Nhận viết luận văn đại học, thạc sĩ trọn gói, chất lượng, LH ZALO=>0909232620
Tham khảo dịch vụ, bảng giá tại: https://vietbaitotnghiep.com/dich-vu-viet-thue-luan-van
Download luận văn thạc sĩ ngành quản lí công với đề tài: Quản lý Nhà nước về việc làm của thanh niên ở nông thôn - Từ thực tiễn huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương, cho các bạn tham khảo
Đề tài: Việc làm của thanh niên ở nông thôn tỉnh Hải Dương, HAY
1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
---/---
BỘ NỘI VỤ
---/---
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
PHẠM VĂN TÍNH
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ VIỆC LÀM CỦA
THANH NIÊN Ở NÔNG THÔN - TỪ THỰC TIỄN
HUYỆN THANH MIỆN, TỈNH HẢI DƯƠNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
HÀ NỘI – 2017
2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
---/---
BỘ NỘI VỤ
---/---
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
PHẠM VĂN TÍNH
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ VIỆC LÀM CỦA
THANH NIÊN Ở NÔNG THÔN - TỪ THỰC TIỄN
HUYỆN THANH MIỆN, TỈNH HẢI DƯƠNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
Chuyên ngành: Quản lý công
Mã số: 60 34 04 03
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. Đặng Khắc Ánh
HÀ NỘI - 2017
3. LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi và
được sự hướng dẫn của PGS.TS Đặng Khắc Ánh. Các số liệu, kết quả nêu
trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ
theo quy định.
4. Danh mục các từ viết tắt
Từ viết tắt Nghĩa đầy đủ
CNH, HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
ĐVTN Đoàn viên thanh niên
HĐND Hội đồng Nhân dân
KN, TC Khiếu nại, tố cáo
LĐTBXH Lao động, Thương binh và Xã hội
NLĐ Người lao động
NSDLĐ Người sử dụng lao động
PBGDPL Phổ biến, giáo dục pháp luật
QHLĐ Quan hệ lao động
QLLĐ Quản lý lao động
QLNN Quản lý Nhà nước
UBND Ủy ban Nhân dân
XKLĐ Xuất khẩu lao động
5. LỜI CẢM ƠN
Sau 02 năm học tập, em đã hoàn thành chương trình đào tạo lớp cao học
chuyên ngành quản lý công và được Trường Học viện Hành chính Quốc gia
tin tưởng giao đề tài “Quản lý Nhà nước về việc làm của thanh niên ở nông
thôn - Từ thực tiễn huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương” làm luận văn tốt
nghiệp. Trong quá trình học tập, nghiên cứu viết luận văn, trước hết, xin gửi
lời cảm ơn đến Quý thầy giáo, cô giáo của Trường Học viện Hành chính
Quốc gia đã truyền đạt kiến thức, kỹ năng, phương pháp luận của ngành khoa
học quản lý công để tôi có kiến thức nền tảng thực hiện Luận văn này.
Đặc biệt, xin được bày tỏ lòng biết ơn chân thành nhất tới PGS.TS Đặng
Khắc Ánh là người đã tận tình hướng dẫn trên cơ sở tinh thần khoa học
nghiêm túc trong suốt quá trình làm luận văn.
Xin được cảm ơn UBND, các ban, ngành huyện Thanh Miện, tỉnh Hải
Dương đã tạo điều kiện cung cấp cho tôi những thông tin, số liệu cần thiết để
hoàn thành được Chương 2 của Luận văn này.
Cuối cùng, xin cảm ơn bạn bè, đồng nghiệp và gia đình đã tạo điều kiện,
chia sẻ, động viên tôi trong quá trình thực hiện Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 22 tháng 9 năm 2017
HỌC VIÊN
Phạm Văn Tính
6. MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN.................................................................................................. 5
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1. LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ VIỆC LÀM CỦA
THANH NIÊN TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN.........................................................................11
1.1. Khái quát chung về việc làm của thanh niên ở nông thôn trên địa bàn huyện.....11
1.1.1.Một số khái niệm liên quan:..............................................................................11
1.1.2.Đặc điểm và vai trò của việc làm đối với thanh niên ở nông thôn...................17
1.2. QLNN về việc làm của thanh niên ở nông thôn trên địa bàn huyện......................20
1.2.1.Khái niệm QLNN về việc làm của thanh niên ở nông thôn trên địa bàn
huyện…………… ...............................................................................................................20
1.2.2.Vai trò QLNN về việc làm của thanh niên ở nông thôn trên địa bàn huyện...21
1.2.3.Nội dung QLNN về việc làm của thanh niên ở nông thôn trên địa bàn
huyện………………………………………………………………………………………23
1.2.3.1. Ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về việc
làm:……………………………...............................................................................................24
1.2.3.2. Tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật về việc làm: ...............26
1.2.3.3. Quản lý lao động, thông tin thị trường lao động: ..............................28
1.2.3.4. Kiểm tra, thanh tra, giải quyết KN, TC và xử lý vi phạm pháp luật về
việc làm……………………....................................................................................................32
1.3. Kinh nghiệm QLNN về việc làm của thanh niên ở nông thôn ở một số địa
phương................................................................................................................................36
1.3.1.Kinh nghiệm QLNN về việc làm của thanh niên ở nông thôn tại huyện Lập
Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc:......................................................................................................36
1.3.2.Kinh nghiệm quản lý việc làm của thanh niên ở nông thôn tại huyện Quỳnh
Lưu, tỉnh Nghệ An..............................................................................................................41
1.3.3.Kinh nghiệm QLNN về việc làm của thanh niên ở nông thôn tại huyện Phù
Mỹ, tỉnh Bình Định.............................................................................................................44
1.3.4.Một số bài học kinh nghiệm cho huyện Thanh Miện.......................................46
Tiểu kết chương 1 ..............................................................................................................48
Chương 2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ VIỆC LÀM CỦA THANH
NIÊN Ở NÔNG THÔN TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN THANH MIỆN, TỈNH HẢI DƯƠNG..
......................................................................................................................................49
2.1. Khái quát chung về huyện Thanh Miện ...................................................................49
7. 2.1.1.Điều kiện tự nhiên..............................................................................................49
2.1.2.Tình hình kinh tế - xã hội..................................................................................50
2.1.3.Tình hình việc làm của lao động nông thôn.....................................................55
2.2. Bộ máy quản lý nhà nước về việc làm của thanh niên ở nông thôn huyện Thanh
Miện, tỉnh Hải Dương........................................................................................................56
2.3. Kết quả thực hiện quản lý nhà nước về việc làm của thanh niên ở nông thôn
huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương................................................................................59
2.3.1.Ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về việc làm:.....59
2.3.2.Tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật về việc làm...............................62
2.3.3.Quản lý lao động, thông tin thị trường lao động..............................................64
2.3.4.Kiểm tra, thanh tra, giải quyết KN, TC và xử lý vi phạm pháp luật về việc làm .
.............................................................................................................................65
2.4. Nguyên nhân các hạn chế trong QLNN về việc làm của thanh niên ở nông
thôn ............................................................................................................................ 66
Tiểu kết chương 2 ................................................................................................................68
Chương 3. PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ
NHÀ NƯỚC VỀ VIỆC LÀM CỦA THANH NIÊN Ở NÔNG THÔN
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN THANH MIỆN, TỈNH HẢI DƯƠNG ........... 69
3.1. Dự báo phát triển kinh tế - xã hội huyện Thanh Miện............................................69
3.2. Phương hướng tăng cường QLNN về việc làm ........................................................75
3.3. Giải pháp tăng cường QLNN về việc làm của thanh niên ở nông thôn trên địa bàn
huyện Thanh Miện.............................................................................................................79
3.3.1.Tiếp tục hoàn thiện hệ thống thể chế về việc làm, việc làm của thanh niên ở
nông thôn ............................................................................................................................79
3.3.2.Tiếp tục nâng cao năng lực của cán bộ, công chức cấp huyện làm công tác
QLNN về việc làm, việc làm của thanh niên ở nông thôn ................................................82
3.3.3.Xây dựng cơ chế, biện pháp nhằm phát huy các nguồn lực xã hội hóa vào
thực hiện các chính sách liên quan đến việc làm của thanh niên ở nông thôn ..............86
Tiểu kết chương 3.......................................................................................... 89
KẾT LUẬN..........................................................................................................................90
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................................91
8. 1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việc làm là vấn đề kinh tế, xã hội được các quốc gia trên thế giới đặc
biệt coi trọng. Đối với Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, một trong những
nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là giải quyết việc làm, tạo ra nhiều việc làm và
việc làm có thu nhập cao cho người lao động (NLĐ). Đây không chỉ là một
nhiệm vụ về mặt kinh tế, mà còn mang ý nghĩa về mặt chính trị, xã hội rất lớn
và là bài toán cần có lời giải trọn vẹn với tất cả các quốc gia trên thế giới, đặc
biệt là những quốc gia đang phát triển như Việt Nam.
