SlideShare a Scribd company logo
1 of 100
Download to read offline
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
TRẦN THỊ HỒNG HẠNH
NGHIÊN CỨU THÀNH NGỮ TIẾNG VIỆT
TỪ BÌNH DIỆN NGÔN NGỮ HỌC NHÂN CHỦNG
Chuyên ngành : Lý luận ngôn ngữ
Mã số : 62 22 01 01
PHỤ LỤC LUẬN ÁN TIẾN SỸ NGÔN NGỮ HỌC
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Nguyễn Văn Khang
HÀ NỘI - 2011

`ˆÌi`Ê܈̅ÊÌ…iÊ`i“œÊÛiÀÈœ˜ÊœvÊ
˜vˆÝÊ*ÀœÊ*
Ê
`ˆÌœÀÊ
/œÊÀi“œÛiÊÌ…ˆÃʘœÌˆVi]ÊۈÈÌÊ
ÜÜÜ°ˆVi˜ˆ°Vœ“ÉÕ˜œVŽ°…Ì“
1
MỞ ĐẦU
0.1. Lý do chọn đề tài
Trong ngôn ngữ của một dân tộc, thành ngữ là một đơn vị đặc trƣng và
thành ngữ tiếng Việt cũng không phải là ngoại lệ. Bởi vì, thành ngữ không chỉ
là một phần quan trọng trong từ vựng của mỗi một ngôn ngữ, mà còn là một
nguồn tƣ liệu quý báu lƣu giữ những tri thức văn hóa của dân tộc sở hữu nó.
Nói một cách khác, thành ngữ chính là những đơn vị ngôn ngữ kết tinh nét
văn hóa của dân tộc rõ nhất và là công cụ phản ánh đặc điểm văn hóa xã hội
điển hình nhất của dân tộc. Chính vì vậy, không chỉ các nhà ngôn ngữ học,
mà cả các nhà nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn, những nhà nghiên
cứu văn hóa nói chung thƣờng rất quan tâm đối tƣợng này.
Với lƣợng tri thức phong phú mà kho tàng thành ngữ lƣu giữ, ngƣời ta
có thể tiếp cận nó từ nhiều góc độ khác nhau, bằng những phƣơng pháp khác
nhau. Vì thế, khi có một cách tiếp cận mới, ngƣời ta có thể sẽ tìm ra thêm
đƣợc những vấn đề mới. Một trong những cách tiếp cận mới chƣa đƣợc tiến
hành ở bất cứ công trình nào ở Việt Nam, đó là hƣớng tiếp cận thành ngữ
tiếng Việt nhìn từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng.
Ngôn ngữ học nhân chủng là một khuynh hƣớng nghiên cứu ngôn ngữ
đã đƣợc nhiều học giả trên thế giới quan tâm. Những nƣớc có môi trƣờng
ngôn ngữ đa dân tộc nhƣ Mỹ, Trung Quốc hay có truyền thống nghiên cứu
ngôn ngữ học xã hội nhƣ Anh, Pháp v,v từ lâu đã quan tâm đến hƣớng nghiên
cứu này. Ở nƣớc ta, đây là một hƣớng nghiên cứu còn rất mới mẻ chƣa đƣợc
nhiều ngƣời lƣu ý. Vì thế tiếp cận ngôn ngữ học từ bình diện nhân chủng sẽ
góp phần làm phong phú những khuynh hƣớng nghiên cứu khác nhau về ngôn
ngữ học ở nƣớc ta hiện nay. Từ cách đặt vấn đề nhƣ vậy, chúng tôi lựa chọn
đề tài “Nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt từ bình diện ngôn ngữ học nhân
2
chủng” cho luận án của mình với mong muốn khai thác một vấn đề không
mới bằng một cách tiếp cận đƣợc cho là mới, góp phần làm phong phú thêm
những khuynh hƣớng nghiên cứu ngôn ngữ học ở nƣớc ta hiện nay.
0.2. Mục đích của luận án
Thực hiện đề tài nghiên cứu này, chúng tôi hƣớng tới những mục đích
sau đây:
Thứ nhất, ứng dụng một số tri thức của ngôn ngữ học nhân chủng vào
nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt. Do đó, có thể coi đây là một cách tiếp cận
mới về thành ngữ, góp phần bổ sung thêm lý thuyết nghiên cứu ngôn ngữ ở
Việt Nam. Cách làm này sẽ giúp chúng tôi thu nhận đƣợc một cơ sở lý luận
quan trọng để từ đó có thể gợi mở những vấn đề khác trong ngôn ngữ học
nhằm tiến hành nghiên cứu thêm trên những nguồn tƣ liệu khác nữa của tiếng
Việt.
Thứ hai, từ cách tiếp cận của ngôn ngữ học nhân chủng, luận án hy
vọng góp phần làm nổi bật những đặc điểm văn hóa xã hội của ngƣời Việt
đƣợc phản ánh trong đơn vị ngôn ngữ đặc biệt là thành ngữ. Qua đó luận án
góp phần chỉ ra những vấn đề liên quan đến thành ngữ mà những cách tiếp
cận trƣớc đây chƣa chú ý hoặc chƣa chỉ ra một cách tƣờng minh, cụ thể.
0.3. Nhiệm vụ của luận án
Xuất phát từ mục đích nói trên, luận án đặt ra những nhiệm vụ sau đây:
Một là, trình bày những cơ sở lý thuyết liên quan đến đề tài gồm một
vài vấn đề liên quan đến ngôn ngữ học nhân chủng, những quan điểm nhận
diện và nghiên cứu thành ngữ trong tiếng Việt cũng nhƣ các hƣớng tiếp cận
thành ngữ trƣớc đây. Trên cơ sở đó xác định cho mình những nội dung cụ thể
trong nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng.
Hai là, khảo sát một vài vấn đề liên quan đến đặc điểm văn hóa xã hội
trong thành ngữ tiếng Việt. Đƣơng nhiên, khi thực hiện việc khảo sát này luận
3
án sẽ xuất phát từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng để nhằm chắt lọc ra
một số nội dung mà những cách tiếp cận trƣớc đây chƣa chú ý đúng mức. Qua
đó, luận án sẽ bƣớc đầu nêu ra những đặc điểm đặc trƣng về nội dung này của
thành ngữ tiếng Việt.
Ba là, qua việc phân tích ẩn dụ có trong thành ngữ tiếng Việt, luận án
sẽ làm rõ thêm tính ẩn dụ (metaphoricality) thể hiện qua mối quan hệ giữa ý
niệm nguồn (source) và ý niệm đích (target) của thành ngữ tiếng Việt. Qua đó
thể hiện cách nhìn nhận thành ngữ từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng của
luận án.
0.4. Ý nghĩa của luận án
Về mặt lý luận, luận án đƣợc thực hiện trên cơ sở kế thừa và vận dụng
một vài nội dung liên quan đến lý thuyết ngôn ngữ học nhân chủng. Vì vậy,
luận án sẽ góp phần vào làm đa dạng hóa các cách tiếp cận khác nhau trong
việc nghiên cứu một vấn đề của ngôn ngữ học. Ở đây, thành ngữ tiếng Việt sẽ
đƣợc nhìn nhận từ một cách tiếp cận mới và do đó, những đặc điểm văn hóa
xã hội của thành ngữ sẽ có điều kiện đƣợc tập trung làm rõ thêm hơn.
Về mặt thực tiễn, luận án sẽ góp phần hữu ích vào việc hiểu và giải
thích thành ngữ tiếng Việt. Việc hiểu rõ về thành ngữ tiếng Việt không chỉ có
ích đối với mỗi ngƣời Việt Nam nói chung, mà còn có ích đối với các bạn học
sinh, sinh viên, đặc biệt là với những sinh viên nƣớc ngoài học tiếng Việt nói
riêng. Từ đó, phần nào giúp cho mọi ngƣời có thể hiểu thêm về các vấn đề
văn hóa xã hội của Việt Nam, hiểu rõ thêm đặc trƣng văn hóa của ngƣời Việt
đƣợc thể hiện trong ngôn ngữ.
0.5. Phạm vi đối tượng nghiên cứu
Nhƣ vậy, đối tƣợng nghiên cứu mà chúng tôi lựa chọn là thành ngữ
tiếng Việt. Hiện nay, đã có rất nhiều từ điển thành ngữ tiếng Việt đƣợc xuất
bản. Căn cứ vào tính chất của những cuốn từ điển ấy và để thuận tiện cho việc
4
xử lý, tƣ liệu mà chúng tôi dùng trong luận án sẽ đƣợc tổng hợp từ những
nguồn sau đây:
- Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam của Vũ Dung - Vũ Thúy Anh
- Vũ Quang Hào (NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội 1995).
- Từ điển thành ngữ Việt Nam do Nguyễn Nhƣ Ý chủ biên (NXB Văn
hóa, Hà Nội 1993).
- Phần “Sƣu tập và phân loại thành ngữ” tiếng Việt trong cuốn Thành
ngữ học tiếng Việt của Hoàng Văn Hành (NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội
2004).
Tổng số thành ngữ tiếng Việt đƣợc chúng tôi thu thập để tiến hành
khảo sát là 8.780 đơn vị. Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng một số thành ngữ
của các ngôn ngữ khác làm dẫn chứng minh họa và so sánh. Những tƣ liệu
nƣớc ngoài này đƣợc trích dẫn từ các sách, từ điển hay luận án đã đƣợc nêu ra
trong phần tài liệu tham khảo.
0.6. Phương pháp nghiên cứu
Luận án đƣợc tiến hành nghiên cứu dựa trên các phƣơng pháp nghiên
cứu cơ bản của ngôn ngữ học, trong đó chủ yếu là phương pháp miêu tả, phần
nào là phương pháp so sánh đối chiếu. Bên cạnh đó, các thủ pháp nghiên cứu
nhƣ thống kê và phân loại tƣ liệu, phân tích v.v cũng sẽ đƣợc áp dụng để phục
vụ mục tiêu nghiên cứu.
0.7. Bố cục của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục các công trình đã công bố của
tác giả, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận án gồm có ba chƣơng:
- Chƣơng 1: Cơ sở lý thuyết của đề tài. Chƣơng viết này sẽ làm rõ một
vài vấn đề liên quan đến lý thuyết ngôn ngữ học nhân chủng và những vấn đề
lý thuyết đã có về thành ngữ. Từ đó luận án sẽ xác định hƣớng nghiên cứu cụ
5
thể mà ngôn ngữ học nhân chủng có thể áp dụng để nghiên cứu thành ngữ
tiếng Việt.
- Chƣơng 2: Một vài đặc điểm văn hóa xã hội của thành ngữ tiếng Việt
nhìn từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng. Chƣơng này sẽ trình bày khái
quát một vài nội dung trong thành ngữ tiếng Việt nhìn từ bình diện ngôn ngữ
học nhân chủng nhằm làm rõ những vấn đề mà các cách tiếp cận khác còn
chƣa có điều kiện chỉ ra.
- Chƣơng 3: Tính ẩn dụ trong thành ngữ tiếng Việt nhìn từ bình diện
ngôn ngữ học nhân chủng. Chƣơng này lựa chọn vấn đề ẩn dụ nhƣ là một
trong những nội dung nghiên cứu của ngôn ngữ học nhân chủng để qua đó
góp phần chỉ ra mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa trong thành ngữ. Và
đó cũng chính là cách để làm sáng tỏ những đặc điểm của tính ẩn dụ có trong
thành ngữ tiếng Việt. Cách giải thích ấy đến lƣợt mình cho chúng ta biết ngôn
ngữ và văn hóa tác động qua lại lẫn nhau như thế nào và chính sự hiểu biết
đó chỉ ra sự khác biệt giữa ngôn ngữ học nhân chủng với các phân ngành
khoa học khác.
6
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ THUYẾT CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Dẫn nhập
Trong xu thế phát triển hiện nay, ngày càng có nhiều hƣớng nghiên cứu
mới với những phạm vi nghiên cứu giáp ranh giữa các ngành khoa học. Ở đó,
các đối tƣợng nghiên cứu đƣợc xem xét từ nhiều góc độ có thể nói là toàn
diện hơn nhờ những cách tiếp cận liên ngành. Ngôn ngữ học nhân chủng là
một ngành khoa học liên ngành ra đời trong xu thế đó. Ở nhiều nƣớc trên thế
giới, ngôn ngữ học nhân chủng thu hút đƣợc sự quan tâm của nhiều nhà
nghiên cứu, đặc biệt là các nhà nghiên cứu ở Bắc Mỹ nhƣ Mỹ, Canada và tiếp
đó là các học giả ở Anh, Úc, Pháp, Trung Quốc...
Ở Việt Nam hiện nay, hầu nhƣ chƣa có một công trình nghiên cứu nào
nhƣ sách chuyên luận hay giáo trình đại học ... về ngôn ngữ học nhân chủng
đƣợc công bố. Vì thế, luận án này có thể đƣợc coi nhƣ là một sự cố gắng bƣớc
đầu ứng dụng những kết quả lý luận của ngôn ngữ học nhân chủng vào việc
nghiên cứu tiếng Việt. Trong tình hình nhƣ vậy, ở chƣơng này, chúng tôi sẽ
giới thiệu về ngôn ngữ học nhân chủng nhằm cung cấp một cái nhìn cơ bản
nhất về chuyên ngành ngôn ngữ học này phục vụ cho nhiệm vụ của luận án.
Việc giới thiệu ở đây là chỉ nhằm nêu ra những vấn đề có thể ứng dụng
cách tiếp cận của chuyên ngành ngôn ngữ học này trong nghiên cứu thành
ngữ tiếng Việt. Vì thế, chúng tôi không có hy vọng làm thỏa mãn những hiểu
biết đầy đủ về ngôn ngữ học nhân chủng. Việc giới thiệu của chúng tôi một
mặt là cơ sở lý luận cho các chƣơng tiếp theo của luận án, mặt khác trong một
chừng mực nào đó có thể góp phần vào việc phát triển lý luận về ngôn ngữ
học nhân chủng giúp ích cho việc nghiên cứu những đối tƣợng ngôn ngữ khác
ở Việt Nam.
7
1.2. Một số vấn đề lý thuyết về ngôn ngữ học nhân chủng.
1.2.1. Việc sử dụng thuật ngữ trong luận án
Về mặt thuật ngữ, hiện vẫn chƣa có sự phân biệt rõ ràng giữa việc dịch
sang tiếng Việt và sử dụng hai thuật ngữ tiếng Anh anthropological
linguistics và linguistic anthropology. Sự giống nhau giữa hai thuật ngữ này
là ở chỗ, cả hai đều dùng để gọi tên một lĩnh vực liên ngành đƣợc hình thành
từ hai ngành anthropology - “nhân học” hay “nhân chủng học” và linguistics -
“ngôn ngữ học”.
Trong các tài liệu ở Việt Nam, thuật ngữ anthropological linguistics có
thể đƣợc dịch là “ngôn ngữ học nhân học” hoặc “ngôn ngữ học nhân chủng”,
hoặc “ngôn ngữ học nhân chủng học” và linguistic anthropology có thể đƣợc
dịch là “nhân học ngôn ngữ”, “nhân chủng học ngôn ngữ”, “nhân chủng học
ngôn ngữ học”. Trong luận án này, chúng tôi lựa chọn cách dịch
anthropological linguistics là “ngôn ngữ học nhân chủng” và linguistic
anthropology là “nhân chủng học ngôn ngữ” với hai lý do sau đây:
(1) Chúng tôi nghĩ rằng trong một thuật ngữ khoa học không nên có hai
chữ học đồng thời có mặt. Vì vậy, cách gọi “nhân học ngôn ngữ học”, “ngôn
ngữ học nhân học”, “ngôn ngữ học nhân chủng học” khiến cho thuật ngữ bị
lặp một cách chƣa hợp lý.
(2) Cách chuyển dịch “ngôn ngữ học nhân chủng” sẽ mang tính hệ
thống của thuật ngữ hơn trong mối tƣơng quan với các chuyên ngành ngôn
ngữ học khác nhƣ “ngôn ngữ học ứng dụng”, “ngôn ngữ học xã hội”, “ngôn
ngữ học tâm lý”, “ngôn ngữ học tri nhận” v.v. Theo đó, yếu tố “ngôn ngữ
học” chỉ ra rằng đây là chuyên ngành nghiên cứu về ngôn ngữ và yếu tố
“nhân chủng” chỉ ra hƣớng tiếp cận ngôn ngữ từ bình diện nhân chủng.
Tƣơng ứng với thuật ngữ tiếng Việt “ngôn ngữ học nhân chủng”, thuật ngữ
tiếng Anh linguistic anthropology đƣợc chúng tôi dịch là “nhân chủng học
8
ngôn ngữ” và ở đây đƣợc hiểu nó là chuyên ngành nhân chủng học tiếp cận từ
bình diện ngôn ngữ.
1.2.2. Khái quát về ngôn ngữ học nhân chủng
Ngôn ngữ học nhân chủng là một lĩnh vực nghiên cứu liên ngành có
liên quan đến hai chuyên ngành độc lập là nhân chủng học và ngôn ngữ học.
Do đều là khoa học nghiên cứu về con ngƣời, bản thân nhân chủng học và
ngôn ngữ học vừa có sự đan xen lẫn nhau, vừa có sự trùng lặp về đối tƣợng
hay khách thể nghiên cứu, do đó vừa có tác động qua lại và ảnh hƣởng lẫn
nhau. Nói nhƣ vậy là vì, tƣ liệu của ngôn ngữ học là ngôn ngữ với tƣ cách là
phƣơng tiện giao tiếp và công cụ của tƣ duy. Đó là thứ phƣơng tiện và công
cụ mà chỉ có con ngƣời mới có đặc quyền sở hữu với tƣ cách là một thành
viên của một cộng đồng xã hội gắn liền với một nền văn hóa nhất định nào đó.
Trong khi đó, đối tƣợng nghiên cứu của nhân chủng học là con ngƣời,
bao gồm tất cả các đặc điểm sinh lý, các đặc điểm tâm lý, tình cảm, tƣ duy v.v,
tức là các hoạt động đặc trƣng của con ngƣời. Trong các hoạt động đặc trƣng
ấy, hoạt động ngôn ngữ đƣợc coi là đặc hoạt động phức tạp nhất và cũng là
điển hình nhất của loài động vật cao cấp này. Hơn thế nữa, ngôn ngữ còn
đƣợc xem nhƣ một tiêu chí quan trọng để xác định và phân biệt một tộc ngƣời
và đặc trƣng văn hóa của tộc ngƣời đó. Cho nên, ngôn ngữ là một phần quan
trọng không thể thiếu khi nghiên cứu nhân chủng học.
Về mặt lịch sử, trƣớc khi ngôn ngữ học nhân chủng ra đời, ngƣời ta
thƣờng quen dùng thuật ngữ nhân chủng học ngôn ngữ. Có thể nói, thuật ngữ
nhân chủng học ngôn ngữ gắn liền với nhân chủng học văn hóa - một trong
bốn lĩnh vực truyền thống của nhân chủng học, bên cạnh nhân chủng học hình
thể, khảo cổ học, dân tộc học. Trong giai đoạn đầu phát triển, nhân chủng học
ngôn ngữ đƣợc xem là một phần của nhân chủng học văn hóa. Khi đó, các
nhà nghiên cứu điền dã nhân chủng học trong quá trình nghiên cứu các tộc
9
ngƣời đã nhận thấy vai trò của ngôn ngữ là hết sức quan trọng đối với nghiên
cứu dân tộc học. Và vì vậy, ngôn ngữ đƣợc các nhà nhân chủng học quan tâm
nghiên cứu nhƣ là một ánh phản của văn hóa tộc ngƣời. Cho nên, nhân chủng
học coi ngôn ngữ, và vì thế cả ngôn ngữ học, là nền tảng của một khoa học về
con ngƣời, bởi vì nó cung cấp một sự hiểu biết về mối liên hệ giữa cấp độ
sinh học và văn hóa xã hội.
Tuy nhiên, chỉ đến khi “Một số người thấy trong phương pháp luận
ngôn ngữ học hiện đại có một mô hình hay mầm mống của một phương pháp
luận chung cho việc nghiên cứu cấu trúc hành vi của con người” (D.Hymes –
trích từ [63,143]) thì từ đó, ngôn ngữ và các hệ thống lý thuyết ngôn ngữ học
không thể đƣợc xem là một bộ phận trong nhân chủng học văn hóa nữa. Bởi
vậy, thuật ngữ ngôn ngữ học nhân chủng ra đời. Nó nhằm khẳng định vai trò
của ngôn ngữ và các lý thuyết ngôn ngữ học đối với việc nghiên cứu nhân
chủng.
Các nghiên cứu ngôn ngữ học nhân chủng nhấn mạnh vai trò quan
trọng của ngôn ngữ trong việc tạo nên nền tảng văn hóa xã hội của con ngƣời,
trong việc đồng thời góp phần tạo nên tính đa dạng và tính chỉnh thể cho các
hệ thống văn hóa xã hội đó. Do đó, ngôn ngữ học nhân chủng là hƣớng
nghiên cứu ngôn ngữ thông qua các yếu tố thuộc về con ngƣời, mà cụ thể là
mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa, giữa ngôn ngữ và tƣ duy, giữa ngôn
ngữ và xã hội. Nói một cách khác, ngôn ngữ học nhân chủng có thể đƣợc hiểu
nhƣ là một chuyên ngành nghiên cứu các vấn đề ngôn ngữ của loài ngƣời dựa
vào các dữ liệu văn hóa xã hội và xử lý những dữ liệu ấy bằng các phƣơng
pháp của ngôn ngữ học.
Nhƣ chúng ta đều biết, những mối quan hệ vừa kể ở trên cũng là sự
quan tâm của rất nhiều phân ngành ngôn ngữ học khác nhƣ ngôn ngữ học tri
nhận, ngôn ngữ học tâm lý v.v và ngƣời anh em gần gũi với ngôn ngữ học
10
nhân chủng là ngôn ngữ học xã hội. Chính bởi vậy, ngôn ngữ học nhân chủng
dƣờng nhƣ có phạm vi nghiên cứu bao trùm và thậm chí, nó còn có xu hƣớng
tích hợp nhiều ngành khoa học xã hội và nhân văn khác.
Khi nói về đối tƣợng nghiên cứu truyền thống của ngôn ngữ học nhân
chủng, các nhà nghiên cứu Bắc Mỹ thƣờng chỉ chú trọng đến những ngôn ngữ
không phải là ngôn ngữ phƣơng Tây. Nói một cách khác, họ đặc biệt quan
tâm đến các ngôn ngữ thổ dân châu Mỹ, nhất là các ngôn ngữ không có chữ
viết hay còn gọi là các ngôn ngữ tiền văn tự. Điều này là do ngôn ngữ học
nhân chủng ra đời bắt nguồn từ những công trình nghiên cứu ngôn ngữ thổ
dân châu Mỹ của Boas, Sapir và Whorf. Đây là những ngƣời đƣợc coi là sáng
lập ra ngành ngôn ngữ học này. Trong các công trình nghiên cứu của họ, đối
tƣợng nghiên cứu chính là các ngôn ngữ còn đƣợc lƣu giữ trong những bộ tộc
thổ dân mà ít ngƣời biết đến.
Sau này, cùng với xu hƣớng phát triển rộng khắp trên nhiều nƣớc, đối
tƣợng nghiên cứu của ngôn ngữ học nhân chủng đƣợc mở rộng. Và vì vậy, nó
không còn giới hạn ở các ngôn ngữ thổ dân nữa mà là ngôn ngữ loài ngƣời
nói chung. Việc mở rộng đối tƣợng nghiên cứu cũng là bƣớc phát triển về
chất của ngôn ngữ học nhân chủng.
Về mặt phƣơng pháp, ngôn ngữ học nhân chủng kế thừa và vận dụng
các phƣơng pháp của cả ngôn ngữ học và nhân chủng học. Các phƣơng pháp
nghiên cứu cơ bản của ngôn ngữ học mà ngôn ngữ học nhân chủng thƣờng sử
dụng là phƣơng pháp phân tích miêu tả, phƣơng pháp so sánh - lịch sử,
phƣơng pháp so sánh đối chiếu; còn phƣơng pháp nghiên cứu cơ bản của
nhân chủng học hay đƣợc sử dụng là phƣơng pháp quan sát tham dự, phƣơng
pháp khảo tả dân tộc học. “Vốn đã là một lĩnh vực liên ngành, nó dựa vào và
mở rộng các phương pháp đã có trong các ngành khác, đặc biệt là ngôn ngữ
học và nhân chủng học, với mục tiêu chung là cung cấp hiểu biết dưới nhiều
11
phương diện phong phú về ngôn ngữ với tư cách là một tập hợp các thói quen
văn hóa, đó là, như một hệ thống giao tiếp cho phép các các nhân hay từng
cá nhân trình bày về trật tự xã hội và giúp việc giao tiếp trở thành các hành
vi xã hội cơ bản” [158,3].
Trong nghiên cứu ngôn ngữ học nhân chủng truyền thống, bên cạnh
phƣơng pháp khảo tả dân tộc học, các nhà nghiên cứu rất chú trọng đến
phƣơng pháp quan sát tham dự. Bởi vì, đối tƣợng của ngôn ngữ học nhân
chủng là ngôn ngữ nhƣng không phải là ngôn ngữ trong sự phân biệt với lời
nói mà ngôn ngữ ở đây đƣợc hiểu là bao gồm cả lời nói. Vì vậy phƣơng pháp
quan sát các diễn ngôn tự nhiên là rất quan trọng. Điều này liên quan đến lịch
sử nghiên cứu ngôn ngữ học nhân chủng. Chuyên ngành này ra đời bắt nguồn
từ các nghiên cứu điền dã của các nhà dân tộc học, do đó phƣơng pháp nghiên
cứu tham dự là phƣơng pháp cơ bản điển hình và hệ quả là tƣ liệu thu đƣợc
cũng là những quan sát rất tự nhiên.
Mặc dù các diễn ngôn cần đƣợc ghi lại một cách càng tự nhiên càng tốt,
nhƣng không hẳn chỉ là các diễn ngôn bất kỳ không đƣợc chọn lọc. Các nhà
nghiên cứu đã “chỉ trích việc sử dụng các từ ngữ khẩu ngữ như là các “dữ
liệu thô” của các nhà nhân chủng học văn hóa” [157,67]. Bởi vậy, họ đặc
biệt tin tƣởng vào các “văn bản” – có nghĩa là các diễn ngôn đã đƣợc ghi chép
lại. Điều này cho phép loại trừ các yếu tố nhiễu không mang lại kết quả
nghiên cứu nhƣ mong đợi. Cụ thể hơn nữa, hầu hết các học giả trong lĩnh vực
này đều thấy rằng tƣ liệu căn bản của họ có thể đƣợc tìm thấy trong ngôn ngữ
đƣợc thu nhận từ quá trình quan sát các ngữ cảnh tự nhiên, trong những cuộc
phỏng vấn tƣơng đối tự do và cả trong các thí nghiệm. Mối quan tâm của họ
là “các cách nói” đƣợc quan sát nhƣ vậy có thể tiết lộ điều gì về biểu hiện
kiến thức văn hóa trong nhiều lĩnh vực của một cộng đồng; sau đó những biểu
hiện ấy đƣợc tổ chức nhƣ thế nào, chúng đƣợc triển khai và tái tạo lại ra sao
12
và cái gì là cái có thể giới hạn cho sự đa dạng văn hóa ở một cộng đồng. Tính
chất quan sát tự nhiên nhƣng đƣợc “lựa chọn” là nhƣ vậy.
1.2.3. Nội dung nghiên cứu của ngôn ngữ học nhân chủng
Trong cuốn “Bách khoa thƣ quốc tế về ngôn ngữ học” [157,65], tác giả
Jane.H.Hill cho rằng mối quan tâm chính của các nhà ngôn ngữ học nhân
chủng là “nhấn mạnh vào nghiên cứu cuộc thoại tự nhiên, và cùng công nhận
tầm quan trọng của sự đa dạng liên văn hóa trong các chức năng của ngôn
ngữ. Họ cũng được liên kết lại với nhau qua việc khẳng định rằng ngôn ngữ
gắn chặt với văn hóa và xã hội loài người, và ở mức độ cao là tạo thành nên
văn hóa và xã hội loài người”. Qua phát biểu trên, có thể nói một cách khái
quát rằng, nội dung chính của ngôn ngữ học nhân chủng là nghiên cứu mối
quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa, giữa ngôn ngữ và xã hội.
1.2.3.1. Đôi nét về lịch sử vấn đề
Trên thực tế, ngôn ngữ học nhân chủng đã trải qua một quá trình “dao
động” trƣớc khi xác định đƣợc cho mình những nội dung nghiên cứu đặc thù
ấy. Để xác định đƣợc nội dung nghiên cứu nói trên, ngôn ngữ học nhân chủng
đã phải cùng các ngành khác trải qua một tiến trình nhận thức về mối quan hệ
giữa ngôn ngữ và văn hóa, giữa ngôn ngữ và xã hội. Chúng tôi tạm thời phân
chia tiến trình nhận thức ấy thành các giai đoạn nhƣ sau.
(1) Trƣớc hết, mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa đã là đề tài truyền
thống đƣợc rất nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Bởi lẽ, bản thân ngôn ngữ,
văn hóa và xã hội đều là những sản phẩm cơ bản mang tính đặc trƣng chỉ có ở
loài ngƣời. Có thể nhận thấy rằng trong thực tế luôn tồn tại một mối quan hệ
giữa ngôn ngữ và văn hóa, giữa ngôn ngữ và xã hội. “Là một thành tố của nền
văn hóa tinh thần, ngôn ngữ giữ vị trí đặc biệt trong nó. Bởi vì ngôn ngữ là
phương tiện tất yếu và là điều kiện cho sự nảy sinh, phát triển và hoạt động
của những thành tố khác trong văn hóa. Ngôn ngữ là một trong những thành
13
tố đặc trưng nhất của bất cứ nền văn hóa nào” [139,21]. Rõ ràng, tƣ cách là
những yếu tố trong cùng một hệ thống đã nói rõ mối quan hệ giữa ngôn ngữ,
văn hóa và xã hội.
(2) Mặc dù ngôn ngữ và văn hóa có mối quan hệ tƣơng cận rõ ràng nhƣ
vậy, song việc nhìn nhận và xem xét nó nhƣ một vấn đề nghiên cứu cụ thể thì
phải đến đầu thế kỷ XIX mới đƣợc nêu lên. Chính vì vậy, khi bàn về mối
quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa, giữa ngôn ngữ và xã hội, những tƣ tƣởng
của Humboldt có thể coi là những đóng góp đầu tiên. Ông cho rằng về
phƣơng diện xã hội, mỗi ngôn ngữ phản ánh những cách tƣ duy của dân tộc
sử dụng nó, đồng thời nó cũng tác động đến tƣ duy đó. Ngôn ngữ là công cụ
tổ chức và hƣớng dẫn thế giới quan của ngƣời nói. Không những chỉ ra sự tồn
tại của mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tƣ duy nhƣ thế, Humboldt còn nhấn
mạnh rằng “ngôn ngữ và tư duy của một dân tộc không tách rời nhau… Ngôn
ngữ và tư duy dựa vào nhau không thể phân tách. Vì thế sự khác nhau giữa
các ngôn ngữ sẽ dẫn đến sự khác biệt trong cách lý giải hay giải thích về thế
giới khách quan…những người không nói những ngôn ngữ giống nhau sống ở
những địa bàn khác nhau sẽ có hệ thống tư duy khác nhau” [112,97-98].
Quan điểm này sau đó đã ảnh hƣởng nhiều đối với giả thuyết về tính tƣơng
đối của ngôn ngữ mà Sapir và Whorf chủ trƣơng.
Cùng với Humboldt, các nhà tƣ tƣởng thuộc trào lƣu triết học Khai
sáng Đức nhƣ Immanuent Kant, Johann Gottfried Heider v.v (cũng có thể coi
họ nhƣ là những ngƣời đầu tiên đề cập đến vấn đề ngôn ngữ gắn chặt với tƣ
duy) đã có một quan niệm tƣơng tự nhƣ vậy. Trong số đó, Heider cho rằng
ngôn ngữ là tài sản riêng biệt của một dân tộc sản sinh ra nó. Ngƣời ta nói
rằng với quan niệm đó, ông là ngƣời gieo mầm cho tƣ tƣởng hoàn chỉnh của
Humboldt. Nhƣ vậy, tƣ tƣởng đƣợc coi là chủ đạo tuy là do Humboldt phát
biểu nhung thực chất là bắt nguồn từ trào lƣu triết học Khai sáng Đức.
14
Liên quan đến mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa, giữa ngôn ngữ
và xã hội, nhiều nhà nghiên cứu cũng đã có những thông tin mang tính gợi
mở. Trong cuốn “Bách khoa thƣ quốc tế về ngôn ngữ học” [157], tác giả
Jane.H.Hill cho rằng việc xác định “ông tổ” của lĩnh vực đa dạng này rất phức
tạp. Nó có thể bao gồm cả các nhà nghiên cứu theo chủ nghĩa chức năng của
trƣờng phái Praha, theo chủ nghĩa cấu trúc Mỹ “Bloomfield mới”, các nhà
nghiên cứu thổ ngữ học và tâm lý học xã hội. Nhƣng thông qua việc xác định
này, ngƣời ta sẽ hiểu rõ hơn mối quan hệ nhƣ là nội dung nghiên cứu của
ngôn ngữ học nhân chủng.
Cũng có thể kể ra một số công trình tiêu biểu của các nhà nghiên cứu
Anh nhƣ các công trình của Malinowski về chức năng các ngôn ngữ “nguyên
thủy”, nghiên cứu của Bloch về các bài diễn thuyết chính trị trong các xã hội
truyền thống, nghiên cứu xuyên văn hóa của Goody về ảnh hƣởng của kỹ
năng đọc viết.
Ở Pháp, ngƣời ta có thể kể đến công trình của Claude Lévi Strauss về
phân tích cấu trúc huyền thoại, các nghiên cứu về ngôn ngữ Dogon ở Tây Phi
của Calame –Griaule, nhân chủng học tri nhận của Sperber. Bên cạnh đó, có
thể coi lý thuyết xã hội của các học giả Pháp ít nhiều có liên quan đến nội
dung này, ví dụ nhƣ đề xuất của Pierre Bourdieu rằng các dạng thức ngôn ngữ
có thể tạo thành một dạng “vốn ký hiệu” hay nhƣ quan niệm của Michel
Foucault về các giới hạn diễn đạt đƣợc tạo thành thống qua những dạng thức
cấu tạo đƣợc gọi là “trật tự diễn ngôn” [157,65].
Ngoài ra, ngƣời đƣợc coi là cha đẻ của ngôn ngữ học hiện đại
Ferdinand de Saussure cũng đã có những đóng góp to lớn cho ngôn ngữ học
hậu cấu trúc, trong đó có ngôn ngữ học nhân chủng. F. Saussure đã khá cực
đoan khi quan niệm ngôn ngữ là một hệ thống siêu hình đóng kín, bao gồm
các quan hệ thuần tuý phi vật chất. Thế nhƣng, trong đó, ông vẫn thể hiện ra
15
những tƣ tƣởng gieo mầm cho một hệ thống lý thuyết ngôn ngữ học mới khi
ông “thừa nhận: Phong tục của một dân tộc có tác động đến ngôn ngữ, và
mặt khác, trong một chừng mực khá quan trọng, chính ngôn ngữ làm nên dân
tộc [107,47]. Cuốn sách “Giáo trình ngôn ngữ học đại cƣơng” cũng đã thể
hiện những ý kiến của ông về vai trò của ngôn ngữ học ngoại tại và về tầm
quan trọng của tài liệu ngôn ngữ đối với nhân loại học và tiền sử học”.
1.2.3.2. Nội dung nghiên cứu của ngôn ngữ học nhân chủng
Mặc dù có nhiều học giả quan tâm nhƣ vậy, nhƣng phải nhờ đến những
cống hiến của Boas và các học trò của ông là Sapir và Whorf, việc nghiên cứu
mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa mới thực sự bắt đầu. Và chính họ đã
tạo ra một trƣờng phái trong ngôn ngữ học có tên gọi là “Trƣờng phái tƣơng
đối ngôn ngữ học” với “Nguyên lý tƣơng đối ngôn ngữ học” hay còn gọi là
“Giả thuyết Sapir-Whorf”. Khi nói về giả thuyết này, cần phải điểm qua ba
tên tuổi sau.
(1) Franz Boas (1858-1942). Tất cả các tài liệu ngôn ngữ học nhân
chủng đều thừa nhận rằng, ông đƣợc xem là ngƣời có công đặt nền móng cho
sự ra đời của nhân chủng học nói chung và ngôn ngữ học nhân chủng nói
riêng. Khác với các nhà nghiên cứu châu Âu đƣơng thời, Boas tập trung
nghiên cứu ngôn ngữ thổ dân châu Mỹ thuộc nhiều ngữ hệ khác nhau. Các kết
quả nghiên cứu điền dã ngôn ngữ đã giúp ông nhận ra rằng có một sự khác
biệt rất lớn trong văn hóa và các phạm trù của đời sống phản ánh trong văn
hóa của họ. Từ đó, ông đã rút ra nhận xét rằng, ngƣời ta không thể thực sự
hiểu một nền văn hóa nếu không tiếp cận trực tiếp với ngôn ngữ của nền văn
hóa ấy. Và vì thế, thực sự cần thiết phải có những nghiên cứu ngôn ngữ học
và đó không chỉ là một yêu cầu mang tính lý thuyết mà còn là một yêu cầu
thực tế bởi chính mối liên hệ gần gũi giữa văn hóa và ngôn ngữ.
16
(2) Edward Sapir (1884-1939). Những đóng góp của Sapir không chỉ là
về các ngôn ngữ của thổ dân da đỏ châu Mỹ mà là đối với cả nghiên cứu ngôn
