SlideShare a Scribd company logo
1 of 86
Download to read offline
TÂM LÍ HỌC LỨA TUỔI VÀ TÂM LÍ HỌC SƯ PHẠM
TÂM LÍ HỌC LỨA TUỔI VÀ TÂM LÍ HỌC SƯ PHẠM
Lê Văn Hồng - Lê Ngọc Lan - Nguyễn Văn Thàng
LỜI NÓI ĐẦU
Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm là hai chuyên ngành tâm lý
học góp phần trực tiếp hình thành quan điểm sư phạm và bồi dưỡng trình độ
nghiệm vụ cho sinh viên các trường sư phạm
Tài liệu này được viết theo chương trình giáo dục cốt lõi chuyên nghiệp
đã được “Chương trình giáo dục đại học” của Bộ Giáo dục và Đào tạo nghiệm
thu, nhằm tạo điều kiện cho các trường Đại học sư phạm và Cao đẳng sư
phạm thực hiện tốt quyết định 2677/GD-ĐT của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và
Đào tạo ngày 3/12/1993
Nội dung tài liệu gồm 2 phần:
Phần tâm lý học lứa tuổi trình bày các hiện tượng và quy luật tâm lý
theo các lứa tuổi, qua đó nêu lên nguyên nhân, động lực của sự phát triển
tâm lý cùng những đặc trưng tâm lý qua các giai đoạn phát triển
Phần tâm lý học sư phạm nghiên cứu các hiện tượng và quy luật tâm
lý dưới ảnh hưởng của tác động sư phạm, chủ yếu là dạy học và giáo dục
Để tài liệu được tiếp tục hoàn thiện trong những năm tới, chúng tôi
mong nhận được ý kiến đóng góp của cán bộ giảng dạy và sinh viên các
trường
Xin chân thành cảm ơn
Tác giả
Phần 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TÂM LÍ HỌC LỨA TUỔI
"Các bạn hãy nghiên cứu những quy luật của các hiện tượng tâm lý mà các
bạn muốn điều khiển và các bạn hãy hành động căn cứ trên những quy luật
này và những hoàn cảnh mà các bạn muốn vận dụng chúng vào đó".
K.D. Usinxki
Chương 1: NHẬP MÔN TÂM LÝ HỌC LỨA TUỔI VÀ TÂM LÝ HỌC SƯ
PHẠM
I - KHÁI QUÁT VỀ TÂM LÝ HỌC LỨA TUỔI VÀ TÂM LÝ HỌC SƯ PHẠM
Từ khi tâm lý học phát triển mạnh mẽ với tư cách là một khoa học độc
lập thì đồng thời cũng nảy sinh nhiều vấn đề đòi hỏi sự nghiên cứu tâm lý có
tính chất chuyên biệt, khiến cho các ngành tâm lý học ứng dụng được phát
sinh. Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm là các chuyên ngành phát
triển sớm nhất của tâm lý học. Đó là sự ứng dụng của tâm lý học vào lĩnh vực
sư phạm lứa tuổi.
1. Đối tượng, nhiệm vụ của tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm
Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm cũng nghiên cứu tâm lý
người, nhưng không phải là con người đã trưởng thành mà là con người ở
các giai đoạn phát triển.
a. Đối tượng nghiên cứu của tâm lý học lứa tuổi là động lực phát triển
tâm lý theo lứa tuổi của con người, sự phát triển cá thể của các quá trình tâm
lý và các phẩm chất tâm lý trong nhân cách của con người đang được phát
triển (tâm lý học Đức gọi chuyên ngành này là tâm lý học phát triển): nó xem
xét quá trình con người trở thành nhân cách như thế nào? Tâm lý học lứa tuổi
nghiên cứu đặc điểm của các quá trình và các phẩm chất tâm lý riêng lẻ của
cá nhân ở các lứa tuổi khác nhau và sự khác biệt của chúng ở mỗi cá nhân
trong phạm vi cùng một lứa tuổi; nghiên cứu những khả năng lứa tuổi của
việc lĩnh hội các tri thức, phương thức hành động...
Ví dụ, tâm lý học lứa tuổi nghiên cứu đặc điểm của tri giác nhìn, tri giác
nghe và sự tác động qua lại giữa chúng ở từng lứa tuổi ở các cá nhân trong
cùng một lứa tuổi...
Tâm lý học lứa tuổi nghiên cứu các dạng hoạt động khác nhau của các
cá nhân đang được phát triển. Ví dụ: vui chơi, học tập lao động, hoạt động xã
hội... Mỗi một dạng hoạt động có vai trò, tác dụng khác nhau dối với sự phát
triển nhân cách ở từng lứa tuổi. Mỗi một giai đoạn phát triển có một dạng hoạt
động vừa sức và đặc trưng của nó.
b. Đối tượng của tâm lý học sư phạm là những quy luật tâm lý của việc
dạy học và giáo dục. Tâm lý học sư phạm nghiên cứu những vấn đề tâm lý
học của việc điều khiển quá trình dạy học, nghiên cứu sự hình thành của
những quá trình nhận thức, tìm tòi những tiêu chuẩn đáng tin cậy của sự phát
triển trí tuệ và xác định những điều kiện để đảm bảo phát triển trí tuệ có hiệu
quả trong quá trình dạy học, xem xét những vấn đề về mối quan hệ qua lại
giữa giáo viên và học sinh, cũng như mối quan hệ qua lại giữa học sinh với
nhau.
Những quan sát hàng ngày cho thấy, trẻ em rung cảm và suy nghĩ
không giống người lớn. Trẻ nhỏ không làm được rất nhiều điều. Nhưng vấn
đề không phải là ở chỗ trẻ chưa làm được những gì, chưa nắm được những
gì... mà vấn đề cơ bản là ở chỗ hiểu được đứa trẻ hiện có những gì, có thể
làm được những gì, nó sẽ thay đổi như thế nào và sẽ có được những gì trong
quá trình sống và hoạt động theo lứa tuổi... Có hiểu những điều đó mới hiểu
được nguyên nhân của những nét, những phẩm chất mới đặc trưng cho nhân
cách người lớn... Mặt khác, mỗi lứa tuổi có những khó khăn, và thuận lợi
riêng. Những khó khăn và thuận lợi đó đòi hỏi phải có phương pháp đối xử
riêng biệt, thích hợp với lứa tuổi. Có thể phương pháp này thích hợp với trẻ
nhỏ, nhưng lại không thể áp dụng được với thiếu niên.
c. Từ những nghiên cứu trên, tâm lý học lứa tuổi là tâm lý học sư phạm
có nhiệm vụ rút ra những quy luật chung của sự phát triển nhân cách theo lứa
tuổi, những nhân tố chỉ đạo sự phát triển nhân cách theo lứa tuổi, rút ra
những quy luật lĩnh hội tri thức, kĩ năng, kĩ xảo trong quá trình giáo dục và dạy
học, những biến đổi tâm lý của học sinh do ảnh hưởng của giáo dục và dạy
học. Từ đó cung cấp những kết quả nghiên cứu để tổ chức hợp lý quá trình
sư phạm, nhằm mục đích nâng cao hiệu quả của hoạt động giáo dục và giảng
dạy.
Tất cả những thay đổi từ một đứa bé lọt lòng tới chỗ biết hành động
theo mục đích đã định... không mang tính chất ngẫu nhiên, mà diễn ra có quy
luật, có nguyên nhân của chúng. Nếu sự thay đổi ở một đứa trẻ nào đó diễn
ra sớm hơn, hoặc muộn hơn, hoặc không bình thường thì bao giờ cũng có
những nguyên nhân của nó. Những kiến thức tâm lý học lứa tuổi và tâm lý
học sư phạm sẽ giúp ta tìm được những nguyên nhân đó, đưa ra được
những biện pháp tác động hợp lý hơn và có ý thức hơn.
2. Quan hệ giữa tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm
Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm là những chuyên ngành của
tâm lý học, đều dựa trên cơ sở của tâm lý học đại cương. Tâm lý học đại
cương cung cấp cho hai chuyên ngành này những khái niệm cơ bản về các
hiện tượng tâm lý để hai chuyên ngành này sử dụng khi đi sâu vào đối tượng
nghiên cứu của mình. Ngược lại, nhờ những sự kiện của hai chuyên ngành
tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm mà những khái niệm cơ bản của
tâm lý học đại cương cũng trở nên phong phú, sâu sắc hơn.
Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm gắn bó chặt chẽ thống nhất
với nhau vì chúng có chung khách thể nghiên cứu - những con người bình
thường ở những giai đoạn phát triển khác nhau. Trẻ nhỏ: thiếu niên, thanh
niên là khách thể của tâm lý học lứa tuổi nếu nghiên cứu động thái của sự
phát triển theo lứa tuổi. Chúng là khách thể của tâm lý học sư phạm nếu
chúng được nghiên cứu với tư cách là người được dạy và được giáo dục
trong quá trình tác động có mục đích của nhà giáo dục.
Tâm lý học lứa tuổi chỉ có thể được nghiên cứu, nếu việc nghiên cứu
của nó không dừng ở mức độ thực nghiệm, mà được tiến hành trong nhưng
điều kiện cụ thể của việc dạy học và giáo dục, trong điều kiện tự nhiên của
đời sống của trẻ (vì tách khỏi những điều kiện đó thì trẻ em không thể phát
triển bình thường được) Nhưng đồng thời việc dạy học và giáo dục cũng
không thể được xem xét như là những hiện lượng độc lập, trừu xuất khỏi đối
tượng của dạy học và giáo dục. Như vậy cả tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học
sư phạm đều nghiên cứu trẻ em trong quá trình dạy học và giáo dục, và cùng
phục vụ đắc lực cho sự phát triển của chính đứa trẻ đó. Do đó mà sự phân
ranh giới giữa hai chuyên ngành chỉ có tính chất tương đối.
II - LÝ LUẬN VỀ SỰ PHÁT TRIỂN TÂM LÝ TRÊN TRẺ EM
1. Khái niệm chung về sự phát triển tâm lý trẻ em
a. Quan niệm về trẻ em
Dựa trên những quan điểm triết học khác nhau, người ta hiểu về trẻ em
cũng rất khác nhau. Có quan niệm cho rằng trẻ em là "người lớn thu nhỏ lại",
sự khác nhau giữa trẻ em và người lớn về mọi mặt (cơ thể, tư tưởng, tình
cảm...) chỉ ở tầm cỡ, kích thước, chứ không khác nhau về chất. Nhưng ngay
từ thế kỉ XVIII J.J Rút xô (1712 – 1778) đã nhận xét rất tinh tế về những đặc
điểm tâm lý của trẻ nhỏ. Theo ông, trẻ em không phải là người lớn thu nhỏ lại
và người lớn không phải lúc nào cũng hiểu được trí tuệ, nguyện vọng là tình
cảm độc đáo của trẻ thơ... vì "trẻ em có những cách nhìn, cách suy nghĩ và
cảm nhận riêng của của nó". Sự khác nhau giữa trẻ em và người lớn là sự
khác nhau về chất.
Những nghiên cứu của tâm lý học duy vật biện chứng đã khẳng định:
Trẻ em không phải là người lớn thu nhỏ lại. Trẻ em là trẻ em, nó vận động và
phát triển theo quy luật của trẻ em. Ngay từ khi cất tiếng khóc chào đời, đứa
trẻ đã là một con người, một thành viên của xã hội. Việc nuôi nấng, dạy dỗ nó
phải khác với con vật. Để nó tiếp thu được nền văn hoá xã hội loài người, đòi
hỏi phải nuôi dạy nó theo kiểu người (trẻ nhỏ phải dược bú sữa mẹ, được ăn
chín, ủ ấm, nhất là cần được âu yếm, thương yêu). Ngay từ khi ra đời đứa trẻ
đã có nhu cầu đặc trưng của con người - nhu cầu giao tiếp với người lớn.
Người lớn cần có những hình thức riêng. "ngôn ngữ" riêng để giao tiếp với
trẻ.
Điều kiện sống và hoạt động của các thế hệ người ở các thời kỳ lịch sử
khác nhau là rất khác nhau. Do vậy mỗi thời đại khác nhau lại có trẻ em của
riêng mình.
b. Quan niệm sai lầm về sự phát triển tâm lý trẻ em
Quan điểm duy tâm coi sự phát triển tâm lý trẻ em chỉ là sự tăng lên
hoặc giảm đi về số lượng các hiện tượng đang phát triển, mà không có sự
chuyển biến về chất lượng. Ví dụ: họ coi sự phát triển tâm lý trẻ em là sự tăng
số lượng từ của trẻ, tăng tốc độ hình thành kỹ xảo, tăng thời gian tập trung
chú ý, hay khối lượng tri thức được giữ lại trong trí nhớ... Sự tăng về số lượng
của các hiện tượng tâm lý có ý nghĩa nhất định trong sự phát triển của trẻ,
nhưng không thể giới hạn toàn bộ sự phát triển tâm lý của trẻ em vào những
chỉ số ấy.
Từ đó, những người theo quan niệm này đã nhìn nhận không kém sai
lầm về nguồn gốc của sự phát triển lâm lý. Quan niệm này xem sự phát triển
của mỗi hiện tượng như là một quá trình diễn ra một cách tự phát. Sự phát
triển diễn ra dưới ảnh hưởng của một sức mạnh nào đó mà người ta không
thể điều khiển được, không thể nghiên cứu được, không nhận thức được.
Quan niệm sai lầm này dược biểu hiện rõ ràng ở thuyết tiền định, thuyết
duy cảm, thuyết hội tụ hai yếu tố...
- Thuyết tiền định: những người theo thuyết này coi sự phát triển tâm lý
do các tiềm năng sinh vật gây ra và con người có tiềm năng đó ngay từ khi ra
đời. Mọi đặc điểm tâm lý chung và có tính chất cá thể đều là tiền định, đều có
sẵn trong các cấu trúc sinh vật là sự phát triển chỉ là quá trình trưởng thành,
chín muồi của những thuộc tính đã có sẵn ngay từ đầu và được quyết định
trước bằng con đường di truyền này.
Gần đây, sinh học đã phát hiện ra cơ chế gen của di truyền, người ta
bắt đầu liên hệ: những thuộc tính của nhân cách, năng lực cũng đã được mã
hoá, chương trình hoá trong các trang bị gen. Cụ thể, nhà di truyền học Anh
S.Auerbac cho rằng môi người bắt đầu sống "Khi trong tay có các gen cũng
như đấu thủ chơi một ván bài khi trong lay có các con bài. Đôi khi sự phân
phối có thể xấu đến mức thậm chí khó chờ đợi một kết quả vừa phải. Càng
hiếm có sự phân bố ưu việt đến mức để đạt được kết quả cao lại không đòi
hỏi một sự cố gắng nào".
Có lúc những người theo thuyết tiền định thường thể hiện dưới hình
thức mềm dịu hơn, ở chỗ có đề cập đến ý nghĩa của yếu tố môi trường.
Nhưng theo họ, môi trường chỉ là “yếu tố điều chỉnh”, “yếu tố thể hiện” một
nhân tố bất biến nào đó ở trẻ. Nhà tâm lý học Mỹ E.Toocdai cho rằng: "Tự
nhiên ban cho mỗi người một vốn nhất định, giáo dục cần phải làm bộc lộ vốn
đó là vốn gì và phải sử dụng nó bằng phương tiện tốt nhất". Và "vốn tự nhiên"
đó đặt ra giới hạn cho sự phát triển, cho nên một bộ phận học sinh tỏ ra
không đạt được kết quả nào đó "dù giảng dạy tốt, số khác lại tỏ ra có thành
tích “dù giảng dạy tồi”...
Như vậy vai trò của giáo dục đã bị hạ thấp. Giáo dục chỉ là nhân tố bên
ngoài có khả năng tăng nhanh hoặc kìm hãm quá trình bộc lộ những phẩm
chất tự nhiên, bị ức chế bởi tính di truyền. Từ đó, người ta đã rút ra kết luận
sư phạm sai lầm: sự can thiệp vào quá trình phát triển tự nhiên của trẻ là sự
tuỳ tiện, không thể tha thứ được.
- Thuyết duy cảm: Đối lập với thuyết tiền định, thuyết duy cảm giải thích
sự phát triển của trẻ chỉ bằng những tác động của môi trường xung quanh.
Theo những người thuộc trường phái này thì môi trường là nhân tố quyết định
sự phát triển của trẻ em, vì thế muốn nghiên cứu con người chỉ cần phân tích
cấu trúc môi trường của họ: môi trường xung quanh như thế nào thì nhân
cách của con người, cơ chế hành vi, những con đường phát triển của hành vi
sẽ như thế đó. Nhưng các nhà tâm lý học tư sản lại hiểu môi trường xã hội
một cách siêu hình, coi môi trường xã hội là bất biến, quyết định trước số
phận con người, còn con người được xem như là đối tượng thụ động trước
ảnh hưởng của môi trường.
Quan điểm này xuất hiện ở nước Anh, coi trẻ em sinh ra " như tờ giấy
trắng" hoặc "tấm bảng sạch sẽ". Sự phát triển tâm lý của trẻ hoàn toàn phụ
thuộc vào tác động bên ngoài, do vậy người lớn muốn vẽ nên tờ giấy cái gì thì
nó nên thế...
Quan điểm như vậy sẽ không giải thích được vì sao trong môi trường
như nhau, lại có những nhân cách rất khác nhau.
- Thuyết hội tụ hai yêu tố. Những người theo thuyết này tính tới tác
động của hai yếu tố (môi trường và tính di truyền) khi nghiên cứu trẻ em.
Nhưng họ hiểu về tác động của hai yếu tố đó một cách máy móc, dường như
sự tác động qua lại giữa chúng quyết định trực tiếp tới quá trình phát triển,
trong đó di truyền giữ vai trò quyết định và môi trường là điều kiện để biến
những đặc điểm tâm lý đã được định sẵn thành hiện thực.
Theo họ, sự phát triển là sự chín muồi của những năng lực, những nét
tính cách, những hứng thú và sở thích... mà trẻ sinh ra đã có. Những nét và
những đặc điểm tính cách... do cha mẹ hoặc tổ tiên truyền lại cho thế hệ sau
dưới dạng có sẵn, bất biến. Trong đó nhịp độ và giới hạn của sự phát triển là
tiền định.
Một số người theo thuyết này có đề cập đến ảnh hưởng của môi trường
đối với tốc độ chín muồi của năng lực và nét tính cách được truyền lại cho trẻ
(nhà tâm lý học Đức V.Stecmơ). Nhưng môi trường không phải là toàn bộ
những điều kiện và hoàn cảnh mà đứa trẻ (hay người lớn) sống, mà chỉ là gia
đình của trẻ. "Môi trường" đó được xem như cái gì riêng biệt, tách rời khỏi
toàn bộ đời sống xã hội. “Môi trường xung quanh” đó thường xuyên ổn định,
ảnh hưởng một cách định mệnh tới sự phát triển của trẻ. Tác động của môi
trường, cũng như ảnh hưởng của yếu tố sinh vật (di truyền) định trước sự
phát triển của trẻ, không phụ thuộc vào hoạt động sư phạm của nhà giáo dục
vào tính tích cực ngày càng tăng của trẻ.
Thuyết hội tụ hai yếu tố cũng sai lầm không kém gì thuyết tiền định là
thuyết duy cảm. Tính chất máy móc, siêu hình của các quan niệm này đều đã
bị phê phán.
Mặc dù quan niệm của những người đại điện cho các thuyết trên bề
ngoài có vẻ khác nhau, nhưng thực chất đều có những sai lầm giống nhau:
- Họ đều thừa nhận đặc điểm tâm lý của con người là bất biến hoặc là
tiền định, hoặc là do tiềm năng sinh vật di truyền, hoặc là ảnh hưởng của môi
trường bất biến. Với quan niệm như vậy thì trong trường hợp nào con em của
tầng lớp có đặc quyền, đặc lợi cũng đều có trình độ phát triển tâm lý hơn hẳn
con em giai cấp bóc lột (do họ có tố chất di truyền tốt hơn hoặc do họ sống
trong môi trường trí tuệ có tổ chức cao). Do vậy sự bất bình đẳng trong xã hội
là tất nhiên, là hợp lý.
- Các quan niệm này đã đánh giá không đúng vai trò của giáo đục. Họ
xem xét sự phát triển của trẻ em một cách tách rời và không phụ thuộc vào
những điều kiện cụ thể mà trong do quá trình phát triển tâm lý đang diễn ra.
Họ đã phủ nhận tính tích cực riêng của cá nhân, coi thường những mâu thuẫn
biện chứng được hình thành trong quá trình phát triển tâm lý. Coi đứa trẻ là
một thực thể tự nhiên, thụ động, cam chịu ảnh hưởng có tính chất được con
người, là thực thể xã hội tích cực, chủ động trước tự nhiên có thể cải tạo
được tự nhiên, xã hội và bản thân để phát triển nhân cách... Vì phủ nhận tính
tích cực của trẻ, nên không hiểu được vì sao trong những điều kiện cùng một
môi trường xã hội lại hình thành nên những nhân cách khác nhau về nhiều chỉ
số, hoặc vì sao có những người giống nhau về thế giới nội tâm, về nội dung
và hình thức hành vi lại được hình thành trong những môi trường xã hội khác
nhau.
c. Quan điểm duy vật biện chứng về sự phát triển tâm lý
Nguyên lý phát triển trong triết học Mác-lênin thừa nhận sự phát triển là
quá trình biến đổi của sự vật từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Đó
là một quá trình tích luỹ dần về số lượng dẫn đến sự thay đổi về chất lượng,
là quá trình nảy sinh cái mới trên cơ sở cái cũ, do sự đấu tranh giữa các mặt
đối lập nằm ngay trong bản thân sự vật, hiện tượng.
Quan điểm Mác xít này được vận dụng để xem xét sự phát triển tâm lý
trẻ em. Bản chất của sự phát triển tâm lý trẻ em không phải là sự tăng hoặc
giảm về số lượng, mà là một quá trình biến đổi về chất lượng tâm lý. Sự thay
đổi về lượng của các chức năng tâm lý dẫn đến sự thay đổi về chất và đưa
đến sự hình thành cái mới một cách nhảy vọt.
Sự phát triển tâm lý gắn liền với sự xuất hiện những đặc điểm mới về
chất - những cấu tạo tâm lý mới ở những giai đoạn lứa tuổi nhất định (ví dụ,
nhu cầu tự lập ở trẻ lên ba..) Trong các giai đoạn phát triển khác nhau, có sự
cải biến về chất của các quá trình tâm lý và toàn bộ nhân cách trẻ.
Xét trong toàn cục, phát triển là cả một quá trình kế thừa. Sự phát triển
tâm lý trẻ em là một quá trình trẻ em lĩnh hội nền văn hoá xã hội của loài
người.
Bằng lao động của mình, con người ghi lại kinh nghiệm, năng lực...
trong các công cụ sản xuất, các đồ dùng hàng ngày, các tác phẩm văn hoá
nghệ thuật..., con người đã tích luỹ kinh nghiệm thực tiễn xã hội của mình
trong các đối tượng do con người tạo ra và các quan hệ con người với con
người. Ngay từ khi ra dời đứa trẻ đã sống trong thế giới đối tượng và những
quan hệ đó. Đứa trẻ không chỉ thích nghi với thế giới đồ vật và hiện tượng do
con người tạo ra, mà còn lĩnh hội thế giới đó. Đứa trẻ đã tiến hành những
hoạt động căn bản tương ứng với hoạt động mà trước đó loài người đã thể
hiện vào trong đồ vật, hiện tượng. Nhờ cách đó nó lĩnh hội được những năng
lực đó cho mình. Quá trình đó là quá trình tâm lý trẻ phát triển.
Như vậy, phát triển tâm lý là kết quả hoạt động của chính đứa trẻ với
những đối tượng do loài người tạo ra.
Những đứa trẻ không tự lớn lên giữa môi trường. Nó chỉ có thể lĩnh hội
kinh nghiệm xã hội khi có vai trò trung gian của người lớn. Nhờ sự tiếp xúc
với người lớn và hướng dẫn của người lớn mà những quá trình nhận thức, kĩ
năng, kĩ xảo và cả những nhu cầu xã hội của trẻ được hình thành. Người lớn
giúp trẻ em nắm được ngôn ngữ, phương thức hoạt động...
Những biến đổi về chất trong tâm lý sẽ đưa đứa trẻ từ lứa tuổi này sang
lứa tuổi khác. Bất cứ một một mức độ nào của trình độ trước cũng là sự
chuẩn bị cho trình độ sau. Yếu tố tâm lý lúc đầu ở vị trí thứ yếu, sau chuyển
sang vị trí chủ yếu.
Tóm lại sự phát triển tâm lý của trẻ đầy biến động và diễn ra cực kì
nhanh chóng. Đó là một quá trình không phẳng lặng, mà có khủng hoảng và
đột biến. Chính hoạt động của đứa trẻ dưới sự hướng dẫn của người lớn làm
cho tâm lý của nó được hình thành và phát triển.
Nhưng, các nhà tâm lý học Mácxít cũng thừa nhận rằng, sự phát triển
tâm lý chỉ có thể xảy ra trên nền của một cơ sở vật chất nhất định (một cơ thể
người với những đặc điểm bẩm sinh di truyền cửa nó). Trẻ em sinh ra với
những đặc điểm bẩm sinh, di truyền nhất định. Vì vậy sự phát triển tâm lý của
mỗi người dựa trên cơ sở vật chất riêng. Sự khác nhau này có thể ảnh hưởng
tới tốc độ đỉnh cao... của các thành tựu của con người cụ thể trong một lĩnh
vực nào đó, có thể ảnh hưởng tới con đường và phương thức khác nhau của
sự phát triển các thuộc tính tâm lý. Chúng là tiền đề, điều kiện cần thiết để
phát triển tâm lý, những điều kiện đó không quyết định sự phát triển tâm lý, nó
có thể trở thành hiện thực hay không còn phụ thuộc vào một tổ hợp những
yếu tố khác nữa.
2. Quy luật chung của sự phát triển tâm lý trẻ em.
a. Tính không đồng đều của sự phát triển tâm lý
Trong những điều kiện bất kỳ, thậm chí ngay cả trong những điều kiện thuận
lợi nhất của việc giáo dục thì những biểu hiện tâm lý, những chức năng tâm lý
khác nhau... cũng không thể phát triển ở mức độ như nhau. Có những thời kỳ
tối ưu đối với sự phát triển một hình thức hoạt động tâm lý nào đó. Ví dụ: giai
đoạn thuận lợi nhất cho sự phát triển ngôn ngữ là thời kỳ từ 1 tuổi đến 5 tuổi;
cho sự hình thành nhiều kỹ xảo vận động là tuổi học sinh cấp I, cho sự hình
thành tư duy toán học là giai đoạn từ 15 - 20 tuổi.
b. Tính toàn vẹn của tâm lý
Cùng với sự phát triển tâm lý con người ngày càng có tính trọn vẹn,
thống nhất và bền vững. Sự phát triển tâm lý là sự chuyển biến dần các trạng
thái tâm lý thành các đặc điểm tâm lý cá nhân. Tâm lý trẻ nhỏ phần lớn là một
tổ hợp thiếu hệ thống những tâm trạng rời rạc khác nhau. Sự phát triển thể
hiện ở cho những tâm trạng đó dần dần chuyển thành các nét của nhân cách.
Ví dụ, tâm trạng vui vẻ, thoải mái nảy sinh trong quá trình lao động chung hợp
với lứa tuổi: nếu được lặp đi lặp lại thường xuyên sẽ chuyển thành lòng yêu
lao động.
Tính trọn vẹn của tâm lý phụ thuộc khá nhiều vào động cơ chỉ đạo hành
vi của trẻ. Cùng với giáo dục, cùng với sự mở rộng kinh nghiệm sống, những
động cơ hành vi của trẻ ngày càng trở nên tự giác, có ý nghĩa xã hội và ngày
càng bộc lộ rõ trong nhân cách của trẻ. Trẻ mẫu giáo thường hành động vì
muốn thoả mãn một điều gì đó và động cơ đó thay đổi luôn trong một ngày.
Nhưng thiếu niên và thanh niên thường hành động do động cơ xã hội, do tinh
thần nghĩa vụ, do sự phát triển toàn diện của bản thân... thúc đẩy.
c. Tính mềm dẻo và khả năng bù trừ
Hệ thần kinh của trẻ em rất mềm dẻo. Dựa trên tính mềm dẻo của hệ
thần kinh mà tác động của giáo dục có thể làm thay đổi tâm lý trẻ em.
Tính mềm dẻo cũng tạo ra khả năng bù trừ, khi một chức năng tâm lý
hoặc sinh lý nào đó yếu hoặc thiếu thì những chức năng tâm lý khác được
tăng cường, phát triển mạnh hơn để bù đắp hoạt động không đầy đủ của
chức năng bị yếu hay bị hỏng. Thí dụ: khuyết tật của thị giác được bù đắp
bằng sự phát triển mạnh mẽ hoạt động của thính giác. Trí nhớ kém có thể
được bù trừ bằng tính tổ chức cao, tính chính xác của hoạt động.
Đó là một số quy luật cơ bản của sự phát triển tâm lý trẻ em. Nhưng
những quy luật đó chỉ là một số xu thế của sự phát triển tâm lý của trẻ có thể
xảy ra. Những quy luật đó có sau so với ảnh hưởng của môi trường (trong đó
có giáo dục). Sự phát triển và ngay cả tính độc đáo của những xu thế đó cũng
phụ thuộc vào điều kiện sống của trẻ em (trước hết là giáo dục). Sự phát triển
tâm lý của trẻ em không tuân theo quy luật sinh học, mà tuân theo quy luật xã
hội. Dù có bộ óc tinh vi đến đâu chăng nữa, nhưng không sống trong xã hội
loài người thì trẻ cũng không thể trở thành thực thể người với đầy đủ tính xã
hội.
3. Dạy học, giáo dục và sự phát triển tâm lý
Trẻ chỉ có thể lĩnh hội kinh nghiệm xã hội nhờ sự tiếp xúc với người
lớn. Nhưng sự tiếp xúc của trẻ với người lớn có hiệu quả tốt với điều kiện là
sự tiếp xúc đó được tổ chức đặc biệt và chặt chẽ, nhất là trong quá trình hoạt
động sư phạm. Do vậy, giáo dục giữ vai trò chủ đạo đối với sự phát triển tâm
lý trẻ em. Giáo dục và dạy học là con đường đặc biệt để truyền đạt những
phương tiện hoạt động của con người (công cụ, kí hiệu), truyền đạt những
kinh nghiệm xã hội cho thế hệ sau. Khi nói tới vai trò chủ đạo của giáo dục,
dạy học, các nhà tâm lý học Mácxít nhấn mạnh, đó là quá trình tác động có
mục đích, có ý thức của thế hệ trưởng thành đối với thế hệ trẻ phạm hình
thành những phẩm chất nhất định của cá nhân đáp ứng được những nhu cầu
của xã hội.
Khi khẳng định vai trò chủ đạo của giáo dục, dạy học đối với sự phát
triển tâm lý trẻ em chúng ta cần lưu ý: tâm lý của con người mang tính chủ
thể, những tác động của điều kiện bên ngoài luôn luôn bị khúc xạ thông qua
kinh nghiệm sống của con người. Do vậy, những học sinh khác nhau có thể
có thái độ khác nhau trước cùng một yêu cầu của cô giáo.
Con người là chủ thể hoạt động, chủ thể trước những tác động của môi
trường. Do vậy, các tác động của bên ngoài quyết định tâm lý của con người
một cách gián tiếp thông qua quá trình tác động qua lại của con người với môi
trường, thông qua hoạt động của con người trong môi trường đó.
Hơn nữa, con người là một chủ thể tích cực có thể tự giác thay đổi
được chính bản thân mình - con người có thể tự giáo dục (ở tuổi thiếu niên,
tự ý thức phát triển mạnh mẽ, các em có thể tự giáo dục một cách có ý thức).
Nhưng quá trình tự giáo dục của trẻ không tách khỏi tác động của môi trường.
Nó được giáo dục kích thích, hướng dẫn... và diễn ra trong quá trình đứa trẻ
tác động qua lại tích cực với những người xung quanh.
Do vậy, những tác động như nhau, những điều kiện bên ngoài như
nhau có thể ảnh hưởng khác nhau đến trẻ em...
Giáo dục dạy học có vai trò chủ đạo đối với sự phát triển. Mối quan hệ giữa
giáo dục, dạy học và phát triển là mối quan hệ biện chứng. Hai quá trình này
không phải là hai quá trình diễn ra song song, mà chúng thống nhất với nhau,
có quan hệ tương hỗ nhau. Sự phát triển tâm lý của trẻ chỉ có thể diễn ra một
