Mặt khác, qui định của thông tư không phù hợp với các qui định
của BLTTHS, về thời hạn tố tụng cũng như yêu cầu đảm bảo thủ tục tố tụng
trong giai đoạn truy tố. Theo qui định của BLTTHS năm 2003 thì trong giai
đoạn thời hạn 3 ngày kể từ ngày có quyết định truy tố, Viện kiểm sát phải
giao bản cáo trạng cho bị can (Điều 166). Nếu Tòa án không thụ lý, chỉ ghi sổ
theo dõi mà lưu giữ hồ sơ 15 ngày thì thời hạn này nằm ngoài qui định pháp
luật và kéo dài thời hạn giải quyết vụ án.
Chính vì vậy Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP ngày 05/11/2004 đã
hướng dẫn thực hiện: Khi Tòa án nhận hồ sơ do Viện kiểm sát chuyển đến,
người nhận hồ sơ phải đối chiếu bản kê tài liệu và các tài liệu có trong hồ sơ
xem đã đầy đủ hay chưa; kiểm tra bản cáo trạng xem đã được giao cho bị can
theo đúng qui định chưa. Nếu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án chưa đầy đủ so
với bản kê tài liệu hoặc bản cáo trạng chưa được giao cho bị can, thì không
nhận hồ sơ vì chưa đúng qui định của BLTTHS. Nếu tài liệu có trong hồ sơ
đầy đủ theo bản kê và bản cáo trạng đã được giao cho bị can, thì Tòa án nhận
và vào ngay sổ thụ lý hồ sơ vụ án. Sau khi hồ sơ vụ án được thụ lý, Chánh án
Tòa án phân công ngay Thẩm phán làm chủ tọa phiên tòa. Thẩm phán được
phân công làm chủ tọa phiên tòa phải xem xét tài liệu, chứng cứ để có được
bản án chính xác, khách quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Khi nhận hồ sơ vụ án thì Tòa án phải nhận cả vật chứng của vụ án được
chuyển giao cùng hồ sơ. Thư ký hay cán bộ Tòa án được giao nhiệm vụ nhận
hồ sơ phải kiểm tra kỹ lưỡng các bút lục được đánh số trong hồ sơ, đối chiếu
với bản kê (mục lục) tài liệu kèm theo hồ sơ, vào sổ và ghi sổ thụ lý vụ án.
Trong trường hợp nếu Tòa án trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung
thì Tòa án xóa sổ thụ lý, khi Viện kiểm sát hoàn tất việc điều tra bổ sung và
chuyển lại hồ sơ, thì Tòa án thụ lý lại toàn bộ vụ án. Trong quá trình xét xử
38. 31
khi Tòa án nghiên cứu hồ sơ để ADPL là hoạt động cụ thể nhằm thông qua
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân. Việc
nghiên cứu hồ sơ sẽ giúp Thẩm phán, Hội thẩm được phân công giải quyết vụ
án hiểu biết kỹ lưỡng về thủ tục tố tụng và nội dung vụ án để tìm ra phương
hướng giải quyết và đi đến ADPL đúng đắn. Theo qui định tại Điều 176
BLTTHS năm 2003, sau khi nhận hồ sơ vụ án, Thẩm phán được phân công
chủ tọa phiên tòa có nhiệm vụ nghiên cứu hồ sơ để tìm ra các lý lẽ, chứng cứ
buộc tội và gỡ tội để phán quyết khách quan, chính xác, giải quyết các khiếu
nại và yêu cầu của người tham gia tố tụng và tiến hành các việc cần thiết khác
cho việc mở phiên tòa. Theo qui định tại điều 39 BLTTHS Thẩm phán được
phân công xét xử vụ án hình sự có nhiệm vụ nghiên cứu hồ sơ trước khi mở
phiên tòa; Theo qui định tại Điều 40 Hội thẩm được phân công xét xử vụ án
hình sự có nhiệm vụ, quyền hạn nghiên cứu hồ sơ vụ án trước khi mở phiên
tòa. Đây là cơ sở pháp lý đồng thời là những yêu cầu đặt ra trong hoạt động
XXHS nói chung, xét xử sơ thẩm NCTN phạm tội nói riêng nhằm đảm bảo
cho Tòa án tiến hành áp dụng pháp luật. Thẩm phán chỉ có thể nghiên cứu hồ
sơ vụ án mới xác định được có đủ điều kiện để đưa vụ án ra xét xử hay phải ra
các quyết định khác như: trả hồ sơ để điều tra bổ sung; đình chỉ hoặc tạm đình
chỉ vụ án. Việc nghiên cứu hồ sơ còn giúp cho Thẩm phán, Hội thẩm xây
dựng được kế hoạch xét hỏi và những việc cần thiết khác để mở phiên tòa.