ngữ nói chung. Darnell cho rằng Sapir có thể đƣợc coi nhƣ là học giả nổi
tiếng nhất của ngôn ngữ học nhân chủng [158]. Theo đó, Sapir là ngƣời kế
thừa và mở rộng nghiên cứu của Boas. Chính ông dành nhiều sự chú ý đối với
cấu trúc ngôn ngữ và nhấn mạnh cách mỗi ngôn ngữ tự mình trở thành một hệ
thống hoàn chỉnh và hoàn hảo mà nếu muốn hiểu đƣợc nó phải sử dụng chính
những “thuật ngữ” của nó. Nói một cách khác, cái mà ông đi tìm chính là
lôgic nội tại của ngôn ngữ.
(3) Benjamin Lee Whorf (1897-1941). Đóng góp nổi tiếng nhất của ông
đối với lý thuyết ngôn ngữ học là chỉ ra mối quan hệ giữa ngôn ngữ - văn hóa
- tƣ duy và quan điểm nhìn nhận thế giới (worldview). “Đối với Sapir, mối
quan hệ giữa tư duy, văn hóa và ngôn ngữ chỉ là một trong những quan tâm
của ông. Nhưng đối với Whorf thì đó là tất cả sự nghiệp ngôn ngữ học của
ông. Ông không những làm nổi rõ những tư tưởng của Sapir về cả mặt nội
dung cũng như về cả phương diện các ngữ liệu cụ thể minh họa, mà hơn nữa
ông còn phát triển chúng thành một hệ quan điểm học thuật độc đáo, và điều
chủ yếu nhất là những kết luận hết sức lôgic được rút ra từ đó” [115,25].
Luận điểm xuất phát của Whorf đã nêu ra vấn đề mối quan hệ tƣơng đối giữa
ngôn ngữ - tƣ duy - văn hóa, và chính mối quan hệ này cũng là mối quan tâm
của ngôn ngữ học nhân chủng sau này. Bởi vậy, ngƣời ta mới nói rằng, giả
thuyết Sapir - Whorf chính là nền tảng căn bản để xây dựng lý thuyết ngôn
ngữ học nhân chủng.
Nội dung chính của giả thuyết Sapir - Whorf đƣợc phản ánh qua trích
dẫn quan trọng sau đây: “Con người không chỉ sống trong mỗi một thế giới
khách quan của các sự vật, cũng không chỉ sống trong thế giới của các hoạt
động xã hội như vẫn thường nghĩ, mà còn phụ thuộc rất nhiều vào một ngôn
17
ngữ cụ thể vốn là phương tiện giao tiếp trong xã hội của họ. Sẽ chỉ là ảo
tưởng nếu cho rằng con người có thể thích nghi với thực tại về cơ bản không
cần sử dụng ngôn ngữ và rằng ngôn ngữ chỉ đơn thuần là một phương tiện
thứ yếu trong việc giải quyết các vấn đề cụ thể của giao tiếp hay tư duy. Sự
thật của vấn đề ở đây là cái thế giới “thực” ấy phần lớn được hình thành một
cách vô thức trên nền những thói quen ngôn ngữ của cộng đồng. Chúng ta
nghe, thấy, hay nói cách khác là trải nghiệm như thế chủ yếu là do những thói
quen ngôn ngữ của cộng đồng đã làm cho chúng ta có những cách lựa chọn
như thế” [Edward Sapir – trích từ [63,11].
Tƣ tƣởng trên của Sapir đƣợc B.Whorf phát triển thêm trong bài viết
“Mối quan hệ giữa tư duy và hành vi thông lệ trong ngôn ngữ (The Relation
of Habitual Thought and Behavior to Language)”. Bài viết của ông bao gồm
hàng loạt các ví dụ để trả lời cho các câu hỏi chẳng hạn nhƣ tên gọi tình
huống ảnh hƣởng đến hành vi nhƣ thế nào, hay các mô hình ngữ pháp trong
vai trò lý giải kinh nghiệm ra sao, và đặc biệt trong bài viết có rất nhiều ví dụ
từ các ngôn ngữ Sae và Hopi nhƣ: số nhiều và phạm trù số đếm, danh từ chỉ
số lƣợng vật thể, các giai đoạn của chu kỳ, hình thức diễn đạt của động từ v.v.
Tƣ tƣởng của Whorf phản ánh đầy đủ và có thể nói là đậm đặc thông
qua các ví dụ. Song, do cách viết của ông không hề đơn giản và dễ hiểu, nên
rất khó tìm đƣợc một trích dẫn tiêu biểu. Nhƣng dù vậy, bất kỳ ai đọc bài báo
của ông cũng đều nhận thấy rằng, điều mà Whorf muốn nói là ngôn ngữ có
ảnh hƣởng đến cách suy nghĩ của ngƣời sử dụng nó. Mỗi một ngƣời nói một
thứ ngôn ngữ khác nhau sẽ có những thói quen suy nghĩ khác nhau, hay ngôn
ngữ sẽ quyết định cách tƣ duy của ngƣời nói thứ ngôn ngữ đó. Vậy là “Ngôn
ngữ được phú cho một quyền năng thực bao trùm tuyệt đối: nó xác lập các
tập quán (chuẩn mực) của tư duy và của hành vi, nó chi phối sự hình thành
các phạm trù lô gíc, nó kèm cặp và dẫn dắt con người trong mọi hoạt động xã
18
hội và cá nhân…Các quá trình tư duy khái niệm luôn luôn diễn ra trong hình
thức ngôn ngữ, vậy mà các cấu trúc ngôn ngữ thì khác nhau, cho nên điều
này tất nhiên sẽ dẫn đến chỗ là tạo ra ở những người nói các ngôn ngữ khác
nhau những chuẩn mực tư duy khác nhau” [115,26].
Chính bởi khẳng định vai trò tuyệt đối của ngôn ngữ trong việc quyết
định sự hình thành tƣ duy của mỗi một cộng đồng mà giả thuyết Sapir -
Whorf còn đƣợc gọi là “Giả thuyết về tính tƣơng đối của ngôn ngữ” hay
“Ngôn ngữ quyết định luận”. Cách nhìn nhận nhƣ vậy đã mang lại một bƣớc
tiến mới đối với nghiên cứu mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa, giữa
ngôn ngữ và xã hội. Trƣớc đấy, ngƣời ta chỉ nhận thấy giữa ngôn ngữ, văn
hóa và tƣ duy có quan hệ với nhau. Giả thuyết Sapir Whorf đã tiến thêm một
bƣớc là chỉ ra sự tác động qua lại lẫn nhau trong mối quan hệ ấy.
Bƣớc sang nửa cuối của thế kỷ XX, mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn
hóa, giữa ngôn ngữ và xã hội mới dành đƣợc sự quan tâm đặc biệt. Ngƣời ta
gọi đó là cuộc “Cách mạng ngôn ngữ học nửa sau thế kỷ XX” [25]. Sở dĩ
đƣợc gọi là cuộc cách mạng là vì có sự đổi mới trong nghiên cứu ngôn ngữ,
mà cụ thể là là do việc đổi mới trong quan niệm về ngôn ngữ. Thời kỳ này, sự
đa dạng của ngôn ngữ vốn bị các nhà ngôn ngữ học cấu trúc thuần túy nhƣ
Saussure gạt ra khỏi đối tƣợng nghiên cứu của mình thì nay lại trở thành mối
quan tâm chính của ngôn ngữ học. Trong cuộc Cách mạng cuối thế kỷ XX đó,
có các công trình nổi tiếng. Ví dụ nhƣ công trình của Micheal Silverstein lý
giải cách thức ngôn ngữ liên hệ với văn hóa. Hay nhƣ nghiên cứu của Erving
Goffman về việc sử dụng ngôn từ để diễn tả thể diện (face). Hoặc nhƣ nghiên
cứu của Gumperz về ứng xử ngôn từ trong các cộng đồng giao tiếp v.v.
Vào thời điểm này, giả thuyết Sapir - Whorf không phải đƣợc tất cả các
nhà ngôn ngữ học công nhận và tán đồng. Nhiều công trình đã đƣợc tiến hành
19
nhằm kiểm chứng lại giả thuyết của hai ông và cho đến nay, dƣờng nhƣ cuộc
tranh luận vẫn chƣa ngã ngũ.
Công trình mang tính thực nghiệm của John Lucy trên cứ liệu tiếng
Anh và tiếng Yucatec Maya ở Mexico nhằm làm sáng tỏ quan điểm thƣờng bị
hiểu nhầm của Whorf. Theo Lucy, “Whorf không cho là ngôn ngữ quyết định
nhận thức và văn hóa, Whorf chỉ cho là: cách nghĩ và cách nhìn nhận thế giới
theo thói quen của người nói một thứ ngôn ngữ nhất định nào đó dẫn họ đến
cách phân loại các sự việc, hiện tượng trên thế giới theo những kiểu nhất định.
Do đó, người nghiên cứu cần học các cách nhận thức cơ bản về thế giới
khách quan của một dân tộc nếu muốn hiểu đúng về dân tộc đó” [25,198].
Ngoài ra, còn có thể kể ra các công trình đã đƣợc tiến hành nhằm kiểm
chứng giả thiết này nhƣ: Nghiên cứu mối tƣơng quan giữa từ chỉ màu sắc và
khả năng ghi nhớ và phân loại màu của ngƣời nói trên cứ liệu tiếng Anh và
tiếng Zuni của Lenneberg và Robert; nghiên cứu về mối quan hệ giữa sự tri
nhận màu sắc của con ngƣời và ngôn ngữ của Berlin và Kay trên cứ liệu 20
ngôn ngữ khác nhau, của Kay và Kempton trên cứ liệu tiến Anh và tiếng
Tarahumara; nghiên cứu về mối tƣơng quan giữa cấu trúc câu giả định và sự
tri nhận tính chân ngụy của câu giả định trên cứ liệu tiếng Anh và tiếng Hán
của Bloom; … [131,41-43]. Đặc biệt, sự tham gia của các nhà ngôn ngữ học
tri nhận nhƣ Lakoff hay ngôn ngữ học tạo sinh nhƣ Chomsky trong việc kiểm
chứng giả thuyết Sapir – Whorf càng chứng tỏ ảnh hƣởng cúa giả thuyết này
đối với ngôn ngữ học đƣơng đại.
Nhắc đến cuộc cách mạng ngôn ngữ học đó, hầu hết các tài liệu đều nói
đến bƣớc tiến lý thuyết quan trọng là Khảo tả dân tộc học lời nói (The
ethnography of speaking) do Dell H. Hymes đề xuất, và sau đó là John
Gumperz và các học trò của ông tiếp nối. Các nhà nghiên cứu theo hƣớng này
chú trọng việc quan sát tham dự các diễn ngôn diễn ra tự nhiên trong ngữ
20
cảnh văn hóa để từ đó đánh giá năng lực giao tiếp, kỹ năng sử dụng ngôn ngữ.
Theo họ, các kỹ năng ấy không đơn thuần là các tri thức ngữ pháp trừu tƣợng
của ngƣời nói, mà nó phản ánh trật tự xã hội của cộng đồng sở hữu ngôn ngữ
đó.
Trong bài viết Khảo tả dân tộc học 1968, Dell H. Hymes mở đầu bằng
việc nhấn mạnh vai trò của lời nói trong hành vi của con ngƣời. Theo ông, vai
trò quan trọng của lời nói trong quá trình tri nhận và biểu cảm phụ thuộc vào
cá nhân và nhóm xã hội gắn liền với những cảnh huống cụ thể bản địa, hay
ông gọi nó là bối cảnh dân tộc học của lời nói. Về mặt phƣơng pháp, phƣơng
pháp khảo tả dân tộc học lời nói là một mô hình phân tích miêu tả lời nói bao
gồm việc xem xét sự kiện lời nói, các nhân tố cấu thành của sự kiện lời nói và
các chức năng của lời nói và sau đó cả ba đƣợc đặt trong khung phân tích
khảo tả dân tộc học lời nói nhằm gắn các tri thức trừu tƣợng của ngôn ngữ
vào các tri thức về văn hóa. Có thể nói, “nếu các bậc tiền bối coi ngôn ngữ và
văn hóa của một cộng đồng xã hội là những thực thể tương đối thuần nhất
được các thành viên trong cộng đồng chia sẻ thì các nhà nhân học ngôn ngữ1
thế hệ “cách mạng ngôn ngữ học” lại quan tâm nhiều hơn đến sự đa dạng
của các thành tố của sự kiện ngôn từ trong các bối cảnh giao tiếp cụ thể, tức
là ứng xử ngôn từ của những con người mang các đặc tính văn hóa xã hội
nhất định trong các hoàn cảnh nói năng cụ thể” [25,200]. Từ đó mối quan hệ
giữa những ngƣời giao tiếp với nhau cũng nhƣ mối quan hệ giữa họ với các
thành tố khác của hoạt động giao tiếp ngôn ngữ trở thành mối quan tâm của
các nhà ngôn ngữ học nhân chủng. Chính vì lẽ đó, khi xác định đối tƣợng
nghiên cứu của ngôn ngữ học nhân chủng, ngƣời ta nói rằng, không chỉ ngôn
ngữ mà ngƣời nói cũng là đối tƣợng cần đƣợc nghiên cứu. Hymes đã đóng
1
Tức “Ngôn ngữ học nhân chủng” theo cách dịch của chúng tôi
21
góp nhiều khái niệm quan trọng nhƣ cộng đồng nói năng, sự kiện lời nói,
hành động ngôn từ v.v cho ngôn ngữ học nhân chủng.
Nhƣ vậy, từ nhận thức giản đơn về mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn
hóa, giữa ngôn ngữ và xã hội bắt nguồn từ những tƣ tƣởng mang tính hàn lâm
của các nhà triết học Đức thế kỷ XIX, tiếp đến những tƣ tƣởng mang tính gợi
mở của Boaz rồi đến Sapir và Whorf, trải qua gần một thế kỷ, đến nay giới
nghiên cứu đã có những bƣớc đi đáng kể trong nghiên cứu mối quan hệ phức
tạp này.
Ở đây cần phải nhấn mạnh rằng, nội dung nghiên cứu của ngôn ngữ học
nhân chủng, nhƣ vậy, không phải chỉ đề cập đơn thuần đến mối quan hệ giữa
ngôn ngữ và văn hóa và/hoặc giữa ngôn ngữ và xã hội mà nó còn là việc xem
xét cách gắn kết hay tương tác giữa ba thành tố ngôn ngữ, văn hóa và xã hội
trong mối liên hệ ấy. Như vậy, có thể nói việc chỉ ra mối quan hệ giữa ngôn
ngữ và văn hóa và/hoặc giữa ngôn ngữ và xã hội cũng như việc đồng thời chỉ
ra cách thức gắn kết hay tương tác giữa ba thành tố đó chính là nhiệm vụ hay
nội dung nghiên cứu của ngôn ngữ học nhân chủng hiện nay.
1.2.4. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ học nhân chủng và một số chuyên
ngành ngôn ngữ học khác
Ngôn ngữ học nhân chủng có mối quan hệ chặt chẽ với nhiều chuyên
ngành ngôn ngữ học khác. Nói một cách chính xác hơn là nó kế thừa rất nhiều
những khái niệm, thuật ngữ, kết quả nghiên cứu, thậm chí cả một số nội dung
nghiên cứu của các chuyên ngành khác theo cách riêng của mình. Đồng thời,
do là một phân ngành ngôn ngữ học, nó cũng sử dụng những phƣơng pháp
nghiên cứu chung của ngôn ngữ học nhƣ những phân ngành khác.
Chẳng hạn, các nhà nghiên cứu ngôn ngữ học nhân chủng quan tâm đến
các diễn ngôn diễn ra trong bối cảnh tự nhiên, nên phân tích diễn ngôn và các
vấn đề liên quan đến phân tích diễn ngôn cũng nằm trong mối quan tâm của
22
họ. Ngoài ra họ còn quan tâm đến các vấn đề liên quan đến giao tiếp, hội
thoại nhƣ phân tích hội thoại, chiến lƣợc giao tiếp, chiến lƣợc diễn ngôn. Hay
nhƣ những vấn đề ngữ dụng nhƣ lý thuyết hành động ngôn từ, hàm ngôn hàm
ý.v.v. và những vấn đề liên quan đến loại hình học nhƣ phổ niệm cũng đƣợc
các nhà nghiên này chú ý đến.
Là một phân ngành mới nằm trong sự giao thoa giữa những phân ngành
đã xuất hiện trƣớc, ngôn ngữ học nhân chủng vì thế không tránh khỏi có
những cái chung với những phân ngành gần gũi với nó. Tuy nhiên, nhìn một
cách tổng thể, ngƣời ta vẫn nhận ra sự khác biệt giữa nó với hai chuyên ngành
có mối quan hệ trực tiếp hơn cả là ngôn ngữ học xã hội và ngôn ngữ học tri
nhận. Dƣới đây, chúng tôi xin trình bày tóm tắt những nét giúp chúng ta nhận
ra sự khác biệt ấy.
1.2.4.1. Ngôn ngữ học nhân chủng và ngôn ngữ học xã hội
Ngôn ngữ học nhân chủng, nhƣ đã nói ở trên, quan tâm đến mối quan
hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa và/hoặc giữa ngôn ngữ và xã hội cũng nhƣ đồng
thời quan tâm đến việc chỉ ra cách thức gắn kết hay tƣơng tác giữa ba thành tố
đó. Do vậy, nó có đối tƣợng nghiên cứu là ngôn ngữ dƣới và trong tác động
của các nhân tố mang tính con ngƣời là văn hóa và xã hội. Trong khi đó, ngôn
ngữ học xã hội mặc dù cũng xem xét các hiện tƣợng ngôn ngữ dƣới tác động
của các nhân tố xã hội, nhƣng là xem xét và xử lý các vấn đề ngôn ngữ đƣợc
sử dụng ở từng bối cảnh cụ thể. Cho nên, giữa chúng vẫn có những điểm,
những sự khác biệt tƣơng đối để khu biệt thành hai chuyên ngành độc lập.
Về thời điểm, mặc dầu vào đầu thế kỷ XX Boas và các đồng nghiệp -
những ngƣời đặt nền móng cho nhân chủng học - đã chính thức xuất hiện
nhƣng phải đến những năm 1980, cùng với sự hình thành độc lập hệ thuật ngữ
riêng cho ngôn ngữ học nhân chủng thì chuyên ngành này mới có một chỗ
đứng riêng cho mình ở Bắc Mỹ. Trong khi đó, vào cuối những năm 50, 60 của
23
thế kỷ XX, hệ thuật ngữ của ngôn ngữ học xã hội đã xuất hiện một cách chính
thức [67,9].
Mặt khác, ngƣời ta cũng đã từng cố gắng kết hợp ngôn ngữ học nhân
chủng và ngôn ngữ học xã hội lại với nhau. Mà ở đây phải kể đến những nỗ
lực của Gumperz và Hymes (1964) trong việc xác định một lĩnh vực liên
ngành xung quanh vấn đề sử dụng ngôn ngữ nhƣ là đối tƣợng nghiên cứu
[158,13]. Nhƣng những cố gắng ấy vẫn chƣa thành.
Trong khi đó thực tế các nhà ngôn ngữ học xã hội thì đã, đang và sẽ
tiếp tục nghiên cứu với các vấn đề mang tính đặc trƣng nhƣ: sự lựa chọn ngôn
ngữ của cộng đồng, sự thay đổi ngôn ngữ dƣới tác động của các nhân tố xã
hội, các ngôn ngữ lai tạp pidgin và creole, hay là kế hoạch hóa ngôn ngữ,
chính sách ngôn ngữ, lập pháp ngôn ngữ v.v. Còn những vấn đề nhƣ ngôn
ngữ và giới, hành động nói năng, diễn ngôn tự nhiên v.v thì đã, đang và sẽ là
đối tƣợng của ngôn ngữ học nhân chủng. Nhƣ thế, xét ở mặt lĩnh vực ngôn
ngữ là đối tƣợng nghiên cứu của mỗi phân ngành, chúng có những khác nhau
nhất định.
Tuy vậy, vẫn có những vấn đề và phạm vi nghiên cứu giữa chúng giống
nhau khiến cho ngôn ngữ học nhân chủng đôi khi có thể bị hiểu nhầm là
trùng với đối tƣợng nghiên cứu của ngôn ngữ học xã hội. Nhƣng thực tế là tuy
cùng đối tƣợng nhƣng mục tiêu của hai phân ngành này có sự phân biệt nhất
định. Theo đó, ngôn ngữ học nhân chủng xem xét ngôn ngữ thông qua các
đặc điểm văn hóa - xã hôi của cộng đồng, giải thích ngôn ngữ để từ đó làm
sáng tỏ những đặc điểm văn hóa - xã hội đằng sau việc sử dụng ngôn ngữ,
đằng sau những dạng thức của từ ngữ hay phong cách khác nhau. Đó chính là
một phân ngành lột bỏ lớp vỏ bên ngoài của một ngôn ngữ để tìm ra những
hiểu biết về văn hóa - xã hội ở cộng đồng sử dụng ngôn ngữ đó.
24
Ngôn ngữ học xã hội, ngƣợc lại, xem xét ngôn ngữ với tƣ cách là một
thể chế xã hội, một trong những thể chế mà trong đó các cá nhân và các nhóm
ngƣời thực hiện sự tƣơng tác xã hội. Ngôn ngữ học xã hội tìm cách lý giải các
mô hình hành vi ngôn ngữ tƣơng ứng với việc tạo thành các nhóm xã hội và
tạo tƣơng quan giữa những sự khác biệt về hành vi ngôn ngữ với những biến
thể xác định của các nhóm xã hội. Đó chẳng hạn nhƣ là vấn đề tuổi tác, giới
tính, giai cấp, chủng tộc, trình độ học vấn v.v. Có thể dẫn ra một ví dụ của
Foley để làm rõ hơn về sự phân biệt này. Trong tiếng Anh running có thể có
hai cách phát âm [r ning] hoặc là [r nin] mà theo cách nói thông thƣờng thì -g
đã bị bỏ đi. Tiếp cận những biến thể này từ góc độ ngôn ngữ học xã hội ngƣời
ta sẽ hƣớng đến mối liên hệ giữa mỗi cách phát âm và các nhóm xã hội nhất
định. Ví dụ đàn ông thì thƣờng dùng biến thể [in] trong khi đó phụ nữ thì
dùng biến thể [ing] nhiều hơn. Hoặc có sự so sánh tƣơng tự giữa những nhóm
ngƣời có địa vị cao và địa vị thấp trong xã hội hay giữa những nhóm có học
thức và nhóm có học vấn thấp trong xã hội. Nói một cách khác, mục tiêu của
phân ngành này là chỉ ra sự tương ứng giữa hiện tượng ngôn ngữ với một vấn
đề xã hội cụ thể nào đó. Đây có lẽ chính là cách tiếp cận điển hình của ngôn
ngữ học xã hội.
Đối với ngôn ngữ học nhân chủng, trong khi chú ý đến tất cả những so
sánh kể trên, các nhà nghiên cứu sẽ đặt ra một câu hỏi mang tính khác biệt
hay căn bản hơn: Liệu những ngƣời nói có ngụ ý gì khi họ sử dụng biến thể
[in] đối lập với [ing]?. Câu trả lời có thể là: đàn ông và tầng lớp lao động sử
dụng biến thể [in] nhiều hơn nhƣ là một cách để khẳng định bản sắc nam giới
mạnh mẽ của mình chẳng hạn [160,4]. Sự khác biệt ở đây là một bên - ngôn
ngữ học xã hội - có thể đã thỏa khi chỉ ra mối liên hệ, còn bên kia - ngôn ngữ
học nhân chủng - chỉ thực sự thỏa mãn khi chỉ ra đƣợc “nguyên do” của mối
liên hệ ấy. Rõ ràng, đối tƣợng là nhƣ nhau nhƣng mục tiêu là khác nhau.
25
Nhƣ vậy, có thể thấy rằng, ngôn ngữ học nhân chủng và ngôn ngữ học
xã hội là hai cách tiếp cận đối tƣợng ngôn ngữ nhằm vào hai mục đích khác
nhau. Ngôn ngữ học nhân chủng hƣớng đến việc phản ánh thế giới khách
quan bao gồm các đặc trƣng văn hóa xã hội đã tác động đến ngôn ngữ, trong
khi ngôn ngữ học xã hội chú trọng các tƣơng tác xã hội đã tác động để tạo ra
những biến thể ngôn ngữ và việc lựa chọn, sử dụng ngôn ngữ.
Tóm lại, giữa ngôn ngữ học nhân chủng và ngôn ngữ học xã hội tuy có
một vài phạm vi nghiên cứu là chung nhau nhƣng với việc khác biệt về thời
điểm ra đời, đặc biệt là sự khác biệt về mục tiêu giải thích hay cách tiếp cận
vấn đề, chúng rõ ràng phải đƣợc coi là những phân ngành độc lập của ngôn
ngữ học.
1.2.4.2. Ngôn ngữ học nhân chủng và ngôn ngữ học tri nhận
Ngôn ngữ học tri nhận ra đời vào những năm 50 của thế kỷ XX ở Mỹ.
Theo nhƣ Trần Văn Cơ “Lý thuyết này nghiên cứu cơ chế hiểu lời nói và quá
trình của lời nói: con người nắm bắt được ngôn ngữ như thế nào, quá trình
điều chỉnh sự tri nhận lời nói như thế nào, một nội dung khái niệm, một hiện
tượng được từ ngữ hóa, ngữ pháp hóa ra sao” [14,24]. Nói khác đi, ngôn ngữ
học tri nhận tập trung vào nghiên cứu mối quan hệ giữa tƣ duy và ngôn ngữ
của một cộng đồng.
Trong khi đối tƣợng nghiên cứu của ngôn ngữ học nhân chủng cũng là
ngôn ngữ của con ngƣời, nhƣng là ngôn ngữ xét trong bối cảnh văn hóa - xã
hội của một cộng đồng dân tộc thì đối tƣợng nghiên cứu của ngôn ngữ học tri
nhận là ngôn ngữ tự nhiên của con ngƣời trong mối quan hệ với tƣ duy con
ngƣời, tức là nó thực hiện chức năng làm công cụ của tƣ duy của con ngƣời
nhƣ thế nào. Nhƣ vậy, đối tƣợng nghiên cứu của cả hai đều là ngôn ngữ, và
đƣơng nhiên ngôn ngữ gắn liền với nhận thức của con ngƣời.
26
Điểm khác biệt là ở chỗ, trong khi ngôn ngữ học nhân chủng nhấn
mạnh đến việc xem xét tác động của bối cảnh văn hóa xã hội của quá trình
nhận thức thì ngôn ngữ học tri nhận nhấn mạnh bản thân quá trình nhận thức
và chức năng là công cụ của quá trình nhận thức. Nói một cách đơn giản hơn,
ngôn ngữ học tri nhận coi đối tƣợng nghiên cứu của mình (tức ngôn ngữ) là
một hiện tƣợng tri nhận (hay nhận thức) của con ngƣời, còn ngôn ngữ học
nhân chủng coi đối tƣợng nghiên cứu của mình (ngôn ngữ) là một hiện tƣợng
văn hóa xã hội của con ngƣời.
Trong những vấn đề nêu trên, ngôn ngữ học nhân chủng cũng quan tâm
đến một số nội dung của ngôn ngữ học tri nhận, chẳng hạn nhƣ, quá trình tạo
sinh và hiểu ngôn ngữ, quá trình phạm trù hóa thế giới của mỗi một dân tộc,
hay nhƣ nghiên cứu ẩn dụ trong ngôn ngữ. Nhƣng sự khác biệt là ngôn ngữ
học nhân chủng phải tiến tới chỉ ra quá trình ấy chịu sự tác động của đặc điểm
văn hóa xã hội nhƣ thế nào để quá trình phạm trù hóa thế giới của mỗi dân tộc
không giống nhau, và mỗi một dân tộc có một bức tranh về thế giới không
giống nhau. Rõ ràng, đối với ngôn ngữ học nhân chủng, điều quan trọng là
ngôn ngữ đƣợc coi nhƣ là một yếu tố của văn hóa và đặc điểm văn hóa xã hội
của một công đồng tƣơng tác với ngôn ngữ nhƣ thế nào.
Không chỉ có một số nội dung nghiên cứu trùng nhau nhƣng mục tiêu
khác nhau, ngôn ngữ học nhân chủng còn không những không phủ nhận hay
đƣa ra kết quả nghiên cứu trái ngƣợc, mà ngƣợc lại, nó thậm chí đã và đang
kế thừa rất nhiều thành tựu nghiên cứu từ ngôn ngữ học tri nhận. Những thuật
ngữ cơ bản nhƣ ý niệm, ý niệm hóa, phạm trù hóa, các mô hình tri nhận v.v.
đã nói lên điều đó.
Tóm lại, ngôn ngữ học tri nhận và ngôn ngữ học nhân chủng hai
chuyên ngành độc lập. Điều đó thể hiện rõ nhất ở sự khác biệt về tính chất của
đối tƣợng nghiên cứu và mục tiêu nghiên cứu. Tuy nhiên, do là hai phân
27
ngành gần nhau nhất nên cái này sẽ hỗ trợ cho cái kia để tìm đƣợc tiếng nói
chung cuối cùng là đi đến tận cùng sự hiểu biết về bản chất của ngôn ngữ loài
ngƣời.
1.3. Những vấn đề liên quan đến thành ngữ nhìn từ bình diện ngôn ngữ
học nhân chủng
1.3.1. Quan điểm thành ngữ trên thế giới
Thành ngữ là một đơn vị ngôn ngữ đặc biệt trong mọi ngôn ngữ trên thế
giới. Tính đặc biệt của thành ngữ không chỉ nằm ở những đặc điểm cấu trúc
hình thái và ngữ nghĩa mà còn nằm ở khả năng biểu đạt tinh tế những đặc
trƣng văn hóa tƣ duy của dân tộc sở hữu nó. Nếu ngôn ngữ là công cụ của tƣ
duy, phản ánh tƣ duy thì trong các đơn vị ngôn ngữ, thành ngữ là nơi dấu ấn
của tƣ duy của mỗi dân tộc đƣợc đọng lại rõ nét nhất.
1.3.1.1. Quan điểm theo hướng cấu trúc - ngữ nghĩa
Trong tiếng Anh, thuật ngữ idiom thƣờng dịch là thành ngữ. Theo quan
điểm cấu trúc - ngữ nghĩa, thuật ngữ này thƣờng đƣợc hiểu là một cụm từ
mang nghĩa bóng bẩy mà nghĩa của nó thƣờng đƣợc hiểu tách rời với nghĩa
của các thành tố tạo nên thành ngữ đó. Thành ngữ đƣợc coi là bộ phận thuộc
về từ vựng của một ngôn ngữ. Thành ngữ cũng có đặc điểm cấu trúc hình thái
và ngữ nghĩa giống nhƣ các đơn vị từ vựng khác.
Tác giả Z. Kövecses đã mô hình hóa khái niệm thành ngữ tiếng Anh
theo quan điểm này thông qua ví dụ là thành ngữ “Kick the bucket” với nghĩa
là “Chết”. Theo đó, thành ngữ là một đơn vị bao gồm: (1) Các đơn vị từ vựng
và cấu trúc của chúng; (2) Nghĩa đen của các đơn vị tạo nên nó; (3) Nghĩa đặc
biệt của cả thành ngữ. Thành ngữ “Kick the bucket” có thể đƣợc mô hình hóa
thành sơ đồ 1.1.
Nghĩa đặc biệt của thành ngữ : “chết”
- Nghĩa của các dạng thức ngôn ngữ: “kick” “the” “bucket”
28
- Các dạng thức ngôn ngữ và đặc điểm cú pháp:
Kick the bucket (không bị động, v.v…)
Sơ đồ 1.1. Quan điểm về thành ngữ trong ngôn ngữ học truyền thống [165]
Trong tiếng Hán, các nhà Hán ngữ đã quan tâm đến thành ngữ từ rất
sớm. Đƣờng Tú Trân [142] cho biết, khái niệm thành ngữ đã xuất hiện trong
sách vở từ thời nhà Chu. Mặc dù vậy, công trình nghiên cứu về thành ngữ
Hán sớm nhất có thể lƣu lại đƣợc là trong cuốn “Từ nguyên” năm 1915 [132].
Từ đó đến nay, giới Hán ngữ đã có nhiều thành tựu trong nghiên cứu thành
ngữ. Tuy một số vấn đề về thành ngữ Hán chẳng hạn nhƣ thành ngữ đƣợc cấu
tạo bằng tổ từ, đoản cú hay tổ hợp từ thì vẫn còn chƣa đƣợc thống nhất. Song
nhìn chung các nhà nghiên cứu đều thống nhất ở tầm quan trọng và vị trí của
thành ngữ trong hệ thống từ vựng tiếng Hán. Chúng tôi xin dẫn lại một số
định nghĩa về thành ngữ Hán của các nhà nghiên cứu Trung Quốc nhƣ sau.
Chu Tổ Mô cho rằng: “Thành ngữ là những tổ từ hoặc đoản cú định
hình và người dân sử dụng trong khẩu ngữ trong thời gian dài mà có. Cấu
trúc của thành ngữ tương đối ổn định, thường có kết cấu bốn chữ. Đây là
đơn vị có tính chỉnh thể được lưu truyền lại mà người ta ước định hợp thành,
vì thế nó có tên gọi là thành ngữ” [132,10].Còn theo tác giả Hồ Dục Thụ:
“Thành ngữ là một loại tổ từ cố định, tính chất của nó gần với quán ngữ,
thường được sử dụng như một đơn vị với ý nghĩa hoàn chỉnh, nhưng so với
quán ngữ thì thành ngữ có tính cố định hơn. Thông thường, thành ngữ có kết
cấu chặt chẽ, không thể tuỳ ý thay đổi các thành phần, cũng không như quán
ngữ có thể tách rời hoặc chen (xen lẫn) vào một số thành phần khác” [142].
Nhìn chung, những quan điểm vừa trình bày ở trên đều nhấn mạnh vào
đặc điểm cấu tạo, hình thái ngữ nghĩa của thành ngữ. Vì vậy chúng đƣợc coi
là quan điểm cấu trúc - ngữ nghĩa hay còn gọi là hƣớng tiếp cận truyền thống
về thành ngữ.
29
1.3.1.2. Quan điểm theo hướng tri nhận
Từ việc tổng kết quan niệm theo hƣớng cấu trúc - ngữ nghĩa về thành
ngữ trong tiếng Anh, Z.Kövecses nêu ra quan điểm của ngôn ngữ học tri
nhận về thành ngữ. Ngôn ngữ học tri nhận cho rằng thành ngữ là sản phẩm
của hệ thống tƣ duy và nó không chỉ đơn giản là vấn đề của riếng ngôn ngữ.
Thành ngữ không chỉ là một biểu thức ngôn ngữ mang nghĩa đặc biệt có liên
quan đến nghĩa của các thành tố tạo nên nó mà nghĩa đặc biệt đó bắt nguồn từ
tri thức khái quát về thế giới đƣợc thể hiện trong hệ thống nhận thức của
chúng ta. Nói một cách khác, hầu hết thành ngữ mang bản chất nhận thức chứ
không phải là bản chất ngôn ngữ học. Nghĩa của thành ngữ có thể đƣợc hiểu
là một cơ chế chứ không phải là tuỳ ý. Đó là cơ chế tri nhận nhằm kết nối các
tri thức các phạm vi tri thức với nghĩa của thành ngữ. Thành ngữ sẽ bao gồm
các tầng bậc nhƣ sau:
Nghĩa thành ngữ: Nghĩa đặc biệt của một thành ngữ
Các cơ chế tri nhận: Ẩn dụ, hoán dụ, tri thức truyền thống
Các phạm vi nhận thức: Một hoặc nhiều phạm vi tri thức
Các cấu trúc ngôn ngữ học và nghĩa: Các từ tạo nên thành ngữ, đặc
điểm cấu tạo và nghĩa của chúng
Sơ đồ 1.2. Cơ chế nhận thức của thành ngữ theo quan điểm
ngôn ngữ học tri nhận [165]
Theo cách nhìn nhƣ vậy, thành ngữ không chỉ là một đơn vị ngôn ngữ,
nó mang bản chất của nhận thức gắn liền với các cơ chế tri nhận là ẩn dụ,
hoán dụ và tri thức truyền thống. Và nhƣ vậy, rõ ràng, thành ngữ sẽ gắn liền
với đặc điểm tƣ duy của con ngƣời.
Ví dụ, theo cách hiểu này, thành ngữ tiếng Việt Chó có váy lĩnh có thể
đƣợc nhận thức thông qua các tầng bậc sau
Nghĩa thành ngữ: sự đua đòi, lố lăng, kệch cỡm
30
Các cơ chế tri nhận: ẩn dụ (ẩn dụ hóa hình ảnh” chó, váy lĩnh”) +
tri thức truyền thống (“chó” là loài động vật bị coi thường, “váy
lĩnh” là váy may bằng loại vải quý)
Các phạm vi nhận thức: quan niệm của người Việt về loài “chó”,
tri thức về vật dụng “váy lĩnh” trong đời sống người Việt
Các cấu trúc ngôn ngữ học và nghĩa: các từ tạo nên thành ngữ
“chó, có, váy lĩnh”, đặc điểm cấu tạo và nghĩa đen của chúng
1.3.2. Quan điểm về thành ngữ tiếng Việt
1.3.2.1. Lịch sử nghiên cứu
Thành ngữ là một trong những đối tƣợng đƣợc các nhà ngôn ngữ học
nói riêng và khoa học xã hội nói chung ở Việt Nam quan tâm nghiên cứu một
cách toàn diện từ đặc điểm cấu trúc, phƣơng thức tạo nghĩa tới nguồn gốc
hình thành. Các công trình nghiên cứu về thành ngữ tiếng Việt thƣờng đƣợc
tiếp cận theo những hƣớng sau đây.
(1) Hƣớng thứ nhất, nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt theo hƣớng từ
vựng ngữ nghĩa. Những tác giả nghiên cứu thành ngữ theo hƣớng này có thể
kể ra là Nguyễn Văn Mệnh (1971, 1972, 1986), Trƣơng Đông San (1976),
Nguyễn Văn Tu (1976), Bùi Khắc Việt (1981), Cù Đình Tú (1983), Nguyễn
Thiện Giáp (1985), Đỗ Hữu Châu (1986) và (1987), Nguyễn Công Đức
(1995), Hoàng Văn Hành (2004), Nguyễn Thị Tân (2004) .v.v. Trong các
nghiên cứu nói trên, thành ngữ đƣợc coi là một đơn vị thuộc từ vựng của một
ngôn ngữ. Nhìn chung, các định nghĩa hoặc khái niệm của các tác giả trên đều
xuất phát từ bình diện cấu trúc ngữ nghĩa của thành ngữ và thống nhất với
nhau ở mấy điểm sau:
- Về mặt cấp độ, thành ngữ là một đơn vị tƣơng đƣơng với từ.
31
- Về mặt cấu trúc, thành ngữ là một đơn vị có cấu trúc hình thái chặt