cách tốt đẹp trong những điều kiện của giáo dục và dạy học. Nhưng để giữ
được vai trò chủ đạo, giáo dục và dạy học phải kích thích, dẫn dắt sự phát
triển chứ không chờ đợi sự phát triển. Giáo dục phải đi trước một bước, phải
đón trước sự phát triển, tạo nên ở trẻ quá trình giải quyết mâu thuẫn liên tục
để thúc đẩy sự phát triển.
Tuy vậy, trong khi kích thích sự phát triển, đi trước sự phát triển một
bước, giáo dục và dạy học cần tính đến những đặc điểm của mức độ đã đạt
được ở trẻ, tính đến đặc điểm lứa tuổi và quy luật bên trong của sự phát triển.
Do vậy, khả năng của giáo dục và dạy học rất rộng lớn, nhưng không vô hạn.
Muốn tâm lý của trẻ phát triển đúng đắn rất cần có sự tự giáo dục của trẻ
trong tất cả các thời kỳ của cuộc đời.
III - SỰ PHÂN CHIA GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN TÂM LÝ
1. Quan niệm về giai đoạn phát triển của tâm lý
Có thể nói quan niệm bản chất của sự phát triển tâm lý con người như
thế nào thì quan niệm về lứa tuổi tương ứng như vậy.
Quan niệm sinh vật coi sự phát triển tâm lý như là một quá trình sinh
vật tự nhiên, đã khẳng định tính bất biến, tính tuyệt đối của các giai đoạn lứa
tuổi. Quan niệm đối lập lại phủ nhận khái niệm lứa tuổi. Họ coi sự phát triển
như là sự tích luỹ tri thức, kĩ năng, kĩ xảo một cách đơn giản.
Tâm lý học Mácxít, đại diện là L.X.Vưgôtxki, coi lứa tuổi là một thời kỳ
phát triển nhất định đóng kín một cách tương đối, mà ý nghĩa của nó được
quyết định bởi vị trí của thời kỳ đó trong cả quá trình phát triển chung, và ở đó
những quy luật phát triển chung bao giờ cũng được thể hiện một cách độc
đáo về chất. Khi chuyển từ lứa tuổi này sang lứa tuổi khác bao giờ cũng xuất
hiện những cấu tạo tâm lý mới chưa từng có trong các thời kỳ trước. Những
cấu tạo mới này cải tổ lại và làm biến đổi chính tiến trình phát triển.
Mỗi giai đoạn được quyết định bởi một tổ hợp nhiều điều kiện. Đó là
đặc điểm của những điều kiện sống và hoạt động của trẻ cùng với hệ thống
các yêu cầu đề ra cho trẻ trong giai đoạn đó; đặc điểm của các mối quan hệ
của trẻ với môi trường xung quanh; kiểu tri thức và hoạt động mà trẻ đã nắm
được cùng với phương thức lĩnh hội các tri thức đó và một yếu tố cần thiết
nữa là những đặc điểm của sự phát triền cơ thể trẻ ở giai đoạn đó. Những
đặc điểm lứa tuổi là đặc điểm chung. đặc trưng điển hình nhất: chỉ ra hướng
phát triển chung. Nhưng lứa tuổi không phải là phạm trù tuyệt đối, bất biến.
Giai đoạn lứa tuổi chỉ có ý nghĩa tương đối.
Tuổi chỉ có ý nghĩa là yếu tố thời gian trong quá trình phát triển của trẻ.
Trẻ cần thời gian chuẩn bị về mọi mặt để chuyển sang một giai đoạn phát
triển mới (để lớn lên về cơ thể, mở rộng quan hệ xã hội, tích luỹ tri thức,
phương thức hành động...). Nhưng tuổi không quyết định trực tiếp sự phát
triển nhân cách. Tuổi có thể phù hợp với trình độ phát triển tâm lý của trẻ
hoặc có thể đi nhanh hay chậm hơn... là do ta biết vận dụng thời gian và điều
kiện giáo dục để tổ chức cuộc sống của trẻ, tổ chức sự tiếp xúc của trẻ với
thế giới xung quanh có tốt hay không.
2. Phân chia giai đoạn phát triển tâm lý trẻ em
Căn cứ vào những thay đổi cơ bản trong điều kiện sống và hoạt động
của trẻ, căn cứ vào những thay đổi trong cấu trúc tâm lý của trẻ mà cả vào sự
trưởng thành của cơ thể trẻ em, người ta chia ra một số thời kỳ chủ yếu trong
sự phát triển tâm lý trẻ em:
- Giai đoạn trước tuổi học:
+ Tuổi sơ sinh: Thời kỳ 2 tháng đầu sau khi sinh
+ Tuổi hài nhi: Thời kỳ 2 tháng đến 12 tháng
+ Tuổi vườn trẻ: Từ 1 đến hết 3 năm
+ Tuổi mẫu giáo: Từ 3 đến hết 5 năm
- Giai đoạn tuổi học sinh:
+ Thời kỳ đầu tuổi học hay nhi đồng: Từ 6 đến 11, 12 tuổi.
+ Thời kỳ giữa tuổi học hay thiếu niên: Từ 11, 12 đến 14, 15 tuổi.
+ Thời kỳ cuối tuổi học hay đầu tuổi thanh niên: Từ 14, 15 đến 17, 18
tuổi.
Mỗi thời kỳ có một vị trí, vai trò nhất định trong quá trình chuyển từ đứa
trẻ mới sinh sang một nhân cách trưởng thành. Mỗi thời kỳ phát triển có
những nét tâm lý đặc trưng của mình, mà đứa trẻ phải trải qua. Sự chuyển từ
thời kỳ này sang thời kỳ khác bao giờ cũng gắn với sự xuất hiện những cấu
tạo tâm lý mới về chất.
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Tóm tắt quan điểm cơ bản của thuyết tiền định, thuyết duy cảm,
thuyết hội tụ hai yếu tố về nguồn gốc sự phát triển tâm lý trẻ em. Những
thuyết đó có đặc điểm gì cần phê phán?
2. Nêu quan điểm của tâm lý học duy vật biện chứng về sự phát triển
tâm lý trẻ em. Từ đó rút ra kết luận gì cho công tác sư phạm?
3. Tâm lý học duy vật biện chứng quan niệm như thế nào về quan hệ
giữa giáo dục, dạy học và sự phát triển tâm lý?
4. Tại sao nói giai đoạn phát triển tâm lý chỉ có ý nghĩa tương đối?
CÂU HỎI THẢO LUẬN
Quan điểm của tâm lý học duy vật biện chứng về trẻ em và sự phát
triển tâm lý trẻ em. Từ đó rút ra những kết luận cần thiết cho công tác sư
phạm
Nội dung chỉnh cần đề cập
- Quan niệm về sự phát triển tâm lý của trẻ
- Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển tâm lý trẻ em
- Vai trò của các yếu tố và mối tương quan của chúng trong sự phát
triển tâm lý của trẻ.
BÀI TẬP THỰC HÀNH
Anh (chị) hãy sưu tầm ca dao, tục ngữ phản ánh quan điểm của nhân
dân nước ta xoay quanh các vấn đề:
- Di truyền và sự phát triển tâm lý của trẻ em.
- Hoàn cảnh và sự phát triển tâm lý của trẻ em.
- Giáo dục và sự phát triển tâm lý của trẻ em.
- Tính tích cực hoạt động của trẻ và sự phát triển tâm lý của chúng.
Vận dụng quan điểm tâm lý học Mácxít phân tích những quan niệm
đúng, sai, chưa đầy đủ của các câu ca dao tục ngữ được sưu tầm.
Chương 2: TÂM LÝ HỌC LỨA TUỔI HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ
(Thiếu niên)
“Thiếu niên không còn là trẻ con. Nhưng chưa hẳn là người lớn”
I – VỊ TRÍ, Ý NGHĨA CỦA GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN TÂM LÝ Ở LỨA TUỔI
HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ
Lứa tuổi học sinh trung học cơ sở bao gồm những em có độ tuổi từ 11,
12 tuổi đến 14, 15 tuổi. Đó là những em đang theo học từ lớp 6 đến lớp 9 ở
trường trung học cơ sở.
Lứa tuổi này còn gọi là lứa tuổi thiếu niên và nó có một vị trí đặc biệt
trong thời kỳ phát triển của trẻ em. Vị trí đặc biệt này được phản ánh bằng
những tên gọi khác nhau của nó: “thời kỳ quá độ”, “tuổi khó bảo”, “tuổi khủng
hoảng”, “tuổi bất trị”... Những tên gọi đó nói lên tính phức tạp và tầm quan
trọng của lứa tuổi này trong quá trình phát triển của trẻ em.
Đây là thời kỳ chuyển từ thời thơ ấu sang tuổi trưởng thành.
Nội dung cơ bản của sự khác biệt ở lứa tuổi học sinh trung học cơ sở
với các em ở lứa tuổi khác là sự phát triển mạnh mẽ, thiếu cân đối về các mặt
trí tuệ, đạo đức. Sự xuất hiện những yếu tố mới của sự trưởng thành do kết
quả của sự biến đổi cơ thể, của sự tự ý thức, của các kiểu quan hệ với người
lớn, với bạn bè, của hoạt động học tập, hoạt động xã hội...
Yếu tố đầu tiên của sự phát triển nhân cách ở lứa tuổi học sinh trung
học cơ sở là tính tích cực xã hội mạnh mẽ của bản thân các em nhằm lĩnh hội
những giá trị, những chuẩn mực nhất định, nhằm xây dựng những quan hệ
thoả đáng với người lớn, bạn bè, và cuối cùng nhằm vào bản thân, thiết kế
nhân cách của mình, thiết kế tương lai của mình với ý đồ thực hiện những ý
định, mục đích, nhiệm vụ... một cách độc lập.
Tuy nhiên quá trình hình thành cái mới thường kéo dài về thời gian và
phụ thuộc vào điều kiện sống, hoạt động của các em. Do đó, sự phát triển
tâm lý ở lứa tuổi này diễn ra không đồng đều về mọi mặt. Điều đó quyết định
sự tồn tại song song "vừa tính trẻ con, vừa tính người lớn" ở lứa tuổi này. Mặt
khác, ở những em cùng độ tuổi lại có sự khác biệt về mức độ phát triển các
khía cạnh khác nhau của tính người lớn. Sự khác nhau đó do hoàn cảnh
sống, hoạt động khác nhau của các em. Hoàn cảnh đó có hai mặt:
1. Những yếu tố của hoàn cảnh kìm hãm sự phát triển tính người lớn
Trẻ chỉ bận vào việc học tập, không có những nghĩa vụ khác, nhiều bậc
cha mẹ có xu thể không để cho trẻ hoạt động, làm những công việc khác
nhau của gia đình, của xã hội.
2. Những yếu tố hoàn cảnh thúc đẩy sự phát triển tính người lớn
Nguồn thông tin phong phú, sự gia tăng về thể chất, về phát dục, nhiều
bậc cha mẹ quá bận, gia đình gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống, đòi hỏi
đứa trẻ phải lao động nhiều để sinh sống. Điều đó đưa đến trẻ sớm có tính
độc lập, tự chủ hơn.
Tất cả những điều kiện khác nhau của cuộc sống tạo ra sự khác biệt
căn bản trong sự phát triển những khía cạnh khác nhau của tính người lớn ở
lứa tuổi học sinh trung học cơ sở.
Phương hướng phát triển tính người lớn ở lứa tuổi này có thể xảy ra
theo các hướng sau:
- Đối với một số em, tri thức sách vở làm cho các em hiểu biết nhiều,
nhưng còn có nhiều mặt khác nhau trong đời sống thì như trẻ con, các em
hiểu biết rất ít.
- Có những em rất ít quan tâm đến việc học tập ở nhà trường; những tri
thức cơ bản mà nhà trường giảng dạy thì các em ít chú ý đến, mà chỉ quan
tâm đến những vấn đề làm thế nào cho phù hợp với mốt, coi trọng việc giao
tiếp với người lớn, với bạn bè lớn tuổi, để bàn bạc, trao đổi với họ các vấn đề
trong cuộc sống, để tỏ ra mình cũng như người lớn.
- Ở một số em khác không biểu hiện tính người lớn ra bên ngoài,
nhưng thực tế đang cố gắng rèn luyện mình có đức tính ở người lớn như tính
dũng cảm, tự chủ, độc lập... còn quan hệ với bạn bè khác giới như trẻ con.
Những hướng trên phát triển tính người lớn nêu trên có khác nhau,
nhưng đều có một tham số chung, đó là mong muốn thớ thành "người lớn",
nhưng lại biểu hiện tính người lớn khác nhau, vì thế mà hình thành những giá
trị của cuộc sống có nội dung khác nhau.
II – NHỮNG ĐIỀU KIỆN PHÁT TRIỂN TÂM LÝ Ở LỨA TUỔI HỌC SINH
TRUNG HỌC CƠ SỞ
1. Sự biến đổi về mặt giải phẫu sinh lý ở lứa tuổi học sinh trung học cơ
sở
- Đây là lứa tuổi phát triển mạnh mẽ nhưng không đồng đều bề mặt cơ
thể. Tầm vóc của các em lớn lên trông thấy. Trung bình một năm các em cao
lên được 5, 6 cm. Các em nữ ở độ tuổi 12, 13 phát triển chiều cao nhanh hơn
các em nam cùng độ tuổi, nhưng đến 18, 20 tuổi thì sự phát triển chiều cao
dừng lại. Các em nam ở độ tuổi 15, 16 tuổi thì cao đột biến, vượt các em nữ
và đến 24, 25 tuổi mới dừng lại.
Trọng lượng cơ thể mỗi năm tăng từ 2,4 kg đến 6 kg.
- Sự phát triển của hệ xương, mà chủ yếu là sự phát triển các xương
tay, xương chân rất nhanh, nhưng xương ngón tay, ngón chân lại phát triển
chậm. Vì thế ở lứa tuổi này các em không mập béo, mà cao, gầy thiếu cân
đối, các em có vẻ lóng ngóng vụng về, không khéo léo khi làm việc, thiếu thận
trọng hay làm đổ vỡ. Điều đó gây cho các em một biểu hiện tâm lý khó chịu.
Các em ý thức được sự lóng ngóng vụng về của mình, mà cố che giấu nó
bằng điệu bộ không tự nhiên cầu kỳ, tỏ ra mạnh bạo, can đảm để người khác
không chú ý tới vẻ bề ngoài của mình. Chỉ một sự mỉa mai chế giễu nhẹ
nhàng về hình thể, tư thế đi đứng của các em đều gây cho các em những
phản ứng mạnh mẽ.
- Sự phát triển của hệ thống tim mạch cũng không cân đối. Thể tích của
tim tăng rất nhanh, hoạt động của tim mạnh mẽ hơn, nhưng kích thước của
mạch máu lại phát triển chậm. Do đó có một số rối loạn tạm thời của hệ tuần
hoàn, tăng huyết áp, tim đập nhanh, hay gây nhức đầu, chóng mặt, mệt mỏi
khi làm việc.
- Tuyến nội tiết bắt đầu hoạt động mạnh (đặc biệt là tuyến giáp trạng),
thường dẫn đến sự rối loạn của hoạt động thần kinh. Do đó, các em dễ xúc
động, dễ bực tức, nổi khùng. Vì thế, ta thấy ở các em thường có những phản
ứng gay gắt, mạnh mẽ và những cơn xúc động.
- Hệ thần kinh của thiếu niên còn chưa có khả năng chịu đựng những
kích thích mạnh, đơn điệu, kéo dài. Do tác động của những kích thích như
thế, thường gây cho các em tình trạng bị ức chế hay ngược lại xảy ra tình
trạng bị kích động mạnh. Vì vậy sự phong phú của các ấn tượng, những chấn
động thần kinh mạnh, hoặc sự chờ đợi lâu dài về những biến cố gây xúc
động... đều có tác động mạnh mẽ tới lứa tuổi học sinh trung học cơ sở, có thể
làm cho một số em bị ức chế, uể oải, thờ ơ, lơ đễnh, tản mạn, số khác làm
những hành vi xấu, không đúng bản chất của các em.
- Sự thay đổi về thể chất ở lứa tuổi học sinh trung học cơ sở đã làm cho
các em có những đặc điểm nhân cách khác với các em ở lứa tuổi trước. Lứa
tuổi này là lứa tuổi có nghị lực dồi dào, có tính tích cực cao, có nhiều dự định
lớn lao. Là phụ huynh, là các nhà giáo dục cần thấy được đặc điểm này, để tổ
chức công tác dạy học là giáo dục các em có hiệu quả, tránh định kiến.
Một đặc điểm nữa cần phải chú ý dấn ở lứa tuổi này, đó là thời kỳ phát
dục. Sự phát dục ở lứa tuổi học sinh trung học cơ sở là một hiện tượng bình
thường, diễn ra theo quy luật sinh học và chịu ảnh hưởng của môi trường tự
nhiên và môi trường xã hội.
Sự phát dục ở các em trai vào khoảng 15, 16 tuổi, ở các em nữ vào
khoảng 13, 14 tuổi. Biểu hiện ở thời kỳ này là cơ quan sinh dục phát triển và
xuất hiện những dấu biểu phụ của giới tính. Thời kỳ phát dục sớm hay muộn
phụ thuộc vào yếu tố dân tộc và yếu tố khí hậu. Các em sống ở miền Nam
thường phát dục sớm hơn các em ở miền Bắc. Sự phát dục còn phụ thuộc
vào chế độ sinh hoạt cá nhân, sức khoẻ, bệnh tật, ăn uống, lao động, nghỉ
ngơi, đời sống tinh thần của các em nữa. Hiện nay do điều kiện xã hội có
nhiều thay đổi, nên có sự gia tốc phát triển thể chất và phát dục.
Đến 15, 16 tuổi, giai đoạn phát dục đã kết thúc, có thể sinh đẻ được tuy
nhiên các em chưa trưởng thành về mặt cơ thể và đặc biệt là sự trưởng thành
về mặt xã hội. Chính vì thế mà một số nhà khoa học cho rằng ở lứa tuổi học
sinh trung học cơ sở không có sự cân đối giữa phát dục, giữa bản năng
tương ứng, những tình cảm và ham muốn đượm màu sắc tình dục với mức
độ trưởng thành về mãi xã hội và tâm lý. Nhiều khó khăn trở ngại ở lứa tuổi
này chính ở chỗ các em chưa biết đánh giá, chưa biết kìm hãm và hướng dẫn
bản năng, ham muốn của mình một cách đúng đắn; chưa biết kiểm tra tình
cảm và hành vi, chưa biết xây dựng mối quan hệ đúng đắn với người bạn
khác giới. Vì thế mà các nhà giáo dục cần phải giúp đỡ các em một cách tế
nhị, khéo léo để các em hiểu đúng vấn đề, đừng làm cho các em băn khoăn lo
ngại.
2. Sự thay đổi của điều kiện sống
a. Đời sống gia đình của học sinh trung học cơ sở
Ở lứa tuổi này địa vị của các em trong gia đình đã thay đổi, được gia
đình thừa nhận như là một thành viên tích cực của gia đình, được cha mẹ,
anh chị giao cho những nhiệm vụ cụ thể như chăm sóc em nhỏ khi cha mẹ đi
vắng, như nấu cơm, dọn dẹp nhà cửa, chăn nuôi gia súc... ở các gia đình neo
đơn, các em phải tham gia lao động thực sự để góp phần nâng cao thu nhập
của gia đình, các em đã ý thức được các nhiệm vụ đó và thực hiện tích cực.
Điều quan trọng và có ý nghĩa lớn đối với các em là đã được tham gia
bàn bạc một số công việc của gia đình, về những việc của cha mẹ, anh chị,
quan tâm đến việc xây dựng và bảo vệ uy tín của gia đình hơn các em học
sinh tiểu học. Những sự thay đổi đó đã động viên, kích thích học sinh trung
học cơ sở hoạt động tích cực, độc lập tự chủ.
b. Đời sống trong nhà trường của học sinh trung học cơ sở
Hoạt động học tập và các hoạt động khác của học sinh trung học cơ sở
có nhiều sự thay đổi, có tác động quan trọng tới sự hình thành những đặc
điểm tâm lý lứa tuổi học sinh trung học cơ sở như:
+ Bắt đầu thay đổi về nội dung dạy học:
Bắt đầu vào học trường trung học cơ sở, các em được tiếp xúc với
nhiều môn học khác nhau, mỗi môn học bao gồm một hệ thống tri thức với
những khái niệm trừu tượng, khái quát, có nội dung phong phú, sâu sắc, do
đó, đòi hỏi thay đổi cách học. Các em không thể học thuộc từng bài, mà phải
biết cách lập dàn bài, tóm tắt, nắm bắt ý chính, dựa vào các ý chính mà trình
bày toàn bộ bài học theo cách hiểu của mình.
Sự phong phú về tri thức từng môn học làm cho khối lượng tri thức các
em lĩnh hội dược tăng lên nhiều. Tầm hiểu biết của các em được mở rộng
+ Sự thay đổi về phương pháp dạy học và hình thức học tập: Các em
được học nhiều môn, nhiều thầy cô giảng dạy. Mỗi môn học có phương pháp
phù hợp với bộ môn đó, mỗi thầy cô dạy có cách trình bày, có phương pháp
độc đáo của riêng mình, sử dụng các hình thức dạy học khác nhau. Sự khác
nhau này đã ảnh hưởng đến việc lĩnh hội, đến sự phát triển trí tuệ và nhân
cách của các em. Thái độ say sưa, hứng thú học tập, việc hình thành và phát
triển cách lập luận độc đáo cùng những nét tính cách quý báu của các em
đều do ảnh hưởng của cách giảng dạy và nhân cách làm người thầy.
c. Đời sống của học sinh trung học cơ sở trong xã hội
Ở lứa tuổi này các em được xã hội thừa nhận như một thành viên tích
cực, và được giao một số công việc nhất định trên nhiều lĩnh vực khác nhau
như tuyên truyền cổ động, giữ trật tự đường phố, giúp đỡ gia đình thương
binh liệt sĩ, tham gia các tổ chăm sóc trâu bò. các tổ kỹ thuật nông nghiệp... ở
lứa tuổi này các em thích làm công tác xã hội, vì:
+ Có sức lực đã hiểu biết nhiều, muốn được một người thừa nhận mình
là người lớn, muốn làm những công việc được mọi người biết đến, nhất là
những công việc làm với người lớn.
+ Cho rằng công tác xã hội, là việc làm của người lớn, và có ý nghĩa
lớn lao. Do đó được làm các công việc xã hội là thể hiện mình đã là người
lớn, và muốn thừa nhận mình là người lớn. Đó là một nhu cầu của các em, vì
thế nhiều khi các em bỏ công việc gia đình học tập mà tích cực tham gia công
việc ở ngoài xã hội.
+ Hoạt động xã hội là hoạt động có tính chất tập thể. Ở lứa tuổi này các
em thích làm những công việc có tính chất tập thể, những công việc liên quan
đến nhiều người và có được nhiều người cùng tham gia.
Do tham gia công tác xã hội, mà quan hệ của học sinh trung học cơ sở
được mở rộng, các em được tiếp xúc với nhiều người, nhiều vấn đề của xã
hội, do đó tầm hiểu biết được mở rộng, kinh nghiệm cuộc sống phong phú
lên, nhân cách của các em được phát triển.
Tóm lại, do có sự thay đổi điều kiện sống, điều kiện hoạt động của các
em ở trong gia đình, nhà trường, xã hội, mà vị trí các em được nâng lên. Các
em ý thức được sự thay đổi này và tích cực hoạt động cho phù hợp với sự
thay đổi đó. Do đó tâm lý, nhân cách của học sinh trung học cơ sở được hình
thành và phát triển phong phú hơn ở các lứa tuổi trước.
III – MỘT SỐ QUAN NIỆM VỀ "KHỦNG HOẢNG" TRONG SỰ PHÁT TRIỀN
TÂM LÝ Ở LỨA TUỔI HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ
Trong tâm lý học đã tồn tại những quan điểm khác nhau về vấn đề
"khủng hoảng" ở lứa tuổi học sinh trung học cơ sở. Một trong những quan
điểm đã tồn tại lâu dài (gần 1/4 thế kỷ) đó là quan niệm sinh vật hóa lứa tuổi
này. Quan điểm này cho rằng, những đặc điểm phát triển đột biến ở lứa tuổi
học sinh trung học cơ sở là do nguyên nhân sinh vật.
Những người đại diện cho quan niệm này là C. Khôn và Z. Frơt. Họ cho
rằng thời kỳ học sinh trung học cơ sở là thời kỳ "khủng hoảng", thời kỳ có
những hiện tượng không tránh khỏi như “điên loạn”, “thô bạo”, “vô chính
phủ”... Tất cả cái đó là do nguyên nhân sinh vật, do thời kỳ phát dục gây ra.
Vào khoảng những năm 20 - 30 của thế kỷ này, các nhà tâm lý học đã
bắt đầu tập trung sức lực vào nghiên cứu để chống lại quan niệm trên. Ở các
nước khác nhau các nhà khoa học đã tích luỹ được những số liệu nghiên cứu
cụ thể, đã làm sáng tỏ sự phụ thuộc nhân cách của lứa tuổi học sinh trung
học cơ sở vào nguyên nhân xã hội của nó. Về phương hướng này phải kể
đến sự đóng góp rất to lớn của các nhà tâm lý học, giáo dục học Liên Xô cũ.
Thực tiễn giáo dục của Macarencô là một ví dụ điền hình về nguyên nhân xã
hội của các đặc điểm tâm lý của trẻ.
Các nhà nhân chủng học cũng góp phần đáng kể vào việc chống lại
quan niệm trên. Những công trình nghiên cứu của họ, có ý nghĩa rất lớn bề
mặt lý luận. Họ đã chứng minh hoàn cảnh cụ thể của cuộc sống quyết định:
+ Thời gian dài hay ngắn của lứa tuổi này.
+ Có hay không có "cuộc khủng hoảng", sự xung đột, những khó khăn
của lứa tuổi này.
+ Bản chất của sự chuyển từ trẻ con sang người lớn.
Từ những kết quả nghiên cứu của mình, họ đã bác bỏ quan niệm sinh
vật của Z. Frơt, và cho rằng bản chất tự nhiên trong con người không có thể
mâu thuẫn với xã hội, bởi vì cái tự nhiên trong con người đã mang tính chất
xã hội.
Lênin đã phát triển những tư tưởng của các nhà nhân chủng học. Ông
đã phân tích vị trí của thiếu niên trong xã hội hiện đại và thời kỳ xung đột từ
trẻ con đến người lớn. Từ đó xác nhận rằng trong xã hội tồn tại hai nhóm
người: nhóm trẻ con và nhóm người lớn, và cho rằng lứa tuổi học sinh trung
học cơ sở là trẻ con vận động từ nhóm trẻ con sang nhóm người lớn. Ở lứa
tuổi này có sự mong muốn chuyển vào nhóm người lớn. Nhưng các em chưa
được thừa nhận là người lớn, vì các em ở giữa hai nhóm người này. Ông cho
rằng, mức độ khó khăn, xung đột ở lứa tuổi học sinh trung học cơ sở phụ
thuộc vào sự phân biệt gay gắt những nhóm trẻ con và những nhóm người
lớn trong xã hội, và thời kỳ này kéo dài, hay ngắn phụ thuộc vào khi trẻ con
còn ở giữa hai nhóm này.
L.X.Vưgôxki khi nghiên cứu lứa tuổi học sinh trung học cơ sở cũng đặt
vấn đề cần thiết phải xem xét những tổ chức mới được hình thành trong nhân
cách của lứa tuổi này và làm rõ hoàn cảnh xã hội của sự phát triển của nó.
Hoàn cảnh xã hội trong mỗi lứa tuổi có một hệ thống quan hệ không lặp lại
giữa trẻ con và môi trường. Sự cải tổ lại hệ thống quan hệ này tạo nên nôi
dung chính của "cuộc khủng hoảng" ở lứa tuổi học sinh trung học cơ sở.
Tóm lại, sự phát triển những tư tưởng trong sự giải thích "cuộc khủng
hoảng" ớ lứa tuổi học sinh trung học cơ sở đã được tích luỹ và khái quát lại
dần và cho rằng những đặc điểm biểu hiện và diễn biến của thời kỳ này được
xác định bởi hoàn cảnh xã hội cụ thể của cuộc sống, bằng vị trí xã hội của các
em trong thế giới người lớn.
IV – HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP VÀ SỰ PHÁT TRIỂN TRÍ TUỆ
1. Đặc điểm hoạt động học tập ở nhà trường trung học cơ sở
Hoạt động học tập là hoạt động chủ đạo của lứa tuổi học sinh, nhưng
đến học sinh trung học cơ sở, hoạt động học tập được xây dựng lại một cách
cơ bản so với lứa tuổi học sinh tiểu học.
Các công trình nghiên cứu của các nhà tâm lý học đã chỉ ra răng, ở thời
kỳ đầu của lứa tuổi học sinh trung học cơ sở chưa có kỹ năng cơ bản để tổ
chức tự học (các em chỉ tự học khi có bài tập, nhiệm vụ được giao) sau khi
chuyển sang mức độ cao hơn (độc lập nắm vững tài liệu mới, những tri thức
mới). Bắt đầu ở lứa tuổi này cũng là bắt đầu hình thành mức độ hoạt đông
học tập cao nhất. Đối với các em ý nghĩa của hoạt động học tập dần dần
được xem như là hoạt động độc lập hướng vào sự thoả mãn nhu cầu nhận
thức. Nhiều công trình nghiên cứu đã cho thấy động cơ học tập của học sinh
trung học cơ sở có một cấu trúc phức tạp, trong đó các động cơ xã hội khác
nhau được kết hợp thành một khối (học tập để phục vụ xã hội, để lao động
tốt...). Những động cơ nhận thức và những động cơ riêng (ví dụ muốn có uy
tín, có địa vị trong lớp...) liên quan với lòng mong muốn tiến bộ và lòng tự
trọng. Đôi khi ta lại thấy có sự mâu thuẫn giữa sự mong muốn trao đổi tri thức
với thái độ bàng quan và thậm chí thái độ xấu đối với học tập, thái độ "phớt
đời" đối với điểm số.
Sở dĩ có tình trạng trên, là do nguyên nhân như sau: Do phản ứng độc
đáo của lứa tuổi này đối với thất bại trong học tập; do xung đột với giáo viên.
Các em thường xuyên hay xúc động mạnh khi thất bại trong học tập, nhưng
lòng tự trọng thường làm các em che dấu, thờ ơ, lãnh đạm đối với thành tích
học tập. Nhiều lúc chúng ta thấy các em thường nhắc bài cho nhau. Việc làm
này của các em có nhiều động cơ khác nhau. Nhưng các nhà tâm lý học đã
xác nhận rằng, đó là động cơ thuộc về mặt nhận thức, đạo đức của các em.
Các em nhắc bài cho bạn là muốn giúp bạn, bởi vì các em quan niệm giúp
bạn là giúp bằng mọi phương tiện. Có em nhắc bài cho bạn để tỏ rõ sự hiểu
biết của mình, muốn khoe khoang sự chăm chỉ học bài của mình. Tóm lại,
động cơ học tập của học sinh trung học cơ sở rất phong phú đa dạng, nhưng
chưa bền vững, nhiều khi còn thể hiện sự mâu thuẫn của nó.
Thái độ đối với học tập của học sinh trung học cơ sở cũng rất khác
nhau. Tất cả các em đều ý thức được tầm quan trọng và sự cần thiết của học
tập, nhưng thái độ biểu hiện rất khác nhau. Sự khác nhau đó được thể hiện
như sau:
- Trong thái độ học tập: Từ thái độ rất tích cực, có trách nhiệm đến thái
độ lười biếng, thờ ơ, thiếu trách nhiệm trong học tập.
- Trong sự hiểu biết chung: Từ mức độ phát triển cao và sự ham hiểu
biết nhiều lĩnh vực tri thức khác nhau ở một số em, nhưng ở một số em khác
thì mức độ phát triển rất yếu, tầm hiểu biết rất hạn chế.
- Trong phương thức lĩnh hội tài liệu học tập: Từ chỗ có kỹ năng học
tập độc lập, có nhiều cách học đến mức hoàn toàn chưa có kỹ năng học tập
độc lập, chỉ biết học thuộc lòng từng bài, từng câu, từng chữ.
- Trong hứng thú học tập: Từ hứng thú biểu hiện rõ rệt đối với một lĩnh
vực tri thức nào đó và có những việc làm có nội dung cho đến mức độ hoàn
toàn không có hứng thú nhận thức, cho việc hoàn toàn gò ép, bắt buộc.
Nhiều công trình nghiên cứu đã chỉ ra rằng, để giúp các em có thái độ
đúng đắn với việc học tập, thì:
- Tài liệu học tập phải súc tích về nội dung khoa học.
- Tài liệu học tập phải gắn với cuộc sống của các em làm cho các em
hiểu rõ ý nghĩa của tài liệu học tập.
- Tài liệu phải gợi cảm, gây cho học sinh hứng thú học tập.
- Trình bày tài liệu, phải gợi cho học sinh có nhu cầu tìm hiểu tài liệu đó.
- Phải giúp đỡ các em biết cách học, có phương pháp học tập phù hợp.
2. Sự phát triển trí tuệ của học sinh trung học cơ sở
Sự thay đổi tính chất và các hình thức hoạt động học tập cùng với óc tò
mò, ham hiểu biết phát triển đòi hỏi hoạt động trí tuệ của học sinh trung học
cơ sở phát triển cao hơn các lứa tuổi trước.
- Học sinh trung học cơ sở có khả năng phân tích, tổng hợp phức tạp