Việc nghiên cứu hồ sơ phải đáp ứng các yêu cầu cơ bản là: Toàn diện, đầy đủ,
theo trình tự hợp lý. Qua đó tổng hợp tài liệu, chứng cứ xác định tính hợp
pháp hay không của quá trình điều tra thu thập chứng cứ trước đó, việc áp
dụng các qui định về thủ tục tố tụng có đảm bảo hay không, cần dự liệu xem
xét các tình huống có thể xảy ra tại phiên tòa để người Thẩm phán luôn trong
thế chủ động khi điều khiển phiên tòa.
Trong thời gian chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án có NCTN phạm tội việc
nghiên cứu hồ sơ vụ án phải xác định được những vấn đề cơ bản sau:
39. 32
- Vụ án có thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án (đã thụ lý) hay không;
có cần tách nhập vụ án không?
- Những yêu cầu về thủ tục tố tụng đặc biệt đối với NCTN phạm tội có
đảm bảo theo đúng qui định hay không.Về thủ tục tố tụng trong điều tra, truy
tố đã đầy đủ và đúng qui định chưa. Ví dụ như phải xem xét trong giai đoạn
điều tra, truy tố đã đảm bảo qui định về quyền bào chữa cho NCTN phạm tội
và người đại diện hợp pháp của họ; đảm bảo việc tham gia tố tụng của gia
đình, nhà trường, tổ chức nơi người chưa thành niên phạm tội học tập, lao
động và sinh sống;
- Việc cần thiết áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn.
Trong đó chú ý tới việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp tạm giam trên cơ
sở đảm bảo qui định về việc bắt, tạm giữ, tạm giam NCTN phạm tội theo qui
định tại Điều 303 BLTTHS năm 2003 [22, Điều 305, 306].
- Ngoài ra, trong thời gian chuẩn bị xét xử cũng cần phải xem xét đã có
đủ tài liệu, chứng cứ xác định sự thật khách quan của vụ án chưa, hành vi của
bị can, bị cáo có cấu thành tội phạm hay không, hành vi nguy hiểm cho xã hội
của NCTN đã đủ độ tuổi chịu TNHS theo qui định tại Điều 12 BLHS chưa?
Có thể miễn TNHS cho NCTN phạm tội theo qui định tại Khoản 2 Điều 69
BLHS không? Có xác định được nguyên nhân và điều kiện phạm tội không?
- Có vật chứng, tang chứng nào cần xử lý trước khi xét xử hay không?
- Việc định tội, viện dẫn pháp luật để áp dụng trong bản cáo trạng đã
đúng chưa?
- Việc đưa vụ án ra xét xử đã có căn cứ chưa hay cần trả hồ sơ lại để
điều tra bổ sung, tạm đình chỉ hay đình chỉ vụ án?
- Nếu đưa vụ án ra xét xử thì xét xử trong quãng thời gian nào và địa
điểm tại đâu? Vụ án xét xử công khai hay phải xét xử kín?
- Cần phải triệu tập những ai tham gia tố tụng tại phiên tòa khi đưa vụ
án ra xét xử?