chẽ. Đấy là lý do vì sao ngƣời ta còn gọi nó là một “cụm từ cố định” trong sự
đối sánh với thuật ngữ “cụm từ tự do” theo nghĩa là những cụm từ/ ngữ/ tổ
hợp từ không có tính bền vững về mặt cấu trúc hình thái.
- Về mặt ý nghĩa, nghĩa của thành ngữ không phải là nghĩa của từng
yếu tố cấu tạo nên mà là kết quả của quá trình biểu trƣng hóa các sự vật, hiện
tƣợng, thuộc tính v.v do các yếu tố từ vựng chuyển tải. Vì thế, có tác giả gọi
nghĩa của thành ngữ là nghĩa biểu trƣng, hay nghĩa “bóng”.
Ví dụ thành ngữ Ăn mày đòi xôi gấc đƣợc lý giải:
- Về mặt cấu tạo, thành ngữ này là sự kết hợp cố định của các từ ăn
mày, đòi, xôi gấc. Nghĩa đen của nó là do các từ này tạo ra, nhƣng nghĩa biểu
trƣng của thành ngữ có đƣợc không phải là sự kết hợp nghĩa của ba từ nói trên
mà là kết quả của quá trình biểu trƣng hóa: Ăn mày biểu trƣng cho ngƣời có
địa vị thấp kém; Xôi gấc biểu trƣng cho những thứ có giá trị.
- Từ đó, nghĩa biểu trƣng của thành ngữ này đƣợc hiểu là “sự mong
muốn hay đòi hỏi những điều vƣợt quá thân phận của mình”.
(2) Hƣớng thứ hai, về đại thể, là nghiên cứu so sánh đối chiếu thành
ngữ giữa hai ngôn ngữ và có quan tâm đến nội dung văn hóa ở thành ngữ. Ở
Việt Nam, có thể thấy những nghiên cứu này phần nhiều là luận án tiến sỹ.
Trƣơng Đông San, một trong những nhà nghiên cứu thành ngữ đầu tiên của
Việt Nam trên cứ liệu tiếng Nga, đã khảo sát thành ngữ tiếng Nga trong cách
nhìn của ngƣời Việt và đƣa ra một số cách chuyển dịch sang tiếng Việt dựa
trên các phƣơng thức cấu tạo ngữ nghĩa của thành ngữ tiếng Nga. Tuy nhiên,
ông mới chỉ chú trọng đến làm thế nào để dịch thành ngữ từ thứ tiếng này
sang thứ tiếng khác mà chƣa chú trọng nhiều đến những đặc điểm văn hóa
dân tộc trong thành ngữ. Sau này, các luận án khác đã đã chú ý đến những đặc
trƣng văn hóa dân tộc trong thành ngữ nhƣ Phùng Trọng Toản (1995),
32
Nguyễn Xuân Hòa (1996), Trần Thị Lan (2002), Ngô Minh Thuỷ (2006),
Phạm Minh Tiến (2008), Nguyễn Tô Chung (2010) v.v.
Chú ý đến mối quan hệ giữa ngôn ngữ - văn hóa - xã hội trong thành
ngữ, Nguyễn Công Đức cho rằng: “Ngoài những đặc điểm của một đơn vị
ngôn ngữ, thành ngữ còn có những dấu ấn của một đơn vị văn hóa, còn tiềm
ẩn, trầm tích những đặc điểm văn hóa dân tộc. Cho nên, cũng có thể xem,
thành ngữ là những đơn vị ngôn ngữ - văn hóa” [29,35]. Tuy nhiên, ở tác giả
này cũng mới chỉ là sự “chú ý đến” mà thôi.
Mặc dù không chuyên nghiên cứu về thành ngữ, nhƣng trong “Ngôn
ngữ và văn hóa: Tri thức nền và việc giảng dạy tiếng nước ngoài”, Trịnh Thị
Kim Ngọc (1999) lại có đề cập đến thành tố văn hóa dân tộc trong thành ngữ.
Xuất phát từ lý thuyết ngôn ngữ - đất nƣớc học, tác giả chỉ ra rằng ngữ nghĩa
của từ bao gồm khái niệm từ vựng và nền từ vựng. Nền từ vựng là mọi tri
thức có quan hệ với từ, thƣờng trực trong ý thức của con ngƣời và có tính chất
đại chúng đối với ngƣời bản ngữ. Từ đó, ngữ nghĩa của thành ngữ bao gồm
khái niệm thành ngữ (thể hiện chức năng định danh của nó) và nền từ vựng
của thành ngữ. “Đơn vị thành ngữ cùng với các từ vị của mình chính là nguồn
ngữ liệu chủ yếu cho tri thức nền của một dân tộc và còn có khả năng tích luỹ
các thông tin ngoài ngôn ngữ” [91,127]. Nền từ vựng của thành ngữ có thể
đƣợc hiểu là các thành tố văn hóa dân tộc của thành ngữ.
Nguyễn Thiện Giáp nhấn mạnh rằng: “Hơn lĩnh vực ngôn ngữ nào khác,
các thành ngữ tiếng Việt thể hiện đậm nét đặc trưng văn hóa dân tộc Việt
Nam… Đặc trưng văn hóa dân tộc của thành ngữ còn được thể hiện trong ý
nghĩa biểu trưng của thành ngữ” [32,185-186].
Nhƣ vậy, bình diện văn hóa xã hội trong thành ngữ đã đƣợc nhiều tác
giả đề cập đến trong một vài công trình nghiên cứu về thành ngữ nói chung.
33
Nhƣng trong số đó chƣa có một công trình nào nghiên cứu thành ngữ tiếng
Việt từ cách tiếp cận ngôn ngữ học nhân chủng.
Ngoài ra để nhận diện thành ngữ tiếng Việt, các nhà Việt ngữ học còn
đặt khái niệm thành ngữ trong sự phân biệt với các đơn vị nhƣ cụm từ tự do,
từ ghép/từ phức, quán ngữ và tục ngữ. Mặc dù vậy, các tác giả có quan điểm
khác nhau về những khái niệm này khiến cho việc phân biệt cũng không hề
đơn giản. Nhìn chung, khi đƣa ra các khái niệm nói trên họ đều dựa vào hai
tiêu chí quan trọng là cấu trúc và ngữ nghĩa. Song, do tính phức tạp của chúng,
nhiều tác giả đã phải sử dụng thêm các tiêu chí khác để làm rõ hơn (chẳng hạn
tiêu chí số lƣợng âm tiết, tiêu chí chức năng, tính độc lập/không độc lập của
một đơn vị ngôn ngữ, tính biểu trƣng v.v) Bản thân những tiêu chí nhƣ vậy
cũng vẫn chƣa có đƣợc sự thống nhất trong quan điểm giữa các nhà nghiên
cứu. Nhƣng dù sao, việc bổ sung thêm tiêu chí càng góp phần làm rõ và khu
biệt khái niệm thành ngữ với các đơn vị có liên quan.
Nhìn trên tổng thể mà nói, về cơ bản, các nhà Việt ngữ học đã vạch đủ
các ranh giới cần thiết để nhận diện thành ngữ. Song không phải lúc nào việc
áp dụng các tiêu chí trên cũng mang lại kết quả nhƣ mong đợi. Chẳng hạn, sự
phân biệt giữa khái niệm thành ngữ với tục ngữ dƣờng nhƣ vẫn còn rất dễ
nhầm lẫn. Các đơn vị nhƣ Con giun xéo mãi cũng quằn, Cây ngay không sợ
chết đứng… thƣờng có sự lẫn lộn khi nhận diện chúng là thành ngữ hay tục
ngữ. Ví dụ, trong một số ngữ cảnh, Con giun xéo mãi cùng quằn nhằm chỉ ra
một tình huống. Đó là tình huống bị áp bức thì sẽ có đấu tranh. Trong trƣờng
hợp này, nó có thể đƣợc coi là thành ngữ. Nhƣng trong một số trƣờng hợp
khác, nó có thể đƣợc coi là tục ngữ vì đã nêu ra một phán đoán rằng nếu bị áp
bức nhiều quá thì sẽ có đấu tranh, cho nên có thể hàm ý đƣa ra một lời khuyên
trong cách ứng xử.
34
Chúng tôi đồng ý với một vài ngƣời đi trƣớc cho rằng, việc phân biệt
thành ngữ và tục ngữ phải căn cứ vào từng hoàn cảnh cụ thể, vì thành ngữ vừa
là một đơn vị ngôn ngữ, vừa là một đơn vị văn hóa. Ngoài thành ngữ thì tục
ngữ cũng nhƣ vậy, cho nên, nếu chỉ xét đơn thuần ở mặt ngôn ngữ học thì dù
cố gắng đến đâu cũng không thể hoàn toàn minh định đƣợc ranh giới giữa
thành ngữ và phân biệt nó với tục ngữ. Bản thân thành ngữ và tục ngữ có
những đặc điểm do những nhân tố ngoài ngôn ngữ quy định, do đó, các tiêu
chí ngôn ngữ dù sát thực đến đâu cũng không bù đƣợc những sự đắp đổi từ
những nhân tố ngoài ngôn ngữ đƣa lại. Nhân tố ngoài ngôn ngữ chính là các
đặc điểm văn hóa xã hội ở dân gian. Có sự xâm lấn của những nhân tố văn
hóa xã hội thì hẳn sẽ có tính dị bản và có nhiều cách hiểu khác nhau.
Nguyễn Trung Thành cũng có quan điểm tƣơng tự khi cho rằng trong
sự phân biệt thành ngữ với tục ngữ phải gắn liền với ngữ cảnh - tức là bối
cảnh sử dụng. Tác giả viết: “Việc xếp loại một bộ phận các đơn vị có sẵn - bộ
phận nằm ở vị trí trung gian giữa thành ngữ và tục ngữ - là một công việc khó
khăn. Và để giải quyết khó khăn, tốt nhất là dựa vào cách sử dụng các đơn vị
này trong những hoàn cảnh cụ thể” [114]. Cách sử dụng thành ngữ phụ thuộc
vào việc hiểu thành ngữ, do đó, gắn liền với bối cảnh sử dụng. Trong phạm vi
lớn, bối cảnh sử dụng bao giờ cũng gắn liền với đặc điểm văn hóa xã hội của
cá nhân hoặc của cả cộng đồng sử dụng. Do đó, những đơn vị nhƣ Con giun
xéo mãi cùng quằn, Cây ngay không sợ chết đứng vừa kể trên có thể là thành
ngữ hoặc tục ngữ tuỳ vào ngữ cảnh sử dụng, song, đó đều là những đơn vị
ngôn ngữ - văn hóa.
Cùng với việc đƣa ra khái niệm và phân biệt thành ngữ với các đơn vị
khác, các nhà Việt ngữ học đã phân chia thành ngữ theo dựa vào các tiêu chí
khác nhau tuỳ thuộc vào góc nhìn và hƣớng nghiên cứu của mỗi tác giả. Các
tiêu chí có thể là tiêu chí chức năng, tiêu chí đặc trƣng từ loại, phƣơng thức
35
biểu trƣng hóa hay cơ chế cấu tạo cả về nội dung và hình thức, tiêu chí nguồn
gốc, … Nhìn chung, việc phân loại thành ngữ đều chủ yếu dựa vào cơ chế cấu
tạo và cấu trúc là phổ biến, ngoài ra khi phân loại, ngƣời ta có thể xét đến các
tiêu chí nhƣ số âm tiết, sự đối xứng hay không đối xứng v.v.
1.3.2.2. Thành ngữ tiếng Việt từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng
Có 3 tiêu chí cơ bản sau đây mà đa số tác giả nghiên cứu thành ngữ từ
bình diện ngôn ngữ học truyền thống đều thống nhất để nhận diện nó, đó là:
- Một là, về mặt cấu trúc, thành ngữ có khả năng hoạt động nhƣ một từ
độc lập, tƣơng đƣơng với cấp độ từ.
- Hai là, thành ngữ có cấu trúc bền vững, khó bị phá vỡ, thƣờng là một
tổ hợp từ, một số ít có thể là kết cấu chủ vị
- Ba là, thành ngữ mang nghĩa biểu trƣng.
Nhƣ vậy, khái niệm thành ngữ có thể đƣợc hiểu bao gồm: Các từ tạo
nên thành ngữ bao gồm kết cấu và nghĩa đen của nó và nghĩa biểu trƣng của
thành ngữ. Nhƣng trong những trƣờng hợp cần thiết, việc xác định thành ngữ
phải kết hợp nhiều tiêu chí trong ngữ cảnh cụ thể. Ngay cả Saussure cũng
thừa nhận rằng: “Danh từ idiome biểu thị một cách khá đúng đắn rằng ngôn
ngữ phản ánh những nét đặc thù của một cộng đồng (tiếng Hy Lạp idiōma đã
có nghĩa là “tập tục riêng”) [107,323].
Ngôn ngữ học nhân chủng sẽ nhấn mạnh đến bối cảnh sử dụng thành
ngữ. Đây chính là bối cảnh văn hóa xã hội của cộng đồng sử dụng ngôn ngữ.
Và đồng thời nó đặc biệt chú trọng vào mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn
hóa, giữa ngôn ngữ và xã hội trong thành ngữ. Nhờ đó, ngƣời ta sẽ hiểu rõ sự
tƣơng tác giữa thành ngữ với đặc trƣng văn hóa xã hội. Trong một yêu cầu
nhƣ vậy, chúng tôi xin đƣa ra một mô hình thành ngữ tiếng Việt gồm có 3 bậc
nhƣ sơ đồ 1.3. dƣới đây để “khảo sát” trong luận án của mình:
1 Nghĩa biểu trƣng của thành ngữ
36
2 Các đặc điểm văn hóa xã hội: Ẩn dụ và so sánh
3 Các từ tạo nên thành ngữ gồm kết cấu và nghĩa đen của chúng
Sơ đồ 1.3. Thành ngữ từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng
Theo sơ đồ này, có thể hiểu (3) là dạng thức tồn tại của thành ngữ trong
ngôn ngữ và lời nói, (2) là cơ sở để hình thành, hiểu đúng và sử dụng đúng
thành ngữ và (1) là cái mà chúng ta sử dụng thành ngữ.
Cái khác so với các quan điểm đã có về thành ngữ tiếng Việt là trong sơ
đồ này, chúng tôi nhấn mạnh các đặc điểm văn hóa xã hội làm cơ sở để hình
thành nghĩa biểu trƣng của thành ngữ. Và, nhƣ trong những chƣơng sau sẽ
làm sáng tỏ, các đặc điểm văn hóa xã hội đƣợc nó lƣu giữ thông qua hai
phƣơng thức chủ yếu là ẩn dụ và so sánh. Nhờ đó, nghĩa thành ngữ là nghĩa
biểu trƣng gắn liền với tri thức nền về văn hóa xã hội, gắn liền với phƣơng
thức so sánh và đặc biệt là gắn liền với phƣơng thức ẩn dụ. Ở đây, cơ chế sản
sinh so sánh và ẩn dụ là quá trình mở rộng hệ thống ý niệm. Có thể nói, kiến
thức và kinh nghiệm đã có liên quan đến đời sống văn hóa xã hội của mỗi dân
tộc cùng với quá trình tìm kiếm mối tƣơng quan giữa những cái đã tồn tại làm
sản sinh ra những khái niệm mới và từ đó nghĩa biểu trƣng của thành ngữ sẽ
đƣợc tạo ra. Cho nên, khảo sát thành ngữ tiếng Việt của chúng tôi từ bình diện
ngôn ngữ học nhân chủng chính là cách làm sáng tỏ cơ chế đó.
Cũng cần nói thêm rằng, trong định nghĩa để khảo sát, chúng tôi cũng
chỉ ra hai phƣơng thức cơ bản để tạo thành nghĩa biểu trƣng của thành ngữ là
so sánh và ẩn dụ; nhƣng chúng tôi không nhấn mạnh cấu trúc của ẩn dụ và so
sánh mà đặc biệt quan tâm đến tính chất văn hóa của chúng. Chúng tôi cũng
biết ẩn dụ và so sánh không chỉ là của riếng ngôn ngữ mà còn là phƣơng thức
của tƣ duy. Phƣơng thức tƣ duy theo kiểu ẩn dụ và so sánh của con ngƣời là
cơ sở để ngôn ngữ và văn hóa xã hội phát triển, nhƣng đồng thời ngôn ngữ lại
ảnh hƣởng ngƣợc lại tới phƣơng thức tƣ duy và văn hóa xã hội.
37
Bởi vì có thể thấy, cùng một nguyên mẫu nhƣng trong các nền văn hóa
khác nhau sẽ có đƣợc những mối liên hệ khác nhau, tạo ra những ý nghĩa
khác nhau. Đây chính là nội dung chính mà ngôn ngữ học nhân chủng đề cập.
Cho nên, việc lựa chọn thành ngữ tiếng Việt để nghiên cứu từ bình diện ngôn
ngữ học nhân chủng ở chƣơng 3 chính là cách làm tốt nhất nhằm chỉ ra sự tồn
tại mối quan hệ và sự tƣơng tác trong đó giữa ngôn ngữ - văn hóa - xã hội
đƣợc phản ánh trong thành ngữ tiếng Việt.
Nhƣng trƣớc khi tiếp cận thành ngữ tiếng Việt từ bình diện ngôn ngữ
học nhân chủng để chỉ ra sự tƣơng tác nói trên, một yêu cầu đặt ra là phải lý
giải các đặc điểm văn hóa xã hội của ngƣời Việt phản ánh trong thành ngữ.
Muốn làm đƣợc điều đó, thành ngữ phải đƣợc phân loại thành các nhóm thành
ngữ liên quan đến các phƣơng diện khác nhau của đời sống văn hóa xã hội.
Nhƣ vậy, trong nghiên cứu này, chƣơng tiếp theo sẽ là công việc phân loại
thành ngữ tiếng Việt gắn liền với sự phân chia các phƣơng diện khác nhau
trong đời sống văn hóa xã hội.
Để thực hiện việc phân loại, trƣớc hết chúng tôi tiến hành phân loại tƣ
liệu thành hai nhóm lớn là thành ngữ liên quan đến đời sống văn hóa và thành
ngữ liên quan đến đời sống xã hội. Đây là một việc làm khó khăn nhƣng cần
thiết. Khó khăn là bởi vì, văn hóa - xã hội là hai khái niệm có nội hàm rất
rộng, liên quan đến mọi mặt của vật chất và tinh thần của con ngƣời và
thƣờng luôn đi kèm với nhau. Với tƣ cách là thành viên của một xã hội nhất
định, con ngƣời có khả năng đặc biệt là sáng tạo nên văn hóa, định hình thế
giới của mình bằng văn hóa, tiếp thu văn hóa, bảo tồn nó đồng thời truyền đạt
nó từ thế hệ này sang thế hệ khác. Việc cùng có chung một văn hóa giúp xác
định nhóm ngƣời hay xã hội mà các cá thể là thành viên. Bởi vậy, văn hóa và
xã hội luôn đi kèm với nhau. Tuy nhiên, để phục vụ cho việc nghiên cứu, đời
sống văn hóa và đời sống xã hội sẽ đƣợc tách rời làm tiêu chí để phân loại các
38
thành ngữ. Nhƣ vậy, việc phân biệt này đôi chỗ sẽ không rõ ràng và sẽ có
những thành ngữ vừa liên quan đến đời sống văn hóa, vừa liên quan đến sự
phân tầng xã hội. Trong sự phân loại, bao giờ cũng có nhƣng đơn vị trung
gian là nhƣ thế.
Nhƣ vậy, thành ngữ tiếng Việt có thể phân thành hai loại lớn là thành
ngữ liên quan đến đời sống văn hóa và thành ngữ liên quan đến đời sống xã
hội. Trong mỗi loại này lại bao gồm nhiều nhóm nhỏ hơn liên quan đến các
phƣơng diện cụ thể của đời sống văn hóa và đời sống xã hội. Việc phân chia
này không nhằm mục đích nghiên cứu văn hóa, do đó, có thể không triệt để và
toàn diện nhƣ các nhà văn hóa học. Cho nên ở phân nhóm đời sống văn hóa
chúng đƣợc chia nhỏ thành các tiểu nhóm: liên quan đến đời sống lao động
sản xuất, liên quan đến đời sống sinh hoạt hàng ngày, liên quan đến đời sống
tín ngƣỡng, liên quan đến đời sống gia đình, liên quan đến đời sống cộng
đồng làng xã.
Việc phân loại các thành ngữ liên quan đến đời sống xã hội có thể căn
cứ vào các nhân tố xã hội quy định sự phân tầng xã hội. Tuy nhiên, có rất
nhiều tiêu chí để phân tầng một xã hội do các nghiên cứu khác nhau có những
sự lựa chọn các nhân tố xã hội khác nhau để phân tầng một xã hội cụ thể.
Chẳng hạn, trong nghiên cứu ngôn ngữ học xã hội, tác giả Labov cho rằng có
ba đặc điểm có giá trị để đánh giá sự phân tầng xã hội: nghề nghiệp
(occupation), trình độ văn hóa giáo dục (education) và thu nhập gia đình
(income) [67,134]. Trong khi đó, tác giả Wolfram lại quan tâm đến các nhân
tố nhƣ tầng lớp xã hội (địa vị xã hội), giới tính, tuổi tác và nguồn gốc chủng
tộc [67,139]. Tác giả Trudgill thì sử dụng ba tiêu chí giống với Labov là các
tiêu chí: nghề nghiệp, thu nhập, học vấn, và bổ sung thêm 3 tiêu chí nữa là
nhà cửa (housing), địa phƣơng (locality) và nghề nghiệp của bố (father’s
occupation) [161,161]. Nhƣ vậy, có thể thấy rằng, để xem xét sự phân tầng xã
39
hội nói chung và sự phân tầng trong xã hội Việt Nam nói riêng, có thể sử
dụng nhiều nhân tố xã hội khác nhau.
Quá trình khảo sát các nghiên cứu có trƣớc và tƣ liệu của chúng tôi cho
thấy tiêu chí nổi bật trong thành ngữ tiếng Việt phản ánh sự phân tầng xã hội
là: tuổi tác, giới tính và địa vị xã hội. Nhƣ vậy, các thành ngữ liên quan đến
đời sống xã hội có thể đƣợc phân loại thành các nhóm: thành ngữ liên quan
đến sự phân tầng xã hội theo tuổi tác, thành ngữ liên quan đến sự phân biệt
giới tính, thành ngữ liên quan đến địa vị xã hội. Căn cứ vào các tiêu chí ấy,
chúng tôi đã tiến hành phân loại thành ngữ tiếng Việt thành 2 nhóm lớn:
(1) Thành ngữ
liên quan đến
đời sống văn
hóa
(1a) Văn hóa
vật chất
Nhà cao cửa rộng, Quần nâu áo vá, Trâu
cày ngựa cưỡi
(1b) Văn hóa
tinh thần
Khẩu phật tâm xà, Ba máu sáu cơn, Gần
chùa gọi Bụt bằng anh
(1c) Văn hóa
gia đình
Cha già nhà giột, Chị ngã em nâng, Cá
chuối đắm đuối vì con
(1d) Văn hóa
cộng đồng
Làng trên xóm dưới, Khua chiêng gõ mõ,
Cháy nhà hàng xóm bình chân như vại
(2) Thành ngữ
liên quan đến
đời sống xã
hội
(2a) Sự phân
biệt tuổi tác
Da mồi tóc bạc, Tre già măng mọc, Dê cỏn
buồn sừng
(2b) Sự phân
biệt giới tính
Chồng khôn vợ khéo, Nam thanh gái lịch,
Ông chẳng bà chuộc
(2c) Địa vị xã
hội
Bìm bìm leo nhà gạch, Cây cao gió cả,
Thấp cổ bé họng, Trọc đầu càng mát
Sơ đồ 1.4: Phân loại thành ngữ tiếng Việt theo đặc điểm văn hóa - xã hội
(trang 44)
Xin một lần nữa nhắc lại rằng việc phân chia nhƣ trên chỉ mang tính
chất tƣơng đối nhằm phục vụ cho nhiệm vụ nghiên cứ của chúng tôi. Vì thực
40
tế có những thành ngữ có thể vừa biểu hiện đặc điểm văn hóa, vừa biểu hiện
đặc điểm xã hội. Ví dụ thành ngữ Cương ngựa ách trâu, Đầu gà hơn đuôi
trâu… vừa là những thành ngữ liên quan đến đời sống nông nghiệp vì có sử
dụng hình ảnh con trâu để biểu trƣng hóa, vừa là những thành ngữ liên quan
đến đời sống xã hội vì biểu trƣng hóa cho địa vị xã hội.
1.4. Một số vấn đề về ẩn dụ phục vụ cho nghiên cứu của luận án.
Để thực hiện nhiệm vụ đã nói ở trên, chúng tôi chỉ sẽ lựa chọn phƣơng
thức ẩn dụ trong thành ngữ làm nội dung nghiên cứu ở chƣơng 3. Có hai lý
do: Một là, do giới hạn của luận án, chúng tôi không có điều kiện khảo sát cả
hai phƣơng thức ẩn dụ và so sánh. Hai là, tính biểu trƣng của phƣơng thức so
sánh thì vẫn còn nhiều điểm chƣa thống nhất, trong khi phƣơng thức ẩn dụ là
phƣơng thức hiệu quả để tạo ra tính biểu trƣng của thành ngữ đều đã đƣợc đa
số các tác giả thừa nhận. Vì thế, trong mục 1.4. này, chúng tôi sẽ trình bày
một số vấn đề về ẩn dụ phục vụ cho nghiên cứu của luận án.
1.4.1. Khái niệm ẩn dụ
Ẩn dụ đƣợc sử dụng rất nhiều trong ngôn ngữ và lời nói. Ngay từ thời
Hy Lạp cổ đại, nhà triết học Arixtốt đã nhắc đến ẩn dụ và cho rằng nó là đặc
trƣng cơ bản của ngôn ngữ. Trong suốt một quá trình lịch sử lâu dài kể từ đó
cho đến khoảng giữa thế kỷ XX, ẩn dụ vẫn đƣợc coi nhƣ là một phƣơng tiện
tu từ và bản chất của nó là sự dịch chuyển hay sự thay thế.
41
Sơ đồ 1.4. Phân loại thành ngữ tiếng Việt theo văn hóa - xã hội
Thành ngữ
(TN)
tiếng Việt
TN liên quan
đến đời sống
văn hóa
TN liên quan
đến đời sống
xã hội
TN liên quan
đến đời sống
văn hóa
vật chất
TN liên quan
đến đời sống
tinh thần
TN liên quan
đến đời sống
văn hóa
gia đình
TN liên quan
đến đời sống
văn hóa
cộng đồng
TN liên quan
đến
sự phân chia
tuổi tác
TN liên quan
đến
sự phân biệt
giới tính
TN liên quan
đến
địa vị
xã hội
42
Ở Việt Nam, đã có nhiều nhà ngôn ngữ học thuộc các chuyên ngành khác
nhau dành sự quan tâm đến vấn đề ẩn dụ nhƣ các nhà từ vựng học, ngữ nghĩa
học, phong cách học, triết học ngôn ngữ và gần đây là dụng học và ngôn ngữ học
tri nhận. Có thể kể tên những công trình đề cập đến ẩn dụ của các tác giả nhƣ:
Đỗ Hữu Châu (1962), Đinh Trọng Lạc (1964), Cù Đình Tú (1975), Nguyễn Thái
Hòa (1997) v.v và rải rác trong một số công trình nghiên cứu văn học, phê bình
văn học.
Các giả kể trên đều có cách quan niệm gần giống nhau, đó là coi ẩn dụ là
“phép hay cách thức chuyển đổi tên gọi dựa trên sự so sánh ngầm giữa hai sự
vật có sự tương đồng hay giống nhau” [139,437]. Đây là cách hiểu về ẩn dụ
thông dụng nhất không chỉ ở các sách nghiên cứu ở trong nƣớc mà cả nƣớc
ngoài, là cách hiểu theo lý thuyết ngữ nghĩa học. Ẩn dụ là phƣơng thức lấy tên
gọi A của sự vật a để gọi tên các sự vật b, c, d vì giữa a, b, c, d có điểm giống
nhau. Hay nói cách khác, ẩn dụ là phƣơng thức chuyển nghĩa dựa vào quy luật
liên tƣởng tƣơng đồng.
Trên cơ sở nghiên cứu về tƣ duy ngôn ngữ, Nguyễn Đức Tồn (2002, 2007,
2009) có đã có điểm mới so với các các tác giả đi trƣớc là nhấn mạnh “ẩn dụ là
một phương thức tư duy” và cho rằng “dựa vào bản chất của ẩn dụ đã được trình
bày, có thể nghĩ rằng đặc trưng văn hóa – dân tộc của ẩn dụ có thể được biểu
hiện ở chỗ mỗi dân tộc sẽ phát hiện ra nét đồng nhất khác nhau của các sự vật
(trong vô số các thuộc tính khác nhau của mỗi sự vật, hiện tượng…) và đồng
nhất hóa chúng hoặc để tạo ra các ý nghĩa phái sinh khác nhau, hoặc để diễn
đạt “hiện thực trực tiếp của tư tưởng” (Mác) với tư cách là phương thức hay quy
luật của tư duy, mặc dù giữa các dân tộc có thể có cái chung giống nhau”
43
[139,474]. Nhận xét này đã xích lại gần với quan điểm của các nhà ngôn ngữ học
tri nhận khi nghiên cứu về ẩn dụ.
Công trình nghiên cứu về ẩn dụ theo quan điểm ngôn ngữ học tri nhận
mang tính phƣơng pháp luận kinh điển là cuốn sách Metaphors we live by của G.
Lakoff và M. Johnson. Trong cuốn sách, hai tác giả đã khẳng định rằng: “Trên
cơ sở của các bằng chứng ngôn ngữ học, có thể thấy rằng hầu hết hệ thống khái
niệm thông thường của chúng ta về bản chất là mang tính ẩn dụ… Quá trình tư
duy của con người phần lớn mang tính ẩn dụ” [166,4-6]. Cuốn sách đã trở thành
một cuốn cẩm nang không thể thiếu của bất kỳ nhà nghiên cứu ẩn dụ tri nhận
nào. Sau cuốn sách này, nhiều tác giả ở nhiều nền ngôn ngữ học Mỹ, Anh, Nga,
Trung Quốc…đã phát triển lý thuyết ẩn dụ tri nhận để góp phần hoàn thiện lý
thuyết này.
Gần đây, khuynh hƣớng nghiên cứu ngôn ngữ học tri nhận đã đƣợc giới
thiệu ở Việt Nam nhƣ các công trình của Trần Văn Cơ, Phan Thế Hƣng, Lý Toàn
Thắng v.v. Về ẩn dụ, khuynh hƣớng này cho rằng “Với cách tiếp cận chung nhất,
ẩn dụ được xem như là cách nhìn đối tượng này thông qua một đối tượng khác,
và với ý nghĩa đó, ẩn dụ là một trong những phương thức biểu tượng tri thức
dưới dạng ngôn ngữ. [16,86-87].
Ví dụ, trong câu tiếng Anh She jumped for joy “Cô ấy nhảy lên vì sung
sƣớng” có ẩn dụ ý niệm Happy is up “Hạnh phúc là trên”. “Hạnh phúc” là ý
niệm thuộc phạm vi không thể quan sát đƣợc, trong khi đó, “lên trên” là ý niệm
mang tính nghiệm thân có thể nhìn quan sát trực tiếp đƣợc thông qua vận động
của con ngƣời trong thế giới vật lý [166].
Tác giả Phan Thế Hƣng thì đề cập đến khái niệm “ẩn dụ ý niệm”. Theo đó,
ẩn dụ ý niệm là một cơ chế tri nhận bao gồm một miền mà một phần đƣợc “ánh
Nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng : Luận án TS. Ngôn ngữ học: 62 22 01 01
Nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng : Luận án TS. Ngôn ngữ học: 62 22 01 01
Nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng : Luận án TS. Ngôn ngữ học: 62 22 01 01
Nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng : Luận án TS. Ngôn ngữ học: 62 22 01 01
Nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng : Luận án TS. Ngôn ngữ học: 62 22 01 01
Nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng : Luận án TS. Ngôn ngữ học: 62 22 01 01
Nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng : Luận án TS. Ngôn ngữ học: 62 22 01 01
Nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng : Luận án TS. Ngôn ngữ học: 62 22 01 01
Nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng : Luận án TS. Ngôn ngữ học: 62 22 01 01
Nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng : Luận án TS. Ngôn ngữ học: 62 22 01 01
Nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng : Luận án TS. Ngôn ngữ học: 62 22 01 01
Nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng : Luận án TS. Ngôn ngữ học: 62 22 01 01
Nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng : Luận án TS. Ngôn ngữ học: 62 22 01 01
Nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng : Luận án TS. Ngôn ngữ học: 62 22 01 01
Nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng : Luận án TS. Ngôn ngữ học: 62 22 01 01
Nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng : Luận án TS. Ngôn ngữ học: 62 22 01 01
Nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng : Luận án TS. Ngôn ngữ học: 62 22 01 01
Nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng : Luận án TS. Ngôn ngữ học: 62 22 01 01
Nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng : Luận án TS. Ngôn ngữ học: 62 22 01 01
Nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng : Luận án TS. Ngôn ngữ học: 62 22 01 01
Nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng : Luận án TS. Ngôn ngữ học: 62 22 01 01
Nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng : Luận án TS. Ngôn ngữ học: 62 22 01 01
Nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng : Luận án TS. Ngôn ngữ học: 62 22 01 01
Nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng : Luận án TS. Ngôn ngữ học: 62 22 01 01
Nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng : Luận án TS. Ngôn ngữ học: 62 22 01 01
Nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng : Luận án TS. Ngôn ngữ học: 62 22 01 01
Nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng : Luận án TS. Ngôn ngữ học: 62 22 01 01
Nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng : Luận án TS. Ngôn ngữ học: 62 22 01 01
Nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng : Luận án TS. Ngôn ngữ học: 62 22 01 01
Nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng : Luận án TS. Ngôn ngữ học: 62 22 01 01
Nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng : Luận án TS. Ngôn ngữ học: 62 22 01 01
Nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng : Luận án TS. Ngôn ngữ học: 62 22 01 01
Nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng : Luận án TS. Ngôn ngữ học: 62 22 01 01
Nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng : Luận án TS. Ngôn ngữ học: 62 22 01 01
Nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng : Luận án TS. Ngôn ngữ học: 62 22 01 01
Nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng : Luận án TS. Ngôn ngữ học: 62 22 01 01
Nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng : Luận án TS. Ngôn ngữ học: 62 22 01 01
Nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng : Luận án TS. Ngôn ngữ học: 62 22 01 01
Nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng : Luận án TS. Ngôn ngữ học: 62 22 01 01
Nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng : Luận án TS. Ngôn ngữ học: 62 22 01 01
Nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng : Luận án TS. Ngôn ngữ học: 62 22 01 01
Nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng : Luận án TS. Ngôn ngữ học: 62 22 01 01
Nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng : Luận án TS. Ngôn ngữ học: 62 22 01 01
Nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng : Luận án TS. Ngôn ngữ học: 62 22 01 01
Nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng : Luận án TS. Ngôn ngữ học: 62 22 01 01
Nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng : Luận án TS. Ngôn ngữ học: 62 22 01 01
Nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng : Luận án TS. Ngôn ngữ học: 62 22 01 01
Nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng : Luận án TS. Ngôn ngữ học: 62 22 01 01
Nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng : Luận án TS. Ngôn ngữ học: 62 22 01 01
Nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng : Luận án TS. Ngôn ngữ học: 62 22 01 01
Nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng : Luận án TS. Ngôn ngữ học: 62 22 01 01
Nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng : Luận án TS. Ngôn ngữ học: 62 22 01 01
Nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng : Luận án TS. Ngôn ngữ học: 62 22 01 01
Nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng : Luận án TS. Ngôn ngữ học: 62 22 01 01
Nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng : Luận án TS. Ngôn ngữ học: 62 22 01 01