hơn khi tri giác các sự vật, hiện tượng. Khối lượng trị giác tăng lên, tri giác trở
nên có kế hoạch, có trình tự và hoàn thiện hơn.
Ở lứa tuổi này trí nhớ cũng được thay đổi về chất. Đặc tính cơ bản của
lứa tuổi này là sự tăng cường tính chất chủ định của các chức năng này. Trí
nhớ dần dần mang tính chất của những quá trình được điều chỉnh, điều khiển
và có tổ chức.
Học sinh trung học cơ sở có nhiều tiến bộ trong việc ghi nhớ tài liệu
trừu tượng, từ ngữ. Những kỹ năng tổ chức hoạt động tư duy của học sinh
trung học cơ sở nhằm ghi nhớ tài liệu nhất định, kỹ năng nắm vững phương
tiện ghi nhớ được phát triển ở mức độ cao hơn nhiều so với học sinh tiểu học.
Học sinh trung học cơ sở bắt đầu biết sử dụng những phương pháp đặc biệt
để ghi nhớ và nhớ lại. Khi ghi nhớ các em đã biết tiến hành các thao tác như
so sánh, hệ thống hoá, phân loại. Tốc độ ghi nhớ và khối lượng tài liệu ghi
nhớ được tăng lên. Ghi nhớ máy móc ngày càng nhường chỗ cho ghi nhớ
lôgic, ghi nhớ ý nghĩa. Hiệu quả của trí nhớ trở nên tốt hơn.
Nếu trước đây các em học sinh tiểu học thường cố gắng ghi nhớ từng
chữ, từng bài, thì bây giờ các em học sinh trung học cơ sở thường phản đối
yêu cầu của giáo viên bắt buộc thuộc lòng và có khuynh hướng muốn tái hiện
bằng lời nói của mình. Vì thế giáo viên phải:
+ Dạy cho học sinh phương pháp đúng đắn của việc ghi nhớ lôgic (kỹ
năng biết phân đoạn theo ý nghĩa, biết tách ra các ý làm điểm tựa để nhớ,
biết ôn tập, lập dàn bài sơ lược để ghi nhớ...).
+ Cần giải thích cho các em rõ sự cần thiết phải ghi nhớ chính xác
những định nghĩa, những quy luật. Ở dây phải chỉ cho các em thấy nếu ghi
nhớ thiếu một từ nào đó, thì ý nghĩa của nó không còn chính xác nữa.
+ Rèn luyện cho các em kỹ năng trình bày chính xác nội dung bài học
theo cách diễn đạt của mình.
+ Khi tổ chức quá trình ghi nhớ, học sinh trung học cơ sở thường kiểm
tra hiệu quả ghi nhớ bằng sự nhận lại; nhưng hiệu quả của ghi nhớ không
phải đo bằng sự nhận lại, mà bằng sự tái hiện. Vì thế kiểm tra sự ghi nhớ,
phải bằng sự tái hiện thì mới biết được hiệu quả của việc ghi nhớ.
Một đặc điểm nữa của trí nhớ học sinh trung học cơ sở là sự thiết lập
các mối liên tưởng phức tạp hơn, gắn tài liệu mới với tài liệu cũ đưa tài liệu cũ
vào hệ thống tri thức. I.A. Xamarin và những người cộng tác với ông đã xác
định quá trình hình thành hệ thống tri thức đều dựa vào việc thiết lập các mối
liên tưởng ở mức độ khác nhau. Từ việc thành lập những liên tưởng riêng lẻ
(liên tưởng cục bộ) và liên tưởng hệ thống (tri thức về từng vấn đề tồn tại tách
rời nhau). Đó là đặc điểm liên tưởng của học sinh tiểu học nhưng ở học sinh
trung học cơ sở đặc điểm liên tưởng ở mức độ cao hơn, từ mức độ hình
thành mối liên tưởng bên trong bộ môn (phản ánh hệ thống tri thức bên trong
các môn học) sang mối liên tưởng giữa các môn học (giữa các hệ thống tri
thức). Điều này giúp cho học sinh trung học cơ sở thấy được mối liên hệ giữa
tri thức của các môn học khác nhau, hiểu biết về cái chung, sự thống nhất tri
thức của nhiều khoa học khác nhau.
- Sự phát triển chú ý của học sinh trung học cơ sở diễn ra rất phức tạp.
Một mặt,chú ý có chủ định bền vững được hình thành; nhưng mặt khác, sự
phong phú của những ấn tượng, sự rung động tích cực và xung động mạnh
mẽ của lứa tuổi này thường dẫn đến sự chú ý không bền vững. Tất cả những
cái đó đều phụ thuộc vào điều kiện làm việc, nội dung tài liệu, tâm trạng, thái
độ của các em đối với công việc học tập.
Ở lứa tuổi này tính lựa chọn của chú ý phụ thuộc rất nhiều vào tính chất
của đối tượng học tập và mức độ hứng thú của các em với đối tượng đó. Vì
thế ở giờ học này các em không tập trung, chú ý, đãng trí, nhưng ở giờ học
khác thì lại làm việc rất nghiêm chỉnh, tập trung chú ý rất cao độ.
Nhiều công trình nghiên cứu cho thấy ở lứa tuổi học sinh trung học cơ
sở, khối lượng chú ý tăng lên rõ rệt; khả năng di chuyển chú ý từ thao tác này
đến thao tác khác, từ hoạt động này đến hoạt động khác cũng được tăng
cường rõ rệt. Các em có thể đang học môn này chuyển sang học môn khác
vẫn tập trung chú ý vào việc học tập dễ dàng.
Biện pháp tốt nhất để tổ chức sự chú ý của học sinh trung học cơ sở là
tổ chức hoạt động học tập sao cho các em ít có thời gian nhàn rỗi, cũng
không có ý muốn và khả năng bị thu hút vào một đối tượng nào đó trong thời
gian lâu dài. Những công việc hứng thú, giờ học hứng thú có tác dụng gây sự
say mê, tập trung chú ý của các em. Nhưng cần lưu ý, không phải bao giờ
các em cũng thích cái vui, cái dễ hiểu; mà chính những giờ học có nội dung,
có sự chuyển tiếp từ hình thức làm việc này đến hình thức làm việc khác, đòi
hỏi các em phải hoạt động nhận thức tích cực đó chính là hình thức tốt làm
cho các em có khả năng tự tổ chức sự chú ý của mình.
Những công trình nghiên cứu của N.F. Đôbrưnhin và những người
khác đã cho bi,t. từ chú ý có chủ định được duy trì bằng nỗ lực ý chí, các em
ngày càng chuyển sang chú ý sau chủ định. Nó được xuất hiện do sự lôi cuốn
dần dần của công tiệc có tính “phát minh”, và vì vậy không đòi hỏi các em
phải có những nỗ lực ý chí để duy trì sự chú ý của mình.
Hoạt động tư duy của học sinh trung học cơ sở cũng có những biến đổi
cơ bản. Do nội dung các môn học phong phú, đa dạng, phức tạp đòi hỏi tính
chất mới mẻ của công việc lĩnh hội tri thức: đòi hỏi phải dựa vào tư duy độc
lập, khả năng khái quát hoá, trừu tượng hoá, so sánh, phán đoán mới rút ra
được kết luận, mới hiểu được tài liệu học. Vì thế tư duy của học sinh trung
học cơ sở đã phát triển ở mức độ cao hơn học sinh tiểu học.
Việc học tập môn toán là điều kiện quan trọng đối với quá trình phát
triển tư duy khái quát và tư duy luận. Sự bắt đầu học tập có hệ thống môn đại
số cũng kích thích quá trình chuyển sang trình độ khái quát cao hơn, và điều
này liên quan đến quá trình khái quát hoá cái đã khái quát hay trừu tượng cái
đã trừu tượng (số học là sự trừu tượng hoá từ các đồ vật; đại số là sự trừu
tượng hoá các số từ các số cụ thể). Việc học tập hình học làm phát triển kỹ
năng phán đoán, chứng minh lý giải các vấn đề một cách chặt chẽ logic.
Qua mỗi năm học ở nhà trường trung học cơ sở, khả năng tư duy trừu
tượng được phát triển. Sự thay đổi mối quan hệ giữa tư duy hình tượng cụ
thể sang tư duy trừu tượng, khái quát mà sự chiếm ưu thế của tư duy trừu
tượng là đặc điểm cơ bản về hoạt động tư duy của lứa tuổi học sinh trung học
cơ sở. Tuy nhiên những thành phần hình tượng - cụ thể của tư duy bộ phận
không giảm xuống, không mất đi mà vẫn tồn tại và được phát triển. Nó vẫn
giữ một vai trò quan trọng trong cấu trúc tư duy. Sự coi thường những đặc
điểm của tư duy trực quan - hình tượng của lứa tuổi này sẽ dẫn đến tình trạng
khi phân tích những dấu hiệu bản chất trừu tượng này một cách hình thức.
Nhiều công trình nghiên cứu đã chỉ ra rằng, nhiều học sinh trung học cơ
sở hiểu những dấu hiệu bản chất của đối tượng, nhưng không phải bao giờ
cũng phân biệt được dấu hiệu đó trong tất cả các trường hợp cụ thể. Ví dụ
chưa nhận biết được tam giác vuông, khi góc vuông ở phía trên và cạnh
huyền ở phía đáy của tam giác.
Ý nghĩa của thành phần hình tượng - cụ thể của tư duy là ở chỗ trong
nhiều trường hợp tác động của những ấn tượng trực tiếp cảm tính mạnh mẽ
hơn tác động của từ ngữ. Kết quả là sẽ thu hẹp hay mở rộng không đúng một
khái niệm nào đó. Vì thế nếu chỉ dừng ở tư duy trực quan - hình tượng, mà
không quan tâm đến sự phát triển tư duy trừu tượng cho các em thì là một sai
lầm rất nghiêm trọng. Bởi vì, nếu các em không phát triển tư duy trừu tượng
thì không thể nào lĩnh hội được các khái niệm khoa học trong chương trình
học tập của các em. Do đó dạy học phải tạo điều kiện để phát triển tư duy
trừu tượng cho các em.
V – HOẠT ĐỘNG GIAO TIẾP CỦA LỨA TUỔI HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ
SỞ
1. Sự hình thành kiểu quan hệ mới
Học sinh trung học cơ sở có nhu cầu mở rộng quan hệ với người lớn
và mong muốn người lớn quan hệ với nó một cách bình đẳng như người lớn,
không muốn người lớn coi nó như trẻ con như trước đây nữa.
Kiểu quan hệ của người lớn với trẻ em trước đây (kiểu quan hệ không
bình đẳng giữa người lớn và trẻ em) không còn thích hợp với lứa tuổi này. Vì
thế các em mong muốn cải tổ lại mối quan hệ này theo chiều hướng hạn chế
quyền hạn của người lớn, mở rộng quyền hạn của mình. Các em mong muốn
người lớn tôn trọng nhân cách, phẩm giá, tin tưởng và mở rộng tính độc lập.
Để duy trì sự thay đổi mối quan hệ giữa các em và người lớn, các em
có những hình thức chống cự, không phục tùng xem như là phương tiện để
thay đổi kiểu quan hệ cũ bằng kiểu quan hệ mới. Sự nảy sinh ở lứa tuổi này
cảm giác về sự trưởng thành và nhu cầu được người lớn thừa nhận nó là
người lớn đã đưa đến vấn đề quyền hạn của người lớn và các em trong quan
hệ với nhau cần phải thay đổi.
Như vậy, việc chuyển tiếp từ kiểu quan hệ giữa người lớn với trẻ em
(đặc thù cho lứa tuổi thơ ấu), sang kiểu quan hệ mới về chất (đặc thù cho sự
giao tiếp của học sinh trung học cơ sở với người lớn), tạo điều kiện phát triển
mức độ trưởng thành ở lứa tuổi này. Tất nhiên việc chuyển tiếp này có thể
diễn ra thuận lợi, hoặc khó khăn, điều này phụ thuộc hoàn toàn vào sự hiểu
biết và thái độ của người lớn.
Tuy nhiên, không phải mọi người lớn đều nhận thức được nhu cầu cần
thay đổi kiểu quan hệ với các em. Điều này mâu thuẫn với xu thế "vươn lên
làm người lớn" của các em, với cảm giác trưởng thành của các em, hạn chế
chuyển từ trẻ em sang người lớn, là đặc trưng của lứa tuổi này, là nguyên
nhân dẫn đến sự xung đột giữa các em với người lớn.
Nếu người lớn không chịu thay đổi quan hệ với các em thì các em sẽ
trở thành người khởi xướng thay đổi mối quan hệ này. Nếu người lớn chống
đối, sẽ gây ra phản ứng của các em với người lớn dưới dạng bướng bỉnh, bất
bình, không vâng lời... Nếu người lớn thấy sự phản đối của các em, mà không
suy xét về phía mình để thay đổi mối quan hệ với các em thì sự xung đột giữa
các em và người lớn còn kéo dài đến hết thời kỳ của lứa tuổi này.
Những quan hệ xung đột giữa các em và người lớn làm nảy sinh những
hành vi tương ứng ở các em: xa lánh người lớn, không tin tưởng vào người
lớn, cho rằng người lớn không hiểu các em, khó chịu một cách có ý thức đối
với những yêu cầu, những đánh giá, nhận xét của người lớn. Tác động giáo
dục của người lớn đối với các em bị giảm sút.
Tính độc lập và quyền bình đẳng trong quan hệ của các em với người
lớn là vấn đề phức tạp và gay gắt nhất trong sự giao tiếp của các em với
người lớn nói riêng, trong việc giáo dục các em ở lứa tuổi này nói chung.
Nhưng khó khăn đặc thù này có thể giải quyết, nếu người lớn và các em xây
dựng được mối quan hệ bạn bè, hoặc quan hệ có hình thức hợp tác trên cơ
sở tôn trọng, tin tưởng giúp đỡ lẫn nhau. Sự hợp tác này cho phép người lớn
đặt các em vào vị trí mới - vị trí của người giúp việc và người bạn trong những
công việc khác nhau, còn bản thân người lớn trở thành người mẫu mực, và
người bạn tin cậy của các em.
2. Hoạt động giao tiếp của học sinh trung học cơ sở với bạn bè
Sự giao tiếp của học sinh trong học cơ sở với bạn bè cùng lứa tuổi. Mối
quan hệ của học sinh trung học cơ sở với bạn bè cùng lứa tuổi phức tạp, đa
dạng hơn nhiều so với học sinh tiểu học. Sự giao tiếp giữa các em đã vượt ra
ngoài phạm vi học tập, phạm vi nhà trường, mà còn mở rộng trong những
hứng thú mới, những việc làm mới, những quan hệ mới trong đời sống của
các em. Các em có nhu cầu lớn trong giao tiếp với bạn bè vì một mặt, các em
rất khao khát được giao tiếp và cùng hoạt động chung với nhau, các em có
nguyện vọng được sống tập thể, có những đồng chí, bạn bè thân thiết, tin
cậy; mặt khác cũng biểu hiện nguyện vọng không kém phần quan trọng là
được bạn bè công nhận, thừa nhận, tôn trọng mình.
Học sinh trung học cơ sở coi quan hệ bạn bè cùng lứa tuổi là quan hệ
riêng của những cá nhân. Các em cho rằng các em có quyền hành động độc
lập trong quan hệ này và bảo vệ quyền đó của mình. Nếu có sự can thiệp thô
bạo của người lớn, khiến các em cảm thấy bị xúc phạm, thì các em chống đối
lại.
Nếu như quan hệ của các em với người lớn càng không thuận hoà, thì
sự giao tiếp với bạn bè cùng lứa tuổi càng tăng và ảnh hưởng của bạn bè đến
với các em càng mạnh mẽ.
Sự bất hoà trong quan hệ bạn bè cùng lớp, sự thiếu thốn bạn thân hoặc
tình cảm bị phá vỡ đều sinh ra những cảm xúc nặng nề, được xem như là bi
kịch của cá nhân. Tình huống khó chịu nhất đối với các em là sự phê bình
thẳng thắn của lập thể, của bạn bè; còn hình phạt nặng nề nhất đối với các
em là bị bạn bè tẩy chay, không muốn chơi với mình.
- Học sinh tiểu học khi kết bạn thường căn cứ nhiều vào sức học, hành
vi, tính tích cực xã hội của các bạn, tức là vào việc bạn mình thực hiện những
yêu cầu của người lớn như thế nào. Đối với học sinh trung học cơ sở, điều
quan trọng để kết bạn là những phẩm chất về tình bạn. "Bộ luật tình bạn" đối
với các em bao gồm những chuẩn mực quan trọng nhất là sự tôn trọng lẫn
nhau, quan hệ bình đẳng và giúp đỡ lẫn nhau, lòng trung thành, tính trung
thực. Đó là cơ sở để học sinh trung học cơ sở giao tiếp và kết bạn với nhau.
- Tình bạn trong đời sống của học sinh trung học cơ sở. Các em ở lứa
tuổi này thích giao tiếp và kết bạn với nhau. Nhưng không phải là mọi em ở
trong lớp đều được các em yêu thích giao tiếp như nhau. Các em chỉ kết bạn
với những em được mọi người tôn trọng, có uy tín và tiến bộ rõ rệt về một mặt
nào đó. Lúc đầu phạm vi giao tiếp của các em thường rộng, nhưng không
được bền vững, có tính chất tạm thời. Đó là thời kỳ lựa chọn. tìm kiếm người
bạn thân. Về sau những em có cùng hứng thú, cùng yêu thích một loại hoạt
động nào đó thì gắn bó với nhau, thích giao tiếp, trò chuyện với nhau. Phạm
vi giao tiếp của các em hẹp lại nhưng quan hệ giữa các em gắn bó với nhau
hơn. Trong giao tiếp, các em chịu ảnh hưởng của nhau. Nhiều em lúc đầu
không ưa thích hoạt động nào đó, nhưng vì chơi với bạn, bạn hứng thú về
hoạt động đó, mà làm lây sang em. Vì vậy giao tiếp với bạn là nguồn nảy sinh
hứng thú mới.
Những ưu điểm của bạn mà nó yêu thích đã làm cho các em phải suy
nghĩ về mình một cách nghiêm túc, mong muốn mình cũng có những mặt ưu
điểm như bạn. Do đó bạn bè có thể trở thành hình mẫu đối với các em.
Trong quan hệ giao tiếp của lứa tuổi tuổi này, trò chuyện giữ một vị trí
có ý nghĩa đối với các em. Trong chuyện trò, các em đã kể cho nhau về mọi
mặt sinh hoạt, đời sống và suy nghĩ của mình. Các em có thể nói với nhau cả
những chuyện, những điều "bí mật", mà những điều này nhiều khi các em
không kể với ai, kể cả với người thân trong gia đình. Vì thế mà các em yêu
cầu rất cao đối với bạn bè. Các em hiểu đã là bạn bè của nhau thì phải cởi
mở, hiểu nhau, tế nhị, vị tha, đồng cảm và giữ bí mật cho nhau.
Lý tưởng tình bạn của lứa tuổi này là “sống chết có nhau”, “chia ngọt sẻ
bùi”. Điều đó không chỉ là sự tuân theo một cách nghiêm ngặt bộ luật tình
bạn, mà còn là vấn đề người này thâm nhập vào mọi mặt đời sống của người
kia, cùng nhau hợp tác hành động. Càng lớn lên sự thâm nhập về tâm hồn
giữa các em càng được nảy nở, phát triển. Đó là sự giống nhau về đời sống
nội tâm, là sự hiểu biết nhau, sự trùng hợp về những giá trị của các nhân, về
những hoài bão, về quan điểm trong cuộc sống.
Sự hình thành tình bạn như thế, thường đi kèm theo những cuộc thảo
luận, tranh luận với nhau về những vấn đề: cuộc sống, đạo đức, thẩm mỹ...
Trong quá trình tranh luận sẽ hình thành những quan niệm, mà các em ý thức
được đó là những quan niệm riêng, nghĩa là niềm tin ở các em bắt đầu được
hình thành.
Tóm lại, sự giao tiếp ở lứa tuổi học sinh trung học cơ sở là một loại
hoạt động đặc biệt, mà đối tượng của hoạt động này là người khác - người
bạn, người đồng chí. Nội dung của hoạt động này là sự xây dựng những quan
hệ qua lại và những hành động trong quan hệ đó. Nhờ hoạt động giao tiếp mà
các em nhận thức được người khác và bản thân mình; đồng thời qua đó làm
phát triển một số kỹ năng như kỹ năng so sánh phân tích, khái quát hành vi
của bản thân và của bạn, làm phong phú thêm những biểu tượng về nhân
cách của bạn và của bản thân.
Đó chính là ý nghĩa to lớn của sự giao tiếp ở lứa tuổi này với sự hình
thành và phát triển nhân cách. Vì thế làm công tác giáo dục phải tạo điều kiện
để các em giao tiếp với nhau, hướng dẫn và kiểm tra sự quan hệ của các em,
tránh tình trạng ngăn cấm, hạn chế sự giao tiếp của lứa tuổi này.
- Một số đặc điểm quan hệ giữa các em trai và các em gái ở lứa tuổi
này.
Quan hệ giữa các em trai và em gái ở lứa tuổi này có sự thay đổi cơ
bản so với lứa tuổi trước. Ở đây ta thấy các em đã bắt đầu biểu hiện quan
tâm lẫn nhau, ưa thích nhau, và do đó quan tâm đến vẻ bề ngoài của mình.
Lúc đầu sự quan tâm tới giới khác, ở các em nam có tính chất tản mạn,
và biểu hiện bằng phương thức đặc thù của trẻ con, như xô đẩy, trêu trọc các
em gái... Các em gái nhiều khi rất bực, không hài lòng về những hành vi như
thế của các em trai, song động cơ của những hành vi đó, các em gái ý thức
được và không bực tức, giận dỗi các em trai.
Về sau những quan hệ này được thay đổi, mất tính trực tiếp, xuất hiện
tính ngượng ngùng, nhút nhát, e thẹn, ở một số em điều đó được bộc lộ trực
tiếp còn một số khác thì được che giấu bằng thái độ thờ ơ giả tạo, "khinh bỉ"
đối với người khác giới. Hành vi này mang tính chất hai mặt: sự quan tâm đến
nhau cùng tồn tại với sự phân biệt nam nữ.
Có nhiều em học sinh lớp 8 và lớp 9, đặc biệt là các em gái hay để ý
đến vấn đề ai yêu ai.
Mặc dù điều này các em rất bí mật, nếu có kể cho ai biết, thì chỉ kể cho
những người bạn thật tin cậy, thân thiết. Nhưng không hiểu làm sao các em
khác lại biết dược. Điều đó chứng tỏ các em theo dõi quan sát nhau, để ý đến
nhau thường xuyên.
Ở học sinh các lớp 6 và 7, tình bạn giữa nam và nữ ít nảy sinh, nhưng
ở các học sinh lớp 8 và 9 thì nảy sinh thường xuyên hơn, sự gắn bó giữa hai
bên rất thắm thiết và nó giữ một vị trí lớn trong cuộc sống của các em. Ở các
lớp này đã xuất hiện các nhóm hỗn hợp (cả nam lẫn nữ vao một nhóm bạn).
Hứng thú đối với người bạn cùng học khác giới có ý nghĩa không nhỏ đối với
sự phát triển nhân cách của các em. Mối cảm tình, thân thiện đã động viên
nhau, gợi ý cho nhau, kích thích nhau làm điều tốt, giúp nhau bảo vệ lẫn
nhau. Đây là một động lực tự hoàn thiện bản thân của từng em.
Tất nhiên trong quan hệ nam nữ ở lứa tuổi này cũng có thể lệch lạc.
Quan niệm về bạn khác giới không đúng mực, đi đến chỗ đua đòi chơi bời, bỏ
việc học tập và những công việc khác. Vì thế làm công tác giáo dục phải thấy
được điều đó, để hướng dẫn, uốn nắn cho tình bạn giữa nam và nữ ở lứa tuổi
này thật lành mạnh, trong sáng và nó là động lực để giúp nhau trong học tập,
trong tu dưỡng.
VI – SỰ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH Ở LỨA TUỔI HỌC SINH TRUNG HỌC
CƠ SỞ
1. Sự hình thành tự ý thức của học sinh trung học cơ sở
Ở lứa tuổi học sinh tiểu học nguyện vọng tự đánh giá mình như "Tôi
hơn người ở cái gì"; "Tôi đã có tính như thế nào?"; "Tôi có cái gì tốt?"; "Tôi có
những khuyết điểm gì?"... chưa cao. Nhưng ở lứa tuổi học sinh trung học cơ
sở đã bắt đầu xuất hiện sự quan tâm đến bản thân, đến những phẩm chất
nhân cách của mình. Ở các em đã xuất hiện nhu cầu tự đánh giá, nhu cầu so
sánh mình với người khác. Các em đã bắt đầu xem xét mình, vạch cho mình
một nhân cách tương lai, muốn hiểu biết mặt mạnh, mặt yếu trong nhân cách
của mình.
Sự bắt đầu hình thành và phát triển tự ý thức đã gây nhiều ấn tượng
sâu sắc đến toàn bộ đời sống tâm lý của lứa tuổi này, đến hoạt động học tập,
đến sự hình thành mối quan hệ qua lại với mọi người. Tự ý thức không có
nghĩa là tách rời khỏi thực tế, khỏi thế giới cảm xúc bên trong; không phải là
sự thể hiện độc nhất nguyện vọng tự nhận thức, tự mổ xẻ; tự phân tích triền
miên, vô bổ. Nhu cầu tự ý thức tự nảy sinh từ nhu cầu cuộc sống, từ hoạt
động thực tiễn, từ yêu cầu mong muốn của người lớn, của tập thể quy định.
Do sự phát triển mối quan hệ với tập thể, với đời sống xã hội, mà học sinh
trung học cơ sở nảy sinh nhu cầu đánh giá khả năng của mình, tìm kiếm vị trí
của mình, hành vi của mình giúp cho các em hoặc ngăn cản các em đạt được
lòng mong muốn trở thành người lớn.
Sự tự ý thức của lứa tuổi này được bắt đầu từ sự tự nhận thức hành vi
của mình. Lúc đầu các em tự nhận thức những hành vi riêng lẻ. sau đó là
toàn bộ hành vi của mình. Cuối cùng các em nhận thức về những phẩm chất
đạo đức, tính cách và khả năng của mình
Sự hình thành tự ý thức của các em là một quá trình diễn ra dần dần.
Cơ sở đầu tiên của sự tự ý thức của các em là sự nhận xét đánh giá của
người khác, nhất là người lớn. Vì thế các em ở đầu lứa tuổi này hình như
nhận xét mình bằng con mắt của người khác. Tuổi các em càng nhiều, các
em bắt đầu có khuynh hướng độc lập phân tích và đánh giá nhân cách của
mình hơn.
Nhiều công trình nghiên cứu đã cho thấy, không phải toàn bộ những
nét tính cách được các em ý thức cùng một lúc. Những phẩm chất được các
em ý thức được trước, đó là những phẩm chất có liên quan đến nhiệm vụ học
tập. Ví dụ như tính kiên trì, sự chú ý, sự chuyên cần...
- Sau đó là thể hiện thái độ với người khác. Ví dụ: tình đồng chí, tình
bạn, tính vị tha, tính nhẫn nại, tính bướng bỉnh...
- Tiếp đến là những phẩm chất thể hiện thái độ đối với bản thân. Ví dụ:
tính khiêm tốn, tính tự cao, tính khoe khoang, tính tự phê...
- Cuối cùng là những nét tính cách tổng hợp thể hiện nhiều mặt của
nhân cách. Ví dụ: tình cảm trách nhiệm, lòng tự trọng, danh dự, tính nguyên
tắc, tính mục đích.
Sở dĩ quá trình hình thành sự tự ý thức diễn ra như trên vì:
- Hoạt động học tập và thái độ đối với mọi người được các em xác định
là mặt biểu hiện chủ yếu của nhân cách.
- Những nét tính cách như tính khiêm tốn, tính tự cao, tính khoe
khoang... là những nét tính cách các em dễ nhận thấy khi giao tiếp với mọi
người.
- Còn những nét tính cách như tình cảm trách nhiệm, tính nguyên tắc,
tính mục đích là những nét tính cách phức tạp tổng hợp do đó mà các em khó
nhận thấy ngay.
Đặc điểm quan trọng về tự ý thức của lứa tuổi này là sự mâu thuẫn
giữa nhu cầu tìm hiểu bản thân với kĩ năng chưa đầy đủ để phân tích đúng
đắn sự biểu lộ của nhân cách. Trên cơ sở đó nảy sinh những xung đột do
mâu thuẫn giữa mức độ kì vọng của các em với địa vị thực tế của chúng trong
tập thể, mâu thuẫn giữa thái độ của các em với bản thân, đối với những phẩm
chất nhân cách của mình và thái độ của các em đối với người lớn, đối với bạn
bè cùng lứa tuổi. Vì thế A.G.Côvaliov nhận xét rằng, sự đánh giá đúng đắn
nhân cách của lứa tuổi này quan trọng như thế nào, để đừng gây cho các em
hai rung cảm trái ngược nhau: tự cao và kém cỏi.
Ý nghĩa quyết định nhất để phát triển tự ý thức ở lứa tuổi học sinh trung
học cơ sở là cuộc sống tập thể của các em, nơi mà nhiều mối quan hệ giá trị
đúng đắn. Mối quan hệ này sẽ hình thành ở các em lòng tự tin vào sự tự đánh
giá của mình là những yêu cầu ngày càng cao đối với hành vi, hoạt động của
các em, nguyện vọng tìm kiếm một vị trí trong hệ thống những mối quan hệ xã
hội đúng đắn với các em, cũng đồng thời giúp cho sự phát triển về mặt tự ý
thức của các em.
Như vậy trên cơ sở phát triển tự ý thức và thái độ nhận thức thức thực tế;
trên cơ sở yêu cầu ngày càng cao đối với chúng. Vị trí mới mẻ của các em
trong tập thể, đã làm nảy sinh khát vọng tự tu dưỡng nhằm mục đích phát
triển cho bản thân những nét tính cách tốt, khắc phục những nét tính cách lạc
hậu, những khuyết điểm, sai lầm của mình.
2. Sự hình thành tình cảm ở lứa tuổi học sinh trung học cơ sở
Tâm Lí Học Lứa Tuổi Và Tâm Lí Học Sư Phạm.pdf
Tâm Lí Học Lứa Tuổi Và Tâm Lí Học Sư Phạm.pdf
Tâm Lí Học Lứa Tuổi Và Tâm Lí Học Sư Phạm.pdf
Tâm Lí Học Lứa Tuổi Và Tâm Lí Học Sư Phạm.pdf
Tâm Lí Học Lứa Tuổi Và Tâm Lí Học Sư Phạm.pdf
Tâm Lí Học Lứa Tuổi Và Tâm Lí Học Sư Phạm.pdf
Tâm Lí Học Lứa Tuổi Và Tâm Lí Học Sư Phạm.pdf
Tâm Lí Học Lứa Tuổi Và Tâm Lí Học Sư Phạm.pdf
Tâm Lí Học Lứa Tuổi Và Tâm Lí Học Sư Phạm.pdf
Tâm Lí Học Lứa Tuổi Và Tâm Lí Học Sư Phạm.pdf
Tâm Lí Học Lứa Tuổi Và Tâm Lí Học Sư Phạm.pdf
Tâm Lí Học Lứa Tuổi Và Tâm Lí Học Sư Phạm.pdf
Tâm Lí Học Lứa Tuổi Và Tâm Lí Học Sư Phạm.pdf
Tâm Lí Học Lứa Tuổi Và Tâm Lí Học Sư Phạm.pdf
Tâm Lí Học Lứa Tuổi Và Tâm Lí Học Sư Phạm.pdf
Tâm Lí Học Lứa Tuổi Và Tâm Lí Học Sư Phạm.pdf
Tâm Lí Học Lứa Tuổi Và Tâm Lí Học Sư Phạm.pdf
Tâm Lí Học Lứa Tuổi Và Tâm Lí Học Sư Phạm.pdf
Tâm Lí Học Lứa Tuổi Và Tâm Lí Học Sư Phạm.pdf
Tâm Lí Học Lứa Tuổi Và Tâm Lí Học Sư Phạm.pdf
Tâm Lí Học Lứa Tuổi Và Tâm Lí Học Sư Phạm.pdf
Tâm Lí Học Lứa Tuổi Và Tâm Lí Học Sư Phạm.pdf
Tâm Lí Học Lứa Tuổi Và Tâm Lí Học Sư Phạm.pdf
Tâm Lí Học Lứa Tuổi Và Tâm Lí Học Sư Phạm.pdf
Tâm Lí Học Lứa Tuổi Và Tâm Lí Học Sư Phạm.pdf
Tâm Lí Học Lứa Tuổi Và Tâm Lí Học Sư Phạm.pdf
Tâm Lí Học Lứa Tuổi Và Tâm Lí Học Sư Phạm.pdf
Tâm Lí Học Lứa Tuổi Và Tâm Lí Học Sư Phạm.pdf
Tâm Lí Học Lứa Tuổi Và Tâm Lí Học Sư Phạm.pdf
Tâm Lí Học Lứa Tuổi Và Tâm Lí Học Sư Phạm.pdf
Tâm Lí Học Lứa Tuổi Và Tâm Lí Học Sư Phạm.pdf
Tâm Lí Học Lứa Tuổi Và Tâm Lí Học Sư Phạm.pdf
Tâm Lí Học Lứa Tuổi Và Tâm Lí Học Sư Phạm.pdf
Tâm Lí Học Lứa Tuổi Và Tâm Lí Học Sư Phạm.pdf
Tâm Lí Học Lứa Tuổi Và Tâm Lí Học Sư Phạm.pdf
Tâm Lí Học Lứa Tuổi Và Tâm Lí Học Sư Phạm.pdf
Tâm Lí Học Lứa Tuổi Và Tâm Lí Học Sư Phạm.pdf
Tâm Lí Học Lứa Tuổi Và Tâm Lí Học Sư Phạm.pdf
Tâm Lí Học Lứa Tuổi Và Tâm Lí Học Sư Phạm.pdf
Tâm Lí Học Lứa Tuổi Và Tâm Lí Học Sư Phạm.pdf
Tâm Lí Học Lứa Tuổi Và Tâm Lí Học Sư Phạm.pdf
Tâm Lí Học Lứa Tuổi Và Tâm Lí Học Sư Phạm.pdf
Tâm Lí Học Lứa Tuổi Và Tâm Lí Học Sư Phạm.pdf
Tâm Lí Học Lứa Tuổi Và Tâm Lí Học Sư Phạm.pdf
Tâm Lí Học Lứa Tuổi Và Tâm Lí Học Sư Phạm.pdf
Tâm Lí Học Lứa Tuổi Và Tâm Lí Học Sư Phạm.pdf
Tâm Lí Học Lứa Tuổi Và Tâm Lí Học Sư Phạm.pdf