Quá trình phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam đang diễn ra trong
bối cảnh toàn cầu hóa, khu vực hóa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng,
đồng nghĩa đặt ra rất nhiều vấn đề mới, rất khác so với quan niệm, cách làm
trước đây trong nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, cho nên nhiều vấn đề
về mặt lý luận cần phải được làm sáng tỏ. Hiện nay, xu hướng chuyển dịch cơ
cấu kinh tế trong đó tăng dần tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ, giảm dần tỷ trọng
ngành nông nghiệp đã và đang đặt ra yêu cầu cần thiết phải có các định hướng
mang tính chiến lược tầm nhìn dài hạn, các giải pháp có tính khả thi về quản
lý Nhà nước (QLNN) nhằm giải quyết tốt việc làm cho lao động ở khu vực
nông thôn, đặc biệt là lực lượng lao động trẻ nằm trong độ tuổi thanh niên.
Theo “Báo cáo quốc gia về thanh niên Việt Nam” tháng 6 năm 2015 của Bộ
Nội vụ thì: Cơ cấu dân số thanh niên Việt Nam tính đến năm 2014 là:
25.078.764 người, chiếm 27,7% dân số cả nước (90.493.000 người); trong đó
thanh niên sinh sống ở khu vực nông thôn chiếm 17.797.550 người, với trình
độ học vấn, tay nghề được đào tạo ngày một nâng cao, đây là nguồn nhân lực
quan trọng tham gia vào công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH,
HĐH) thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội của từng địa phương, thế nhưng số
việc làm tạo ra cho lực lượng này lại chưa đảm bảo. Đánh giá một cách khách
9. 2
quan, những năm qua lao động là thanh niên ở nông thôn chủ yếu phải tự xác
định tìm kiếm việc làm theo nhu cầu và điều kiện năng lực bản thân, trong khi
cơ quan QLNN vẫn chưa có phương án chủ động tạo việc làm nói chung, việc
làm mới, việc làm có thu nhập cao nói riêng; đối với các doanh nghiệp thì
chưa coi thanh niên ở nông thôn là lực lượng lao động chủ chốt nên chưa
nhiệt tình và tin cậy để hỗ trợ tài chính cho các hoạt động sản xuất, kinh
doanh. Điều này dẫn đến thực trạng một bộ phận thanh niên ở nông thôn phải
đi tìm việc làm ở các đô thị lớn, một số tham gia sản xuất nông nghiệp truyền
thống, số còn lại không có khả năng tìm kiếm việc làm nên rơi vào cảnh thất
nghiệp; với số lao động bị thất nghiệp này là một trong những nhóm đối
tượng có nguy cơ tham gia tệ nạn xã hội chiếm tỉ lệ rất cao.
Nền kinh tế đất nước ngày càng phát triển, bài toán đặt ra là phải tạo ra
nhiều việc làm, tạo ra nhiều nguồn thu nhập tương xứng cho NLĐ bao gồm cả
lực lượng thanh niên ở nông thôn. Đây là một lĩnh vực QLNN rất quan trọng
có tác động, ảnh hưởng sâu rộng đến vấn đề quản lý ở cả tầm vi mô và vĩ mô,
đồng thời cũng là một yêu cầu thực tiễn cấp bách được đặt ra ở nhiều địa
phương, trong đó có tỉnh Hải Dương nói chung, huyện Thanh Miện nói riêng.
Trong lĩnh vực quản lý này, đòi hỏi cần phải có các nghiên cứu độc lập, hết
sức nghiêm túc, trên cơ sở hệ thống hóa về mặt lý luận, có đánh giá một cách
khoa học, luận giải về mặt thực tiễn quản lý để từ đó có các định hướng, đưa
ra các giải pháp cụ thể nhằm phát huy tối đa các nguồn lực sẵn có hoặc tiềm
năng thế mạnh của từng địa phương trong việc tạo việc làm cho lao động là
thanh niên ở nông thôn cũng như nâng cao hiệu quả hoạt động của thị trường
lao động. Tuy nhiên thực tế trong nhiều năm qua, không có một nghiên cứu
cụ thể nào về vấn đề QLNN về việc làm của lao động là thanh niên ở nông
thôn trên địa bàn huyện Thanh Miện.
Là người học chuyên ngành quản lý công, với nhiệm vụ chủ nhân tương
10. 3
lai của đất nước, tác giả lựa chọn đề tài “Quản lý Nhà nước về việc làm của
thanh niên ở nông thôn - Từ thực tiễn huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương”
làm luận văn thạc sĩ, nghiên cứu một cách hệ thống về mặt lý luận và thực
tiễn đối với nội dung này, đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm tăng cường hiệu
lực, hiệu quả hoạt động QLNN về việc làm của lao động nói chung, lao động
là thanh niên ở nông thôn nói riêng tại địa bàn cấp huyện.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài.
Liên quan đến nội dung lao động và việc làm, đã có tương đối nhiều
nghiên cứu đã đề cập và làm rõ ở nhiều góc độ tiếp cận đối tượng, phạm vi
khác nhau của các ngành khoa học như xã hội học, kinh tế học, chính sách
công, quản lý công… Cụ thể gồm một số nghiên cứu cơ bản sau đây:
Luận án tiến sĩ kinh tế của tác giả Trần Thị Minh Phương với tên đề tài
Giải pháp tạo việc làm cho lao động nông thôn thành phố Hà Nội trong bối
cảnh đô thị hoá [23] đã nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về việc làm cho
lao động nông thôn; phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến tạo việc làm cho lao
động nông thôn trong bối cảnh đô thị hoá; những chính sách, quy định hiện
nay đã được thực hiện như thế nào để có thể hỗ trợ tạo việc làm, hiệu quả của
các chính sách đề xuất các giải pháp tăng cường khả năng tạo việc làm cho
khu vực này.
Trong đề tài luận văn thạc sĩ kinh tế có tên Nghiên cứu giải pháp chủ yếu
nhằm tạo việc làm cho thanh niên nông thôn huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình
[15] của tác giả Bùi Đức Hoàng phân tích khá chi tiết các nguyên nhân thiếu
việc làm đối với lao động nông thôn nói chung, thanh niên nông thôn nói
riêng và nêu ra những cơ hội chuyển đổi việc làm và cách thức tạo việc
làm cho đối tượng trên.
Trong luận án tiến sĩ Chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn nhằm tạo
việc làm và sử dụng hợp lý nguồn lao động vùng đồng bằng sông Hồng [35],
11. 4
về kết quả nghiên cứu cơ cấu và thực trạng chuyển dịch cơ cấu lao động nông
thôn vùng đồng bằng sông Hồng thời kỳ 1989-1994 đã được tác giả Trần Thị
Tuyết đã trình bày một cách khá bài bản có hệ thống; cũng trong luận án này,
tác giả phân tích vai trò đặc biệt của đồng bằng sông Hồng trong chiến lược
phát triển kinh tế, xã hội của đất nước và chỉ ra mối quan hệ về kinh tế giữa
Trung du miền núi Bắc Bộ và đồng bằng sông Hồng.
Tác giả Nguyễn Vi Khải trong cuốn sách Dân số, lao động, việc làm.
Vấn đề - giải pháp [18] đã tiếp cận từ góc độ lý luận, thực tiễn đổi mới nhận
thức, quan điểm, định hướng chiến lược về dân số, lao động và việc làm. Đề
xuất một số kiến nghị, giải pháp cấp bách về lao động và việc làm qua kinh
nghiệm của một số nước trên thế giới.
Trong đề tài luận văn thạc sĩ quản lý hành chính công có tên QLNN về
giải quyết việc làm cho thanh niên nông thôn ở tỉnh Hải Dương [2] của tác giả
Phùng Ngọc Anh mới chỉ tập trung nghiên cứu các giải pháp giải quyết việc
làm, mà chưa nghiên cứu cụ thể 6 nội dung QLNN về việc làm theo Luật Việc
làm 2013 cho lao động là thanh niên nông thôn.
Các tác giả Nguyễn Hữu Dũng, Trần Hữu Trung trong cuốn sách Về
chính sách giải quyết việc làm ở Việt Nam [9] đã trình bày vị trí của chính
sách việc làm trong QLNN. Các khái niệm cơ bản về lao động, thị trường lao
động, việc làm. Thực trạng việc làm ở Việt Nam và đề xuất các giải pháp giải
quyết có tính khả thi sát với điều kiện thực tiễn ở Việt Nam đang xây dựng
nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa.