More Related Content

What's hot

Vùng văn hóa châu thổ Bắc Bộ
Vùng văn hóa châu thổ Bắc BộVùng văn hóa châu thổ Bắc Bộ
Vùng văn hóa châu thổ Bắc BộHoàng Mai
 
PHONG CÁCH HỌC TIẾNG VIỆT
PHONG CÁCH HỌC TIẾNG VIỆT PHONG CÁCH HỌC TIẾNG VIỆT
PHONG CÁCH HỌC TIẾNG VIỆT nataliej4
 
Nghiên cứu về từ loại danh từ động từ tính từ đại từ quan hệ từ trong chương ...
Nghiên cứu về từ loại danh từ động từ tính từ đại từ quan hệ từ trong chương ...Nghiên cứu về từ loại danh từ động từ tính từ đại từ quan hệ từ trong chương ...
Nghiên cứu về từ loại danh từ động từ tính từ đại từ quan hệ từ trong chương ...anh hieu
 
CƠ SỞ NGÔN NGỮ HỌC VÀ TIẾNG VIỆT
CƠ SỞ NGÔN NGỮ HỌC VÀ TIẾNG VIỆT CƠ SỞ NGÔN NGỮ HỌC VÀ TIẾNG VIỆT
CƠ SỞ NGÔN NGỮ HỌC VÀ TIẾNG VIỆT nataliej4
 
Tâm Lí Học Lứa Tuổi Và Tâm Lí Học Sư Phạm.pdf
Tâm Lí Học Lứa Tuổi Và Tâm Lí Học Sư Phạm.pdfTâm Lí Học Lứa Tuổi Và Tâm Lí Học Sư Phạm.pdf
Tâm Lí Học Lứa Tuổi Và Tâm Lí Học Sư Phạm.pdfHanaTiti
 
Luận văn thạc sĩ Đặc điểm du nhập của từ vay mượn gốc ấn âu trong tiếng Việt ...
Luận văn thạc sĩ Đặc điểm du nhập của từ vay mượn gốc ấn âu trong tiếng Việt ...Luận văn thạc sĩ Đặc điểm du nhập của từ vay mượn gốc ấn âu trong tiếng Việt ...
Luận văn thạc sĩ Đặc điểm du nhập của từ vay mượn gốc ấn âu trong tiếng Việt ...nataliej4
 
KHÁT VỌNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ VI THÙY LINH 2827260
KHÁT VỌNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ VI THÙY LINH 2827260KHÁT VỌNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ VI THÙY LINH 2827260
KHÁT VỌNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ VI THÙY LINH 2827260nataliej4
 
Nghiên cứu đối chiếu các thành ngữ thời tiết trong tiếng Hán và tiếng Việt.pdf
Nghiên cứu đối chiếu các thành ngữ thời tiết trong tiếng Hán và tiếng Việt.pdfNghiên cứu đối chiếu các thành ngữ thời tiết trong tiếng Hán và tiếng Việt.pdf
Nghiên cứu đối chiếu các thành ngữ thời tiết trong tiếng Hán và tiếng Việt.pdfHanaTiti
 
Diễn ngôn tính dục trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại (Qua một số tác giả v...
Diễn ngôn tính dục trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại (Qua một số tác giả v...Diễn ngôn tính dục trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại (Qua một số tác giả v...
Diễn ngôn tính dục trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại (Qua một số tác giả v...nataliej4
 
Luận văn tiếng lóng trên các diễn đàn trực tuyến tiếng việt thức trạng, đặc...
Luận văn tiếng lóng trên các diễn đàn trực tuyến tiếng việt   thức trạng, đặc...Luận văn tiếng lóng trên các diễn đàn trực tuyến tiếng việt   thức trạng, đặc...
Luận văn tiếng lóng trên các diễn đàn trực tuyến tiếng việt thức trạng, đặc...nataliej4
 
Cái tôi trữ tình trong thơ nữ trẻ sau 1986 qua các tác giả: Vi Thùy Linh, Ly ...
Cái tôi trữ tình trong thơ nữ trẻ sau 1986 qua các tác giả: Vi Thùy Linh, Ly ...Cái tôi trữ tình trong thơ nữ trẻ sau 1986 qua các tác giả: Vi Thùy Linh, Ly ...
Cái tôi trữ tình trong thơ nữ trẻ sau 1986 qua các tác giả: Vi Thùy Linh, Ly ...nataliej4
 
Bai giang ngon ngu hoc doi chieu
Bai giang ngon ngu hoc doi chieuBai giang ngon ngu hoc doi chieu
Bai giang ngon ngu hoc doi chieuCún Con Sữa
 

What's hot (20)

Vùng văn hóa châu thổ Bắc Bộ
Vùng văn hóa châu thổ Bắc BộVùng văn hóa châu thổ Bắc Bộ
Vùng văn hóa châu thổ Bắc Bộ
 
PHONG CÁCH HỌC TIẾNG VIỆT
PHONG CÁCH HỌC TIẾNG VIỆT PHONG CÁCH HỌC TIẾNG VIỆT
PHONG CÁCH HỌC TIẾNG VIỆT
 
Luận văn: Từ ngữ Hán Việt trong ca dao Nam Bộ, HAY, 9đ
Luận văn: Từ ngữ Hán Việt trong ca dao Nam Bộ, HAY, 9đLuận văn: Từ ngữ Hán Việt trong ca dao Nam Bộ, HAY, 9đ
Luận văn: Từ ngữ Hán Việt trong ca dao Nam Bộ, HAY, 9đ
 
Luận văn: Vấn đề bản chất và đặc trưng của văn học Việt Nam
Luận văn: Vấn đề bản chất và đặc trưng của văn học Việt NamLuận văn: Vấn đề bản chất và đặc trưng của văn học Việt Nam
Luận văn: Vấn đề bản chất và đặc trưng của văn học Việt Nam
 
Nghiên cứu về từ loại danh từ động từ tính từ đại từ quan hệ từ trong chương ...
Nghiên cứu về từ loại danh từ động từ tính từ đại từ quan hệ từ trong chương ...Nghiên cứu về từ loại danh từ động từ tính từ đại từ quan hệ từ trong chương ...
Nghiên cứu về từ loại danh từ động từ tính từ đại từ quan hệ từ trong chương ...
 
CƠ SỞ NGÔN NGỮ HỌC VÀ TIẾNG VIỆT
CƠ SỞ NGÔN NGỮ HỌC VÀ TIẾNG VIỆT CƠ SỞ NGÔN NGỮ HỌC VÀ TIẾNG VIỆT
CƠ SỞ NGÔN NGỮ HỌC VÀ TIẾNG VIỆT
 
Luận văn: Ngữ nghĩa của danh từ đơn vị tiếng việt, HAY, 9đ
Luận văn: Ngữ nghĩa của danh từ đơn vị tiếng việt, HAY, 9đLuận văn: Ngữ nghĩa của danh từ đơn vị tiếng việt, HAY, 9đ
Luận văn: Ngữ nghĩa của danh từ đơn vị tiếng việt, HAY, 9đ
 
THÀNH NGỮ CÓ TỪ NGỮ THUỘC TRƯỜNG NGHĨA THỜI TIẾT TRONG TIẾNG VIỆT - TẢI FREE...
THÀNH NGỮ CÓ TỪ NGỮ THUỘC TRƯỜNG NGHĨA THỜI TIẾT TRONG TIẾNG VIỆT  - TẢI FREE...THÀNH NGỮ CÓ TỪ NGỮ THUỘC TRƯỜNG NGHĨA THỜI TIẾT TRONG TIẾNG VIỆT  - TẢI FREE...
THÀNH NGỮ CÓ TỪ NGỮ THUỘC TRƯỜNG NGHĨA THỜI TIẾT TRONG TIẾNG VIỆT - TẢI FREE...
 
Tâm Lí Học Lứa Tuổi Và Tâm Lí Học Sư Phạm.pdf
Tâm Lí Học Lứa Tuổi Và Tâm Lí Học Sư Phạm.pdfTâm Lí Học Lứa Tuổi Và Tâm Lí Học Sư Phạm.pdf
Tâm Lí Học Lứa Tuổi Và Tâm Lí Học Sư Phạm.pdf
 
Luận văn: Yếu tố phong tục trong truyện cổ tích người Việt từ góc nhìn văn hoá
Luận văn: Yếu tố phong tục trong truyện cổ tích người Việt từ góc nhìn văn hoáLuận văn: Yếu tố phong tục trong truyện cổ tích người Việt từ góc nhìn văn hoá
Luận văn: Yếu tố phong tục trong truyện cổ tích người Việt từ góc nhìn văn hoá
 
Luận văn thạc sĩ Đặc điểm du nhập của từ vay mượn gốc ấn âu trong tiếng Việt ...
Luận văn thạc sĩ Đặc điểm du nhập của từ vay mượn gốc ấn âu trong tiếng Việt ...Luận văn thạc sĩ Đặc điểm du nhập của từ vay mượn gốc ấn âu trong tiếng Việt ...
Luận văn thạc sĩ Đặc điểm du nhập của từ vay mượn gốc ấn âu trong tiếng Việt ...
 
KHÁT VỌNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ VI THÙY LINH 2827260
KHÁT VỌNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ VI THÙY LINH 2827260KHÁT VỌNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ VI THÙY LINH 2827260
KHÁT VỌNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ VI THÙY LINH 2827260
 
Nghiên cứu đối chiếu các thành ngữ thời tiết trong tiếng Hán và tiếng Việt.pdf
Nghiên cứu đối chiếu các thành ngữ thời tiết trong tiếng Hán và tiếng Việt.pdfNghiên cứu đối chiếu các thành ngữ thời tiết trong tiếng Hán và tiếng Việt.pdf
Nghiên cứu đối chiếu các thành ngữ thời tiết trong tiếng Hán và tiếng Việt.pdf
 
Luận văn: Phương thức định danh của hệ thống từ ngữ nghề chè
Luận văn: Phương thức định danh của hệ thống từ ngữ nghề chèLuận văn: Phương thức định danh của hệ thống từ ngữ nghề chè
Luận văn: Phương thức định danh của hệ thống từ ngữ nghề chè
 
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đLuận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
 
Hệ thống bài tập Tiếng Việt theo hướng phát triển tư duy cho học sinh
Hệ thống bài tập Tiếng Việt theo hướng phát triển tư duy cho học sinhHệ thống bài tập Tiếng Việt theo hướng phát triển tư duy cho học sinh
Hệ thống bài tập Tiếng Việt theo hướng phát triển tư duy cho học sinh
 
Diễn ngôn tính dục trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại (Qua một số tác giả v...
Diễn ngôn tính dục trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại (Qua một số tác giả v...Diễn ngôn tính dục trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại (Qua một số tác giả v...
Diễn ngôn tính dục trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại (Qua một số tác giả v...
 
Luận văn tiếng lóng trên các diễn đàn trực tuyến tiếng việt thức trạng, đặc...
Luận văn tiếng lóng trên các diễn đàn trực tuyến tiếng việt   thức trạng, đặc...Luận văn tiếng lóng trên các diễn đàn trực tuyến tiếng việt   thức trạng, đặc...
Luận văn tiếng lóng trên các diễn đàn trực tuyến tiếng việt thức trạng, đặc...
 
Cái tôi trữ tình trong thơ nữ trẻ sau 1986 qua các tác giả: Vi Thùy Linh, Ly ...
Cái tôi trữ tình trong thơ nữ trẻ sau 1986 qua các tác giả: Vi Thùy Linh, Ly ...Cái tôi trữ tình trong thơ nữ trẻ sau 1986 qua các tác giả: Vi Thùy Linh, Ly ...
Cái tôi trữ tình trong thơ nữ trẻ sau 1986 qua các tác giả: Vi Thùy Linh, Ly ...
 