More Related Content

What's hot

Hệ thống TỪ LOẠI trong chương trình Tiếng Việt - (danh từ,động từ,tính từ,đại...
Hệ thống TỪ LOẠI trong chương trình Tiếng Việt - (danh từ,động từ,tính từ,đại...Hệ thống TỪ LOẠI trong chương trình Tiếng Việt - (danh từ,động từ,tính từ,đại...
Hệ thống TỪ LOẠI trong chương trình Tiếng Việt - (danh từ,động từ,tính từ,đại...Nhận Viết Đề Tài Trọn Gói ZALO 0932091562
 
Giao duc học là một khoa học
Giao duc học là một khoa họcGiao duc học là một khoa học
Giao duc học là một khoa họcPe Tii
 
Tam ly hoc dai cuong
Tam ly hoc dai cuongTam ly hoc dai cuong
Tam ly hoc dai cuongforeman
 
GIÁO TRÌNH GIÁO DỤC HỌC - TẬP 2
GIÁO TRÌNH GIÁO DỤC HỌC - TẬP 2 GIÁO TRÌNH GIÁO DỤC HỌC - TẬP 2
GIÁO TRÌNH GIÁO DỤC HỌC - TẬP 2 nataliej4
 
GIÁO TRÌNH TÂM LÝ HỌC SƯ PHẠM ĐẠI HỌC
GIÁO TRÌNH TÂM LÝ HỌC SƯ PHẠM ĐẠI HỌC GIÁO TRÌNH TÂM LÝ HỌC SƯ PHẠM ĐẠI HỌC
GIÁO TRÌNH TÂM LÝ HỌC SƯ PHẠM ĐẠI HỌC nataliej4
 
CƠ SỞ NGÔN NGỮ HỌC VÀ TIẾNG VIỆT
CƠ SỞ NGÔN NGỮ HỌC VÀ TIẾNG VIỆT CƠ SỞ NGÔN NGỮ HỌC VÀ TIẾNG VIỆT
CƠ SỞ NGÔN NGỮ HỌC VÀ TIẾNG VIỆT nataliej4
 
Một số công cụ đánh giá năng lực
Một số công cụ đánh giá năng lựcMột số công cụ đánh giá năng lực
Một số công cụ đánh giá năng lựcDiu Diu
 
Thực trạng và biện pháp xử lý stress của học sinh lớp 12 trường thpt hoài đức...
Thực trạng và biện pháp xử lý stress của học sinh lớp 12 trường thpt hoài đức...Thực trạng và biện pháp xử lý stress của học sinh lớp 12 trường thpt hoài đức...
Thực trạng và biện pháp xử lý stress của học sinh lớp 12 trường thpt hoài đức...Thanh Đỗ
 
Bài giảng tâm lý học đại cương
Bài giảng tâm lý học đại cươngBài giảng tâm lý học đại cương
Bài giảng tâm lý học đại cươngjackjohn45
 
TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH nataliej4
 
Câu hỏi ôn tập Tâm lý học 1
Câu hỏi ôn tập Tâm lý học 1Câu hỏi ôn tập Tâm lý học 1
Câu hỏi ôn tập Tâm lý học 1Sùng A Tô
 
Giáo Trình Giáo Dục Học Đại Cương
Giáo Trình Giáo Dục Học Đại Cương Giáo Trình Giáo Dục Học Đại Cương
Giáo Trình Giáo Dục Học Đại Cương nataliej4
 
Thuyết phân tâm học trong tham vấn tâm lý
Thuyết phân tâm học trong tham vấn tâm lýThuyết phân tâm học trong tham vấn tâm lý
Thuyết phân tâm học trong tham vấn tâm lýLenam711.tk@gmail.com
 
giáo trình lịch sử đảng cộng sản việt nam
giáo trình lịch sử đảng cộng sản việt namgiáo trình lịch sử đảng cộng sản việt nam
giáo trình lịch sử đảng cộng sản việt namhainguyen01011993
 
Câu hỏi on thi Tâm lí học 2
Câu hỏi on thi Tâm lí học 2Câu hỏi on thi Tâm lí học 2
Câu hỏi on thi Tâm lí học 2Sùng A Tô
 
VĂN HỌC THIẾU NHI.pdf
VĂN HỌC THIẾU NHI.pdfVĂN HỌC THIẾU NHI.pdf
VĂN HỌC THIẾU NHI.pdfjackjohn45
 
Lê Văn Nam - Tổng kết tâm lý học giới tính
Lê Văn Nam - Tổng kết tâm lý học giới tínhLê Văn Nam - Tổng kết tâm lý học giới tính
Lê Văn Nam - Tổng kết tâm lý học giới tínhLenam711.tk@gmail.com
 

What's hot (20)

Hệ thống TỪ LOẠI trong chương trình Tiếng Việt - (danh từ,động từ,tính từ,đại...
Hệ thống TỪ LOẠI trong chương trình Tiếng Việt - (danh từ,động từ,tính từ,đại...Hệ thống TỪ LOẠI trong chương trình Tiếng Việt - (danh từ,động từ,tính từ,đại...
Hệ thống TỪ LOẠI trong chương trình Tiếng Việt - (danh từ,động từ,tính từ,đại...
 
Giao duc học là một khoa học
Giao duc học là một khoa họcGiao duc học là một khoa học
Giao duc học là một khoa học
 
Tam ly hoc dai cuong
Tam ly hoc dai cuongTam ly hoc dai cuong
Tam ly hoc dai cuong
 
Luận Văn Thạc Sĩ Tâm Lý Học Mức Độ Stress Của Sinh Viên
Luận Văn Thạc Sĩ Tâm Lý Học Mức Độ Stress Của Sinh ViênLuận Văn Thạc Sĩ Tâm Lý Học Mức Độ Stress Của Sinh Viên
Luận Văn Thạc Sĩ Tâm Lý Học Mức Độ Stress Của Sinh Viên
 
GIÁO TRÌNH GIÁO DỤC HỌC - TẬP 2
GIÁO TRÌNH GIÁO DỤC HỌC - TẬP 2 GIÁO TRÌNH GIÁO DỤC HỌC - TẬP 2
GIÁO TRÌNH GIÁO DỤC HỌC - TẬP 2
 
GIÁO TRÌNH TÂM LÝ HỌC SƯ PHẠM ĐẠI HỌC
GIÁO TRÌNH TÂM LÝ HỌC SƯ PHẠM ĐẠI HỌC GIÁO TRÌNH TÂM LÝ HỌC SƯ PHẠM ĐẠI HỌC
GIÁO TRÌNH TÂM LÝ HỌC SƯ PHẠM ĐẠI HỌC
 
CƠ SỞ NGÔN NGỮ HỌC VÀ TIẾNG VIỆT
CƠ SỞ NGÔN NGỮ HỌC VÀ TIẾNG VIỆT CƠ SỞ NGÔN NGỮ HỌC VÀ TIẾNG VIỆT
CƠ SỞ NGÔN NGỮ HỌC VÀ TIẾNG VIỆT
 
Một số công cụ đánh giá năng lực
Một số công cụ đánh giá năng lựcMột số công cụ đánh giá năng lực
Một số công cụ đánh giá năng lực
 
Tri giác
Tri giácTri giác
Tri giác
 
Thực trạng và biện pháp xử lý stress của học sinh lớp 12 trường thpt hoài đức...
Thực trạng và biện pháp xử lý stress của học sinh lớp 12 trường thpt hoài đức...Thực trạng và biện pháp xử lý stress của học sinh lớp 12 trường thpt hoài đức...
Thực trạng và biện pháp xử lý stress của học sinh lớp 12 trường thpt hoài đức...
 
Bài giảng tâm lý học đại cương
Bài giảng tâm lý học đại cươngBài giảng tâm lý học đại cương
Bài giảng tâm lý học đại cương
 
TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
TÂM LÝ HỌC GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
 
Câu hỏi ôn tập Tâm lý học 1
Câu hỏi ôn tập Tâm lý học 1Câu hỏi ôn tập Tâm lý học 1
Câu hỏi ôn tập Tâm lý học 1
 
Giáo Trình Giáo Dục Học Đại Cương
Giáo Trình Giáo Dục Học Đại Cương Giáo Trình Giáo Dục Học Đại Cương
Giáo Trình Giáo Dục Học Đại Cương
 
Thuyết phân tâm học trong tham vấn tâm lý
Thuyết phân tâm học trong tham vấn tâm lýThuyết phân tâm học trong tham vấn tâm lý
Thuyết phân tâm học trong tham vấn tâm lý
 
Presentation1
Presentation1Presentation1
Presentation1
 
giáo trình lịch sử đảng cộng sản việt nam
giáo trình lịch sử đảng cộng sản việt namgiáo trình lịch sử đảng cộng sản việt nam
giáo trình lịch sử đảng cộng sản việt nam
 
Câu hỏi on thi Tâm lí học 2
Câu hỏi on thi Tâm lí học 2Câu hỏi on thi Tâm lí học 2
Câu hỏi on thi Tâm lí học 2
 
VĂN HỌC THIẾU NHI.pdf
VĂN HỌC THIẾU NHI.pdfVĂN HỌC THIẾU NHI.pdf
VĂN HỌC THIẾU NHI.pdf
 
Lê Văn Nam - Tổng kết tâm lý học giới tính
Lê Văn Nam - Tổng kết tâm lý học giới tínhLê Văn Nam - Tổng kết tâm lý học giới tính
Lê Văn Nam - Tổng kết tâm lý học giới tính
 

Similar to Tâm Lí Học Lứa Tuổi Và Tâm Lí Học Sư Phạm.pdf

294494601-Tam-Lý-Học-Lứa-Tuổi-Va-Tam-Lý-Học-Sư-Phạm.docx
294494601-Tam-Lý-Học-Lứa-Tuổi-Va-Tam-Lý-Học-Sư-Phạm.docx294494601-Tam-Lý-Học-Lứa-Tuổi-Va-Tam-Lý-Học-Sư-Phạm.docx
294494601-Tam-Lý-Học-Lứa-Tuổi-Va-Tam-Lý-Học-Sư-Phạm.docxThyMai360365
 
Tâm Lý Học Trẻ Em Lứa Tuổi Mầm Non (Từ Lọt Lòng Đến 6 Tuổi)
Tâm Lý Học Trẻ Em Lứa Tuổi Mầm Non (Từ Lọt Lòng Đến 6 Tuổi) Tâm Lý Học Trẻ Em Lứa Tuổi Mầm Non (Từ Lọt Lòng Đến 6 Tuổi)
Tâm Lý Học Trẻ Em Lứa Tuổi Mầm Non (Từ Lọt Lòng Đến 6 Tuổi) nataliej4
 
Những Kiến Thức Cơ Bản Của Tâm Lý Học Lứa Tuổi Và Tâm Lý Học Sư Phạm.pdf
Những Kiến Thức Cơ Bản Của Tâm Lý Học Lứa Tuổi Và Tâm Lý Học Sư Phạm.pdfNhững Kiến Thức Cơ Bản Của Tâm Lý Học Lứa Tuổi Và Tâm Lý Học Sư Phạm.pdf
Những Kiến Thức Cơ Bản Của Tâm Lý Học Lứa Tuổi Và Tâm Lý Học Sư Phạm.pdfTieuNgocLy
 
Những Kiến Thức Cơ Bản Của Tâm Lý Học Lứa Tuổi Và Tâm Lý Học Sư Phạm.pdf
Những Kiến Thức Cơ Bản Của Tâm Lý Học Lứa Tuổi Và Tâm Lý Học Sư Phạm.pdfNhững Kiến Thức Cơ Bản Của Tâm Lý Học Lứa Tuổi Và Tâm Lý Học Sư Phạm.pdf
Những Kiến Thức Cơ Bản Của Tâm Lý Học Lứa Tuổi Và Tâm Lý Học Sư Phạm.pdfNuioKila
 
Tâm Lý Học Phát Triển - Th.S. Trương Thị Xuân Huệ
Tâm Lý Học Phát Triển - Th.S. Trương Thị Xuân Huệ Tâm Lý Học Phát Triển - Th.S. Trương Thị Xuân Huệ
Tâm Lý Học Phát Triển - Th.S. Trương Thị Xuân Huệ nataliej4
 
2.bai giang tlhpt th s le thi mai lien
2.bai giang tlhpt th s le thi mai lien2.bai giang tlhpt th s le thi mai lien
2.bai giang tlhpt th s le thi mai lienNhat Nguyen
 
2.bai giang tlhpt th s le thi mai lien
2.bai giang tlhpt th s le thi mai lien2.bai giang tlhpt th s le thi mai lien
2.bai giang tlhpt th s le thi mai lienNhat Nguyen
 
TÀI LIỆU BÀI GIẢNG TÂM LÝ HỌC TRẺ EM
TÀI LIỆU BÀI GIẢNG TÂM LÝ HỌC TRẺ EM TÀI LIỆU BÀI GIẢNG TÂM LÝ HỌC TRẺ EM
TÀI LIỆU BÀI GIẢNG TÂM LÝ HỌC TRẺ EM nataliej4
 
Tâm các bạn tuổi thpt
Tâm các bạn tuổi thptTâm các bạn tuổi thpt
Tâm các bạn tuổi thptQuyen Le
 
Giáo Trình Tâm Lý Học Trẻ Em Lứa Tuổi Mầm Non Từ Lọt Lòng Đến 6 Tuổi
Giáo Trình Tâm Lý Học Trẻ Em Lứa Tuổi Mầm Non Từ Lọt Lòng Đến 6 Tuổi Giáo Trình Tâm Lý Học Trẻ Em Lứa Tuổi Mầm Non Từ Lọt Lòng Đến 6 Tuổi
Giáo Trình Tâm Lý Học Trẻ Em Lứa Tuổi Mầm Non Từ Lọt Lòng Đến 6 Tuổi nataliej4
 
Giáo Trình Tâm Lý Học Trẻ Em Lứa Tuổi Mầm Non Từ Lọt Lòng Đến 6 Tuổi
Giáo Trình Tâm Lý Học Trẻ Em Lứa Tuổi Mầm Non Từ Lọt Lòng Đến 6 Tuổi Giáo Trình Tâm Lý Học Trẻ Em Lứa Tuổi Mầm Non Từ Lọt Lòng Đến 6 Tuổi
Giáo Trình Tâm Lý Học Trẻ Em Lứa Tuổi Mầm Non Từ Lọt Lòng Đến 6 Tuổi nataliej4
 
Dacdiemtamlyhsthpt
DacdiemtamlyhsthptDacdiemtamlyhsthpt
Dacdiemtamlyhsthptvuthanhtien
 
Tâm lý học chuyên ngành
Tâm lý học chuyên ngànhTâm lý học chuyên ngành
Tâm lý học chuyên ngànhSiu Gà Quay
 
Khóa luận tốt nghiệp tội phạm học về tình hình tội phạm do học sinh thực hiện
Khóa luận tốt nghiệp tội phạm học về tình hình tội phạm do học sinh thực hiệnKhóa luận tốt nghiệp tội phạm học về tình hình tội phạm do học sinh thực hiện
Khóa luận tốt nghiệp tội phạm học về tình hình tội phạm do học sinh thực hiệnDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 

Similar to Tâm Lí Học Lứa Tuổi Và Tâm Lí Học Sư Phạm.pdf (20)

294494601-Tam-Lý-Học-Lứa-Tuổi-Va-Tam-Lý-Học-Sư-Phạm.docx
294494601-Tam-Lý-Học-Lứa-Tuổi-Va-Tam-Lý-Học-Sư-Phạm.docx294494601-Tam-Lý-Học-Lứa-Tuổi-Va-Tam-Lý-Học-Sư-Phạm.docx
294494601-Tam-Lý-Học-Lứa-Tuổi-Va-Tam-Lý-Học-Sư-Phạm.docx
 
