SlideShare a Scribd company logo
1 of 144
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
PHẠM NGUYÊN NHUNG
KHẢO SÁT ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ
VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT
TẢI MIỄN PHÍ KẾT BẠN ZALO:0917 193 864
DỊCH VỤ VIẾT LUẬN VĂN CHẤT LƯỢNG
WEBSITE: LUANVANTRUST.COM
ZALO/TELEGRAM: 0917 193 864
MAIL:
BAOCAOTHUCTAPNET@GMAIL.COM
Chuyên ngành : Ngôn ngữ học
Mã số : 60 22 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Người hướng dẫn khoa học:
PGS. TS. NGUYỄN THỊ VIỆT THANH
MỤC LỤC
Trang
Mở đầu 4
1 Lƣợc sử nghiên cứu vấn đề 4
2 Ý nghĩa của đề tài 7
3 Mục đíchnghiên cứu 8
4 Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu 8
5 Phƣơng pháp nghiên cứu 8
6 Bố cục luận văn 9
Chƣơng 1. Một số vấn đề cơ sở lí luận 10
1.1 Khái niệm và đặc trƣng văn bản 10
1.2 Văn bản thuộc phong cách hành chính – công vụ 22
1.3 Văn bản quản lí nhà nƣớc 30
1.4 Văn bản quy phạm pháp luật 36
1.5 Phân biệt văn bản quy phạm pháp luật với một số loại văn bản 41
quản lí nhà nƣớc
1.6 Tiểu kết 43
Chƣơng 2. Đặc điểm cấutrúc nội dung của văn bản quy phạm 46
pháp luật
2.1 Các kiểu loại văn bản quy phạm pháp luật 46
2.2 Đặc điểm về cấu trúc nội dung của văn bản quy phạm pháp luật 54
2.3 Đặc điểm cấu trúc nội dung của từng kiểu loại văn bản quy phạm 65
pháp luật
2.4 Tiểu kết 72
Chƣơng 3. Một số đặc điểm cơ bản của ngôn ngữ văn bản quy 74
phạm pháp luật
3.1 Đặc điểm về ngôn ngữ văn bản quản lí nhà nƣớc 74
3.2 Đặc điểm về ngôn ngữ văn bản quy phạm pháp luật 83
3.3 Một số phƣơng thức liên kết phổ biến trong văn bản quy phạm 108
pháp luật
3.4 Tiểu kết 114
Kết luận 116
Tài liệu tham khảo 119
Phụ lục
2
Một số chữ viết tắt trong luận văn
1. Chủ tịch nƣớc : CTN
2. Hội đồng nhân dân : HĐND
3. Quản lí nhà nƣớc : QLNN
4. Quy phạm pháp luật : QPPL
5. Văn bản quy phạm pháp luật : VBQPPL
6. Văn bản quản lí nhà nƣớc : VBQLNN
7. Uỷ ban nhân dân : UBND
8. Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội : UBTHVQH
3
MỞ ĐẦU
Văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) có vai trò quan trọng trong điều
hành quản lí nhà nƣớc, là cơ sở pháp lí cho tất cả hoạt động của một xã hội. Do
đó, việc xây dựng đƣợc hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hoàn chỉnh sẽ tạo
cơ sở pháp lí vững chắc, nâng cao hiệu lực quản lí, bảo vệ quyền và lợi ích của
mọi công dân. Vì vậy, chất lƣợng của văn bản khi ban hành và đƣa vào thực
tiễn sẽ ảnh hƣởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nƣớc, đến
sự vận động và phát triển của xã hội. VBQPPL là hình thức cơ bản thể hiện ý chí
của giai cấp cầm quyền về mặt chính trị và kinh tế đƣợc đƣa lên thành đạo luật,
là một trong những yếu tố quan trọng cấu thành thể chế của nền hành chính nhà
nƣớc. Hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật thể hiện tính quyền lực
nhà nƣớc. Bên cạnh đó, vẫn còn có những VBQPPL chƣa đạt đƣợc mục đích,
nhanh bị lỗi thời, quy định không phù hợp với thực tế, hoặc thiếu tính khả thi.
Nội dung chƣa đƣợc diễn đạt gọn gàng, dùng từ vẫn chƣa chuẩn, chƣa phổ
thông, chƣa sát với thức tiễn, chƣa xuất phát từ điều kiện của đối tƣợng điều
chỉnh để ban hành văn bản. Điều đó đã dẫn tới việc áp dụng VBQPPL vào thực
tế có nhiều cách hiểu khác nhau, hay khó nhớ, khó hiểu.
Xuất phát từ các yếu tố chi phối, tác động tới chất lƣợng của văn bản, từ
những lí do thực tiễn của văn bản, hoạt động của VBQPPL trong quản lí nhà
nƣớc, đời sống xã hội, chúng tôi tiến hành xem xét các vấn đề của hệ thống văn
bản này dƣới góc độ ngôn ngữ, yếu tố quan trọng quyết định sự hoàn thiện của
một quy trình xây dựng và ban hành văn bản.
1. Lƣợc sử vấn đề nghiên cứu
1.1 Nghiên cứu văn bản nói chung
a. Văn bản đƣợc quan tâm nghiên cứu và đã xác lập đƣợc một vị trí trong
nghiên cứu ngôn ngữ học nói chung. Moskalskaja khi nghiên cứu về ngữ pháp
văn bản đã khẳng định "khái niệm "văn bản" chỉ trở thành một khái niệm thuần
ngôn ngữ học và mở rộng các ý nghĩa thuật ngữ của từ này khi mà nó, dƣới 4
những hình thức từ ngữ nhất định, đƣợc đƣa vào danh mục các đơn vị ngôn ngữ
và lời nói, đƣợc nhận sự miêu tả cấu trúc cần thiết và trở thành một trong những
đối tƣợng của việc nghiên cứu ngôn ngữ học [21, 10]. Từ thập niên 70 của thế kỉ
này, những bài viết liên quan đến các vấn đề của ngữ pháp văn bản ngày càng
tăng cả về chất lƣợng và số lƣợng. Nhiều hội nghị chuyên đề quốc tế về ngôn
ngữ học văn bản đƣợc tổ chức. Ngôn ngữ học văn bản dần dần trở thành một bộ
môn chính thức của ngôn ngữ học bên cạnh những bộ môn truyền thống nhƣ:
ngữ âm học, từ vựng học, ngữ pháp học, phong cách học. Nó không chỉ kế thừa
đƣợc các thành tựu của ngôn ngữ học truyền thống mà còn có nhiều đóng góp
mới, quan trọng cho ngôn ngữ học nói chung. Có thể nói cho tới nay, ngôn ngữ
học văn bản đã khẳng định đƣợc chỗ đứng vững chắc của mình và thu hút sự
quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu.
b. Ở Việt Nam, nghiên cứu văn bản đã dành đƣợc sự quan tâm của rất
nhiều nhà ngôn ngữ học nhƣ: Trần Ngọc Thêm, Diệp Quan Ban, Đinh Trọng
Lạc... Năm 1985, Trần Ngọc Thêm đã xuất bản cuốn "Hệ thống liên kết văn bản
tiếng Việt", cuốn sách đầu tiên về ngữ pháp văn bản và cũng là cái mốc đánh
dấu sự ra đời của ngôn ngữ học văn bản ở Việt Nam. Từ đây đã hình thành các
khuynh hƣớng nghiên cứu về văn bản khác nhau ở Việt Nam: 1. Trong khuynh
hƣớng nghiên cứu về liên kết: sau Trần Ngọc Thêm với "Hệ thống liên kết văn
bản tiếng Việt" chủ yếu nghiên cứu trên cứ liệu các văn bản viết,còn có một số
tác giả nhƣ Nguyễn Thị Việt Thanh với "Hệ thống liên kết lời nói tiếng Việt",
Phạm Văn Tình với "Phép tỉnh lƣợc và ngữ trực thuộc tỉnh lƣợc trong tiếng
Việt", Phan Văn Hoà... 2. Khuynh hƣớng nghiên cứu văn bản phục vụ giảng
dạy: cùng với nhu cầu của việc dạy và học môn làm văn ở các trƣờng phổ thông
ngày càng cao và chuyên sâu hơn, vì vậy, việc nghiên cứu, ứng dụng ngôn ngữ
học văn bản vào thực tế cũng trở nên cấp thiết. Nhiều cuốn sách chuyên khảo,
giáo trình phục vụ cho việc giảng dạy và học tập ra đời và đã phát huy đƣợc tác
dụng của mình và thực sự trở thành tài liệu hữu ích cho ngƣời dạy và học. Một
số công trình của các tác giả nhƣ: Cù Đình Tú, Đinh Trọng Lạc, Diệp Quang
Ban... đã tập trung vào một số vấn đề quan trọng của ngôn ngữ học văn bản nhƣ
5
kết cấu, mạch lạc, liên kết... để phục vụ cho công việc giảng dạy tiếng Việt ở bậc
phổ thông và trong các trƣờng sƣ phạm. 3. Khuynh hƣớng tiếp cận theo hƣớng
phân tích diễn ngôn lấy đối tƣợng là từng kiểu loại văn bản cụ thể: quan tâm đến
hƣớng nghiên cứu này có các tác giả nhƣ Lê Hùng Tiến, Nguyễn Hoà, Hữu
Đạt... và một số luận văn chuyên ngành ngôn ngữ học.
Chúng ta cũng có thể hình dung sự phát triển của ngôn ngữ học văn bản ở
Việt Nam thông qua việc lựa chọn đối tƣợng nghiên cứu. Bắt đầu từ sự quan
tâm tới các hiện tƣợng liên kết với những mối quan hệ về cả hình thức lẫn ngữ
nghĩa với các yếu tố bên ngoài câu, trong đó tập trung vào việc tìm sở chỉ của
các yếu tố đòi hỏi quy chiếu ngoài câu. Dần dần, mối quan tâm mở rộng ra các
đơn vị lớn hơn câu với những đặc điểm về cấu trúc và ngữ nghĩa của chúng. Đó
là các đối tƣợng khi nghiên cứu văn bản đƣợc tiếp cận theo phƣơng thức vi mô.
Bên cạnh cách tiếp cận này có cách tiếp cận khác cũng thu hút đƣợc sự quan
tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Đó là cách tiếp cận theo phƣơng thức vĩ mô –
nghiên cứu văn bản tổng thể với những đặc điểm riêng tiêu biểu cho từng loại
hình văn bản. Với cách tiếp cận này, các văn bản tin, nghệ thuật, khoa học, hành
chính... đã trở thành đối tƣợng khảo sát của không ít công trình nghiên cứu. Đó
cũng là hƣớng tiếp cận mà luận văn này sử dụng.
1.2 Nghiên cứu các văn bản hànhchính – công vụ nói chung
Có thể nói cho đến nay, số lƣợng các công trình chuyên sâu nghiên cứu
về các loại hình văn bản hay đặc điểm ngôn ngữ hành chính – công vụ chƣa
nhiều. Từ góc độ nghiên cứu phong cách học không thể không nhắc tới các tác
giả nhƣ Đinh Trọng Lạc với "Phong cách học văn bản", "Phong cách học tiếng
Việt", Cù Đình Tú với cuốn "Phong cách học và các biện pháp tu từ tiếng Việt",
Hữu Đạt với "Phong cách học chức năng tiếng Việt"... Tuy vậy, các tác giả chủ
yếu đề cập tới những đặc trƣng ngôn ngữ nổi bật trong các văn bản hành chính –
công vụ. Song, để có cái nhìn toàn diện cho vấn đề ngôn ngữ hành chính – công
vụ thì số lƣợng công trình nghiên cứu sâu về đối tƣợng này từ góc độ phân tích
văn bản hay diễn ngôn vẫn còn khá khiêm tốn so với yêu cầu của thực tế.
6
1.3 Nghiên cứu về văn bản quyphạm pháp luậtnói riêng
Các văn bản quản lí nhà nƣớc nói chung và văn bản quy phạm pháp luật
đã đƣợc nghiên cứu chủ yếu ở khía cạnh kĩ thuật xây dựng, ban hành hay thực
trạng và giải pháp, những vấn đề tồn tại trong quá trình xây dựng, ban hành văn
bản. Một số công trình nghiên cứu về lĩnh vực này nhƣ: ―Soạn thảo và xử lí
văn bản quản lí‖ của Nguyễn Văn Thâm, ―Xây dựng và ban hành văn bản quy
phạm pháp luật‖, ―Kĩ thuật lập quy‖ của Lƣu Kiếm Thanh, ―Hƣớng dẫn soạn
thảo văn bản‖ của Nguyễn Đăng Dung và Hoàng Trọng Phiến... và trong các đề
tài, dự án về VBQPPL, hay các luận văn chuyên ngành hành chính công ... Tuy
nhiên, hầu nhƣ chƣa có công trình nào chỉ chuyên dành cho việc nghiên cứu
ngôn ngữ thuộc lĩnh vực này. Các vấn đề về ngôn ngữ, dùng từ, tạo câu, văn
phong... chỉ đƣợc đề cập tới nhƣ một yếu tố cần, đảm bảo cho việc xây dựng
văn bản đƣợc chính xác. Bên cạnh đó, còn có một số công trình nghiên cứu khá
kĩ lƣỡng về một số kiểu loại văn bản hành chính cụ thể nhƣ: Hữu Đạt nghiên
cứu về chuẩn hoá từ ngữ trong văn bản luật, luận án tiến sĩ của Nguyễn Hùng
Tiến dành nghiên cứu về "Một số đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng
Việt", một số luận văn về các văn bản thuộc lĩnh vực cụ thể nhƣ: giáo dục, kinh
tế... Song chƣa có công trình nào khảo sát một cách hệ thống các kiểu loại cụ
thể của VBQPPL.
2. Ý nghĩa của đề tài
2.1 Ý nghĩa lí luận
Các kết quả của luận văn đóng góp thêm về phƣơng diện lí luận cho
những nghiên cứu về văn bản nói chung và văn bản thuộc phong cách hành
chính – công vụ nói riêng, đặc biệt cung cấp một cái nhìn có tính tổng quát về
một kiểu loại văn bản rất phổ biến và điển hình – VBQPPL. Đồng thời, luận văn
cũng góp phần xác định các vấn đề về liên quan tới đối tƣợng của luận văn nhƣ:
khái niệm, cách phân loại, đặc điểm cấu trúc nội dung và ngôn ngữ của văn bản.
2.2 Ý nghĩa thực tiễn
Thông qua việc khảo sát, phân tích, nghiên cứu đặc điểm, cấu trúc nội
dung, và các vấn đề ngôn ngữ của VBQPPL, luận văn mong muốn đóng góp vào
7
việc xây dựng văn bản, đồng thời tránh đƣợc những lỗi, những sai sót không cần
thiết về ngôn ngữ khi xây dựng, thẩm tra, thẩm định VBQPPL. Bên cạnh đó,
những phân tích, đề xuất trong luận văn sẽ góp phần vào việc chuẩn hoá công
tác xây dựng, ban hành, và áp dụng các văn bản này trong thực tế sử dụng cũng
nhƣ trong khi giảng dạy chuyên đề này.
3. Mục đích nghiên cứu
Luận văn mô tả những cấu trúc của văn bản, đƣa ra đƣợc những cấu tạo
chung cho các văn bản thuộc hệ thống VBQPPL. Tiếp đó, mô tả đƣợc những
đặc điểm chung về mặt ngôn ngữ, những nét riêng của ngôn ngữ VBQPPL, đồng
thời, chỉ ra những tồn tại về ngôn ngữ của văn bản và đƣa ra một số những ý
kiến nhằm góp phần nâng cao chất lƣợng sử dụng ngôn ngữ trong VBQPPL, và
có cách nhìn chung trong quá trình dạy và học.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
Năm 1996, Luật Ban hành văn bản quy phạm phạm luật ra đời, đánh dấu
cho sự chuẩn hoá các văn bản về mặt luật pháp. Sau năm năm áp dụng (đến năm
2002), Luật này đã đƣợc điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp với hoạt động thực
tiễn. Đến năm 2004, Luật Ban hành văn bản quy phạm phạm luật của HĐND,
UBND ra đời nhằm hoàn thiện việc xây dựng và ban hành văn bản của địa
phƣơng. Vì vậy, chúng tôi lấy đối tƣợng nghiên cứu cho luận văn là các văn bản
thuộc hệ thống văn bản quy phạm pháp luật ban hành trong năm 2006.
Do thời gian không nhiều, trong phạm vi luận văn này, chúng tôi chỉ tiến
hành khảo sát khoảng 500 văn bản của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật
đƣợc ban hành trong năm 2006 thuộc các cơ quan Trung ƣơng và HĐND,
UBND cấp tỉnh, thành phố thuộc Trung ƣơng. Để đảm bảo tính hệ thống của hệ
thống văn bản đang xem xét, chúng tôi đƣa vào tƣ liệu khảo sát cả những văn
bản mà trong thời gian khảo sát đã xác định ở trên không có. Trong một số
trƣờng hợp cần so sánh, chúng tôi sử dụng cả những văn bản đã hết hiệu lực.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phƣơng pháp nghiên cứu chủ yếu đƣợc vận dụng trong luận văn là mô tả,
phân tích, so sánh với mục đích đƣa ra đƣợc cái nhìn tổng thể về hệ thống văn
8
bản này. Ở trƣờng hợp cụ thể, chúng tôi sử dụng cả phƣơng pháp thống kê để
làm rõ vấn đề. Do thời gian và phạm vi của một luận văn, chúng tôi chỉ tiến
hành khảo sát các văn bản mang tính đại diện cho hệ thống văn bản quy phạm
pháp luật. Sau khi tìm thấy các điểm chung của các văn bản, chúng tôi tiến hành
mô tả cấu tạo và mô hình hoá, đƣa chúng về những khuôn nhất định. Bên cạnh
đó, việc so sánh các văn bản ở từng giai đoạn sẽ cho thấy những biến chuyển và
sự phát triển của hệ thống văn bản này.
6. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm ba chƣơng:
Chƣơng 1. Một số vấn đề cơ sở lí luận
Đây là chƣơng đƣợc xây dựng nhằm định hƣớng, xác định một hƣớng
nghiên cứu phù hợp cho luận văn. Ở chƣơng này, chúng tôi trình bày, nêu ra
những lí thuyết có liên quan đến đề tài nhƣ: khái niệm, đặc điểm về cấu trúc nội
dung, về ngôn ngữ, tiêu chí và cách phân loại của văn bản nói chung, văn bản
thuộc phong cách hành chính – công vụ, văn bản quản lí nhà nƣớc, văn bản quy
phạm pháp luật. Bên cạnh đó, chƣơng này cũng dành một phần để phân biệt, chỉ
ra sự khác biệt giữa một số loại văn bản và những khái niệm gần với đối tƣợng
khảo sát của luận văn.
Chƣơng 2. Đặc điểm cấu trúc nội dung của văn bản quy phạm pháp luật
Chƣơng này tập trung miêu tả cấu trúc nội dung của VBQPPL nói chung
và của từng văn bản cụ thể trong hệ thống này. Mục đích của chƣơng nhằm mô
tả, so sánh sự giống và khác nhau về cấu trúc nội dung của văn bản thuộc hệ
thống VBQPPL và chỉ ra đƣợc mô hình chung cho tất cả các văn bản, mô hình
riêng cho mỗi kiểu loại văn bản riêng biệt.
Chƣơng 3. Một số đặc điểm ngôn ngữ cơ bản của văn bản quy phạm pháp
luật
Nhiệm vụ của chƣơng này là nêu những đặc điểm về ngôn ngữ trong
VBQLNN và một số đặc điểm chủ yếu về từ, câu và một số phƣơng thức liên
kết chủ yếu trong VBQPPL.
9
Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1 Khái niệm và đặc trƣng của văn bản
1.1.1 Khái niệm vềvăn bản
Đã có rất nhiều khái niệm về văn bản đƣợc đƣa ra theo nhiều quan điểm
khác nhau. Song, hiện nay vẫn chƣa có một khái niệm văn bản nào đƣợc tất cả
các nhà ngôn ngữ học chấp nhận. Chúng tôi sẽ nêu ra một số quan niệm, khái
niệm về văn bản mà chúng tôi đã tiếp xúc và cũng đƣợc sử dụng để làm cơ sở
cho việc thực hiện luận văn.
Theo I.R. Galperin, "văn bản với tƣ cách sự kiện trong hành vi ngôn ngữ -
mang tính hệ thống. Văn bản là một thông báo hoàn chỉnh nào đó, có nội dung
riêng, đƣợc tổ chức theo mô hình trừu tƣợng của một trong những hình thức
thông báo (thuộc phong cách chức năng, những biến thể và thể loại của nó) hiện
hữu trong ngôn ngữ văn học và đƣợc xác định bởi những đặc trƣng đặc trƣng
khu biệt của nó". [9, 41]
Moskalskaja trong cuốn "Ngữ pháp văn bản" cho rằng thuật ngữ "văn
bản" biểu thị hai mặt khác nhau. "Một mặt, "văn bản" đƣợc hiểu là bất kì một
phát ngôn nào cấu tạo từ một hoặc nhiều câu mang trong mình một nghĩa hoàn
chỉnh theo ý đồ của ngƣời nói, mặt khác, đó là những sản phẩm lời nói nhƣ
truyện, tiểu thuyết, bài báo và tạp chí, chuyên luận khoa học, những tài liệu các
loại...". Nhƣ vậy, đơn vị và đối tƣợng nghiên cứu của ngôn ngữ học văn bản là:
1. thể thống nhất trên câu (văn bản con); 2. sản phẩm lời nói hoàn chỉnh (văn
bản lớn). Nhƣ vậy, ngôn ngữ học văn bản bao gồm hai bộ phận chủ yếu: 1. học
thuyết về các thể thống nhất trên câu và 2. học thuyết về văn bản theo nghĩa
rộng - sản phẩm lời nói hoàn chỉnh. [21, 19-23]
10
G. Brown và G. Jule dùng từ "văn bản" nhƣ là một thuật ngữ khoa học để
chỉ dữ liệu ngôn từ của một hành vi giao tiếp [5, 22], và coi văn bản là biểu hiện
của diễn ngôn.
D. Nunan khi nghiên cứu về phân tích diễn ngôn và phân biệt diễn ngôn
với văn bản đã đƣa ra quan điểm về thuật ngữ "văn bản" dùng để chỉ bất kì cái
nào ghi bằng chữ viết của một sự kiện giao tiếp. Theo ông, văn bản (text) là
phần ghi ở dạng viết của một sự kiện giao tiếp, truyền đạt một thông điệp hoàn
chỉnh. Sự kiện giao tiếp tự nó có thể liên quan đến ngôn ngữ nói (ví dụ: một bài
thuyết giáo, một cuộc giao dịch mua bán...) hoặc ngôn ngữ viết (ví dụ: một bài
thơ, một quảng cáo trên báo, một bản kê các thứ mua sắm, một tiểu thuyết...).
Văn bản biến đổi từ những từ đơn đến những quyển sách kéo dài vài trăm trang.
[22, 21]
Mak Halliday quan niệm văn bản là sản phẩm của ngôn bản. Ngôn bản là
một cái gì đó xảy ra, dƣới hình thức nói hoặc viết, nghe hoặc đọc. Khi tiến hành
phân tích ngôn bản thì ngƣời ta phân tích sản phẩm của quá trình ấy; và thuật
ngữ "văn bản" (text) thƣờng đƣợc cho là chỉ sản phẩm – đặc biệt là sản phẩm
trong hình thức viết văn, bởi vì đây là một vật thể có thể tri giác dễ dàng nhất.
[12, 496]. Tƣơng tự với cách nói này, Halliday còn cho rằng: Từ "văn bản"
đƣợc dùng trong ngôn ngữ học để chỉ một đoạn nào đó, đƣợc nói ra hay đƣợc
viết ra, có độ dài bất kì, tạo lập đƣợc một tổng thể hợp nhất (dẫn theo Diệp
Quang Ban [4, 38])
Một quan niệm khác về văn bản vừa có tính khái quát cao vừa có tính hiện
đại, có tầm rộng đƣợc giải thích cụ thể trong cuốn Bách khoa thƣ ngôn ngữ và
ngôn ngữ học. Văn bản: 1. Một quãng viết hay phát ngôn, lớn hoặc nhỏ, mà do
cấu trúc, đề tài – chủ đề ... của nó hình thành nên một đơn vị, loại nhƣ một
truyện kể, một bài thơ, một đơn thuốc, một biển chỉ đƣờng... 2. Văn học. Trƣớc
hết đƣợc coi nhƣ một tài liệu viết, thƣờng đồng nghĩa với sách, [...] 3. Phân
tích diễn ngôn, đôi khi đƣợc đánh đồng với ngôn ngữ viết, còn diễn ngôn thì
đƣợc dành cho ngôn ngữ nói, hoặc diễn ngôn đƣợc dùng bao gồm cả văn bản.
(dẫn theo Diệp Quang Ban, trong "Văn bản và liên kết trong tiếng Việt")
11
Đó là những quan niệm về văn bản, diễn ngôn của các nhà nghiên cứu
trên thế giới. Ở Việt Nam, các quan niệm về văn bản là sự kế thừa những quan
niệm, nghiên cứu đã có trên thế giới, đồng thời phát triển trên cơ sở nghiên cứu
những đặc thù riêng của văn bản tiếng Việt.
Đinh Trọng Lạc quan niệm: Văn bản với tƣ cách là sản phẩm của hoạt
động lời nói, với tƣ cách là tác phẩm lời nói không phải là một chuỗi câu hoặc
đoạn văn đƣợc tạo lập ra một cách tuỳ tiện, mà là một thể thống nhất toàn vẹn
đƣợc xây dựng theo những quy tắc nhất định. [18, 7]
Phỏng theo định nghĩa trong cuốn từ điển bách khoa của Liên Xô này,
Diệp Quang Ban đã đƣa ra một định nghĩa ngắn gọn hơn, dễ hiểu hơn về văn
bản: "Văn bản là một loại đơn vị đƣợc làm thành từ một khúc đoạn lời miệng
hay lời viết, hoặc lớn hoặc nhỏ, có cấu trúc, có đề tài... loại nhƣ một truyện kể,
một bài thơ, một đơn thuốc, một biển chỉ đƣờng..." [4, 37].
Các quan niệm của các tác giả, nhà nghiên cứu trong và ngoài nƣớc trên
đây đã đề cập tới cả văn bản và diễn ngôn, phân biệt việc sử dụng thuật ngữ "văn
bản" và "diễn ngôn", đồng thời, coi đó là một trong những tiêu chí nhận diện các
giai đoạn phát triển của ngôn ngữ học văn bản nói chung. Tuy nhiên, luận văn
này lại không nhằm lí giải sự khác biệt đó mà chỉ nhằm kế thừa các thành quả
nghiên cứu, quan sát các quan điểm về hai khái niệm để làm cơ sở, xuất phát
điểm khi tiến hành nghiên cứu vấn đề của mình. Khái niệm "văn bản" đƣợc
dùng trong luận văn cũng không nhằm tới việc phân biệt văn bản với diễn ngôn.
Thuật ngữ "văn bản" đƣợc dùng để chỉ chung cho cả hai khái niệm, chấp nhận
một điểm chung của chúng để tiến hành các thao tác khác.
Để thuận tiện trong việc khảo sát, phân tích đối tƣợng nghiên cứu của
luận văn, chúng tôi sử dụng khái niệm về văn bản của Gaperin: "Văn bản là một
thông báo hoàn chỉnh nào đó, có nội dung riêng, được tổ chức theo mô hình
trừu tượng của một trong những hình thức thông báo (thuộc phong cách chức
năng, những biến thể và thể loại của nó) hiện hữu trong ngôn ngữ văn học và
được xác định bởi những đặc trưng đặc trưng khu biệt của nó." [9, 41]
12
1.1.2 Phân loại văn bản
Khi tiến hành phân loại văn bản, ngƣời phân loại thƣờng dựa trên nhiều
tiêu chí khác nhau và để có kết quả cuối cùng ngƣời ta thƣờng dựa trên ít nhất
hai tiêu chí để phân loại văn bản.
Hoàng Trọng Phiến khi đề cập tới phân chia thể loại văn bản đã nêu ra
năm nguyên tắc và dấu hiệu sau [7, 94]: Chức năng giao tiếp theo các lĩnh vực
của đời sống xã hội; tổ chức ngôn ngữ và đặc điểm từ vựng, cú pháp; phƣơng
thức tu từ cùng các phƣơng tiện biểu đạt mang tính phong cách cho mỗi thể loại
văn bản; phƣơng pháp diễn đạt theo cấu trúc logic khách quan; phƣơng pháp
diễn đạt theo cấu trúc chủ đạo: chức năng thẩm mĩ.
Dựa vào các nguyên tắc và dấu hiệu trên, chúng ta sẽ có những kiểu phân
loại văn bản:
a. Theo nguyên tắc chức năng giao tiếp; tổ chức ngôn ngữ và đặc điểm từ
vựng, cú pháp; phƣơng thức tu từ thì văn bản đƣợc chia thành các loại: Văn bản
hành chính, văn bản khoa học, văn bản chính luận, văn bản nghệ thuật.
b. Xét theo chức năng thẩm mĩ thì văn bản đƣợc chia thành hai loại lớn
là: văn bản nghệ thuật và văn bản phi nghệ thuật. Mỗi kiểu loại văn bản lại đƣợc
phân chia tƣơng ứng với chức năng và đặc trƣng tổ chức ngôn từ.
c. Một quan điểm khác khi phân loại văn bản là dựa vào mô hình hay
khuôn hình của văn bản. Đinh Trọng Lạc trong cuốn "Phong cách học văn bản"
đã chia toàn bộ các văn bản ra hai nhóm lớn. Nhóm thứ nhất bao gồm những
văn bản đƣợc xây dựng theo các mô hình kiểu nghiêm ngặt đã trở thành khuôn
mẫu. Nhóm này có các văn bản thuộc phong cách hành chính (nhƣ: đơn từ,
chứng chỉ, biên bản, tài liệu pháp lí, quảng cáo, tuyên bố, chỉ dẫn...) và một số
văn bản trong văn xuôi khoa học – kĩ thuật (những lời chú giải của các bài báo)
hoặc tính chất pháp lí (những bằng phát minh sáng chế). Nhóm thứ hai là
những văn bản đƣợc xây dựng theo mô hình kiểu mềm dẻo. Mô hình kiểu mềm
dẻo lại đƣợc chia ra làm hai mô hình nhỏ là: mô hình thông dụng và tự do. Trên
cơ sở các mô hình thông dụng (vốn quy định khá nghiêm ngặt tính chất của các
thành tố của lƣợc đồ và phần nào là trình tự của chúng), ngƣời viết có thể xây
13
dựng đƣợc những văn bản văn xuôi khoa học (nhƣ: bài báo, luận văn, bản tóm
tắt luận án, bản nhận xét công trình khoa học...) và một số văn bản báo (nhƣ:
thông báo, bình luận, thiên phóng sự). Những mô hình tự do không mang tính
chất điều chỉnh mà mang tính chất chỉ hƣớng. Các văn bản đƣợc tạo ra theo mô
hình này là những văn bản nghệ thuật và những tuỳ bút chính luận. Vì vậy, các
văn bản thuộc hai nhóm này đƣợc hiện thực hoá trong những văn bản thuộc một
trong ba kiểu mô hình nêu trên (khuôn mẫu, thông dụng và tự do). Chúng có tính
chất bất biến và xuất hiện trong quan hệ hệ hình với nhau.
d. Phân loại văn bản theo thông tin, cấu trúc logic khách quan, tổ chức
ngôn ngữ, từ vựng, cú pháp và cấu trúc văn bản, ngƣời ta thu đƣợc sự đối lập
giữa văn bản quản lí và văn bản không quản lí. Văn bản hình thành, tham gia
vào quá trình quản lí, và có hiệu lực pháp lí trong quá trình quản lí. Những văn
bản hội đủ các yếu tố đó đƣợc xếp vào văn bản quản lí. Những văn bản còn lại
không nhằm mục đích tham gia quản lí sẽ đƣợc xếp vào một loại riêng. Tiếp tục
phân loại dựa vào cấu trúc logic, cơ cấu tổ chức ngôn ngữ... chúng ta sẽ thu
đƣợc các tiểu loại văn bản nhỏ hơn.
Trên đây chỉ là một số cách phân loại văn bản thƣờng gặp, ngoài ra còn
có nhiều cách phân loại khác nhƣ: văn bản đối thoại và văn bản độc thoại, văn
bản liên tục và văn bản gián đoạn...
1.1.3 Đặctrưng của văn bản
1.1.3.1Tính nhấtthểcủa văn bản
Tính nhất thể của văn bản đƣợc biểu hiện ở khả năng của văn bản hành
chức nhƣ là một chỉnh thể thống nhất. Tính nhất thể của văn bản có hai mặt:
ngữ nghĩa và hình thức – cấu trúc. Điều này thể hiện ở hai phƣơng diện có mối
liên hệ qua lại lẫn nhau là: tính toàn vẹn và tính liên kết.
a. Tính toàn vẹn
Tính toàn vẹn của văn bản đƣợc thể hiện qua nhiều nhân tố khác nhau
nhƣng ở đây chúng tôi lƣu ý những nhân tố có liên quan tới đối tƣợng nghiên
cứu của luận văn:
14
1. Tính đồng nhất của ý đồ giao tiếp: ý đồ giao tiếp là ý định lời nói của
tác giả. Trong văn bản, nó là mục đích, điều kiện, đặc điểm của các bên tham
gia giao tiếp. Khi các yếu tố đó đƣợc hiện thực hoá trong đặc trƣng của văn
bản thì đó là tính tình thái và hƣớng dụng học của văn bản. Tính tình thái của
văn bản bao gồm: tình thái chủ quan và khách quan và đa phần xuất hiện
trong các văn bản văn học nghệ thuật. Tình thái khách quan thƣờng đƣợc
biểu hiện trong truyện cổ tích, truyện khoa học viễn tƣởng. Trong khi đó, tính
tình thái chủ quan biểu hiện trong những thể loại diễn tả đƣợc thái độ, quan
điểm chủ quan của tác giả đối với sự tình đƣợc nói đến nhƣ: truyện ngắn, tuỳ
bút, bút kí... Hƣớng dụng học của văn bản hƣớng vào giải quyết một nhiệm
vụ giao tiếp nhất định. Có mặt trong văn bản là những câu thuộc kiểu dụng
học cụ thể, mà nội dung của những câu này đƣợc tạo nên bởi:
- Sự xác nhận sự kiện trong những giấy chứng nhận, những ghi chú, những
thông báo ngắn trên báo...
- Sự hứa hẹn trong những giấy cam đoan, những quy định, những lời hứa hẹn
(trƣớc cuộc bầu cử), những lời thề (chẳng hạn của quân đội), những lời tuyên
thệ (khi nhậm chức)...
- Sự thúc đẩy đi đến hành động trong những quyết định, những mệnh lệnh,