Bai giang ngon ngu hoc doi chieu
Bai giang ngon ngu hoc doi chieuBai giang ngon ngu hoc doi chieu
Bai giang ngon ngu hoc doi chieu
 

Similar to Nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng : Luận án TS. Ngôn ngữ học: 62 22 01 01

Hnkh khoa nga-cac-bao_cao_1
Hnkh khoa nga-cac-bao_cao_1Hnkh khoa nga-cac-bao_cao_1
Hnkh khoa nga-cac-bao_cao_1tiểu minh
 
Các từ ngữ chỉ màu sắc phụ của màu đỏ và xanh trong tiếng việt
Các từ ngữ chỉ màu sắc phụ của màu đỏ và xanh trong tiếng việtCác từ ngữ chỉ màu sắc phụ của màu đỏ và xanh trong tiếng việt
Các từ ngữ chỉ màu sắc phụ của màu đỏ và xanh trong tiếng việtDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Các từ ngữ chỉ màu sắc phụ của màu đỏ và xanh trong tiếng việt
Các từ ngữ chỉ màu sắc phụ của màu đỏ và xanh trong tiếng việtCác từ ngữ chỉ màu sắc phụ của màu đỏ và xanh trong tiếng việt
Các từ ngữ chỉ màu sắc phụ của màu đỏ và xanh trong tiếng việtDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Phương Pháp Luận Nghiên Cứu (Research Methodology).pdf
Phương Pháp Luận Nghiên Cứu (Research Methodology).pdfPhương Pháp Luận Nghiên Cứu (Research Methodology).pdf
Phương Pháp Luận Nghiên Cứu (Research Methodology).pdfNuioKila
 
Khảo Sát Và Đề Xuất Biện Pháp Khắc Phục Lỗi Trong Bài Làm Văn Của Học Sinh Tr...
Khảo Sát Và Đề Xuất Biện Pháp Khắc Phục Lỗi Trong Bài Làm Văn Của Học Sinh Tr...Khảo Sát Và Đề Xuất Biện Pháp Khắc Phục Lỗi Trong Bài Làm Văn Của Học Sinh Tr...
Khảo Sát Và Đề Xuất Biện Pháp Khắc Phục Lỗi Trong Bài Làm Văn Của Học Sinh Tr...Dịch vụ viết đề tài trọn gói 0934.573.149
 
Phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục và tâm lý
Phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục và tâm lýPhương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục và tâm lý
Phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục và tâm lýnataliej4
 
8734 2812201116036gtnguphaptiengviet
8734 2812201116036gtnguphaptiengviet8734 2812201116036gtnguphaptiengviet
8734 2812201116036gtnguphaptiengvietPhi Phi
 

Similar to Nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng : Luận án TS. Ngôn ngữ học: 62 22 01 01 (20)

Luận văn: Từ chỉ đầu trong tiếng Việt và tiếng Hán, HAY
Luận văn: Từ chỉ đầu trong tiếng Việt và tiếng Hán, HAYLuận văn: Từ chỉ đầu trong tiếng Việt và tiếng Hán, HAY
Luận văn: Từ chỉ đầu trong tiếng Việt và tiếng Hán, HAY
 
Luận văn: Đặc điểm tục ngữ tiếng Mường, HAY, 9đ
Luận văn: Đặc điểm tục ngữ tiếng Mường, HAY, 9đLuận văn: Đặc điểm tục ngữ tiếng Mường, HAY, 9đ
Luận văn: Đặc điểm tục ngữ tiếng Mường, HAY, 9đ
 
Luận án: Nhóm động từ chỉ hoạt động nhận thức trong tiếng việt
Luận án: Nhóm động từ chỉ hoạt động nhận thức trong tiếng việtLuận án: Nhóm động từ chỉ hoạt động nhận thức trong tiếng việt
Luận án: Nhóm động từ chỉ hoạt động nhận thức trong tiếng việt
 
Từ ngữ xưng hô trong Phật giáo trong hệ thống của người Việt
Từ ngữ xưng hô trong Phật giáo trong hệ thống của người ViệtTừ ngữ xưng hô trong Phật giáo trong hệ thống của người Việt
Từ ngữ xưng hô trong Phật giáo trong hệ thống của người Việt
 
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAYLuận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
 
Hnkh khoa nga-cac-bao_cao_1
Hnkh khoa nga-cac-bao_cao_1Hnkh khoa nga-cac-bao_cao_1
Hnkh khoa nga-cac-bao_cao_1
 
NHÓM TỪ, NGỮ NÓI VỀ "ĂN" TRONG TIẾNG VIỆT - TẢI FREE ZALO: 093 457 3149
NHÓM TỪ, NGỮ NÓI VỀ "ĂN" TRONG TIẾNG VIỆT  - TẢI FREE ZALO: 093 457 3149NHÓM TỪ, NGỮ NÓI VỀ "ĂN" TRONG TIẾNG VIỆT  - TẢI FREE ZALO: 093 457 3149
NHÓM TỪ, NGỮ NÓI VỀ "ĂN" TRONG TIẾNG VIỆT - TẢI FREE ZALO: 093 457 3149
 
Luận án: Đặc điểm cấu tạo và ngữ nghĩa của thuật ngữ mĩ thuật
Luận án: Đặc điểm cấu tạo và ngữ nghĩa của thuật ngữ mĩ thuậtLuận án: Đặc điểm cấu tạo và ngữ nghĩa của thuật ngữ mĩ thuật
Luận án: Đặc điểm cấu tạo và ngữ nghĩa của thuật ngữ mĩ thuật
 
Các từ ngữ chỉ màu sắc phụ của màu đỏ và xanh trong tiếng việt
Các từ ngữ chỉ màu sắc phụ của màu đỏ và xanh trong tiếng việtCác từ ngữ chỉ màu sắc phụ của màu đỏ và xanh trong tiếng việt
Các từ ngữ chỉ màu sắc phụ của màu đỏ và xanh trong tiếng việt
 
Các từ ngữ chỉ màu sắc phụ của màu đỏ và xanh trong tiếng việt
Các từ ngữ chỉ màu sắc phụ của màu đỏ và xanh trong tiếng việtCác từ ngữ chỉ màu sắc phụ của màu đỏ và xanh trong tiếng việt
Các từ ngữ chỉ màu sắc phụ của màu đỏ và xanh trong tiếng việt
 
Luận án: Câu đảo ngữ tiếng Anh và tiếng Việt, HAY
Luận án: Câu đảo ngữ tiếng Anh và tiếng Việt, HAYLuận án: Câu đảo ngữ tiếng Anh và tiếng Việt, HAY
Luận án: Câu đảo ngữ tiếng Anh và tiếng Việt, HAY
 
Phương Pháp Luận Nghiên Cứu (Research Methodology).pdf
Phương Pháp Luận Nghiên Cứu (Research Methodology).pdfPhương Pháp Luận Nghiên Cứu (Research Methodology).pdf
Phương Pháp Luận Nghiên Cứu (Research Methodology).pdf
 
Đề tài sự tương đồng và khác biệt trong cách nói tôn kính, HAY
Đề tài  sự tương đồng và khác biệt trong cách nói tôn kính, HAYĐề tài  sự tương đồng và khác biệt trong cách nói tôn kính, HAY
Đề tài sự tương đồng và khác biệt trong cách nói tôn kính, HAY
 
Luận án: Xin phép và hồi đáp trong tiếng anh và tiếng việt, HAY
Luận án: Xin phép và hồi đáp trong tiếng anh và tiếng việt, HAYLuận án: Xin phép và hồi đáp trong tiếng anh và tiếng việt, HAY
Luận án: Xin phép và hồi đáp trong tiếng anh và tiếng việt, HAY
 
Khảo Sát Và Đề Xuất Biện Pháp Khắc Phục Lỗi Trong Bài Làm Văn Của Học Sinh Tr...
Khảo Sát Và Đề Xuất Biện Pháp Khắc Phục Lỗi Trong Bài Làm Văn Của Học Sinh Tr...Khảo Sát Và Đề Xuất Biện Pháp Khắc Phục Lỗi Trong Bài Làm Văn Của Học Sinh Tr...
Khảo Sát Và Đề Xuất Biện Pháp Khắc Phục Lỗi Trong Bài Làm Văn Của Học Sinh Tr...
 
4 nguyenhuubinh
4 nguyenhuubinh4 nguyenhuubinh
4 nguyenhuubinh
 
Phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục và tâm lý
Phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục và tâm lýPhương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục và tâm lý
Phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục và tâm lý
 
Khoá Luận Dạy Học Đọc Hiểu Văn Bản Nghị Luận Ở Trường Trung Học Phổ Thông
Khoá Luận Dạy Học Đọc Hiểu Văn Bản Nghị Luận Ở Trường Trung Học Phổ ThôngKhoá Luận Dạy Học Đọc Hiểu Văn Bản Nghị Luận Ở Trường Trung Học Phổ Thông
Khoá Luận Dạy Học Đọc Hiểu Văn Bản Nghị Luận Ở Trường Trung Học Phổ Thông
 
8734 2812201116036gtnguphaptiengviet
8734 2812201116036gtnguphaptiengviet8734 2812201116036gtnguphaptiengviet
8734 2812201116036gtnguphaptiengviet
 
Luận văn: Câu phủ định tiếng Nga trong sự đối chiếu với tiếng Việt
Luận văn: Câu phủ định tiếng Nga trong sự đối chiếu với tiếng ViệtLuận văn: Câu phủ định tiếng Nga trong sự đối chiếu với tiếng Việt
Luận văn: Câu phủ định tiếng Nga trong sự đối chiếu với tiếng Việt
 

More from nataliej4

đồ áN xây dựng website bán laptop 1129155
đồ áN xây dựng website bán laptop 1129155đồ áN xây dựng website bán laptop 1129155
đồ áN xây dựng website bán laptop 1129155nataliej4
 
Nghệ thuật chiến tranh nhân dân việt nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ t...
Nghệ thuật chiến tranh nhân dân việt nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ t...Nghệ thuật chiến tranh nhân dân việt nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ t...
Nghệ thuật chiến tranh nhân dân việt nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ t...nataliej4
 
Quản lý dịch vụ ô tô toyota 724279
Quản lý dịch vụ ô tô toyota 724279Quản lý dịch vụ ô tô toyota 724279
Quản lý dịch vụ ô tô toyota 724279nataliej4
 
Từ vựng tiếng anh luyện thi thpt quốc gia
Từ vựng tiếng anh luyện thi thpt quốc giaTừ vựng tiếng anh luyện thi thpt quốc gia
Từ vựng tiếng anh luyện thi thpt quốc gianataliej4
 
Công tác dược lâm sàng tại bv cấp cứu trưng vương
Công tác dược lâm sàng tại bv cấp cứu trưng vươngCông tác dược lâm sàng tại bv cấp cứu trưng vương
Công tác dược lâm sàng tại bv cấp cứu trưng vươngnataliej4
 
Bài giảng nghề giám đốc
Bài giảng nghề giám đốcBài giảng nghề giám đốc
Bài giảng nghề giám đốcnataliej4
 
đề Cương chương trình đào tạo trình độ trung cấp kế toán tin học
đề Cương chương trình đào tạo trình độ trung cấp kế toán   tin họcđề Cương chương trình đào tạo trình độ trung cấp kế toán   tin học
đề Cương chương trình đào tạo trình độ trung cấp kế toán tin họcnataliej4
 
Giáo trình kỹ thuật an toàn và bảo hộ lao động
Giáo trình kỹ thuật an toàn và bảo hộ lao độngGiáo trình kỹ thuật an toàn và bảo hộ lao động
Giáo trình kỹ thuật an toàn và bảo hộ lao độngnataliej4
 
Lựa chọn trong điều kiện không chắc chắn
Lựa chọn trong điều kiện không chắc chắnLựa chọn trong điều kiện không chắc chắn
Lựa chọn trong điều kiện không chắc chắnnataliej4
 
Thực trạng phân bố và khai thác khoáng sét ở đồng bằng sông cửu long 4857877
Thực trạng phân bố và khai thác khoáng sét ở đồng bằng sông cửu long 4857877Thực trạng phân bố và khai thác khoáng sét ở đồng bằng sông cửu long 4857877
Thực trạng phân bố và khai thác khoáng sét ở đồng bằng sông cửu long 4857877nataliej4
 
Sổ tay hướng dẫn khách thuê tòa nhà ree tower
Sổ tay hướng dẫn khách thuê   tòa nhà ree towerSổ tay hướng dẫn khách thuê   tòa nhà ree tower
Sổ tay hướng dẫn khách thuê tòa nhà ree towernataliej4
 
Phân tích tác động của thiên lệch hành vi đến quyết định của nhà đầu tư cá nh...
Phân tích tác động của thiên lệch hành vi đến quyết định của nhà đầu tư cá nh...Phân tích tác động của thiên lệch hành vi đến quyết định của nhà đầu tư cá nh...
Phân tích tác động của thiên lệch hành vi đến quyết định của nhà đầu tư cá nh...nataliej4
 
Bài giảng giáo dục hoà nhập trẻ khuyết tật
Bài giảng giáo dục hoà nhập trẻ khuyết tậtBài giảng giáo dục hoà nhập trẻ khuyết tật
Bài giảng giáo dục hoà nhập trẻ khuyết tậtnataliej4
 
đồ áN thiết kế quần âu nam 6838864
đồ áN thiết kế quần âu nam 6838864đồ áN thiết kế quần âu nam 6838864
đồ áN thiết kế quần âu nam 6838864nataliej4
 
Tài liệu hội thảo chuyên đề công tác tuyển sinh – thực trạng và giải pháp 717...
Tài liệu hội thảo chuyên đề công tác tuyển sinh – thực trạng và giải pháp 717...Tài liệu hội thảo chuyên đề công tác tuyển sinh – thực trạng và giải pháp 717...
Tài liệu hội thảo chuyên đề công tác tuyển sinh – thực trạng và giải pháp 717...nataliej4
 
Bài giảng dịch tễ học bệnh nhiễm trùng
Bài giảng dịch tễ học bệnh nhiễm trùngBài giảng dịch tễ học bệnh nhiễm trùng
Bài giảng dịch tễ học bệnh nhiễm trùngnataliej4
 
Bài giảng môn khởi sự kinh doanh
Bài giảng môn khởi sự kinh doanhBài giảng môn khởi sự kinh doanh
Bài giảng môn khởi sự kinh doanhnataliej4
 
Giới thiệu học máy – mô hình naïve bayes learning intro
Giới thiệu học máy – mô hình naïve bayes   learning introGiới thiệu học máy – mô hình naïve bayes   learning intro
Giới thiệu học máy – mô hình naïve bayes learning intronataliej4
 
Lý thuyết thuế chuẩn tắc
Lý thuyết thuế chuẩn tắcLý thuyết thuế chuẩn tắc
Lý thuyết thuế chuẩn tắcnataliej4
 
Bài giảng thuế thu nhập (cá nhân, doanh nghiệp)
Bài giảng thuế thu nhập (cá nhân, doanh nghiệp)Bài giảng thuế thu nhập (cá nhân, doanh nghiệp)
Bài giảng thuế thu nhập (cá nhân, doanh nghiệp)nataliej4
 

More from nataliej4 (20)

đồ áN xây dựng website bán laptop 1129155
đồ áN xây dựng website bán laptop 1129155đồ áN xây dựng website bán laptop 1129155
đồ áN xây dựng website bán laptop 1129155
 
Nghệ thuật chiến tranh nhân dân việt nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ t...
Nghệ thuật chiến tranh nhân dân việt nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ t...Nghệ thuật chiến tranh nhân dân việt nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ t...
Nghệ thuật chiến tranh nhân dân việt nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ t...
 
Quản lý dịch vụ ô tô toyota 724279
Quản lý dịch vụ ô tô toyota 724279Quản lý dịch vụ ô tô toyota 724279
Quản lý dịch vụ ô tô toyota 724279
 
Từ vựng tiếng anh luyện thi thpt quốc gia
Từ vựng tiếng anh luyện thi thpt quốc giaTừ vựng tiếng anh luyện thi thpt quốc gia
Từ vựng tiếng anh luyện thi thpt quốc gia
 
Công tác dược lâm sàng tại bv cấp cứu trưng vương
Công tác dược lâm sàng tại bv cấp cứu trưng vươngCông tác dược lâm sàng tại bv cấp cứu trưng vương
Công tác dược lâm sàng tại bv cấp cứu trưng vương
 
Bài giảng nghề giám đốc
Bài giảng nghề giám đốcBài giảng nghề giám đốc
Bài giảng nghề giám đốc
 
đề Cương chương trình đào tạo trình độ trung cấp kế toán tin học
đề Cương chương trình đào tạo trình độ trung cấp kế toán   tin họcđề Cương chương trình đào tạo trình độ trung cấp kế toán   tin học
đề Cương chương trình đào tạo trình độ trung cấp kế toán tin học
 
Giáo trình kỹ thuật an toàn và bảo hộ lao động
Giáo trình kỹ thuật an toàn và bảo hộ lao độngGiáo trình kỹ thuật an toàn và bảo hộ lao động
Giáo trình kỹ thuật an toàn và bảo hộ lao động
 
Lựa chọn trong điều kiện không chắc chắn
Lựa chọn trong điều kiện không chắc chắnLựa chọn trong điều kiện không chắc chắn
Lựa chọn trong điều kiện không chắc chắn
 
Thực trạng phân bố và khai thác khoáng sét ở đồng bằng sông cửu long 4857877
Thực trạng phân bố và khai thác khoáng sét ở đồng bằng sông cửu long 4857877Thực trạng phân bố và khai thác khoáng sét ở đồng bằng sông cửu long 4857877
Thực trạng phân bố và khai thác khoáng sét ở đồng bằng sông cửu long 4857877
 
Sổ tay hướng dẫn khách thuê tòa nhà ree tower
Sổ tay hướng dẫn khách thuê   tòa nhà ree towerSổ tay hướng dẫn khách thuê   tòa nhà ree tower
Sổ tay hướng dẫn khách thuê tòa nhà ree tower
 
Phân tích tác động của thiên lệch hành vi đến quyết định của nhà đầu tư cá nh...
Phân tích tác động của thiên lệch hành vi đến quyết định của nhà đầu tư cá nh...Phân tích tác động của thiên lệch hành vi đến quyết định của nhà đầu tư cá nh...
Phân tích tác động của thiên lệch hành vi đến quyết định của nhà đầu tư cá nh...
 
Bài giảng giáo dục hoà nhập trẻ khuyết tật
Bài giảng giáo dục hoà nhập trẻ khuyết tậtBài giảng giáo dục hoà nhập trẻ khuyết tật
Bài giảng giáo dục hoà nhập trẻ khuyết tật
 
đồ áN thiết kế quần âu nam 6838864
đồ áN thiết kế quần âu nam 6838864đồ áN thiết kế quần âu nam 6838864
đồ áN thiết kế quần âu nam 6838864
 
Tài liệu hội thảo chuyên đề công tác tuyển sinh – thực trạng và giải pháp 717...
Tài liệu hội thảo chuyên đề công tác tuyển sinh – thực trạng và giải pháp 717...Tài liệu hội thảo chuyên đề công tác tuyển sinh – thực trạng và giải pháp 717...
Tài liệu hội thảo chuyên đề công tác tuyển sinh – thực trạng và giải pháp 717...
 
Bài giảng dịch tễ học bệnh nhiễm trùng
Bài giảng dịch tễ học bệnh nhiễm trùngBài giảng dịch tễ học bệnh nhiễm trùng
Bài giảng dịch tễ học bệnh nhiễm trùng
 
Bài giảng môn khởi sự kinh doanh
Bài giảng môn khởi sự kinh doanhBài giảng môn khởi sự kinh doanh
Bài giảng môn khởi sự kinh doanh
 
Giới thiệu học máy – mô hình naïve bayes learning intro
Giới thiệu học máy – mô hình naïve bayes   learning introGiới thiệu học máy – mô hình naïve bayes   learning intro
Giới thiệu học máy – mô hình naïve bayes learning intro
 
Lý thuyết thuế chuẩn tắc
Lý thuyết thuế chuẩn tắcLý thuyết thuế chuẩn tắc
Lý thuyết thuế chuẩn tắc
 
Bài giảng thuế thu nhập (cá nhân, doanh nghiệp)
Bài giảng thuế thu nhập (cá nhân, doanh nghiệp)Bài giảng thuế thu nhập (cá nhân, doanh nghiệp)
Bài giảng thuế thu nhập (cá nhân, doanh nghiệp)
 

Recently uploaded

Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfVyTng986513
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...Nguyen Thanh Tu Collection
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoámyvh40253
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfTrnHoa46
 

Recently uploaded (20)

Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
 

Nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng : Luận án TS. Ngôn ngữ học: 62 22 01 01