Tâm Lý Học Trẻ Em Lứa Tuổi Mầm Non (Từ Lọt Lòng Đến 6 Tuổi)
Tâm Lý Học Trẻ Em Lứa Tuổi Mầm Non (Từ Lọt Lòng Đến 6 Tuổi) Tâm Lý Học Trẻ Em Lứa Tuổi Mầm Non (Từ Lọt Lòng Đến 6 Tuổi)
Tâm Lý Học Trẻ Em Lứa Tuổi Mầm Non (Từ Lọt Lòng Đến 6 Tuổi)
 
Những Kiến Thức Cơ Bản Của Tâm Lý Học Lứa Tuổi Và Tâm Lý Học Sư Phạm.pdf
Những Kiến Thức Cơ Bản Của Tâm Lý Học Lứa Tuổi Và Tâm Lý Học Sư Phạm.pdfNhững Kiến Thức Cơ Bản Của Tâm Lý Học Lứa Tuổi Và Tâm Lý Học Sư Phạm.pdf
Những Kiến Thức Cơ Bản Của Tâm Lý Học Lứa Tuổi Và Tâm Lý Học Sư Phạm.pdf
 
Những Kiến Thức Cơ Bản Của Tâm Lý Học Lứa Tuổi Và Tâm Lý Học Sư Phạm.pdf
Những Kiến Thức Cơ Bản Của Tâm Lý Học Lứa Tuổi Và Tâm Lý Học Sư Phạm.pdfNhững Kiến Thức Cơ Bản Của Tâm Lý Học Lứa Tuổi Và Tâm Lý Học Sư Phạm.pdf
Những Kiến Thức Cơ Bản Của Tâm Lý Học Lứa Tuổi Và Tâm Lý Học Sư Phạm.pdf
 
Tâm Lý Học Phát Triển - Th.S. Trương Thị Xuân Huệ
Tâm Lý Học Phát Triển - Th.S. Trương Thị Xuân Huệ Tâm Lý Học Phát Triển - Th.S. Trương Thị Xuân Huệ
Tâm Lý Học Phát Triển - Th.S. Trương Thị Xuân Huệ
 
2.bai giang tlhpt th s le thi mai lien
2.bai giang tlhpt th s le thi mai lien2.bai giang tlhpt th s le thi mai lien
2.bai giang tlhpt th s le thi mai lien
 
2.bai giang tlhpt th s le thi mai lien
2.bai giang tlhpt th s le thi mai lien2.bai giang tlhpt th s le thi mai lien
2.bai giang tlhpt th s le thi mai lien
 
Chuong 1
Chuong 1Chuong 1
Chuong 1
 
TÀI LIỆU BÀI GIẢNG TÂM LÝ HỌC TRẺ EM
TÀI LIỆU BÀI GIẢNG TÂM LÝ HỌC TRẺ EM TÀI LIỆU BÀI GIẢNG TÂM LÝ HỌC TRẺ EM
TÀI LIỆU BÀI GIẢNG TÂM LÝ HỌC TRẺ EM
 
Tâm các bạn tuổi thpt
Tâm các bạn tuổi thptTâm các bạn tuổi thpt
Tâm các bạn tuổi thpt
 
Giáo Trình Tâm Lý Học Trẻ Em Lứa Tuổi Mầm Non Từ Lọt Lòng Đến 6 Tuổi
Giáo Trình Tâm Lý Học Trẻ Em Lứa Tuổi Mầm Non Từ Lọt Lòng Đến 6 Tuổi Giáo Trình Tâm Lý Học Trẻ Em Lứa Tuổi Mầm Non Từ Lọt Lòng Đến 6 Tuổi
Giáo Trình Tâm Lý Học Trẻ Em Lứa Tuổi Mầm Non Từ Lọt Lòng Đến 6 Tuổi
 
Giáo Trình Tâm Lý Học Trẻ Em Lứa Tuổi Mầm Non Từ Lọt Lòng Đến 6 Tuổi
Giáo Trình Tâm Lý Học Trẻ Em Lứa Tuổi Mầm Non Từ Lọt Lòng Đến 6 Tuổi Giáo Trình Tâm Lý Học Trẻ Em Lứa Tuổi Mầm Non Từ Lọt Lòng Đến 6 Tuổi
Giáo Trình Tâm Lý Học Trẻ Em Lứa Tuổi Mầm Non Từ Lọt Lòng Đến 6 Tuổi
 
Nhap Mon Tlh Lua Tuoi
Nhap Mon Tlh Lua TuoiNhap Mon Tlh Lua Tuoi
Nhap Mon Tlh Lua Tuoi
 
Chuong 2
Chuong 2Chuong 2
Chuong 2
 
Dacdiemtamlyhsthpt
DacdiemtamlyhsthptDacdiemtamlyhsthpt
Dacdiemtamlyhsthpt
 
Chuong 3
Chuong 3Chuong 3
Chuong 3
 
Tâm lý học chuyên ngành
Tâm lý học chuyên ngànhTâm lý học chuyên ngành
Tâm lý học chuyên ngành
 
Khóa luận tốt nghiệp tội phạm học về tình hình tội phạm do học sinh thực hiện
Khóa luận tốt nghiệp tội phạm học về tình hình tội phạm do học sinh thực hiệnKhóa luận tốt nghiệp tội phạm học về tình hình tội phạm do học sinh thực hiện
Khóa luận tốt nghiệp tội phạm học về tình hình tội phạm do học sinh thực hiện
 
Đặc điểm tâm lý ở lứa tuổi ấu nhi
Đặc điểm tâm lý ở lứa tuổi ấu nhiĐặc điểm tâm lý ở lứa tuổi ấu nhi
Đặc điểm tâm lý ở lứa tuổi ấu nhi
 
Chuong 6
Chuong 6Chuong 6
Chuong 6
 

More from HanaTiti

TRUYỀN THÔNG TRONG CÁC SỰ KIỆN NGHỆ THUẬT Ở VIỆT NAM NĂM 2012.pdf
TRUYỀN THÔNG TRONG CÁC SỰ KIỆN NGHỆ THUẬT Ở VIỆT NAM NĂM 2012.pdfTRUYỀN THÔNG TRONG CÁC SỰ KIỆN NGHỆ THUẬT Ở VIỆT NAM NĂM 2012.pdf
TRUYỀN THÔNG TRONG CÁC SỰ KIỆN NGHỆ THUẬT Ở VIỆT NAM NĂM 2012.pdfHanaTiti
 
TRỊ LIỆU TÂM LÝ CHO MỘT TRƢỜNG HỢP TRẺ VỊ THÀNH NIÊN CÓ TRIỆU CHỨNG TRẦM CẢM.pdf
TRỊ LIỆU TÂM LÝ CHO MỘT TRƢỜNG HỢP TRẺ VỊ THÀNH NIÊN CÓ TRIỆU CHỨNG TRẦM CẢM.pdfTRỊ LIỆU TÂM LÝ CHO MỘT TRƢỜNG HỢP TRẺ VỊ THÀNH NIÊN CÓ TRIỆU CHỨNG TRẦM CẢM.pdf
TRỊ LIỆU TÂM LÝ CHO MỘT TRƢỜNG HỢP TRẺ VỊ THÀNH NIÊN CÓ TRIỆU CHỨNG TRẦM CẢM.pdfHanaTiti
 
IMPACTS OF FINANCIAL DEPTH AND DOMESTIC CREDIT ON ECONOMIC GROWTH - THE CASES...
IMPACTS OF FINANCIAL DEPTH AND DOMESTIC CREDIT ON ECONOMIC GROWTH - THE CASES...IMPACTS OF FINANCIAL DEPTH AND DOMESTIC CREDIT ON ECONOMIC GROWTH - THE CASES...
IMPACTS OF FINANCIAL DEPTH AND DOMESTIC CREDIT ON ECONOMIC GROWTH - THE CASES...HanaTiti
 
THE LINKAGE BETWEEN CORRUPTION AND CARBON DIOXIDE EMISSION - EVIDENCE FROM AS...
THE LINKAGE BETWEEN CORRUPTION AND CARBON DIOXIDE EMISSION - EVIDENCE FROM AS...THE LINKAGE BETWEEN CORRUPTION AND CARBON DIOXIDE EMISSION - EVIDENCE FROM AS...
THE LINKAGE BETWEEN CORRUPTION AND CARBON DIOXIDE EMISSION - EVIDENCE FROM AS...HanaTiti
 
Phát triển dịch vụ Ngân hàng bán lẻ tại Ngân hàng thương mại cổ phần xuất nhậ...
Phát triển dịch vụ Ngân hàng bán lẻ tại Ngân hàng thương mại cổ phần xuất nhậ...Phát triển dịch vụ Ngân hàng bán lẻ tại Ngân hàng thương mại cổ phần xuất nhậ...
Phát triển dịch vụ Ngân hàng bán lẻ tại Ngân hàng thương mại cổ phần xuất nhậ...HanaTiti
 
Nhân vật phụ nữ trong truyện ngắn Cao Duy Sơn.pdf
Nhân vật phụ nữ trong truyện ngắn Cao Duy Sơn.pdfNhân vật phụ nữ trong truyện ngắn Cao Duy Sơn.pdf
Nhân vật phụ nữ trong truyện ngắn Cao Duy Sơn.pdfHanaTiti
 
Pháp luật về giao dịch bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam.pdf
Pháp luật về giao dịch bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam.pdfPháp luật về giao dịch bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam.pdf
Pháp luật về giao dịch bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam.pdfHanaTiti
 
Tổ chức dạy học lịch sử Việt Nam lớp 10 theo hướng phát triển năng lực vận dụ...
Tổ chức dạy học lịch sử Việt Nam lớp 10 theo hướng phát triển năng lực vận dụ...Tổ chức dạy học lịch sử Việt Nam lớp 10 theo hướng phát triển năng lực vận dụ...
Tổ chức dạy học lịch sử Việt Nam lớp 10 theo hướng phát triển năng lực vận dụ...HanaTiti
 
The impact of education on unemployment incidence - micro evidence from Vietn...
The impact of education on unemployment incidence - micro evidence from Vietn...The impact of education on unemployment incidence - micro evidence from Vietn...
The impact of education on unemployment incidence - micro evidence from Vietn...HanaTiti
 
Deteminants of brand loyalty in the Vietnamese neer industry.pdf
Deteminants of brand loyalty in the Vietnamese neer industry.pdfDeteminants of brand loyalty in the Vietnamese neer industry.pdf
Deteminants of brand loyalty in the Vietnamese neer industry.pdfHanaTiti
 
Phát triển hoạt động môi giới chứng khoán của CTCP Alpha.pdf
Phát triển hoạt động môi giới chứng khoán của CTCP Alpha.pdfPhát triển hoạt động môi giới chứng khoán của CTCP Alpha.pdf
Phát triển hoạt động môi giới chứng khoán của CTCP Alpha.pdfHanaTiti
 
The current situation of English language teaching in the light of CLT to the...
The current situation of English language teaching in the light of CLT to the...The current situation of English language teaching in the light of CLT to the...
The current situation of English language teaching in the light of CLT to the...HanaTiti
 
Quản lý chi ngân sách nhà nước tại Kho bạc nhà nước Ba Vì.pdf
Quản lý chi ngân sách nhà nước tại Kho bạc nhà nước Ba Vì.pdfQuản lý chi ngân sách nhà nước tại Kho bạc nhà nước Ba Vì.pdf
Quản lý chi ngân sách nhà nước tại Kho bạc nhà nước Ba Vì.pdfHanaTiti
 
Sự tiếp nhận đối với Hàng không giá rẻ của khách hàng Việt Nam.pdf
Sự tiếp nhận đối với Hàng không giá rẻ của khách hàng Việt Nam.pdfSự tiếp nhận đối với Hàng không giá rẻ của khách hàng Việt Nam.pdf
Sự tiếp nhận đối với Hàng không giá rẻ của khách hàng Việt Nam.pdfHanaTiti
 
An Investigation into the Effect of Matching Exercises on the 10th form Stude...
An Investigation into the Effect of Matching Exercises on the 10th form Stude...An Investigation into the Effect of Matching Exercises on the 10th form Stude...
An Investigation into the Effect of Matching Exercises on the 10th form Stude...HanaTiti
 
Đánh giá chất lượng truyền tin multicast trên tầng ứng dụng.pdf
Đánh giá chất lượng truyền tin multicast trên tầng ứng dụng.pdfĐánh giá chất lượng truyền tin multicast trên tầng ứng dụng.pdf
Đánh giá chất lượng truyền tin multicast trên tầng ứng dụng.pdfHanaTiti
 
Quản lý các trường THCS trên địa bàn huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ theo hướng...
Quản lý các trường THCS trên địa bàn huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ theo hướng...Quản lý các trường THCS trên địa bàn huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ theo hướng...
Quản lý các trường THCS trên địa bàn huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ theo hướng...HanaTiti
 
Nghiên cứu và đề xuất mô hình nuôi tôm bền vững vùng ven biển huyện Thái Thụy...
Nghiên cứu và đề xuất mô hình nuôi tôm bền vững vùng ven biển huyện Thái Thụy...Nghiên cứu và đề xuất mô hình nuôi tôm bền vững vùng ven biển huyện Thái Thụy...
Nghiên cứu và đề xuất mô hình nuôi tôm bền vững vùng ven biển huyện Thái Thụy...HanaTiti
 
PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI NHỎ VÀ VỪA TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ TĨNH.pdf
PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI NHỎ VÀ VỪA TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ TĨNH.pdfPHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI NHỎ VÀ VỪA TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ TĨNH.pdf
PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI NHỎ VÀ VỪA TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ TĨNH.pdfHanaTiti
 
ENERGY CONSUMPTION AND REAL GDP IN ASEAN.pdf
ENERGY CONSUMPTION AND REAL GDP IN ASEAN.pdfENERGY CONSUMPTION AND REAL GDP IN ASEAN.pdf
ENERGY CONSUMPTION AND REAL GDP IN ASEAN.pdfHanaTiti
 

More from HanaTiti (20)

TRUYỀN THÔNG TRONG CÁC SỰ KIỆN NGHỆ THUẬT Ở VIỆT NAM NĂM 2012.pdf
TRUYỀN THÔNG TRONG CÁC SỰ KIỆN NGHỆ THUẬT Ở VIỆT NAM NĂM 2012.pdfTRUYỀN THÔNG TRONG CÁC SỰ KIỆN NGHỆ THUẬT Ở VIỆT NAM NĂM 2012.pdf
TRUYỀN THÔNG TRONG CÁC SỰ KIỆN NGHỆ THUẬT Ở VIỆT NAM NĂM 2012.pdf
 
TRỊ LIỆU TÂM LÝ CHO MỘT TRƢỜNG HỢP TRẺ VỊ THÀNH NIÊN CÓ TRIỆU CHỨNG TRẦM CẢM.pdf
TRỊ LIỆU TÂM LÝ CHO MỘT TRƢỜNG HỢP TRẺ VỊ THÀNH NIÊN CÓ TRIỆU CHỨNG TRẦM CẢM.pdfTRỊ LIỆU TÂM LÝ CHO MỘT TRƢỜNG HỢP TRẺ VỊ THÀNH NIÊN CÓ TRIỆU CHỨNG TRẦM CẢM.pdf
TRỊ LIỆU TÂM LÝ CHO MỘT TRƢỜNG HỢP TRẺ VỊ THÀNH NIÊN CÓ TRIỆU CHỨNG TRẦM CẢM.pdf
 
IMPACTS OF FINANCIAL DEPTH AND DOMESTIC CREDIT ON ECONOMIC GROWTH - THE CASES...
IMPACTS OF FINANCIAL DEPTH AND DOMESTIC CREDIT ON ECONOMIC GROWTH - THE CASES...IMPACTS OF FINANCIAL DEPTH AND DOMESTIC CREDIT ON ECONOMIC GROWTH - THE CASES...
IMPACTS OF FINANCIAL DEPTH AND DOMESTIC CREDIT ON ECONOMIC GROWTH - THE CASES...
 
THE LINKAGE BETWEEN CORRUPTION AND CARBON DIOXIDE EMISSION - EVIDENCE FROM AS...
THE LINKAGE BETWEEN CORRUPTION AND CARBON DIOXIDE EMISSION - EVIDENCE FROM AS...THE LINKAGE BETWEEN CORRUPTION AND CARBON DIOXIDE EMISSION - EVIDENCE FROM AS...
THE LINKAGE BETWEEN CORRUPTION AND CARBON DIOXIDE EMISSION - EVIDENCE FROM AS...
 
Phát triển dịch vụ Ngân hàng bán lẻ tại Ngân hàng thương mại cổ phần xuất nhậ...
Phát triển dịch vụ Ngân hàng bán lẻ tại Ngân hàng thương mại cổ phần xuất nhậ...Phát triển dịch vụ Ngân hàng bán lẻ tại Ngân hàng thương mại cổ phần xuất nhậ...
Phát triển dịch vụ Ngân hàng bán lẻ tại Ngân hàng thương mại cổ phần xuất nhậ...
 
Nhân vật phụ nữ trong truyện ngắn Cao Duy Sơn.pdf
Nhân vật phụ nữ trong truyện ngắn Cao Duy Sơn.pdfNhân vật phụ nữ trong truyện ngắn Cao Duy Sơn.pdf
Nhân vật phụ nữ trong truyện ngắn Cao Duy Sơn.pdf
 
Pháp luật về giao dịch bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam.pdf
Pháp luật về giao dịch bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam.pdfPháp luật về giao dịch bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam.pdf
Pháp luật về giao dịch bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam.pdf
 
Tổ chức dạy học lịch sử Việt Nam lớp 10 theo hướng phát triển năng lực vận dụ...
Tổ chức dạy học lịch sử Việt Nam lớp 10 theo hướng phát triển năng lực vận dụ...Tổ chức dạy học lịch sử Việt Nam lớp 10 theo hướng phát triển năng lực vận dụ...
Tổ chức dạy học lịch sử Việt Nam lớp 10 theo hướng phát triển năng lực vận dụ...
 
The impact of education on unemployment incidence - micro evidence from Vietn...
The impact of education on unemployment incidence - micro evidence from Vietn...The impact of education on unemployment incidence - micro evidence from Vietn...
The impact of education on unemployment incidence - micro evidence from Vietn...
 
Deteminants of brand loyalty in the Vietnamese neer industry.pdf
Deteminants of brand loyalty in the Vietnamese neer industry.pdfDeteminants of brand loyalty in the Vietnamese neer industry.pdf
Deteminants of brand loyalty in the Vietnamese neer industry.pdf
 
Phát triển hoạt động môi giới chứng khoán của CTCP Alpha.pdf
Phát triển hoạt động môi giới chứng khoán của CTCP Alpha.pdfPhát triển hoạt động môi giới chứng khoán của CTCP Alpha.pdf
Phát triển hoạt động môi giới chứng khoán của CTCP Alpha.pdf
 
The current situation of English language teaching in the light of CLT to the...
The current situation of English language teaching in the light of CLT to the...The current situation of English language teaching in the light of CLT to the...
The current situation of English language teaching in the light of CLT to the...
 
Quản lý chi ngân sách nhà nước tại Kho bạc nhà nước Ba Vì.pdf
Quản lý chi ngân sách nhà nước tại Kho bạc nhà nước Ba Vì.pdfQuản lý chi ngân sách nhà nước tại Kho bạc nhà nước Ba Vì.pdf
Quản lý chi ngân sách nhà nước tại Kho bạc nhà nước Ba Vì.pdf
 
Sự tiếp nhận đối với Hàng không giá rẻ của khách hàng Việt Nam.pdf
Sự tiếp nhận đối với Hàng không giá rẻ của khách hàng Việt Nam.pdfSự tiếp nhận đối với Hàng không giá rẻ của khách hàng Việt Nam.pdf
Sự tiếp nhận đối với Hàng không giá rẻ của khách hàng Việt Nam.pdf
 
An Investigation into the Effect of Matching Exercises on the 10th form Stude...
An Investigation into the Effect of Matching Exercises on the 10th form Stude...An Investigation into the Effect of Matching Exercises on the 10th form Stude...
An Investigation into the Effect of Matching Exercises on the 10th form Stude...
 
Đánh giá chất lượng truyền tin multicast trên tầng ứng dụng.pdf
Đánh giá chất lượng truyền tin multicast trên tầng ứng dụng.pdfĐánh giá chất lượng truyền tin multicast trên tầng ứng dụng.pdf
Đánh giá chất lượng truyền tin multicast trên tầng ứng dụng.pdf
 
Quản lý các trường THCS trên địa bàn huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ theo hướng...
Quản lý các trường THCS trên địa bàn huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ theo hướng...Quản lý các trường THCS trên địa bàn huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ theo hướng...
Quản lý các trường THCS trên địa bàn huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ theo hướng...
 
Nghiên cứu và đề xuất mô hình nuôi tôm bền vững vùng ven biển huyện Thái Thụy...
Nghiên cứu và đề xuất mô hình nuôi tôm bền vững vùng ven biển huyện Thái Thụy...Nghiên cứu và đề xuất mô hình nuôi tôm bền vững vùng ven biển huyện Thái Thụy...
Nghiên cứu và đề xuất mô hình nuôi tôm bền vững vùng ven biển huyện Thái Thụy...
 
PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI NHỎ VÀ VỪA TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ TĨNH.pdf
PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI NHỎ VÀ VỪA TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ TĨNH.pdfPHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI NHỎ VÀ VỪA TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ TĨNH.pdf
PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI NHỎ VÀ VỪA TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ TĨNH.pdf
 
ENERGY CONSUMPTION AND REAL GDP IN ASEAN.pdf
ENERGY CONSUMPTION AND REAL GDP IN ASEAN.pdfENERGY CONSUMPTION AND REAL GDP IN ASEAN.pdf
ENERGY CONSUMPTION AND REAL GDP IN ASEAN.pdf
 

Recently uploaded

Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxendkay31
 
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hocBai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hocVnPhan58
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxnhungdt08102004
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXHTư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXHThaoPhuong154017
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tếMa trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tếngTonH1
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa2353020138
 
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tếHệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tếngTonH1
 

Recently uploaded (20)

Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
 
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hocBai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXHTư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tếMa trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
 
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tếHệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
 