40. 33
Vậy trong thời gian chuẩn bị xét xử Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân
phải nghiên cứu hồ sơ như thế nào? Việc xem xét đánh giá chứng cứ đã thu
thập trong hồ sơ vụ án là việc làm quan trọng trước khi phiên tòa được mở ra
của người Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân. Đây là hoạt động tư duy pháp
lý do đó đòi hỏi Thẩm phán, Hội thẩm phải có kiến thức pháp luật và hiểu
biết thực tế sâu sắc, toàn diện, có khả năng tổng hợp và khái quát toàn bộ
diễn biến của vụ án, có những kế sách và dự kiến tình huống theo diễn biến
của phiên tòa. Trên cơ sở đánh giá chứng cứ qua hoạt động nghiên cứu hồ
sơ, Thẩm phán, Hội thẩm phát hiện những vấn đề còn mâu thuẫn hoặc còn
thiếu chứng cứ để cân nhắc giữa việc đưa vụ án ra xét xử với việc trả hồ sơ
để điều tra bổ sung. Nếu qua đánh giá chứng cứ xác định chưa đủ điều kiện
đưa vụ án ra xét xử thì căn cứ vào điều 179 BLTTHS để quyết định trả hồ sơ
để điều tra bổ sung. Nếu qua đánh giá chứng cứ xác định đủ điều kiện đưa
vụ án ra xét xử thì Thẩm phán, Hội thẩm phải dự kiến và lập phương án
thẩm vấn tại phiên tòa. Việc đánh giá chứng cứ phải đáp ứng yêu cầu qui
định tại Điều 66 BLTTHS là: Mỗi chứng cứ phải được đánh giá để xác định
tính hợp pháp, xác thực, liên quan đến vụ án hình sự [22]. Trong giai đoạn
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, chứng cứ là những gì có thật được thu thập
theo trình tự, thủ tục do BLTTHS qui định mà Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát, Tòa án dùng làm căn cứ để xác định hành vi phạm tội, người thực hiện
hành vi phạm tội cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết
đúng đắn vụ án hình sự. Chứng cứ không chỉ được cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát thu thập trong quá trình điều tra, truy tố mà còn được Tòa án thu
thập trong giai đoạn xét xử sơ thẩm trên cơ sở đảm bảo đúng qui định của
BLTTHS. Việc Tòa án có thể thu thập chứng cứ trong giai đoạn chuẩn bị xét
xử hay chính tại phiên tòa trong nhiều trường hợp bị cáo, người bị hại, người
bào chữa… xuất trình nhiều tài liệu, đồ vật có giá trị chứng minh đối với vụ
41. 34
án đã được HĐXX lập biên bản thu giữ theo qui định, và được xem xét,
đánh giá trong quá trình xét xử vụ án. Theo pháp luật TTHS thì chứng cứ
được xác định bằng: vật chứng, lời khai của người làm chứng, người bị hại,
nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan
trong vụ án, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, kết luận giám định, biên bản về
hoạt động điều tra, xét xử và các tài liệu, đồ vật khác.
Việc đánh giá chứng cứ của HĐXX không chỉ diễn ra trong quá trình
nghiên cứu hồ sơ chuẩn bị cho hoạt động xét xử sơ thẩm mà còn diễn ra trong
hoạt động xét xử tại phiên tòa. Đặc biệt theo yêu cầu của cải cách tư pháp
đang đặt ra hiện nay thì việc phán quyết của tòa án phải căn cứ chủ yếu vào
kết quả tranh tụng tại phiên tòa.
HĐXX muốn đánh giá chứng cứ tại phiên tòa thì thực hiện thông qua
việc xét hỏi đối với bị cáo và những người tham gia tố tụng (trừ người bào
chữa) đồng thời thông qua quá trình phân tích, đánh giá các quan điểm, chứng
cứ do các bên tham gia để có những kết luận chính xác, khách quan.