những huấn thị, những chỉ dẫn (sử dụng các loại máy móc thiết bị), những
quảng cáo. [18, 73-80]
Trong các văn bản hành chính – công vụ, báo chí – chính luận, khoa
học, hƣớng dụng học trên thể hiện rõ ràng hơn cả. Khi một văn bản đã đạt về
ý đồ, đạt tới đích thì văn bản đã kết thúc đƣợc.
2. Sự thống nhất chủ đề của văn bản thể hiện ở chủ đề và đề tài, tính
liên kết chủ đề và liên kết đề tài. Sự thống nhất chủ đề đƣợc hình thành nên từ
tính liên kết đề tài và liên kết chủ đề.
Chủ đề có thể đƣợc tách thành đề tài và chủ đề. Đề tài là sự vật, sự
việc, hiện tƣợng đƣợc nói đến trong văn bản. Chủ đề là vấn đề chủ yếu mà
ngƣời tạo văn bản muốn giải quyết trong văn bản. Khi chủ đề và đề tài trùng
nhau, hoặc không cần thiết phân biệt chủ đề và đề tài thì có thể gọi chung là
15
chủ đề – đề tài hoặc nói gọn là đề. Mỗi loại văn bản có thể đƣợc cấu tạo từ
nhiều đoạn, phần với các đề tài, chủ đề, chủ đề con khác nhau nhƣng các chủ
đề con đó đều trực tiếp hoặc gián tiếp phục vụ, thể hiện cho một chủ đề thống
nhất.
3. Chức năng liên kết biểu thị quan hệ logic và quan hệ ngữ nghĩa:
Quan hệ logic là các thao tác, quy tắc, luật logic, là sự vận hành của năng lực
tƣ duy, quan hệ luôn luôn đúng. Quan hệ ngữ nghĩa là những quan hệ khách
quan nhất định giữa các sự vật, hiện tƣợng trong hiện thực khách quan. Muốn
bảo đảm đƣợc tính liên kết logic của văn bản thì không những đảm bảo đƣợc
quan hệ logic đích thực, thuần tuý mà còn bảo đảm đƣợc các loại hình quan
hệ ngữ nghĩa.
4. Sự thống nhất về kết cấu thể loại: Tính toàn vẹn của văn bản bổ sung
thêm cả một bộ các dấu hiệu đem đến cho độc giả cái khả năng xếp văn bản
vào một chức năng cụ thể, một thể loại cụ thể, và do đó tiếp cận văn bản nhƣ
một tác phẩm đã hoàn chỉnh. Đó là sự thống nhất về kết cấu thể loại.
b. Tính liên kết của văn bản
Liên kết là những dấu hiệu hình thức chỉ ra các kiểu quan hệ giữa các câu
hoặc các bộ phận trong văn bản. Liên kết đƣợc đề xuất bởi hệ thống của văn bản
và phụ thuộc theo quy mô của văn bản. Chúng là một phạm trù không thể tách
rời của văn bản. Sự liên kết đảm bảo cho thông tin nội dung sự kiện đƣợc lí giải
nhất quán. Tính hoàn chỉnh và tính liên kết có quan hệ qua lại, tác động lẫn
nhau. Kết quả của sự liên kết gắn liền với phạm trù tính hoàn chỉnh. Nó đƣợc
thực hiện trong những mức độ và hình thức khác nhau tuỳ theo loại hình văn
bản: trong văn bản khoa học, chính luận, hành chính – công vụ và trong văn bản
nghệ thuật. Trong văn bản khoa học và hành chính – công vụ tính liên kết đảm
bảo cho thông tin đƣợc liên tục. Tuy vậy, liên kết trong các văn bản này thƣờng
đƣợc xác định sẵn và phƣơng thức liên kết cũng không đa dạng nhƣ một số
kiểu loại văn bản khác ví dụ nhƣ văn bản văn học – nghệ thuật.
Liên kết nội dung và liên kết hình thức là hai mặt của tính liên kết văn
bản, chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Liên kết nội dung đƣợc thể hiện
16
bằng các phƣơng tiện liên kết hình thức, còn liên kết hình thức đƣợc dùng để
diễn đạt sự liên kết nội dung. Liên kết nội dung có hai bình diện: liên kết chủ đề
và liên kết logic. Liên kết chủ đề là sự kết nối các sự vật, hiện tƣợng đƣợc nói
đến trong câu và có hai cách để thể hiện là: duy trì chủ đề và phát triển chủ đề.
Liên kết logic là đặc trƣng trong một câu hoặc giữa câu với câu (hoặc tập hợp
câu, giữa các phần trong văn bản). Liên kết hình thức là liên kết bằng các
phƣơng tiện ngôn ngữ. Nó có các phƣơng thức nhƣ: thế, lặp, liên tƣởng, tỉnh
lƣợc...
1.1.3.2Tính khả phân
Tính khả phân của văn bản là khả năng phân chia văn bản thành các phần,
đoạn. Việc phân chia văn bản hoàn chỉnh thành các phần là do ngƣời viết muốn
chuyển từ chủ đề này sang chủ đề khác, hoặc giữa các chủ đề con hay từ các nội
dung trong một chủ đề. Tính khả phân là chức năng bố cục chung của tác phẩm,
quy mô các phần và thông tin nội dung sự kiện cũng nhƣ mục đích thực tế của
ngƣời tạo dựng văn bản. Quy mô các phần thông thƣờng nhằm làm cho ngƣời
đọc có thể tiếp nhận khối lƣợng thông tin một cách đầy đủ, hợp lí và để cho
thông tin "không bị thất thiệt".
I.R. Gaperin [9] nói tới hai cách phân chia văn bản: theo khối lƣợng thực
tế của văn bản (trong đó có tính đến khối lƣợng (hay quy mô) của bộ phận và
hƣớng chú ý của ngƣời đọc) và theo cách phân chia đƣợc tạm gọi là biến thể -
ngữ cảnh. Cả hai hình thức phân chia đều quy định lẫn nhau và đều nêu ra thông
tin nội dung – quan niệm. Nhƣng một số nhà ngôn ngữ đề xuất những hình thức
phân chia khác cho văn bản văn học nghệ thuật và những văn bản khác. Khi tiến
hành nghiên cứu sâu vào từng loại văn bản, phân chia văn bản thực tế thì sẽ gặp
những khó khăn nhất định. Vì đối với văn bản văn học nghệ thuật, sự phân đoạn
văn bản nằm trong ý đồ của tác giả, mục đích sáng tạo nghệ thuật.
Trong các văn bản khoa học, công vụ, báo chí thì sự phân đoạn dựa vào
những nguyên tắc hoàn toàn khác. Trong một văn bản không đảm nhiệm chức
năng nhận thức thẩm mĩ thì nguyên tắc chủ đạo của phân đoạn là tổ chức logic
của thông báo. Cách phân đoạn văn bản theo logic rạch ròi nhất đƣợc thấy rõ
17
trong tài liệu khoa học, hành chính – côngvụ. Tính rành mạch đƣợc thể hiện cả
bằng cách tách biệt các phần bằng những kí hiệu chữ số nhƣ: 1.1; 1.2; 2.1, 2.3...
Cách phân đoạn văn bản nhƣ thế diễn ra do tác giả muốn chỉ rõ sự lệ thuộc giữa
các mảnh đoạn của phát ngôn. Đồng thời, trong cách phân chia này cũng gián
tiếp lộ ra chính quan niệm của tác giả về sự chi phối qua lại giữa các phần tách
biệt [9, 110]. Trong văn bản khoa học còn có phần ghi chú dùng dấu [ ] để ghi rõ
nguồn trích dẫn, và để đảm bảo sự liền mạch, liên tục của tƣ duy, lập luận của
ngƣời viết.
Trong các văn bản ngoại giao nhƣ: công ƣớc, hiến chƣơng, hiệp nghị,
hiệp định thƣ, tuyên bố chung... ngƣời ta thƣờng áp dụng hình thức phân đoạn
theo chữ số và theo chữ cái. Cách phân đoạn trong văn bản báo chí phần lớn tuỳ
theo mục đích thực dụng và phụ thuộc vào kích thƣớc trang báo nên hình thức
hết sức linh hoạt. Trong cách phân chia văn bản mang tính cách biến thể ngữ
cảnh, nhiệm vụ của tác giả quy lại là chuyển những hình thức của hành vi ngôn
tác, chẳng hạn từ miêu tả sang đối thoại, từ đối thoại sang lời bình của tác giả...
Việc chuyển đổi những hành vi ngôn tác khác nhau là đặc trƣng chủ yếu cho các
văn bản văn xuôi nghệ thuật. Cách phân chia văn bản mang tính cách biến thể
ngữ cảnh là một trong những phƣơng tiện làm cho bạn đọc gần gũi với sự kiện
thông báo, khiến cho bạn đọc trở thành nhƣ ngƣời tham gia những sự kiện này.
Nhƣ vậy, tính nhất thể (bao gồm: tính hoàn chỉnh và tính liên kết) của văn
bản làm thành một mặt của vấn đề. Nó cùng với tính khả phân của văn bản hợp
thành thể thống nhất của hai mặt đối lập, mặt này quy định mặt kia, tác động qua
lại lẫn nhau.
1.1.3.3Tính thông tin
Theo Gaperin thông tin đƣợc hiểu theo hai nghĩa: nghĩa thông dụng và
nghĩa thuật ngữ. Thông tin với nghĩa thứ nhất đƣợc hiểu là một thông báo bất kì
nào đƣợc trình bày nhƣ một tổ hợp từ mang tính cách định danh. Nghĩa thứ hai
của thuật ngữ "thông tin" đƣợc sử dụng trong những công trình viết về lí thuyết
thông tin. Việc phân tích những loại thông tin khác nhau dựa vào những văn bản
công vụ chính thức, báo chí, nghệ thuật, chính luận cho thấy thông tin mang tƣ
18
cách một phạm trù cơ bản của văn bản, chỉ thuộc về văn bản. Gaperin cho rằng
nên phân biệt thông tin: a) về nội dung – sự việc, b) về nội dung – quan niệm, c)
về nội dung tiềm văn bản.
Thông tin nội dung sự việc gồm thông báo về sự việc, sự cố, quá trình
đang diễn ra, đã diễn ra, sẽ diễn ra, trên thế giới bao quanh ta, thế giới hiện thực
hoặc tƣởng tƣợng. Thông tin nội dung sự việc, xét thực chất là tƣờng minh,
nghĩa là bao giờ cũng biểu đạt thành lời. Những đơn vị ngôn ngữ trong thông tin
này thông thƣờng đƣợc sử dụng theo nghĩa đen, nghĩa logic sự việc, nghĩa từ
vựng mà ngƣời ta gắn cho những đơn vị ấy theo kinh nghiệm xã hội định ra.
Thông tin nội dung quan niệm thông báo với bạn đọc cách hiểu của cá nhân tác
giả về quan hệ giữa những hiện tƣợng đƣợc miêu tả bởi các phƣơng tiện của
thông tin nội dung sự việc, về những liên hệ nhân quả của chúng, giá trị của
chúng trong đời sống xã hội, kinh tế, chính trị, văn hoá của nhân dân, kể cả quan
hệ giữa những cá nhân cụ thể ; về tác động qua lại phức tạp giữa tâm lí với nhận
thức thẩm mĩ của họ. Sự khác biệt giữa thông tin nội dung – sự việc với thông
tin nội dung – quan niệm có thể đƣợc hình dung là thông tin mang tính cách
hiện thực và thông tin mang tính cách thẩm mĩ nghệ thuật, tuy nhiên phải hiểu
thông tin mang tính cách hiện thực không những là thực tế có thật mà còn cả
tƣởng tƣợng nữa. Thông tin nội dung quan niệm - thƣờng thuộc phạm trù văn
bản nghệ thuật, mặc dù có thể tiếp nhận từ văn bản nhận thức khoa học. Đây chỉ
có khác ở chỗ là thông tin nội dung quan niệm trong văn bản khoa học bao giờ
cũng đƣợc biểu đạt khá rõ, còn trong văn bản nghệ thuật (hẳn là loại trừ giáo
huấn ca) thì đòi hỏi phải suy ngẫm mới có thể giải mã thông tin này. Thông tin
nội dung tiềm văn bản là thông tin tiềm ẩn, đƣợc rút ra từ nội dung sự việc dựa
vào khả năng của các đơn vị ngôn ngữ có thể sản sinh những nghĩa liên tƣởng
và nghĩa hàm chỉ.
Phạm trù tính thông tin của ngữ pháp là một đặc trƣng bắt buộc của văn bản,
có thể biểu hiện trong những hình thức khác nhau. Do đó, khi xem thông tin là một
phạm trù ngữ pháp văn bản thì trƣớc hết cần tính đến những loại hình văn bản khác
nhau. Văn bản vừa có thể phân loại theo phong cách chức năng vừa có
19
thể theo tính cách thông tin. Chẳng hạn, những văn bản ngoại giao đƣợc thống
nhất bởi phong cách chức năng chung của ngôn ngữ văn bản chính thức có thể
dựa theo tính cách thông tin mà trình bày dƣới dạng: công ƣớc, hiệp ƣớc, bị
vong lục, công hàm, tuyên bố chung, tối hậu thƣ... Phong cách ngôn ngữ văn
học – nghệ thuật đƣợc thể hiện trong vô vàn thể loại và hình thức: truyện ngắn,
ngụ ngôn, tiểu thuyết, thơ, kịch, trƣờng ca, truyện vừa... Phong cách ngôn ngữ
báo chí đƣợc thể hiện trong văn bản của những thông báo ngắn, tít báo, xã luận,
thông cáo... Phong cách hành chính – công vụ đƣợc thể hiện trong các văn bản:
luật, nghị định, quyết định, thông báo, chỉ thị, công văn...
Thông tin nhận đƣợc từ mỗi loại văn bản, chừng mực nào đó đƣợc định
trƣớc bởi chính tên gọi của loại hình văn bản này. Ví dụ: văn bản "công ƣớc" là
một loại hiệp định đƣợc kí kết giữa hai nƣớc, hiệp định mà trong đó có nêu
những điều kiện xác định, tiêu biểu cho chính văn bản công ƣớc. Văn bản
"thông báo" là truyền thông tin về sự tình đang, đã hoặc sắp diễn ra đến đối
tƣợng tham gia giao tiếp. Những văn bản thuộc bình diện phi nghệ thuật thì
thông tin dễ giải mã hơn ít nhiều, vì ở những văn bản nhƣ vậy, hình thức mang
trong mình một nội dung do nó định trƣớc bởi hệ thống ngôn ngữ. Điều đó có
nghĩa là hình thức phần lớn thực hiện nhiệm vụ (chức năng) đƣợc giao phó,
nhiệm vụ riêng của nó. Thông tin trong những văn bản nhƣ vậy, nếu nó là kết
quả những công trình nghiên cứu, quan sát, thực nghiệm, tranh luận, suy đoán,
giả định... thì mang tính quan niệm. Trong loại văn bản "Nghị quyết" thì thông
thƣờng có tóm tắt những kết luận, những quyết định, những kiến nghị thu đƣợc
do kết quả hoạt động đã tiến hành. Mô hình loại này giả định chia ra hai phần:
phần thực chứng và phần hiệu quả. Văn bản (quyết định, nghị quyết, lệnh....)
trên bình diện tổ chức cú pháp, là một câu phức chính phụ, thực ra là gồm một
loại câu tạo thành chỉnh thể đơn nhất. Đây là câu – văn bản. Chính hình thức
những văn kiện nhƣ thế cũng có ý nghĩa thông tin. Nó nhấn mạnh tính đẳng
nghĩa của đề ngữ và thuyết ngữ trong câu dài – văn bản. Hình thức này tạo ra
khả năng tập trung chú ý vào những phần phụ xét từ góc độ quan hệ cú pháp.
Nội dung văn bản này, về logic đƣợc phân thành một loạt mệnh đề độc lập nằm
20
trong dạng một câu, khiến phải lí giải lại tính cách của quan hệ mệnh đề - thuyết
ngữ. Ở những văn bản (hành chính – công vụ) thông tin tƣơng đối dễ giải mã,
bởi vì những mô hình vạch sẵn của văn bản thật sự giúp ta tách biệt cái chính,
cái cơ bản với cái đi kèm, cái thứ yếu. Trong những văn bản phức tạp hơn thể
hiện đặc trƣng hành chính – công vụ thì thông tin đƣợc phân bố một cách không
đồng đều tuỳ theo sự triển khai của thông báo.
1.1.3.4Tính định hướng trong giao tiếp văn bản
Tính định hƣớng trong giao tiếp là một trong những phạm trù quan trọng của
văn bản nói chung, bởi vì khi tạo lập ra một văn bản, tác giả bao giờ cũng – hoặc tự
giác hoặc không tự giác – nhằm vào một ngƣời hoặc nhóm ngƣời đọc nhất định,
với một mục đích nhất định tác động vào đối tƣợng đó. Trong văn bản hành chính
– công vụ, tính không tự giác trong tháo tác định hƣớng đối tƣợng sẽ không có, mà
tính tự giác sẽ là chính, đƣợc đề cao hơn, ý đồ giao tiếp đƣợc cụ thể hoá rõ ràng.
Đó có thể là sự định hƣớng về tình cảm (nhƣ: yêu, ghét...), về thông tin (nhƣ:
thông báo, mệnh lệnh...) Liên quan tới định hƣớng trong giao tiếp chính là thông
tin chứa trong mỗi loại hình văn bản. Thông tin sự việc là thông tin chủ yếu trong
văn bản thuộc phong cách hành chính - công vụ. Bên cạnh đó, thông tin quan niệm
cũng xuất hiện trong loại hình văn bản hành chính
– công vụ hay văn bản để quản lí, điều hành, nhất là ở những văn bản luật, hay
văn bản thể hiện ý kiến chỉ đạo, quyền lực nhà nƣớc. Từ việc xác định loại
thông tin cần thể hiện, chuyển đạt trong văn bản sẽ giúp cho việc định hƣớng
đối tƣợng tiếp nhận, thông tin trong văn bản đƣợc chính xác, cụ thể hơn.
1.1.3.5Cá tính/phi cá tính
Đinh Trọng Lạc đã có những phân tích, nhận xét về phạm trù cá tính/ phi cá
tính của văn bản rất cụ thể. Ông cho nó vốn đƣợc biểu hiện trong văn bản nhƣ là
khả năng có thể biểu đạt/ không thể biểu đạt nhân tố tác giả hay nhân tố cá nhân –
của ngƣời viết. Phạm trù này đƣợc hiện thực hoá ở những mức độ khác nhau trong
các kiểu văn bản khác nhau. Giá trị phong cách của phạm trù này tỏ rõ trƣớc hết là
ở khả năng có thể biểu đạt/ không thể biểu đạt nhân tố tác giả. Đây là một trong
những tiêu chuẩn phân giới các phong cách chức năng và các
21
kiểu lời nói, mà trƣớc nhất là phân giới lời nói nghệ thuật, với lời nói phi nghệ
thuật. Khác với văn bản phi nghệ thuật trong các văn bản nghệ thuật, sự có mặt
của nhân tố tác giả, của hình tƣợng tác giả là một dấu hiệu kiến trúc, trong khi
đối với hầu hết các văn bản phi nghệ thuật sự thiếu mặt của nhân tố tác giả lại là
một nét đặc trƣng quan trọng.
Phạm trù cá tính/ phi cá tính cũng là dấu hiệu để khu biệt ba kiểu văn bản
đƣợc xây dựng theo ba mô hình cơ bản: mô hình cứng rắn, mô hình thông dụng
và mô hình tự do. Trong văn bản đƣợc xây dựng theo mô hình cứng rắn (nhƣ
mệnh lệnh, đạo luật, hiệp ƣớc, nghị định thƣ...) thì nhân tố cá nhân hoàn toàn
vắng mặt; mặc dù những văn bản này đều có những tác giả cụ thể, song đặc
điểm cá nhân của ngƣời viết đều bị tƣớc bỏ hoàn toàn. Ngƣời viết chỉ đƣợc
hiểu với tƣ cách một lực lƣợng ngầm ẩn vô danh nào đó nhƣ: luật lệ, nhà nƣớc,
đảng, quy chế xã hội. Trong những văn bản đƣợc xây dựng theo mô hình thông
dụng, đặc biệt trong văn bản khoa học, khả năng biểu đạt nhân tố tác giả là nhỏ
nhất: tác giả cụ thể dƣờng nhƣ xuất hiện ở "cá nhân khoa học" và những đặc
trƣng riêng của tác giả đƣợc biểu đạt tối thiểu. Mức độ của khả năng biểu đạt
nhân tố cá nhân là khác nhau đối với những khoa học khác nhau. Ở các khoa học
chính xác, sự khách quan trong việc trình bày thì lớn hơn so với ở các khoa học
nhân văn. Cũng đóng một vai trò nhất định là cá tính của nhà khoa học vốn
đƣợc ít nhiều biểu hiện trong cách trình bày. Trong những văn bản đƣợc tạo lập
theo những mô hình tự do (mô hình nghệ thuật và mô hình chính luận), cá tính/
phi cá tính của văn bản đƣợc biểu đạt ở mức độ khác nhau. [18, 161]. Trong
những văn bản nghệ thuật cá tính của văn bản vốn đƣợc hiện thực hoá thông qua
khả năng biểu đạt của nguồn gốc tác giả, là có tính chất bắt buộc, bởivì chính nó
là nhân tố hàng đầu bảo đảm sự thống nhất của văn bản nghệ thuật.
1.2 Văn bản thuộc phong cáchhành chính – công vụ
Trên cơ sở quan niệm, cách phân loại văn bản đã trình bày ở các phần trên
và đối tƣợng quan tâm của luận văn, chúng tôi muốn đi sâu về những vấn đề lí
thuyết cụ thể của phong cách hành chính – công vụ. Phong cách hành chính –
công vụ cũng sẽ có những quan điểm khác nhau khi đƣợc đem ra làm đối tƣợng
22
nghiên cứu. Dƣới đây là một số quan niệm đƣợc nhiều ngƣời chấp nhận và đã
quen thuộc trong nghiên cứu phong cách chức năng tiếng Việt.
1.2.1 Cácquan niệm và khái niệm vềphong cách hành chính – công vụ
a. Cù Đình Tú trong cuốn "Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt"
đã nêu ra hai luận điểm để làm căn cứ phân loại phong cách tiếng Việt: luận
điểm thứ nhất là, phân chia sự xuất hiện và tồn tại của tiếng nói ra hai dạng nói
và viết; luận điểm thứ hai là, chức năng giao tiếp xã hội của ngôn ngữ. Từ hai
luận điểm này, Cù Đình Tú đã chỉ ra sự đối lập cơ bản giữa phong cách tự nhiên
khẩu ngữ và phong cách gọt giũa. Ông đã thể hiện cách phân loại của mình qua
bảng dƣới đây:
Tiếng Việt toàn dân
Phong cách
khẩu ngữ tự nhiên
Phong cách ngôn ngữ gọt giũa
Phong cách Phong cách Phong cách Phong cách
khoa học chính luận hành chính ngôn ngữ văn chƣơng
Phong cách ngôn ngữ gọt giũa tiếng Việt, theo ông, đƣợc dùng cả trong
giao tiếp gián tiếp (văn viết) và giao tiếp trực tiếp (lời nói). Phong cách ngôn
ngữ gọt giũa tiếng Việt là hệ thống các phương tiện biểu hiện của ngôn ngữ
toàn dân được dùng trong giao tiếp mang tính chính thức xã hội. Đó là phong
cách ngôn ngữ đƣợc dùng trong sáchbáo, công văn, dùng trong tập thể lớn có tổ
chức của xã hội nhƣ nhà trƣờng, cơ quan, chính quyền, đoàn thể... Phong cách
hành chính là một bộ phận của phong cách ngôn ngữ gọt giũa.
b. Đinh Trọng Lạc trong "Phong cách học tiếng Việt" đi theo hƣớng nghiên
cứu phong cách học giao tiếp, lấy hoạt động lời nói làm đối tƣợng nghiên cứu
chính. Tác giả đã phân chia phong cách chức năng của hoạt động lời nói trong tiếng
Việt gồm: phong cách hành chính; phong cách khoa học; phong cách báo; phong
cách chính luận; phong cách sinh hoạt. Nhƣ vậy, ở cách phân loại
này không có phong cách văn học - nghệ thuật nhƣ các tác giả khác, mà Đinh
Trọng Lạc tách ra làm một loại phong cách riêng, sự đối lập giữa ngôn ngữ nghệ
thuật và ngôn ngữ phi nghệ thuật.
23
Theo Đinh Trọng Lạc, phong cách hành chính là khuôn mẫu thích hợp để
xây dựng lớp văn bản trong đó thể hiện vai của người tham gia giao tiếp trong
lĩnh vực hành chính. Phong cách này dựa vào kiểu ngôn ngữ viết – phi nghệ
thuật, đƣợc sử dụng trong những hoàn cảnh theo nghi thức, trong tình thế vai
bằng nhau hay không bằng nhau giữa những ngƣời giao tiếp. Trong phong cách
này, yếu tố cá nhân của ngƣời nói bị loại trừ hoàn toàn.
c. Hữu Đạt trong cuốn ―Phong cách học tiếng Việt‖ đã nêu ra cơ sở phân
chia phong cách chức năng dựa trên các cơ sở chung tƣơng đối thống nhất: a.
Dựa trên chức năng giao tiếp; b. Dựa trên hình thức thể hiện; c. Dựa vào phạm
vi giao tiếp. Theo Hữu Đạt, phong cách chức năng tiếng Việt có sáu loại sau:
phong cách hành chính – công vụ, phong cách khoa học, phong cách báo chí,
phong cách chính luận, phong cách văn học - nghệ thuật, phong cách khẩu ngữ
tự nhiên. Phong cách hành chính – công vụ là phong cách được sử dụng để trao
đổi những công việc hành chính sự vụ hàng ngày giữa các cơ quan hành chính
đoàn thể các cấp từ Trung ương xuống địa phương với các thành viên và bộ
phận xã hội có liên quan.
Nhƣ vậy, xuất phát từ phong cách học, phong cách chức năng, các nhà
nghiên cứu ngôn ngữ đã đƣa ra cách phân loại các văn bản theo quan điểm của
mình. Song, họ đều có một điểm chung hay có một cách nhìn khá thống nhất về
khái niệm và đặc điểm của phong cách hành chính – công vụ, hay phong cách
hành chính.
1.2.2 Đặcđiểm văn bản thuộcphong cách hành chính – công vụ
1.2.2.1 Quan niệm của Đinh Trọng Lạc về phong cách hành chính
Khi nghiên cứu về phong cách chức năng, ông đã đƣa ra ba đặc điểm chủ
yếu của phong cách hành chính là tính chính xác – minh bạch, tính nghiêm túc –
khách quan, tính khuôn mẫu.
Tính chính xác – minh bạch: Trong văn bản hành chính, tính chính xác
trong câu, từ phải đi đôi với tính minh bạch trong kết cấu đoạn văn nhằm đảm
bảo tính đơn nghĩa của văn bản. Bởi vì, văn bản loại này luôn đòi hỏi chỉ cho
phép một cách hiểu, không đƣợc gây hiểu lầm, đặc biệt là đối với các diễn đạt
24
pháp luật. Sự thống nhất trong cách hiểu và giải thích các văn bản luật pháp phải
đảm bảo tính chính xác. Ngôn ngữ trong phong cách hành chính nói chung đòi
hỏi tính chính xác cao hơn cả văn bản khoa học do các khái niệm, thuật ngữ...
luôn đòi hỏi chỉ một cách hiểu, tránh bị hiểu nhầm, hiểu sai gây hậu quả xấu.
Tính nghiêm túc – khách quan đƣợc thể hiện ở cách trình bày, cũng là một dấu
hiệu đặc biệt để nhận diện văn bản, diễn đạt tính chất xác nhận, khẳng định của
văn bản hành chính. Về nguyên tắc, văn bản hành chính không có danh nghĩa
của cá nhân, không cho phép sự thay đổi về hình thức theo cá tính của tác giả.
Tính khách quan là chuẩn mực chung, gắn liền với chuẩn mực pháp luật nhấn
mạnh tính chất xác thực – khẳng định, chỉ thị - mệnh lệnh cần tuân theo. Tính
nghiêm túc là thuộc tính của ngôn ngữ sách vở. Ngôn ngữ trong phong cách này
vì thế mang tính nghiêm túc khách quan, đơn điệu lạnh lùng. Tính khuôn mẫu là
văn bản đƣợc viết theo những khuôn mẫu xác định. Việc sử dụng theo mẫu
những phƣơng tiện quy định, quy phạm là dấu hiệu để nhận biết, phân biệt văn
bản hành chính với các loại hình văn bản khác. Một văn bản hành chính khi thảo
ra phải đảm bảo và đƣợc chứng thực theo đúng hình thức quy định, đúng mẫu.
Ba đặc trƣng này đƣợc thể hiện rõ ràng qua việc sử dụng ngôn ngữ của
phong cách hành chính. Tuỳ thuộc vào từng kiểu loại văn bản của phong cách
hàh chính mà mức độ thể hiện các đặc trƣng trên và những đặc trƣng chung
khác của văn bản sẽ khác nhau.
1.2.2.2 Theo Hữu Đạt, phong cách hành chính – công vụ sẽ có những đặc
điểm chủ yếu sau:
1. Đặc điểm về quan hệ của ngƣời tham gia giao tiếp
Quan hệ trong hoạt động giao tiếp hành chính – công vụ là không bình
đẳng. Tính không bình đẳng thể hiện ở tính trên dƣới, tổ chức – cá nhân với
mục đích nhằm thực thi công việc sự vụ. Hữu Đạt cũng đƣa ra mô hình giao
tiếp với các mối quan hệ:
A Ngƣời ra lệnh, yêu cầu – B Ngƣời thực hiện
C Ngƣời kiến nghị, đề nghị – D Ngƣời đƣợc kiến nghị, đề nghị
25
Ông cho rằng tính chất văn bản phụ thuộc trực tiếp vào các vai giao tiếp
và phạm vi giao tiếp. Phạm vi giao tiếp đóng vai trò quyết định. Phạm vi giao
tiếp rộng hay hẹp cũng quy định tính thống nhất, quy phạm của văn bản, ngôn
ngữ thiếu chuẩn mực. Căn cứ vào phạm vi giao tiếp, Hữu Đạt nêu ra sự khác
biệt giữa văn bản hành chính chính quy và không chính quy. Nhƣ vậy, ở
phạm vi giao tiếp hay hoàn cảnh giao tiếp cụ thể, ngƣời tham gia giao tiếp sẽ
lựa chọn những chiến lƣợc giao tiếp phù hợp để đạt đƣợc mục đích cao nhất.
Tuy nhiên, trong giao tiếp hành chính không chỉ có tính bất bình đẳng, tính
trên dƣới không thôi, mà còn có cả quan hệ ngang bằng, bình đẳng (tổ chức
với tổ chức, cá nhân với cá nhân). Các bên tham gia giao tiếp không chỉ có
giữa tổ chức – cá nhân mà có cả giữa tổ chức với tổ chức, giữa cấp trên với
cấp dƣới và ngƣợc lại, giữa các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền ngang nhau.
2. Đặc điểm về hoạt động và tính khuôn mẫu của ngôn ngữ trong phong
cách hành chính – công vụ
Hoạt động ngôn ngữ của phong cách này chủ yếu thực hiện chức năng
thông báo. Bởi vậy mà ngôn ngữ sử dụng đều hƣớng tới việc truyền đạt thông
báo sao cho ngắn gọn nhất và đạt hiệu quả tốt nhất. Văn bản của phong cách
hành chính – công vụ để truyền đạt thông tin quản lí nên tính mệnh lệnh và
yêu cầu là đặc điểm nổi bật nhất. Sự khác biệt lớn nhất của các văn bản hành
chính – công vụ với các loại văn bản khác là tính khuôn mẫu. Các văn bản
đều có những khuôn mẫu cố định, chẳng hạn nhƣ các văn bản đơn giản kiểu
đơn, hoá đơn, giấy mời, văn bằng, chứng chỉ... đều có mẫu sẵn và chỉ cần điền
đầy đủ các thông tin theo yêu cầu. Với các văn bản có tính pháp lí cao, phức
tạp hơn thì tính khuôn mẫu này phải tuân theo quy định của luật, tiêu chuẩn,
chuẩn mực chung.
3. Tính phi biểu cảm của phong cách hành chính – công vụ
Văn bản hành chính – công vụ truyền đạt các thông tin quản lí, các
quyết định, chỉ thị... nhằm thực thi công việc trong hoạt động quản lí. Các văn
bản này là tiếng nói của nhà quản lí, chúng đƣợc thực hiện căn cứ trên pháp
luật, quy định của Nhà nƣớc. Vì vậy, ngôn ngữ thể hiện trong văn bản phải
26
khách quan, tránh đem quan điểm cá nhân, chủ quan vào văn bản. Để đảm
bảo cho tính phi biểu cảm của văn bản, cần lƣu ý các điểm sau: ngôn ngữ
phải chính xác rõ ràng tránh mập mờ, nƣớc đôi; không sử dụng các câu, từ
tình thái để biểu lộ tình cảm chủ quan; hạn chế các khuôn mẫu biểu cảm ở đầu
và cuối văn bản.
4. Tính ngắn gọn, súc tích và không đa nghĩa
Ngôn ngữ trong văn bản hành chính – công vụ cũng phải đảm bảo yêu
cầu về tính ngắn gọn, xúc tích, không đa nghĩa. Quan hệ giữa hình thức và nội
dung biểu đạt phải đạt đƣợc quan hệ 1- 1 (một nội dung – một hình thức).
Nếu văn bản loại này đƣợc soạn thảo ra mà có thể hiểu theo nhiều nghĩa khác
nhau thì sẽ gây tác hại nghiêm trọng làm sai lạc pháp luật, áp dụng văn bản
sai gây hậu quả xấu. Do vậy, tính không đa nghĩa luôn đƣợc kiểm tra khi soạn
thảo văn bản.
5. Tính trang trọng và tính quốc tế
Đặc điểm này đảm bảo cho sự khác biệt của văn bản hành chính – công
vụ với các loại văn bản khác. Tính quốc tế thể hiện ở việc chuyển dịch văn