Tâm Lí Học Lứa Tuổi Và Tâm Lí Học Sư Phạm.pdf

  • 1. TÂM LÍ HỌC LỨA TUỔI VÀ TÂM LÍ HỌC SƯ PHẠM TÂM LÍ HỌC LỨA TUỔI VÀ TÂM LÍ HỌC SƯ PHẠM Lê Văn Hồng - Lê Ngọc Lan - Nguyễn Văn Thàng LỜI NÓI ĐẦU Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm là hai chuyên ngành tâm lý học góp phần trực tiếp hình thành quan điểm sư phạm và bồi dưỡng trình độ nghiệm vụ cho sinh viên các trường sư phạm Tài liệu này được viết theo chương trình giáo dục cốt lõi chuyên nghiệp đã được “Chương trình giáo dục đại học” của Bộ Giáo dục và Đào tạo nghiệm thu, nhằm tạo điều kiện cho các trường Đại học sư phạm và Cao đẳng sư phạm thực hiện tốt quyết định 2677/GD-ĐT của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ngày 3/12/1993 Nội dung tài liệu gồm 2 phần: Phần tâm lý học lứa tuổi trình bày các hiện tượng và quy luật tâm lý theo các lứa tuổi, qua đó nêu lên nguyên nhân, động lực của sự phát triển tâm lý cùng những đặc trưng tâm lý qua các giai đoạn phát triển Phần tâm lý học sư phạm nghiên cứu các hiện tượng và quy luật tâm lý dưới ảnh hưởng của tác động sư phạm, chủ yếu là dạy học và giáo dục Để tài liệu được tiếp tục hoàn thiện trong những năm tới, chúng tôi mong nhận được ý kiến đóng góp của cán bộ giảng dạy và sinh viên các trường Xin chân thành cảm ơn Tác giả
  • 2. Phần 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TÂM LÍ HỌC LỨA TUỔI "Các bạn hãy nghiên cứu những quy luật của các hiện tượng tâm lý mà các bạn muốn điều khiển và các bạn hãy hành động căn cứ trên những quy luật này và những hoàn cảnh mà các bạn muốn vận dụng chúng vào đó". K.D. Usinxki Chương 1: NHẬP MÔN TÂM LÝ HỌC LỨA TUỔI VÀ TÂM LÝ HỌC SƯ PHẠM I - KHÁI QUÁT VỀ TÂM LÝ HỌC LỨA TUỔI VÀ TÂM LÝ HỌC SƯ PHẠM Từ khi tâm lý học phát triển mạnh mẽ với tư cách là một khoa học độc lập thì đồng thời cũng nảy sinh nhiều vấn đề đòi hỏi sự nghiên cứu tâm lý có tính chất chuyên biệt, khiến cho các ngành tâm lý học ứng dụng được phát sinh. Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm là các chuyên ngành phát triển sớm nhất của tâm lý học. Đó là sự ứng dụng của tâm lý học vào lĩnh vực sư phạm lứa tuổi. 1. Đối tượng, nhiệm vụ của tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm cũng nghiên cứu tâm lý người, nhưng không phải là con người đã trưởng thành mà là con người ở các giai đoạn phát triển. a. Đối tượng nghiên cứu của tâm lý học lứa tuổi là động lực phát triển tâm lý theo lứa tuổi của con người, sự phát triển cá thể của các quá trình tâm lý và các phẩm chất tâm lý trong nhân cách của con người đang được phát triển (tâm lý học Đức gọi chuyên ngành này là tâm lý học phát triển): nó xem xét quá trình con người trở thành nhân cách như thế nào? Tâm lý học lứa tuổi nghiên cứu đặc điểm của các quá trình và các phẩm chất tâm lý riêng lẻ của cá nhân ở các lứa tuổi khác nhau và sự khác biệt của chúng ở mỗi cá nhân trong phạm vi cùng một lứa tuổi; nghiên cứu những khả năng lứa tuổi của việc lĩnh hội các tri thức, phương thức hành động...
  • 3. Ví dụ, tâm lý học lứa tuổi nghiên cứu đặc điểm của tri giác nhìn, tri giác nghe và sự tác động qua lại giữa chúng ở từng lứa tuổi ở các cá nhân trong cùng một lứa tuổi... Tâm lý học lứa tuổi nghiên cứu các dạng hoạt động khác nhau của các cá nhân đang được phát triển. Ví dụ: vui chơi, học tập lao động, hoạt động xã hội... Mỗi một dạng hoạt động có vai trò, tác dụng khác nhau dối với sự phát triển nhân cách ở từng lứa tuổi. Mỗi một giai đoạn phát triển có một dạng hoạt động vừa sức và đặc trưng của nó. b. Đối tượng của tâm lý học sư phạm là những quy luật tâm lý của việc dạy học và giáo dục. Tâm lý học sư phạm nghiên cứu những vấn đề tâm lý học của việc điều khiển quá trình dạy học, nghiên cứu sự hình thành của những quá trình nhận thức, tìm tòi những tiêu chuẩn đáng tin cậy của sự phát triển trí tuệ và xác định những điều kiện để đảm bảo phát triển trí tuệ có hiệu quả trong quá trình dạy học, xem xét những vấn đề về mối quan hệ qua lại giữa giáo viên và học sinh, cũng như mối quan hệ qua lại giữa học sinh với nhau. Những quan sát hàng ngày cho thấy, trẻ em rung cảm và suy nghĩ không giống người lớn. Trẻ nhỏ không làm được rất nhiều điều. Nhưng vấn đề không phải là ở chỗ trẻ chưa làm được những gì, chưa nắm được những gì... mà vấn đề cơ bản là ở chỗ hiểu được đứa trẻ hiện có những gì, có thể làm được những gì, nó sẽ thay đổi như thế nào và sẽ có được những gì trong quá trình sống và hoạt động theo lứa tuổi... Có hiểu những điều đó mới hiểu được nguyên nhân của những nét, những phẩm chất mới đặc trưng cho nhân cách người lớn... Mặt khác, mỗi lứa tuổi có những khó khăn, và thuận lợi riêng. Những khó khăn và thuận lợi đó đòi hỏi phải có phương pháp đối xử riêng biệt, thích hợp với lứa tuổi. Có thể phương pháp này thích hợp với trẻ nhỏ, nhưng lại không thể áp dụng được với thiếu niên. c. Từ những nghiên cứu trên, tâm lý học lứa tuổi là tâm lý học sư phạm có nhiệm vụ rút ra những quy luật chung của sự phát triển nhân cách theo lứa tuổi, những nhân tố chỉ đạo sự phát triển nhân cách theo lứa tuổi, rút ra
  • 4. những quy luật lĩnh hội tri thức, kĩ năng, kĩ xảo trong quá trình giáo dục và dạy học, những biến đổi tâm lý của học sinh do ảnh hưởng của giáo dục và dạy học. Từ đó cung cấp những kết quả nghiên cứu để tổ chức hợp lý quá trình sư phạm, nhằm mục đích nâng cao hiệu quả của hoạt động giáo dục và giảng dạy. Tất cả những thay đổi từ một đứa bé lọt lòng tới chỗ biết hành động theo mục đích đã định... không mang tính chất ngẫu nhiên, mà diễn ra có quy luật, có nguyên nhân của chúng. Nếu sự thay đổi ở một đứa trẻ nào đó diễn ra sớm hơn, hoặc muộn hơn, hoặc không bình thường thì bao giờ cũng có những nguyên nhân của nó. Những kiến thức tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm sẽ giúp ta tìm được những nguyên nhân đó, đưa ra được những biện pháp tác động hợp lý hơn và có ý thức hơn. 2. Quan hệ giữa tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm là những chuyên ngành của tâm lý học, đều dựa trên cơ sở của tâm lý học đại cương. Tâm lý học đại cương cung cấp cho hai chuyên ngành này những khái niệm cơ bản về các hiện tượng tâm lý để hai chuyên ngành này sử dụng khi đi sâu vào đối tượng nghiên cứu của mình. Ngược lại, nhờ những sự kiện của hai chuyên ngành tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm mà những khái niệm cơ bản của tâm lý học đại cương cũng trở nên phong phú, sâu sắc hơn. Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm gắn bó chặt chẽ thống nhất với nhau vì chúng có chung khách thể nghiên cứu - những con người bình thường ở những giai đoạn phát triển khác nhau. Trẻ nhỏ: thiếu niên, thanh niên là khách thể của tâm lý học lứa tuổi nếu nghiên cứu động thái của sự phát triển theo lứa tuổi. Chúng là khách thể của tâm lý học sư phạm nếu chúng được nghiên cứu với tư cách là người được dạy và được giáo dục trong quá trình tác động có mục đích của nhà giáo dục. Tâm lý học lứa tuổi chỉ có thể được nghiên cứu, nếu việc nghiên cứu của nó không dừng ở mức độ thực nghiệm, mà được tiến hành trong nhưng điều kiện cụ thể của việc dạy học và giáo dục, trong điều kiện tự nhiên của
  • 5. đời sống của trẻ (vì tách khỏi những điều kiện đó thì trẻ em không thể phát triển bình thường được) Nhưng đồng thời việc dạy học và giáo dục cũng không thể được xem xét như là những hiện lượng độc lập, trừu xuất khỏi đối tượng của dạy học và giáo dục. Như vậy cả tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm đều nghiên cứu trẻ em trong quá trình dạy học và giáo dục, và cùng phục vụ đắc lực cho sự phát triển của chính đứa trẻ đó. Do đó mà sự phân ranh giới giữa hai chuyên ngành chỉ có tính chất tương đối. II - LÝ LUẬN VỀ SỰ PHÁT TRIỂN TÂM LÝ TRÊN TRẺ EM 1. Khái niệm chung về sự phát triển tâm lý trẻ em a. Quan niệm về trẻ em Dựa trên những quan điểm triết học khác nhau, người ta hiểu về trẻ em cũng rất khác nhau. Có quan niệm cho rằng trẻ em là "người lớn thu nhỏ lại", sự khác nhau giữa trẻ em và người lớn về mọi mặt (cơ thể, tư tưởng, tình cảm...) chỉ ở tầm cỡ, kích thước, chứ không khác nhau về chất. Nhưng ngay từ thế kỉ XVIII J.J Rút xô (1712 – 1778) đã nhận xét rất tinh tế về những đặc điểm tâm lý của trẻ nhỏ. Theo ông, trẻ em không phải là người lớn thu nhỏ lại và người lớn không phải lúc nào cũng hiểu được trí tuệ, nguyện vọng là tình cảm độc đáo của trẻ thơ... vì "trẻ em có những cách nhìn, cách suy nghĩ và cảm nhận riêng của của nó". Sự khác nhau giữa trẻ em và người lớn là sự khác nhau về chất. Những nghiên cứu của tâm lý học duy vật biện chứng đã khẳng định: Trẻ em không phải là người lớn thu nhỏ lại. Trẻ em là trẻ em, nó vận động và phát triển theo quy luật của trẻ em. Ngay từ khi cất tiếng khóc chào đời, đứa trẻ đã là một con người, một thành viên của xã hội. Việc nuôi nấng, dạy dỗ nó phải khác với con vật. Để nó tiếp thu được nền văn hoá xã hội loài người, đòi hỏi phải nuôi dạy nó theo kiểu người (trẻ nhỏ phải dược bú sữa mẹ, được ăn chín, ủ ấm, nhất là cần được âu yếm, thương yêu). Ngay từ khi ra đời đứa trẻ đã có nhu cầu đặc trưng của con người - nhu cầu giao tiếp với người lớn.
  • 6. Người lớn cần có những hình thức riêng. "ngôn ngữ" riêng để giao tiếp với trẻ. Điều kiện sống và hoạt động của các thế hệ người ở các thời kỳ lịch sử khác nhau là rất khác nhau. Do vậy mỗi thời đại khác nhau lại có trẻ em của riêng mình. b. Quan niệm sai lầm về sự phát triển tâm lý trẻ em Quan điểm duy tâm coi sự phát triển tâm lý trẻ em chỉ là sự tăng lên hoặc giảm đi về số lượng các hiện tượng đang phát triển, mà không có sự chuyển biến về chất lượng. Ví dụ: họ coi sự phát triển tâm lý trẻ em là sự tăng số lượng từ của trẻ, tăng tốc độ hình thành kỹ xảo, tăng thời gian tập trung chú ý, hay khối lượng tri thức được giữ lại trong trí nhớ... Sự tăng về số lượng của các hiện tượng tâm lý có ý nghĩa nhất định trong sự phát triển của trẻ, nhưng không thể giới hạn toàn bộ sự phát triển tâm lý của trẻ em vào những chỉ số ấy. Từ đó, những người theo quan niệm này đã nhìn nhận không kém sai lầm về nguồn gốc của sự phát triển lâm lý. Quan niệm này xem sự phát triển của mỗi hiện tượng như là một quá trình diễn ra một cách tự phát. Sự phát triển diễn ra dưới ảnh hưởng của một sức mạnh nào đó mà người ta không thể điều khiển được, không thể nghiên cứu được, không nhận thức được. Quan niệm sai lầm này dược biểu hiện rõ ràng ở thuyết tiền định, thuyết duy cảm, thuyết hội tụ hai yếu tố... - Thuyết tiền định: những người theo thuyết này coi sự phát triển tâm lý do các tiềm năng sinh vật gây ra và con người có tiềm năng đó ngay từ khi ra đời. Mọi đặc điểm tâm lý chung và có tính chất cá thể đều là tiền định, đều có sẵn trong các cấu trúc sinh vật là sự phát triển chỉ là quá trình trưởng thành, chín muồi của những thuộc tính đã có sẵn ngay từ đầu và được quyết định trước bằng con đường di truyền này. Gần đây, sinh học đã phát hiện ra cơ chế gen của di truyền, người ta bắt đầu liên hệ: những thuộc tính của nhân cách, năng lực cũng đã được mã
  • 7. hoá, chương trình hoá trong các trang bị gen. Cụ thể, nhà di truyền học Anh S.Auerbac cho rằng môi người bắt đầu sống "Khi trong tay có các gen cũng như đấu thủ chơi một ván bài khi trong lay có các con bài. Đôi khi sự phân phối có thể xấu đến mức thậm chí khó chờ đợi một kết quả vừa phải. Càng hiếm có sự phân bố ưu việt đến mức để đạt được kết quả cao lại không đòi hỏi một sự cố gắng nào". Có lúc những người theo thuyết tiền định thường thể hiện dưới hình thức mềm dịu hơn, ở chỗ có đề cập đến ý nghĩa của yếu tố môi trường. Nhưng theo họ, môi trường chỉ là “yếu tố điều chỉnh”, “yếu tố thể hiện” một nhân tố bất biến nào đó ở trẻ. Nhà tâm lý học Mỹ E.Toocdai cho rằng: "Tự nhiên ban cho mỗi người một vốn nhất định, giáo dục cần phải làm bộc lộ vốn đó là vốn gì và phải sử dụng nó bằng phương tiện tốt nhất". Và "vốn tự nhiên" đó đặt ra giới hạn cho sự phát triển, cho nên một bộ phận học sinh tỏ ra không đạt được kết quả nào đó "dù giảng dạy tốt, số khác lại tỏ ra có thành tích “dù giảng dạy tồi”... Như vậy vai trò của giáo dục đã bị hạ thấp. Giáo dục chỉ là nhân tố bên ngoài có khả năng tăng nhanh hoặc kìm hãm quá trình bộc lộ những phẩm chất tự nhiên, bị ức chế bởi tính di truyền. Từ đó, người ta đã rút ra kết luận sư phạm sai lầm: sự can thiệp vào quá trình phát triển tự nhiên của trẻ là sự tuỳ tiện, không thể tha thứ được. - Thuyết duy cảm: Đối lập với thuyết tiền định, thuyết duy cảm giải thích sự phát triển của trẻ chỉ bằng những tác động của môi trường xung quanh. Theo những người thuộc trường phái này thì môi trường là nhân tố quyết định sự phát triển của trẻ em, vì thế muốn nghiên cứu con người chỉ cần phân tích cấu trúc môi trường của họ: môi trường xung quanh như thế nào thì nhân cách của con người, cơ chế hành vi, những con đường phát triển của hành vi sẽ như thế đó. Nhưng các nhà tâm lý học tư sản lại hiểu môi trường xã hội một cách siêu hình, coi môi trường xã hội là bất biến, quyết định trước số phận con người, còn con người được xem như là đối tượng thụ động trước ảnh hưởng của môi trường.
  • 8. Quan điểm này xuất hiện ở nước Anh, coi trẻ em sinh ra " như tờ giấy trắng" hoặc "tấm bảng sạch sẽ". Sự phát triển tâm lý của trẻ hoàn toàn phụ thuộc vào tác động bên ngoài, do vậy người lớn muốn vẽ nên tờ giấy cái gì thì nó nên thế... Quan điểm như vậy sẽ không giải thích được vì sao trong môi trường như nhau, lại có những nhân cách rất khác nhau. - Thuyết hội tụ hai yêu tố. Những người theo thuyết này tính tới tác động của hai yếu tố (môi trường và tính di truyền) khi nghiên cứu trẻ em. Nhưng họ hiểu về tác động của hai yếu tố đó một cách máy móc, dường như sự tác động qua lại giữa chúng quyết định trực tiếp tới quá trình phát triển, trong đó di truyền giữ vai trò quyết định và môi trường là điều kiện để biến những đặc điểm tâm lý đã được định sẵn thành hiện thực. Theo họ, sự phát triển là sự chín muồi của những năng lực, những nét tính cách, những hứng thú và sở thích... mà trẻ sinh ra đã có. Những nét và những đặc điểm tính cách... do cha mẹ hoặc tổ tiên truyền lại cho thế hệ sau dưới dạng có sẵn, bất biến. Trong đó nhịp độ và giới hạn của sự phát triển là tiền định. Một số người theo thuyết này có đề cập đến ảnh hưởng của môi trường đối với tốc độ chín muồi của năng lực và nét tính cách được truyền lại cho trẻ (nhà tâm lý học Đức V.Stecmơ). Nhưng môi trường không phải là toàn bộ những điều kiện và hoàn cảnh mà đứa trẻ (hay người lớn) sống, mà chỉ là gia đình của trẻ. "Môi trường" đó được xem như cái gì riêng biệt, tách rời khỏi toàn bộ đời sống xã hội. “Môi trường xung quanh” đó thường xuyên ổn định, ảnh hưởng một cách định mệnh tới sự phát triển của trẻ. Tác động của môi trường, cũng như ảnh hưởng của yếu tố sinh vật (di truyền) định trước sự phát triển của trẻ, không phụ thuộc vào hoạt động sư phạm của nhà giáo dục vào tính tích cực ngày càng tăng của trẻ. Thuyết hội tụ hai yếu tố cũng sai lầm không kém gì thuyết tiền định là thuyết duy cảm. Tính chất máy móc, siêu hình của các quan niệm này đều đã bị phê phán.
  • 9. Mặc dù quan niệm của những người đại điện cho các thuyết trên bề ngoài có vẻ khác nhau, nhưng thực chất đều có những sai lầm giống nhau: - Họ đều thừa nhận đặc điểm tâm lý của con người là bất biến hoặc là tiền định, hoặc là do tiềm năng sinh vật di truyền, hoặc là ảnh hưởng của môi trường bất biến. Với quan niệm như vậy thì trong trường hợp nào con em của tầng lớp có đặc quyền, đặc lợi cũng đều có trình độ phát triển tâm lý hơn hẳn con em giai cấp bóc lột (do họ có tố chất di truyền tốt hơn hoặc do họ sống trong môi trường trí tuệ có tổ chức cao). Do vậy sự bất bình đẳng trong xã hội là tất nhiên, là hợp lý. - Các quan niệm này đã đánh giá không đúng vai trò của giáo đục. Họ xem xét sự phát triển của trẻ em một cách tách rời và không phụ thuộc vào những điều kiện cụ thể mà trong do quá trình phát triển tâm lý đang diễn ra. Họ đã phủ nhận tính tích cực riêng của cá nhân, coi thường những mâu thuẫn biện chứng được hình thành trong quá trình phát triển tâm lý. Coi đứa trẻ là một thực thể tự nhiên, thụ động, cam chịu ảnh hưởng có tính chất được con người, là thực thể xã hội tích cực, chủ động trước tự nhiên có thể cải tạo được tự nhiên, xã hội và bản thân để phát triển nhân cách... Vì phủ nhận tính tích cực của trẻ, nên không hiểu được vì sao trong những điều kiện cùng một môi trường xã hội lại hình thành nên những nhân cách khác nhau về nhiều chỉ số, hoặc vì sao có những người giống nhau về thế giới nội tâm, về nội dung và hình thức hành vi lại được hình thành trong những môi trường xã hội khác nhau. c. Quan điểm duy vật biện chứng về sự phát triển tâm lý Nguyên lý phát triển trong triết học Mác-lênin thừa nhận sự phát triển là quá trình biến đổi của sự vật từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Đó là một quá trình tích luỹ dần về số lượng dẫn đến sự thay đổi về chất lượng, là quá trình nảy sinh cái mới trên cơ sở cái cũ, do sự đấu tranh giữa các mặt đối lập nằm ngay trong bản thân sự vật, hiện tượng. Quan điểm Mác xít này được vận dụng để xem xét sự phát triển tâm lý trẻ em. Bản chất của sự phát triển tâm lý trẻ em không phải là sự tăng hoặc
  • 10. giảm về số lượng, mà là một quá trình biến đổi về chất lượng tâm lý. Sự thay đổi về lượng của các chức năng tâm lý dẫn đến sự thay đổi về chất và đưa đến sự hình thành cái mới một cách nhảy vọt. Sự phát triển tâm lý gắn liền với sự xuất hiện những đặc điểm mới về chất - những cấu tạo tâm lý mới ở những giai đoạn lứa tuổi nhất định (ví dụ, nhu cầu tự lập ở trẻ lên ba..) Trong các giai đoạn phát triển khác nhau, có sự cải biến về chất của các quá trình tâm lý và toàn bộ nhân cách trẻ. Xét trong toàn cục, phát triển là cả một quá trình kế thừa. Sự phát triển tâm lý trẻ em là một quá trình trẻ em lĩnh hội nền văn hoá xã hội của loài người. Bằng lao động của mình, con người ghi lại kinh nghiệm, năng lực... trong các công cụ sản xuất, các đồ dùng hàng ngày, các tác phẩm văn hoá nghệ thuật..., con người đã tích luỹ kinh nghiệm thực tiễn xã hội của mình trong các đối tượng do con người tạo ra và các quan hệ con người với con người. Ngay từ khi ra dời đứa trẻ đã sống trong thế giới đối tượng và những quan hệ đó. Đứa trẻ không chỉ thích nghi với thế giới đồ vật và hiện tượng do con người tạo ra, mà còn lĩnh hội thế giới đó. Đứa trẻ đã tiến hành những hoạt động căn bản tương ứng với hoạt động mà trước đó loài người đã thể hiện vào trong đồ vật, hiện tượng. Nhờ cách đó nó lĩnh hội được những năng lực đó cho mình. Quá trình đó là quá trình tâm lý trẻ phát triển. Như vậy, phát triển tâm lý là kết quả hoạt động của chính đứa trẻ với những đối tượng do loài người tạo ra. Những đứa trẻ không tự lớn lên giữa môi trường. Nó chỉ có thể lĩnh hội kinh nghiệm xã hội khi có vai trò trung gian của người lớn. Nhờ sự tiếp xúc với người lớn và hướng dẫn của người lớn mà những quá trình nhận thức, kĩ năng, kĩ xảo và cả những nhu cầu xã hội của trẻ được hình thành. Người lớn giúp trẻ em nắm được ngôn ngữ, phương thức hoạt động... Những biến đổi về chất trong tâm lý sẽ đưa đứa trẻ từ lứa tuổi này sang lứa tuổi khác. Bất cứ một một mức độ nào của trình độ trước cũng là sự
  • 11. chuẩn bị cho trình độ sau. Yếu tố tâm lý lúc đầu ở vị trí thứ yếu, sau chuyển sang vị trí chủ yếu. Tóm lại sự phát triển tâm lý của trẻ đầy biến động và diễn ra cực kì nhanh chóng. Đó là một quá trình không phẳng lặng, mà có khủng hoảng và đột biến. Chính hoạt động của đứa trẻ dưới sự hướng dẫn của người lớn làm cho tâm lý của nó được hình thành và phát triển. Nhưng, các nhà tâm lý học Mácxít cũng thừa nhận rằng, sự phát triển tâm lý chỉ có thể xảy ra trên nền của một cơ sở vật chất nhất định (một cơ thể người với những đặc điểm bẩm sinh di truyền cửa nó). Trẻ em sinh ra với những đặc điểm bẩm sinh, di truyền nhất định. Vì vậy sự phát triển tâm lý của mỗi người dựa trên cơ sở vật chất riêng. Sự khác nhau này có thể ảnh hưởng tới tốc độ đỉnh cao... của các thành tựu của con người cụ thể trong một lĩnh vực nào đó, có thể ảnh hưởng tới con đường và phương thức khác nhau của sự phát triển các thuộc tính tâm lý. Chúng là tiền đề, điều kiện cần thiết để phát triển tâm lý, những điều kiện đó không quyết định sự phát triển tâm lý, nó có thể trở thành hiện thực hay không còn phụ thuộc vào một tổ hợp những yếu tố khác nữa. 2. Quy luật chung của sự phát triển tâm lý trẻ em. a. Tính không đồng đều của sự phát triển tâm lý Trong những điều kiện bất kỳ, thậm chí ngay cả trong những điều kiện thuận lợi nhất của việc giáo dục thì những biểu hiện tâm lý, những chức năng tâm lý khác nhau... cũng không thể phát triển ở mức độ như nhau. Có những thời kỳ tối ưu đối với sự phát triển một hình thức hoạt động tâm lý nào đó. Ví dụ: giai đoạn thuận lợi nhất cho sự phát triển ngôn ngữ là thời kỳ từ 1 tuổi đến 5 tuổi; cho sự hình thành nhiều kỹ xảo vận động là tuổi học sinh cấp I, cho sự hình thành tư duy toán học là giai đoạn từ 15 - 20 tuổi. b. Tính toàn vẹn của tâm lý Cùng với sự phát triển tâm lý con người ngày càng có tính trọn vẹn, thống nhất và bền vững. Sự phát triển tâm lý là sự chuyển biến dần các trạng
  • 12. thái tâm lý thành các đặc điểm tâm lý cá nhân. Tâm lý trẻ nhỏ phần lớn là một tổ hợp thiếu hệ thống những tâm trạng rời rạc khác nhau. Sự phát triển thể hiện ở cho những tâm trạng đó dần dần chuyển thành các nét của nhân cách. Ví dụ, tâm trạng vui vẻ, thoải mái nảy sinh trong quá trình lao động chung hợp với lứa tuổi: nếu được lặp đi lặp lại thường xuyên sẽ chuyển thành lòng yêu lao động. Tính trọn vẹn của tâm lý phụ thuộc khá nhiều vào động cơ chỉ đạo hành vi của trẻ. Cùng với giáo dục, cùng với sự mở rộng kinh nghiệm sống, những động cơ hành vi của trẻ ngày càng trở nên tự giác, có ý nghĩa xã hội và ngày càng bộc lộ rõ trong nhân cách của trẻ. Trẻ mẫu giáo thường hành động vì muốn thoả mãn một điều gì đó và động cơ đó thay đổi luôn trong một ngày. Nhưng thiếu niên và thanh niên thường hành động do động cơ xã hội, do tinh thần nghĩa vụ, do sự phát triển toàn diện của bản thân... thúc đẩy. c. Tính mềm dẻo và khả năng bù trừ Hệ thần kinh của trẻ em rất mềm dẻo. Dựa trên tính mềm dẻo của hệ thần kinh mà tác động của giáo dục có thể làm thay đổi tâm lý trẻ em. Tính mềm dẻo cũng tạo ra khả năng bù trừ, khi một chức năng tâm lý hoặc sinh lý nào đó yếu hoặc thiếu thì những chức năng tâm lý khác được tăng cường, phát triển mạnh hơn để bù đắp hoạt động không đầy đủ của chức năng bị yếu hay bị hỏng. Thí dụ: khuyết tật của thị giác được bù đắp bằng sự phát triển mạnh mẽ hoạt động của thính giác. Trí nhớ kém có thể được bù trừ bằng tính tổ chức cao, tính chính xác của hoạt động. Đó là một số quy luật cơ bản của sự phát triển tâm lý trẻ em. Nhưng những quy luật đó chỉ là một số xu thế của sự phát triển tâm lý của trẻ có thể xảy ra. Những quy luật đó có sau so với ảnh hưởng của môi trường (trong đó có giáo dục). Sự phát triển và ngay cả tính độc đáo của những xu thế đó cũng phụ thuộc vào điều kiện sống của trẻ em (trước hết là giáo dục). Sự phát triển tâm lý của trẻ em không tuân theo quy luật sinh học, mà tuân theo quy luật xã hội. Dù có bộ óc tinh vi đến đâu chăng nữa, nhưng không sống trong xã hội
  • 13. loài người thì trẻ cũng không thể trở thành thực thể người với đầy đủ tính xã hội. 3. Dạy học, giáo dục và sự phát triển tâm lý Trẻ chỉ có thể lĩnh hội kinh nghiệm xã hội nhờ sự tiếp xúc với người lớn. Nhưng sự tiếp xúc của trẻ với người lớn có hiệu quả tốt với điều kiện là sự tiếp xúc đó được tổ chức đặc biệt và chặt chẽ, nhất là trong quá trình hoạt động sư phạm. Do vậy, giáo dục giữ vai trò chủ đạo đối với sự phát triển tâm lý trẻ em. Giáo dục và dạy học là con đường đặc biệt để truyền đạt những phương tiện hoạt động của con người (công cụ, kí hiệu), truyền đạt những kinh nghiệm xã hội cho thế hệ sau. Khi nói tới vai trò chủ đạo của giáo dục, dạy học, các nhà tâm lý học Mácxít nhấn mạnh, đó là quá trình tác động có mục đích, có ý thức của thế hệ trưởng thành đối với thế hệ trẻ phạm hình thành những phẩm chất nhất định của cá nhân đáp ứng được những nhu cầu của xã hội. Khi khẳng định vai trò chủ đạo của giáo dục, dạy học đối với sự phát triển tâm lý trẻ em chúng ta cần lưu ý: tâm lý của con người mang tính chủ thể, những tác động của điều kiện bên ngoài luôn luôn bị khúc xạ thông qua kinh nghiệm sống của con người. Do vậy, những học sinh khác nhau có thể có thái độ khác nhau trước cùng một yêu cầu của cô giáo. Con người là chủ thể hoạt động, chủ thể trước những tác động của môi trường. Do vậy, các tác động của bên ngoài quyết định tâm lý của con người một cách gián tiếp thông qua quá trình tác động qua lại của con người với môi trường, thông qua hoạt động của con người trong môi trường đó. Hơn nữa, con người là một chủ thể tích cực có thể tự giác thay đổi được chính bản thân mình - con người có thể tự giáo dục (ở tuổi thiếu niên, tự ý thức phát triển mạnh mẽ, các em có thể tự giáo dục một cách có ý thức). Nhưng quá trình tự giáo dục của trẻ không tách khỏi tác động của môi trường. Nó được giáo dục kích thích, hướng dẫn... và diễn ra trong quá trình đứa trẻ tác động qua lại tích cực với những người xung quanh.