Tác giả Đinh Đăng Định, trong cuốn sách Một số vấn đề về lao động,
việc làm và đời sống NLĐ ở Việt Nam hiện nay [11] đã phân tích cơ cấu lao
động, khả năng giải quyết việc làm, đời sống NLĐ, thực trạng lao động và
việc làm ở Việt Nam. Đề xuất những phương hướng và giải pháp căn bản
mang tính định hướng về các chương trình phát triển công nghiệp, dịch vụ,
12. 5
khuyến khích xã hội hóa dịch vụ công nhằm nâng cao chất lượng nguồn lao
động và giải quyết việc làm ở Việt Nam.
Trong cuốn sách Tạo việc làm cho NLĐ bị ảnh hưởng trong quá trình đô
thị hoá Hà Nội [20], tác giả Vũ Thị Mai đã trình bày cơ sở lý luận một số
nhân tố kinh tế, xã hội gây áp lực mạnh đối với vấn đề việc làm trong quá
trình đô thị hóa; tác động, ảnh hưởng của vấn đề đô thị hóa và việc làm cho
NLĐ bị thu hồi đất và kinh nghiệm quốc tế về tạo việc làm cho NLĐ.
Trong đề tài luận án tiến sĩ kinh tế Việc làm cho lao động nông nghiệp
trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở Thủ đô Hà Nội [16] tác giả Nguyễn
Thị Huệ đã tập trung trình bày cơ sở lý luận về việc làm cho lao động nông
nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn mới. Luận án đã phân tích thực
trạng, đề xuất 05 giải pháp chung, 09 giải pháp cụ thể, tạo thành một hệ thống
giải pháp đồng bộ, logic, khoa học và có tính khả thi trong việc giải quyết
việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở
Thủ đô Hà Nội.
Hai tác giả Trần Đình Hoan, Lê Mạnh Khoa đã có những phân tích
tương đối đầy đủ vấn đề sử dụng nguồn nhân lực hiện nay ở Việt Nam: Dư
thừa lao động phổ thông, thiếu lao động kỹ thuật lành nghề; trong đó, chất
lượng lao động được đào tạo bài bản, có tác phong công nghiệp… đóng vai
trò quan trọng cho việc gọi vốn, thu hút công nghệ, khai thác tiềm năng thiên
nhiên để tạo việc làm cho NLĐ trong một cuốn sách có tựa đề Sử dụng nguồn
lao động và giải quyết việc làm ở Việt Nam [14].
Cuốn sách Tạo việc làm thông qua khôi phục và phát triển làng nghề
truyền thống [10] của hai tác giả Nguyễn Văn Đại, Trần Văn Luận tập trung
vào việc xây dựng khái niệm, xác định các đặc điểm việc làm trong các làng
nghề; tình hình việc làm trong các làng nghề truyền thống trước thời kỳ đổi
mới, thực trạng việc làm trong các làng nghề truyền thống từ đổi mới đến nay,
13. 6
dự báo số làng nghề; phương pháp và các giải pháp cơ bản nhằm khôi phục và
phát triển các làng nghề truyền thống gắn với các sản phẩm thủ công từng có
"tên tuổi" trên thị trường, đồng nghĩa với việc giúp NLĐ nông thôn có thêm
việc làm, tăng thu nhập đã và đang là vấn đề trăn trở của chính quyền các cấp
và người dân tại nhiều địa phương trong cả nước.
Trong một nghiên cứu do Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam chủ trì
với tựa đề là Những tác động tới việc làm, đời sống của NLĐ và các giải pháp
hoạt động Công đoàn khi Việt Nam gia nhập tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO) [33], đã đề cập đến những hiểu biết cơ bản nhất về Tổ chức Thương
mại Thế giới; Hiệp định thương mại tự do và những tác động tới kinh tế Việt
Nam; những mặt tích cực, thuận lợi, những khó khăn và thách thức; những tác
động đối với việc làm và đời sống của NLĐ nước ta khi Việt Nam gia nhập
WTO và các giải pháp về hoạt động Công đoàn Việt Nam trước những tác
động đó.
Trong đề tài luận án tiến sĩ xã hội học có tên là Mối quan hệ giữa dân số
và việc làm ở nông thôn đồng bằng sông Hồng trong quá trình CNH, HĐH
[30] tác giả Đặng Xuân Thao đã chứng minh được mối quan hệ tương tác
giữa dân số và việc làm ở nông thôn đồng bằng sông Hồng mang tính quy luật
chung của nhiều nền kinh tế bước sang cơ chế thị trường, mối quan hệ này
còn liên quan, ảnh hưởng đến nhiều yếu tố xã hội của cộng đồng làng, xã
hoặc khu vực, quốc gia, nó cũng có tính đặc thù ở từng địa phương. Đồng
thời, cũng đã nêu ra một số khuyến nghị về kiểm soát dân số ở cấp cơ sở.
Luận án tiến sĩ kinh tế của tác giả Hồ Thị Diệu Ánh với đề tài Tự tạo
việc làm của lao động nông thôn trên địa bàn tỉnh Nghệ An [3], trong đó, vai
trò của hộ gia đình được xác định có yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến tự tạo việc
làm của lao động nông thôn; kết quả phân tích cho thấy các yếu tố thuộc về
hộ gia đình có ảnh hưởng lớn đến tự tạo việc làm cho lao động nông thôn, bao
14. 7
gồm: Sự hỗ trợ của hàng xóm; sử dụng vốn vay của họ hàng; vốn của bạn bè
trong xã; gia đình có đất đai nhà xưởng và ảnh hưởng của bạn bè. Trên cơ sở
đó, đưa ra một số giải pháp thúc đẩy tự tạo việc làm của lao động nông thôn
trên địa bàn.
Luận án tiến sĩ kinh tế của tác giả Nguyễn Hoài Nam (2015), Chính
sách việc làm cho lao động nông thôn trong bối cảnh di dân - Nghiên cứu
tại một số tỉnh Bắc Trung Bộ [21] đã hệ thống hóa sở lý luận và thực tiễn về
chính sách việc làm cho lao động nông thôn trong bối cảnh di dân; phân tích
chính sách việc làm cho lao động nông thôn trong bối cảnh di dân tại một số
tỉnh Bắc Trung Bộ, chỉ ra những thành công và hạn chế, đồng thời đề xuất
phương hướng, giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao tác động chính sách việc
làm cho lao động nông thôn trong bối cảnh di dân ở các tỉnh Bắc Trung Bộ
đến năm 2025.
Đánh chung về các nghiên cứu của các tác giả ở trên cho thấy, việc
nghiên cứu đề cập đến nội dung QLNN về việc làm nói chung, việc làm của
thanh niên, thanh niên ở nông thôn nói riêng còn tương đối ít hoặc tiếp cận
với độ sâu rộng, mức độ đầy đủ còn hạn chế, đặc biệt còn chưa có các nghiên
cứu có tính toàn diện, toàn trình về vai trò QLNN về việc làm của thanh niên
ở nông thôn trên địa bàn cấp huyện ở nước ta nói chung, trên địa bàn huyện
Thanh Miện, tỉnh Hải Dương nói riêng. Xuất phát từ thực trạng trên, nội dung
nghiên cứu của luận văn này cần phải được tiến hành dựa trên cơ sở lý luận
của ngành khoa học quản lý công, có đối tượng, nội dung, phạm vi và phương
pháp nghiên cứu tương đối khác biệt với các nghiên cứu của các tác giả khác
đã thực hiện.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở hệ thống hóa các vấn đề cơ sở lý luận, thực tiễn liên quan
15. 8
đến QLNN về việc làm của lao động nông thôn nói chung, lao động là thanh
niên, thanh niên ở nông thôn nói riêng với những đánh giá chung về mặt ưu
điểm và hạn chế hoạt động QLNN về việc làm của thanh niên ở nông thôn
trên địa bàn huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương; nghiên cứu chỉ ra các giải
pháp nhằm tăng cường hoạt động QLNN về việc làm, góp phần trực tiếp vào
việc giải quyết việc làm cho thanh niên ở nông thôn trên địa bàn huyện Thanh
Miện, tỉnh Hải Dương một cách bền vững, tạo nền tảng cho phát triển kinh tế,
xã hội tại địa phương.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn sẽ hướng tới giải quyết
các nhiệm vụ:
- Hệ thống hóa lý luận, nêu ra những cơ sở khoa học và thực tiễn
QLNN về việc làm, việc làm của thanh niên ở nông thôn.