Trong các bước của quá trình giải quyết vụ án xét hỏi tại phiên tòa là
bước quan trọng để HĐXX đánh giá chứng cứ một cách toàn diện, khách
quan. Đây được xem là cuộc điều tra công khai, trong đó HĐXX không chỉ
hỏi bị cáo và những người tham gia tố tụng mà còn công bố tài liệu, lời khai,
chứng cứ và những nội dung liên quan tới vụ án. Thông qua đó, HĐXX kiểm
tra tính khách quan, chính xác của các chứng cứ trong vụ án. Đối với những
phiên tòa xét xử NCTN phạm tội, trong khi xét hỏi ngoài việc tuân thủ những
yêu cầu chung trên đây để làm rõ hành vi phạm tội, hậu quả do tội phạm gây
ra còn phải chú trọng xác định rõ độ tuổi, trình độ phát triển về thể chất và
tinh thần, mức độ nhận thức về hành vi phạm tội, điều kiện sinh hoạt, môi
trường giáo dục, nguyên nhân và điều kiện phạm tội…
Trong phiên tòa đòi hỏi HĐXX phải xác định đầy đủ các tình tiết về
42. 35
từng sự việc và về từng tội của vụ án theo thứ tự hợp lý không được bỏ qua
một chi tiết nào, sự việc nào. Việc xét hỏi phải đảm bảo khách quan tránh lối
xét hỏi mang định kiến chủ quan từ trước, áp đặt và truy bức người được hỏi.
Để tránh sự phiến diện, chủ quan trong xét hỏi của HĐXX, pháp luật TTHS
qui định tại phiên tòa xét xử ngoài HĐXX hỏi thì Kiểm sát viên, người bào
chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự có quyền được hỏi. Những người
tham gia phiên tòa cũng có quyền đề nghị với chủ tọa phiên tòa hỏi thêm về
những tình tiết cần làm sáng tỏ; người giám định được hỏi về những vấn đề
liên quan đến việc giám định. Nội dung lời khai theo câu hỏi do những người
này đặt ra là sự bổ sung quan trọng và cần thiết giúp HĐXX nhìn nhận vấn đề
trên dưới cách tiếp cận khác nhau để từ đó có những quyết định đúng đắn
trong việc giải quyết vụ án.
Tại phiên tòa, cùng với hoạt động xét hỏi, HĐXX còn đánh giá chứng
cứ thông qua việc xem xét vật chứng, xem xét thực địa nơi vụ án diễn ra hoặc
địa điểm khác có liên quan, công bố lời khai của bị cáo và những người liên
quan, công bố tài liệu, nhận xét báo cáo của các cơ quan tổ chức thu thập
được một cách công khai trước phiên tòa. Ở mỗi vụ án khác nhau thì việc
công khai nguồn chứng cứ nào là phù hợp, có ý nghĩa bổ sung cho việc xem
xét giải quyết đúng đắn vụ án của HĐXX.
Theo qui định của BLTTHS đối với phiên tòa mà bị cáo là NCTN
phạm tội có khác với phiên tòa thông thường. Để việc xét xử diễn ra khách
quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật phải có đại diện gia đình bị cáo,
đại diện của nhà trường, tổ chức Đoàn thanh niên… Đây là những đại diện
nắm bắt tâm tư và có khả năng hiểu biết tâm lý lứa tuổi này. Theo qui định tại
Điều 207 BLTTHS năm 2003 thì những người này khi tham gia phiên tòa có
quyền đề nghị với chủ tọa phiên tòa hỏi thêm về những tình tiết cần làm sáng
tỏ để bảo vệ người chưa thành niên. Những ý kiến đó cần được HĐXX hết
43. 36
sức quan tâm để xác định rõ những vấn đề thuộc về tâm lý lứa tuổi, trình độ
nhận thức và điều kiện sinh sống, giáo dục của bị cáo là NCTN. Khi mà trình
độ hiểu biết và khả năng nhận thức của bị cáo là NCTN phạm tội còn hạn chế
thì sự tham gia tố tụng và hoạt động tranh luận của những người này là sự
đảm bảo quan trọng cho việc bảo vệ quyền lợi chính đáng của NCTN phạm
tội; đồng thời nó thể hiện tính dân chủ khách quan trong đánh giá chứng cứ
đối với các vụ án có NCTN phạm tội. Chính vì vậy chủ tọa phiên tòa và
HĐXX phải tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tranh tụng tại các phiên tòa
xét xử bị cáo là NCTN phạm tội theo đúng qui định về thủ tục tố tụng đối với
NCTN. Có như vậy việc đánh giá chứng cứ thông qua xét hỏi mới đảm bảo
tính toàn diện khách quan, bảo vệ các quyền của bị cáo là NCTN và những
người tham gia tố tụng khác.