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN TRẦN THỊ HỒNG HẠNH NGHIÊN CỨU THÀNH NGỮ TIẾNG VIỆT TỪ BÌNH DIỆN NGÔN NGỮ HỌC NHÂN CHỦNG Chuyên ngành : Lý luận ngôn ngữ Mã số : 62 22 01 01 PHỤ LỤC LUẬN ÁN TIẾN SỸ NGÔN NGỮ HỌC Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Nguyễn Văn Khang HÀ NỘI - 2011 `ˆÌi`Ê܈̅ÊÌ…iÊ`i“œÊÛiÀÈœ˜ÊœvÊ ˜vˆÝÊ*ÀœÊ*
  • 3. 1 MỞ ĐẦU 0.1. Lý do chọn đề tài Trong ngôn ngữ của một dân tộc, thành ngữ là một đơn vị đặc trƣng và thành ngữ tiếng Việt cũng không phải là ngoại lệ. Bởi vì, thành ngữ không chỉ là một phần quan trọng trong từ vựng của mỗi một ngôn ngữ, mà còn là một nguồn tƣ liệu quý báu lƣu giữ những tri thức văn hóa của dân tộc sở hữu nó. Nói một cách khác, thành ngữ chính là những đơn vị ngôn ngữ kết tinh nét văn hóa của dân tộc rõ nhất và là công cụ phản ánh đặc điểm văn hóa xã hội điển hình nhất của dân tộc. Chính vì vậy, không chỉ các nhà ngôn ngữ học, mà cả các nhà nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn, những nhà nghiên cứu văn hóa nói chung thƣờng rất quan tâm đối tƣợng này. Với lƣợng tri thức phong phú mà kho tàng thành ngữ lƣu giữ, ngƣời ta có thể tiếp cận nó từ nhiều góc độ khác nhau, bằng những phƣơng pháp khác nhau. Vì thế, khi có một cách tiếp cận mới, ngƣời ta có thể sẽ tìm ra thêm đƣợc những vấn đề mới. Một trong những cách tiếp cận mới chƣa đƣợc tiến hành ở bất cứ công trình nào ở Việt Nam, đó là hƣớng tiếp cận thành ngữ tiếng Việt nhìn từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng. Ngôn ngữ học nhân chủng là một khuynh hƣớng nghiên cứu ngôn ngữ đã đƣợc nhiều học giả trên thế giới quan tâm. Những nƣớc có môi trƣờng ngôn ngữ đa dân tộc nhƣ Mỹ, Trung Quốc hay có truyền thống nghiên cứu ngôn ngữ học xã hội nhƣ Anh, Pháp v,v từ lâu đã quan tâm đến hƣớng nghiên cứu này. Ở nƣớc ta, đây là một hƣớng nghiên cứu còn rất mới mẻ chƣa đƣợc nhiều ngƣời lƣu ý. Vì thế tiếp cận ngôn ngữ học từ bình diện nhân chủng sẽ góp phần làm phong phú những khuynh hƣớng nghiên cứu khác nhau về ngôn ngữ học ở nƣớc ta hiện nay. Từ cách đặt vấn đề nhƣ vậy, chúng tôi lựa chọn đề tài “Nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt từ bình diện ngôn ngữ học nhân
  • 4. 2 chủng” cho luận án của mình với mong muốn khai thác một vấn đề không mới bằng một cách tiếp cận đƣợc cho là mới, góp phần làm phong phú thêm những khuynh hƣớng nghiên cứu ngôn ngữ học ở nƣớc ta hiện nay. 0.2. Mục đích của luận án Thực hiện đề tài nghiên cứu này, chúng tôi hƣớng tới những mục đích sau đây: Thứ nhất, ứng dụng một số tri thức của ngôn ngữ học nhân chủng vào nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt. Do đó, có thể coi đây là một cách tiếp cận mới về thành ngữ, góp phần bổ sung thêm lý thuyết nghiên cứu ngôn ngữ ở Việt Nam. Cách làm này sẽ giúp chúng tôi thu nhận đƣợc một cơ sở lý luận quan trọng để từ đó có thể gợi mở những vấn đề khác trong ngôn ngữ học nhằm tiến hành nghiên cứu thêm trên những nguồn tƣ liệu khác nữa của tiếng Việt. Thứ hai, từ cách tiếp cận của ngôn ngữ học nhân chủng, luận án hy vọng góp phần làm nổi bật những đặc điểm văn hóa xã hội của ngƣời Việt đƣợc phản ánh trong đơn vị ngôn ngữ đặc biệt là thành ngữ. Qua đó luận án góp phần chỉ ra những vấn đề liên quan đến thành ngữ mà những cách tiếp cận trƣớc đây chƣa chú ý hoặc chƣa chỉ ra một cách tƣờng minh, cụ thể. 0.3. Nhiệm vụ của luận án Xuất phát từ mục đích nói trên, luận án đặt ra những nhiệm vụ sau đây: Một là, trình bày những cơ sở lý thuyết liên quan đến đề tài gồm một vài vấn đề liên quan đến ngôn ngữ học nhân chủng, những quan điểm nhận diện và nghiên cứu thành ngữ trong tiếng Việt cũng nhƣ các hƣớng tiếp cận thành ngữ trƣớc đây. Trên cơ sở đó xác định cho mình những nội dung cụ thể trong nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng. Hai là, khảo sát một vài vấn đề liên quan đến đặc điểm văn hóa xã hội trong thành ngữ tiếng Việt. Đƣơng nhiên, khi thực hiện việc khảo sát này luận
  • 5. 3 án sẽ xuất phát từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng để nhằm chắt lọc ra một số nội dung mà những cách tiếp cận trƣớc đây chƣa chú ý đúng mức. Qua đó, luận án sẽ bƣớc đầu nêu ra những đặc điểm đặc trƣng về nội dung này của thành ngữ tiếng Việt. Ba là, qua việc phân tích ẩn dụ có trong thành ngữ tiếng Việt, luận án sẽ làm rõ thêm tính ẩn dụ (metaphoricality) thể hiện qua mối quan hệ giữa ý niệm nguồn (source) và ý niệm đích (target) của thành ngữ tiếng Việt. Qua đó thể hiện cách nhìn nhận thành ngữ từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng của luận án. 0.4. Ý nghĩa của luận án Về mặt lý luận, luận án đƣợc thực hiện trên cơ sở kế thừa và vận dụng một vài nội dung liên quan đến lý thuyết ngôn ngữ học nhân chủng. Vì vậy, luận án sẽ góp phần vào làm đa dạng hóa các cách tiếp cận khác nhau trong việc nghiên cứu một vấn đề của ngôn ngữ học. Ở đây, thành ngữ tiếng Việt sẽ đƣợc nhìn nhận từ một cách tiếp cận mới và do đó, những đặc điểm văn hóa xã hội của thành ngữ sẽ có điều kiện đƣợc tập trung làm rõ thêm hơn. Về mặt thực tiễn, luận án sẽ góp phần hữu ích vào việc hiểu và giải thích thành ngữ tiếng Việt. Việc hiểu rõ về thành ngữ tiếng Việt không chỉ có ích đối với mỗi ngƣời Việt Nam nói chung, mà còn có ích đối với các bạn học sinh, sinh viên, đặc biệt là với những sinh viên nƣớc ngoài học tiếng Việt nói riêng. Từ đó, phần nào giúp cho mọi ngƣời có thể hiểu thêm về các vấn đề văn hóa xã hội của Việt Nam, hiểu rõ thêm đặc trƣng văn hóa của ngƣời Việt đƣợc thể hiện trong ngôn ngữ. 0.5. Phạm vi đối tượng nghiên cứu Nhƣ vậy, đối tƣợng nghiên cứu mà chúng tôi lựa chọn là thành ngữ tiếng Việt. Hiện nay, đã có rất nhiều từ điển thành ngữ tiếng Việt đƣợc xuất bản. Căn cứ vào tính chất của những cuốn từ điển ấy và để thuận tiện cho việc
  • 6. 4 xử lý, tƣ liệu mà chúng tôi dùng trong luận án sẽ đƣợc tổng hợp từ những nguồn sau đây: - Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam của Vũ Dung - Vũ Thúy Anh - Vũ Quang Hào (NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội 1995). - Từ điển thành ngữ Việt Nam do Nguyễn Nhƣ Ý chủ biên (NXB Văn hóa, Hà Nội 1993). - Phần “Sƣu tập và phân loại thành ngữ” tiếng Việt trong cuốn Thành ngữ học tiếng Việt của Hoàng Văn Hành (NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội 2004). Tổng số thành ngữ tiếng Việt đƣợc chúng tôi thu thập để tiến hành khảo sát là 8.780 đơn vị. Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng một số thành ngữ của các ngôn ngữ khác làm dẫn chứng minh họa và so sánh. Những tƣ liệu nƣớc ngoài này đƣợc trích dẫn từ các sách, từ điển hay luận án đã đƣợc nêu ra trong phần tài liệu tham khảo. 0.6. Phương pháp nghiên cứu Luận án đƣợc tiến hành nghiên cứu dựa trên các phƣơng pháp nghiên cứu cơ bản của ngôn ngữ học, trong đó chủ yếu là phương pháp miêu tả, phần nào là phương pháp so sánh đối chiếu. Bên cạnh đó, các thủ pháp nghiên cứu nhƣ thống kê và phân loại tƣ liệu, phân tích v.v cũng sẽ đƣợc áp dụng để phục vụ mục tiêu nghiên cứu. 0.7. Bố cục của luận án Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục các công trình đã công bố của tác giả, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận án gồm có ba chƣơng: - Chƣơng 1: Cơ sở lý thuyết của đề tài. Chƣơng viết này sẽ làm rõ một vài vấn đề liên quan đến lý thuyết ngôn ngữ học nhân chủng và những vấn đề lý thuyết đã có về thành ngữ. Từ đó luận án sẽ xác định hƣớng nghiên cứu cụ
  • 7. 5 thể mà ngôn ngữ học nhân chủng có thể áp dụng để nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt. - Chƣơng 2: Một vài đặc điểm văn hóa xã hội của thành ngữ tiếng Việt nhìn từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng. Chƣơng này sẽ trình bày khái quát một vài nội dung trong thành ngữ tiếng Việt nhìn từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng nhằm làm rõ những vấn đề mà các cách tiếp cận khác còn chƣa có điều kiện chỉ ra. - Chƣơng 3: Tính ẩn dụ trong thành ngữ tiếng Việt nhìn từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng. Chƣơng này lựa chọn vấn đề ẩn dụ nhƣ là một trong những nội dung nghiên cứu của ngôn ngữ học nhân chủng để qua đó góp phần chỉ ra mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa trong thành ngữ. Và đó cũng chính là cách để làm sáng tỏ những đặc điểm của tính ẩn dụ có trong thành ngữ tiếng Việt. Cách giải thích ấy đến lƣợt mình cho chúng ta biết ngôn ngữ và văn hóa tác động qua lại lẫn nhau như thế nào và chính sự hiểu biết đó chỉ ra sự khác biệt giữa ngôn ngữ học nhân chủng với các phân ngành khoa học khác.
  • 8. 6 CHƢƠNG 1 CƠ SỞ LÝ THUYẾT CỦA ĐỀ TÀI 1.1. Dẫn nhập Trong xu thế phát triển hiện nay, ngày càng có nhiều hƣớng nghiên cứu mới với những phạm vi nghiên cứu giáp ranh giữa các ngành khoa học. Ở đó, các đối tƣợng nghiên cứu đƣợc xem xét từ nhiều góc độ có thể nói là toàn diện hơn nhờ những cách tiếp cận liên ngành. Ngôn ngữ học nhân chủng là một ngành khoa học liên ngành ra đời trong xu thế đó. Ở nhiều nƣớc trên thế giới, ngôn ngữ học nhân chủng thu hút đƣợc sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu, đặc biệt là các nhà nghiên cứu ở Bắc Mỹ nhƣ Mỹ, Canada và tiếp đó là các học giả ở Anh, Úc, Pháp, Trung Quốc... Ở Việt Nam hiện nay, hầu nhƣ chƣa có một công trình nghiên cứu nào nhƣ sách chuyên luận hay giáo trình đại học ... về ngôn ngữ học nhân chủng đƣợc công bố. Vì thế, luận án này có thể đƣợc coi nhƣ là một sự cố gắng bƣớc đầu ứng dụng những kết quả lý luận của ngôn ngữ học nhân chủng vào việc nghiên cứu tiếng Việt. Trong tình hình nhƣ vậy, ở chƣơng này, chúng tôi sẽ giới thiệu về ngôn ngữ học nhân chủng nhằm cung cấp một cái nhìn cơ bản nhất về chuyên ngành ngôn ngữ học này phục vụ cho nhiệm vụ của luận án. Việc giới thiệu ở đây là chỉ nhằm nêu ra những vấn đề có thể ứng dụng cách tiếp cận của chuyên ngành ngôn ngữ học này trong nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt. Vì thế, chúng tôi không có hy vọng làm thỏa mãn những hiểu biết đầy đủ về ngôn ngữ học nhân chủng. Việc giới thiệu của chúng tôi một mặt là cơ sở lý luận cho các chƣơng tiếp theo của luận án, mặt khác trong một chừng mực nào đó có thể góp phần vào việc phát triển lý luận về ngôn ngữ học nhân chủng giúp ích cho việc nghiên cứu những đối tƣợng ngôn ngữ khác ở Việt Nam.
  • 9. 7 1.2. Một số vấn đề lý thuyết về ngôn ngữ học nhân chủng. 1.2.1. Việc sử dụng thuật ngữ trong luận án Về mặt thuật ngữ, hiện vẫn chƣa có sự phân biệt rõ ràng giữa việc dịch sang tiếng Việt và sử dụng hai thuật ngữ tiếng Anh anthropological linguistics và linguistic anthropology. Sự giống nhau giữa hai thuật ngữ này là ở chỗ, cả hai đều dùng để gọi tên một lĩnh vực liên ngành đƣợc hình thành từ hai ngành anthropology - “nhân học” hay “nhân chủng học” và linguistics - “ngôn ngữ học”. Trong các tài liệu ở Việt Nam, thuật ngữ anthropological linguistics có thể đƣợc dịch là “ngôn ngữ học nhân học” hoặc “ngôn ngữ học nhân chủng”, hoặc “ngôn ngữ học nhân chủng học” và linguistic anthropology có thể đƣợc dịch là “nhân học ngôn ngữ”, “nhân chủng học ngôn ngữ”, “nhân chủng học ngôn ngữ học”. Trong luận án này, chúng tôi lựa chọn cách dịch anthropological linguistics là “ngôn ngữ học nhân chủng” và linguistic anthropology là “nhân chủng học ngôn ngữ” với hai lý do sau đây: (1) Chúng tôi nghĩ rằng trong một thuật ngữ khoa học không nên có hai chữ học đồng thời có mặt. Vì vậy, cách gọi “nhân học ngôn ngữ học”, “ngôn ngữ học nhân học”, “ngôn ngữ học nhân chủng học” khiến cho thuật ngữ bị lặp một cách chƣa hợp lý. (2) Cách chuyển dịch “ngôn ngữ học nhân chủng” sẽ mang tính hệ thống của thuật ngữ hơn trong mối tƣơng quan với các chuyên ngành ngôn ngữ học khác nhƣ “ngôn ngữ học ứng dụng”, “ngôn ngữ học xã hội”, “ngôn ngữ học tâm lý”, “ngôn ngữ học tri nhận” v.v. Theo đó, yếu tố “ngôn ngữ học” chỉ ra rằng đây là chuyên ngành nghiên cứu về ngôn ngữ và yếu tố “nhân chủng” chỉ ra hƣớng tiếp cận ngôn ngữ từ bình diện nhân chủng. Tƣơng ứng với thuật ngữ tiếng Việt “ngôn ngữ học nhân chủng”, thuật ngữ tiếng Anh linguistic anthropology đƣợc chúng tôi dịch là “nhân chủng học
  • 10. 8 ngôn ngữ” và ở đây đƣợc hiểu nó là chuyên ngành nhân chủng học tiếp cận từ bình diện ngôn ngữ. 1.2.2. Khái quát về ngôn ngữ học nhân chủng Ngôn ngữ học nhân chủng là một lĩnh vực nghiên cứu liên ngành có liên quan đến hai chuyên ngành độc lập là nhân chủng học và ngôn ngữ học. Do đều là khoa học nghiên cứu về con ngƣời, bản thân nhân chủng học và ngôn ngữ học vừa có sự đan xen lẫn nhau, vừa có sự trùng lặp về đối tƣợng hay khách thể nghiên cứu, do đó vừa có tác động qua lại và ảnh hƣởng lẫn nhau. Nói nhƣ vậy là vì, tƣ liệu của ngôn ngữ học là ngôn ngữ với tƣ cách là phƣơng tiện giao tiếp và công cụ của tƣ duy. Đó là thứ phƣơng tiện và công cụ mà chỉ có con ngƣời mới có đặc quyền sở hữu với tƣ cách là một thành viên của một cộng đồng xã hội gắn liền với một nền văn hóa nhất định nào đó. Trong khi đó, đối tƣợng nghiên cứu của nhân chủng học là con ngƣời, bao gồm tất cả các đặc điểm sinh lý, các đặc điểm tâm lý, tình cảm, tƣ duy v.v, tức là các hoạt động đặc trƣng của con ngƣời. Trong các hoạt động đặc trƣng ấy, hoạt động ngôn ngữ đƣợc coi là đặc hoạt động phức tạp nhất và cũng là điển hình nhất của loài động vật cao cấp này. Hơn thế nữa, ngôn ngữ còn đƣợc xem nhƣ một tiêu chí quan trọng để xác định và phân biệt một tộc ngƣời và đặc trƣng văn hóa của tộc ngƣời đó. Cho nên, ngôn ngữ là một phần quan trọng không thể thiếu khi nghiên cứu nhân chủng học. Về mặt lịch sử, trƣớc khi ngôn ngữ học nhân chủng ra đời, ngƣời ta thƣờng quen dùng thuật ngữ nhân chủng học ngôn ngữ. Có thể nói, thuật ngữ nhân chủng học ngôn ngữ gắn liền với nhân chủng học văn hóa - một trong bốn lĩnh vực truyền thống của nhân chủng học, bên cạnh nhân chủng học hình thể, khảo cổ học, dân tộc học. Trong giai đoạn đầu phát triển, nhân chủng học ngôn ngữ đƣợc xem là một phần của nhân chủng học văn hóa. Khi đó, các nhà nghiên cứu điền dã nhân chủng học trong quá trình nghiên cứu các tộc
  • 11. 9 ngƣời đã nhận thấy vai trò của ngôn ngữ là hết sức quan trọng đối với nghiên cứu dân tộc học. Và vì vậy, ngôn ngữ đƣợc các nhà nhân chủng học quan tâm nghiên cứu nhƣ là một ánh phản của văn hóa tộc ngƣời. Cho nên, nhân chủng học coi ngôn ngữ, và vì thế cả ngôn ngữ học, là nền tảng của một khoa học về con ngƣời, bởi vì nó cung cấp một sự hiểu biết về mối liên hệ giữa cấp độ sinh học và văn hóa xã hội. Tuy nhiên, chỉ đến khi “Một số người thấy trong phương pháp luận ngôn ngữ học hiện đại có một mô hình hay mầm mống của một phương pháp luận chung cho việc nghiên cứu cấu trúc hành vi của con người” (D.Hymes – trích từ [63,143]) thì từ đó, ngôn ngữ và các hệ thống lý thuyết ngôn ngữ học không thể đƣợc xem là một bộ phận trong nhân chủng học văn hóa nữa. Bởi vậy, thuật ngữ ngôn ngữ học nhân chủng ra đời. Nó nhằm khẳng định vai trò của ngôn ngữ và các lý thuyết ngôn ngữ học đối với việc nghiên cứu nhân chủng. Các nghiên cứu ngôn ngữ học nhân chủng nhấn mạnh vai trò quan trọng của ngôn ngữ trong việc tạo nên nền tảng văn hóa xã hội của con ngƣời, trong việc đồng thời góp phần tạo nên tính đa dạng và tính chỉnh thể cho các hệ thống văn hóa xã hội đó. Do đó, ngôn ngữ học nhân chủng là hƣớng nghiên cứu ngôn ngữ thông qua các yếu tố thuộc về con ngƣời, mà cụ thể là mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa, giữa ngôn ngữ và tƣ duy, giữa ngôn ngữ và xã hội. Nói một cách khác, ngôn ngữ học nhân chủng có thể đƣợc hiểu nhƣ là một chuyên ngành nghiên cứu các vấn đề ngôn ngữ của loài ngƣời dựa vào các dữ liệu văn hóa xã hội và xử lý những dữ liệu ấy bằng các phƣơng pháp của ngôn ngữ học. Nhƣ chúng ta đều biết, những mối quan hệ vừa kể ở trên cũng là sự quan tâm của rất nhiều phân ngành ngôn ngữ học khác nhƣ ngôn ngữ học tri nhận, ngôn ngữ học tâm lý v.v và ngƣời anh em gần gũi với ngôn ngữ học
  • 12. 10 nhân chủng là ngôn ngữ học xã hội. Chính bởi vậy, ngôn ngữ học nhân chủng dƣờng nhƣ có phạm vi nghiên cứu bao trùm và thậm chí, nó còn có xu hƣớng tích hợp nhiều ngành khoa học xã hội và nhân văn khác. Khi nói về đối tƣợng nghiên cứu truyền thống của ngôn ngữ học nhân chủng, các nhà nghiên cứu Bắc Mỹ thƣờng chỉ chú trọng đến những ngôn ngữ không phải là ngôn ngữ phƣơng Tây. Nói một cách khác, họ đặc biệt quan tâm đến các ngôn ngữ thổ dân châu Mỹ, nhất là các ngôn ngữ không có chữ viết hay còn gọi là các ngôn ngữ tiền văn tự. Điều này là do ngôn ngữ học nhân chủng ra đời bắt nguồn từ những công trình nghiên cứu ngôn ngữ thổ dân châu Mỹ của Boas, Sapir và Whorf. Đây là những ngƣời đƣợc coi là sáng lập ra ngành ngôn ngữ học này. Trong các công trình nghiên cứu của họ, đối tƣợng nghiên cứu chính là các ngôn ngữ còn đƣợc lƣu giữ trong những bộ tộc thổ dân mà ít ngƣời biết đến. Sau này, cùng với xu hƣớng phát triển rộng khắp trên nhiều nƣớc, đối tƣợng nghiên cứu của ngôn ngữ học nhân chủng đƣợc mở rộng. Và vì vậy, nó không còn giới hạn ở các ngôn ngữ thổ dân nữa mà là ngôn ngữ loài ngƣời nói chung. Việc mở rộng đối tƣợng nghiên cứu cũng là bƣớc phát triển về chất của ngôn ngữ học nhân chủng. Về mặt phƣơng pháp, ngôn ngữ học nhân chủng kế thừa và vận dụng các phƣơng pháp của cả ngôn ngữ học và nhân chủng học. Các phƣơng pháp nghiên cứu cơ bản của ngôn ngữ học mà ngôn ngữ học nhân chủng thƣờng sử dụng là phƣơng pháp phân tích miêu tả, phƣơng pháp so sánh - lịch sử, phƣơng pháp so sánh đối chiếu; còn phƣơng pháp nghiên cứu cơ bản của nhân chủng học hay đƣợc sử dụng là phƣơng pháp quan sát tham dự, phƣơng pháp khảo tả dân tộc học. “Vốn đã là một lĩnh vực liên ngành, nó dựa vào và mở rộng các phương pháp đã có trong các ngành khác, đặc biệt là ngôn ngữ học và nhân chủng học, với mục tiêu chung là cung cấp hiểu biết dưới nhiều
  • 13. 11 phương diện phong phú về ngôn ngữ với tư cách là một tập hợp các thói quen văn hóa, đó là, như một hệ thống giao tiếp cho phép các các nhân hay từng cá nhân trình bày về trật tự xã hội và giúp việc giao tiếp trở thành các hành vi xã hội cơ bản” [158,3]. Trong nghiên cứu ngôn ngữ học nhân chủng truyền thống, bên cạnh phƣơng pháp khảo tả dân tộc học, các nhà nghiên cứu rất chú trọng đến phƣơng pháp quan sát tham dự. Bởi vì, đối tƣợng của ngôn ngữ học nhân chủng là ngôn ngữ nhƣng không phải là ngôn ngữ trong sự phân biệt với lời nói mà ngôn ngữ ở đây đƣợc hiểu là bao gồm cả lời nói. Vì vậy phƣơng pháp quan sát các diễn ngôn tự nhiên là rất quan trọng. Điều này liên quan đến lịch sử nghiên cứu ngôn ngữ học nhân chủng. Chuyên ngành này ra đời bắt nguồn từ các nghiên cứu điền dã của các nhà dân tộc học, do đó phƣơng pháp nghiên cứu tham dự là phƣơng pháp cơ bản điển hình và hệ quả là tƣ liệu thu đƣợc cũng là những quan sát rất tự nhiên. Mặc dù các diễn ngôn cần đƣợc ghi lại một cách càng tự nhiên càng tốt, nhƣng không hẳn chỉ là các diễn ngôn bất kỳ không đƣợc chọn lọc. Các nhà nghiên cứu đã “chỉ trích việc sử dụng các từ ngữ khẩu ngữ như là các “dữ liệu thô” của các nhà nhân chủng học văn hóa” [157,67]. Bởi vậy, họ đặc biệt tin tƣởng vào các “văn bản” – có nghĩa là các diễn ngôn đã đƣợc ghi chép lại. Điều này cho phép loại trừ các yếu tố nhiễu không mang lại kết quả nghiên cứu nhƣ mong đợi. Cụ thể hơn nữa, hầu hết các học giả trong lĩnh vực này đều thấy rằng tƣ liệu căn bản của họ có thể đƣợc tìm thấy trong ngôn ngữ đƣợc thu nhận từ quá trình quan sát các ngữ cảnh tự nhiên, trong những cuộc phỏng vấn tƣơng đối tự do và cả trong các thí nghiệm. Mối quan tâm của họ là “các cách nói” đƣợc quan sát nhƣ vậy có thể tiết lộ điều gì về biểu hiện kiến thức văn hóa trong nhiều lĩnh vực của một cộng đồng; sau đó những biểu hiện ấy đƣợc tổ chức nhƣ thế nào, chúng đƣợc triển khai và tái tạo lại ra sao
  • 14. 12 và cái gì là cái có thể giới hạn cho sự đa dạng văn hóa ở một cộng đồng. Tính chất quan sát tự nhiên nhƣng đƣợc “lựa chọn” là nhƣ vậy. 1.2.3. Nội dung nghiên cứu của ngôn ngữ học nhân chủng Trong cuốn “Bách khoa thƣ quốc tế về ngôn ngữ học” [157,65], tác giả Jane.H.Hill cho rằng mối quan tâm chính của các nhà ngôn ngữ học nhân chủng là “nhấn mạnh vào nghiên cứu cuộc thoại tự nhiên, và cùng công nhận tầm quan trọng của sự đa dạng liên văn hóa trong các chức năng của ngôn ngữ. Họ cũng được liên kết lại với nhau qua việc khẳng định rằng ngôn ngữ gắn chặt với văn hóa và xã hội loài người, và ở mức độ cao là tạo thành nên văn hóa và xã hội loài người”. Qua phát biểu trên, có thể nói một cách khái quát rằng, nội dung chính của ngôn ngữ học nhân chủng là nghiên cứu mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa, giữa ngôn ngữ và xã hội. 1.2.3.1. Đôi nét về lịch sử vấn đề Trên thực tế, ngôn ngữ học nhân chủng đã trải qua một quá trình “dao động” trƣớc khi xác định đƣợc cho mình những nội dung nghiên cứu đặc thù ấy. Để xác định đƣợc nội dung nghiên cứu nói trên, ngôn ngữ học nhân chủng đã phải cùng các ngành khác trải qua một tiến trình nhận thức về mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa, giữa ngôn ngữ và xã hội. Chúng tôi tạm thời phân chia tiến trình nhận thức ấy thành các giai đoạn nhƣ sau. (1) Trƣớc hết, mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa đã là đề tài truyền thống đƣợc rất nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Bởi lẽ, bản thân ngôn ngữ, văn hóa và xã hội đều là những sản phẩm cơ bản mang tính đặc trƣng chỉ có ở loài ngƣời. Có thể nhận thấy rằng trong thực tế luôn tồn tại một mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa, giữa ngôn ngữ và xã hội. “Là một thành tố của nền văn hóa tinh thần, ngôn ngữ giữ vị trí đặc biệt trong nó. Bởi vì ngôn ngữ là phương tiện tất yếu và là điều kiện cho sự nảy sinh, phát triển và hoạt động của những thành tố khác trong văn hóa. Ngôn ngữ là một trong những thành
  • 15. 13 tố đặc trưng nhất của bất cứ nền văn hóa nào” [139,21]. Rõ ràng, tƣ cách là những yếu tố trong cùng một hệ thống đã nói rõ mối quan hệ giữa ngôn ngữ, văn hóa và xã hội. (2) Mặc dù ngôn ngữ và văn hóa có mối quan hệ tƣơng cận rõ ràng nhƣ vậy, song việc nhìn nhận và xem xét nó nhƣ một vấn đề nghiên cứu cụ thể thì phải đến đầu thế kỷ XIX mới đƣợc nêu lên. Chính vì vậy, khi bàn về mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa, giữa ngôn ngữ và xã hội, những tƣ tƣởng của Humboldt có thể coi là những đóng góp đầu tiên. Ông cho rằng về phƣơng diện xã hội, mỗi ngôn ngữ phản ánh những cách tƣ duy của dân tộc sử dụng nó, đồng thời nó cũng tác động đến tƣ duy đó. Ngôn ngữ là công cụ tổ chức và hƣớng dẫn thế giới quan của ngƣời nói. Không những chỉ ra sự tồn tại của mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tƣ duy nhƣ thế, Humboldt còn nhấn mạnh rằng “ngôn ngữ và tư duy của một dân tộc không tách rời nhau… Ngôn ngữ và tư duy dựa vào nhau không thể phân tách. Vì thế sự khác nhau giữa các ngôn ngữ sẽ dẫn đến sự khác biệt trong cách lý giải hay giải thích về thế giới khách quan…những người không nói những ngôn ngữ giống nhau sống ở những địa bàn khác nhau sẽ có hệ thống tư duy khác nhau” [112,97-98]. Quan điểm này sau đó đã ảnh hƣởng nhiều đối với giả thuyết về tính tƣơng đối của ngôn ngữ mà Sapir và Whorf chủ trƣơng. Cùng với Humboldt, các nhà tƣ tƣởng thuộc trào lƣu triết học Khai sáng Đức nhƣ Immanuent Kant, Johann Gottfried Heider v.v (cũng có thể coi họ nhƣ là những ngƣời đầu tiên đề cập đến vấn đề ngôn ngữ gắn chặt với tƣ duy) đã có một quan niệm tƣơng tự nhƣ vậy. Trong số đó, Heider cho rằng ngôn ngữ là tài sản riêng biệt của một dân tộc sản sinh ra nó. Ngƣời ta nói rằng với quan niệm đó, ông là ngƣời gieo mầm cho tƣ tƣởng hoàn chỉnh của Humboldt. Nhƣ vậy, tƣ tƣởng đƣợc coi là chủ đạo tuy là do Humboldt phát biểu nhung thực chất là bắt nguồn từ trào lƣu triết học Khai sáng Đức.
  • 16. 14 Liên quan đến mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa, giữa ngôn ngữ và xã hội, nhiều nhà nghiên cứu cũng đã có những thông tin mang tính gợi mở. Trong cuốn “Bách khoa thƣ quốc tế về ngôn ngữ học” [157], tác giả Jane.H.Hill cho rằng việc xác định “ông tổ” của lĩnh vực đa dạng này rất phức tạp. Nó có thể bao gồm cả các nhà nghiên cứu theo chủ nghĩa chức năng của trƣờng phái Praha, theo chủ nghĩa cấu trúc Mỹ “Bloomfield mới”, các nhà nghiên cứu thổ ngữ học và tâm lý học xã hội. Nhƣng thông qua việc xác định này, ngƣời ta sẽ hiểu rõ hơn mối quan hệ nhƣ là nội dung nghiên cứu của ngôn ngữ học nhân chủng. Cũng có thể kể ra một số công trình tiêu biểu của các nhà nghiên cứu Anh nhƣ các công trình của Malinowski về chức năng các ngôn ngữ “nguyên thủy”, nghiên cứu của Bloch về các bài diễn thuyết chính trị trong các xã hội truyền thống, nghiên cứu xuyên văn hóa của Goody về ảnh hƣởng của kỹ năng đọc viết. Ở Pháp, ngƣời ta có thể kể đến công trình của Claude Lévi Strauss về phân tích cấu trúc huyền thoại, các nghiên cứu về ngôn ngữ Dogon ở Tây Phi của Calame –Griaule, nhân chủng học tri nhận của Sperber. Bên cạnh đó, có thể coi lý thuyết xã hội của các học giả Pháp ít nhiều có liên quan đến nội dung này, ví dụ nhƣ đề xuất của Pierre Bourdieu rằng các dạng thức ngôn ngữ có thể tạo thành một dạng “vốn ký hiệu” hay nhƣ quan niệm của Michel Foucault về các giới hạn diễn đạt đƣợc tạo thành thống qua những dạng thức cấu tạo đƣợc gọi là “trật tự diễn ngôn” [157,65]. Ngoài ra, ngƣời đƣợc coi là cha đẻ của ngôn ngữ học hiện đại Ferdinand de Saussure cũng đã có những đóng góp to lớn cho ngôn ngữ học hậu cấu trúc, trong đó có ngôn ngữ học nhân chủng. F. Saussure đã khá cực đoan khi quan niệm ngôn ngữ là một hệ thống siêu hình đóng kín, bao gồm các quan hệ thuần tuý phi vật chất. Thế nhƣng, trong đó, ông vẫn thể hiện ra