- Phân tích và đánh giá thực trạng hoạt động QLNN về việc làm của
thanh niên ở nông thôn từ thực tiễn huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương giai
đoạn 2010 - 2015.
- Đề xuất một số phương hướng và giải pháp chủ yếu để tăng cường hoạt
động QLNN về việc làm của thanh niên ở nông thôn cho huyện Thanh Miện,
tỉnh Hải Dương trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu hoạt động QLNN về việc làm của thanh
niên ở nông thôn từ thực tiễn huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi không gian: Luận văn được nghiên cứu trên địa bàn huyện
Thanh Miện, tỉnh Hải Dương.
Phạm vi về thời gian: Luận văn nghiên cứu hoạt động QLNN về việc
16. 9
làm của thanh niên ở nông thôn giai đoạn 2010 - 2015, hướng đến 2020.
5. Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, tác giả đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu
chung với đặc thù sau đây:
Phương pháp logic và lịch sử.
Phương pháp phân tích và tổng hợp.
Phương pháp thống kê và so sánh.
Phương pháp diễn dịch - quy nạp…
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài.
6.1. Ý nghĩa khoa học:
Luận văn nhằm cung cấp những vấn đề mang tính lý luận và thực tiễn
QLNN về việc làm của thanh niên ở nông thôn hiện nay.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn:
Thứ nhất, kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ bổ sung, gợi mở trên cơ sở
tiếp cận với góc nhìn đa chiều, toàn trình 6 nội dung QLNN về việc làm theo
Luật Việc làm 2013, góp phần tăng cường hoạt động QLNN về việc làm của
thanh niên ở nông thôn trên địa bàn huyện nói chung, tại địa bàn huyện Thanh
Miện, tỉnh Hải Dương nói riêng.
Thứ hai, Luận văn đưa ra những giải pháp, kiến nghị, có thể ứng dụng
trực tiếp trong hoạt động QLNN về việc làm cho huyện Thanh Miện, tỉnh Hải
Dương, có thể sử dụng thông tin của luận văn làm sở cứ quan trọng trong việc
xây dựng chương trình, đề án… về việc làm của lao động nông thôn nói
chung, lao động là thanh niên ở nông thôn nói riêng.
Thứ ba, Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho đội ngũ cán bộ,
công chức làm công tác quản lý hoặc những người làm công tác nghiên cứu
giảng dạy về hoạt động QLNN về việc làm nói chung, QLNN về việc làm của
17. 10
thanh niên ở nông thôn nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn được kết cấu thành 3 phần: Mở đầu, nội dung chính, kết luận.
Nội dung chính được kết cấu thành 3 chương cụ thể như sau:
Chương 1. Lý luận và thực tiễn QLNN về việc làm của thanh niên ở
nông thôn trên địa bàn huyện.
Chương 2. Thực trạng QLNN về việc làm của thanh niên ở nông thôn
trên địa bàn huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương.
Chương 3. Phương hướng, giải pháp tăng cường QLNN về việc làm của
thanh niên ở nông thôn trên địa bàn huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương.
18. 11
Chương 1
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ VIỆC LÀM
CỦA THANH NIÊN Ở NÔNG THÔN TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN
1.1. Khái quát chung về việc làm của thanh niên ở nông thôn trên
địa bàn huyện
1.1.1. Một số khái niệm liên quan
*Khái niệm “Việc làm”
Con người là một nhân tố quan trọng, vừa là mục tiêu, vừa là động lực
thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Họ trở thành động lực cho sự phát triển
khi họ có nhiều điều kiện sử dụng sức lao động để tạo ra của cải vật chất, tinh
thần cho bản thân, gia đình họ và cho xã hội. Khái niệm việc làm được nhiều
nhà kinh tế học, xã hội học quan tâm, tìm hiểu dưới nhiều góc độ, phạm vi đối
tượng khác nhau của các ngành khoa học như xã hội học, kinh tế học, chính
sách công, quản lý công… Đứng trên các góc độ nghiên cứu khác nhau, mỗi
tác giả đưa ra những quan niệm khác nhau về thuật ngữ “Việc làm”. Thực tiễn
hoạt động quản lý ở các quốc gia khác nhau do ảnh hưởng của nhiều yếu tố
(Như điều kiện kinh tế, chính trị, luật pháp, phong tục tập quán…) cũng hình
thành nên các quan niệm về việc làm khác nhau. Khái niệm việc làm còn bị
chi phối bởi nhiều các quan niệm, lối tư duy cũ vốn đã ăn sâu vào tiềm thức
của con người trong xã hội. Vì vậy, cho đến nay chưa có một định nghĩa
chung mang tính khái quát bao trùm về việc làm.
Dưới góc độ lý luận, Mác cho rằng: “Việc làm là phạm trù để chỉ trạng
thái phù hợp giữa sức lao động và những điều kiện cần thiết (vốn, tư liệu sản
xuất, công nghệ,…) để sử dụng sức lao động đó” [7, tr.125].
Dưới góc độ kinh tế - xã hội: Trong thực tế, việc làm thường được biểu
hiện dưới 3 hình thức sau đây:
Một là, làm công việc để nhận tiền lương, tiền công hoặc có thể là
19. 12
nhận hiện vật cho công việc đó. Nói theo cách khác thì, NLĐ bỏ công sức
ra lao động và được nhận lại thành quả lao động của chính mình sau một
quá trình tham gia vào hoạt động lao động có thể bằng chân tay hoặc lao
động bằng trí óc.
Hai là, tạo ra thu nhập: Là khoản thu nhập trực tiếp và khả năng tạo ra
thu nhập. Tuy nhiên hoạt động này phải phù hợp với chuẩn mực của xã hội
dưới góc độ pháp lý, sẽ không coi là việc làm nếu hoạt động lao động tạo ra
thu nhập nhưng trái pháp luật và không được pháp luật thừa nhận.
Ba là, yếu tố lao động trong việc làm phải có tính hệ thống, tính thường
xuyên và tính nghề nghiệp.
Quan niệm này tương đối bao trùm, tuy nhiên trên thực tế có nhiều hoạt
động không bị pháp luật cấm nhưng tạo ra thu nhập chưa rõ ràng (tạo ra lợi
ích phi vật chất hoặc lợi ích gián tiếp) vẫn chưa được coi là việc làm; đồng
thời có những hoạt động tạo ra thu nhập rõ ràng nhưng luật pháp có quốc gia
ngăn cấm thì vẫn chưa được thừa nhận là việc làm, trong đó luật pháp có quốc
gia cho là hợp pháp thì lại được thừa nhận là việc làm. Cho nên quan niệm
trên còn bộc lộ rõ hai hạn chế cơ bản sau:
Thứ nhất: Hoạt động nội trợ rõ ràng đảm bảo tính thường xuyên, không
bị pháp luật cấm, ít nhiều đã tạo ra chuỗi giá trị trực tiếp hoặc gián tiếp trong
đời sống sinh hoạt của mỗi gia đình. Tuy nhiên, hoạt động nội trợ trong thực
tế lại chưa được coi là việc làm và chưa được xác định có tính nghề nghiệp.
Thứ hai: Quan niệm về việc làm giữa các quốc gia nó còn phụ thuộc vào
luật pháp, phong tục tập quán, đạo đức… để xác lập tính hợp pháp của hoạt
động lao động được coi là việc làm.
Theo khái niệm việc làm được đưa ra trong từ điển Tiếng Việt: “Việc
làm là công việc được giao cho làm và được trả công” [22, tr.1115]. Khái
niệm này tương đối rộng, tuy nhiên nó chưa phản ánh được toàn diện hình
20. 13
thức việc làm trong hoạt động hàng ngày, bởi việc làm có thể tồn tại các trạng
thái: Có người giao (Thể hiện mang tính quyền lực), làm một cách tự nguyện,
thiện nguyện giúp đỡ người khác khi không có tác động sai khiến, hoặc người
lao động hoàn toàn có thể tự tạo ra việc làm để có thu nhập mà không cần
phải ai giao việc cho.
Trong đó, quan điểm khác lại cho rằng: “Việc làm (Tiếng Anh là job,
career) hay công việc là một hoạt động được thường xuyên thực hiện để đổi
lấy việc thanh toán hoặc tiền công, thường là nghề nghiệp của một người.