bản từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác một cách dễ dàng nhanh chóng theo
nghĩa trực tiếp của từ, câu. Tính quốc tế đặc biệt quan trọng đối với các văn
bản ngoại giao: hiệp ƣớc, nghị định thƣ, điện mừng...
Cấu trúc văn bản, việc sử dụng trình tự các chƣơng mục, con số La Mã,
Ả Rập... trong văn bản cũng thể hiện tính quốc tế, trang trọng, lịch sự khi soạn
thảo văn bản.
Đặc điểm này còn thể hiện ở việc dùng các từ Hán – Việt trong văn bản.
Số lƣợng từ Hán Việt đƣợc dùng trong loại văn bản này khá lớn và xuất hiện
thƣờng xuyên. Tuy nhiên nếu sử dụng không hợp lí, lạm dụng vốn từ này sẽ
làm giảm hiệu quả trong giao tiếp của văn bản.
Đối với các đặc điểm này, ở đây, chúng tôi không đi sâu phân tích mà chỉ
dừng lại ở việc giới thiệu để làm cơ sở cho các chƣơng sau. Trong phạm vi luận
văn này, chúng tôi nghiên cứu, xem xét các vấn đề của văn bản thuộc phong
27
cách hành chính – công vụ để có cái nhìn cụ thể hơn đối với các văn bản dùng
để phục vụ công tác quản lí điều hành.
1.2.3 Phân loại văn bản thuộc phong cách hành chính – công vụ
Cũng giống nhƣ việc phân loại văn bản nói chung, các văn bản hành
chính – công vụ cũng dựa trên các tiêu chí tƣơng tự nhƣ: chức năng văn bản,
cấu tạo, tên loại hay cơ quan ban hành, hoặc ngành, lĩnh vực... để phân loại văn
bản. Dƣới đây, chúng tôi chọn giới thiệu ba cách phân loại của ba tác giả đã khá
quen thuộc trong nghiên cứu phong cách chức năng ngôn ngữ.
Theo Cù Đình Tú, phong cách hành chính tồn tại chủ yếu dƣới dạng các
văn bản viết. Chức năng của phong cách này là thông báo. Nó thông báo bằng
các loại giấy tờ, văn kiện nghiêm chỉnh. Phong cách hành chính theo ông gồm
có các loại văn bản sau:
- Hiến pháp, luật, điều lệ, nội quy...
- Nghị quyết, thông cáo, sắc lệnh, nghị định, nghị quyết, thông tƣ, chỉ thị,
lệnh...
- Bằng khen, văn bằng, giấy chứng nhận các loại...
- Đơn từ các loại...
- Hợp đồng, hoá đơn, biên nhận...
Đinh Trọng Lạc trong các cuốn sách về phong cách học của mình thì có
quan điểm phân loại khác. Ông dựa vào nội dung sự vật – logic để phân loại và
thu đƣợc các kiểu văn bản và sau đó căn cứ trên đặc điểm kết cấu, tu từ để phân
chia ra đƣợc các kiểu loại văn bản cụ thể hơn:
a. Dựa vào nội dung ý nghĩa sự vật – logic, có thể chia văn bản hành
chính ra các kiểu nhƣ: văn thƣ, luật pháp, ngoại giao, quân sự, kinh tế, thƣơng
mại.
b. Dựa vào những đặc điểm về kết cấu, về tu từ, có thể chia văn bản hành
chính ra các thể loại nhƣ:
- Hiến pháp, sắc lệnh, điều lệ, nghị định, thông tƣ, quy chế, thông báo... trong
kiểu văn bản pháp quyền;
- Mệnh lệnh, báo cáo, điều lệnh, hƣớng dẫn... trong kiểu văn bản quân sự;
28
- Công điện, giác thƣ, công hàm, hiệp định, hiệp nghị, hiệp ƣớc, điều ƣớc,
nghị định thƣ, chứng thƣ nhà nƣớc... trong kiểu văn bản ngoại giao;
- Thông báo, thông tri, chỉ thị, nghị quyết, quyết định; đơn từ, báo cáo, biên
bản, phúc trình; giấy khen, văn bằng, giấy chứng nhận các loại; hợp đồng,
hoá đơn, giấy biên nhận, giấy giới thiệu, giấy nghỉ phép... trong kiếu văn
bản văn thƣ.
Còn với Hữu Đạt, trong "Phong cách học tiếng Việt" lại có quan niệm
phân loại khác so với các tác giả trên. Ông cho rằng, các văn bản thuộc phong
cách hành chính – công vụ tồn tại dƣới nhiều hình thức khác nhau. Dựa vào
những đặc điểm của phong cách hành chính – công vụ, Hữu Đạt đã nêu ra hai
cách phân loại sau:
1. Phân chia theo khu vực quản lí hành chính và ngành nghề có các dạng văn
bản sau:
a. Văn bản hành chính
b. Văn bản ngoại giao
c. Văn bản luật pháp – chính trị
d. Văn bản dùng trong quốc phòng
e. Văn bản dùng trong thƣơng mại – kinh tế
2. Phân chia dựa trên tính chất và cấu trúc của văn bản
a. Nhóm 1. Các văn bản có cấu trúc đơn giản gồm:
a1. Giấy gọi, giấy báo, công văn, giấy mời, văn bằng;
a2. Đơn từ (đơn đề nghị, đơn trình bày, đơn xin);
a3. Điện báo, điện tín, công điện, điện mừng;
a4. Quốc thƣ, giác thƣ, công hàm.
b. Nhóm 2. Các văn bản có cấu trúc tƣơng đối phức tạp nhƣ: sắc lệnh,
thông đạt, chỉ thị, chỉ định, quyết định, nghị định, thông tƣ, điều lệnh,
quân lệnh.
c. Nhóm 3. Các văn bản có cấu trúc phức tạp
c1. Pháp lệnh, điều luật, hiến pháp, điều lệ, quy chế...
c2. Hiệp ƣớc, hiệp định, thoả ƣớc, bị vong lục, tuyên bố chung...
Tuy vậy, cách phân loại văn bản này có một số vấn đề chƣa đƣợc làm rõ
nhƣ: thế nào là cấu trúc đơn giản, tƣơng đối phức tạp, phức tạp. Tác giả cũng
29
không đề cập tới cơ sở hay tiêu chí nào để xác định cái cấu trúc đơn giản và
phức tạp đó.
Ngoài những cách phân loại trên, ngƣời ta còn có thể có nhiều cách khác
để phân loại văn bản trên cơ sở xuất phát từ quan niệm nào, góc độ nào để
nghiên cứu, nhìn nhận vấn đề, song đây là ba cách phân loại phổ biến và đƣợc
nhiều ngƣời chấp nhận.
Song song với hƣớng nghiên cứu văn bản theo phong cách chức năng, còn
có hƣớng nghiên cứu khác xét trên góc độ văn bản có tham gia hay không vào quá
trình, hoạt động quản lí. Đó là hƣớng tiếp cận theo kĩ thuật tạo lập văn bản và sự
hoạt động, vai trò của văn bản trong đời sống xã hội. Cách tiếp cận này coi ngôn
ngữ là một phƣơng tiện để thể hiện các thông tin cần truyền đạt. Họ tiếp thu kết
quả nghiên cứu của ngôn ngữ học để sử dụng trong quá trình xây dựng một văn
bản. Do vậy, chúng tôi tiếp tục đề cập tới hƣớng nghiên cứu này dƣới góc độ ngôn
ngữ để làm rõ những điểm giống và khác nhau, những chỗ hợp lí của họ nhằm mục
đích xác định vị trí cho đối tƣơng nghiên cứu của luận văn.
1.3 Văn bản quản lí nhà nƣớc
Khác với hƣớng nghiên cứu của các nhà ngôn ngữ, những ngƣời nghiên
cứu về hành chính học xuất phát từ hệ thống văn bản, tính thông tin trong văn
bản, kĩ thuật xây dựng và ban hành văn bản để nghiên cứu, soạn thảo và áp dụng
chúng vào thực tiễn của quản lí, đời sống xã hội. Dựa vào quan điểm về chức
năng, thông tin, vai trò của văn bản (điều hành, tổ chức, điều chỉnh... hoạt động,
hành vi của đối tƣợng điều chỉnh) các nhà hành chính học đã chia thành hai loại
văn bản: văn bản quản lí và văn bản không quản lí.
Về khái niệm văn bản quản lí có nhiều cách diễn đạt khác nhau nhƣng về
nội dung thì không có sự khác biệt lớn nào cả. Nguyễn Văn Thâm trong cuốn
―Soạn thảo và xử lí văn bản quản lí nhà nƣớc‖ đã đƣa ra quan niệm về văn bản
quản lí: Các văn bản hình thành trong hoạtđộng quản lí và lãnh đạochung (sau
đây gọi tắt là văn bản quản lí) là phương tiện quan trọng để ghi lại và truyền
đạt các quyết định quản lí hoặc các thông tin cần thiết hình thành trong quá
trình quản lí của các cơ quan.
30
Văn bản quản lí là phương tiện quan trọng dùng để ghi lại và truyền đạt
các thông tin, hoặc các quyết định quản lí cần thiết trong quá trình quản lí của
các cơ quan, tổ chức. [16, 10]
Nhƣ vậy, các văn bản quản lí có mặt ở tất cả mọi nơi, mọi lĩnh vực với
mục đích quản lí xã hội. Tiếp tục đi sâu hơn vào loại văn bản này, dựa vào chức
năng, cấu tạo... của văn bản, chúng ta sẽ có những văn bản quản lí nhà nƣớc và
những văn bản không tham gia vào quá trình quản lí nhà nƣớc. Với quan niệm
này, các văn bản quản lí sẽ sử dụng nhiều phong cách ngôn ngữ khác nhau nhƣ:
ngôn ngữ khoa học, ngôn ngữ chính luận... để thể hiện chính xác nhất nội dung
mà văn bản cần truyền đạt.
1.3.1 Khái niệm văn bản quảnlínhà nước
Xuất phát từ khái niệm và quan niệm về văn bản quản lí, ở phần này, luận
văn tiếp tục tìm hiểu xoay quanh các vấn đề về văn bản quản lí nhà nƣớc.
"Giáo trình Kĩ thuật xây dựng và ban hành văn bản" và một số cuốn giáo
trình khác của Học viện Hành chính Quốc gia khi đề cập tới khái niệm văn bản
quản lí đều thống nhất: "văn bản quản lí nhà nƣớc là những quyết định và thông
tin quản lí thành văn (được văn bản hoá) do các cơ quan quản lí nhà nước ban
hành theo thẩm quyền, trình tự, thủ tục, hình thức nhất định và được Nhà nước
đảm bảo thi hành bằng những biện pháp khác nhau nhằm điều chỉnh các mối
quan hệ quản lí nội bộ nhà nước hoặc giữa các cơ quan nhà nước với các tổ
chức công dân." [15, 8]
Trong ―Giáo trình kĩ thuật xây dựng ban hành văn bản‖ của Trƣờng Đại
học Luật Hà Nội: VBQLNN là văn bản do các chủ thể QLNN ban hành theo
hình thức và thủ tục pháp luật quy định để thể hiện nhằm áp đặt ý chí của nhà
nước, truyền đạt thông tin hay ghi nhận các sự kiện cần thiết phục vụ cho hoạt
động quản lí của bộ máy nhà nước.[29, 12]
Các quan điểm trên đều xuất phát từ tính thông tin, tính pháp lí, quản lí
mà văn bản cung cấp để làm việc. Từ đây, để tiện cho việc nghiên cứu, khảo sát
của luận văn chúng tôi sẽ thống nhất đi theo cách gọi văn bản quản lí nhà nƣớc
(VBQLNN) và sử dụng cách phân loại của hệ thống văn bản này. Nhƣ vậy, ở
31
một phƣơng diện nhất định, có thể nói, các văn bản quản lí nhà nƣớc trùng với
các văn bản thuộc phong cách hành chính – công vụ theo hƣớng nghiên cứu của
các nhà nghiên cứu ngôn ngữ, nhƣng giữa hai cách phân loại này không hoàn
toàn trùng nhau. Cách phân loại của phong cách học, phong cách chức năng
ngôn ngữ thƣờng mang tính chất hành chính – công vụ một cách thuần tuý.
Trong các hƣớng phân loại văn bản thuộc phong cách hành chính – công vụ đã
nêu trên có đƣa các văn bản nhƣ: hiến pháp, luật, nghị định, thông tƣ..., các văn
bản chuyên ngành, chuyên môn nhƣ: công ƣớc, nghị định thƣ, hoá đơn, chứng
từ... vào hệ thống văn bản. Mặc dù, các văn bản loại này đều tham gia vào quá
trình điều hành, quản lí nhƣng nó không phải là văn bản hành chính – công vụ
thông thƣờng và chúng có những đặc thù riêng. Tuy vậy, trong những nghiên
cứu của ngôn ngữ học vẫn sử dụng thuật ngữ "hành chính – công vụ" để chỉ
chung cho tất cả các văn bản tham gia vào hoạt động điều hành, quản lí nhà
nƣớc.
1.3.2 Phân loại văn bản quản línhà nước
1.3.3.1Cáctiêu chí phân loại văn bản
Có nhiều tiêu chí để phân loại văn bản, ngƣời phân loại văn bản đứng từ
góc độ nào, đƣa ra tiêu chí nào thì sẽ thu đƣợc các văn bản theo cách phân loại
của họ. Vì thế mà các tiêu chí phân loại rất đa dạng:
a. Phân loại theo tác giả (hay cơ quan ban hành hay chủ thể ban hành văn
bản): văn bản của Chính phủ, văn bản của Quốc hội, văn bản của Bộ Giáo
dục và Đào tạo...;
b. Phân loại theo tên loại: Nghị quyết, Nghị định, Quyết định, Chỉ thị, Thông
tƣ...;
c. Phân loại theo nội dung: văn bản đƣợc phân loại theo từng vấn đề đƣợc
đƣa ra trong trích yếu của văn bản: văn bản về quản lí cán bộ, văn bản về cải
cách hành chính...;
d. Phân loại theo mục đích biên soạn:
e. Phân loại theo địa điểm ban hành: văn bản đƣợc ban hành tại Hà Nội, văn
bản đƣợc ban hành tại Thành phố Hồ Chí Minh...;
32
g. Phân loại theo thời gian ban hành: văn bản ban hành năm 2000, văn bản
ban hành năm 2005, văn bản ban hành năm 2006...;
h. Phân loại theo kĩ thuật chế tác, ngôn ngữ thể hiện: văn bản bằng tiếng Việt,
văn bản bằng tiếng Anh, văn bản bằng tiếng Trung Quốc...;
i. Phân loại theo hƣớng chu chuyển của văn
bản: k. Phân loại theo hiệu lực pháp lí
1.3.3.2Phânloại văn bản quản lí nhà nước
Dựa vào các tiêu chí phân loại nêu ra ở trên, ngƣời ta có thể có nhiều
hƣớng phân loại khác nhau. Có ngƣời chỉ sử dụng một tiêu chí để phân loại. Có
ngƣời lại đồng thời sử dụng hai tiêu chí hoặc ba tiêu chí để phân loại.
Điều 4 Nghị định 110/2004/NĐ-CP của Chính phủ về công tác văn thƣ có
các hình thức văn bản tồn tại sau: văn bản quy phạm pháp luật; văn bản hành chính
thông thƣờng; văn bản chuyên môn; văn bản tổ chức chính trị, tổ chức chính trị -
xã hội. Tuy nhiên, theo chúng tôi, việc đƣa các văn bản của các tổ chức chính trị,
chính trị – xã hội vào loại văn bản quản lí nhà nƣớc nhƣ vậy thì chƣa thật xác
đáng. Tuy các tổ chức chính trị, chính trị – xã hội đều hoạt động trong khuôn khổ
pháp luật, nhƣng tính chất, mục đích khác nhau. Các tổ chức này có chức năng
tham gia hoạt động quản lí nhà nƣớc thì các văn bản đƣợc hình thành trong quá
trình quản lí mới đƣợc coi là một văn bản quản lí nhà nƣớc.
Trong ―Soạn thảo và xử lí văn bản quản lí nhà nƣớc‖ của Nguyễn Văn
Thâm, văn bản quản lí nhà nƣớc bao gồm 4 loại: văn bản quy phạm pháp luật;
văn bản hành chính thông thƣờng; văn bản chuyên môn; văn bản kĩ thuật. Trong
―Giáo trình Kĩ thuật xây dựng và ban hành văn bản‖ của Học viện Hành chính
Quốc gia, việc phân loại văn bản lại có sự khác biệt nhỏ. Các tác giả của giáo
trình cũng thống nhất chia ra làm bốn loại văn bản lớn: văn bản quy phạm pháp
luật, văn bản hành chính thông thƣờng, văn bản cá biệt, và văn bản chuyên môn
– kĩ thuật. Trong giáo trình đó, các tác giả thống nhất dùng khái niệm văn bản
chuyên môn – kĩ thuật chung cho các văn bản chuyên môn và kĩ thuật của hai
cách phân loại trên, đồng thời, tách văn bản cá biệt làm một loại riêng biệt đối
lập với các loại khác.
33
Phân loại theo ―Giáo trình kĩ thuật xây dựng ban hành văn bản‖ của
Trƣờng Đại học Luật Hà Nội, VBQLNN đƣợc chia thành hai nhóm dựa vào khả
năng đƣợc bảo đảm thực hiện, đó là nhóm văn bản đƣợc bảo đảm thực hiện
bằng cƣỡng chế của nhà nƣớc (văn bản pháp luật) và nhóm văn bản không
đƣợc bảo đảm bằng cƣỡng chế của nhà nƣớc (văn bản hành chính thông dụng).
a. Văn bản pháp luật : Văn bản pháp luật đƣợc chia thành 2 nhóm dựa vào
mục đích sử dụng của văn bản: văn bản quy phạm pháp luật (dùng để đặt ra
QPPLđiều chỉnh các quan hệ xã hội phổ biến), văn bản áp dụng phápluật
(dùng để cụ thể hoá QPPL, điều chỉnh các quan hệ xã hội cụ thể).
b. Văn bản hành chính thông dụng: Dựa vào mục đíchsử dụng có thể chia
văn bản hành chính thông dụng thành hai nhóm: văn bản dùng để thông tin giao
dịch và văn bản dùng để ghi nhận một sự kiện thực tế.
Dựa vào các tiêu chí trên, thông thƣờng, văn bản quản lí nhà nƣớc đƣợc
chia ra thành 4 loại sau: văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hành chính thông
thƣờng, văn bản cá biệt và văn bản chuyên môn – kĩ thuật. Cách phân loại văn
bản này đã bao quát đƣợc tất cả các văn bản trong hệ thống văn bản quản lí nhà
nƣớc. Chúng cũng bảo đảm về chức năng, tính thông tin, cấu tạo, mô hình của
các văn bản một cách đầy đủ nhất.
1.3.3 Đặcđiểm của văn bản quảnlínhà nước
VBQLNN cũng có những đặc điểm về tính thông tin, phi cá tính, cô đọng,
súc tích, trang trọng, quốc tế nhƣ văn bản thuộc phong cách hành chính – công
vụ nói chung. Tuy nhiên, VBQLNN có hai đặc điểm quan trọng cần phải nhắc
đến đó là tính pháp lí và tính quản lí của văn bản.
1.3.3.1Tính pháplí
VBQLNN đƣợc dùng để ghi lại, truyền đạt các quy phạm pháp luật, quyết
định quản lí. Đó là căn cứ pháp lí để giải quyết các công việc trong hoạt động
quản lí. Tính pháp lí của văn bản đƣợc thể hiện ở sự vận dụng từng loại văn bản,
các quy phạm pháp luật vào thực tế để quản lí nhà nƣớc, quản lí xã hội. Văn bản
có tác dụng quan trọng trong việc xác lập mối quan hệ giữa các cơ quan, tổ chức
thuộc bộ máy nhà nƣớc, giữa hệ thống quản lý và bị quản lý, trong việc tạo nên
34
mối ràng buộc trách nhiệm giữa các chủ thể tạo lập và đối tƣợng tiếp nhận văn
bản. Do đó, văn bản, kể cả những loại không mang tính quy phạm cũng có thể
đƣợc sử dụng làm cơ sở để khẳng định tính xác thực của các sự kiện, xác nhận
độ tin cậy của thông tin, là căn cứ để thực hiện các hoạt động pháp lý nhƣ điều
tra, xét xử, tố tụng, đảm bảo cho kết quả xét xử là đúng ngƣời, đúng việc. Quan
trọng hơn nữa, văn bản là phƣơng tiện hữu hiệu nhất có thể đáp ứng đủ các điều
kiện cho việc ban hành và thực thi các quy phạm pháp luật trong đời sống xã
hội.
Các quy tắc đƣợc luật hóa thông qua hình thức chính thức là văn bản, trở
thành các quy phạm pháp luật. Các quy phạm pháp luật cũng chỉ thực sự đƣợc
tiếp nhận, áp dụng một cách rộng rãi và triệt để khi đƣợc thể hiện bằng hính
thức đáng tin cậy là văn bản. Thông qua văn bản, các quy phạn pháp luật đƣợc
áp dụng đối với phạm vi đối tƣợng điều chỉnh rộng lớn, vƣợt qua rào cản không
gian và thời gian. Nói cách khác, văn bản chứa đựng quy phạm chính là các căn
cứ pháp lý để thực thi pháp luật, giải quyết các nhiệm vụ cụ thể trong quản lý
nhà nƣớc. Tính pháp lý còn đƣợc thể hiện tùy thuộc ở từng loại văn bản cụ thể,
nội dung và tính chất pháp lý cụ thể. Để đảm bảo tính pháp lý, văn bản quản lý
nhà nƣớc rất cần phải đƣợc xây dựng theo khuôn mẫu, hình thức pháp lý chuẩn
mực, cần sử dụng ngôn ngữ phù hợp để không bị hiểu nhầm, sai lệch thông tin,
dẫn đến sai lầm trong giải quyết các nhiệm vụ quản lý nhà nƣớc.
1.3.3.2Tính quảnlí
Văn bản hình thành trong hoạt động quản lí của các cơ quan, tổ chức, đơn
vị. Nó là công cụ để điều hành các hoạt động, công việc của các cơ quan, tổ
chức đó. Vì vậy, các văn bản cũng phải đảm bảo tính quản lí. Trong hoạt động
quản lí, có thể coi văn bản vừa là công cụ, vừa là sản phẩm của hoạt động này.
Văn bản là phƣơng tiện rất thích hợp, và có thể coi là phƣơng tiện chủ yếu của
hoạt động quản lí, đảm bảo cho hoạt động này diễn ra thuận lợi. Văn bản tham
gia vào hầu hết các khâu của quy trình quản lý, từ việc đảm bảo thông tin cung
cấp cho các quyết định quản lí, truyền tải chính các quyết định quản lí cho rồi lại
35
trở thành các căn cứ pháp lí cho các hoạt động thực thi quyết định và việc thanh
tra, kiểm tra sau này.
Thông tin phục vụ cho quyết định quản lí phải là thông tin ở cấp độ đã
qua xử lí, thông tin mang tính chính thức, đầy đủ, tổng hợp, và có độ tin cậy cao.
Thông tin ở đây bao gồm cả thông tin sự việc và thông tin quan niệm. Do vậy,
không thể dựa vào căn cứ vu vơ, thiếu thuyết phục để ban hành quyết định mà
phải dựa trên căn cứ, thông tin cho quản lí đã đƣợc chính thức hóa bằng văn
bản. Đồng thời, văn bản cũng giúp cho các quyết định quản lí đƣợc triển khai
thực hiện đƣợc chính xác, đầy đủ, rõ ràng với phạm vi đối tƣợng rộng và trong
khoảng thời gian dài.
1.3.4 Sơđồ phân loại văn bản quảnlínhà nước
Mối quan hệ giữa các văn bản quản lí nhà nƣớc có thể đƣợc mô hình hoá
theo sơ đồ sau:
VĂN BẢN QUẢN LÍ NHÀ NƢỚC
VĂN BẢN
QUY PHẠM
PHÁP LUẬT
VĂN BẢN
CÁ BIỆT
VĂN BẢN HÀNH
CHÍNH THÔNG
THƢỜNG
VĂN BẢN
CHUYÊN MÔN
1.4 Văn bản quy phạm pháp luật
Theo sự phân loại trên, VBQPPL là một bộ phận trong hệ thống văn bản
quản lí nhà nƣớc nói chung. Chúng có vị trí, vai trò quan trọng nhất so với các
loại văn bản khác trong hệ thống văn bản này.
1.4.1 Khái niệm văn bản quyphạm pháp luật
Khái niệm VBQPPL đã đƣợc quy định trong Luật ban hành văn bản quy
phạm pháp luật nên nó đƣợc công nhận và sử dụng rộng rãi. Khái niệm trong
các giáo trình, sách chuyên khảo đều căn cứ trên định nghĩa trong Luật này.
Điều 1 chƣơng I Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật: “Văn bản
quy phạm phápluật là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành
theo thủ tục, trình tự luật định, trong đó có các quy tắc xử sự chung được Nhà
36
nước bảo đảm thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo định hướng
xã hội chủ nghĩa”.
Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do chủ thể có thẩm quyền ban
hành theo thủ tục, hình thức pháp luật quy định, có chứa đựng các quy phạm
pháp luật.[29, 20]
Trong cuốn giáo trình Kĩ thuật xây dựng và ban hành văn bản (Học viện
Hành chính Quốc gia): VBQPPL đƣợc định nghĩa là những ―Văn bản do cơ
quan nhà nướccó thẩm quyền ban hành theothủ tục, trình tự luật định, trong đó
có các quy tắc xử sự chung nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo định hướng
xã hội chủ nghĩa‖ [15, 24]
Các định nghĩa về VBQPPL ở trên đều dựa vào thẩm quyền, thực tiễn, kĩ
thuật xây dựng văn bản để đƣa ra. Tuy nhiên, khái niệm này có thể hiểu đơn
giản và ngắn gọn hơn: VBQPPL là văn bản chứa đựng các quy tắc xử sự chung
nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội.
1.4.2 Cáccách phân loại văn bản quyphạm pháp luật
Các tiêu chí để phân loại VBQPPL ít nhiều cũng sử dụng các tiêu chí để
phân loại văn bản quản lí nhà nƣớc. Cũng có thể nêu ra đây một số tiêu chí để
phân loại:
1. Tác giả (cơ quan ban hành): Quốc hội, Chính phủ, Thủ tƣớng...
2. Tên loại văn bản: nghị quyết, nghị định, quyết định...
3. Thời gian ban hành: năm 2000, năm 2003...
4. Địa điểm ban hành: Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh...
5. Nội dung, chủ đề: văn bản thuế, cải cách hành chính...
6. Hiệu lực pháp lí: văn bản luật, văn bản dƣới luật...
a. Theo Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996 (đã đƣợc
sửa đổi, bổ sung 2002), hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hiện nay của nƣớc
ta bao gồm:
- Văn bản do Quốc hội ban hành: Hiến pháp, luật, nghị quyết;
- Văn bản do Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội ban hành: Pháp lệnh, nghị quyết;
- Văn bản do các cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền khác ở trung ƣơng ban
hành:
37
+ Lệnh, quyết định của Chủ tịch nƣớc;
+ Nghị quyết, nghị định của Chính phủ; Quyết định, chỉ thị của Thủ tƣớng
Chính phủ;
+ Quyết định, chỉ thị, thông tƣ của Bộ
trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang bộ;
+ Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao; Quyết định,
chỉ thị, thông tƣ của Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trƣởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao;
+ Nghị quyết, thông tƣ liên tịch giữa các cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền,
giữa các cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền với tổ chức chính trị - xã hội;
- Văn bản do Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân ban hành:
+ Nghị quyết của Hội đồng nhân dân;
+ Quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân.
Trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật nêu trên thì văn bản quy
phạm pháp luật của Quốc hội, Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội, Toà án nhân dân tối
cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao không thuộc hệ thống văn bản quản lí hành
chính nhà nƣớc. Ngay cả khái niệm văn bản quản lí hành chính nhà nƣớc cũng
không thực sự hợp lí.
b. Theo hiệu lực pháp lí, loại hình văn bản:
Trong cuốn ―Xây dựng ban hành văn bản quy phạm pháp luật", Lƣu Kiếm
Thanh giới thiệu cách phân loại VBQPPL theo mô hình của Pháp:
I. Văn bản luật
1. Hiến pháp
2. Luật, bộ luật
3. Điều ƣớc quốc tế
II. Văn bản dƣới luật
A. Văn bản dƣới luật mang tính chất luật
1. Nghị quyết của Quốc hội
2. Pháp lệnh
3. Nghị quyết của Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội
4. Lệnh của Chủ tịch nƣớc
5. Quyết định của Chủ tịch nƣớc
B. Văn bản dƣới luật lập quy
38
6. Nghị quyết của Chính phủ, Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối
cao, Hội đồng nhân dân các cấp
7. Nghị định của Chính phủ
8. Quyết định của Thủ tƣởng, thủ trƣởng cấp bộ, Chánh án Tòa án nhân
dân tối cao, Viện trƣởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, UBND các cấp
9. Chỉ thị của Thủ tƣởng, thủ trƣởng cấp bộ, Chánh án Tòa án nhân dân
tối cao, Viện trƣởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, UBND các cấp
10. Thông tƣ (cấp bộ, liên tịch)
11. Các văn bản phụ ban hành kèm theo
Dựa vào phạm vi sử dụng, thẩm quyền ban hành, đối tƣợng của văn bản,
và mục đích của cuốn sách, tác giả đã không đề cập tới Điều ƣớc quốc tế. Cách
phân loại văn bản trong cuốn sách đó không có gì thay đổi.
Trong "Soạn thảo và xử lí văn bản quản lí nhà nƣớc", Nguyễn Văn Thâm
dựa vào thẩm quyền, cơ quan ban hành để phân loại: văn bản do Quốc hội ban
hành; văn bản do các cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền khác ở Trung ƣơng ban
hành; văn bản do Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân ban hành. Riêng các văn
bản đi kèm với VBQPPL, tác giả cuốn sách này đã không tách riêng các kiểu
loại văn bản và gọi chung là văn bản chuyển đổi (hoặc văn bản đi kèm). Ví dụ:
điều lệ, quy chế, nội quy, quy trình, quy định, chƣơng trình, đề án...
c. Từ góc độ của những nhà làm luật và nhà nghiên cứu luật, các tác giả
cuốn ―Giáo trình kĩ thuật xây dựng ban hành văn bản‖ của Trƣờng Đại học
Luật Hà Nội đã phân loại VBQPPL theo quan niệm riêng:
VBQPPL là văn bản do chủ thể có thẩm quyền ban hành theo thủ tục,
hình thức pháp luật quy định, có chứa đựng các QPPL. [29, 20]
Nhóm văn bản VBQPPL tạo nên hệ thống pháp luật, vì vậy trong các sách
báo pháp lí thƣờng đồng nghĩa hai khái niệm văn bản pháp luật và văn bản quy
phạm pháp luật mà không thấy rằng VBQPPL chỉ là một nhóm của văn bản
pháp luật. VBQPPL có nội dung là các quy phạm pháp luật nên đối tƣợng tác
động của văn bản là một nhóm chủ thể lớn có chung một hoặc một số yếu tố nào
đó, nhƣ quốc tịch, địa bàn cƣ trú, nghề nghiệp, thành phần xã hội... Quy phạm
đƣa ra tình huống dự kiến, khi đối tƣợng tác động của quy phạm rơi vào tình
39
huống đó phải xử sự theo cáchthức quy phạm định ra. Tình huống đó có tính lặp
lại trên thực tế cho nên các quy phạm sẽ đƣợc sử dụng nhiều lần. Nói cách khác,
văn bản quy phạm đƣợc sử dụng nhiều lần trên thực tế. [29,21]
Nhìn chung, các cơ quan đều sử dụng nhiều cách phân loại khác nhau
(theo tên loại văn bản, thời gian, cơ quan ban hành...) để thuận tiện cho việc xây
dựng, sử dụng, cũng nhƣ việc lƣu trữ và tìm kiếm văn bản. Những loại văn bản
này sẽ có những hình thức chung, có những điểm giống và khác nhau trong cấu
trúc, sử dụng ngôn ngữ. Ở chƣơng sau chúng tôi sẽ phân tích, mô tả rõ hơn.
1.4.3 Sơđồ phân loại văn bản quyphạm pháp luật
Dựa vào cách phân loại và tiêu chí phân loại văn bản đã nêu ở phần trên,
các văn bản thuộc hệ thống văn bản quy phạm pháp luật có thể đƣợc khái quát
thành sơ đồ và đƣợc khá nhiều ngƣời chấp nhận sử dụng:
VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT
VĂN BẢN LUẬT
HIẾN PHÁP
LUẬT, BỘ LUẬT
VĂN BẢN DƢỚI LUẬT
MANG TÍNH CHẤT LUẬT
NGHỊ QUYẾT
QUỐC HỘI
PHÁP LỆNH
NGHỊ QUYẾT
UBTVQH
LỆNH CTN
QUYẾT ĐỊNH
CTN
VĂN BẢN DƢỚI LUẬT
LẬP QUY
NGHỊ QUYẾT
NGHỊ ĐỊNH
QUYẾT ĐỊNH
CHỈ THỊ
THÔNG TƢ
VB LIÊN TỊCH
VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT PHỤ
40
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY
Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY

More Related Content

Similar to Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY

Tập Bài Giảng Lý Luận Dạy Học Ngữ Văn
Tập Bài Giảng Lý Luận Dạy Học Ngữ Văn Tập Bài Giảng Lý Luận Dạy Học Ngữ Văn
Tập Bài Giảng Lý Luận Dạy Học Ngữ Văn nataliej4
 
Văn bản hành chính từ thực tiễn Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam
Văn bản hành chính từ thực tiễn Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt NamVăn bản hành chính từ thực tiễn Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam
Văn bản hành chính từ thực tiễn Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Namluanvantrust
 
chuong-trinh-giao-duc-pho-thong-mon-ngu-van.pdf
chuong-trinh-giao-duc-pho-thong-mon-ngu-van.pdfchuong-trinh-giao-duc-pho-thong-mon-ngu-van.pdf
chuong-trinh-giao-duc-pho-thong-mon-ngu-van.pdfLuckyStar21
 
Luận văn tiếng lóng trên các diễn đàn trực tuyến tiếng việt thức trạng, đặc...
Luận văn tiếng lóng trên các diễn đàn trực tuyến tiếng việt   thức trạng, đặc...Luận văn tiếng lóng trên các diễn đàn trực tuyến tiếng việt   thức trạng, đặc...
Luận văn tiếng lóng trên các diễn đàn trực tuyến tiếng việt thức trạng, đặc...nataliej4
 
Hnkh khoa nga-cac-bao_cao_1
Hnkh khoa nga-cac-bao_cao_1Hnkh khoa nga-cac-bao_cao_1
Hnkh khoa nga-cac-bao_cao_1tiểu minh
 
Hỏi và hồi đáp trong tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc ...
Hỏi và hồi đáp trong tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc ...Hỏi và hồi đáp trong tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc ...
Hỏi và hồi đáp trong tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Khảo Sát Và Đề Xuất Biện Pháp Khắc Phục Lỗi Trong Bài Làm Văn Của Học Sinh Tr...
Khảo Sát Và Đề Xuất Biện Pháp Khắc Phục Lỗi Trong Bài Làm Văn Của Học Sinh Tr...Khảo Sát Và Đề Xuất Biện Pháp Khắc Phục Lỗi Trong Bài Làm Văn Của Học Sinh Tr...
Khảo Sát Và Đề Xuất Biện Pháp Khắc Phục Lỗi Trong Bài Làm Văn Của Học Sinh Tr...Dịch vụ viết đề tài trọn gói 0934.573.149
 
Một số vấn đề về sử dụng ngôn từ trên báo chí - Hoàng Anh - Boong Media
Một số vấn đề về sử dụng ngôn từ trên báo chí - Hoàng Anh - Boong MediaMột số vấn đề về sử dụng ngôn từ trên báo chí - Hoàng Anh - Boong Media
Một số vấn đề về sử dụng ngôn từ trên báo chí - Hoàng Anh - Boong Mediatranbinhkb
 
Đặc điểm ngôn ngữ của văn bản hành chính trong Châu Bản triều Nguyễn(chiếu, c...
Đặc điểm ngôn ngữ của văn bản hành chính trong Châu Bản triều Nguyễn(chiếu, c...Đặc điểm ngôn ngữ của văn bản hành chính trong Châu Bản triều Nguyễn(chiếu, c...
Đặc điểm ngôn ngữ của văn bản hành chính trong Châu Bản triều Nguyễn(chiếu, c...NuioKila
 

Similar to Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY (20)

Khoá Luận Dạy Học Đọc Hiểu Văn Bản Nghị Luận Ở Trường Trung Học Phổ Thông
Khoá Luận Dạy Học Đọc Hiểu Văn Bản Nghị Luận Ở Trường Trung Học Phổ ThôngKhoá Luận Dạy Học Đọc Hiểu Văn Bản Nghị Luận Ở Trường Trung Học Phổ Thông
Khoá Luận Dạy Học Đọc Hiểu Văn Bản Nghị Luận Ở Trường Trung Học Phổ Thông
 
Luận văn: Đặc điểm tục ngữ tiếng Mường, HAY, 9đ
Luận văn: Đặc điểm tục ngữ tiếng Mường, HAY, 9đLuận văn: Đặc điểm tục ngữ tiếng Mường, HAY, 9đ
Luận văn: Đặc điểm tục ngữ tiếng Mường, HAY, 9đ
 
Tập Bài Giảng Lý Luận Dạy Học Ngữ Văn
Tập Bài Giảng Lý Luận Dạy Học Ngữ Văn Tập Bài Giảng Lý Luận Dạy Học Ngữ Văn
Tập Bài Giảng Lý Luận Dạy Học Ngữ Văn
 
Đề tài sự tương đồng và khác biệt trong cách nói tôn kính, HAY
Đề tài  sự tương đồng và khác biệt trong cách nói tôn kính, HAYĐề tài  sự tương đồng và khác biệt trong cách nói tôn kính, HAY
Đề tài sự tương đồng và khác biệt trong cách nói tôn kính, HAY
 
Văn bản hành chính từ thực tiễn Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam
Văn bản hành chính từ thực tiễn Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt NamVăn bản hành chính từ thực tiễn Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam
Văn bản hành chính từ thực tiễn Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam
 
chuong-trinh-giao-duc-pho-thong-mon-ngu-van.pdf
chuong-trinh-giao-duc-pho-thong-mon-ngu-van.pdfchuong-trinh-giao-duc-pho-thong-mon-ngu-van.pdf
chuong-trinh-giao-duc-pho-thong-mon-ngu-van.pdf
 
Luận án: Đặc điểm cấu tạo và ngữ nghĩa của thuật ngữ mĩ thuật
Luận án: Đặc điểm cấu tạo và ngữ nghĩa của thuật ngữ mĩ thuậtLuận án: Đặc điểm cấu tạo và ngữ nghĩa của thuật ngữ mĩ thuật
Luận án: Đặc điểm cấu tạo và ngữ nghĩa của thuật ngữ mĩ thuật
 
Luận văn tiếng lóng trên các diễn đàn trực tuyến tiếng việt thức trạng, đặc...
Luận văn tiếng lóng trên các diễn đàn trực tuyến tiếng việt   thức trạng, đặc...Luận văn tiếng lóng trên các diễn đàn trực tuyến tiếng việt   thức trạng, đặc...
Luận văn tiếng lóng trên các diễn đàn trực tuyến tiếng việt thức trạng, đặc...
 
Luận án: Xin phép và hồi đáp trong tiếng anh và tiếng việt, HAY
Luận án: Xin phép và hồi đáp trong tiếng anh và tiếng việt, HAYLuận án: Xin phép và hồi đáp trong tiếng anh và tiếng việt, HAY
Luận án: Xin phép và hồi đáp trong tiếng anh và tiếng việt, HAY
 
Hnkh khoa nga-cac-bao_cao_1
Hnkh khoa nga-cac-bao_cao_1Hnkh khoa nga-cac-bao_cao_1
Hnkh khoa nga-cac-bao_cao_1
 
Luận văn: Văn bản hành chính tại Viện Hàn lâm Khoa học xã hội
Luận văn: Văn bản hành chính tại Viện Hàn lâm Khoa học xã hộiLuận văn: Văn bản hành chính tại Viện Hàn lâm Khoa học xã hội
Luận văn: Văn bản hành chính tại Viện Hàn lâm Khoa học xã hội
 
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ ngành Luật Hiến Pháp, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ ngành Luật Hiến Pháp, 9 ĐIỂMBÀI MẪU Luận văn thạc sĩ ngành Luật Hiến Pháp, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ ngành Luật Hiến Pháp, 9 ĐIỂM
 
Cơ sở khoa học của việc nghiên cứu công tác soạn thảo văn bản quản lý của cục...
Cơ sở khoa học của việc nghiên cứu công tác soạn thảo văn bản quản lý của cục...Cơ sở khoa học của việc nghiên cứu công tác soạn thảo văn bản quản lý của cục...
Cơ sở khoa học của việc nghiên cứu công tác soạn thảo văn bản quản lý của cục...
 