  • 17. 15 những tƣ tƣởng gieo mầm cho một hệ thống lý thuyết ngôn ngữ học mới khi ông “thừa nhận: Phong tục của một dân tộc có tác động đến ngôn ngữ, và mặt khác, trong một chừng mực khá quan trọng, chính ngôn ngữ làm nên dân tộc [107,47]. Cuốn sách “Giáo trình ngôn ngữ học đại cƣơng” cũng đã thể hiện những ý kiến của ông về vai trò của ngôn ngữ học ngoại tại và về tầm quan trọng của tài liệu ngôn ngữ đối với nhân loại học và tiền sử học”. 1.2.3.2. Nội dung nghiên cứu của ngôn ngữ học nhân chủng Mặc dù có nhiều học giả quan tâm nhƣ vậy, nhƣng phải nhờ đến những cống hiến của Boas và các học trò của ông là Sapir và Whorf, việc nghiên cứu mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa mới thực sự bắt đầu. Và chính họ đã tạo ra một trƣờng phái trong ngôn ngữ học có tên gọi là “Trƣờng phái tƣơng đối ngôn ngữ học” với “Nguyên lý tƣơng đối ngôn ngữ học” hay còn gọi là “Giả thuyết Sapir-Whorf”. Khi nói về giả thuyết này, cần phải điểm qua ba tên tuổi sau. (1) Franz Boas (1858-1942). Tất cả các tài liệu ngôn ngữ học nhân chủng đều thừa nhận rằng, ông đƣợc xem là ngƣời có công đặt nền móng cho sự ra đời của nhân chủng học nói chung và ngôn ngữ học nhân chủng nói riêng. Khác với các nhà nghiên cứu châu Âu đƣơng thời, Boas tập trung nghiên cứu ngôn ngữ thổ dân châu Mỹ thuộc nhiều ngữ hệ khác nhau. Các kết quả nghiên cứu điền dã ngôn ngữ đã giúp ông nhận ra rằng có một sự khác biệt rất lớn trong văn hóa và các phạm trù của đời sống phản ánh trong văn hóa của họ. Từ đó, ông đã rút ra nhận xét rằng, ngƣời ta không thể thực sự hiểu một nền văn hóa nếu không tiếp cận trực tiếp với ngôn ngữ của nền văn hóa ấy. Và vì thế, thực sự cần thiết phải có những nghiên cứu ngôn ngữ học và đó không chỉ là một yêu cầu mang tính lý thuyết mà còn là một yêu cầu thực tế bởi chính mối liên hệ gần gũi giữa văn hóa và ngôn ngữ.
  • 18. 16 (2) Edward Sapir (1884-1939). Những đóng góp của Sapir không chỉ là về các ngôn ngữ của thổ dân da đỏ châu Mỹ mà là đối với cả nghiên cứu ngôn ngữ nói chung. Darnell cho rằng Sapir có thể đƣợc coi nhƣ là học giả nổi tiếng nhất của ngôn ngữ học nhân chủng [158]. Theo đó, Sapir là ngƣời kế thừa và mở rộng nghiên cứu của Boas. Chính ông dành nhiều sự chú ý đối với cấu trúc ngôn ngữ và nhấn mạnh cách mỗi ngôn ngữ tự mình trở thành một hệ thống hoàn chỉnh và hoàn hảo mà nếu muốn hiểu đƣợc nó phải sử dụng chính những “thuật ngữ” của nó. Nói một cách khác, cái mà ông đi tìm chính là lôgic nội tại của ngôn ngữ. (3) Benjamin Lee Whorf (1897-1941). Đóng góp nổi tiếng nhất của ông đối với lý thuyết ngôn ngữ học là chỉ ra mối quan hệ giữa ngôn ngữ - văn hóa - tƣ duy và quan điểm nhìn nhận thế giới (worldview). “Đối với Sapir, mối quan hệ giữa tư duy, văn hóa và ngôn ngữ chỉ là một trong những quan tâm của ông. Nhưng đối với Whorf thì đó là tất cả sự nghiệp ngôn ngữ học của ông. Ông không những làm nổi rõ những tư tưởng của Sapir về cả mặt nội dung cũng như về cả phương diện các ngữ liệu cụ thể minh họa, mà hơn nữa ông còn phát triển chúng thành một hệ quan điểm học thuật độc đáo, và điều chủ yếu nhất là những kết luận hết sức lôgic được rút ra từ đó” [115,25]. Luận điểm xuất phát của Whorf đã nêu ra vấn đề mối quan hệ tƣơng đối giữa ngôn ngữ - tƣ duy - văn hóa, và chính mối quan hệ này cũng là mối quan tâm của ngôn ngữ học nhân chủng sau này. Bởi vậy, ngƣời ta mới nói rằng, giả thuyết Sapir - Whorf chính là nền tảng căn bản để xây dựng lý thuyết ngôn ngữ học nhân chủng. Nội dung chính của giả thuyết Sapir - Whorf đƣợc phản ánh qua trích dẫn quan trọng sau đây: “Con người không chỉ sống trong mỗi một thế giới khách quan của các sự vật, cũng không chỉ sống trong thế giới của các hoạt động xã hội như vẫn thường nghĩ, mà còn phụ thuộc rất nhiều vào một ngôn
  • 19. 17 ngữ cụ thể vốn là phương tiện giao tiếp trong xã hội của họ. Sẽ chỉ là ảo tưởng nếu cho rằng con người có thể thích nghi với thực tại về cơ bản không cần sử dụng ngôn ngữ và rằng ngôn ngữ chỉ đơn thuần là một phương tiện thứ yếu trong việc giải quyết các vấn đề cụ thể của giao tiếp hay tư duy. Sự thật của vấn đề ở đây là cái thế giới “thực” ấy phần lớn được hình thành một cách vô thức trên nền những thói quen ngôn ngữ của cộng đồng. Chúng ta nghe, thấy, hay nói cách khác là trải nghiệm như thế chủ yếu là do những thói quen ngôn ngữ của cộng đồng đã làm cho chúng ta có những cách lựa chọn như thế” [Edward Sapir – trích từ [63,11]. Tƣ tƣởng trên của Sapir đƣợc B.Whorf phát triển thêm trong bài viết “Mối quan hệ giữa tư duy và hành vi thông lệ trong ngôn ngữ (The Relation of Habitual Thought and Behavior to Language)”. Bài viết của ông bao gồm hàng loạt các ví dụ để trả lời cho các câu hỏi chẳng hạn nhƣ tên gọi tình huống ảnh hƣởng đến hành vi nhƣ thế nào, hay các mô hình ngữ pháp trong vai trò lý giải kinh nghiệm ra sao, và đặc biệt trong bài viết có rất nhiều ví dụ từ các ngôn ngữ Sae và Hopi nhƣ: số nhiều và phạm trù số đếm, danh từ chỉ số lƣợng vật thể, các giai đoạn của chu kỳ, hình thức diễn đạt của động từ v.v. Tƣ tƣởng của Whorf phản ánh đầy đủ và có thể nói là đậm đặc thông qua các ví dụ. Song, do cách viết của ông không hề đơn giản và dễ hiểu, nên rất khó tìm đƣợc một trích dẫn tiêu biểu. Nhƣng dù vậy, bất kỳ ai đọc bài báo của ông cũng đều nhận thấy rằng, điều mà Whorf muốn nói là ngôn ngữ có ảnh hƣởng đến cách suy nghĩ của ngƣời sử dụng nó. Mỗi một ngƣời nói một thứ ngôn ngữ khác nhau sẽ có những thói quen suy nghĩ khác nhau, hay ngôn ngữ sẽ quyết định cách tƣ duy của ngƣời nói thứ ngôn ngữ đó. Vậy là “Ngôn ngữ được phú cho một quyền năng thực bao trùm tuyệt đối: nó xác lập các tập quán (chuẩn mực) của tư duy và của hành vi, nó chi phối sự hình thành các phạm trù lô gíc, nó kèm cặp và dẫn dắt con người trong mọi hoạt động xã
  • 20. 18 hội và cá nhân…Các quá trình tư duy khái niệm luôn luôn diễn ra trong hình thức ngôn ngữ, vậy mà các cấu trúc ngôn ngữ thì khác nhau, cho nên điều này tất nhiên sẽ dẫn đến chỗ là tạo ra ở những người nói các ngôn ngữ khác nhau những chuẩn mực tư duy khác nhau” [115,26]. Chính bởi khẳng định vai trò tuyệt đối của ngôn ngữ trong việc quyết định sự hình thành tƣ duy của mỗi một cộng đồng mà giả thuyết Sapir - Whorf còn đƣợc gọi là “Giả thuyết về tính tƣơng đối của ngôn ngữ” hay “Ngôn ngữ quyết định luận”. Cách nhìn nhận nhƣ vậy đã mang lại một bƣớc tiến mới đối với nghiên cứu mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa, giữa ngôn ngữ và xã hội. Trƣớc đấy, ngƣời ta chỉ nhận thấy giữa ngôn ngữ, văn hóa và tƣ duy có quan hệ với nhau. Giả thuyết Sapir Whorf đã tiến thêm một bƣớc là chỉ ra sự tác động qua lại lẫn nhau trong mối quan hệ ấy. Bƣớc sang nửa cuối của thế kỷ XX, mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa, giữa ngôn ngữ và xã hội mới dành đƣợc sự quan tâm đặc biệt. Ngƣời ta gọi đó là cuộc “Cách mạng ngôn ngữ học nửa sau thế kỷ XX” [25]. Sở dĩ đƣợc gọi là cuộc cách mạng là vì có sự đổi mới trong nghiên cứu ngôn ngữ, mà cụ thể là là do việc đổi mới trong quan niệm về ngôn ngữ. Thời kỳ này, sự đa dạng của ngôn ngữ vốn bị các nhà ngôn ngữ học cấu trúc thuần túy nhƣ Saussure gạt ra khỏi đối tƣợng nghiên cứu của mình thì nay lại trở thành mối quan tâm chính của ngôn ngữ học. Trong cuộc Cách mạng cuối thế kỷ XX đó, có các công trình nổi tiếng. Ví dụ nhƣ công trình của Micheal Silverstein lý giải cách thức ngôn ngữ liên hệ với văn hóa. Hay nhƣ nghiên cứu của Erving Goffman về việc sử dụng ngôn từ để diễn tả thể diện (face). Hoặc nhƣ nghiên cứu của Gumperz về ứng xử ngôn từ trong các cộng đồng giao tiếp v.v. Vào thời điểm này, giả thuyết Sapir - Whorf không phải đƣợc tất cả các nhà ngôn ngữ học công nhận và tán đồng. Nhiều công trình đã đƣợc tiến hành
  • 21. 19 nhằm kiểm chứng lại giả thuyết của hai ông và cho đến nay, dƣờng nhƣ cuộc tranh luận vẫn chƣa ngã ngũ. Công trình mang tính thực nghiệm của John Lucy trên cứ liệu tiếng Anh và tiếng Yucatec Maya ở Mexico nhằm làm sáng tỏ quan điểm thƣờng bị hiểu nhầm của Whorf. Theo Lucy, “Whorf không cho là ngôn ngữ quyết định nhận thức và văn hóa, Whorf chỉ cho là: cách nghĩ và cách nhìn nhận thế giới theo thói quen của người nói một thứ ngôn ngữ nhất định nào đó dẫn họ đến cách phân loại các sự việc, hiện tượng trên thế giới theo những kiểu nhất định. Do đó, người nghiên cứu cần học các cách nhận thức cơ bản về thế giới khách quan của một dân tộc nếu muốn hiểu đúng về dân tộc đó” [25,198]. Ngoài ra, còn có thể kể ra các công trình đã đƣợc tiến hành nhằm kiểm chứng giả thiết này nhƣ: Nghiên cứu mối tƣơng quan giữa từ chỉ màu sắc và khả năng ghi nhớ và phân loại màu của ngƣời nói trên cứ liệu tiếng Anh và tiếng Zuni của Lenneberg và Robert; nghiên cứu về mối quan hệ giữa sự tri nhận màu sắc của con ngƣời và ngôn ngữ của Berlin và Kay trên cứ liệu 20 ngôn ngữ khác nhau, của Kay và Kempton trên cứ liệu tiến Anh và tiếng Tarahumara; nghiên cứu về mối tƣơng quan giữa cấu trúc câu giả định và sự tri nhận tính chân ngụy của câu giả định trên cứ liệu tiếng Anh và tiếng Hán của Bloom; … [131,41-43]. Đặc biệt, sự tham gia của các nhà ngôn ngữ học tri nhận nhƣ Lakoff hay ngôn ngữ học tạo sinh nhƣ Chomsky trong việc kiểm chứng giả thuyết Sapir – Whorf càng chứng tỏ ảnh hƣởng cúa giả thuyết này đối với ngôn ngữ học đƣơng đại. Nhắc đến cuộc cách mạng ngôn ngữ học đó, hầu hết các tài liệu đều nói đến bƣớc tiến lý thuyết quan trọng là Khảo tả dân tộc học lời nói (The ethnography of speaking) do Dell H. Hymes đề xuất, và sau đó là John Gumperz và các học trò của ông tiếp nối. Các nhà nghiên cứu theo hƣớng này chú trọng việc quan sát tham dự các diễn ngôn diễn ra tự nhiên trong ngữ
  • 22. 20 cảnh văn hóa để từ đó đánh giá năng lực giao tiếp, kỹ năng sử dụng ngôn ngữ. Theo họ, các kỹ năng ấy không đơn thuần là các tri thức ngữ pháp trừu tƣợng của ngƣời nói, mà nó phản ánh trật tự xã hội của cộng đồng sở hữu ngôn ngữ đó. Trong bài viết Khảo tả dân tộc học 1968, Dell H. Hymes mở đầu bằng việc nhấn mạnh vai trò của lời nói trong hành vi của con ngƣời. Theo ông, vai trò quan trọng của lời nói trong quá trình tri nhận và biểu cảm phụ thuộc vào cá nhân và nhóm xã hội gắn liền với những cảnh huống cụ thể bản địa, hay ông gọi nó là bối cảnh dân tộc học của lời nói. Về mặt phƣơng pháp, phƣơng pháp khảo tả dân tộc học lời nói là một mô hình phân tích miêu tả lời nói bao gồm việc xem xét sự kiện lời nói, các nhân tố cấu thành của sự kiện lời nói và các chức năng của lời nói và sau đó cả ba đƣợc đặt trong khung phân tích khảo tả dân tộc học lời nói nhằm gắn các tri thức trừu tƣợng của ngôn ngữ vào các tri thức về văn hóa. Có thể nói, “nếu các bậc tiền bối coi ngôn ngữ và văn hóa của một cộng đồng xã hội là những thực thể tương đối thuần nhất được các thành viên trong cộng đồng chia sẻ thì các nhà nhân học ngôn ngữ1 thế hệ “cách mạng ngôn ngữ học” lại quan tâm nhiều hơn đến sự đa dạng của các thành tố của sự kiện ngôn từ trong các bối cảnh giao tiếp cụ thể, tức là ứng xử ngôn từ của những con người mang các đặc tính văn hóa xã hội nhất định trong các hoàn cảnh nói năng cụ thể” [25,200]. Từ đó mối quan hệ giữa những ngƣời giao tiếp với nhau cũng nhƣ mối quan hệ giữa họ với các thành tố khác của hoạt động giao tiếp ngôn ngữ trở thành mối quan tâm của các nhà ngôn ngữ học nhân chủng. Chính vì lẽ đó, khi xác định đối tƣợng nghiên cứu của ngôn ngữ học nhân chủng, ngƣời ta nói rằng, không chỉ ngôn ngữ mà ngƣời nói cũng là đối tƣợng cần đƣợc nghiên cứu. Hymes đã đóng 1 Tức “Ngôn ngữ học nhân chủng” theo cách dịch của chúng tôi
  • 23. 21 góp nhiều khái niệm quan trọng nhƣ cộng đồng nói năng, sự kiện lời nói, hành động ngôn từ v.v cho ngôn ngữ học nhân chủng. Nhƣ vậy, từ nhận thức giản đơn về mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa, giữa ngôn ngữ và xã hội bắt nguồn từ những tƣ tƣởng mang tính hàn lâm của các nhà triết học Đức thế kỷ XIX, tiếp đến những tƣ tƣởng mang tính gợi mở của Boaz rồi đến Sapir và Whorf, trải qua gần một thế kỷ, đến nay giới nghiên cứu đã có những bƣớc đi đáng kể trong nghiên cứu mối quan hệ phức tạp này. Ở đây cần phải nhấn mạnh rằng, nội dung nghiên cứu của ngôn ngữ học nhân chủng, nhƣ vậy, không phải chỉ đề cập đơn thuần đến mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa và/hoặc giữa ngôn ngữ và xã hội mà nó còn là việc xem xét cách gắn kết hay tương tác giữa ba thành tố ngôn ngữ, văn hóa và xã hội trong mối liên hệ ấy. Như vậy, có thể nói việc chỉ ra mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa và/hoặc giữa ngôn ngữ và xã hội cũng như việc đồng thời chỉ ra cách thức gắn kết hay tương tác giữa ba thành tố đó chính là nhiệm vụ hay nội dung nghiên cứu của ngôn ngữ học nhân chủng hiện nay. 1.2.4. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ học nhân chủng và một số chuyên ngành ngôn ngữ học khác Ngôn ngữ học nhân chủng có mối quan hệ chặt chẽ với nhiều chuyên ngành ngôn ngữ học khác. Nói một cách chính xác hơn là nó kế thừa rất nhiều những khái niệm, thuật ngữ, kết quả nghiên cứu, thậm chí cả một số nội dung nghiên cứu của các chuyên ngành khác theo cách riêng của mình. Đồng thời, do là một phân ngành ngôn ngữ học, nó cũng sử dụng những phƣơng pháp nghiên cứu chung của ngôn ngữ học nhƣ những phân ngành khác. Chẳng hạn, các nhà nghiên cứu ngôn ngữ học nhân chủng quan tâm đến các diễn ngôn diễn ra trong bối cảnh tự nhiên, nên phân tích diễn ngôn và các vấn đề liên quan đến phân tích diễn ngôn cũng nằm trong mối quan tâm của
  • 24. 22 họ. Ngoài ra họ còn quan tâm đến các vấn đề liên quan đến giao tiếp, hội thoại nhƣ phân tích hội thoại, chiến lƣợc giao tiếp, chiến lƣợc diễn ngôn. Hay nhƣ những vấn đề ngữ dụng nhƣ lý thuyết hành động ngôn từ, hàm ngôn hàm ý.v.v. và những vấn đề liên quan đến loại hình học nhƣ phổ niệm cũng đƣợc các nhà nghiên này chú ý đến. Là một phân ngành mới nằm trong sự giao thoa giữa những phân ngành đã xuất hiện trƣớc, ngôn ngữ học nhân chủng vì thế không tránh khỏi có những cái chung với những phân ngành gần gũi với nó. Tuy nhiên, nhìn một cách tổng thể, ngƣời ta vẫn nhận ra sự khác biệt giữa nó với hai chuyên ngành có mối quan hệ trực tiếp hơn cả là ngôn ngữ học xã hội và ngôn ngữ học tri nhận. Dƣới đây, chúng tôi xin trình bày tóm tắt những nét giúp chúng ta nhận ra sự khác biệt ấy. 1.2.4.1. Ngôn ngữ học nhân chủng và ngôn ngữ học xã hội Ngôn ngữ học nhân chủng, nhƣ đã nói ở trên, quan tâm đến mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa và/hoặc giữa ngôn ngữ và xã hội cũng nhƣ đồng thời quan tâm đến việc chỉ ra cách thức gắn kết hay tƣơng tác giữa ba thành tố đó. Do vậy, nó có đối tƣợng nghiên cứu là ngôn ngữ dƣới và trong tác động của các nhân tố mang tính con ngƣời là văn hóa và xã hội. Trong khi đó, ngôn ngữ học xã hội mặc dù cũng xem xét các hiện tƣợng ngôn ngữ dƣới tác động của các nhân tố xã hội, nhƣng là xem xét và xử lý các vấn đề ngôn ngữ đƣợc sử dụng ở từng bối cảnh cụ thể. Cho nên, giữa chúng vẫn có những điểm, những sự khác biệt tƣơng đối để khu biệt thành hai chuyên ngành độc lập. Về thời điểm, mặc dầu vào đầu thế kỷ XX Boas và các đồng nghiệp - những ngƣời đặt nền móng cho nhân chủng học - đã chính thức xuất hiện nhƣng phải đến những năm 1980, cùng với sự hình thành độc lập hệ thuật ngữ riêng cho ngôn ngữ học nhân chủng thì chuyên ngành này mới có một chỗ đứng riêng cho mình ở Bắc Mỹ. Trong khi đó, vào cuối những năm 50, 60 của
  • 25. 23 thế kỷ XX, hệ thuật ngữ của ngôn ngữ học xã hội đã xuất hiện một cách chính thức [67,9]. Mặt khác, ngƣời ta cũng đã từng cố gắng kết hợp ngôn ngữ học nhân chủng và ngôn ngữ học xã hội lại với nhau. Mà ở đây phải kể đến những nỗ lực của Gumperz và Hymes (1964) trong việc xác định một lĩnh vực liên ngành xung quanh vấn đề sử dụng ngôn ngữ nhƣ là đối tƣợng nghiên cứu [158,13]. Nhƣng những cố gắng ấy vẫn chƣa thành. Trong khi đó thực tế các nhà ngôn ngữ học xã hội thì đã, đang và sẽ tiếp tục nghiên cứu với các vấn đề mang tính đặc trƣng nhƣ: sự lựa chọn ngôn ngữ của cộng đồng, sự thay đổi ngôn ngữ dƣới tác động của các nhân tố xã hội, các ngôn ngữ lai tạp pidgin và creole, hay là kế hoạch hóa ngôn ngữ, chính sách ngôn ngữ, lập pháp ngôn ngữ v.v. Còn những vấn đề nhƣ ngôn ngữ và giới, hành động nói năng, diễn ngôn tự nhiên v.v thì đã, đang và sẽ là đối tƣợng của ngôn ngữ học nhân chủng. Nhƣ thế, xét ở mặt lĩnh vực ngôn ngữ là đối tƣợng nghiên cứu của mỗi phân ngành, chúng có những khác nhau nhất định. Tuy vậy, vẫn có những vấn đề và phạm vi nghiên cứu giữa chúng giống nhau khiến cho ngôn ngữ học nhân chủng đôi khi có thể bị hiểu nhầm là trùng với đối tƣợng nghiên cứu của ngôn ngữ học xã hội. Nhƣng thực tế là tuy cùng đối tƣợng nhƣng mục tiêu của hai phân ngành này có sự phân biệt nhất định. Theo đó, ngôn ngữ học nhân chủng xem xét ngôn ngữ thông qua các đặc điểm văn hóa - xã hôi của cộng đồng, giải thích ngôn ngữ để từ đó làm sáng tỏ những đặc điểm văn hóa - xã hội đằng sau việc sử dụng ngôn ngữ, đằng sau những dạng thức của từ ngữ hay phong cách khác nhau. Đó chính là một phân ngành lột bỏ lớp vỏ bên ngoài của một ngôn ngữ để tìm ra những hiểu biết về văn hóa - xã hội ở cộng đồng sử dụng ngôn ngữ đó.
  • 26. 24 Ngôn ngữ học xã hội, ngƣợc lại, xem xét ngôn ngữ với tƣ cách là một thể chế xã hội, một trong những thể chế mà trong đó các cá nhân và các nhóm ngƣời thực hiện sự tƣơng tác xã hội. Ngôn ngữ học xã hội tìm cách lý giải các mô hình hành vi ngôn ngữ tƣơng ứng với việc tạo thành các nhóm xã hội và tạo tƣơng quan giữa những sự khác biệt về hành vi ngôn ngữ với những biến thể xác định của các nhóm xã hội. Đó chẳng hạn nhƣ là vấn đề tuổi tác, giới tính, giai cấp, chủng tộc, trình độ học vấn v.v. Có thể dẫn ra một ví dụ của Foley để làm rõ hơn về sự phân biệt này. Trong tiếng Anh running có thể có hai cách phát âm [r ning] hoặc là [r nin] mà theo cách nói thông thƣờng thì -g đã bị bỏ đi. Tiếp cận những biến thể này từ góc độ ngôn ngữ học xã hội ngƣời ta sẽ hƣớng đến mối liên hệ giữa mỗi cách phát âm và các nhóm xã hội nhất định. Ví dụ đàn ông thì thƣờng dùng biến thể [in] trong khi đó phụ nữ thì dùng biến thể [ing] nhiều hơn. Hoặc có sự so sánh tƣơng tự giữa những nhóm ngƣời có địa vị cao và địa vị thấp trong xã hội hay giữa những nhóm có học thức và nhóm có học vấn thấp trong xã hội. Nói một cách khác, mục tiêu của phân ngành này là chỉ ra sự tương ứng giữa hiện tượng ngôn ngữ với một vấn đề xã hội cụ thể nào đó. Đây có lẽ chính là cách tiếp cận điển hình của ngôn ngữ học xã hội. Đối với ngôn ngữ học nhân chủng, trong khi chú ý đến tất cả những so sánh kể trên, các nhà nghiên cứu sẽ đặt ra một câu hỏi mang tính khác biệt hay căn bản hơn: Liệu những ngƣời nói có ngụ ý gì khi họ sử dụng biến thể [in] đối lập với [ing]?. Câu trả lời có thể là: đàn ông và tầng lớp lao động sử dụng biến thể [in] nhiều hơn nhƣ là một cách để khẳng định bản sắc nam giới mạnh mẽ của mình chẳng hạn [160,4]. Sự khác biệt ở đây là một bên - ngôn ngữ học xã hội - có thể đã thỏa khi chỉ ra mối liên hệ, còn bên kia - ngôn ngữ học nhân chủng - chỉ thực sự thỏa mãn khi chỉ ra đƣợc “nguyên do” của mối liên hệ ấy. Rõ ràng, đối tƣợng là nhƣ nhau nhƣng mục tiêu là khác nhau.
  • 27. 25 Nhƣ vậy, có thể thấy rằng, ngôn ngữ học nhân chủng và ngôn ngữ học xã hội là hai cách tiếp cận đối tƣợng ngôn ngữ nhằm vào hai mục đích khác nhau. Ngôn ngữ học nhân chủng hƣớng đến việc phản ánh thế giới khách quan bao gồm các đặc trƣng văn hóa xã hội đã tác động đến ngôn ngữ, trong khi ngôn ngữ học xã hội chú trọng các tƣơng tác xã hội đã tác động để tạo ra những biến thể ngôn ngữ và việc lựa chọn, sử dụng ngôn ngữ. Tóm lại, giữa ngôn ngữ học nhân chủng và ngôn ngữ học xã hội tuy có một vài phạm vi nghiên cứu là chung nhau nhƣng với việc khác biệt về thời điểm ra đời, đặc biệt là sự khác biệt về mục tiêu giải thích hay cách tiếp cận vấn đề, chúng rõ ràng phải đƣợc coi là những phân ngành độc lập của ngôn ngữ học. 1.2.4.2. Ngôn ngữ học nhân chủng và ngôn ngữ học tri nhận Ngôn ngữ học tri nhận ra đời vào những năm 50 của thế kỷ XX ở Mỹ. Theo nhƣ Trần Văn Cơ “Lý thuyết này nghiên cứu cơ chế hiểu lời nói và quá trình của lời nói: con người nắm bắt được ngôn ngữ như thế nào, quá trình điều chỉnh sự tri nhận lời nói như thế nào, một nội dung khái niệm, một hiện tượng được từ ngữ hóa, ngữ pháp hóa ra sao” [14,24]. Nói khác đi, ngôn ngữ học tri nhận tập trung vào nghiên cứu mối quan hệ giữa tƣ duy và ngôn ngữ của một cộng đồng. Trong khi đối tƣợng nghiên cứu của ngôn ngữ học nhân chủng cũng là ngôn ngữ của con ngƣời, nhƣng là ngôn ngữ xét trong bối cảnh văn hóa - xã hội của một cộng đồng dân tộc thì đối tƣợng nghiên cứu của ngôn ngữ học tri nhận là ngôn ngữ tự nhiên của con ngƣời trong mối quan hệ với tƣ duy con ngƣời, tức là nó thực hiện chức năng làm công cụ của tƣ duy của con ngƣời nhƣ thế nào. Nhƣ vậy, đối tƣợng nghiên cứu của cả hai đều là ngôn ngữ, và đƣơng nhiên ngôn ngữ gắn liền với nhận thức của con ngƣời.
  • 28. 26 Điểm khác biệt là ở chỗ, trong khi ngôn ngữ học nhân chủng nhấn mạnh đến việc xem xét tác động của bối cảnh văn hóa xã hội của quá trình nhận thức thì ngôn ngữ học tri nhận nhấn mạnh bản thân quá trình nhận thức và chức năng là công cụ của quá trình nhận thức. Nói một cách đơn giản hơn, ngôn ngữ học tri nhận coi đối tƣợng nghiên cứu của mình (tức ngôn ngữ) là một hiện tƣợng tri nhận (hay nhận thức) của con ngƣời, còn ngôn ngữ học nhân chủng coi đối tƣợng nghiên cứu của mình (ngôn ngữ) là một hiện tƣợng văn hóa xã hội của con ngƣời. Trong những vấn đề nêu trên, ngôn ngữ học nhân chủng cũng quan tâm đến một số nội dung của ngôn ngữ học tri nhận, chẳng hạn nhƣ, quá trình tạo sinh và hiểu ngôn ngữ, quá trình phạm trù hóa thế giới của mỗi một dân tộc, hay nhƣ nghiên cứu ẩn dụ trong ngôn ngữ. Nhƣng sự khác biệt là ngôn ngữ học nhân chủng phải tiến tới chỉ ra quá trình ấy chịu sự tác động của đặc điểm văn hóa xã hội nhƣ thế nào để quá trình phạm trù hóa thế giới của mỗi dân tộc không giống nhau, và mỗi một dân tộc có một bức tranh về thế giới không giống nhau. Rõ ràng, đối với ngôn ngữ học nhân chủng, điều quan trọng là ngôn ngữ đƣợc coi nhƣ là một yếu tố của văn hóa và đặc điểm văn hóa xã hội của một công đồng tƣơng tác với ngôn ngữ nhƣ thế nào. Không chỉ có một số nội dung nghiên cứu trùng nhau nhƣng mục tiêu khác nhau, ngôn ngữ học nhân chủng còn không những không phủ nhận hay đƣa ra kết quả nghiên cứu trái ngƣợc, mà ngƣợc lại, nó thậm chí đã và đang kế thừa rất nhiều thành tựu nghiên cứu từ ngôn ngữ học tri nhận. Những thuật ngữ cơ bản nhƣ ý niệm, ý niệm hóa, phạm trù hóa, các mô hình tri nhận v.v. đã nói lên điều đó. Tóm lại, ngôn ngữ học tri nhận và ngôn ngữ học nhân chủng hai chuyên ngành độc lập. Điều đó thể hiện rõ nhất ở sự khác biệt về tính chất của đối tƣợng nghiên cứu và mục tiêu nghiên cứu. Tuy nhiên, do là hai phân
  • 29. 27 ngành gần nhau nhất nên cái này sẽ hỗ trợ cho cái kia để tìm đƣợc tiếng nói chung cuối cùng là đi đến tận cùng sự hiểu biết về bản chất của ngôn ngữ loài ngƣời. 1.3. Những vấn đề liên quan đến thành ngữ nhìn từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng 1.3.1. Quan điểm thành ngữ trên thế giới Thành ngữ là một đơn vị ngôn ngữ đặc biệt trong mọi ngôn ngữ trên thế giới. Tính đặc biệt của thành ngữ không chỉ nằm ở những đặc điểm cấu trúc hình thái và ngữ nghĩa mà còn nằm ở khả năng biểu đạt tinh tế những đặc trƣng văn hóa tƣ duy của dân tộc sở hữu nó. Nếu ngôn ngữ là công cụ của tƣ duy, phản ánh tƣ duy thì trong các đơn vị ngôn ngữ, thành ngữ là nơi dấu ấn của tƣ duy của mỗi dân tộc đƣợc đọng lại rõ nét nhất. 1.3.1.1. Quan điểm theo hướng cấu trúc - ngữ nghĩa Trong tiếng Anh, thuật ngữ idiom thƣờng dịch là thành ngữ. Theo quan điểm cấu trúc - ngữ nghĩa, thuật ngữ này thƣờng đƣợc hiểu là một cụm từ mang nghĩa bóng bẩy mà nghĩa của nó thƣờng đƣợc hiểu tách rời với nghĩa của các thành tố tạo nên thành ngữ đó. Thành ngữ đƣợc coi là bộ phận thuộc về từ vựng của một ngôn ngữ. Thành ngữ cũng có đặc điểm cấu trúc hình thái và ngữ nghĩa giống nhƣ các đơn vị từ vựng khác. Tác giả Z. Kövecses đã mô hình hóa khái niệm thành ngữ tiếng Anh theo quan điểm này thông qua ví dụ là thành ngữ “Kick the bucket” với nghĩa là “Chết”. Theo đó, thành ngữ là một đơn vị bao gồm: (1) Các đơn vị từ vựng và cấu trúc của chúng; (2) Nghĩa đen của các đơn vị tạo nên nó; (3) Nghĩa đặc biệt của cả thành ngữ. Thành ngữ “Kick the bucket” có thể đƣợc mô hình hóa thành sơ đồ 1.1. Nghĩa đặc biệt của thành ngữ : “chết” - Nghĩa của các dạng thức ngôn ngữ: “kick” “the” “bucket”
  • 30. 28 - Các dạng thức ngôn ngữ và đặc điểm cú pháp: Kick the bucket (không bị động, v.v…) Sơ đồ 1.1. Quan điểm về thành ngữ trong ngôn ngữ học truyền thống [165] Trong tiếng Hán, các nhà Hán ngữ đã quan tâm đến thành ngữ từ rất sớm. Đƣờng Tú Trân [142] cho biết, khái niệm thành ngữ đã xuất hiện trong sách vở từ thời nhà Chu. Mặc dù vậy, công trình nghiên cứu về thành ngữ Hán sớm nhất có thể lƣu lại đƣợc là trong cuốn “Từ nguyên” năm 1915 [132]. Từ đó đến nay, giới Hán ngữ đã có nhiều thành tựu trong nghiên cứu thành ngữ. Tuy một số vấn đề về thành ngữ Hán chẳng hạn nhƣ thành ngữ đƣợc cấu tạo bằng tổ từ, đoản cú hay tổ hợp từ thì vẫn còn chƣa đƣợc thống nhất. Song nhìn chung các nhà nghiên cứu đều thống nhất ở tầm quan trọng và vị trí của thành ngữ trong hệ thống từ vựng tiếng Hán. Chúng tôi xin dẫn lại một số định nghĩa về thành ngữ Hán của các nhà nghiên cứu Trung Quốc nhƣ sau. Chu Tổ Mô cho rằng: “Thành ngữ là những tổ từ hoặc đoản cú định hình và người dân sử dụng trong khẩu ngữ trong thời gian dài mà có. Cấu trúc của thành ngữ tương đối ổn định, thường có kết cấu bốn chữ. Đây là đơn vị có tính chỉnh thể được lưu truyền lại mà người ta ước định hợp thành, vì thế nó có tên gọi là thành ngữ” [132,10].Còn theo tác giả Hồ Dục Thụ: “Thành ngữ là một loại tổ từ cố định, tính chất của nó gần với quán ngữ, thường được sử dụng như một đơn vị với ý nghĩa hoàn chỉnh, nhưng so với quán ngữ thì thành ngữ có tính cố định hơn. Thông thường, thành ngữ có kết cấu chặt chẽ, không thể tuỳ ý thay đổi các thành phần, cũng không như quán ngữ có thể tách rời hoặc chen (xen lẫn) vào một số thành phần khác” [142]. Nhìn chung, những quan điểm vừa trình bày ở trên đều nhấn mạnh vào đặc điểm cấu tạo, hình thái ngữ nghĩa của thành ngữ. Vì vậy chúng đƣợc coi là quan điểm cấu trúc - ngữ nghĩa hay còn gọi là hƣớng tiếp cận truyền thống về thành ngữ.