  • 14. Do vậy, những tác động như nhau, những điều kiện bên ngoài như nhau có thể ảnh hưởng khác nhau đến trẻ em... Giáo dục dạy học có vai trò chủ đạo đối với sự phát triển. Mối quan hệ giữa giáo dục, dạy học và phát triển là mối quan hệ biện chứng. Hai quá trình này không phải là hai quá trình diễn ra song song, mà chúng thống nhất với nhau, có quan hệ tương hỗ nhau. Sự phát triển tâm lý của trẻ chỉ có thể diễn ra một cách tốt đẹp trong những điều kiện của giáo dục và dạy học. Nhưng để giữ được vai trò chủ đạo, giáo dục và dạy học phải kích thích, dẫn dắt sự phát triển chứ không chờ đợi sự phát triển. Giáo dục phải đi trước một bước, phải đón trước sự phát triển, tạo nên ở trẻ quá trình giải quyết mâu thuẫn liên tục để thúc đẩy sự phát triển. Tuy vậy, trong khi kích thích sự phát triển, đi trước sự phát triển một bước, giáo dục và dạy học cần tính đến những đặc điểm của mức độ đã đạt được ở trẻ, tính đến đặc điểm lứa tuổi và quy luật bên trong của sự phát triển. Do vậy, khả năng của giáo dục và dạy học rất rộng lớn, nhưng không vô hạn. Muốn tâm lý của trẻ phát triển đúng đắn rất cần có sự tự giáo dục của trẻ trong tất cả các thời kỳ của cuộc đời. III - SỰ PHÂN CHIA GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN TÂM LÝ 1. Quan niệm về giai đoạn phát triển của tâm lý Có thể nói quan niệm bản chất của sự phát triển tâm lý con người như thế nào thì quan niệm về lứa tuổi tương ứng như vậy. Quan niệm sinh vật coi sự phát triển tâm lý như là một quá trình sinh vật tự nhiên, đã khẳng định tính bất biến, tính tuyệt đối của các giai đoạn lứa tuổi. Quan niệm đối lập lại phủ nhận khái niệm lứa tuổi. Họ coi sự phát triển như là sự tích luỹ tri thức, kĩ năng, kĩ xảo một cách đơn giản. Tâm lý học Mácxít, đại diện là L.X.Vưgôtxki, coi lứa tuổi là một thời kỳ phát triển nhất định đóng kín một cách tương đối, mà ý nghĩa của nó được quyết định bởi vị trí của thời kỳ đó trong cả quá trình phát triển chung, và ở đó
  • 15. những quy luật phát triển chung bao giờ cũng được thể hiện một cách độc đáo về chất. Khi chuyển từ lứa tuổi này sang lứa tuổi khác bao giờ cũng xuất hiện những cấu tạo tâm lý mới chưa từng có trong các thời kỳ trước. Những cấu tạo mới này cải tổ lại và làm biến đổi chính tiến trình phát triển. Mỗi giai đoạn được quyết định bởi một tổ hợp nhiều điều kiện. Đó là đặc điểm của những điều kiện sống và hoạt động của trẻ cùng với hệ thống các yêu cầu đề ra cho trẻ trong giai đoạn đó; đặc điểm của các mối quan hệ của trẻ với môi trường xung quanh; kiểu tri thức và hoạt động mà trẻ đã nắm được cùng với phương thức lĩnh hội các tri thức đó và một yếu tố cần thiết nữa là những đặc điểm của sự phát triền cơ thể trẻ ở giai đoạn đó. Những đặc điểm lứa tuổi là đặc điểm chung. đặc trưng điển hình nhất: chỉ ra hướng phát triển chung. Nhưng lứa tuổi không phải là phạm trù tuyệt đối, bất biến. Giai đoạn lứa tuổi chỉ có ý nghĩa tương đối. Tuổi chỉ có ý nghĩa là yếu tố thời gian trong quá trình phát triển của trẻ. Trẻ cần thời gian chuẩn bị về mọi mặt để chuyển sang một giai đoạn phát triển mới (để lớn lên về cơ thể, mở rộng quan hệ xã hội, tích luỹ tri thức, phương thức hành động...). Nhưng tuổi không quyết định trực tiếp sự phát triển nhân cách. Tuổi có thể phù hợp với trình độ phát triển tâm lý của trẻ hoặc có thể đi nhanh hay chậm hơn... là do ta biết vận dụng thời gian và điều kiện giáo dục để tổ chức cuộc sống của trẻ, tổ chức sự tiếp xúc của trẻ với thế giới xung quanh có tốt hay không. 2. Phân chia giai đoạn phát triển tâm lý trẻ em Căn cứ vào những thay đổi cơ bản trong điều kiện sống và hoạt động của trẻ, căn cứ vào những thay đổi trong cấu trúc tâm lý của trẻ mà cả vào sự trưởng thành của cơ thể trẻ em, người ta chia ra một số thời kỳ chủ yếu trong sự phát triển tâm lý trẻ em: - Giai đoạn trước tuổi học: + Tuổi sơ sinh: Thời kỳ 2 tháng đầu sau khi sinh + Tuổi hài nhi: Thời kỳ 2 tháng đến 12 tháng
  • 16. + Tuổi vườn trẻ: Từ 1 đến hết 3 năm + Tuổi mẫu giáo: Từ 3 đến hết 5 năm - Giai đoạn tuổi học sinh: + Thời kỳ đầu tuổi học hay nhi đồng: Từ 6 đến 11, 12 tuổi. + Thời kỳ giữa tuổi học hay thiếu niên: Từ 11, 12 đến 14, 15 tuổi. + Thời kỳ cuối tuổi học hay đầu tuổi thanh niên: Từ 14, 15 đến 17, 18 tuổi. Mỗi thời kỳ có một vị trí, vai trò nhất định trong quá trình chuyển từ đứa trẻ mới sinh sang một nhân cách trưởng thành. Mỗi thời kỳ phát triển có những nét tâm lý đặc trưng của mình, mà đứa trẻ phải trải qua. Sự chuyển từ thời kỳ này sang thời kỳ khác bao giờ cũng gắn với sự xuất hiện những cấu tạo tâm lý mới về chất. CÂU HỎI ÔN TẬP 1. Tóm tắt quan điểm cơ bản của thuyết tiền định, thuyết duy cảm, thuyết hội tụ hai yếu tố về nguồn gốc sự phát triển tâm lý trẻ em. Những thuyết đó có đặc điểm gì cần phê phán? 2. Nêu quan điểm của tâm lý học duy vật biện chứng về sự phát triển tâm lý trẻ em. Từ đó rút ra kết luận gì cho công tác sư phạm? 3. Tâm lý học duy vật biện chứng quan niệm như thế nào về quan hệ giữa giáo dục, dạy học và sự phát triển tâm lý? 4. Tại sao nói giai đoạn phát triển tâm lý chỉ có ý nghĩa tương đối? CÂU HỎI THẢO LUẬN Quan điểm của tâm lý học duy vật biện chứng về trẻ em và sự phát triển tâm lý trẻ em. Từ đó rút ra những kết luận cần thiết cho công tác sư phạm
  • 17. Nội dung chỉnh cần đề cập - Quan niệm về sự phát triển tâm lý của trẻ - Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển tâm lý trẻ em - Vai trò của các yếu tố và mối tương quan của chúng trong sự phát triển tâm lý của trẻ. BÀI TẬP THỰC HÀNH Anh (chị) hãy sưu tầm ca dao, tục ngữ phản ánh quan điểm của nhân dân nước ta xoay quanh các vấn đề: - Di truyền và sự phát triển tâm lý của trẻ em. - Hoàn cảnh và sự phát triển tâm lý của trẻ em. - Giáo dục và sự phát triển tâm lý của trẻ em. - Tính tích cực hoạt động của trẻ và sự phát triển tâm lý của chúng. Vận dụng quan điểm tâm lý học Mácxít phân tích những quan niệm đúng, sai, chưa đầy đủ của các câu ca dao tục ngữ được sưu tầm. Chương 2: TÂM LÝ HỌC LỨA TUỔI HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ (Thiếu niên) “Thiếu niên không còn là trẻ con. Nhưng chưa hẳn là người lớn” I – VỊ TRÍ, Ý NGHĨA CỦA GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN TÂM LÝ Ở LỨA TUỔI HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ Lứa tuổi học sinh trung học cơ sở bao gồm những em có độ tuổi từ 11, 12 tuổi đến 14, 15 tuổi. Đó là những em đang theo học từ lớp 6 đến lớp 9 ở trường trung học cơ sở. Lứa tuổi này còn gọi là lứa tuổi thiếu niên và nó có một vị trí đặc biệt trong thời kỳ phát triển của trẻ em. Vị trí đặc biệt này được phản ánh bằng những tên gọi khác nhau của nó: “thời kỳ quá độ”, “tuổi khó bảo”, “tuổi khủng
  • 18. hoảng”, “tuổi bất trị”... Những tên gọi đó nói lên tính phức tạp và tầm quan trọng của lứa tuổi này trong quá trình phát triển của trẻ em. Đây là thời kỳ chuyển từ thời thơ ấu sang tuổi trưởng thành. Nội dung cơ bản của sự khác biệt ở lứa tuổi học sinh trung học cơ sở với các em ở lứa tuổi khác là sự phát triển mạnh mẽ, thiếu cân đối về các mặt trí tuệ, đạo đức. Sự xuất hiện những yếu tố mới của sự trưởng thành do kết quả của sự biến đổi cơ thể, của sự tự ý thức, của các kiểu quan hệ với người lớn, với bạn bè, của hoạt động học tập, hoạt động xã hội... Yếu tố đầu tiên của sự phát triển nhân cách ở lứa tuổi học sinh trung học cơ sở là tính tích cực xã hội mạnh mẽ của bản thân các em nhằm lĩnh hội những giá trị, những chuẩn mực nhất định, nhằm xây dựng những quan hệ thoả đáng với người lớn, bạn bè, và cuối cùng nhằm vào bản thân, thiết kế nhân cách của mình, thiết kế tương lai của mình với ý đồ thực hiện những ý định, mục đích, nhiệm vụ... một cách độc lập. Tuy nhiên quá trình hình thành cái mới thường kéo dài về thời gian và phụ thuộc vào điều kiện sống, hoạt động của các em. Do đó, sự phát triển tâm lý ở lứa tuổi này diễn ra không đồng đều về mọi mặt. Điều đó quyết định sự tồn tại song song "vừa tính trẻ con, vừa tính người lớn" ở lứa tuổi này. Mặt khác, ở những em cùng độ tuổi lại có sự khác biệt về mức độ phát triển các khía cạnh khác nhau của tính người lớn. Sự khác nhau đó do hoàn cảnh sống, hoạt động khác nhau của các em. Hoàn cảnh đó có hai mặt: 1. Những yếu tố của hoàn cảnh kìm hãm sự phát triển tính người lớn Trẻ chỉ bận vào việc học tập, không có những nghĩa vụ khác, nhiều bậc cha mẹ có xu thể không để cho trẻ hoạt động, làm những công việc khác nhau của gia đình, của xã hội. 2. Những yếu tố hoàn cảnh thúc đẩy sự phát triển tính người lớn Nguồn thông tin phong phú, sự gia tăng về thể chất, về phát dục, nhiều bậc cha mẹ quá bận, gia đình gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống, đòi hỏi
  • 19. đứa trẻ phải lao động nhiều để sinh sống. Điều đó đưa đến trẻ sớm có tính độc lập, tự chủ hơn. Tất cả những điều kiện khác nhau của cuộc sống tạo ra sự khác biệt căn bản trong sự phát triển những khía cạnh khác nhau của tính người lớn ở lứa tuổi học sinh trung học cơ sở. Phương hướng phát triển tính người lớn ở lứa tuổi này có thể xảy ra theo các hướng sau: - Đối với một số em, tri thức sách vở làm cho các em hiểu biết nhiều, nhưng còn có nhiều mặt khác nhau trong đời sống thì như trẻ con, các em hiểu biết rất ít. - Có những em rất ít quan tâm đến việc học tập ở nhà trường; những tri thức cơ bản mà nhà trường giảng dạy thì các em ít chú ý đến, mà chỉ quan tâm đến những vấn đề làm thế nào cho phù hợp với mốt, coi trọng việc giao tiếp với người lớn, với bạn bè lớn tuổi, để bàn bạc, trao đổi với họ các vấn đề trong cuộc sống, để tỏ ra mình cũng như người lớn. - Ở một số em khác không biểu hiện tính người lớn ra bên ngoài, nhưng thực tế đang cố gắng rèn luyện mình có đức tính ở người lớn như tính dũng cảm, tự chủ, độc lập... còn quan hệ với bạn bè khác giới như trẻ con. Những hướng trên phát triển tính người lớn nêu trên có khác nhau, nhưng đều có một tham số chung, đó là mong muốn thớ thành "người lớn", nhưng lại biểu hiện tính người lớn khác nhau, vì thế mà hình thành những giá trị của cuộc sống có nội dung khác nhau. II – NHỮNG ĐIỀU KIỆN PHÁT TRIỂN TÂM LÝ Ở LỨA TUỔI HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ 1. Sự biến đổi về mặt giải phẫu sinh lý ở lứa tuổi học sinh trung học cơ sở - Đây là lứa tuổi phát triển mạnh mẽ nhưng không đồng đều bề mặt cơ thể. Tầm vóc của các em lớn lên trông thấy. Trung bình một năm các em cao
  • 20. lên được 5, 6 cm. Các em nữ ở độ tuổi 12, 13 phát triển chiều cao nhanh hơn các em nam cùng độ tuổi, nhưng đến 18, 20 tuổi thì sự phát triển chiều cao dừng lại. Các em nam ở độ tuổi 15, 16 tuổi thì cao đột biến, vượt các em nữ và đến 24, 25 tuổi mới dừng lại. Trọng lượng cơ thể mỗi năm tăng từ 2,4 kg đến 6 kg. - Sự phát triển của hệ xương, mà chủ yếu là sự phát triển các xương tay, xương chân rất nhanh, nhưng xương ngón tay, ngón chân lại phát triển chậm. Vì thế ở lứa tuổi này các em không mập béo, mà cao, gầy thiếu cân đối, các em có vẻ lóng ngóng vụng về, không khéo léo khi làm việc, thiếu thận trọng hay làm đổ vỡ. Điều đó gây cho các em một biểu hiện tâm lý khó chịu. Các em ý thức được sự lóng ngóng vụng về của mình, mà cố che giấu nó bằng điệu bộ không tự nhiên cầu kỳ, tỏ ra mạnh bạo, can đảm để người khác không chú ý tới vẻ bề ngoài của mình. Chỉ một sự mỉa mai chế giễu nhẹ nhàng về hình thể, tư thế đi đứng của các em đều gây cho các em những phản ứng mạnh mẽ. - Sự phát triển của hệ thống tim mạch cũng không cân đối. Thể tích của tim tăng rất nhanh, hoạt động của tim mạnh mẽ hơn, nhưng kích thước của mạch máu lại phát triển chậm. Do đó có một số rối loạn tạm thời của hệ tuần hoàn, tăng huyết áp, tim đập nhanh, hay gây nhức đầu, chóng mặt, mệt mỏi khi làm việc. - Tuyến nội tiết bắt đầu hoạt động mạnh (đặc biệt là tuyến giáp trạng), thường dẫn đến sự rối loạn của hoạt động thần kinh. Do đó, các em dễ xúc động, dễ bực tức, nổi khùng. Vì thế, ta thấy ở các em thường có những phản ứng gay gắt, mạnh mẽ và những cơn xúc động. - Hệ thần kinh của thiếu niên còn chưa có khả năng chịu đựng những kích thích mạnh, đơn điệu, kéo dài. Do tác động của những kích thích như thế, thường gây cho các em tình trạng bị ức chế hay ngược lại xảy ra tình trạng bị kích động mạnh. Vì vậy sự phong phú của các ấn tượng, những chấn động thần kinh mạnh, hoặc sự chờ đợi lâu dài về những biến cố gây xúc động... đều có tác động mạnh mẽ tới lứa tuổi học sinh trung học cơ sở, có thể
  • 21. làm cho một số em bị ức chế, uể oải, thờ ơ, lơ đễnh, tản mạn, số khác làm những hành vi xấu, không đúng bản chất của các em. - Sự thay đổi về thể chất ở lứa tuổi học sinh trung học cơ sở đã làm cho các em có những đặc điểm nhân cách khác với các em ở lứa tuổi trước. Lứa tuổi này là lứa tuổi có nghị lực dồi dào, có tính tích cực cao, có nhiều dự định lớn lao. Là phụ huynh, là các nhà giáo dục cần thấy được đặc điểm này, để tổ chức công tác dạy học là giáo dục các em có hiệu quả, tránh định kiến. Một đặc điểm nữa cần phải chú ý dấn ở lứa tuổi này, đó là thời kỳ phát dục. Sự phát dục ở lứa tuổi học sinh trung học cơ sở là một hiện tượng bình thường, diễn ra theo quy luật sinh học và chịu ảnh hưởng của môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Sự phát dục ở các em trai vào khoảng 15, 16 tuổi, ở các em nữ vào khoảng 13, 14 tuổi. Biểu hiện ở thời kỳ này là cơ quan sinh dục phát triển và xuất hiện những dấu biểu phụ của giới tính. Thời kỳ phát dục sớm hay muộn phụ thuộc vào yếu tố dân tộc và yếu tố khí hậu. Các em sống ở miền Nam thường phát dục sớm hơn các em ở miền Bắc. Sự phát dục còn phụ thuộc vào chế độ sinh hoạt cá nhân, sức khoẻ, bệnh tật, ăn uống, lao động, nghỉ ngơi, đời sống tinh thần của các em nữa. Hiện nay do điều kiện xã hội có nhiều thay đổi, nên có sự gia tốc phát triển thể chất và phát dục. Đến 15, 16 tuổi, giai đoạn phát dục đã kết thúc, có thể sinh đẻ được tuy nhiên các em chưa trưởng thành về mặt cơ thể và đặc biệt là sự trưởng thành về mặt xã hội. Chính vì thế mà một số nhà khoa học cho rằng ở lứa tuổi học sinh trung học cơ sở không có sự cân đối giữa phát dục, giữa bản năng tương ứng, những tình cảm và ham muốn đượm màu sắc tình dục với mức độ trưởng thành về mãi xã hội và tâm lý. Nhiều khó khăn trở ngại ở lứa tuổi này chính ở chỗ các em chưa biết đánh giá, chưa biết kìm hãm và hướng dẫn bản năng, ham muốn của mình một cách đúng đắn; chưa biết kiểm tra tình cảm và hành vi, chưa biết xây dựng mối quan hệ đúng đắn với người bạn khác giới. Vì thế mà các nhà giáo dục cần phải giúp đỡ các em một cách tế
  • 22. nhị, khéo léo để các em hiểu đúng vấn đề, đừng làm cho các em băn khoăn lo ngại. 2. Sự thay đổi của điều kiện sống a. Đời sống gia đình của học sinh trung học cơ sở Ở lứa tuổi này địa vị của các em trong gia đình đã thay đổi, được gia đình thừa nhận như là một thành viên tích cực của gia đình, được cha mẹ, anh chị giao cho những nhiệm vụ cụ thể như chăm sóc em nhỏ khi cha mẹ đi vắng, như nấu cơm, dọn dẹp nhà cửa, chăn nuôi gia súc... ở các gia đình neo đơn, các em phải tham gia lao động thực sự để góp phần nâng cao thu nhập của gia đình, các em đã ý thức được các nhiệm vụ đó và thực hiện tích cực. Điều quan trọng và có ý nghĩa lớn đối với các em là đã được tham gia bàn bạc một số công việc của gia đình, về những việc của cha mẹ, anh chị, quan tâm đến việc xây dựng và bảo vệ uy tín của gia đình hơn các em học sinh tiểu học. Những sự thay đổi đó đã động viên, kích thích học sinh trung học cơ sở hoạt động tích cực, độc lập tự chủ. b. Đời sống trong nhà trường của học sinh trung học cơ sở Hoạt động học tập và các hoạt động khác của học sinh trung học cơ sở có nhiều sự thay đổi, có tác động quan trọng tới sự hình thành những đặc điểm tâm lý lứa tuổi học sinh trung học cơ sở như: + Bắt đầu thay đổi về nội dung dạy học: Bắt đầu vào học trường trung học cơ sở, các em được tiếp xúc với nhiều môn học khác nhau, mỗi môn học bao gồm một hệ thống tri thức với những khái niệm trừu tượng, khái quát, có nội dung phong phú, sâu sắc, do đó, đòi hỏi thay đổi cách học. Các em không thể học thuộc từng bài, mà phải biết cách lập dàn bài, tóm tắt, nắm bắt ý chính, dựa vào các ý chính mà trình bày toàn bộ bài học theo cách hiểu của mình. Sự phong phú về tri thức từng môn học làm cho khối lượng tri thức các em lĩnh hội dược tăng lên nhiều. Tầm hiểu biết của các em được mở rộng
  • 23. + Sự thay đổi về phương pháp dạy học và hình thức học tập: Các em được học nhiều môn, nhiều thầy cô giảng dạy. Mỗi môn học có phương pháp phù hợp với bộ môn đó, mỗi thầy cô dạy có cách trình bày, có phương pháp độc đáo của riêng mình, sử dụng các hình thức dạy học khác nhau. Sự khác nhau này đã ảnh hưởng đến việc lĩnh hội, đến sự phát triển trí tuệ và nhân cách của các em. Thái độ say sưa, hứng thú học tập, việc hình thành và phát triển cách lập luận độc đáo cùng những nét tính cách quý báu của các em đều do ảnh hưởng của cách giảng dạy và nhân cách làm người thầy. c. Đời sống của học sinh trung học cơ sở trong xã hội Ở lứa tuổi này các em được xã hội thừa nhận như một thành viên tích cực, và được giao một số công việc nhất định trên nhiều lĩnh vực khác nhau như tuyên truyền cổ động, giữ trật tự đường phố, giúp đỡ gia đình thương binh liệt sĩ, tham gia các tổ chăm sóc trâu bò. các tổ kỹ thuật nông nghiệp... ở lứa tuổi này các em thích làm công tác xã hội, vì: + Có sức lực đã hiểu biết nhiều, muốn được một người thừa nhận mình là người lớn, muốn làm những công việc được mọi người biết đến, nhất là những công việc làm với người lớn. + Cho rằng công tác xã hội, là việc làm của người lớn, và có ý nghĩa lớn lao. Do đó được làm các công việc xã hội là thể hiện mình đã là người lớn, và muốn thừa nhận mình là người lớn. Đó là một nhu cầu của các em, vì thế nhiều khi các em bỏ công việc gia đình học tập mà tích cực tham gia công việc ở ngoài xã hội. + Hoạt động xã hội là hoạt động có tính chất tập thể. Ở lứa tuổi này các em thích làm những công việc có tính chất tập thể, những công việc liên quan đến nhiều người và có được nhiều người cùng tham gia. Do tham gia công tác xã hội, mà quan hệ của học sinh trung học cơ sở được mở rộng, các em được tiếp xúc với nhiều người, nhiều vấn đề của xã hội, do đó tầm hiểu biết được mở rộng, kinh nghiệm cuộc sống phong phú lên, nhân cách của các em được phát triển.
  • 24. Tóm lại, do có sự thay đổi điều kiện sống, điều kiện hoạt động của các em ở trong gia đình, nhà trường, xã hội, mà vị trí các em được nâng lên. Các em ý thức được sự thay đổi này và tích cực hoạt động cho phù hợp với sự thay đổi đó. Do đó tâm lý, nhân cách của học sinh trung học cơ sở được hình thành và phát triển phong phú hơn ở các lứa tuổi trước. III – MỘT SỐ QUAN NIỆM VỀ "KHỦNG HOẢNG" TRONG SỰ PHÁT TRIỀN TÂM LÝ Ở LỨA TUỔI HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ Trong tâm lý học đã tồn tại những quan điểm khác nhau về vấn đề "khủng hoảng" ở lứa tuổi học sinh trung học cơ sở. Một trong những quan điểm đã tồn tại lâu dài (gần 1/4 thế kỷ) đó là quan niệm sinh vật hóa lứa tuổi này. Quan điểm này cho rằng, những đặc điểm phát triển đột biến ở lứa tuổi học sinh trung học cơ sở là do nguyên nhân sinh vật. Những người đại diện cho quan niệm này là C. Khôn và Z. Frơt. Họ cho rằng thời kỳ học sinh trung học cơ sở là thời kỳ "khủng hoảng", thời kỳ có những hiện tượng không tránh khỏi như “điên loạn”, “thô bạo”, “vô chính phủ”... Tất cả cái đó là do nguyên nhân sinh vật, do thời kỳ phát dục gây ra. Vào khoảng những năm 20 - 30 của thế kỷ này, các nhà tâm lý học đã bắt đầu tập trung sức lực vào nghiên cứu để chống lại quan niệm trên. Ở các nước khác nhau các nhà khoa học đã tích luỹ được những số liệu nghiên cứu cụ thể, đã làm sáng tỏ sự phụ thuộc nhân cách của lứa tuổi học sinh trung học cơ sở vào nguyên nhân xã hội của nó. Về phương hướng này phải kể đến sự đóng góp rất to lớn của các nhà tâm lý học, giáo dục học Liên Xô cũ. Thực tiễn giáo dục của Macarencô là một ví dụ điền hình về nguyên nhân xã hội của các đặc điểm tâm lý của trẻ. Các nhà nhân chủng học cũng góp phần đáng kể vào việc chống lại quan niệm trên. Những công trình nghiên cứu của họ, có ý nghĩa rất lớn bề mặt lý luận. Họ đã chứng minh hoàn cảnh cụ thể của cuộc sống quyết định: + Thời gian dài hay ngắn của lứa tuổi này.
  • 25. + Có hay không có "cuộc khủng hoảng", sự xung đột, những khó khăn của lứa tuổi này. + Bản chất của sự chuyển từ trẻ con sang người lớn. Từ những kết quả nghiên cứu của mình, họ đã bác bỏ quan niệm sinh vật của Z. Frơt, và cho rằng bản chất tự nhiên trong con người không có thể mâu thuẫn với xã hội, bởi vì cái tự nhiên trong con người đã mang tính chất xã hội. Lênin đã phát triển những tư tưởng của các nhà nhân chủng học. Ông đã phân tích vị trí của thiếu niên trong xã hội hiện đại và thời kỳ xung đột từ trẻ con đến người lớn. Từ đó xác nhận rằng trong xã hội tồn tại hai nhóm người: nhóm trẻ con và nhóm người lớn, và cho rằng lứa tuổi học sinh trung học cơ sở là trẻ con vận động từ nhóm trẻ con sang nhóm người lớn. Ở lứa tuổi này có sự mong muốn chuyển vào nhóm người lớn. Nhưng các em chưa được thừa nhận là người lớn, vì các em ở giữa hai nhóm người này. Ông cho rằng, mức độ khó khăn, xung đột ở lứa tuổi học sinh trung học cơ sở phụ thuộc vào sự phân biệt gay gắt những nhóm trẻ con và những nhóm người lớn trong xã hội, và thời kỳ này kéo dài, hay ngắn phụ thuộc vào khi trẻ con còn ở giữa hai nhóm này. L.X.Vưgôxki khi nghiên cứu lứa tuổi học sinh trung học cơ sở cũng đặt vấn đề cần thiết phải xem xét những tổ chức mới được hình thành trong nhân cách của lứa tuổi này và làm rõ hoàn cảnh xã hội của sự phát triển của nó. Hoàn cảnh xã hội trong mỗi lứa tuổi có một hệ thống quan hệ không lặp lại giữa trẻ con và môi trường. Sự cải tổ lại hệ thống quan hệ này tạo nên nôi dung chính của "cuộc khủng hoảng" ở lứa tuổi học sinh trung học cơ sở. Tóm lại, sự phát triển những tư tưởng trong sự giải thích "cuộc khủng hoảng" ớ lứa tuổi học sinh trung học cơ sở đã được tích luỹ và khái quát lại dần và cho rằng những đặc điểm biểu hiện và diễn biến của thời kỳ này được xác định bởi hoàn cảnh xã hội cụ thể của cuộc sống, bằng vị trí xã hội của các em trong thế giới người lớn.
  • 26. IV – HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP VÀ SỰ PHÁT TRIỂN TRÍ TUỆ 1. Đặc điểm hoạt động học tập ở nhà trường trung học cơ sở Hoạt động học tập là hoạt động chủ đạo của lứa tuổi học sinh, nhưng đến học sinh trung học cơ sở, hoạt động học tập được xây dựng lại một cách cơ bản so với lứa tuổi học sinh tiểu học. Các công trình nghiên cứu của các nhà tâm lý học đã chỉ ra răng, ở thời kỳ đầu của lứa tuổi học sinh trung học cơ sở chưa có kỹ năng cơ bản để tổ chức tự học (các em chỉ tự học khi có bài tập, nhiệm vụ được giao) sau khi chuyển sang mức độ cao hơn (độc lập nắm vững tài liệu mới, những tri thức mới). Bắt đầu ở lứa tuổi này cũng là bắt đầu hình thành mức độ hoạt đông học tập cao nhất. Đối với các em ý nghĩa của hoạt động học tập dần dần được xem như là hoạt động độc lập hướng vào sự thoả mãn nhu cầu nhận thức. Nhiều công trình nghiên cứu đã cho thấy động cơ học tập của học sinh trung học cơ sở có một cấu trúc phức tạp, trong đó các động cơ xã hội khác nhau được kết hợp thành một khối (học tập để phục vụ xã hội, để lao động tốt...). Những động cơ nhận thức và những động cơ riêng (ví dụ muốn có uy tín, có địa vị trong lớp...) liên quan với lòng mong muốn tiến bộ và lòng tự trọng. Đôi khi ta lại thấy có sự mâu thuẫn giữa sự mong muốn trao đổi tri thức với thái độ bàng quan và thậm chí thái độ xấu đối với học tập, thái độ "phớt đời" đối với điểm số. Sở dĩ có tình trạng trên, là do nguyên nhân như sau: Do phản ứng độc đáo của lứa tuổi này đối với thất bại trong học tập; do xung đột với giáo viên. Các em thường xuyên hay xúc động mạnh khi thất bại trong học tập, nhưng lòng tự trọng thường làm các em che dấu, thờ ơ, lãnh đạm đối với thành tích học tập. Nhiều lúc chúng ta thấy các em thường nhắc bài cho nhau. Việc làm này của các em có nhiều động cơ khác nhau. Nhưng các nhà tâm lý học đã xác nhận rằng, đó là động cơ thuộc về mặt nhận thức, đạo đức của các em. Các em nhắc bài cho bạn là muốn giúp bạn, bởi vì các em quan niệm giúp bạn là giúp bằng mọi phương tiện. Có em nhắc bài cho bạn để tỏ rõ sự hiểu