Một người thường bắt đầu một công việc bằng cách trở thành một nhân viên,
người tình nguyện, hoặc bắt đầu việc buôn bán. Thời hạn cho một công việc
có thể nằm trong khoảng từ một giờ (Trong trường hợp các công việc lặt
vặt) hoặc cả đời (Trong trường hợp của các thẩm phán). Nếu một người
được đào tạo cho một loại công việc nhất định, họ có thể có một nghề
nghiệp. Tập hợp hàng loạt các công việc của một người trong cả cuộc đời
là sự nghiệp của họ” [46].
Dưới góc độ pháp lý theo quan niệm quốc tế: Tại Hội nghị quốc tế lần
thứ 13, tổ chức năm 1983, Tổ chức Lao động quốc tế (Viết tắt là ILO) đã đưa
ra quan niệm về người có việc làm với các biểu hiện như sau: “Người có việc
làm là những người làm một việc gì đó, được trả tiền công, có lợi nhuận hoặc
được thanh toán bằng hiện vật, hoặc những người tham gia vào các hoạt động
mang tính chất tự tạo việc làm vì thu nhập hay vì lợi ích gia đình, không nhận
được tiền công hay hiện vật” [5, tr.47].
Như vậy, người có việc làm bao gồm những NLĐ đang làm việc ở cả
trong và ngoài khu vực nhà nước có thu nhập đem lại vật chất để nuôi sống
cho bản thân, gia đình hoặc mang lại lợi ích cho xã hội. Đây là khái niệm khá
mềm dẻo, phù hợp với nền kinh tế thị trường theo hướng hiện đại trên cả hai
phương diện kết cấu và thể chế, do đó được phần đông các quốc gia đang sử
21. 14
dụng làm quan niệm của việc làm.
Tiếp cận dưới góc độ pháp lý theo quan niệm ở Việt Nam: Quy định tại
Khoản 1 Điều 9 Bộ Luật Lao động năm 2012 và khoản 2 Điều 3 Luật Việc
làm năm 2013 thì: “Việc làm là hoạt động lao động tạo ra thu nhập mà không
bị pháp luật cấm”. Từ cách tiếp cận này cho thấy, nội hàm của khái niệm việc
làm được cấu thành bởi 3 yếu tố: Hoạt động lao động - Tạo ra thu nhập - Hoạt
động đó phải hợp pháp, cụ thể:
Thứ nhất, là hoạt động lao động của con người, thể hiện sự tác động của
sức lao động vào tư liệu sản xuất để tạo ra sản phẩm hoặc dịch vụ.
Thứ hai, là hoạt động tạo ra thu nhập. Thu nhập chính là nhân tố quan
trọng, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy NLĐ làm việc để tạo ra của
cải, vật chất, tinh thần cho bản thân, gia đình và cho xã hội.
Thứ ba, dưới khía cạnh pháp lý thì hoạt động tạo ra thu nhập chỉ được
coi là việc làm khi hoạt động đó không bị pháp luật cấm.
Đây là cách quan niệm về việc làm tương đối rộng, linh hoạt và mềm
dẻo. Việc chuẩn hóa khái niệm việc làm tạo cơ sở đồng nhất về mặt nhận
thức, thống nhất cho lĩnh vực điều tra, nghiên cứu và hoạch định chính sách
về việc làm.
*Khái niệm thanh niên, thanh niên ở nông thôn:
Theo quy định tại Điều 1 Luật Thanh niên năm 2005, thanh niên quy
định là công dân Việt Nam từ đủ 16 (Mười sáu) tuổi đến 30 (Ba mươi) tuổi.
Thanh niên là khái niệm dùng để chỉ những người nằm trong độ tuổi
chuyển tiếp giữa lớp, lứa thiếu niên và trưởng thành. Đây là khoảng thời gian
con người trải qua giai đoạn quá độ hoàn thiện dần bản thân cả về thể chất,
tinh thần, về sinh lý, tâm lý, tri thức, đạo đức và nhân cách để trở thành một
công dân trưởng thành trong xã hội. Tuy nhiên, tùy thuộc vào cơ cấu độ tuổi
dân số của các quốc gia trên thế giới mà có những quy định khác nhau về độ
22. 15
tuổi cụ thể được coi là thanh niên, thông thường từ 15 đến 24, 25, 29 hoặc 34
tuổi. Theo quan niệm của Liên Hợp quốc, độ tuổi từ 15 đến 34 được coi thuộc
cơ cấu lực lượng lao động trẻ; trong khi đó, thanh niên thường chỉ tính trong
độ tuổi từ 15 đến 24 để hàm ý thanh niên ở độ tuổi này bao gồm những người
đã kết thúc việc học tập ở nhà trường sớm nhất (15 tuổi đối với chương trình
Trung học cơ sở) và kết thúc đào tạo nghề nghiệp ở cấp Đại học (Khoảng 22-
24 tuổi).
Luận văn này, được nghiên cứu cụ thể trong phạm vi thuộc lãnh thổ Việt
Nam, để sử dụng các số liệu, thông tin phù hợp với các nhóm lứa tuổi quy
định trong các báo cáo, niên giám thống kê về lao động, việc làm, thì thanh
niên được hiểu bao gồm những người có từ đủ 15 tuổi đến 30 tuổi.
Như vậy, thanh niên ở nông thôn cũng được hiểu là những người trong
độ tuổi từ đủ 15 tuổi đến 30 tuổi sinh sống ở những vùng, địa phương có cơ
cấu tỷ trọng ngành nông nghiệp là chủ yếu, các hoạt động kinh tế chủ yếu
nhằm phục vụ cho nông nghiệp, cộng đồng cư dân nông thôn và có thu nhập
chủ yếu từ những hoạt động lao động trên. Đây là đặc trưng rất cơ bản của
vùng nông thôn.
Khái niệm về nông thôn và việc làm của thanh niên ở nông thôn
- Khái niệm về nông thôn:
Cho đến nay, chưa có định nghĩa nào về nông thôn được chấp nhận rộng
rãi. Nếu tham chiếu so sánh và nhận định rằng, nông thôn là khu vực có mật
độ dân số thấp hơn khu vực thành thị thì chưa thuyết phục, vì chỉ tiêu này
khác nhau giữa các quốc gia và ngay ở Việt Nam có một số khu vực nông
thôn so với nhiều thị xã thì mật độ dân số thực tế còn cao hơn. Tuy nhiên, có
một ý kiến đã chỉ ra được những đặc điểm phản ánh những đặc trưng cơ bản
của khu vực nông thôn, mang tính toàn diện và được nhiều người chấp nhận
và được sử dụng nhiều trong các báo cáo, đánh giá, thống kê về nông thôn của
23. 16
các cơ quan QLNN, các tổ chức chính trị, xã hội,… cụ thể:
Nông thôn là khái niệm dùng để chỉ vùng sinh sống, làm việc của một
cộng đồng chủ yếu là nông dân, là một địa bàn mà ở đó sản xuất nông nghiệp
chiếm tỉ trọng lớn. Kinh tế nông thôn chứa đựng những đặc trưng chung vừa
mang những đặc điểm riêng gắn liền với nông nghiệp, nông thôn:
Xét về mặt kinh tế - kỹ thuật, kinh tế nông thôn gồm những ngành kinh
tế như: Nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, tiểu, thủ công nghiệp, dịch
vụ… là kinh tế chủ yếu.
Xét về mặt kinh tế - xã hội, kinh tế nông thôn cũng bao gồm nhiều thành
phần kinh tế tập thể, kinh tế cá thể… Là vùng có cơ sở hạ tầng, thu nhập, đời
sống, trình độ văn hoá, khoa học, công nghệ… thấp kém hơn khu vực thành
thị và mang đặc trưng tính cộng đồng làng - xã - thôn - bản rất chặt chẽ.
Xét về không gian và lãnh thổ, kinh tế nông thôn bao gồm các vùng như:
chuyên canh lúa, vùng chuyên canh cây hoa màu, vùng trồng cây ăn quả…
- Khái niệm việc làm của thanh niên ở nông thôn
Việc làm của thanh niên ở nông thôn là một bộ phận việc làm của lao
động nông thôn. Tất cả những hoạt động lao động của thanh niên ở nông thôn
tạo ra thu nhập mà không bị pháp luật cấm.
Trong đó:
- Lao động nông thôn là những người thuộc lực lượng lao động hoặc
nói cách khác là nằm trong cơ cấu lao động nông thôn và hoạt động trong hệ
thống kinh tế nông thôn.
- Việc làm cho lao động ở nông thôn gắn liền với đặc trưng của kinh tế
nông nghiệp nông thôn, gồm có việc làm thuần nông, việc làm phi nông
nghiệp, là những hoạt động lao động trong tất cả các lĩnh vực sản xuất, kinh
doanh, xây dựng, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội… ở nông thôn của một
24. 17
bộ phận lực lượng lao động sinh sống ở khu vực nông thôn để mang lại thu
nhập mà không bị pháp luật cấm.