Hỏi và hồi đáp trong tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc ...
Hỏi và hồi đáp trong tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc ...Hỏi và hồi đáp trong tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc ...
Hỏi và hồi đáp trong tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc ...
 
Khảo Sát Và Đề Xuất Biện Pháp Khắc Phục Lỗi Trong Bài Làm Văn Của Học Sinh Tr...
Khảo Sát Và Đề Xuất Biện Pháp Khắc Phục Lỗi Trong Bài Làm Văn Của Học Sinh Tr...Khảo Sát Và Đề Xuất Biện Pháp Khắc Phục Lỗi Trong Bài Làm Văn Của Học Sinh Tr...
Khảo Sát Và Đề Xuất Biện Pháp Khắc Phục Lỗi Trong Bài Làm Văn Của Học Sinh Tr...
 
Khóa luận tốt nghiệp Các phạm vi sử dụng của uyển ngữ trong tiếng Hán và tiến...
Khóa luận tốt nghiệp Các phạm vi sử dụng của uyển ngữ trong tiếng Hán và tiến...Khóa luận tốt nghiệp Các phạm vi sử dụng của uyển ngữ trong tiếng Hán và tiến...
Khóa luận tốt nghiệp Các phạm vi sử dụng của uyển ngữ trong tiếng Hán và tiến...
 
NHÓM TỪ, NGỮ NÓI VỀ "ĂN" TRONG TIẾNG VIỆT - TẢI FREE ZALO: 093 457 3149
NHÓM TỪ, NGỮ NÓI VỀ "ĂN" TRONG TIẾNG VIỆT  - TẢI FREE ZALO: 093 457 3149NHÓM TỪ, NGỮ NÓI VỀ "ĂN" TRONG TIẾNG VIỆT  - TẢI FREE ZALO: 093 457 3149
NHÓM TỪ, NGỮ NÓI VỀ "ĂN" TRONG TIẾNG VIỆT - TẢI FREE ZALO: 093 457 3149
 
Luận án: Nhóm động từ chỉ hoạt động nhận thức trong tiếng việt
Luận án: Nhóm động từ chỉ hoạt động nhận thức trong tiếng việtLuận án: Nhóm động từ chỉ hoạt động nhận thức trong tiếng việt
Luận án: Nhóm động từ chỉ hoạt động nhận thức trong tiếng việt
 
Một số vấn đề về sử dụng ngôn từ trên báo chí - Hoàng Anh - Boong Media
Một số vấn đề về sử dụng ngôn từ trên báo chí - Hoàng Anh - Boong MediaMột số vấn đề về sử dụng ngôn từ trên báo chí - Hoàng Anh - Boong Media
Một số vấn đề về sử dụng ngôn từ trên báo chí - Hoàng Anh - Boong Media
 
Đặc điểm ngôn ngữ của văn bản hành chính trong Châu Bản triều Nguyễn(chiếu, c...
Đặc điểm ngôn ngữ của văn bản hành chính trong Châu Bản triều Nguyễn(chiếu, c...Đặc điểm ngôn ngữ của văn bản hành chính trong Châu Bản triều Nguyễn(chiếu, c...
Đặc điểm ngôn ngữ của văn bản hành chính trong Châu Bản triều Nguyễn(chiếu, c...
 

More from Viết Thuê Khóa Luận _ ZALO 0917.193.864 default

More from Viết Thuê Khóa Luận _ ZALO 0917.193.864 default (20)

Khóa luận ngành tài chính ngân hàng chính sách xã hội, HAY
Khóa luận ngành tài chính ngân hàng chính sách xã hội, HAYKhóa luận ngành tài chính ngân hàng chính sách xã hội, HAY
Khóa luận ngành tài chính ngân hàng chính sách xã hội, HAY
 
Bài mẫu báo cáo thực tập tại ngân hàng chính sách xã hội, HAY
Bài mẫu báo cáo thực tập tại ngân hàng chính sách xã hội, HAYBài mẫu báo cáo thực tập tại ngân hàng chính sách xã hội, HAY
Bài mẫu báo cáo thực tập tại ngân hàng chính sách xã hội, HAY
 
Bài mẫu báo cáo tại ngân hàng đầu tư và phát triển BIDV
Bài mẫu báo cáo tại ngân hàng đầu tư và phát triển BIDVBài mẫu báo cáo tại ngân hàng đầu tư và phát triển BIDV
Bài mẫu báo cáo tại ngân hàng đầu tư và phát triển BIDV
 
Báo cáo Thực trạng hoạt động cho vay cá nhân Tại Vietcombank, HAY
Báo cáo Thực trạng hoạt động cho vay cá nhân Tại Vietcombank, HAYBáo cáo Thực trạng hoạt động cho vay cá nhân Tại Vietcombank, HAY
Báo cáo Thực trạng hoạt động cho vay cá nhân Tại Vietcombank, HAY
 
Khóa luận tại ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, HAY
Khóa luận tại ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, HAYKhóa luận tại ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, HAY
Khóa luận tại ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, HAY
 
Bài mẫu tiểu luận về An ninh mạng, HAY
Bài mẫu tiểu luận về An ninh mạng, HAYBài mẫu tiểu luận về An ninh mạng, HAY
Bài mẫu tiểu luận về An ninh mạng, HAY
 
Bài mẫu Tiểu luận về an toàn giao thông đường bộ, HAY
Bài mẫu Tiểu luận về an toàn giao thông đường bộ, HAYBài mẫu Tiểu luận về an toàn giao thông đường bộ, HAY
Bài mẫu Tiểu luận về an toàn giao thông đường bộ, HAY
 
Tiểu luận Chiến lược cạnh tranh của công ty Amazon, HAY
Tiểu luận Chiến lược cạnh tranh của công ty Amazon, HAYTiểu luận Chiến lược cạnh tranh của công ty Amazon, HAY
Tiểu luận Chiến lược cạnh tranh của công ty Amazon, HAY
 
Bài mẫu tiểu luận môn về Apple, HAY
Bài mẫu tiểu luận môn về Apple, HAYBài mẫu tiểu luận môn về Apple, HAY
Bài mẫu tiểu luận môn về Apple, HAY
 
Bài mẫu Tiểu luận về FPT, HAY
Bài mẫu Tiểu luận về FPT, HAYBài mẫu Tiểu luận về FPT, HAY
Bài mẫu Tiểu luận về FPT, HAY
 
Bài mẫu Tiểu luận về chính quyền địa phương, HAY
Bài mẫu Tiểu luận về chính quyền địa phương, HAYBài mẫu Tiểu luận về chính quyền địa phương, HAY
Bài mẫu Tiểu luận về chính quyền địa phương, HAY
 
Bài mẫu tiểu luận về công ty Vissan, HAY
Bài mẫu tiểu luận về công ty Vissan, HAYBài mẫu tiểu luận về công ty Vissan, HAY
Bài mẫu tiểu luận về công ty Vissan, HAY
 
Tiểu luận Chiến lược marketing của kinh đô, HAY
Tiểu luận Chiến lược marketing của kinh đô, HAYTiểu luận Chiến lược marketing của kinh đô, HAY
Tiểu luận Chiến lược marketing của kinh đô, HAY
 
Bài mẫu Tiểu luận về cà phê Trung Nguyên, HAY
Bài mẫu Tiểu luận về cà phê Trung Nguyên, HAYBài mẫu Tiểu luận về cà phê Trung Nguyên, HAY
Bài mẫu Tiểu luận về cà phê Trung Nguyên, HAY
 
Bài mẫu tiểu luận về bình đẳng giới, 9 ĐIỂM
Bài mẫu tiểu luận về bình đẳng giới, 9 ĐIỂMBài mẫu tiểu luận về bình đẳng giới, 9 ĐIỂM
Bài mẫu tiểu luận về bình đẳng giới, 9 ĐIỂM
 
Bài mẫu tiểu luận về bánh ngọt, HAY
Bài mẫu tiểu luận về bánh ngọt, HAYBài mẫu tiểu luận về bánh ngọt, HAY
Bài mẫu tiểu luận về bánh ngọt, HAY
 
Bài mẫu tiểu luận về báo in, HAY
Bài mẫu tiểu luận về báo in, HAYBài mẫu tiểu luận về báo in, HAY
Bài mẫu tiểu luận về báo in, HAY
 
Bài mẫu Tiểu luận bảo vệ môi trường, HAY
Bài mẫu Tiểu luận bảo vệ môi trường, HAYBài mẫu Tiểu luận bảo vệ môi trường, HAY
Bài mẫu Tiểu luận bảo vệ môi trường, HAY
 
Tiểu luận thực trạng bạo lực gia đình Việt Nam hiện nay
Tiểu luận thực trạng bạo lực gia đình Việt Nam hiện nayTiểu luận thực trạng bạo lực gia đình Việt Nam hiện nay
Tiểu luận thực trạng bạo lực gia đình Việt Nam hiện nay
 
Tiểu luận Nguyên lý marketing với đề tài về BITIS, HAY
Tiểu luận Nguyên lý marketing với đề tài về BITIS, HAYTiểu luận Nguyên lý marketing với đề tài về BITIS, HAY
Tiểu luận Nguyên lý marketing với đề tài về BITIS, HAY
 

Recently uploaded

30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfTrnHoa46
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdfTrnHoa46
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxpowerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxAnAn97022
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (20)

30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxpowerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 