Bên cạnh đó, đối với các phiên tòa sơ thẩm xét xử NCTN phạm tội,
pháp luật tố tụng đã chú trọng ghi nhận quyền tranh luận của bị cáo thông qua
qui định thực hiện quyền bào chữa cho người chưa thành niên phạm tội qui
định tại các Điều 57, Điều 58 và Điều 305 BLTTHS năm 2003.
Tuy nhiên nếu chỉ thông qua xét hỏi tại phiên tòa để đánh giá chứng cứ
và đi đến quyết định ADPL thì sẽ tránh khỏi chủ quan, phiến diện và thiếu
dân chủ. Bởi lẽ hoạt động xét hỏi tại phiên tòa suy cho cùng vẫn chủ yếu được
tiến hành bởi những người tiến hành tố tụng. Trong mô hình tố tụng thẩm
vấn, HĐXX có tư cách là một bên công quyền, đối lại là bên người thực hiện
hành vi phạm tội. Đối với bị cáo thường quyền năng bị hạn chế do pháp luật
qui định và do ít có khả năng bảo vệ mình. Để khắc phục nhược điểm của tố
tụng xét hỏi, pháp luật TTHS Việt Nam, đặc biệt là đến BLTTHS năm 2003
đã qui định rõ hơn việc tranh luận tại phiên tòa. Để các tình tiết khách quan
của vụ án được làm sáng tỏ thì việc tranh tụng tại phiên tòa là cần thiết. Tranh
luận là sự đối đáp của các bên tham gia tại phiên tòa, thể hiện ý kiến, quan
44. 37
điểm của mình về các chứng cứ, tài liệu trong hồ sơ cũng như lý lẽ của bên
buộc tội (trong đó có quan điểm buộc tội của Viện kiểm sát); lý lẽ gỡ tội của
bên bị cáo. Theo qui định về tranh luận trong BLTTHS hiện hành thì những
người tham gia tố tụng có quyền tranh luận với nhau và với Kiểm sát viên giữ
quyền công tố để chứng minh và bảo vệ quyền lợi của mỗi người. Đồng thời
Kiểm sát viên cũng có nghĩa vụ phải đáp lại những ý kiến có liên quan tới vụ
án do những người tham gia tố tụng đưa ra. Ví như người làm chứng, người
phiên dịch nêu ý kiến đòi hỏi Kiểm sát viên phải tiếp thu và trả lời. Tất cả
những hoạt động tranh luận tại phiên tòa trên phải tuân theo sự điều khiển của
chủ tọa phiên tòa và HĐXX, trên cơ sở tôn trọng các bên tham gia tranh luận.
Có thể nói, HĐXX là người “cầm cân nẩy mực” sẽ tiếp thu thông tin nhiều
chiều và có sự chắt lọc khách quan để đánh giá một cách đầy đủ, chính xác về
chứng cứ được đưa ra tại phiên tòa, đó chính là cơ sở để HĐXX xem xét giải
quyết đúng đắn vụ án.
Tóm lại, đây là giai đoạn đầu của quá trình áp dụng pháp luật của Tòa
án trong xét xử sơ thẩm đối với NCTN phạm tội, nhưng đây là hoạt động chủ
yếu chiếm phần lớn thời gian trong giai đoạn xét xử sơ thẩm và có ý nghĩa
quan trọng cho việc đạt tới mục đích ra văn bản áp dụng pháp luật của Tòa án.
1.2.2. Giai đoạn lựa chọn quy phạm pháp luật áp dụng đối với bị cáo
Lựa chọn quy phạm pháp luật áp dụng đối với bị cáo là bước tiếp theo
rất quan trọng trong qui trình áp dụng pháp luật của Tòa án nhằm xác định bị
cáo có phạm tội hay không, nếu phạm tội thì phạm tội gì? Điều khoản nào của
BLHS qui định về tội phạm ấy.
Lựa chọn quy phạm pháp luật áp dụng đối với bị cáo là một trong
những nội dung cơ bản của việc áp dụng pháp luật hình sự trong quá trình xét
xử vụ án hình sự của Tòa án nói chung, xét xử sơ thẩm đối với người chưa
thành niên phạm tội nói riêng. Lựa chọn quy phạm pháp luật áp dụng đối với