  • 27. biết của mình, muốn khoe khoang sự chăm chỉ học bài của mình. Tóm lại, động cơ học tập của học sinh trung học cơ sở rất phong phú đa dạng, nhưng chưa bền vững, nhiều khi còn thể hiện sự mâu thuẫn của nó. Thái độ đối với học tập của học sinh trung học cơ sở cũng rất khác nhau. Tất cả các em đều ý thức được tầm quan trọng và sự cần thiết của học tập, nhưng thái độ biểu hiện rất khác nhau. Sự khác nhau đó được thể hiện như sau: - Trong thái độ học tập: Từ thái độ rất tích cực, có trách nhiệm đến thái độ lười biếng, thờ ơ, thiếu trách nhiệm trong học tập. - Trong sự hiểu biết chung: Từ mức độ phát triển cao và sự ham hiểu biết nhiều lĩnh vực tri thức khác nhau ở một số em, nhưng ở một số em khác thì mức độ phát triển rất yếu, tầm hiểu biết rất hạn chế. - Trong phương thức lĩnh hội tài liệu học tập: Từ chỗ có kỹ năng học tập độc lập, có nhiều cách học đến mức hoàn toàn chưa có kỹ năng học tập độc lập, chỉ biết học thuộc lòng từng bài, từng câu, từng chữ. - Trong hứng thú học tập: Từ hứng thú biểu hiện rõ rệt đối với một lĩnh vực tri thức nào đó và có những việc làm có nội dung cho đến mức độ hoàn toàn không có hứng thú nhận thức, cho việc hoàn toàn gò ép, bắt buộc. Nhiều công trình nghiên cứu đã chỉ ra rằng, để giúp các em có thái độ đúng đắn với việc học tập, thì: - Tài liệu học tập phải súc tích về nội dung khoa học. - Tài liệu học tập phải gắn với cuộc sống của các em làm cho các em hiểu rõ ý nghĩa của tài liệu học tập. - Tài liệu phải gợi cảm, gây cho học sinh hứng thú học tập. - Trình bày tài liệu, phải gợi cho học sinh có nhu cầu tìm hiểu tài liệu đó. - Phải giúp đỡ các em biết cách học, có phương pháp học tập phù hợp. 2. Sự phát triển trí tuệ của học sinh trung học cơ sở
  • 28. Sự thay đổi tính chất và các hình thức hoạt động học tập cùng với óc tò mò, ham hiểu biết phát triển đòi hỏi hoạt động trí tuệ của học sinh trung học cơ sở phát triển cao hơn các lứa tuổi trước. - Học sinh trung học cơ sở có khả năng phân tích, tổng hợp phức tạp hơn khi tri giác các sự vật, hiện tượng. Khối lượng trị giác tăng lên, tri giác trở nên có kế hoạch, có trình tự và hoàn thiện hơn. Ở lứa tuổi này trí nhớ cũng được thay đổi về chất. Đặc tính cơ bản của lứa tuổi này là sự tăng cường tính chất chủ định của các chức năng này. Trí nhớ dần dần mang tính chất của những quá trình được điều chỉnh, điều khiển và có tổ chức. Học sinh trung học cơ sở có nhiều tiến bộ trong việc ghi nhớ tài liệu trừu tượng, từ ngữ. Những kỹ năng tổ chức hoạt động tư duy của học sinh trung học cơ sở nhằm ghi nhớ tài liệu nhất định, kỹ năng nắm vững phương tiện ghi nhớ được phát triển ở mức độ cao hơn nhiều so với học sinh tiểu học. Học sinh trung học cơ sở bắt đầu biết sử dụng những phương pháp đặc biệt để ghi nhớ và nhớ lại. Khi ghi nhớ các em đã biết tiến hành các thao tác như so sánh, hệ thống hoá, phân loại. Tốc độ ghi nhớ và khối lượng tài liệu ghi nhớ được tăng lên. Ghi nhớ máy móc ngày càng nhường chỗ cho ghi nhớ lôgic, ghi nhớ ý nghĩa. Hiệu quả của trí nhớ trở nên tốt hơn. Nếu trước đây các em học sinh tiểu học thường cố gắng ghi nhớ từng chữ, từng bài, thì bây giờ các em học sinh trung học cơ sở thường phản đối yêu cầu của giáo viên bắt buộc thuộc lòng và có khuynh hướng muốn tái hiện bằng lời nói của mình. Vì thế giáo viên phải: + Dạy cho học sinh phương pháp đúng đắn của việc ghi nhớ lôgic (kỹ năng biết phân đoạn theo ý nghĩa, biết tách ra các ý làm điểm tựa để nhớ, biết ôn tập, lập dàn bài sơ lược để ghi nhớ...). + Cần giải thích cho các em rõ sự cần thiết phải ghi nhớ chính xác những định nghĩa, những quy luật. Ở dây phải chỉ cho các em thấy nếu ghi nhớ thiếu một từ nào đó, thì ý nghĩa của nó không còn chính xác nữa.
  • 29. + Rèn luyện cho các em kỹ năng trình bày chính xác nội dung bài học theo cách diễn đạt của mình. + Khi tổ chức quá trình ghi nhớ, học sinh trung học cơ sở thường kiểm tra hiệu quả ghi nhớ bằng sự nhận lại; nhưng hiệu quả của ghi nhớ không phải đo bằng sự nhận lại, mà bằng sự tái hiện. Vì thế kiểm tra sự ghi nhớ, phải bằng sự tái hiện thì mới biết được hiệu quả của việc ghi nhớ. Một đặc điểm nữa của trí nhớ học sinh trung học cơ sở là sự thiết lập các mối liên tưởng phức tạp hơn, gắn tài liệu mới với tài liệu cũ đưa tài liệu cũ vào hệ thống tri thức. I.A. Xamarin và những người cộng tác với ông đã xác định quá trình hình thành hệ thống tri thức đều dựa vào việc thiết lập các mối liên tưởng ở mức độ khác nhau. Từ việc thành lập những liên tưởng riêng lẻ (liên tưởng cục bộ) và liên tưởng hệ thống (tri thức về từng vấn đề tồn tại tách rời nhau). Đó là đặc điểm liên tưởng của học sinh tiểu học nhưng ở học sinh trung học cơ sở đặc điểm liên tưởng ở mức độ cao hơn, từ mức độ hình thành mối liên tưởng bên trong bộ môn (phản ánh hệ thống tri thức bên trong các môn học) sang mối liên tưởng giữa các môn học (giữa các hệ thống tri thức). Điều này giúp cho học sinh trung học cơ sở thấy được mối liên hệ giữa tri thức của các môn học khác nhau, hiểu biết về cái chung, sự thống nhất tri thức của nhiều khoa học khác nhau. - Sự phát triển chú ý của học sinh trung học cơ sở diễn ra rất phức tạp. Một mặt,chú ý có chủ định bền vững được hình thành; nhưng mặt khác, sự phong phú của những ấn tượng, sự rung động tích cực và xung động mạnh mẽ của lứa tuổi này thường dẫn đến sự chú ý không bền vững. Tất cả những cái đó đều phụ thuộc vào điều kiện làm việc, nội dung tài liệu, tâm trạng, thái độ của các em đối với công việc học tập. Ở lứa tuổi này tính lựa chọn của chú ý phụ thuộc rất nhiều vào tính chất của đối tượng học tập và mức độ hứng thú của các em với đối tượng đó. Vì thế ở giờ học này các em không tập trung, chú ý, đãng trí, nhưng ở giờ học khác thì lại làm việc rất nghiêm chỉnh, tập trung chú ý rất cao độ.
  • 30. Nhiều công trình nghiên cứu cho thấy ở lứa tuổi học sinh trung học cơ sở, khối lượng chú ý tăng lên rõ rệt; khả năng di chuyển chú ý từ thao tác này đến thao tác khác, từ hoạt động này đến hoạt động khác cũng được tăng cường rõ rệt. Các em có thể đang học môn này chuyển sang học môn khác vẫn tập trung chú ý vào việc học tập dễ dàng. Biện pháp tốt nhất để tổ chức sự chú ý của học sinh trung học cơ sở là tổ chức hoạt động học tập sao cho các em ít có thời gian nhàn rỗi, cũng không có ý muốn và khả năng bị thu hút vào một đối tượng nào đó trong thời gian lâu dài. Những công việc hứng thú, giờ học hứng thú có tác dụng gây sự say mê, tập trung chú ý của các em. Nhưng cần lưu ý, không phải bao giờ các em cũng thích cái vui, cái dễ hiểu; mà chính những giờ học có nội dung, có sự chuyển tiếp từ hình thức làm việc này đến hình thức làm việc khác, đòi hỏi các em phải hoạt động nhận thức tích cực đó chính là hình thức tốt làm cho các em có khả năng tự tổ chức sự chú ý của mình. Những công trình nghiên cứu của N.F. Đôbrưnhin và những người khác đã cho bi,t. từ chú ý có chủ định được duy trì bằng nỗ lực ý chí, các em ngày càng chuyển sang chú ý sau chủ định. Nó được xuất hiện do sự lôi cuốn dần dần của công tiệc có tính “phát minh”, và vì vậy không đòi hỏi các em phải có những nỗ lực ý chí để duy trì sự chú ý của mình. Hoạt động tư duy của học sinh trung học cơ sở cũng có những biến đổi cơ bản. Do nội dung các môn học phong phú, đa dạng, phức tạp đòi hỏi tính chất mới mẻ của công việc lĩnh hội tri thức: đòi hỏi phải dựa vào tư duy độc lập, khả năng khái quát hoá, trừu tượng hoá, so sánh, phán đoán mới rút ra được kết luận, mới hiểu được tài liệu học. Vì thế tư duy của học sinh trung học cơ sở đã phát triển ở mức độ cao hơn học sinh tiểu học. Việc học tập môn toán là điều kiện quan trọng đối với quá trình phát triển tư duy khái quát và tư duy luận. Sự bắt đầu học tập có hệ thống môn đại số cũng kích thích quá trình chuyển sang trình độ khái quát cao hơn, và điều này liên quan đến quá trình khái quát hoá cái đã khái quát hay trừu tượng cái đã trừu tượng (số học là sự trừu tượng hoá từ các đồ vật; đại số là sự trừu
  • 31. tượng hoá các số từ các số cụ thể). Việc học tập hình học làm phát triển kỹ năng phán đoán, chứng minh lý giải các vấn đề một cách chặt chẽ logic. Qua mỗi năm học ở nhà trường trung học cơ sở, khả năng tư duy trừu tượng được phát triển. Sự thay đổi mối quan hệ giữa tư duy hình tượng cụ thể sang tư duy trừu tượng, khái quát mà sự chiếm ưu thế của tư duy trừu tượng là đặc điểm cơ bản về hoạt động tư duy của lứa tuổi học sinh trung học cơ sở. Tuy nhiên những thành phần hình tượng - cụ thể của tư duy bộ phận không giảm xuống, không mất đi mà vẫn tồn tại và được phát triển. Nó vẫn giữ một vai trò quan trọng trong cấu trúc tư duy. Sự coi thường những đặc điểm của tư duy trực quan - hình tượng của lứa tuổi này sẽ dẫn đến tình trạng khi phân tích những dấu hiệu bản chất trừu tượng này một cách hình thức. Nhiều công trình nghiên cứu đã chỉ ra rằng, nhiều học sinh trung học cơ sở hiểu những dấu hiệu bản chất của đối tượng, nhưng không phải bao giờ cũng phân biệt được dấu hiệu đó trong tất cả các trường hợp cụ thể. Ví dụ chưa nhận biết được tam giác vuông, khi góc vuông ở phía trên và cạnh huyền ở phía đáy của tam giác. Ý nghĩa của thành phần hình tượng - cụ thể của tư duy là ở chỗ trong nhiều trường hợp tác động của những ấn tượng trực tiếp cảm tính mạnh mẽ hơn tác động của từ ngữ. Kết quả là sẽ thu hẹp hay mở rộng không đúng một khái niệm nào đó. Vì thế nếu chỉ dừng ở tư duy trực quan - hình tượng, mà không quan tâm đến sự phát triển tư duy trừu tượng cho các em thì là một sai lầm rất nghiêm trọng. Bởi vì, nếu các em không phát triển tư duy trừu tượng thì không thể nào lĩnh hội được các khái niệm khoa học trong chương trình học tập của các em. Do đó dạy học phải tạo điều kiện để phát triển tư duy trừu tượng cho các em. V – HOẠT ĐỘNG GIAO TIẾP CỦA LỨA TUỔI HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ 1. Sự hình thành kiểu quan hệ mới
  • 32. Học sinh trung học cơ sở có nhu cầu mở rộng quan hệ với người lớn và mong muốn người lớn quan hệ với nó một cách bình đẳng như người lớn, không muốn người lớn coi nó như trẻ con như trước đây nữa. Kiểu quan hệ của người lớn với trẻ em trước đây (kiểu quan hệ không bình đẳng giữa người lớn và trẻ em) không còn thích hợp với lứa tuổi này. Vì thế các em mong muốn cải tổ lại mối quan hệ này theo chiều hướng hạn chế quyền hạn của người lớn, mở rộng quyền hạn của mình. Các em mong muốn người lớn tôn trọng nhân cách, phẩm giá, tin tưởng và mở rộng tính độc lập. Để duy trì sự thay đổi mối quan hệ giữa các em và người lớn, các em có những hình thức chống cự, không phục tùng xem như là phương tiện để thay đổi kiểu quan hệ cũ bằng kiểu quan hệ mới. Sự nảy sinh ở lứa tuổi này cảm giác về sự trưởng thành và nhu cầu được người lớn thừa nhận nó là người lớn đã đưa đến vấn đề quyền hạn của người lớn và các em trong quan hệ với nhau cần phải thay đổi. Như vậy, việc chuyển tiếp từ kiểu quan hệ giữa người lớn với trẻ em (đặc thù cho lứa tuổi thơ ấu), sang kiểu quan hệ mới về chất (đặc thù cho sự giao tiếp của học sinh trung học cơ sở với người lớn), tạo điều kiện phát triển mức độ trưởng thành ở lứa tuổi này. Tất nhiên việc chuyển tiếp này có thể diễn ra thuận lợi, hoặc khó khăn, điều này phụ thuộc hoàn toàn vào sự hiểu biết và thái độ của người lớn. Tuy nhiên, không phải mọi người lớn đều nhận thức được nhu cầu cần thay đổi kiểu quan hệ với các em. Điều này mâu thuẫn với xu thế "vươn lên làm người lớn" của các em, với cảm giác trưởng thành của các em, hạn chế chuyển từ trẻ em sang người lớn, là đặc trưng của lứa tuổi này, là nguyên nhân dẫn đến sự xung đột giữa các em với người lớn. Nếu người lớn không chịu thay đổi quan hệ với các em thì các em sẽ trở thành người khởi xướng thay đổi mối quan hệ này. Nếu người lớn chống đối, sẽ gây ra phản ứng của các em với người lớn dưới dạng bướng bỉnh, bất bình, không vâng lời... Nếu người lớn thấy sự phản đối của các em, mà không
  • 33. suy xét về phía mình để thay đổi mối quan hệ với các em thì sự xung đột giữa các em và người lớn còn kéo dài đến hết thời kỳ của lứa tuổi này. Những quan hệ xung đột giữa các em và người lớn làm nảy sinh những hành vi tương ứng ở các em: xa lánh người lớn, không tin tưởng vào người lớn, cho rằng người lớn không hiểu các em, khó chịu một cách có ý thức đối với những yêu cầu, những đánh giá, nhận xét của người lớn. Tác động giáo dục của người lớn đối với các em bị giảm sút. Tính độc lập và quyền bình đẳng trong quan hệ của các em với người lớn là vấn đề phức tạp và gay gắt nhất trong sự giao tiếp của các em với người lớn nói riêng, trong việc giáo dục các em ở lứa tuổi này nói chung. Nhưng khó khăn đặc thù này có thể giải quyết, nếu người lớn và các em xây dựng được mối quan hệ bạn bè, hoặc quan hệ có hình thức hợp tác trên cơ sở tôn trọng, tin tưởng giúp đỡ lẫn nhau. Sự hợp tác này cho phép người lớn đặt các em vào vị trí mới - vị trí của người giúp việc và người bạn trong những công việc khác nhau, còn bản thân người lớn trở thành người mẫu mực, và người bạn tin cậy của các em. 2. Hoạt động giao tiếp của học sinh trung học cơ sở với bạn bè Sự giao tiếp của học sinh trong học cơ sở với bạn bè cùng lứa tuổi. Mối quan hệ của học sinh trung học cơ sở với bạn bè cùng lứa tuổi phức tạp, đa dạng hơn nhiều so với học sinh tiểu học. Sự giao tiếp giữa các em đã vượt ra ngoài phạm vi học tập, phạm vi nhà trường, mà còn mở rộng trong những hứng thú mới, những việc làm mới, những quan hệ mới trong đời sống của các em. Các em có nhu cầu lớn trong giao tiếp với bạn bè vì một mặt, các em rất khao khát được giao tiếp và cùng hoạt động chung với nhau, các em có nguyện vọng được sống tập thể, có những đồng chí, bạn bè thân thiết, tin cậy; mặt khác cũng biểu hiện nguyện vọng không kém phần quan trọng là được bạn bè công nhận, thừa nhận, tôn trọng mình. Học sinh trung học cơ sở coi quan hệ bạn bè cùng lứa tuổi là quan hệ riêng của những cá nhân. Các em cho rằng các em có quyền hành động độc lập trong quan hệ này và bảo vệ quyền đó của mình. Nếu có sự can thiệp thô
  • 34. bạo của người lớn, khiến các em cảm thấy bị xúc phạm, thì các em chống đối lại. Nếu như quan hệ của các em với người lớn càng không thuận hoà, thì sự giao tiếp với bạn bè cùng lứa tuổi càng tăng và ảnh hưởng của bạn bè đến với các em càng mạnh mẽ. Sự bất hoà trong quan hệ bạn bè cùng lớp, sự thiếu thốn bạn thân hoặc tình cảm bị phá vỡ đều sinh ra những cảm xúc nặng nề, được xem như là bi kịch của cá nhân. Tình huống khó chịu nhất đối với các em là sự phê bình thẳng thắn của lập thể, của bạn bè; còn hình phạt nặng nề nhất đối với các em là bị bạn bè tẩy chay, không muốn chơi với mình. - Học sinh tiểu học khi kết bạn thường căn cứ nhiều vào sức học, hành vi, tính tích cực xã hội của các bạn, tức là vào việc bạn mình thực hiện những yêu cầu của người lớn như thế nào. Đối với học sinh trung học cơ sở, điều quan trọng để kết bạn là những phẩm chất về tình bạn. "Bộ luật tình bạn" đối với các em bao gồm những chuẩn mực quan trọng nhất là sự tôn trọng lẫn nhau, quan hệ bình đẳng và giúp đỡ lẫn nhau, lòng trung thành, tính trung thực. Đó là cơ sở để học sinh trung học cơ sở giao tiếp và kết bạn với nhau. - Tình bạn trong đời sống của học sinh trung học cơ sở. Các em ở lứa tuổi này thích giao tiếp và kết bạn với nhau. Nhưng không phải là mọi em ở trong lớp đều được các em yêu thích giao tiếp như nhau. Các em chỉ kết bạn với những em được mọi người tôn trọng, có uy tín và tiến bộ rõ rệt về một mặt nào đó. Lúc đầu phạm vi giao tiếp của các em thường rộng, nhưng không được bền vững, có tính chất tạm thời. Đó là thời kỳ lựa chọn. tìm kiếm người bạn thân. Về sau những em có cùng hứng thú, cùng yêu thích một loại hoạt động nào đó thì gắn bó với nhau, thích giao tiếp, trò chuyện với nhau. Phạm vi giao tiếp của các em hẹp lại nhưng quan hệ giữa các em gắn bó với nhau hơn. Trong giao tiếp, các em chịu ảnh hưởng của nhau. Nhiều em lúc đầu không ưa thích hoạt động nào đó, nhưng vì chơi với bạn, bạn hứng thú về hoạt động đó, mà làm lây sang em. Vì vậy giao tiếp với bạn là nguồn nảy sinh hứng thú mới.
  • 35. Những ưu điểm của bạn mà nó yêu thích đã làm cho các em phải suy nghĩ về mình một cách nghiêm túc, mong muốn mình cũng có những mặt ưu điểm như bạn. Do đó bạn bè có thể trở thành hình mẫu đối với các em. Trong quan hệ giao tiếp của lứa tuổi tuổi này, trò chuyện giữ một vị trí có ý nghĩa đối với các em. Trong chuyện trò, các em đã kể cho nhau về mọi mặt sinh hoạt, đời sống và suy nghĩ của mình. Các em có thể nói với nhau cả những chuyện, những điều "bí mật", mà những điều này nhiều khi các em không kể với ai, kể cả với người thân trong gia đình. Vì thế mà các em yêu cầu rất cao đối với bạn bè. Các em hiểu đã là bạn bè của nhau thì phải cởi mở, hiểu nhau, tế nhị, vị tha, đồng cảm và giữ bí mật cho nhau. Lý tưởng tình bạn của lứa tuổi này là “sống chết có nhau”, “chia ngọt sẻ bùi”. Điều đó không chỉ là sự tuân theo một cách nghiêm ngặt bộ luật tình bạn, mà còn là vấn đề người này thâm nhập vào mọi mặt đời sống của người kia, cùng nhau hợp tác hành động. Càng lớn lên sự thâm nhập về tâm hồn giữa các em càng được nảy nở, phát triển. Đó là sự giống nhau về đời sống nội tâm, là sự hiểu biết nhau, sự trùng hợp về những giá trị của các nhân, về những hoài bão, về quan điểm trong cuộc sống. Sự hình thành tình bạn như thế, thường đi kèm theo những cuộc thảo luận, tranh luận với nhau về những vấn đề: cuộc sống, đạo đức, thẩm mỹ... Trong quá trình tranh luận sẽ hình thành những quan niệm, mà các em ý thức được đó là những quan niệm riêng, nghĩa là niềm tin ở các em bắt đầu được hình thành. Tóm lại, sự giao tiếp ở lứa tuổi học sinh trung học cơ sở là một loại hoạt động đặc biệt, mà đối tượng của hoạt động này là người khác - người bạn, người đồng chí. Nội dung của hoạt động này là sự xây dựng những quan hệ qua lại và những hành động trong quan hệ đó. Nhờ hoạt động giao tiếp mà các em nhận thức được người khác và bản thân mình; đồng thời qua đó làm phát triển một số kỹ năng như kỹ năng so sánh phân tích, khái quát hành vi của bản thân và của bạn, làm phong phú thêm những biểu tượng về nhân cách của bạn và của bản thân.
  • 36. Đó chính là ý nghĩa to lớn của sự giao tiếp ở lứa tuổi này với sự hình thành và phát triển nhân cách. Vì thế làm công tác giáo dục phải tạo điều kiện để các em giao tiếp với nhau, hướng dẫn và kiểm tra sự quan hệ của các em, tránh tình trạng ngăn cấm, hạn chế sự giao tiếp của lứa tuổi này. - Một số đặc điểm quan hệ giữa các em trai và các em gái ở lứa tuổi này. Quan hệ giữa các em trai và em gái ở lứa tuổi này có sự thay đổi cơ bản so với lứa tuổi trước. Ở đây ta thấy các em đã bắt đầu biểu hiện quan tâm lẫn nhau, ưa thích nhau, và do đó quan tâm đến vẻ bề ngoài của mình. Lúc đầu sự quan tâm tới giới khác, ở các em nam có tính chất tản mạn, và biểu hiện bằng phương thức đặc thù của trẻ con, như xô đẩy, trêu trọc các em gái... Các em gái nhiều khi rất bực, không hài lòng về những hành vi như thế của các em trai, song động cơ của những hành vi đó, các em gái ý thức được và không bực tức, giận dỗi các em trai. Về sau những quan hệ này được thay đổi, mất tính trực tiếp, xuất hiện tính ngượng ngùng, nhút nhát, e thẹn, ở một số em điều đó được bộc lộ trực tiếp còn một số khác thì được che giấu bằng thái độ thờ ơ giả tạo, "khinh bỉ" đối với người khác giới. Hành vi này mang tính chất hai mặt: sự quan tâm đến nhau cùng tồn tại với sự phân biệt nam nữ. Có nhiều em học sinh lớp 8 và lớp 9, đặc biệt là các em gái hay để ý đến vấn đề ai yêu ai. Mặc dù điều này các em rất bí mật, nếu có kể cho ai biết, thì chỉ kể cho những người bạn thật tin cậy, thân thiết. Nhưng không hiểu làm sao các em khác lại biết dược. Điều đó chứng tỏ các em theo dõi quan sát nhau, để ý đến nhau thường xuyên. Ở học sinh các lớp 6 và 7, tình bạn giữa nam và nữ ít nảy sinh, nhưng ở các học sinh lớp 8 và 9 thì nảy sinh thường xuyên hơn, sự gắn bó giữa hai bên rất thắm thiết và nó giữ một vị trí lớn trong cuộc sống của các em. Ở các lớp này đã xuất hiện các nhóm hỗn hợp (cả nam lẫn nữ vao một nhóm bạn).
  • 37. Hứng thú đối với người bạn cùng học khác giới có ý nghĩa không nhỏ đối với sự phát triển nhân cách của các em. Mối cảm tình, thân thiện đã động viên nhau, gợi ý cho nhau, kích thích nhau làm điều tốt, giúp nhau bảo vệ lẫn nhau. Đây là một động lực tự hoàn thiện bản thân của từng em. Tất nhiên trong quan hệ nam nữ ở lứa tuổi này cũng có thể lệch lạc. Quan niệm về bạn khác giới không đúng mực, đi đến chỗ đua đòi chơi bời, bỏ việc học tập và những công việc khác. Vì thế làm công tác giáo dục phải thấy được điều đó, để hướng dẫn, uốn nắn cho tình bạn giữa nam và nữ ở lứa tuổi này thật lành mạnh, trong sáng và nó là động lực để giúp nhau trong học tập, trong tu dưỡng. VI – SỰ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH Ở LỨA TUỔI HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ 1. Sự hình thành tự ý thức của học sinh trung học cơ sở Ở lứa tuổi học sinh tiểu học nguyện vọng tự đánh giá mình như "Tôi hơn người ở cái gì"; "Tôi đã có tính như thế nào?"; "Tôi có cái gì tốt?"; "Tôi có những khuyết điểm gì?"... chưa cao. Nhưng ở lứa tuổi học sinh trung học cơ sở đã bắt đầu xuất hiện sự quan tâm đến bản thân, đến những phẩm chất nhân cách của mình. Ở các em đã xuất hiện nhu cầu tự đánh giá, nhu cầu so sánh mình với người khác. Các em đã bắt đầu xem xét mình, vạch cho mình một nhân cách tương lai, muốn hiểu biết mặt mạnh, mặt yếu trong nhân cách của mình. Sự bắt đầu hình thành và phát triển tự ý thức đã gây nhiều ấn tượng sâu sắc đến toàn bộ đời sống tâm lý của lứa tuổi này, đến hoạt động học tập, đến sự hình thành mối quan hệ qua lại với mọi người. Tự ý thức không có nghĩa là tách rời khỏi thực tế, khỏi thế giới cảm xúc bên trong; không phải là sự thể hiện độc nhất nguyện vọng tự nhận thức, tự mổ xẻ; tự phân tích triền miên, vô bổ. Nhu cầu tự ý thức tự nảy sinh từ nhu cầu cuộc sống, từ hoạt động thực tiễn, từ yêu cầu mong muốn của người lớn, của tập thể quy định. Do sự phát triển mối quan hệ với tập thể, với đời sống xã hội, mà học sinh
  • 38. trung học cơ sở nảy sinh nhu cầu đánh giá khả năng của mình, tìm kiếm vị trí của mình, hành vi của mình giúp cho các em hoặc ngăn cản các em đạt được lòng mong muốn trở thành người lớn. Sự tự ý thức của lứa tuổi này được bắt đầu từ sự tự nhận thức hành vi của mình. Lúc đầu các em tự nhận thức những hành vi riêng lẻ. sau đó là toàn bộ hành vi của mình. Cuối cùng các em nhận thức về những phẩm chất đạo đức, tính cách và khả năng của mình Sự hình thành tự ý thức của các em là một quá trình diễn ra dần dần. Cơ sở đầu tiên của sự tự ý thức của các em là sự nhận xét đánh giá của người khác, nhất là người lớn. Vì thế các em ở đầu lứa tuổi này hình như nhận xét mình bằng con mắt của người khác. Tuổi các em càng nhiều, các em bắt đầu có khuynh hướng độc lập phân tích và đánh giá nhân cách của mình hơn. Nhiều công trình nghiên cứu đã cho thấy, không phải toàn bộ những nét tính cách được các em ý thức cùng một lúc. Những phẩm chất được các em ý thức được trước, đó là những phẩm chất có liên quan đến nhiệm vụ học tập. Ví dụ như tính kiên trì, sự chú ý, sự chuyên cần... - Sau đó là thể hiện thái độ với người khác. Ví dụ: tình đồng chí, tình bạn, tính vị tha, tính nhẫn nại, tính bướng bỉnh... - Tiếp đến là những phẩm chất thể hiện thái độ đối với bản thân. Ví dụ: tính khiêm tốn, tính tự cao, tính khoe khoang, tính tự phê... - Cuối cùng là những nét tính cách tổng hợp thể hiện nhiều mặt của nhân cách. Ví dụ: tình cảm trách nhiệm, lòng tự trọng, danh dự, tính nguyên tắc, tính mục đích. Sở dĩ quá trình hình thành sự tự ý thức diễn ra như trên vì: - Hoạt động học tập và thái độ đối với mọi người được các em xác định là mặt biểu hiện chủ yếu của nhân cách.
  • 39. - Những nét tính cách như tính khiêm tốn, tính tự cao, tính khoe khoang... là những nét tính cách các em dễ nhận thấy khi giao tiếp với mọi người. - Còn những nét tính cách như tình cảm trách nhiệm, tính nguyên tắc, tính mục đích là những nét tính cách phức tạp tổng hợp do đó mà các em khó nhận thấy ngay. Đặc điểm quan trọng về tự ý thức của lứa tuổi này là sự mâu thuẫn giữa nhu cầu tìm hiểu bản thân với kĩ năng chưa đầy đủ để phân tích đúng đắn sự biểu lộ của nhân cách. Trên cơ sở đó nảy sinh những xung đột do mâu thuẫn giữa mức độ kì vọng của các em với địa vị thực tế của chúng trong tập thể, mâu thuẫn giữa thái độ của các em với bản thân, đối với những phẩm chất nhân cách của mình và thái độ của các em đối với người lớn, đối với bạn bè cùng lứa tuổi. Vì thế A.G.Côvaliov nhận xét rằng, sự đánh giá đúng đắn nhân cách của lứa tuổi này quan trọng như thế nào, để đừng gây cho các em hai rung cảm trái ngược nhau: tự cao và kém cỏi. Ý nghĩa quyết định nhất để phát triển tự ý thức ở lứa tuổi học sinh trung học cơ sở là cuộc sống tập thể của các em, nơi mà nhiều mối quan hệ giá trị đúng đắn. Mối quan hệ này sẽ hình thành ở các em lòng tự tin vào sự tự đánh giá của mình là những yêu cầu ngày càng cao đối với hành vi, hoạt động của các em, nguyện vọng tìm kiếm một vị trí trong hệ thống những mối quan hệ xã hội đúng đắn với các em, cũng đồng thời giúp cho sự phát triển về mặt tự ý thức của các em. Như vậy trên cơ sở phát triển tự ý thức và thái độ nhận thức thức thực tế; trên cơ sở yêu cầu ngày càng cao đối với chúng. Vị trí mới mẻ của các em trong tập thể, đã làm nảy sinh khát vọng tự tu dưỡng nhằm mục đích phát triển cho bản thân những nét tính cách tốt, khắc phục những nét tính cách lạc hậu, những khuyết điểm, sai lầm của mình. 2. Sự hình thành tình cảm ở lứa tuổi học sinh trung học cơ sở