Luận văn: Đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt, HAY

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN PHẠM NGUYÊN NHUNG KHẢO SÁT ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT TẢI MIỄN PHÍ KẾT BẠN ZALO:0917 193 864 DỊCH VỤ VIẾT LUẬN VĂN CHẤT LƯỢNG WEBSITE: LUANVANTRUST.COM ZALO/TELEGRAM: 0917 193 864 MAIL: BAOCAOTHUCTAPNET@GMAIL.COM Chuyên ngành : Ngôn ngữ học Mã số : 60 22 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN THỊ VIỆT THANH
  • 2. MỤC LỤC Trang Mở đầu 4 1 Lƣợc sử nghiên cứu vấn đề 4 2 Ý nghĩa của đề tài 7 3 Mục đíchnghiên cứu 8 4 Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu 8 5 Phƣơng pháp nghiên cứu 8 6 Bố cục luận văn 9 Chƣơng 1. Một số vấn đề cơ sở lí luận 10 1.1 Khái niệm và đặc trƣng văn bản 10 1.2 Văn bản thuộc phong cách hành chính – công vụ 22 1.3 Văn bản quản lí nhà nƣớc 30 1.4 Văn bản quy phạm pháp luật 36 1.5 Phân biệt văn bản quy phạm pháp luật với một số loại văn bản 41 quản lí nhà nƣớc 1.6 Tiểu kết 43 Chƣơng 2. Đặc điểm cấutrúc nội dung của văn bản quy phạm 46 pháp luật 2.1 Các kiểu loại văn bản quy phạm pháp luật 46 2.2 Đặc điểm về cấu trúc nội dung của văn bản quy phạm pháp luật 54 2.3 Đặc điểm cấu trúc nội dung của từng kiểu loại văn bản quy phạm 65 pháp luật 2.4 Tiểu kết 72 Chƣơng 3. Một số đặc điểm cơ bản của ngôn ngữ văn bản quy 74
  • 3. phạm pháp luật 3.1 Đặc điểm về ngôn ngữ văn bản quản lí nhà nƣớc 74 3.2 Đặc điểm về ngôn ngữ văn bản quy phạm pháp luật 83 3.3 Một số phƣơng thức liên kết phổ biến trong văn bản quy phạm 108 pháp luật 3.4 Tiểu kết 114 Kết luận 116 Tài liệu tham khảo 119 Phụ lục 2
  • 4. Một số chữ viết tắt trong luận văn 1. Chủ tịch nƣớc : CTN 2. Hội đồng nhân dân : HĐND 3. Quản lí nhà nƣớc : QLNN 4. Quy phạm pháp luật : QPPL 5. Văn bản quy phạm pháp luật : VBQPPL 6. Văn bản quản lí nhà nƣớc : VBQLNN 7. Uỷ ban nhân dân : UBND 8. Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội : UBTHVQH 3
  • 5. MỞ ĐẦU Văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) có vai trò quan trọng trong điều hành quản lí nhà nƣớc, là cơ sở pháp lí cho tất cả hoạt động của một xã hội. Do đó, việc xây dựng đƣợc hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hoàn chỉnh sẽ tạo cơ sở pháp lí vững chắc, nâng cao hiệu lực quản lí, bảo vệ quyền và lợi ích của mọi công dân. Vì vậy, chất lƣợng của văn bản khi ban hành và đƣa vào thực tiễn sẽ ảnh hƣởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nƣớc, đến sự vận động và phát triển của xã hội. VBQPPL là hình thức cơ bản thể hiện ý chí của giai cấp cầm quyền về mặt chính trị và kinh tế đƣợc đƣa lên thành đạo luật, là một trong những yếu tố quan trọng cấu thành thể chế của nền hành chính nhà nƣớc. Hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật thể hiện tính quyền lực nhà nƣớc. Bên cạnh đó, vẫn còn có những VBQPPL chƣa đạt đƣợc mục đích, nhanh bị lỗi thời, quy định không phù hợp với thực tế, hoặc thiếu tính khả thi. Nội dung chƣa đƣợc diễn đạt gọn gàng, dùng từ vẫn chƣa chuẩn, chƣa phổ thông, chƣa sát với thức tiễn, chƣa xuất phát từ điều kiện của đối tƣợng điều chỉnh để ban hành văn bản. Điều đó đã dẫn tới việc áp dụng VBQPPL vào thực tế có nhiều cách hiểu khác nhau, hay khó nhớ, khó hiểu. Xuất phát từ các yếu tố chi phối, tác động tới chất lƣợng của văn bản, từ những lí do thực tiễn của văn bản, hoạt động của VBQPPL trong quản lí nhà nƣớc, đời sống xã hội, chúng tôi tiến hành xem xét các vấn đề của hệ thống văn bản này dƣới góc độ ngôn ngữ, yếu tố quan trọng quyết định sự hoàn thiện của một quy trình xây dựng và ban hành văn bản. 1. Lƣợc sử vấn đề nghiên cứu 1.1 Nghiên cứu văn bản nói chung a. Văn bản đƣợc quan tâm nghiên cứu và đã xác lập đƣợc một vị trí trong nghiên cứu ngôn ngữ học nói chung. Moskalskaja khi nghiên cứu về ngữ pháp văn bản đã khẳng định "khái niệm "văn bản" chỉ trở thành một khái niệm thuần ngôn ngữ học và mở rộng các ý nghĩa thuật ngữ của từ này khi mà nó, dƣới 4
  • 6. những hình thức từ ngữ nhất định, đƣợc đƣa vào danh mục các đơn vị ngôn ngữ và lời nói, đƣợc nhận sự miêu tả cấu trúc cần thiết và trở thành một trong những đối tƣợng của việc nghiên cứu ngôn ngữ học [21, 10]. Từ thập niên 70 của thế kỉ này, những bài viết liên quan đến các vấn đề của ngữ pháp văn bản ngày càng tăng cả về chất lƣợng và số lƣợng. Nhiều hội nghị chuyên đề quốc tế về ngôn ngữ học văn bản đƣợc tổ chức. Ngôn ngữ học văn bản dần dần trở thành một bộ môn chính thức của ngôn ngữ học bên cạnh những bộ môn truyền thống nhƣ: ngữ âm học, từ vựng học, ngữ pháp học, phong cách học. Nó không chỉ kế thừa đƣợc các thành tựu của ngôn ngữ học truyền thống mà còn có nhiều đóng góp mới, quan trọng cho ngôn ngữ học nói chung. Có thể nói cho tới nay, ngôn ngữ học văn bản đã khẳng định đƣợc chỗ đứng vững chắc của mình và thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. b. Ở Việt Nam, nghiên cứu văn bản đã dành đƣợc sự quan tâm của rất nhiều nhà ngôn ngữ học nhƣ: Trần Ngọc Thêm, Diệp Quan Ban, Đinh Trọng Lạc... Năm 1985, Trần Ngọc Thêm đã xuất bản cuốn "Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt", cuốn sách đầu tiên về ngữ pháp văn bản và cũng là cái mốc đánh dấu sự ra đời của ngôn ngữ học văn bản ở Việt Nam. Từ đây đã hình thành các khuynh hƣớng nghiên cứu về văn bản khác nhau ở Việt Nam: 1. Trong khuynh hƣớng nghiên cứu về liên kết: sau Trần Ngọc Thêm với "Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt" chủ yếu nghiên cứu trên cứ liệu các văn bản viết,còn có một số tác giả nhƣ Nguyễn Thị Việt Thanh với "Hệ thống liên kết lời nói tiếng Việt", Phạm Văn Tình với "Phép tỉnh lƣợc và ngữ trực thuộc tỉnh lƣợc trong tiếng Việt", Phan Văn Hoà... 2. Khuynh hƣớng nghiên cứu văn bản phục vụ giảng dạy: cùng với nhu cầu của việc dạy và học môn làm văn ở các trƣờng phổ thông ngày càng cao và chuyên sâu hơn, vì vậy, việc nghiên cứu, ứng dụng ngôn ngữ học văn bản vào thực tế cũng trở nên cấp thiết. Nhiều cuốn sách chuyên khảo, giáo trình phục vụ cho việc giảng dạy và học tập ra đời và đã phát huy đƣợc tác dụng của mình và thực sự trở thành tài liệu hữu ích cho ngƣời dạy và học. Một số công trình của các tác giả nhƣ: Cù Đình Tú, Đinh Trọng Lạc, Diệp Quang Ban... đã tập trung vào một số vấn đề quan trọng của ngôn ngữ học văn bản nhƣ 5
  • 7. kết cấu, mạch lạc, liên kết... để phục vụ cho công việc giảng dạy tiếng Việt ở bậc phổ thông và trong các trƣờng sƣ phạm. 3. Khuynh hƣớng tiếp cận theo hƣớng phân tích diễn ngôn lấy đối tƣợng là từng kiểu loại văn bản cụ thể: quan tâm đến hƣớng nghiên cứu này có các tác giả nhƣ Lê Hùng Tiến, Nguyễn Hoà, Hữu Đạt... và một số luận văn chuyên ngành ngôn ngữ học. Chúng ta cũng có thể hình dung sự phát triển của ngôn ngữ học văn bản ở Việt Nam thông qua việc lựa chọn đối tƣợng nghiên cứu. Bắt đầu từ sự quan tâm tới các hiện tƣợng liên kết với những mối quan hệ về cả hình thức lẫn ngữ nghĩa với các yếu tố bên ngoài câu, trong đó tập trung vào việc tìm sở chỉ của các yếu tố đòi hỏi quy chiếu ngoài câu. Dần dần, mối quan tâm mở rộng ra các đơn vị lớn hơn câu với những đặc điểm về cấu trúc và ngữ nghĩa của chúng. Đó là các đối tƣợng khi nghiên cứu văn bản đƣợc tiếp cận theo phƣơng thức vi mô. Bên cạnh cách tiếp cận này có cách tiếp cận khác cũng thu hút đƣợc sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Đó là cách tiếp cận theo phƣơng thức vĩ mô – nghiên cứu văn bản tổng thể với những đặc điểm riêng tiêu biểu cho từng loại hình văn bản. Với cách tiếp cận này, các văn bản tin, nghệ thuật, khoa học, hành chính... đã trở thành đối tƣợng khảo sát của không ít công trình nghiên cứu. Đó cũng là hƣớng tiếp cận mà luận văn này sử dụng. 1.2 Nghiên cứu các văn bản hànhchính – công vụ nói chung Có thể nói cho đến nay, số lƣợng các công trình chuyên sâu nghiên cứu về các loại hình văn bản hay đặc điểm ngôn ngữ hành chính – công vụ chƣa nhiều. Từ góc độ nghiên cứu phong cách học không thể không nhắc tới các tác giả nhƣ Đinh Trọng Lạc với "Phong cách học văn bản", "Phong cách học tiếng Việt", Cù Đình Tú với cuốn "Phong cách học và các biện pháp tu từ tiếng Việt", Hữu Đạt với "Phong cách học chức năng tiếng Việt"... Tuy vậy, các tác giả chủ yếu đề cập tới những đặc trƣng ngôn ngữ nổi bật trong các văn bản hành chính – công vụ. Song, để có cái nhìn toàn diện cho vấn đề ngôn ngữ hành chính – công vụ thì số lƣợng công trình nghiên cứu sâu về đối tƣợng này từ góc độ phân tích văn bản hay diễn ngôn vẫn còn khá khiêm tốn so với yêu cầu của thực tế. 6
  • 8. 1.3 Nghiên cứu về văn bản quyphạm pháp luậtnói riêng Các văn bản quản lí nhà nƣớc nói chung và văn bản quy phạm pháp luật đã đƣợc nghiên cứu chủ yếu ở khía cạnh kĩ thuật xây dựng, ban hành hay thực trạng và giải pháp, những vấn đề tồn tại trong quá trình xây dựng, ban hành văn bản. Một số công trình nghiên cứu về lĩnh vực này nhƣ: ―Soạn thảo và xử lí văn bản quản lí‖ của Nguyễn Văn Thâm, ―Xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật‖, ―Kĩ thuật lập quy‖ của Lƣu Kiếm Thanh, ―Hƣớng dẫn soạn thảo văn bản‖ của Nguyễn Đăng Dung và Hoàng Trọng Phiến... và trong các đề tài, dự án về VBQPPL, hay các luận văn chuyên ngành hành chính công ... Tuy nhiên, hầu nhƣ chƣa có công trình nào chỉ chuyên dành cho việc nghiên cứu ngôn ngữ thuộc lĩnh vực này. Các vấn đề về ngôn ngữ, dùng từ, tạo câu, văn phong... chỉ đƣợc đề cập tới nhƣ một yếu tố cần, đảm bảo cho việc xây dựng văn bản đƣợc chính xác. Bên cạnh đó, còn có một số công trình nghiên cứu khá kĩ lƣỡng về một số kiểu loại văn bản hành chính cụ thể nhƣ: Hữu Đạt nghiên cứu về chuẩn hoá từ ngữ trong văn bản luật, luận án tiến sĩ của Nguyễn Hùng Tiến dành nghiên cứu về "Một số đặc điểm của ngôn ngữ văn bản luật tiếng Việt", một số luận văn về các văn bản thuộc lĩnh vực cụ thể nhƣ: giáo dục, kinh tế... Song chƣa có công trình nào khảo sát một cách hệ thống các kiểu loại cụ thể của VBQPPL. 2. Ý nghĩa của đề tài 2.1 Ý nghĩa lí luận Các kết quả của luận văn đóng góp thêm về phƣơng diện lí luận cho những nghiên cứu về văn bản nói chung và văn bản thuộc phong cách hành chính – công vụ nói riêng, đặc biệt cung cấp một cái nhìn có tính tổng quát về một kiểu loại văn bản rất phổ biến và điển hình – VBQPPL. Đồng thời, luận văn cũng góp phần xác định các vấn đề về liên quan tới đối tƣợng của luận văn nhƣ: khái niệm, cách phân loại, đặc điểm cấu trúc nội dung và ngôn ngữ của văn bản. 2.2 Ý nghĩa thực tiễn Thông qua việc khảo sát, phân tích, nghiên cứu đặc điểm, cấu trúc nội dung, và các vấn đề ngôn ngữ của VBQPPL, luận văn mong muốn đóng góp vào 7
  • 9. việc xây dựng văn bản, đồng thời tránh đƣợc những lỗi, những sai sót không cần thiết về ngôn ngữ khi xây dựng, thẩm tra, thẩm định VBQPPL. Bên cạnh đó, những phân tích, đề xuất trong luận văn sẽ góp phần vào việc chuẩn hoá công tác xây dựng, ban hành, và áp dụng các văn bản này trong thực tế sử dụng cũng nhƣ trong khi giảng dạy chuyên đề này. 3. Mục đích nghiên cứu Luận văn mô tả những cấu trúc của văn bản, đƣa ra đƣợc những cấu tạo chung cho các văn bản thuộc hệ thống VBQPPL. Tiếp đó, mô tả đƣợc những đặc điểm chung về mặt ngôn ngữ, những nét riêng của ngôn ngữ VBQPPL, đồng thời, chỉ ra những tồn tại về ngôn ngữ của văn bản và đƣa ra một số những ý kiến nhằm góp phần nâng cao chất lƣợng sử dụng ngôn ngữ trong VBQPPL, và có cách nhìn chung trong quá trình dạy và học. 4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu Năm 1996, Luật Ban hành văn bản quy phạm phạm luật ra đời, đánh dấu cho sự chuẩn hoá các văn bản về mặt luật pháp. Sau năm năm áp dụng (đến năm 2002), Luật này đã đƣợc điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp với hoạt động thực tiễn. Đến năm 2004, Luật Ban hành văn bản quy phạm phạm luật của HĐND, UBND ra đời nhằm hoàn thiện việc xây dựng và ban hành văn bản của địa phƣơng. Vì vậy, chúng tôi lấy đối tƣợng nghiên cứu cho luận văn là các văn bản thuộc hệ thống văn bản quy phạm pháp luật ban hành trong năm 2006. Do thời gian không nhiều, trong phạm vi luận văn này, chúng tôi chỉ tiến hành khảo sát khoảng 500 văn bản của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật đƣợc ban hành trong năm 2006 thuộc các cơ quan Trung ƣơng và HĐND, UBND cấp tỉnh, thành phố thuộc Trung ƣơng. Để đảm bảo tính hệ thống của hệ thống văn bản đang xem xét, chúng tôi đƣa vào tƣ liệu khảo sát cả những văn bản mà trong thời gian khảo sát đã xác định ở trên không có. Trong một số trƣờng hợp cần so sánh, chúng tôi sử dụng cả những văn bản đã hết hiệu lực. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Phƣơng pháp nghiên cứu chủ yếu đƣợc vận dụng trong luận văn là mô tả, phân tích, so sánh với mục đích đƣa ra đƣợc cái nhìn tổng thể về hệ thống văn 8
  • 10. bản này. Ở trƣờng hợp cụ thể, chúng tôi sử dụng cả phƣơng pháp thống kê để làm rõ vấn đề. Do thời gian và phạm vi của một luận văn, chúng tôi chỉ tiến hành khảo sát các văn bản mang tính đại diện cho hệ thống văn bản quy phạm pháp luật. Sau khi tìm thấy các điểm chung của các văn bản, chúng tôi tiến hành mô tả cấu tạo và mô hình hoá, đƣa chúng về những khuôn nhất định. Bên cạnh đó, việc so sánh các văn bản ở từng giai đoạn sẽ cho thấy những biến chuyển và sự phát triển của hệ thống văn bản này. 6. Bố cục luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm ba chƣơng: Chƣơng 1. Một số vấn đề cơ sở lí luận Đây là chƣơng đƣợc xây dựng nhằm định hƣớng, xác định một hƣớng nghiên cứu phù hợp cho luận văn. Ở chƣơng này, chúng tôi trình bày, nêu ra những lí thuyết có liên quan đến đề tài nhƣ: khái niệm, đặc điểm về cấu trúc nội dung, về ngôn ngữ, tiêu chí và cách phân loại của văn bản nói chung, văn bản thuộc phong cách hành chính – công vụ, văn bản quản lí nhà nƣớc, văn bản quy phạm pháp luật. Bên cạnh đó, chƣơng này cũng dành một phần để phân biệt, chỉ ra sự khác biệt giữa một số loại văn bản và những khái niệm gần với đối tƣợng khảo sát của luận văn. Chƣơng 2. Đặc điểm cấu trúc nội dung của văn bản quy phạm pháp luật Chƣơng này tập trung miêu tả cấu trúc nội dung của VBQPPL nói chung và của từng văn bản cụ thể trong hệ thống này. Mục đích của chƣơng nhằm mô tả, so sánh sự giống và khác nhau về cấu trúc nội dung của văn bản thuộc hệ thống VBQPPL và chỉ ra đƣợc mô hình chung cho tất cả các văn bản, mô hình riêng cho mỗi kiểu loại văn bản riêng biệt. Chƣơng 3. Một số đặc điểm ngôn ngữ cơ bản của văn bản quy phạm pháp luật Nhiệm vụ của chƣơng này là nêu những đặc điểm về ngôn ngữ trong VBQLNN và một số đặc điểm chủ yếu về từ, câu và một số phƣơng thức liên kết chủ yếu trong VBQPPL. 9
  • 11. Chƣơng 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ SỞ LÍ LUẬN 1.1 Khái niệm và đặc trƣng của văn bản 1.1.1 Khái niệm vềvăn bản Đã có rất nhiều khái niệm về văn bản đƣợc đƣa ra theo nhiều quan điểm khác nhau. Song, hiện nay vẫn chƣa có một khái niệm văn bản nào đƣợc tất cả các nhà ngôn ngữ học chấp nhận. Chúng tôi sẽ nêu ra một số quan niệm, khái niệm về văn bản mà chúng tôi đã tiếp xúc và cũng đƣợc sử dụng để làm cơ sở cho việc thực hiện luận văn. Theo I.R. Galperin, "văn bản với tƣ cách sự kiện trong hành vi ngôn ngữ - mang tính hệ thống. Văn bản là một thông báo hoàn chỉnh nào đó, có nội dung riêng, đƣợc tổ chức theo mô hình trừu tƣợng của một trong những hình thức thông báo (thuộc phong cách chức năng, những biến thể và thể loại của nó) hiện hữu trong ngôn ngữ văn học và đƣợc xác định bởi những đặc trƣng đặc trƣng khu biệt của nó". [9, 41] Moskalskaja trong cuốn "Ngữ pháp văn bản" cho rằng thuật ngữ "văn bản" biểu thị hai mặt khác nhau. "Một mặt, "văn bản" đƣợc hiểu là bất kì một phát ngôn nào cấu tạo từ một hoặc nhiều câu mang trong mình một nghĩa hoàn chỉnh theo ý đồ của ngƣời nói, mặt khác, đó là những sản phẩm lời nói nhƣ truyện, tiểu thuyết, bài báo và tạp chí, chuyên luận khoa học, những tài liệu các loại...". Nhƣ vậy, đơn vị và đối tƣợng nghiên cứu của ngôn ngữ học văn bản là: 1. thể thống nhất trên câu (văn bản con); 2. sản phẩm lời nói hoàn chỉnh (văn bản lớn). Nhƣ vậy, ngôn ngữ học văn bản bao gồm hai bộ phận chủ yếu: 1. học thuyết về các thể thống nhất trên câu và 2. học thuyết về văn bản theo nghĩa rộng - sản phẩm lời nói hoàn chỉnh. [21, 19-23] 10
  • 12. G. Brown và G. Jule dùng từ "văn bản" nhƣ là một thuật ngữ khoa học để chỉ dữ liệu ngôn từ của một hành vi giao tiếp [5, 22], và coi văn bản là biểu hiện của diễn ngôn. D. Nunan khi nghiên cứu về phân tích diễn ngôn và phân biệt diễn ngôn với văn bản đã đƣa ra quan điểm về thuật ngữ "văn bản" dùng để chỉ bất kì cái nào ghi bằng chữ viết của một sự kiện giao tiếp. Theo ông, văn bản (text) là phần ghi ở dạng viết của một sự kiện giao tiếp, truyền đạt một thông điệp hoàn chỉnh. Sự kiện giao tiếp tự nó có thể liên quan đến ngôn ngữ nói (ví dụ: một bài thuyết giáo, một cuộc giao dịch mua bán...) hoặc ngôn ngữ viết (ví dụ: một bài thơ, một quảng cáo trên báo, một bản kê các thứ mua sắm, một tiểu thuyết...). Văn bản biến đổi từ những từ đơn đến những quyển sách kéo dài vài trăm trang. [22, 21] Mak Halliday quan niệm văn bản là sản phẩm của ngôn bản. Ngôn bản là một cái gì đó xảy ra, dƣới hình thức nói hoặc viết, nghe hoặc đọc. Khi tiến hành phân tích ngôn bản thì ngƣời ta phân tích sản phẩm của quá trình ấy; và thuật ngữ "văn bản" (text) thƣờng đƣợc cho là chỉ sản phẩm – đặc biệt là sản phẩm trong hình thức viết văn, bởi vì đây là một vật thể có thể tri giác dễ dàng nhất. [12, 496]. Tƣơng tự với cách nói này, Halliday còn cho rằng: Từ "văn bản" đƣợc dùng trong ngôn ngữ học để chỉ một đoạn nào đó, đƣợc nói ra hay đƣợc viết ra, có độ dài bất kì, tạo lập đƣợc một tổng thể hợp nhất (dẫn theo Diệp Quang Ban [4, 38]) Một quan niệm khác về văn bản vừa có tính khái quát cao vừa có tính hiện đại, có tầm rộng đƣợc giải thích cụ thể trong cuốn Bách khoa thƣ ngôn ngữ và ngôn ngữ học. Văn bản: 1. Một quãng viết hay phát ngôn, lớn hoặc nhỏ, mà do cấu trúc, đề tài – chủ đề ... của nó hình thành nên một đơn vị, loại nhƣ một truyện kể, một bài thơ, một đơn thuốc, một biển chỉ đƣờng... 2. Văn học. Trƣớc hết đƣợc coi nhƣ một tài liệu viết, thƣờng đồng nghĩa với sách, [...] 3. Phân tích diễn ngôn, đôi khi đƣợc đánh đồng với ngôn ngữ viết, còn diễn ngôn thì đƣợc dành cho ngôn ngữ nói, hoặc diễn ngôn đƣợc dùng bao gồm cả văn bản. (dẫn theo Diệp Quang Ban, trong "Văn bản và liên kết trong tiếng Việt") 11
  • 13. Đó là những quan niệm về văn bản, diễn ngôn của các nhà nghiên cứu trên thế giới. Ở Việt Nam, các quan niệm về văn bản là sự kế thừa những quan niệm, nghiên cứu đã có trên thế giới, đồng thời phát triển trên cơ sở nghiên cứu những đặc thù riêng của văn bản tiếng Việt. Đinh Trọng Lạc quan niệm: Văn bản với tƣ cách là sản phẩm của hoạt động lời nói, với tƣ cách là tác phẩm lời nói không phải là một chuỗi câu hoặc đoạn văn đƣợc tạo lập ra một cách tuỳ tiện, mà là một thể thống nhất toàn vẹn đƣợc xây dựng theo những quy tắc nhất định. [18, 7] Phỏng theo định nghĩa trong cuốn từ điển bách khoa của Liên Xô này, Diệp Quang Ban đã đƣa ra một định nghĩa ngắn gọn hơn, dễ hiểu hơn về văn bản: "Văn bản là một loại đơn vị đƣợc làm thành từ một khúc đoạn lời miệng hay lời viết, hoặc lớn hoặc nhỏ, có cấu trúc, có đề tài... loại nhƣ một truyện kể, một bài thơ, một đơn thuốc, một biển chỉ đƣờng..." [4, 37]. Các quan niệm của các tác giả, nhà nghiên cứu trong và ngoài nƣớc trên đây đã đề cập tới cả văn bản và diễn ngôn, phân biệt việc sử dụng thuật ngữ "văn bản" và "diễn ngôn", đồng thời, coi đó là một trong những tiêu chí nhận diện các giai đoạn phát triển của ngôn ngữ học văn bản nói chung. Tuy nhiên, luận văn này lại không nhằm lí giải sự khác biệt đó mà chỉ nhằm kế thừa các thành quả nghiên cứu, quan sát các quan điểm về hai khái niệm để làm cơ sở, xuất phát điểm khi tiến hành nghiên cứu vấn đề của mình. Khái niệm "văn bản" đƣợc dùng trong luận văn cũng không nhằm tới việc phân biệt văn bản với diễn ngôn. Thuật ngữ "văn bản" đƣợc dùng để chỉ chung cho cả hai khái niệm, chấp nhận một điểm chung của chúng để tiến hành các thao tác khác. Để thuận tiện trong việc khảo sát, phân tích đối tƣợng nghiên cứu của luận văn, chúng tôi sử dụng khái niệm về văn bản của Gaperin: "Văn bản là một thông báo hoàn chỉnh nào đó, có nội dung riêng, được tổ chức theo mô hình trừu tượng của một trong những hình thức thông báo (thuộc phong cách chức năng, những biến thể và thể loại của nó) hiện hữu trong ngôn ngữ văn học và được xác định bởi những đặc trưng đặc trưng khu biệt của nó." [9, 41] 12
  • 14. 1.1.2 Phân loại văn bản Khi tiến hành phân loại văn bản, ngƣời phân loại thƣờng dựa trên nhiều tiêu chí khác nhau và để có kết quả cuối cùng ngƣời ta thƣờng dựa trên ít nhất hai tiêu chí để phân loại văn bản. Hoàng Trọng Phiến khi đề cập tới phân chia thể loại văn bản đã nêu ra năm nguyên tắc và dấu hiệu sau [7, 94]: Chức năng giao tiếp theo các lĩnh vực của đời sống xã hội; tổ chức ngôn ngữ và đặc điểm từ vựng, cú pháp; phƣơng thức tu từ cùng các phƣơng tiện biểu đạt mang tính phong cách cho mỗi thể loại văn bản; phƣơng pháp diễn đạt theo cấu trúc logic khách quan; phƣơng pháp diễn đạt theo cấu trúc chủ đạo: chức năng thẩm mĩ. Dựa vào các nguyên tắc và dấu hiệu trên, chúng ta sẽ có những kiểu phân loại văn bản: a. Theo nguyên tắc chức năng giao tiếp; tổ chức ngôn ngữ và đặc điểm từ vựng, cú pháp; phƣơng thức tu từ thì văn bản đƣợc chia thành các loại: Văn bản hành chính, văn bản khoa học, văn bản chính luận, văn bản nghệ thuật. b. Xét theo chức năng thẩm mĩ thì văn bản đƣợc chia thành hai loại lớn là: văn bản nghệ thuật và văn bản phi nghệ thuật. Mỗi kiểu loại văn bản lại đƣợc phân chia tƣơng ứng với chức năng và đặc trƣng tổ chức ngôn từ. c. Một quan điểm khác khi phân loại văn bản là dựa vào mô hình hay khuôn hình của văn bản. Đinh Trọng Lạc trong cuốn "Phong cách học văn bản" đã chia toàn bộ các văn bản ra hai nhóm lớn. Nhóm thứ nhất bao gồm những văn bản đƣợc xây dựng theo các mô hình kiểu nghiêm ngặt đã trở thành khuôn mẫu. Nhóm này có các văn bản thuộc phong cách hành chính (nhƣ: đơn từ, chứng chỉ, biên bản, tài liệu pháp lí, quảng cáo, tuyên bố, chỉ dẫn...) và một số văn bản trong văn xuôi khoa học – kĩ thuật (những lời chú giải của các bài báo) hoặc tính chất pháp lí (những bằng phát minh sáng chế). Nhóm thứ hai là những văn bản đƣợc xây dựng theo mô hình kiểu mềm dẻo. Mô hình kiểu mềm dẻo lại đƣợc chia ra làm hai mô hình nhỏ là: mô hình thông dụng và tự do. Trên cơ sở các mô hình thông dụng (vốn quy định khá nghiêm ngặt tính chất của các thành tố của lƣợc đồ và phần nào là trình tự của chúng), ngƣời viết có thể xây 13
  • 15. dựng đƣợc những văn bản văn xuôi khoa học (nhƣ: bài báo, luận văn, bản tóm tắt luận án, bản nhận xét công trình khoa học...) và một số văn bản báo (nhƣ: thông báo, bình luận, thiên phóng sự). Những mô hình tự do không mang tính chất điều chỉnh mà mang tính chất chỉ hƣớng. Các văn bản đƣợc tạo ra theo mô hình này là những văn bản nghệ thuật và những tuỳ bút chính luận. Vì vậy, các văn bản thuộc hai nhóm này đƣợc hiện thực hoá trong những văn bản thuộc một trong ba kiểu mô hình nêu trên (khuôn mẫu, thông dụng và tự do). Chúng có tính chất bất biến và xuất hiện trong quan hệ hệ hình với nhau. d. Phân loại văn bản theo thông tin, cấu trúc logic khách quan, tổ chức ngôn ngữ, từ vựng, cú pháp và cấu trúc văn bản, ngƣời ta thu đƣợc sự đối lập giữa văn bản quản lí và văn bản không quản lí. Văn bản hình thành, tham gia vào quá trình quản lí, và có hiệu lực pháp lí trong quá trình quản lí. Những văn bản hội đủ các yếu tố đó đƣợc xếp vào văn bản quản lí. Những văn bản còn lại không nhằm mục đích tham gia quản lí sẽ đƣợc xếp vào một loại riêng. Tiếp tục phân loại dựa vào cấu trúc logic, cơ cấu tổ chức ngôn ngữ... chúng ta sẽ thu đƣợc các tiểu loại văn bản nhỏ hơn. Trên đây chỉ là một số cách phân loại văn bản thƣờng gặp, ngoài ra còn có nhiều cách phân loại khác nhƣ: văn bản đối thoại và văn bản độc thoại, văn bản liên tục và văn bản gián đoạn... 1.1.3 Đặctrưng của văn bản 1.1.3.1Tính nhấtthểcủa văn bản Tính nhất thể của văn bản đƣợc biểu hiện ở khả năng của văn bản hành chức nhƣ là một chỉnh thể thống nhất. Tính nhất thể của văn bản có hai mặt: ngữ nghĩa và hình thức – cấu trúc. Điều này thể hiện ở hai phƣơng diện có mối liên hệ qua lại lẫn nhau là: tính toàn vẹn và tính liên kết. a. Tính toàn vẹn Tính toàn vẹn của văn bản đƣợc thể hiện qua nhiều nhân tố khác nhau nhƣng ở đây chúng tôi lƣu ý những nhân tố có liên quan tới đối tƣợng nghiên cứu của luận văn: 14
  • 16. 1. Tính đồng nhất của ý đồ giao tiếp: ý đồ giao tiếp là ý định lời nói của tác giả. Trong văn bản, nó là mục đích, điều kiện, đặc điểm của các bên tham gia giao tiếp. Khi các yếu tố đó đƣợc hiện thực hoá trong đặc trƣng của văn bản thì đó là tính tình thái và hƣớng dụng học của văn bản. Tính tình thái của văn bản bao gồm: tình thái chủ quan và khách quan và đa phần xuất hiện trong các văn bản văn học nghệ thuật. Tình thái khách quan thƣờng đƣợc biểu hiện trong truyện cổ tích, truyện khoa học viễn tƣởng. Trong khi đó, tính tình thái chủ quan biểu hiện trong những thể loại diễn tả đƣợc thái độ, quan điểm chủ quan của tác giả đối với sự tình đƣợc nói đến nhƣ: truyện ngắn, tuỳ bút, bút kí... Hƣớng dụng học của văn bản hƣớng vào giải quyết một nhiệm vụ giao tiếp nhất định. Có mặt trong văn bản là những câu thuộc kiểu dụng học cụ thể, mà nội dung của những câu này đƣợc tạo nên bởi: - Sự xác nhận sự kiện trong những giấy chứng nhận, những ghi chú, những thông báo ngắn trên báo... - Sự hứa hẹn trong những giấy cam đoan, những quy định, những lời hứa hẹn (trƣớc cuộc bầu cử), những lời thề (chẳng hạn của quân đội), những lời tuyên thệ (khi nhậm chức)... - Sự thúc đẩy đi đến hành động trong những quyết định, những mệnh lệnh, những huấn thị, những chỉ dẫn (sử dụng các loại máy móc thiết bị), những quảng cáo. [18, 73-80] Trong các văn bản hành chính – công vụ, báo chí – chính luận, khoa học, hƣớng dụng học trên thể hiện rõ ràng hơn cả. Khi một văn bản đã đạt về ý đồ, đạt tới đích thì văn bản đã kết thúc đƣợc. 2. Sự thống nhất chủ đề của văn bản thể hiện ở chủ đề và đề tài, tính liên kết chủ đề và liên kết đề tài. Sự thống nhất chủ đề đƣợc hình thành nên từ tính liên kết đề tài và liên kết chủ đề. Chủ đề có thể đƣợc tách thành đề tài và chủ đề. Đề tài là sự vật, sự việc, hiện tƣợng đƣợc nói đến trong văn bản. Chủ đề là vấn đề chủ yếu mà ngƣời tạo văn bản muốn giải quyết trong văn bản. Khi chủ đề và đề tài trùng nhau, hoặc không cần thiết phân biệt chủ đề và đề tài thì có thể gọi chung là 15