1.1.2. Đặc điểm và vai trò của việc làm đối với thanh niên ở nông thôn
* Đặc điểm việc làm của thanh niên ở nông thôn
Thứ nhất, các hoạt động sản xuất ở khu vực nông thôn thường bắt nguồn
từ kinh tế hộ gia đình là chủ yếu. Vì vậy, việc làm của thanh niên ở nông thôn
đồng nghĩa cũng gắn liền với năng suất, chất lượng hiệu quả sản xuất của hộ
gia đình. Trong đó, việc chú trọng thúc đẩy phát triển các loại hình hoạt động
kinh tế khác nhau của kinh tế hộ gia đình là một trong những biện pháp tạo
việc làm có hiệu quả.
Thứ hai, việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi để đạt giá trị kinh tế
cao trên mỗi đơn vị diện tích theo hướng thu dụng nhiều lao động cũng là
biện pháp tạo thêm nhiều việc làm tại chỗ ngay trong sản xuất nông nghiệp.
Thứ ba, hoạt động của dịch vụ nông thôn là khu vực đã thu hút đáng kể
lao động nông thôn nói chung và thanh niên ở nông thôn nói riêng; bởi, hoạt
động dịch vụ nó tạo ra thu nhập cao, thu nhập ổn định cho thanh niên ở nông
thôn, hoạt động này có tính thương mại cao, tạo ra nguồn thu nhập đa dạng ở
nhiều lĩnh vực và được nhiều người lựa chọn để thay thế công việc truyền
thống có thu nhập thấp.
Vai trò của việc làm đối với thanh niên ở nông thôn
Thứ nhất, trên bình diện kinh tế - xã hội:
Về mặt kinh tế, việc làm luôn gắn liền với vấn đề sản xuất. Là nhân tố
tạo nên tăng trưởng kinh tế và thu nhập quốc dân; nó không thể thiếu đối với
toàn bộ nền kinh tế, là vấn đề cốt lõi và xuyên suốt trong các hoạt động kinh
tế, có mối quan hệ mật thiết với kinh tế - xã hội, nó chi phối toàn bộ mọi hoạt
động xã hội. Ngược lại, nếu không giải quyết tốt vấn đề việc làm thì đó sẽ là
những nguyên nhân kìm hãm sự tăng trưởng kinh tế của từng địa phương,
25. 18
vùng miền, phạm vi rộng là cả quốc gia. Vì vậy, việc làm và kinh tế là hai
chân của sự phát triển có tác động qua lại, chúng ta không thể đi chân ngắn
chân dài hay chân cao chân thấp, mà hai chân phải phát triển bằng nhau.
Về mặt xã hội, việc làm là một trong những nhu cầu cơ bản của con
người để đảm bảo cuộc sống, sự phát triển toàn diện; về mặt QLNN thì vai trò
của việc làm góp phần đảm bảo an sinh xã hội, hướng vào mục tiêu phát triển
con người, thúc đẩy công bằng, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân,
phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước. Ngược lại, để xảy ra thất
nghiệp, thiếu việc làm, có việc làm không đầy đủ, thu nhập thấp là tác nhân
chủ yếu của sự đói nghèo, dốt nát, bệnh tật, thậm chí là xuất phát điểm của tệ
nạn xã hội.
Thứ hai, trên bình diện chính trị - pháp lý:
Thất nghiệp, thiếu việc làm luôn là mối đe dọa tiềm tàng đối với tình
hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội của mỗi quốc gia. Mối đe dọa
này, nếu không kiểm soát, giải quyết kịp thời có thể bùng phát trở thành vấn
đề chính trị. Chính vì vậy, ở bất kì quốc gia nào thì việc làm đã, đang, luôn là
vấn đề được coi trọng ưu tiên thực hiện, được thiết lập trên hệ tư tưởng và
duy trì vai trò lãnh đạo của đảng, phái chính trị cầm quyền.
Trên bình diện pháp lý, việc làm là phạm trù thuộc quyền cơ bản của con
người (Được thừa nhận trong hiến pháp, luật và các công ước quốc tế). Một
đặc điểm dễ nhận thấy, nếu việc làm không còn tồn tại, thì quan hệ lao động
(QHLĐ) không còn nội dung, không còn chủ thể. Khi xuất hiện việc làm thì
QHLĐ được hình thành và pháp luật về việc làm sẽ đóng vai trò duy trì, điều
chỉnh, xác lập tính hợp pháp trong mối quan hệ này.
Thứ ba, trên bình diện quốc gia - quốc tế:
Việc làm là nền tảng căn bản cho phát triển, ở mỗi quốc gia thì chính
sách việc làm là bộ phận khảng định vị trí quan trọng trong bức tranh tổng
26. 19
thể chính sách phát triển kinh tế - xã hội. Vì vậy, chính sách việc làm tại
một nước có tác động lan tỏa tới các nước khác, kể cả tác động tích cực và
tiêu cực.
Trong thời đại ngày nay, chúng ta đang chứng kiến một thế giới phẳng,
các quốc gia không còn là ốc đảo riêng biệt, mà nó gắn bó với nhau ngày
càng chặt chẽ thông qua vô vàn mối quan hệ song phương, đa phương từ
đơn giản, đến phức tạp, đa dạng hóa hợp tác trên nhiều lĩnh vực từ văn hóa,
kinh tế, chính trị, quân sự, … thì vấn đề việc làm cũng không là ngoại lệ: Nó
không còn dừng lại ở phạm vi biên giới ở mỗi quốc gia mà nó có tính toàn
cầu hóa, tính quốc tế sâu sắc; trong mạng lưới liên kết có tính đa dạng đa
chiều này, thì chỉ cần một quyết định mang tính nội bộ hoặc một dòng trạng
thái cá nhân trên Twitter của một chính trị gia quyền lực bày tỏ về quan
điểm, định hướng chính sách của một quốc gia thành viên cũng sẽ tạo ra
những tác động, ảnh hưởng, những hậu quả trực tiếp hoặc gián tiếp đến các
quốc gia khác và cộng đồng quốc tế. Về hợp tác lao động trên bình diện
quốc gia - quốc tế, các quốc gia thành viên trong vấn đề hợp tác đưa lao
động đi làm việc ở nước ngoài, tiếp nhận lao động là người nước khác đến
làm việc tại nước mình cũng là một xu hướng tất yếu mang tinh thần hội
nhập toàn diện, sâu rộng và tất cả đều chịu sự chi phối, điều chỉnh bởi công
ước quốc tế về lao động, các quy tắc xử sự chung mang tính khu vực, quốc
tế càng ngày càng chặt chẽ và quy mô hơn.
Các yếu tố trên kết hợp thành một chỉnh thể tác động mạnh đến việc làm
của thanh niên ở nông thôn, trong bối cảnh hiện nay nền kinh tế trí thức ngày
càng phát triển, chiếm vị trí quan trọng thì vai trò của việc làm đối với thanh
niên ở nông thôn cũng có ý nghĩa vô cùng to lớn đóng góp chung vào sự phát
triển của một nền kinh tế và ngăn ngừa những tiêu cực nảy sinh gây hệ lụy
cho xã hội.
27. 20
1.2. QLNN về việc làm của thanh niên ở nông thôn trên địa bàn
huyện
1.2.1. Khái niệm QLNN về việc làm của thanh niên ở nông thôn trên
địa bàn huyện.
Khái niệm QLNN:
QLNN là loại hình quản lý ra đời cùng với sự hình thành của nhà nước.
“Quản lý” là đối tượng của nhiều ngành nghiên cứu tự nhiên và xã hội, vì vậy
mỗi ngành khoa học đều đưa ra định nghĩa về “quản lý” dưới các góc độ tiếp
cận riêng, tuy nhiên về thực chất nội dung các định nghĩa đều có những nét
tương đồng phản ánh bản chất của QLNN. “Quản lý” là sự tác động có kế
hoạch, điều khiển, định hướng bất kỳ lên một hệ thống nào đó nhằm trật tự
hóa nó và hướng nó phát triển phù hợp với những quy luật nhất định để đạt
được mục tiêu, ý chí của QLNN.