  • 31. 29 1.3.1.2. Quan điểm theo hướng tri nhận Từ việc tổng kết quan niệm theo hƣớng cấu trúc - ngữ nghĩa về thành ngữ trong tiếng Anh, Z.Kövecses nêu ra quan điểm của ngôn ngữ học tri nhận về thành ngữ. Ngôn ngữ học tri nhận cho rằng thành ngữ là sản phẩm của hệ thống tƣ duy và nó không chỉ đơn giản là vấn đề của riếng ngôn ngữ. Thành ngữ không chỉ là một biểu thức ngôn ngữ mang nghĩa đặc biệt có liên quan đến nghĩa của các thành tố tạo nên nó mà nghĩa đặc biệt đó bắt nguồn từ tri thức khái quát về thế giới đƣợc thể hiện trong hệ thống nhận thức của chúng ta. Nói một cách khác, hầu hết thành ngữ mang bản chất nhận thức chứ không phải là bản chất ngôn ngữ học. Nghĩa của thành ngữ có thể đƣợc hiểu là một cơ chế chứ không phải là tuỳ ý. Đó là cơ chế tri nhận nhằm kết nối các tri thức các phạm vi tri thức với nghĩa của thành ngữ. Thành ngữ sẽ bao gồm các tầng bậc nhƣ sau: Nghĩa thành ngữ: Nghĩa đặc biệt của một thành ngữ Các cơ chế tri nhận: Ẩn dụ, hoán dụ, tri thức truyền thống Các phạm vi nhận thức: Một hoặc nhiều phạm vi tri thức Các cấu trúc ngôn ngữ học và nghĩa: Các từ tạo nên thành ngữ, đặc điểm cấu tạo và nghĩa của chúng Sơ đồ 1.2. Cơ chế nhận thức của thành ngữ theo quan điểm ngôn ngữ học tri nhận [165] Theo cách nhìn nhƣ vậy, thành ngữ không chỉ là một đơn vị ngôn ngữ, nó mang bản chất của nhận thức gắn liền với các cơ chế tri nhận là ẩn dụ, hoán dụ và tri thức truyền thống. Và nhƣ vậy, rõ ràng, thành ngữ sẽ gắn liền với đặc điểm tƣ duy của con ngƣời. Ví dụ, theo cách hiểu này, thành ngữ tiếng Việt Chó có váy lĩnh có thể đƣợc nhận thức thông qua các tầng bậc sau Nghĩa thành ngữ: sự đua đòi, lố lăng, kệch cỡm
  • 32. 30 Các cơ chế tri nhận: ẩn dụ (ẩn dụ hóa hình ảnh” chó, váy lĩnh”) + tri thức truyền thống (“chó” là loài động vật bị coi thường, “váy lĩnh” là váy may bằng loại vải quý) Các phạm vi nhận thức: quan niệm của người Việt về loài “chó”, tri thức về vật dụng “váy lĩnh” trong đời sống người Việt Các cấu trúc ngôn ngữ học và nghĩa: các từ tạo nên thành ngữ “chó, có, váy lĩnh”, đặc điểm cấu tạo và nghĩa đen của chúng 1.3.2. Quan điểm về thành ngữ tiếng Việt 1.3.2.1. Lịch sử nghiên cứu Thành ngữ là một trong những đối tƣợng đƣợc các nhà ngôn ngữ học nói riêng và khoa học xã hội nói chung ở Việt Nam quan tâm nghiên cứu một cách toàn diện từ đặc điểm cấu trúc, phƣơng thức tạo nghĩa tới nguồn gốc hình thành. Các công trình nghiên cứu về thành ngữ tiếng Việt thƣờng đƣợc tiếp cận theo những hƣớng sau đây. (1) Hƣớng thứ nhất, nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt theo hƣớng từ vựng ngữ nghĩa. Những tác giả nghiên cứu thành ngữ theo hƣớng này có thể kể ra là Nguyễn Văn Mệnh (1971, 1972, 1986), Trƣơng Đông San (1976), Nguyễn Văn Tu (1976), Bùi Khắc Việt (1981), Cù Đình Tú (1983), Nguyễn Thiện Giáp (1985), Đỗ Hữu Châu (1986) và (1987), Nguyễn Công Đức (1995), Hoàng Văn Hành (2004), Nguyễn Thị Tân (2004) .v.v. Trong các nghiên cứu nói trên, thành ngữ đƣợc coi là một đơn vị thuộc từ vựng của một ngôn ngữ. Nhìn chung, các định nghĩa hoặc khái niệm của các tác giả trên đều xuất phát từ bình diện cấu trúc ngữ nghĩa của thành ngữ và thống nhất với nhau ở mấy điểm sau: - Về mặt cấp độ, thành ngữ là một đơn vị tƣơng đƣơng với từ.
  • 33. 31 - Về mặt cấu trúc, thành ngữ là một đơn vị có cấu trúc hình thái chặt chẽ. Đấy là lý do vì sao ngƣời ta còn gọi nó là một “cụm từ cố định” trong sự đối sánh với thuật ngữ “cụm từ tự do” theo nghĩa là những cụm từ/ ngữ/ tổ hợp từ không có tính bền vững về mặt cấu trúc hình thái. - Về mặt ý nghĩa, nghĩa của thành ngữ không phải là nghĩa của từng yếu tố cấu tạo nên mà là kết quả của quá trình biểu trƣng hóa các sự vật, hiện tƣợng, thuộc tính v.v do các yếu tố từ vựng chuyển tải. Vì thế, có tác giả gọi nghĩa của thành ngữ là nghĩa biểu trƣng, hay nghĩa “bóng”. Ví dụ thành ngữ Ăn mày đòi xôi gấc đƣợc lý giải: - Về mặt cấu tạo, thành ngữ này là sự kết hợp cố định của các từ ăn mày, đòi, xôi gấc. Nghĩa đen của nó là do các từ này tạo ra, nhƣng nghĩa biểu trƣng của thành ngữ có đƣợc không phải là sự kết hợp nghĩa của ba từ nói trên mà là kết quả của quá trình biểu trƣng hóa: Ăn mày biểu trƣng cho ngƣời có địa vị thấp kém; Xôi gấc biểu trƣng cho những thứ có giá trị. - Từ đó, nghĩa biểu trƣng của thành ngữ này đƣợc hiểu là “sự mong muốn hay đòi hỏi những điều vƣợt quá thân phận của mình”. (2) Hƣớng thứ hai, về đại thể, là nghiên cứu so sánh đối chiếu thành ngữ giữa hai ngôn ngữ và có quan tâm đến nội dung văn hóa ở thành ngữ. Ở Việt Nam, có thể thấy những nghiên cứu này phần nhiều là luận án tiến sỹ. Trƣơng Đông San, một trong những nhà nghiên cứu thành ngữ đầu tiên của Việt Nam trên cứ liệu tiếng Nga, đã khảo sát thành ngữ tiếng Nga trong cách nhìn của ngƣời Việt và đƣa ra một số cách chuyển dịch sang tiếng Việt dựa trên các phƣơng thức cấu tạo ngữ nghĩa của thành ngữ tiếng Nga. Tuy nhiên, ông mới chỉ chú trọng đến làm thế nào để dịch thành ngữ từ thứ tiếng này sang thứ tiếng khác mà chƣa chú trọng nhiều đến những đặc điểm văn hóa dân tộc trong thành ngữ. Sau này, các luận án khác đã đã chú ý đến những đặc trƣng văn hóa dân tộc trong thành ngữ nhƣ Phùng Trọng Toản (1995),
  • 34. 32 Nguyễn Xuân Hòa (1996), Trần Thị Lan (2002), Ngô Minh Thuỷ (2006), Phạm Minh Tiến (2008), Nguyễn Tô Chung (2010) v.v. Chú ý đến mối quan hệ giữa ngôn ngữ - văn hóa - xã hội trong thành ngữ, Nguyễn Công Đức cho rằng: “Ngoài những đặc điểm của một đơn vị ngôn ngữ, thành ngữ còn có những dấu ấn của một đơn vị văn hóa, còn tiềm ẩn, trầm tích những đặc điểm văn hóa dân tộc. Cho nên, cũng có thể xem, thành ngữ là những đơn vị ngôn ngữ - văn hóa” [29,35]. Tuy nhiên, ở tác giả này cũng mới chỉ là sự “chú ý đến” mà thôi. Mặc dù không chuyên nghiên cứu về thành ngữ, nhƣng trong “Ngôn ngữ và văn hóa: Tri thức nền và việc giảng dạy tiếng nước ngoài”, Trịnh Thị Kim Ngọc (1999) lại có đề cập đến thành tố văn hóa dân tộc trong thành ngữ. Xuất phát từ lý thuyết ngôn ngữ - đất nƣớc học, tác giả chỉ ra rằng ngữ nghĩa của từ bao gồm khái niệm từ vựng và nền từ vựng. Nền từ vựng là mọi tri thức có quan hệ với từ, thƣờng trực trong ý thức của con ngƣời và có tính chất đại chúng đối với ngƣời bản ngữ. Từ đó, ngữ nghĩa của thành ngữ bao gồm khái niệm thành ngữ (thể hiện chức năng định danh của nó) và nền từ vựng của thành ngữ. “Đơn vị thành ngữ cùng với các từ vị của mình chính là nguồn ngữ liệu chủ yếu cho tri thức nền của một dân tộc và còn có khả năng tích luỹ các thông tin ngoài ngôn ngữ” [91,127]. Nền từ vựng của thành ngữ có thể đƣợc hiểu là các thành tố văn hóa dân tộc của thành ngữ. Nguyễn Thiện Giáp nhấn mạnh rằng: “Hơn lĩnh vực ngôn ngữ nào khác, các thành ngữ tiếng Việt thể hiện đậm nét đặc trưng văn hóa dân tộc Việt Nam… Đặc trưng văn hóa dân tộc của thành ngữ còn được thể hiện trong ý nghĩa biểu trưng của thành ngữ” [32,185-186]. Nhƣ vậy, bình diện văn hóa xã hội trong thành ngữ đã đƣợc nhiều tác giả đề cập đến trong một vài công trình nghiên cứu về thành ngữ nói chung.
  • 35. 33 Nhƣng trong số đó chƣa có một công trình nào nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt từ cách tiếp cận ngôn ngữ học nhân chủng. Ngoài ra để nhận diện thành ngữ tiếng Việt, các nhà Việt ngữ học còn đặt khái niệm thành ngữ trong sự phân biệt với các đơn vị nhƣ cụm từ tự do, từ ghép/từ phức, quán ngữ và tục ngữ. Mặc dù vậy, các tác giả có quan điểm khác nhau về những khái niệm này khiến cho việc phân biệt cũng không hề đơn giản. Nhìn chung, khi đƣa ra các khái niệm nói trên họ đều dựa vào hai tiêu chí quan trọng là cấu trúc và ngữ nghĩa. Song, do tính phức tạp của chúng, nhiều tác giả đã phải sử dụng thêm các tiêu chí khác để làm rõ hơn (chẳng hạn tiêu chí số lƣợng âm tiết, tiêu chí chức năng, tính độc lập/không độc lập của một đơn vị ngôn ngữ, tính biểu trƣng v.v) Bản thân những tiêu chí nhƣ vậy cũng vẫn chƣa có đƣợc sự thống nhất trong quan điểm giữa các nhà nghiên cứu. Nhƣng dù sao, việc bổ sung thêm tiêu chí càng góp phần làm rõ và khu biệt khái niệm thành ngữ với các đơn vị có liên quan. Nhìn trên tổng thể mà nói, về cơ bản, các nhà Việt ngữ học đã vạch đủ các ranh giới cần thiết để nhận diện thành ngữ. Song không phải lúc nào việc áp dụng các tiêu chí trên cũng mang lại kết quả nhƣ mong đợi. Chẳng hạn, sự phân biệt giữa khái niệm thành ngữ với tục ngữ dƣờng nhƣ vẫn còn rất dễ nhầm lẫn. Các đơn vị nhƣ Con giun xéo mãi cũng quằn, Cây ngay không sợ chết đứng… thƣờng có sự lẫn lộn khi nhận diện chúng là thành ngữ hay tục ngữ. Ví dụ, trong một số ngữ cảnh, Con giun xéo mãi cùng quằn nhằm chỉ ra một tình huống. Đó là tình huống bị áp bức thì sẽ có đấu tranh. Trong trƣờng hợp này, nó có thể đƣợc coi là thành ngữ. Nhƣng trong một số trƣờng hợp khác, nó có thể đƣợc coi là tục ngữ vì đã nêu ra một phán đoán rằng nếu bị áp bức nhiều quá thì sẽ có đấu tranh, cho nên có thể hàm ý đƣa ra một lời khuyên trong cách ứng xử.
  • 36. 34 Chúng tôi đồng ý với một vài ngƣời đi trƣớc cho rằng, việc phân biệt thành ngữ và tục ngữ phải căn cứ vào từng hoàn cảnh cụ thể, vì thành ngữ vừa là một đơn vị ngôn ngữ, vừa là một đơn vị văn hóa. Ngoài thành ngữ thì tục ngữ cũng nhƣ vậy, cho nên, nếu chỉ xét đơn thuần ở mặt ngôn ngữ học thì dù cố gắng đến đâu cũng không thể hoàn toàn minh định đƣợc ranh giới giữa thành ngữ và phân biệt nó với tục ngữ. Bản thân thành ngữ và tục ngữ có những đặc điểm do những nhân tố ngoài ngôn ngữ quy định, do đó, các tiêu chí ngôn ngữ dù sát thực đến đâu cũng không bù đƣợc những sự đắp đổi từ những nhân tố ngoài ngôn ngữ đƣa lại. Nhân tố ngoài ngôn ngữ chính là các đặc điểm văn hóa xã hội ở dân gian. Có sự xâm lấn của những nhân tố văn hóa xã hội thì hẳn sẽ có tính dị bản và có nhiều cách hiểu khác nhau. Nguyễn Trung Thành cũng có quan điểm tƣơng tự khi cho rằng trong sự phân biệt thành ngữ với tục ngữ phải gắn liền với ngữ cảnh - tức là bối cảnh sử dụng. Tác giả viết: “Việc xếp loại một bộ phận các đơn vị có sẵn - bộ phận nằm ở vị trí trung gian giữa thành ngữ và tục ngữ - là một công việc khó khăn. Và để giải quyết khó khăn, tốt nhất là dựa vào cách sử dụng các đơn vị này trong những hoàn cảnh cụ thể” [114]. Cách sử dụng thành ngữ phụ thuộc vào việc hiểu thành ngữ, do đó, gắn liền với bối cảnh sử dụng. Trong phạm vi lớn, bối cảnh sử dụng bao giờ cũng gắn liền với đặc điểm văn hóa xã hội của cá nhân hoặc của cả cộng đồng sử dụng. Do đó, những đơn vị nhƣ Con giun xéo mãi cùng quằn, Cây ngay không sợ chết đứng vừa kể trên có thể là thành ngữ hoặc tục ngữ tuỳ vào ngữ cảnh sử dụng, song, đó đều là những đơn vị ngôn ngữ - văn hóa. Cùng với việc đƣa ra khái niệm và phân biệt thành ngữ với các đơn vị khác, các nhà Việt ngữ học đã phân chia thành ngữ theo dựa vào các tiêu chí khác nhau tuỳ thuộc vào góc nhìn và hƣớng nghiên cứu của mỗi tác giả. Các tiêu chí có thể là tiêu chí chức năng, tiêu chí đặc trƣng từ loại, phƣơng thức
  • 37. 35 biểu trƣng hóa hay cơ chế cấu tạo cả về nội dung và hình thức, tiêu chí nguồn gốc, … Nhìn chung, việc phân loại thành ngữ đều chủ yếu dựa vào cơ chế cấu tạo và cấu trúc là phổ biến, ngoài ra khi phân loại, ngƣời ta có thể xét đến các tiêu chí nhƣ số âm tiết, sự đối xứng hay không đối xứng v.v. 1.3.2.2. Thành ngữ tiếng Việt từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng Có 3 tiêu chí cơ bản sau đây mà đa số tác giả nghiên cứu thành ngữ từ bình diện ngôn ngữ học truyền thống đều thống nhất để nhận diện nó, đó là: - Một là, về mặt cấu trúc, thành ngữ có khả năng hoạt động nhƣ một từ độc lập, tƣơng đƣơng với cấp độ từ. - Hai là, thành ngữ có cấu trúc bền vững, khó bị phá vỡ, thƣờng là một tổ hợp từ, một số ít có thể là kết cấu chủ vị - Ba là, thành ngữ mang nghĩa biểu trƣng. Nhƣ vậy, khái niệm thành ngữ có thể đƣợc hiểu bao gồm: Các từ tạo nên thành ngữ bao gồm kết cấu và nghĩa đen của nó và nghĩa biểu trƣng của thành ngữ. Nhƣng trong những trƣờng hợp cần thiết, việc xác định thành ngữ phải kết hợp nhiều tiêu chí trong ngữ cảnh cụ thể. Ngay cả Saussure cũng thừa nhận rằng: “Danh từ idiome biểu thị một cách khá đúng đắn rằng ngôn ngữ phản ánh những nét đặc thù của một cộng đồng (tiếng Hy Lạp idiōma đã có nghĩa là “tập tục riêng”) [107,323]. Ngôn ngữ học nhân chủng sẽ nhấn mạnh đến bối cảnh sử dụng thành ngữ. Đây chính là bối cảnh văn hóa xã hội của cộng đồng sử dụng ngôn ngữ. Và đồng thời nó đặc biệt chú trọng vào mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa, giữa ngôn ngữ và xã hội trong thành ngữ. Nhờ đó, ngƣời ta sẽ hiểu rõ sự tƣơng tác giữa thành ngữ với đặc trƣng văn hóa xã hội. Trong một yêu cầu nhƣ vậy, chúng tôi xin đƣa ra một mô hình thành ngữ tiếng Việt gồm có 3 bậc nhƣ sơ đồ 1.3. dƣới đây để “khảo sát” trong luận án của mình: 1 Nghĩa biểu trƣng của thành ngữ
  • 38. 36 2 Các đặc điểm văn hóa xã hội: Ẩn dụ và so sánh 3 Các từ tạo nên thành ngữ gồm kết cấu và nghĩa đen của chúng Sơ đồ 1.3. Thành ngữ từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng Theo sơ đồ này, có thể hiểu (3) là dạng thức tồn tại của thành ngữ trong ngôn ngữ và lời nói, (2) là cơ sở để hình thành, hiểu đúng và sử dụng đúng thành ngữ và (1) là cái mà chúng ta sử dụng thành ngữ. Cái khác so với các quan điểm đã có về thành ngữ tiếng Việt là trong sơ đồ này, chúng tôi nhấn mạnh các đặc điểm văn hóa xã hội làm cơ sở để hình thành nghĩa biểu trƣng của thành ngữ. Và, nhƣ trong những chƣơng sau sẽ làm sáng tỏ, các đặc điểm văn hóa xã hội đƣợc nó lƣu giữ thông qua hai phƣơng thức chủ yếu là ẩn dụ và so sánh. Nhờ đó, nghĩa thành ngữ là nghĩa biểu trƣng gắn liền với tri thức nền về văn hóa xã hội, gắn liền với phƣơng thức so sánh và đặc biệt là gắn liền với phƣơng thức ẩn dụ. Ở đây, cơ chế sản sinh so sánh và ẩn dụ là quá trình mở rộng hệ thống ý niệm. Có thể nói, kiến thức và kinh nghiệm đã có liên quan đến đời sống văn hóa xã hội của mỗi dân tộc cùng với quá trình tìm kiếm mối tƣơng quan giữa những cái đã tồn tại làm sản sinh ra những khái niệm mới và từ đó nghĩa biểu trƣng của thành ngữ sẽ đƣợc tạo ra. Cho nên, khảo sát thành ngữ tiếng Việt của chúng tôi từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng chính là cách làm sáng tỏ cơ chế đó. Cũng cần nói thêm rằng, trong định nghĩa để khảo sát, chúng tôi cũng chỉ ra hai phƣơng thức cơ bản để tạo thành nghĩa biểu trƣng của thành ngữ là so sánh và ẩn dụ; nhƣng chúng tôi không nhấn mạnh cấu trúc của ẩn dụ và so sánh mà đặc biệt quan tâm đến tính chất văn hóa của chúng. Chúng tôi cũng biết ẩn dụ và so sánh không chỉ là của riếng ngôn ngữ mà còn là phƣơng thức của tƣ duy. Phƣơng thức tƣ duy theo kiểu ẩn dụ và so sánh của con ngƣời là cơ sở để ngôn ngữ và văn hóa xã hội phát triển, nhƣng đồng thời ngôn ngữ lại ảnh hƣởng ngƣợc lại tới phƣơng thức tƣ duy và văn hóa xã hội.
  • 39. 37 Bởi vì có thể thấy, cùng một nguyên mẫu nhƣng trong các nền văn hóa khác nhau sẽ có đƣợc những mối liên hệ khác nhau, tạo ra những ý nghĩa khác nhau. Đây chính là nội dung chính mà ngôn ngữ học nhân chủng đề cập. Cho nên, việc lựa chọn thành ngữ tiếng Việt để nghiên cứu từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng ở chƣơng 3 chính là cách làm tốt nhất nhằm chỉ ra sự tồn tại mối quan hệ và sự tƣơng tác trong đó giữa ngôn ngữ - văn hóa - xã hội đƣợc phản ánh trong thành ngữ tiếng Việt. Nhƣng trƣớc khi tiếp cận thành ngữ tiếng Việt từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng để chỉ ra sự tƣơng tác nói trên, một yêu cầu đặt ra là phải lý giải các đặc điểm văn hóa xã hội của ngƣời Việt phản ánh trong thành ngữ. Muốn làm đƣợc điều đó, thành ngữ phải đƣợc phân loại thành các nhóm thành ngữ liên quan đến các phƣơng diện khác nhau của đời sống văn hóa xã hội. Nhƣ vậy, trong nghiên cứu này, chƣơng tiếp theo sẽ là công việc phân loại thành ngữ tiếng Việt gắn liền với sự phân chia các phƣơng diện khác nhau trong đời sống văn hóa xã hội. Để thực hiện việc phân loại, trƣớc hết chúng tôi tiến hành phân loại tƣ liệu thành hai nhóm lớn là thành ngữ liên quan đến đời sống văn hóa và thành ngữ liên quan đến đời sống xã hội. Đây là một việc làm khó khăn nhƣng cần thiết. Khó khăn là bởi vì, văn hóa - xã hội là hai khái niệm có nội hàm rất rộng, liên quan đến mọi mặt của vật chất và tinh thần của con ngƣời và thƣờng luôn đi kèm với nhau. Với tƣ cách là thành viên của một xã hội nhất định, con ngƣời có khả năng đặc biệt là sáng tạo nên văn hóa, định hình thế giới của mình bằng văn hóa, tiếp thu văn hóa, bảo tồn nó đồng thời truyền đạt nó từ thế hệ này sang thế hệ khác. Việc cùng có chung một văn hóa giúp xác định nhóm ngƣời hay xã hội mà các cá thể là thành viên. Bởi vậy, văn hóa và xã hội luôn đi kèm với nhau. Tuy nhiên, để phục vụ cho việc nghiên cứu, đời sống văn hóa và đời sống xã hội sẽ đƣợc tách rời làm tiêu chí để phân loại các
  • 40. 38 thành ngữ. Nhƣ vậy, việc phân biệt này đôi chỗ sẽ không rõ ràng và sẽ có những thành ngữ vừa liên quan đến đời sống văn hóa, vừa liên quan đến sự phân tầng xã hội. Trong sự phân loại, bao giờ cũng có nhƣng đơn vị trung gian là nhƣ thế. Nhƣ vậy, thành ngữ tiếng Việt có thể phân thành hai loại lớn là thành ngữ liên quan đến đời sống văn hóa và thành ngữ liên quan đến đời sống xã hội. Trong mỗi loại này lại bao gồm nhiều nhóm nhỏ hơn liên quan đến các phƣơng diện cụ thể của đời sống văn hóa và đời sống xã hội. Việc phân chia này không nhằm mục đích nghiên cứu văn hóa, do đó, có thể không triệt để và toàn diện nhƣ các nhà văn hóa học. Cho nên ở phân nhóm đời sống văn hóa chúng đƣợc chia nhỏ thành các tiểu nhóm: liên quan đến đời sống lao động sản xuất, liên quan đến đời sống sinh hoạt hàng ngày, liên quan đến đời sống tín ngƣỡng, liên quan đến đời sống gia đình, liên quan đến đời sống cộng đồng làng xã. Việc phân loại các thành ngữ liên quan đến đời sống xã hội có thể căn cứ vào các nhân tố xã hội quy định sự phân tầng xã hội. Tuy nhiên, có rất nhiều tiêu chí để phân tầng một xã hội do các nghiên cứu khác nhau có những sự lựa chọn các nhân tố xã hội khác nhau để phân tầng một xã hội cụ thể. Chẳng hạn, trong nghiên cứu ngôn ngữ học xã hội, tác giả Labov cho rằng có ba đặc điểm có giá trị để đánh giá sự phân tầng xã hội: nghề nghiệp (occupation), trình độ văn hóa giáo dục (education) và thu nhập gia đình (income) [67,134]. Trong khi đó, tác giả Wolfram lại quan tâm đến các nhân tố nhƣ tầng lớp xã hội (địa vị xã hội), giới tính, tuổi tác và nguồn gốc chủng tộc [67,139]. Tác giả Trudgill thì sử dụng ba tiêu chí giống với Labov là các tiêu chí: nghề nghiệp, thu nhập, học vấn, và bổ sung thêm 3 tiêu chí nữa là nhà cửa (housing), địa phƣơng (locality) và nghề nghiệp của bố (father’s occupation) [161,161]. Nhƣ vậy, có thể thấy rằng, để xem xét sự phân tầng xã
  • 41. 39 hội nói chung và sự phân tầng trong xã hội Việt Nam nói riêng, có thể sử dụng nhiều nhân tố xã hội khác nhau. Quá trình khảo sát các nghiên cứu có trƣớc và tƣ liệu của chúng tôi cho thấy tiêu chí nổi bật trong thành ngữ tiếng Việt phản ánh sự phân tầng xã hội là: tuổi tác, giới tính và địa vị xã hội. Nhƣ vậy, các thành ngữ liên quan đến đời sống xã hội có thể đƣợc phân loại thành các nhóm: thành ngữ liên quan đến sự phân tầng xã hội theo tuổi tác, thành ngữ liên quan đến sự phân biệt giới tính, thành ngữ liên quan đến địa vị xã hội. Căn cứ vào các tiêu chí ấy, chúng tôi đã tiến hành phân loại thành ngữ tiếng Việt thành 2 nhóm lớn: (1) Thành ngữ liên quan đến đời sống văn hóa (1a) Văn hóa vật chất Nhà cao cửa rộng, Quần nâu áo vá, Trâu cày ngựa cưỡi (1b) Văn hóa tinh thần Khẩu phật tâm xà, Ba máu sáu cơn, Gần chùa gọi Bụt bằng anh (1c) Văn hóa gia đình Cha già nhà giột, Chị ngã em nâng, Cá chuối đắm đuối vì con (1d) Văn hóa cộng đồng Làng trên xóm dưới, Khua chiêng gõ mõ, Cháy nhà hàng xóm bình chân như vại (2) Thành ngữ liên quan đến đời sống xã hội (2a) Sự phân biệt tuổi tác Da mồi tóc bạc, Tre già măng mọc, Dê cỏn buồn sừng (2b) Sự phân biệt giới tính Chồng khôn vợ khéo, Nam thanh gái lịch, Ông chẳng bà chuộc (2c) Địa vị xã hội Bìm bìm leo nhà gạch, Cây cao gió cả, Thấp cổ bé họng, Trọc đầu càng mát Sơ đồ 1.4: Phân loại thành ngữ tiếng Việt theo đặc điểm văn hóa - xã hội (trang 44) Xin một lần nữa nhắc lại rằng việc phân chia nhƣ trên chỉ mang tính chất tƣơng đối nhằm phục vụ cho nhiệm vụ nghiên cứ của chúng tôi. Vì thực
  • 42. 40 tế có những thành ngữ có thể vừa biểu hiện đặc điểm văn hóa, vừa biểu hiện đặc điểm xã hội. Ví dụ thành ngữ Cương ngựa ách trâu, Đầu gà hơn đuôi trâu… vừa là những thành ngữ liên quan đến đời sống nông nghiệp vì có sử dụng hình ảnh con trâu để biểu trƣng hóa, vừa là những thành ngữ liên quan đến đời sống xã hội vì biểu trƣng hóa cho địa vị xã hội. 1.4. Một số vấn đề về ẩn dụ phục vụ cho nghiên cứu của luận án. Để thực hiện nhiệm vụ đã nói ở trên, chúng tôi chỉ sẽ lựa chọn phƣơng thức ẩn dụ trong thành ngữ làm nội dung nghiên cứu ở chƣơng 3. Có hai lý do: Một là, do giới hạn của luận án, chúng tôi không có điều kiện khảo sát cả hai phƣơng thức ẩn dụ và so sánh. Hai là, tính biểu trƣng của phƣơng thức so sánh thì vẫn còn nhiều điểm chƣa thống nhất, trong khi phƣơng thức ẩn dụ là phƣơng thức hiệu quả để tạo ra tính biểu trƣng của thành ngữ đều đã đƣợc đa số các tác giả thừa nhận. Vì thế, trong mục 1.4. này, chúng tôi sẽ trình bày một số vấn đề về ẩn dụ phục vụ cho nghiên cứu của luận án. 1.4.1. Khái niệm ẩn dụ Ẩn dụ đƣợc sử dụng rất nhiều trong ngôn ngữ và lời nói. Ngay từ thời Hy Lạp cổ đại, nhà triết học Arixtốt đã nhắc đến ẩn dụ và cho rằng nó là đặc trƣng cơ bản của ngôn ngữ. Trong suốt một quá trình lịch sử lâu dài kể từ đó cho đến khoảng giữa thế kỷ XX, ẩn dụ vẫn đƣợc coi nhƣ là một phƣơng tiện tu từ và bản chất của nó là sự dịch chuyển hay sự thay thế.
  • 43. 41 Sơ đồ 1.4. Phân loại thành ngữ tiếng Việt theo văn hóa - xã hội Thành ngữ (TN) tiếng Việt TN liên quan đến đời sống văn hóa TN liên quan đến đời sống xã hội TN liên quan đến đời sống văn hóa vật chất TN liên quan đến đời sống tinh thần TN liên quan đến đời sống văn hóa gia đình TN liên quan đến đời sống văn hóa cộng đồng TN liên quan đến sự phân chia tuổi tác TN liên quan đến sự phân biệt giới tính TN liên quan đến địa vị xã hội
  • 44. 42 Ở Việt Nam, đã có nhiều nhà ngôn ngữ học thuộc các chuyên ngành khác nhau dành sự quan tâm đến vấn đề ẩn dụ nhƣ các nhà từ vựng học, ngữ nghĩa học, phong cách học, triết học ngôn ngữ và gần đây là dụng học và ngôn ngữ học tri nhận. Có thể kể tên những công trình đề cập đến ẩn dụ của các tác giả nhƣ: Đỗ Hữu Châu (1962), Đinh Trọng Lạc (1964), Cù Đình Tú (1975), Nguyễn Thái Hòa (1997) v.v và rải rác trong một số công trình nghiên cứu văn học, phê bình văn học. Các giả kể trên đều có cách quan niệm gần giống nhau, đó là coi ẩn dụ là “phép hay cách thức chuyển đổi tên gọi dựa trên sự so sánh ngầm giữa hai sự vật có sự tương đồng hay giống nhau” [139,437]. Đây là cách hiểu về ẩn dụ thông dụng nhất không chỉ ở các sách nghiên cứu ở trong nƣớc mà cả nƣớc ngoài, là cách hiểu theo lý thuyết ngữ nghĩa học. Ẩn dụ là phƣơng thức lấy tên gọi A của sự vật a để gọi tên các sự vật b, c, d vì giữa a, b, c, d có điểm giống nhau. Hay nói cách khác, ẩn dụ là phƣơng thức chuyển nghĩa dựa vào quy luật liên tƣởng tƣơng đồng. Trên cơ sở nghiên cứu về tƣ duy ngôn ngữ, Nguyễn Đức Tồn (2002, 2007, 2009) có đã có điểm mới so với các các tác giả đi trƣớc là nhấn mạnh “ẩn dụ là một phương thức tư duy” và cho rằng “dựa vào bản chất của ẩn dụ đã được trình bày, có thể nghĩ rằng đặc trưng văn hóa – dân tộc của ẩn dụ có thể được biểu hiện ở chỗ mỗi dân tộc sẽ phát hiện ra nét đồng nhất khác nhau của các sự vật (trong vô số các thuộc tính khác nhau của mỗi sự vật, hiện tượng…) và đồng nhất hóa chúng hoặc để tạo ra các ý nghĩa phái sinh khác nhau, hoặc để diễn đạt “hiện thực trực tiếp của tư tưởng” (Mác) với tư cách là phương thức hay quy luật của tư duy, mặc dù giữa các dân tộc có thể có cái chung giống nhau”
  • 45. 43 [139,474]. Nhận xét này đã xích lại gần với quan điểm của các nhà ngôn ngữ học tri nhận khi nghiên cứu về ẩn dụ. Công trình nghiên cứu về ẩn dụ theo quan điểm ngôn ngữ học tri nhận mang tính phƣơng pháp luận kinh điển là cuốn sách Metaphors we live by của G. Lakoff và M. Johnson. Trong cuốn sách, hai tác giả đã khẳng định rằng: “Trên cơ sở của các bằng chứng ngôn ngữ học, có thể thấy rằng hầu hết hệ thống khái niệm thông thường của chúng ta về bản chất là mang tính ẩn dụ… Quá trình tư duy của con người phần lớn mang tính ẩn dụ” [166,4-6]. Cuốn sách đã trở thành một cuốn cẩm nang không thể thiếu của bất kỳ nhà nghiên cứu ẩn dụ tri nhận nào. Sau cuốn sách này, nhiều tác giả ở nhiều nền ngôn ngữ học Mỹ, Anh, Nga, Trung Quốc…đã phát triển lý thuyết ẩn dụ tri nhận để góp phần hoàn thiện lý thuyết này. Gần đây, khuynh hƣớng nghiên cứu ngôn ngữ học tri nhận đã đƣợc giới thiệu ở Việt Nam nhƣ các công trình của Trần Văn Cơ, Phan Thế Hƣng, Lý Toàn Thắng v.v. Về ẩn dụ, khuynh hƣớng này cho rằng “Với cách tiếp cận chung nhất, ẩn dụ được xem như là cách nhìn đối tượng này thông qua một đối tượng khác, và với ý nghĩa đó, ẩn dụ là một trong những phương thức biểu tượng tri thức dưới dạng ngôn ngữ. [16,86-87]. Ví dụ, trong câu tiếng Anh She jumped for joy “Cô ấy nhảy lên vì sung sƣớng” có ẩn dụ ý niệm Happy is up “Hạnh phúc là trên”. “Hạnh phúc” là ý niệm thuộc phạm vi không thể quan sát đƣợc, trong khi đó, “lên trên” là ý niệm mang tính nghiệm thân có thể nhìn quan sát trực tiếp đƣợc thông qua vận động của con ngƣời trong thế giới vật lý [166]. Tác giả Phan Thế Hƣng thì đề cập đến khái niệm “ẩn dụ ý niệm”. Theo đó, ẩn dụ ý niệm là một cơ chế tri nhận bao gồm một miền mà một phần đƣợc “ánh