  • 17. chủ đề – đề tài hoặc nói gọn là đề. Mỗi loại văn bản có thể đƣợc cấu tạo từ nhiều đoạn, phần với các đề tài, chủ đề, chủ đề con khác nhau nhƣng các chủ đề con đó đều trực tiếp hoặc gián tiếp phục vụ, thể hiện cho một chủ đề thống nhất. 3. Chức năng liên kết biểu thị quan hệ logic và quan hệ ngữ nghĩa: Quan hệ logic là các thao tác, quy tắc, luật logic, là sự vận hành của năng lực tƣ duy, quan hệ luôn luôn đúng. Quan hệ ngữ nghĩa là những quan hệ khách quan nhất định giữa các sự vật, hiện tƣợng trong hiện thực khách quan. Muốn bảo đảm đƣợc tính liên kết logic của văn bản thì không những đảm bảo đƣợc quan hệ logic đích thực, thuần tuý mà còn bảo đảm đƣợc các loại hình quan hệ ngữ nghĩa. 4. Sự thống nhất về kết cấu thể loại: Tính toàn vẹn của văn bản bổ sung thêm cả một bộ các dấu hiệu đem đến cho độc giả cái khả năng xếp văn bản vào một chức năng cụ thể, một thể loại cụ thể, và do đó tiếp cận văn bản nhƣ một tác phẩm đã hoàn chỉnh. Đó là sự thống nhất về kết cấu thể loại. b. Tính liên kết của văn bản Liên kết là những dấu hiệu hình thức chỉ ra các kiểu quan hệ giữa các câu hoặc các bộ phận trong văn bản. Liên kết đƣợc đề xuất bởi hệ thống của văn bản và phụ thuộc theo quy mô của văn bản. Chúng là một phạm trù không thể tách rời của văn bản. Sự liên kết đảm bảo cho thông tin nội dung sự kiện đƣợc lí giải nhất quán. Tính hoàn chỉnh và tính liên kết có quan hệ qua lại, tác động lẫn nhau. Kết quả của sự liên kết gắn liền với phạm trù tính hoàn chỉnh. Nó đƣợc thực hiện trong những mức độ và hình thức khác nhau tuỳ theo loại hình văn bản: trong văn bản khoa học, chính luận, hành chính – công vụ và trong văn bản nghệ thuật. Trong văn bản khoa học và hành chính – công vụ tính liên kết đảm bảo cho thông tin đƣợc liên tục. Tuy vậy, liên kết trong các văn bản này thƣờng đƣợc xác định sẵn và phƣơng thức liên kết cũng không đa dạng nhƣ một số kiểu loại văn bản khác ví dụ nhƣ văn bản văn học – nghệ thuật. Liên kết nội dung và liên kết hình thức là hai mặt của tính liên kết văn bản, chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Liên kết nội dung đƣợc thể hiện 16
  • 18. bằng các phƣơng tiện liên kết hình thức, còn liên kết hình thức đƣợc dùng để diễn đạt sự liên kết nội dung. Liên kết nội dung có hai bình diện: liên kết chủ đề và liên kết logic. Liên kết chủ đề là sự kết nối các sự vật, hiện tƣợng đƣợc nói đến trong câu và có hai cách để thể hiện là: duy trì chủ đề và phát triển chủ đề. Liên kết logic là đặc trƣng trong một câu hoặc giữa câu với câu (hoặc tập hợp câu, giữa các phần trong văn bản). Liên kết hình thức là liên kết bằng các phƣơng tiện ngôn ngữ. Nó có các phƣơng thức nhƣ: thế, lặp, liên tƣởng, tỉnh lƣợc... 1.1.3.2Tính khả phân Tính khả phân của văn bản là khả năng phân chia văn bản thành các phần, đoạn. Việc phân chia văn bản hoàn chỉnh thành các phần là do ngƣời viết muốn chuyển từ chủ đề này sang chủ đề khác, hoặc giữa các chủ đề con hay từ các nội dung trong một chủ đề. Tính khả phân là chức năng bố cục chung của tác phẩm, quy mô các phần và thông tin nội dung sự kiện cũng nhƣ mục đích thực tế của ngƣời tạo dựng văn bản. Quy mô các phần thông thƣờng nhằm làm cho ngƣời đọc có thể tiếp nhận khối lƣợng thông tin một cách đầy đủ, hợp lí và để cho thông tin "không bị thất thiệt". I.R. Gaperin [9] nói tới hai cách phân chia văn bản: theo khối lƣợng thực tế của văn bản (trong đó có tính đến khối lƣợng (hay quy mô) của bộ phận và hƣớng chú ý của ngƣời đọc) và theo cách phân chia đƣợc tạm gọi là biến thể - ngữ cảnh. Cả hai hình thức phân chia đều quy định lẫn nhau và đều nêu ra thông tin nội dung – quan niệm. Nhƣng một số nhà ngôn ngữ đề xuất những hình thức phân chia khác cho văn bản văn học nghệ thuật và những văn bản khác. Khi tiến hành nghiên cứu sâu vào từng loại văn bản, phân chia văn bản thực tế thì sẽ gặp những khó khăn nhất định. Vì đối với văn bản văn học nghệ thuật, sự phân đoạn văn bản nằm trong ý đồ của tác giả, mục đích sáng tạo nghệ thuật. Trong các văn bản khoa học, công vụ, báo chí thì sự phân đoạn dựa vào những nguyên tắc hoàn toàn khác. Trong một văn bản không đảm nhiệm chức năng nhận thức thẩm mĩ thì nguyên tắc chủ đạo của phân đoạn là tổ chức logic của thông báo. Cách phân đoạn văn bản theo logic rạch ròi nhất đƣợc thấy rõ 17
  • 19. trong tài liệu khoa học, hành chính – côngvụ. Tính rành mạch đƣợc thể hiện cả bằng cách tách biệt các phần bằng những kí hiệu chữ số nhƣ: 1.1; 1.2; 2.1, 2.3... Cách phân đoạn văn bản nhƣ thế diễn ra do tác giả muốn chỉ rõ sự lệ thuộc giữa các mảnh đoạn của phát ngôn. Đồng thời, trong cách phân chia này cũng gián tiếp lộ ra chính quan niệm của tác giả về sự chi phối qua lại giữa các phần tách biệt [9, 110]. Trong văn bản khoa học còn có phần ghi chú dùng dấu [ ] để ghi rõ nguồn trích dẫn, và để đảm bảo sự liền mạch, liên tục của tƣ duy, lập luận của ngƣời viết. Trong các văn bản ngoại giao nhƣ: công ƣớc, hiến chƣơng, hiệp nghị, hiệp định thƣ, tuyên bố chung... ngƣời ta thƣờng áp dụng hình thức phân đoạn theo chữ số và theo chữ cái. Cách phân đoạn trong văn bản báo chí phần lớn tuỳ theo mục đích thực dụng và phụ thuộc vào kích thƣớc trang báo nên hình thức hết sức linh hoạt. Trong cách phân chia văn bản mang tính cách biến thể ngữ cảnh, nhiệm vụ của tác giả quy lại là chuyển những hình thức của hành vi ngôn tác, chẳng hạn từ miêu tả sang đối thoại, từ đối thoại sang lời bình của tác giả... Việc chuyển đổi những hành vi ngôn tác khác nhau là đặc trƣng chủ yếu cho các văn bản văn xuôi nghệ thuật. Cách phân chia văn bản mang tính cách biến thể ngữ cảnh là một trong những phƣơng tiện làm cho bạn đọc gần gũi với sự kiện thông báo, khiến cho bạn đọc trở thành nhƣ ngƣời tham gia những sự kiện này. Nhƣ vậy, tính nhất thể (bao gồm: tính hoàn chỉnh và tính liên kết) của văn bản làm thành một mặt của vấn đề. Nó cùng với tính khả phân của văn bản hợp thành thể thống nhất của hai mặt đối lập, mặt này quy định mặt kia, tác động qua lại lẫn nhau. 1.1.3.3Tính thông tin Theo Gaperin thông tin đƣợc hiểu theo hai nghĩa: nghĩa thông dụng và nghĩa thuật ngữ. Thông tin với nghĩa thứ nhất đƣợc hiểu là một thông báo bất kì nào đƣợc trình bày nhƣ một tổ hợp từ mang tính cách định danh. Nghĩa thứ hai của thuật ngữ "thông tin" đƣợc sử dụng trong những công trình viết về lí thuyết thông tin. Việc phân tích những loại thông tin khác nhau dựa vào những văn bản công vụ chính thức, báo chí, nghệ thuật, chính luận cho thấy thông tin mang tƣ 18
  • 20. cách một phạm trù cơ bản của văn bản, chỉ thuộc về văn bản. Gaperin cho rằng nên phân biệt thông tin: a) về nội dung – sự việc, b) về nội dung – quan niệm, c) về nội dung tiềm văn bản. Thông tin nội dung sự việc gồm thông báo về sự việc, sự cố, quá trình đang diễn ra, đã diễn ra, sẽ diễn ra, trên thế giới bao quanh ta, thế giới hiện thực hoặc tƣởng tƣợng. Thông tin nội dung sự việc, xét thực chất là tƣờng minh, nghĩa là bao giờ cũng biểu đạt thành lời. Những đơn vị ngôn ngữ trong thông tin này thông thƣờng đƣợc sử dụng theo nghĩa đen, nghĩa logic sự việc, nghĩa từ vựng mà ngƣời ta gắn cho những đơn vị ấy theo kinh nghiệm xã hội định ra. Thông tin nội dung quan niệm thông báo với bạn đọc cách hiểu của cá nhân tác giả về quan hệ giữa những hiện tƣợng đƣợc miêu tả bởi các phƣơng tiện của thông tin nội dung sự việc, về những liên hệ nhân quả của chúng, giá trị của chúng trong đời sống xã hội, kinh tế, chính trị, văn hoá của nhân dân, kể cả quan hệ giữa những cá nhân cụ thể ; về tác động qua lại phức tạp giữa tâm lí với nhận thức thẩm mĩ của họ. Sự khác biệt giữa thông tin nội dung – sự việc với thông tin nội dung – quan niệm có thể đƣợc hình dung là thông tin mang tính cách hiện thực và thông tin mang tính cách thẩm mĩ nghệ thuật, tuy nhiên phải hiểu thông tin mang tính cách hiện thực không những là thực tế có thật mà còn cả tƣởng tƣợng nữa. Thông tin nội dung quan niệm - thƣờng thuộc phạm trù văn bản nghệ thuật, mặc dù có thể tiếp nhận từ văn bản nhận thức khoa học. Đây chỉ có khác ở chỗ là thông tin nội dung quan niệm trong văn bản khoa học bao giờ cũng đƣợc biểu đạt khá rõ, còn trong văn bản nghệ thuật (hẳn là loại trừ giáo huấn ca) thì đòi hỏi phải suy ngẫm mới có thể giải mã thông tin này. Thông tin nội dung tiềm văn bản là thông tin tiềm ẩn, đƣợc rút ra từ nội dung sự việc dựa vào khả năng của các đơn vị ngôn ngữ có thể sản sinh những nghĩa liên tƣởng và nghĩa hàm chỉ. Phạm trù tính thông tin của ngữ pháp là một đặc trƣng bắt buộc của văn bản, có thể biểu hiện trong những hình thức khác nhau. Do đó, khi xem thông tin là một phạm trù ngữ pháp văn bản thì trƣớc hết cần tính đến những loại hình văn bản khác nhau. Văn bản vừa có thể phân loại theo phong cách chức năng vừa có 19
  • 21. thể theo tính cách thông tin. Chẳng hạn, những văn bản ngoại giao đƣợc thống nhất bởi phong cách chức năng chung của ngôn ngữ văn bản chính thức có thể dựa theo tính cách thông tin mà trình bày dƣới dạng: công ƣớc, hiệp ƣớc, bị vong lục, công hàm, tuyên bố chung, tối hậu thƣ... Phong cách ngôn ngữ văn học – nghệ thuật đƣợc thể hiện trong vô vàn thể loại và hình thức: truyện ngắn, ngụ ngôn, tiểu thuyết, thơ, kịch, trƣờng ca, truyện vừa... Phong cách ngôn ngữ báo chí đƣợc thể hiện trong văn bản của những thông báo ngắn, tít báo, xã luận, thông cáo... Phong cách hành chính – công vụ đƣợc thể hiện trong các văn bản: luật, nghị định, quyết định, thông báo, chỉ thị, công văn... Thông tin nhận đƣợc từ mỗi loại văn bản, chừng mực nào đó đƣợc định trƣớc bởi chính tên gọi của loại hình văn bản này. Ví dụ: văn bản "công ƣớc" là một loại hiệp định đƣợc kí kết giữa hai nƣớc, hiệp định mà trong đó có nêu những điều kiện xác định, tiêu biểu cho chính văn bản công ƣớc. Văn bản "thông báo" là truyền thông tin về sự tình đang, đã hoặc sắp diễn ra đến đối tƣợng tham gia giao tiếp. Những văn bản thuộc bình diện phi nghệ thuật thì thông tin dễ giải mã hơn ít nhiều, vì ở những văn bản nhƣ vậy, hình thức mang trong mình một nội dung do nó định trƣớc bởi hệ thống ngôn ngữ. Điều đó có nghĩa là hình thức phần lớn thực hiện nhiệm vụ (chức năng) đƣợc giao phó, nhiệm vụ riêng của nó. Thông tin trong những văn bản nhƣ vậy, nếu nó là kết quả những công trình nghiên cứu, quan sát, thực nghiệm, tranh luận, suy đoán, giả định... thì mang tính quan niệm. Trong loại văn bản "Nghị quyết" thì thông thƣờng có tóm tắt những kết luận, những quyết định, những kiến nghị thu đƣợc do kết quả hoạt động đã tiến hành. Mô hình loại này giả định chia ra hai phần: phần thực chứng và phần hiệu quả. Văn bản (quyết định, nghị quyết, lệnh....) trên bình diện tổ chức cú pháp, là một câu phức chính phụ, thực ra là gồm một loại câu tạo thành chỉnh thể đơn nhất. Đây là câu – văn bản. Chính hình thức những văn kiện nhƣ thế cũng có ý nghĩa thông tin. Nó nhấn mạnh tính đẳng nghĩa của đề ngữ và thuyết ngữ trong câu dài – văn bản. Hình thức này tạo ra khả năng tập trung chú ý vào những phần phụ xét từ góc độ quan hệ cú pháp. Nội dung văn bản này, về logic đƣợc phân thành một loạt mệnh đề độc lập nằm 20
  • 22. trong dạng một câu, khiến phải lí giải lại tính cách của quan hệ mệnh đề - thuyết ngữ. Ở những văn bản (hành chính – công vụ) thông tin tƣơng đối dễ giải mã, bởi vì những mô hình vạch sẵn của văn bản thật sự giúp ta tách biệt cái chính, cái cơ bản với cái đi kèm, cái thứ yếu. Trong những văn bản phức tạp hơn thể hiện đặc trƣng hành chính – công vụ thì thông tin đƣợc phân bố một cách không đồng đều tuỳ theo sự triển khai của thông báo. 1.1.3.4Tính định hướng trong giao tiếp văn bản Tính định hƣớng trong giao tiếp là một trong những phạm trù quan trọng của văn bản nói chung, bởi vì khi tạo lập ra một văn bản, tác giả bao giờ cũng – hoặc tự giác hoặc không tự giác – nhằm vào một ngƣời hoặc nhóm ngƣời đọc nhất định, với một mục đích nhất định tác động vào đối tƣợng đó. Trong văn bản hành chính – công vụ, tính không tự giác trong tháo tác định hƣớng đối tƣợng sẽ không có, mà tính tự giác sẽ là chính, đƣợc đề cao hơn, ý đồ giao tiếp đƣợc cụ thể hoá rõ ràng. Đó có thể là sự định hƣớng về tình cảm (nhƣ: yêu, ghét...), về thông tin (nhƣ: thông báo, mệnh lệnh...) Liên quan tới định hƣớng trong giao tiếp chính là thông tin chứa trong mỗi loại hình văn bản. Thông tin sự việc là thông tin chủ yếu trong văn bản thuộc phong cách hành chính - công vụ. Bên cạnh đó, thông tin quan niệm cũng xuất hiện trong loại hình văn bản hành chính – công vụ hay văn bản để quản lí, điều hành, nhất là ở những văn bản luật, hay văn bản thể hiện ý kiến chỉ đạo, quyền lực nhà nƣớc. Từ việc xác định loại thông tin cần thể hiện, chuyển đạt trong văn bản sẽ giúp cho việc định hƣớng đối tƣợng tiếp nhận, thông tin trong văn bản đƣợc chính xác, cụ thể hơn. 1.1.3.5Cá tính/phi cá tính Đinh Trọng Lạc đã có những phân tích, nhận xét về phạm trù cá tính/ phi cá tính của văn bản rất cụ thể. Ông cho nó vốn đƣợc biểu hiện trong văn bản nhƣ là khả năng có thể biểu đạt/ không thể biểu đạt nhân tố tác giả hay nhân tố cá nhân – của ngƣời viết. Phạm trù này đƣợc hiện thực hoá ở những mức độ khác nhau trong các kiểu văn bản khác nhau. Giá trị phong cách của phạm trù này tỏ rõ trƣớc hết là ở khả năng có thể biểu đạt/ không thể biểu đạt nhân tố tác giả. Đây là một trong những tiêu chuẩn phân giới các phong cách chức năng và các 21
  • 23. kiểu lời nói, mà trƣớc nhất là phân giới lời nói nghệ thuật, với lời nói phi nghệ thuật. Khác với văn bản phi nghệ thuật trong các văn bản nghệ thuật, sự có mặt của nhân tố tác giả, của hình tƣợng tác giả là một dấu hiệu kiến trúc, trong khi đối với hầu hết các văn bản phi nghệ thuật sự thiếu mặt của nhân tố tác giả lại là một nét đặc trƣng quan trọng. Phạm trù cá tính/ phi cá tính cũng là dấu hiệu để khu biệt ba kiểu văn bản đƣợc xây dựng theo ba mô hình cơ bản: mô hình cứng rắn, mô hình thông dụng và mô hình tự do. Trong văn bản đƣợc xây dựng theo mô hình cứng rắn (nhƣ mệnh lệnh, đạo luật, hiệp ƣớc, nghị định thƣ...) thì nhân tố cá nhân hoàn toàn vắng mặt; mặc dù những văn bản này đều có những tác giả cụ thể, song đặc điểm cá nhân của ngƣời viết đều bị tƣớc bỏ hoàn toàn. Ngƣời viết chỉ đƣợc hiểu với tƣ cách một lực lƣợng ngầm ẩn vô danh nào đó nhƣ: luật lệ, nhà nƣớc, đảng, quy chế xã hội. Trong những văn bản đƣợc xây dựng theo mô hình thông dụng, đặc biệt trong văn bản khoa học, khả năng biểu đạt nhân tố tác giả là nhỏ nhất: tác giả cụ thể dƣờng nhƣ xuất hiện ở "cá nhân khoa học" và những đặc trƣng riêng của tác giả đƣợc biểu đạt tối thiểu. Mức độ của khả năng biểu đạt nhân tố cá nhân là khác nhau đối với những khoa học khác nhau. Ở các khoa học chính xác, sự khách quan trong việc trình bày thì lớn hơn so với ở các khoa học nhân văn. Cũng đóng một vai trò nhất định là cá tính của nhà khoa học vốn đƣợc ít nhiều biểu hiện trong cách trình bày. Trong những văn bản đƣợc tạo lập theo những mô hình tự do (mô hình nghệ thuật và mô hình chính luận), cá tính/ phi cá tính của văn bản đƣợc biểu đạt ở mức độ khác nhau. [18, 161]. Trong những văn bản nghệ thuật cá tính của văn bản vốn đƣợc hiện thực hoá thông qua khả năng biểu đạt của nguồn gốc tác giả, là có tính chất bắt buộc, bởivì chính nó là nhân tố hàng đầu bảo đảm sự thống nhất của văn bản nghệ thuật. 1.2 Văn bản thuộc phong cáchhành chính – công vụ Trên cơ sở quan niệm, cách phân loại văn bản đã trình bày ở các phần trên và đối tƣợng quan tâm của luận văn, chúng tôi muốn đi sâu về những vấn đề lí thuyết cụ thể của phong cách hành chính – công vụ. Phong cách hành chính – công vụ cũng sẽ có những quan điểm khác nhau khi đƣợc đem ra làm đối tƣợng 22
  • 24. nghiên cứu. Dƣới đây là một số quan niệm đƣợc nhiều ngƣời chấp nhận và đã quen thuộc trong nghiên cứu phong cách chức năng tiếng Việt. 1.2.1 Cácquan niệm và khái niệm vềphong cách hành chính – công vụ a. Cù Đình Tú trong cuốn "Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt" đã nêu ra hai luận điểm để làm căn cứ phân loại phong cách tiếng Việt: luận điểm thứ nhất là, phân chia sự xuất hiện và tồn tại của tiếng nói ra hai dạng nói và viết; luận điểm thứ hai là, chức năng giao tiếp xã hội của ngôn ngữ. Từ hai luận điểm này, Cù Đình Tú đã chỉ ra sự đối lập cơ bản giữa phong cách tự nhiên khẩu ngữ và phong cách gọt giũa. Ông đã thể hiện cách phân loại của mình qua bảng dƣới đây: Tiếng Việt toàn dân Phong cách khẩu ngữ tự nhiên Phong cách ngôn ngữ gọt giũa Phong cách Phong cách Phong cách Phong cách khoa học chính luận hành chính ngôn ngữ văn chƣơng Phong cách ngôn ngữ gọt giũa tiếng Việt, theo ông, đƣợc dùng cả trong giao tiếp gián tiếp (văn viết) và giao tiếp trực tiếp (lời nói). Phong cách ngôn ngữ gọt giũa tiếng Việt là hệ thống các phương tiện biểu hiện của ngôn ngữ toàn dân được dùng trong giao tiếp mang tính chính thức xã hội. Đó là phong cách ngôn ngữ đƣợc dùng trong sáchbáo, công văn, dùng trong tập thể lớn có tổ chức của xã hội nhƣ nhà trƣờng, cơ quan, chính quyền, đoàn thể... Phong cách hành chính là một bộ phận của phong cách ngôn ngữ gọt giũa. b. Đinh Trọng Lạc trong "Phong cách học tiếng Việt" đi theo hƣớng nghiên cứu phong cách học giao tiếp, lấy hoạt động lời nói làm đối tƣợng nghiên cứu chính. Tác giả đã phân chia phong cách chức năng của hoạt động lời nói trong tiếng Việt gồm: phong cách hành chính; phong cách khoa học; phong cách báo; phong cách chính luận; phong cách sinh hoạt. Nhƣ vậy, ở cách phân loại này không có phong cách văn học - nghệ thuật nhƣ các tác giả khác, mà Đinh Trọng Lạc tách ra làm một loại phong cách riêng, sự đối lập giữa ngôn ngữ nghệ thuật và ngôn ngữ phi nghệ thuật. 23
  • 25. Theo Đinh Trọng Lạc, phong cách hành chính là khuôn mẫu thích hợp để xây dựng lớp văn bản trong đó thể hiện vai của người tham gia giao tiếp trong lĩnh vực hành chính. Phong cách này dựa vào kiểu ngôn ngữ viết – phi nghệ thuật, đƣợc sử dụng trong những hoàn cảnh theo nghi thức, trong tình thế vai bằng nhau hay không bằng nhau giữa những ngƣời giao tiếp. Trong phong cách này, yếu tố cá nhân của ngƣời nói bị loại trừ hoàn toàn. c. Hữu Đạt trong cuốn ―Phong cách học tiếng Việt‖ đã nêu ra cơ sở phân chia phong cách chức năng dựa trên các cơ sở chung tƣơng đối thống nhất: a. Dựa trên chức năng giao tiếp; b. Dựa trên hình thức thể hiện; c. Dựa vào phạm vi giao tiếp. Theo Hữu Đạt, phong cách chức năng tiếng Việt có sáu loại sau: phong cách hành chính – công vụ, phong cách khoa học, phong cách báo chí, phong cách chính luận, phong cách văn học - nghệ thuật, phong cách khẩu ngữ tự nhiên. Phong cách hành chính – công vụ là phong cách được sử dụng để trao đổi những công việc hành chính sự vụ hàng ngày giữa các cơ quan hành chính đoàn thể các cấp từ Trung ương xuống địa phương với các thành viên và bộ phận xã hội có liên quan. Nhƣ vậy, xuất phát từ phong cách học, phong cách chức năng, các nhà nghiên cứu ngôn ngữ đã đƣa ra cách phân loại các văn bản theo quan điểm của mình. Song, họ đều có một điểm chung hay có một cách nhìn khá thống nhất về khái niệm và đặc điểm của phong cách hành chính – công vụ, hay phong cách hành chính. 1.2.2 Đặcđiểm văn bản thuộcphong cách hành chính – công vụ 1.2.2.1 Quan niệm của Đinh Trọng Lạc về phong cách hành chính Khi nghiên cứu về phong cách chức năng, ông đã đƣa ra ba đặc điểm chủ yếu của phong cách hành chính là tính chính xác – minh bạch, tính nghiêm túc – khách quan, tính khuôn mẫu. Tính chính xác – minh bạch: Trong văn bản hành chính, tính chính xác trong câu, từ phải đi đôi với tính minh bạch trong kết cấu đoạn văn nhằm đảm bảo tính đơn nghĩa của văn bản. Bởi vì, văn bản loại này luôn đòi hỏi chỉ cho phép một cách hiểu, không đƣợc gây hiểu lầm, đặc biệt là đối với các diễn đạt 24
  • 26. pháp luật. Sự thống nhất trong cách hiểu và giải thích các văn bản luật pháp phải đảm bảo tính chính xác. Ngôn ngữ trong phong cách hành chính nói chung đòi hỏi tính chính xác cao hơn cả văn bản khoa học do các khái niệm, thuật ngữ... luôn đòi hỏi chỉ một cách hiểu, tránh bị hiểu nhầm, hiểu sai gây hậu quả xấu. Tính nghiêm túc – khách quan đƣợc thể hiện ở cách trình bày, cũng là một dấu hiệu đặc biệt để nhận diện văn bản, diễn đạt tính chất xác nhận, khẳng định của văn bản hành chính. Về nguyên tắc, văn bản hành chính không có danh nghĩa của cá nhân, không cho phép sự thay đổi về hình thức theo cá tính của tác giả. Tính khách quan là chuẩn mực chung, gắn liền với chuẩn mực pháp luật nhấn mạnh tính chất xác thực – khẳng định, chỉ thị - mệnh lệnh cần tuân theo. Tính nghiêm túc là thuộc tính của ngôn ngữ sách vở. Ngôn ngữ trong phong cách này vì thế mang tính nghiêm túc khách quan, đơn điệu lạnh lùng. Tính khuôn mẫu là văn bản đƣợc viết theo những khuôn mẫu xác định. Việc sử dụng theo mẫu những phƣơng tiện quy định, quy phạm là dấu hiệu để nhận biết, phân biệt văn bản hành chính với các loại hình văn bản khác. Một văn bản hành chính khi thảo ra phải đảm bảo và đƣợc chứng thực theo đúng hình thức quy định, đúng mẫu. Ba đặc trƣng này đƣợc thể hiện rõ ràng qua việc sử dụng ngôn ngữ của phong cách hành chính. Tuỳ thuộc vào từng kiểu loại văn bản của phong cách hàh chính mà mức độ thể hiện các đặc trƣng trên và những đặc trƣng chung khác của văn bản sẽ khác nhau. 1.2.2.2 Theo Hữu Đạt, phong cách hành chính – công vụ sẽ có những đặc điểm chủ yếu sau: 1. Đặc điểm về quan hệ của ngƣời tham gia giao tiếp Quan hệ trong hoạt động giao tiếp hành chính – công vụ là không bình đẳng. Tính không bình đẳng thể hiện ở tính trên dƣới, tổ chức – cá nhân với mục đích nhằm thực thi công việc sự vụ. Hữu Đạt cũng đƣa ra mô hình giao tiếp với các mối quan hệ: A Ngƣời ra lệnh, yêu cầu – B Ngƣời thực hiện C Ngƣời kiến nghị, đề nghị – D Ngƣời đƣợc kiến nghị, đề nghị 25
  • 27. Ông cho rằng tính chất văn bản phụ thuộc trực tiếp vào các vai giao tiếp và phạm vi giao tiếp. Phạm vi giao tiếp đóng vai trò quyết định. Phạm vi giao tiếp rộng hay hẹp cũng quy định tính thống nhất, quy phạm của văn bản, ngôn ngữ thiếu chuẩn mực. Căn cứ vào phạm vi giao tiếp, Hữu Đạt nêu ra sự khác biệt giữa văn bản hành chính chính quy và không chính quy. Nhƣ vậy, ở phạm vi giao tiếp hay hoàn cảnh giao tiếp cụ thể, ngƣời tham gia giao tiếp sẽ lựa chọn những chiến lƣợc giao tiếp phù hợp để đạt đƣợc mục đích cao nhất. Tuy nhiên, trong giao tiếp hành chính không chỉ có tính bất bình đẳng, tính trên dƣới không thôi, mà còn có cả quan hệ ngang bằng, bình đẳng (tổ chức với tổ chức, cá nhân với cá nhân). Các bên tham gia giao tiếp không chỉ có giữa tổ chức – cá nhân mà có cả giữa tổ chức với tổ chức, giữa cấp trên với cấp dƣới và ngƣợc lại, giữa các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền ngang nhau. 2. Đặc điểm về hoạt động và tính khuôn mẫu của ngôn ngữ trong phong cách hành chính – công vụ Hoạt động ngôn ngữ của phong cách này chủ yếu thực hiện chức năng thông báo. Bởi vậy mà ngôn ngữ sử dụng đều hƣớng tới việc truyền đạt thông báo sao cho ngắn gọn nhất và đạt hiệu quả tốt nhất. Văn bản của phong cách hành chính – công vụ để truyền đạt thông tin quản lí nên tính mệnh lệnh và yêu cầu là đặc điểm nổi bật nhất. Sự khác biệt lớn nhất của các văn bản hành chính – công vụ với các loại văn bản khác là tính khuôn mẫu. Các văn bản đều có những khuôn mẫu cố định, chẳng hạn nhƣ các văn bản đơn giản kiểu đơn, hoá đơn, giấy mời, văn bằng, chứng chỉ... đều có mẫu sẵn và chỉ cần điền đầy đủ các thông tin theo yêu cầu. Với các văn bản có tính pháp lí cao, phức tạp hơn thì tính khuôn mẫu này phải tuân theo quy định của luật, tiêu chuẩn, chuẩn mực chung. 3. Tính phi biểu cảm của phong cách hành chính – công vụ Văn bản hành chính – công vụ truyền đạt các thông tin quản lí, các quyết định, chỉ thị... nhằm thực thi công việc trong hoạt động quản lí. Các văn bản này là tiếng nói của nhà quản lí, chúng đƣợc thực hiện căn cứ trên pháp luật, quy định của Nhà nƣớc. Vì vậy, ngôn ngữ thể hiện trong văn bản phải 26