Hoạt động quản lý diễn ra ở nhiều cấp độ khác nhau, do nhiều chủ thể
tiến hành trong những phạm vi nhất định. Chủ thể QLNN gồm: Nhà nước, cơ
quan nhà nước, tổ chức và cá nhân được Nhà nước ủy quyền thực hiện hoạt
động QLNN. Các cơ quan nhà nước là chủ thể của QLNN gồm: Cơ quan lập
pháp, hành pháp, tư pháp; trong đó, khách thể QLNN là trật tự QLNN, trật tự
xã hội do pháp luật quy định. Tuy nhiên tất cả hoạt động quản lý đều hướng
đến những mục đích, mục tiêu xác định, trong đó chủ thể nhà nước đóng vai
trò kiến tạo, dẫn dắt, xác lập và quyết định.
QLNN là một dạng quản lý xã hội đặc biệt, mang tính quyền lực và
mang tính pháp quyền của nhà nước, tác động điều chỉnh tất cả các mặt đời
sống, xã hội bằng các hoạt động lập pháp, hành pháp, tư pháp, do vậy QLNN
được hiểu theo hai phạm vi, nghĩa rộng và nghĩa hẹp:
- Theo nghĩa rộng, “QLNN là toàn bộ mọi hoạt động của nhà nước nói
28. 21
chung, mọi hoạt động mang tính chất nhà nước nhằm thực hiện các chức
năng, nhiệm vụ của nhà nước” [43, tr.19]. Hiểu theo nghĩa này, bản chất của
QLNN được phản ánh một cách đầy đủ, thể hiện rõ tính quyền lực đặc trưng,
củng cố thêm cho luận giải trên và một lần nữa khẳng định chủ thể của QLNN
là tất cả các cơ quan nhà nước, gồm: Lập pháp, hành pháp, tư pháp.
- Theo nghĩa hẹp, “QLNN là hoạt động của các cơ quan hành chính nhà
nước hoặc các cơ quan thực hiện chức năng hành pháp trong bộ máy nhà
nước” [43, tr.20].
Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn này, QLNN được hiểu là các
hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước nhằm thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của mình theo quy định của pháp luật (Từ ban hành các văn bản
luật, các văn bản mang tính luật đến việc chỉ đạo trực tiếp hoạt động), nhằm
phục vụ nhân dân, duy trì sự ổn định và phát triển của xã hội.
Khái niệm QLNN về việc làm của thanh niên ở nông thôn
QLNN về việc làm của thanh niên ở nông thôn là một nội dung quan
trọng trong quản lý xã hội của Nhà nước. Đây là quá trình mà nhà nước bằng
quyền lực của mình tổ chức, điều hành các hoạt động của các cơ quan hành
chính nhà nước tiến hành thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo quy định của
pháp luật về lao động, việc làm có liên quan trực tiếp đến nhóm đối tượng là
thanh niên ở nông thôn không ngoài mục đích tạo môi trường, điều kiện việc
làm cho thanh niên ở nông thôn có khả năng lao động, muốn lao động, có việc
làm phù hợp với bản thân trên cơ sở nền tảng kiến thức, năng lực, trình độ
chuyên môn và tay nghề mà họ tích lũy được trong hoạt động lao động, sản
xuất hoặc được đào tạo để tiếp cận với việc làm ổn định phù hợp.
1.2.2. Vai trò QLNN về việc làm của thanh niên ở nông thôn trên địa
bàn huyện
Thứ nhất, bảo đảm trực tiếp thực hiện chức năng của nhà nước và đóng
29. 22
vai trò quyết định trong hoạt động quản lý đối với mọi mặt đời sống xã hội.
Nhà nước là một chủ thể quyền lực đặc biệt, ra đời nhằm thực hiện các công
việc mà các tổ chức, cá nhân khác không thể thực hiện hoặc không muốn thực
hiện hay muốn cũng không được thực hiện, như: Tạo lập hệ thống pháp luật,
chính sách về việc làm; đề ra, xây dựng các dự án, đề án việc làm; thúc đẩy
hợp tác quốc tế về việc làm; xây dựng bộ máy tổ chức và huy động các nguồn
lực tham gia giải quyết vấn đề về việc làm… Trong bối cảnh đó, hoạt động
QLNN có phạm vi rất rộng với nhiều khách thể quản lý trên hầu hết các lĩnh
vực của đời sống xã hội bao trùm cả lĩnh vực việc làm.
Việc làm là một lĩnh vực quan trọng trong đời sống xã hội, nó không thể
thiếu đối với từng cá nhân và toàn bộ nền kinh tế, là vấn đề cốt lõi trong các
hoạt động kinh tế. Đối với từng cá nhân thì có việc làm đi đôi với có thu nhập
để nuôi sống bản thân; đối với kinh tế, việc làm là nhân tố tạo nên tăng trưởng
kinh tế và thu nhập quốc dân; về mặt xã hội, nó phản ánh quá trình phát triển
kinh tế - xã hội và vai trò của QLNN trong tiến trình phát triển ấy.
Thứ hai, giải quyết việc làm cho thanh niên ở nông thôn. Trong thời đại
khoa học công nghệ đóng vai trò quan trọng trong việc ứng dụng, vật chất hóa
các tri thức khoa học vào thực tiễn sản xuất, đời sống và trực tiếp tác động
nâng cao năng suất lao động, giảm nhẹ cường độ lao động, giảm chi phí, giá
thành sản xuất khiến cho nhu cầu cần số lượng lao động trong cùng một loại
công việc cụ thể giảm đi. Vì vậy, yêu cầu tất yếu đặt ra để giải quyết được
việc làm cho đối tượng này là phải đẩy mạnh phát triển kinh tế, không ngừng
gia tăng sản xuất, tạo ra nhiều ngành nghề, loại hình kinh tế mới, nhiều công
việc mới gắn với chất lượng, hiệu quả ngày càng cao hơn và trên tất cả phải
có kế hoạch mục tiêu sử dụng hiệu quả nguồn lực lao động nhằm thực hiện
mục tiêu tăng trưởng, như:
- Mục tiêu về cơ cấu lao động trong các ngành kinh tế.
30. 23
- Mục tiêu về tỷ lệ lao động qua đào tạo.
- Mục tiêu về xuất khẩu lao động (XKLĐ) ra nước ngoài…
- Các chính sách về khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào
địa phương, chính sách hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ, chính
sách phát triển ngành nghề nông thôn…
Thứ ba, thúc đẩy phát triển về việc làm kinh tế. QLNN về việc làm là
nhiệm vụ cơ bản để phát triển kinh tế đất nước và là cơ sở cho quốc gia hội
nhập quốc tế trong xu thế toàn cầu hóa. Thông qua phát triển kinh tế mới tạo
ra nguồn cung ứng việc làm cho lao động nói chung và lao động là thanh niên
ở nông thôn nói riêng; trong đó, Nhà nước giữ vai trò kiến tạo trong việc hoàn
thiện thể chế, môi trường việc làm, xác lập các mối quan hệ chính sách và
pháp luật về việc làm.
Thứ tư, góp phần làm giảm tệ nạn xã hội, hạn chế biến động dân số cơ
học. Quá trình này có những tác động sâu sắc đến sự phát triển kinh tế - xã
hội, nếu không làm giảm biến động dân số cơ học sẽ tạo nên sự mất cân đối
cục bộ thay đổi trong cấu trúc và phân công lao động. Một trong những
nguyên nhân của các tệ nạn xã hội là tình trạng thất nghiệp và việc di dân cơ
học có khởi đầu xuất phát từ việc không có việc làm, có việc làm không đầy
đủ hoặc thu nhập thấp tại chỗ. Do đó, QLNN về việc làm là làm tốt công tác
tạo việc làm cho lao động nông thôn, giảm bớt sự cách biệt giữa thành thị và
nông thôn về thu nhập, điều kiện sinh sống để hạn chế biến động dân số cơ
học và giảm tệ nạn xã hội để cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội được
bền vững.
1.2.3. Nội dung QLNN về việc làm của thanh niên ở nông thôn trên
địa bàn huyện
Theo Điều 6 Luật Việc làm năm 2013, nội dung QLNN về việc làm quy
định thông qua 6 (Sáu) nội dung, cụ thể:
31. 24
- Ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về việc làm.
- Tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật về việc làm.
- Quản lý lao động (QLLĐ), thông tin thị trường lao động, đánh giá, cấp
chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia và bảo hiểm thất nghiệp.
- Quản lý tổ chức và hoạt động của trung tâm dịch vụ việc làm, doanh
nghiệp hoạt động dịch vụ việc làm.
- Kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo (KN, TC) và xử lý vi
phạm pháp luật về việc làm.
- Hợp tác quốc tế về việc làm.