  • 28. khách quan, tránh đem quan điểm cá nhân, chủ quan vào văn bản. Để đảm bảo cho tính phi biểu cảm của văn bản, cần lƣu ý các điểm sau: ngôn ngữ phải chính xác rõ ràng tránh mập mờ, nƣớc đôi; không sử dụng các câu, từ tình thái để biểu lộ tình cảm chủ quan; hạn chế các khuôn mẫu biểu cảm ở đầu và cuối văn bản. 4. Tính ngắn gọn, súc tích và không đa nghĩa Ngôn ngữ trong văn bản hành chính – công vụ cũng phải đảm bảo yêu cầu về tính ngắn gọn, xúc tích, không đa nghĩa. Quan hệ giữa hình thức và nội dung biểu đạt phải đạt đƣợc quan hệ 1- 1 (một nội dung – một hình thức). Nếu văn bản loại này đƣợc soạn thảo ra mà có thể hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau thì sẽ gây tác hại nghiêm trọng làm sai lạc pháp luật, áp dụng văn bản sai gây hậu quả xấu. Do vậy, tính không đa nghĩa luôn đƣợc kiểm tra khi soạn thảo văn bản. 5. Tính trang trọng và tính quốc tế Đặc điểm này đảm bảo cho sự khác biệt của văn bản hành chính – công vụ với các loại văn bản khác. Tính quốc tế thể hiện ở việc chuyển dịch văn bản từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác một cách dễ dàng nhanh chóng theo nghĩa trực tiếp của từ, câu. Tính quốc tế đặc biệt quan trọng đối với các văn bản ngoại giao: hiệp ƣớc, nghị định thƣ, điện mừng... Cấu trúc văn bản, việc sử dụng trình tự các chƣơng mục, con số La Mã, Ả Rập... trong văn bản cũng thể hiện tính quốc tế, trang trọng, lịch sự khi soạn thảo văn bản. Đặc điểm này còn thể hiện ở việc dùng các từ Hán – Việt trong văn bản. Số lƣợng từ Hán Việt đƣợc dùng trong loại văn bản này khá lớn và xuất hiện thƣờng xuyên. Tuy nhiên nếu sử dụng không hợp lí, lạm dụng vốn từ này sẽ làm giảm hiệu quả trong giao tiếp của văn bản. Đối với các đặc điểm này, ở đây, chúng tôi không đi sâu phân tích mà chỉ dừng lại ở việc giới thiệu để làm cơ sở cho các chƣơng sau. Trong phạm vi luận văn này, chúng tôi nghiên cứu, xem xét các vấn đề của văn bản thuộc phong 27
  • 29. cách hành chính – công vụ để có cái nhìn cụ thể hơn đối với các văn bản dùng để phục vụ công tác quản lí điều hành. 1.2.3 Phân loại văn bản thuộc phong cách hành chính – công vụ Cũng giống nhƣ việc phân loại văn bản nói chung, các văn bản hành chính – công vụ cũng dựa trên các tiêu chí tƣơng tự nhƣ: chức năng văn bản, cấu tạo, tên loại hay cơ quan ban hành, hoặc ngành, lĩnh vực... để phân loại văn bản. Dƣới đây, chúng tôi chọn giới thiệu ba cách phân loại của ba tác giả đã khá quen thuộc trong nghiên cứu phong cách chức năng ngôn ngữ. Theo Cù Đình Tú, phong cách hành chính tồn tại chủ yếu dƣới dạng các văn bản viết. Chức năng của phong cách này là thông báo. Nó thông báo bằng các loại giấy tờ, văn kiện nghiêm chỉnh. Phong cách hành chính theo ông gồm có các loại văn bản sau: - Hiến pháp, luật, điều lệ, nội quy... - Nghị quyết, thông cáo, sắc lệnh, nghị định, nghị quyết, thông tƣ, chỉ thị, lệnh... - Bằng khen, văn bằng, giấy chứng nhận các loại... - Đơn từ các loại... - Hợp đồng, hoá đơn, biên nhận... Đinh Trọng Lạc trong các cuốn sách về phong cách học của mình thì có quan điểm phân loại khác. Ông dựa vào nội dung sự vật – logic để phân loại và thu đƣợc các kiểu văn bản và sau đó căn cứ trên đặc điểm kết cấu, tu từ để phân chia ra đƣợc các kiểu loại văn bản cụ thể hơn: a. Dựa vào nội dung ý nghĩa sự vật – logic, có thể chia văn bản hành chính ra các kiểu nhƣ: văn thƣ, luật pháp, ngoại giao, quân sự, kinh tế, thƣơng mại. b. Dựa vào những đặc điểm về kết cấu, về tu từ, có thể chia văn bản hành chính ra các thể loại nhƣ: - Hiến pháp, sắc lệnh, điều lệ, nghị định, thông tƣ, quy chế, thông báo... trong kiểu văn bản pháp quyền; - Mệnh lệnh, báo cáo, điều lệnh, hƣớng dẫn... trong kiểu văn bản quân sự; 28
  • 30. - Công điện, giác thƣ, công hàm, hiệp định, hiệp nghị, hiệp ƣớc, điều ƣớc, nghị định thƣ, chứng thƣ nhà nƣớc... trong kiểu văn bản ngoại giao; - Thông báo, thông tri, chỉ thị, nghị quyết, quyết định; đơn từ, báo cáo, biên bản, phúc trình; giấy khen, văn bằng, giấy chứng nhận các loại; hợp đồng, hoá đơn, giấy biên nhận, giấy giới thiệu, giấy nghỉ phép... trong kiếu văn bản văn thƣ. Còn với Hữu Đạt, trong "Phong cách học tiếng Việt" lại có quan niệm phân loại khác so với các tác giả trên. Ông cho rằng, các văn bản thuộc phong cách hành chính – công vụ tồn tại dƣới nhiều hình thức khác nhau. Dựa vào những đặc điểm của phong cách hành chính – công vụ, Hữu Đạt đã nêu ra hai cách phân loại sau: 1. Phân chia theo khu vực quản lí hành chính và ngành nghề có các dạng văn bản sau: a. Văn bản hành chính b. Văn bản ngoại giao c. Văn bản luật pháp – chính trị d. Văn bản dùng trong quốc phòng e. Văn bản dùng trong thƣơng mại – kinh tế 2. Phân chia dựa trên tính chất và cấu trúc của văn bản a. Nhóm 1. Các văn bản có cấu trúc đơn giản gồm: a1. Giấy gọi, giấy báo, công văn, giấy mời, văn bằng; a2. Đơn từ (đơn đề nghị, đơn trình bày, đơn xin); a3. Điện báo, điện tín, công điện, điện mừng; a4. Quốc thƣ, giác thƣ, công hàm. b. Nhóm 2. Các văn bản có cấu trúc tƣơng đối phức tạp nhƣ: sắc lệnh, thông đạt, chỉ thị, chỉ định, quyết định, nghị định, thông tƣ, điều lệnh, quân lệnh. c. Nhóm 3. Các văn bản có cấu trúc phức tạp c1. Pháp lệnh, điều luật, hiến pháp, điều lệ, quy chế... c2. Hiệp ƣớc, hiệp định, thoả ƣớc, bị vong lục, tuyên bố chung... Tuy vậy, cách phân loại văn bản này có một số vấn đề chƣa đƣợc làm rõ nhƣ: thế nào là cấu trúc đơn giản, tƣơng đối phức tạp, phức tạp. Tác giả cũng 29
  • 31. không đề cập tới cơ sở hay tiêu chí nào để xác định cái cấu trúc đơn giản và phức tạp đó. Ngoài những cách phân loại trên, ngƣời ta còn có thể có nhiều cách khác để phân loại văn bản trên cơ sở xuất phát từ quan niệm nào, góc độ nào để nghiên cứu, nhìn nhận vấn đề, song đây là ba cách phân loại phổ biến và đƣợc nhiều ngƣời chấp nhận. Song song với hƣớng nghiên cứu văn bản theo phong cách chức năng, còn có hƣớng nghiên cứu khác xét trên góc độ văn bản có tham gia hay không vào quá trình, hoạt động quản lí. Đó là hƣớng tiếp cận theo kĩ thuật tạo lập văn bản và sự hoạt động, vai trò của văn bản trong đời sống xã hội. Cách tiếp cận này coi ngôn ngữ là một phƣơng tiện để thể hiện các thông tin cần truyền đạt. Họ tiếp thu kết quả nghiên cứu của ngôn ngữ học để sử dụng trong quá trình xây dựng một văn bản. Do vậy, chúng tôi tiếp tục đề cập tới hƣớng nghiên cứu này dƣới góc độ ngôn ngữ để làm rõ những điểm giống và khác nhau, những chỗ hợp lí của họ nhằm mục đích xác định vị trí cho đối tƣơng nghiên cứu của luận văn. 1.3 Văn bản quản lí nhà nƣớc Khác với hƣớng nghiên cứu của các nhà ngôn ngữ, những ngƣời nghiên cứu về hành chính học xuất phát từ hệ thống văn bản, tính thông tin trong văn bản, kĩ thuật xây dựng và ban hành văn bản để nghiên cứu, soạn thảo và áp dụng chúng vào thực tiễn của quản lí, đời sống xã hội. Dựa vào quan điểm về chức năng, thông tin, vai trò của văn bản (điều hành, tổ chức, điều chỉnh... hoạt động, hành vi của đối tƣợng điều chỉnh) các nhà hành chính học đã chia thành hai loại văn bản: văn bản quản lí và văn bản không quản lí. Về khái niệm văn bản quản lí có nhiều cách diễn đạt khác nhau nhƣng về nội dung thì không có sự khác biệt lớn nào cả. Nguyễn Văn Thâm trong cuốn ―Soạn thảo và xử lí văn bản quản lí nhà nƣớc‖ đã đƣa ra quan niệm về văn bản quản lí: Các văn bản hình thành trong hoạtđộng quản lí và lãnh đạochung (sau đây gọi tắt là văn bản quản lí) là phương tiện quan trọng để ghi lại và truyền đạt các quyết định quản lí hoặc các thông tin cần thiết hình thành trong quá trình quản lí của các cơ quan. 30
  • 32. Văn bản quản lí là phương tiện quan trọng dùng để ghi lại và truyền đạt các thông tin, hoặc các quyết định quản lí cần thiết trong quá trình quản lí của các cơ quan, tổ chức. [16, 10] Nhƣ vậy, các văn bản quản lí có mặt ở tất cả mọi nơi, mọi lĩnh vực với mục đích quản lí xã hội. Tiếp tục đi sâu hơn vào loại văn bản này, dựa vào chức năng, cấu tạo... của văn bản, chúng ta sẽ có những văn bản quản lí nhà nƣớc và những văn bản không tham gia vào quá trình quản lí nhà nƣớc. Với quan niệm này, các văn bản quản lí sẽ sử dụng nhiều phong cách ngôn ngữ khác nhau nhƣ: ngôn ngữ khoa học, ngôn ngữ chính luận... để thể hiện chính xác nhất nội dung mà văn bản cần truyền đạt. 1.3.1 Khái niệm văn bản quảnlínhà nước Xuất phát từ khái niệm và quan niệm về văn bản quản lí, ở phần này, luận văn tiếp tục tìm hiểu xoay quanh các vấn đề về văn bản quản lí nhà nƣớc. "Giáo trình Kĩ thuật xây dựng và ban hành văn bản" và một số cuốn giáo trình khác của Học viện Hành chính Quốc gia khi đề cập tới khái niệm văn bản quản lí đều thống nhất: "văn bản quản lí nhà nƣớc là những quyết định và thông tin quản lí thành văn (được văn bản hoá) do các cơ quan quản lí nhà nước ban hành theo thẩm quyền, trình tự, thủ tục, hình thức nhất định và được Nhà nước đảm bảo thi hành bằng những biện pháp khác nhau nhằm điều chỉnh các mối quan hệ quản lí nội bộ nhà nước hoặc giữa các cơ quan nhà nước với các tổ chức công dân." [15, 8] Trong ―Giáo trình kĩ thuật xây dựng ban hành văn bản‖ của Trƣờng Đại học Luật Hà Nội: VBQLNN là văn bản do các chủ thể QLNN ban hành theo hình thức và thủ tục pháp luật quy định để thể hiện nhằm áp đặt ý chí của nhà nước, truyền đạt thông tin hay ghi nhận các sự kiện cần thiết phục vụ cho hoạt động quản lí của bộ máy nhà nước.[29, 12] Các quan điểm trên đều xuất phát từ tính thông tin, tính pháp lí, quản lí mà văn bản cung cấp để làm việc. Từ đây, để tiện cho việc nghiên cứu, khảo sát của luận văn chúng tôi sẽ thống nhất đi theo cách gọi văn bản quản lí nhà nƣớc (VBQLNN) và sử dụng cách phân loại của hệ thống văn bản này. Nhƣ vậy, ở 31
  • 33. một phƣơng diện nhất định, có thể nói, các văn bản quản lí nhà nƣớc trùng với các văn bản thuộc phong cách hành chính – công vụ theo hƣớng nghiên cứu của các nhà nghiên cứu ngôn ngữ, nhƣng giữa hai cách phân loại này không hoàn toàn trùng nhau. Cách phân loại của phong cách học, phong cách chức năng ngôn ngữ thƣờng mang tính chất hành chính – công vụ một cách thuần tuý. Trong các hƣớng phân loại văn bản thuộc phong cách hành chính – công vụ đã nêu trên có đƣa các văn bản nhƣ: hiến pháp, luật, nghị định, thông tƣ..., các văn bản chuyên ngành, chuyên môn nhƣ: công ƣớc, nghị định thƣ, hoá đơn, chứng từ... vào hệ thống văn bản. Mặc dù, các văn bản loại này đều tham gia vào quá trình điều hành, quản lí nhƣng nó không phải là văn bản hành chính – công vụ thông thƣờng và chúng có những đặc thù riêng. Tuy vậy, trong những nghiên cứu của ngôn ngữ học vẫn sử dụng thuật ngữ "hành chính – công vụ" để chỉ chung cho tất cả các văn bản tham gia vào hoạt động điều hành, quản lí nhà nƣớc. 1.3.2 Phân loại văn bản quản línhà nước 1.3.3.1Cáctiêu chí phân loại văn bản Có nhiều tiêu chí để phân loại văn bản, ngƣời phân loại văn bản đứng từ góc độ nào, đƣa ra tiêu chí nào thì sẽ thu đƣợc các văn bản theo cách phân loại của họ. Vì thế mà các tiêu chí phân loại rất đa dạng: a. Phân loại theo tác giả (hay cơ quan ban hành hay chủ thể ban hành văn bản): văn bản của Chính phủ, văn bản của Quốc hội, văn bản của Bộ Giáo dục và Đào tạo...; b. Phân loại theo tên loại: Nghị quyết, Nghị định, Quyết định, Chỉ thị, Thông tƣ...; c. Phân loại theo nội dung: văn bản đƣợc phân loại theo từng vấn đề đƣợc đƣa ra trong trích yếu của văn bản: văn bản về quản lí cán bộ, văn bản về cải cách hành chính...; d. Phân loại theo mục đích biên soạn: e. Phân loại theo địa điểm ban hành: văn bản đƣợc ban hành tại Hà Nội, văn bản đƣợc ban hành tại Thành phố Hồ Chí Minh...; 32
  • 34. g. Phân loại theo thời gian ban hành: văn bản ban hành năm 2000, văn bản ban hành năm 2005, văn bản ban hành năm 2006...; h. Phân loại theo kĩ thuật chế tác, ngôn ngữ thể hiện: văn bản bằng tiếng Việt, văn bản bằng tiếng Anh, văn bản bằng tiếng Trung Quốc...; i. Phân loại theo hƣớng chu chuyển của văn bản: k. Phân loại theo hiệu lực pháp lí 1.3.3.2Phânloại văn bản quản lí nhà nước Dựa vào các tiêu chí phân loại nêu ra ở trên, ngƣời ta có thể có nhiều hƣớng phân loại khác nhau. Có ngƣời chỉ sử dụng một tiêu chí để phân loại. Có ngƣời lại đồng thời sử dụng hai tiêu chí hoặc ba tiêu chí để phân loại. Điều 4 Nghị định 110/2004/NĐ-CP của Chính phủ về công tác văn thƣ có các hình thức văn bản tồn tại sau: văn bản quy phạm pháp luật; văn bản hành chính thông thƣờng; văn bản chuyên môn; văn bản tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội. Tuy nhiên, theo chúng tôi, việc đƣa các văn bản của các tổ chức chính trị, chính trị – xã hội vào loại văn bản quản lí nhà nƣớc nhƣ vậy thì chƣa thật xác đáng. Tuy các tổ chức chính trị, chính trị – xã hội đều hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, nhƣng tính chất, mục đích khác nhau. Các tổ chức này có chức năng tham gia hoạt động quản lí nhà nƣớc thì các văn bản đƣợc hình thành trong quá trình quản lí mới đƣợc coi là một văn bản quản lí nhà nƣớc. Trong ―Soạn thảo và xử lí văn bản quản lí nhà nƣớc‖ của Nguyễn Văn Thâm, văn bản quản lí nhà nƣớc bao gồm 4 loại: văn bản quy phạm pháp luật; văn bản hành chính thông thƣờng; văn bản chuyên môn; văn bản kĩ thuật. Trong ―Giáo trình Kĩ thuật xây dựng và ban hành văn bản‖ của Học viện Hành chính Quốc gia, việc phân loại văn bản lại có sự khác biệt nhỏ. Các tác giả của giáo trình cũng thống nhất chia ra làm bốn loại văn bản lớn: văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hành chính thông thƣờng, văn bản cá biệt, và văn bản chuyên môn – kĩ thuật. Trong giáo trình đó, các tác giả thống nhất dùng khái niệm văn bản chuyên môn – kĩ thuật chung cho các văn bản chuyên môn và kĩ thuật của hai cách phân loại trên, đồng thời, tách văn bản cá biệt làm một loại riêng biệt đối lập với các loại khác. 33
  • 35. Phân loại theo ―Giáo trình kĩ thuật xây dựng ban hành văn bản‖ của Trƣờng Đại học Luật Hà Nội, VBQLNN đƣợc chia thành hai nhóm dựa vào khả năng đƣợc bảo đảm thực hiện, đó là nhóm văn bản đƣợc bảo đảm thực hiện bằng cƣỡng chế của nhà nƣớc (văn bản pháp luật) và nhóm văn bản không đƣợc bảo đảm bằng cƣỡng chế của nhà nƣớc (văn bản hành chính thông dụng). a. Văn bản pháp luật : Văn bản pháp luật đƣợc chia thành 2 nhóm dựa vào mục đích sử dụng của văn bản: văn bản quy phạm pháp luật (dùng để đặt ra QPPLđiều chỉnh các quan hệ xã hội phổ biến), văn bản áp dụng phápluật (dùng để cụ thể hoá QPPL, điều chỉnh các quan hệ xã hội cụ thể). b. Văn bản hành chính thông dụng: Dựa vào mục đíchsử dụng có thể chia văn bản hành chính thông dụng thành hai nhóm: văn bản dùng để thông tin giao dịch và văn bản dùng để ghi nhận một sự kiện thực tế. Dựa vào các tiêu chí trên, thông thƣờng, văn bản quản lí nhà nƣớc đƣợc chia ra thành 4 loại sau: văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hành chính thông thƣờng, văn bản cá biệt và văn bản chuyên môn – kĩ thuật. Cách phân loại văn bản này đã bao quát đƣợc tất cả các văn bản trong hệ thống văn bản quản lí nhà nƣớc. Chúng cũng bảo đảm về chức năng, tính thông tin, cấu tạo, mô hình của các văn bản một cách đầy đủ nhất. 1.3.3 Đặcđiểm của văn bản quảnlínhà nước VBQLNN cũng có những đặc điểm về tính thông tin, phi cá tính, cô đọng, súc tích, trang trọng, quốc tế nhƣ văn bản thuộc phong cách hành chính – công vụ nói chung. Tuy nhiên, VBQLNN có hai đặc điểm quan trọng cần phải nhắc đến đó là tính pháp lí và tính quản lí của văn bản. 1.3.3.1Tính pháplí VBQLNN đƣợc dùng để ghi lại, truyền đạt các quy phạm pháp luật, quyết định quản lí. Đó là căn cứ pháp lí để giải quyết các công việc trong hoạt động quản lí. Tính pháp lí của văn bản đƣợc thể hiện ở sự vận dụng từng loại văn bản, các quy phạm pháp luật vào thực tế để quản lí nhà nƣớc, quản lí xã hội. Văn bản có tác dụng quan trọng trong việc xác lập mối quan hệ giữa các cơ quan, tổ chức thuộc bộ máy nhà nƣớc, giữa hệ thống quản lý và bị quản lý, trong việc tạo nên 34
  • 36. mối ràng buộc trách nhiệm giữa các chủ thể tạo lập và đối tƣợng tiếp nhận văn bản. Do đó, văn bản, kể cả những loại không mang tính quy phạm cũng có thể đƣợc sử dụng làm cơ sở để khẳng định tính xác thực của các sự kiện, xác nhận độ tin cậy của thông tin, là căn cứ để thực hiện các hoạt động pháp lý nhƣ điều tra, xét xử, tố tụng, đảm bảo cho kết quả xét xử là đúng ngƣời, đúng việc. Quan trọng hơn nữa, văn bản là phƣơng tiện hữu hiệu nhất có thể đáp ứng đủ các điều kiện cho việc ban hành và thực thi các quy phạm pháp luật trong đời sống xã hội. Các quy tắc đƣợc luật hóa thông qua hình thức chính thức là văn bản, trở thành các quy phạm pháp luật. Các quy phạm pháp luật cũng chỉ thực sự đƣợc tiếp nhận, áp dụng một cách rộng rãi và triệt để khi đƣợc thể hiện bằng hính thức đáng tin cậy là văn bản. Thông qua văn bản, các quy phạn pháp luật đƣợc áp dụng đối với phạm vi đối tƣợng điều chỉnh rộng lớn, vƣợt qua rào cản không gian và thời gian. Nói cách khác, văn bản chứa đựng quy phạm chính là các căn cứ pháp lý để thực thi pháp luật, giải quyết các nhiệm vụ cụ thể trong quản lý nhà nƣớc. Tính pháp lý còn đƣợc thể hiện tùy thuộc ở từng loại văn bản cụ thể, nội dung và tính chất pháp lý cụ thể. Để đảm bảo tính pháp lý, văn bản quản lý nhà nƣớc rất cần phải đƣợc xây dựng theo khuôn mẫu, hình thức pháp lý chuẩn mực, cần sử dụng ngôn ngữ phù hợp để không bị hiểu nhầm, sai lệch thông tin, dẫn đến sai lầm trong giải quyết các nhiệm vụ quản lý nhà nƣớc. 1.3.3.2Tính quảnlí Văn bản hình thành trong hoạt động quản lí của các cơ quan, tổ chức, đơn vị. Nó là công cụ để điều hành các hoạt động, công việc của các cơ quan, tổ chức đó. Vì vậy, các văn bản cũng phải đảm bảo tính quản lí. Trong hoạt động quản lí, có thể coi văn bản vừa là công cụ, vừa là sản phẩm của hoạt động này. Văn bản là phƣơng tiện rất thích hợp, và có thể coi là phƣơng tiện chủ yếu của hoạt động quản lí, đảm bảo cho hoạt động này diễn ra thuận lợi. Văn bản tham gia vào hầu hết các khâu của quy trình quản lý, từ việc đảm bảo thông tin cung cấp cho các quyết định quản lí, truyền tải chính các quyết định quản lí cho rồi lại 35
  • 37. trở thành các căn cứ pháp lí cho các hoạt động thực thi quyết định và việc thanh tra, kiểm tra sau này. Thông tin phục vụ cho quyết định quản lí phải là thông tin ở cấp độ đã qua xử lí, thông tin mang tính chính thức, đầy đủ, tổng hợp, và có độ tin cậy cao. Thông tin ở đây bao gồm cả thông tin sự việc và thông tin quan niệm. Do vậy, không thể dựa vào căn cứ vu vơ, thiếu thuyết phục để ban hành quyết định mà phải dựa trên căn cứ, thông tin cho quản lí đã đƣợc chính thức hóa bằng văn bản. Đồng thời, văn bản cũng giúp cho các quyết định quản lí đƣợc triển khai thực hiện đƣợc chính xác, đầy đủ, rõ ràng với phạm vi đối tƣợng rộng và trong khoảng thời gian dài. 1.3.4 Sơđồ phân loại văn bản quảnlínhà nước Mối quan hệ giữa các văn bản quản lí nhà nƣớc có thể đƣợc mô hình hoá theo sơ đồ sau: VĂN BẢN QUẢN LÍ NHÀ NƢỚC VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT VĂN BẢN CÁ BIỆT VĂN BẢN HÀNH CHÍNH THÔNG THƢỜNG VĂN BẢN CHUYÊN MÔN 1.4 Văn bản quy phạm pháp luật Theo sự phân loại trên, VBQPPL là một bộ phận trong hệ thống văn bản quản lí nhà nƣớc nói chung. Chúng có vị trí, vai trò quan trọng nhất so với các loại văn bản khác trong hệ thống văn bản này. 1.4.1 Khái niệm văn bản quyphạm pháp luật Khái niệm VBQPPL đã đƣợc quy định trong Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật nên nó đƣợc công nhận và sử dụng rộng rãi. Khái niệm trong các giáo trình, sách chuyên khảo đều căn cứ trên định nghĩa trong Luật này. Điều 1 chƣơng I Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật: “Văn bản quy phạm phápluật là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo thủ tục, trình tự luật định, trong đó có các quy tắc xử sự chung được Nhà 36
  • 38. nước bảo đảm thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do chủ thể có thẩm quyền ban hành theo thủ tục, hình thức pháp luật quy định, có chứa đựng các quy phạm pháp luật.[29, 20] Trong cuốn giáo trình Kĩ thuật xây dựng và ban hành văn bản (Học viện Hành chính Quốc gia): VBQPPL đƣợc định nghĩa là những ―Văn bản do cơ quan nhà nướccó thẩm quyền ban hành theothủ tục, trình tự luật định, trong đó có các quy tắc xử sự chung nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa‖ [15, 24] Các định nghĩa về VBQPPL ở trên đều dựa vào thẩm quyền, thực tiễn, kĩ thuật xây dựng văn bản để đƣa ra. Tuy nhiên, khái niệm này có thể hiểu đơn giản và ngắn gọn hơn: VBQPPL là văn bản chứa đựng các quy tắc xử sự chung nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội. 1.4.2 Cáccách phân loại văn bản quyphạm pháp luật Các tiêu chí để phân loại VBQPPL ít nhiều cũng sử dụng các tiêu chí để phân loại văn bản quản lí nhà nƣớc. Cũng có thể nêu ra đây một số tiêu chí để phân loại: 1. Tác giả (cơ quan ban hành): Quốc hội, Chính phủ, Thủ tƣớng... 2. Tên loại văn bản: nghị quyết, nghị định, quyết định... 3. Thời gian ban hành: năm 2000, năm 2003... 4. Địa điểm ban hành: Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh... 5. Nội dung, chủ đề: văn bản thuế, cải cách hành chính... 6. Hiệu lực pháp lí: văn bản luật, văn bản dƣới luật... a. Theo Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996 (đã đƣợc sửa đổi, bổ sung 2002), hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hiện nay của nƣớc ta bao gồm: - Văn bản do Quốc hội ban hành: Hiến pháp, luật, nghị quyết; - Văn bản do Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội ban hành: Pháp lệnh, nghị quyết; - Văn bản do các cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền khác ở trung ƣơng ban hành: 37
  • 39. + Lệnh, quyết định của Chủ tịch nƣớc; + Nghị quyết, nghị định của Chính phủ; Quyết định, chỉ thị của Thủ tƣớng Chính phủ; + Quyết định, chỉ thị, thông tƣ của Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang bộ; + Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao; Quyết định, chỉ thị, thông tƣ của Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trƣởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; + Nghị quyết, thông tƣ liên tịch giữa các cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền, giữa các cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền với tổ chức chính trị - xã hội; - Văn bản do Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân ban hành: + Nghị quyết của Hội đồng nhân dân; + Quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân. Trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật nêu trên thì văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao không thuộc hệ thống văn bản quản lí hành chính nhà nƣớc. Ngay cả khái niệm văn bản quản lí hành chính nhà nƣớc cũng không thực sự hợp lí. b. Theo hiệu lực pháp lí, loại hình văn bản: Trong cuốn ―Xây dựng ban hành văn bản quy phạm pháp luật", Lƣu Kiếm Thanh giới thiệu cách phân loại VBQPPL theo mô hình của Pháp: I. Văn bản luật 1. Hiến pháp 2. Luật, bộ luật 3. Điều ƣớc quốc tế II. Văn bản dƣới luật A. Văn bản dƣới luật mang tính chất luật 1. Nghị quyết của Quốc hội 2. Pháp lệnh 3. Nghị quyết của Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội 4. Lệnh của Chủ tịch nƣớc 5. Quyết định của Chủ tịch nƣớc B. Văn bản dƣới luật lập quy 38
  • 40. 6. Nghị quyết của Chính phủ, Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Hội đồng nhân dân các cấp 7. Nghị định của Chính phủ 8. Quyết định của Thủ tƣởng, thủ trƣởng cấp bộ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trƣởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, UBND các cấp 9. Chỉ thị của Thủ tƣởng, thủ trƣởng cấp bộ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trƣởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, UBND các cấp 10. Thông tƣ (cấp bộ, liên tịch) 11. Các văn bản phụ ban hành kèm theo Dựa vào phạm vi sử dụng, thẩm quyền ban hành, đối tƣợng của văn bản, và mục đích của cuốn sách, tác giả đã không đề cập tới Điều ƣớc quốc tế. Cách phân loại văn bản trong cuốn sách đó không có gì thay đổi. Trong "Soạn thảo và xử lí văn bản quản lí nhà nƣớc", Nguyễn Văn Thâm dựa vào thẩm quyền, cơ quan ban hành để phân loại: văn bản do Quốc hội ban hành; văn bản do các cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền khác ở Trung ƣơng ban hành; văn bản do Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân ban hành. Riêng các văn bản đi kèm với VBQPPL, tác giả cuốn sách này đã không tách riêng các kiểu loại văn bản và gọi chung là văn bản chuyển đổi (hoặc văn bản đi kèm). Ví dụ: điều lệ, quy chế, nội quy, quy trình, quy định, chƣơng trình, đề án... c. Từ góc độ của những nhà làm luật và nhà nghiên cứu luật, các tác giả cuốn ―Giáo trình kĩ thuật xây dựng ban hành văn bản‖ của Trƣờng Đại học Luật Hà Nội đã phân loại VBQPPL theo quan niệm riêng: VBQPPL là văn bản do chủ thể có thẩm quyền ban hành theo thủ tục, hình thức pháp luật quy định, có chứa đựng các QPPL. [29, 20] Nhóm văn bản VBQPPL tạo nên hệ thống pháp luật, vì vậy trong các sách báo pháp lí thƣờng đồng nghĩa hai khái niệm văn bản pháp luật và văn bản quy phạm pháp luật mà không thấy rằng VBQPPL chỉ là một nhóm của văn bản pháp luật. VBQPPL có nội dung là các quy phạm pháp luật nên đối tƣợng tác động của văn bản là một nhóm chủ thể lớn có chung một hoặc một số yếu tố nào đó, nhƣ quốc tịch, địa bàn cƣ trú, nghề nghiệp, thành phần xã hội... Quy phạm đƣa ra tình huống dự kiến, khi đối tƣợng tác động của quy phạm rơi vào tình 39
  • 41. huống đó phải xử sự theo cáchthức quy phạm định ra. Tình huống đó có tính lặp lại trên thực tế cho nên các quy phạm sẽ đƣợc sử dụng nhiều lần. Nói cách khác, văn bản quy phạm đƣợc sử dụng nhiều lần trên thực tế. [29,21] Nhìn chung, các cơ quan đều sử dụng nhiều cách phân loại khác nhau (theo tên loại văn bản, thời gian, cơ quan ban hành...) để thuận tiện cho việc xây dựng, sử dụng, cũng nhƣ việc lƣu trữ và tìm kiếm văn bản. Những loại văn bản này sẽ có những hình thức chung, có những điểm giống và khác nhau trong cấu trúc, sử dụng ngôn ngữ. Ở chƣơng sau chúng tôi sẽ phân tích, mô tả rõ hơn. 1.4.3 Sơđồ phân loại văn bản quyphạm pháp luật Dựa vào cách phân loại và tiêu chí phân loại văn bản đã nêu ở phần trên, các văn bản thuộc hệ thống văn bản quy phạm pháp luật có thể đƣợc khái quát thành sơ đồ và đƣợc khá nhiều ngƣời chấp nhận sử dụng: VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT VĂN BẢN LUẬT HIẾN PHÁP LUẬT, BỘ LUẬT VĂN BẢN DƢỚI LUẬT MANG TÍNH CHẤT LUẬT NGHỊ QUYẾT QUỐC HỘI PHÁP LỆNH NGHỊ QUYẾT UBTVQH LỆNH CTN QUYẾT ĐỊNH CTN VĂN BẢN DƢỚI LUẬT LẬP QUY NGHỊ QUYẾT NGHỊ ĐỊNH QUYẾT ĐỊNH CHỈ THỊ THÔNG TƢ VB LIÊN TỊCH VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT PHỤ 40