Trong 06 (sáu) nội dung QLNN về việc làm, Chính phủ thống nhất quản
lý theo nguyên tắc phân cấp, phân quyền về mặt quản lý cho các cơ quan hành
chính nhà nước các cấp từ Trung ương đến địa phương. Theo đó, có những
nội dung do cơ quan hành chính nhà nước ở Trung ương thực hiện, có những
nội dung chỉ do cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương thực hiện, trong
đó có những nội dung do tất cả các cơ quan cùng thực hiện trong phạm vi
thẩm quyền pháp luật quy định. Trong 04 (Bốn) nội dung QLNN về việc làm
được phân cấp cho cấp huyện, bao gồm:
1.2.3.1.Ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về
việc làm:
Trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về việc làm bao gồm Luật,
các Nghị định, Thông tư hướng dẫn thi hành các quy định của pháp luật về
lao động và việc làm nói chung, pháp luật về việc làm nói riêng, các văn bản
triển khai, hướng dẫn của từng địa phương trên cơ sở mang tính thực tiễn
quản lý.
Theo nguyên tắc QLNN, cơ quan nhà nước cấp dưới chịu trách nhiệm tổ
chức triển khai, thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan nhà
nước cấp trên ban hành. Nội dung cơ bản của hệ thống pháp luật về việc làm
32. 25
bao gồm: Quy định chính sách hỗ trợ tạo việc làm; bảo hiểm thất nghiệp;
đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia; thông tin thị trường lao động;
tổ chức, hoạt động dịch vụ việc làm và QLNN về việc làm. Hệ thống này về
nguyên tắc luôn đảm bảo tính thống nhất với tư cách là một chỉnh thể nhất
quán xuyên suốt, có khả năng áp dụng trong phạm vi cả nước; đồng thời phải
đảm bảo có tính linh hoạt, tính thích ứng khi áp dụng vào điều kiện thực tiễn
của mỗi địa phương. Bởi vậy, hệ thống các quy định của pháp luật về việc
làm được các cơ quan ở Trung ương ban hành thường có tính khái quát rất
cao, có khung điều chỉnh phạm vi tương đối rộng; trong khi đó, khi tổ chức
thực hiện mỗi địa phương phải ban hành các văn bản quy định cụ thể phù hợp
với điều kiện địa phương mình trên cơ sở ánh xạ, không đi ngược lại tính
pháp lý các quy định của cấp trên đã ban hành, đồng thời làm cho pháp luật
có tính khả dụng trên thực tế.
Đối với cấp huyện, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về việc làm
gồm có các Nghị quyết quy phạm của HĐND về việc làm, các quyết định
quy phạm của UBND ban hành về việc làm. Các văn bản này là cụ thể hóa
Luật Việc làm, các nghị định, thông tư hướng dẫn Luật Việc làm và các văn
bản quy phạm pháp luật của chính quyền cấp tỉnh trực tiếp về việc làm; đó là
công việc khởi tạo, xác lập mối quan hệ đan xen có tính phức tạp và dẫn
chiếu liên quan nhau. Khi nghiên cứu các quy định do cấp huyện ban hành
về việc làm, không thể không xem xét các quy định liên quan của cấp trên
trong cùng lĩnh vực đó để có tính kế thừa, xuyên suốt và thống nhất trong
cùng nội dung công việc.
Như vậy có thể cho rằng, nội dung QLNN của cấp huyện về việc làm
bao gồm việc áp dụng một cách thụ động khi vận dụng các định cụ thể của
cấp trên mà không cần có văn bản triển khai thêm. Bên cạnh đó, tiếp cận ở
góc độ khác, sự áp dụng pháp luật về việc làm của chính quyền cấp huyện
33. 26
cũng mang tính chủ động, linh hoạt thông qua công việc điều hành (hành
chính) bằng việc ban hành hệ thống văn bản triển khai cho địa phương mình
đối với những quy định mang tính khái quát cao.
1.2.3.2.Tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật về việc làm:
Tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật (PBGDPL) luôn có vị trí và
vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa hiện nay ở Việt Nam, là con đường ngắn nhất đưa chủ trương,
chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước đi vào đời sống xã hội, tạo
thành ý thức, hành động của từng chủ thể trong xã hội.
Tuyên truyền pháp luật không dừng lại ở thay đổi suy nghĩ hay thái độ
của quần chúng, hoặc không chỉ lôi kéo cá nhân ra khỏi hành động cũ, thói
quen mang tính truyền thống đã ăn sâu vào suy nghĩ, hành động mà cần phải
làm cho cá nhân đó suy nghĩ không cũ về những điều không mới với một tinh
thần mới, quan điểm mới, tư duy mới và tạo ra thói quen hành động có lợi cho
việc thực thi các quy định của pháp luật một cách tự giác, củng cố chân lý giá
trị cốt lõi: Cái không bao giờ thay đổi, đó chính là sự thay đổi để đạt mục tiêu
đã đề ra.
PBGDPL là một từ được ghép giữa “Phổ biến pháp luật” và “Giáo dục
pháp luật”. Theo từ điển Tiếng Việt (NXB Đà Nẵng năm 2003) thì “Phổ biến
là làm cho đông đảo người biết bằng cách truyền đạt trực tiếp hay thông qua
hình thức nào đó” [22, tr 785].
- Phổ biến pháp luật có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhiều hình thức
phổ biến khác và là một bộ phận không thể tách rời trong tổng thể các hình
thức PBGDPL. Đối tượng phổ biến có tác động ở phạm vi rộng, mang ý nghĩa
xã hội và nhân văn sâu sắc. Thông qua phổ biến, đăng tải thông tin pháp luật
trên các phương tiện truyền tin, kết hợp với tư vấn pháp luật và hướng dẫn
thực hiện pháp luật. Phổ biến pháp luật còn nhằm làm cho các đối tượng nắm,
34. 27
hiểu rõ các quy định để thực hiện pháp luật trên thực tế một cách đồng nhất.
- Trong đó: “Giáo dục là quá trình hoạt động có ý thức, có mục đích, có
kế hoạch, có tổ chức nhằm bồi dưỡng cho con người những phẩm chất đạo
đức và những tri thức cần thiết để người ta có khả năng tham gia mọi mặt của
đời sống xã hội” [45].
Giáo dục pháp luật là một bộ phận của công tác giáo dục trính trị, tư
tưởng, được tổ chức thực hiện bởi những chủ thể xác định (Chính phủ, Các
bộ, ngành Trung ương, UBND các cấp) hướng đến nâng cao nhận thức, tình
cảm song nội dung có phạm vi rộng hơn so với phổ biến và chứa đựng mục
đích chính trị lớn hơn.
Ở nước ta hiện nay, trong các công trình nghiên cứu khoa học về pháp
luật các tác giả đã khá đồng nhất về khái niệm giáo dục pháp luật: Giáo dục
pháp luật là hoạt động có định hướng, có tổ chức, có chủ đích của chủ thể
giáo dục tác động lên đối tượng giáo dục một cách có hệ thống nhằm nâng
cao tri thức pháp luật (Bằng phương pháp: Thuyết phục, nêu gương, ám thị...)
hình thành, nâng cao ý thức cho các đối tượng tính thượng tôn pháp luật.
Bản chất pháp luật của Nhà nước ta là rất tốt đẹp, nó mang tính ưu việt
của nền dân chủ nước ta, nó phản ánh ý chí, nguyện vọng, mong muốn của
đông đảo quần chúng nhân dân trong xã hội, hướng tới xây dựng một xã hội
lành mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, trên tất cả là quyền làm chủ của
nhân dân được thể hiện cụ thể trong hiến pháp và các văn ban quy phạm pháp
luật. Tuy nhiên, dù những quy định pháp luật có tốt đẹp nhưng không được
nhân dân biết đến thì vẫn không đi vào cuộc sống.
Tóm lại, Pháp luật chính là phương tiện quan trọng hàng đầu để Nhà
nước quản lý xã hội, cũng là phương tiện cho mỗi công dân nói chung, NLĐ
nói riêng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Hiểu theo nghĩa rộng
PBGDPL là công tác, lĩnh vực hoạt động, bao gồm tất cả các tiến trình phục
35. 28
vụ cho việc thực hiện PBGDPL (Định hướng, lập chương trình, áp dụng, triển
khai, kiểm tra, đôn đốc…); hiểu theo nghĩa hẹp: Là việc truyền bá pháp luật
cho đối tượng nhằm nâng cao tri thức, tình cảm niềm tin pháp luật và hình
thành ở họ những hành vi phù hợp với các quy định pháp luật hiện hành. Do
vậy, công tác PBGDPL giúp cho đối tượng nhận thức được những giá trị cao
đẹp ấy của pháp luật và biết sử dụng phương tiện hữu hiệu đó trong cuộc
sống; làm tốt công tác tuyên truyền, PBGDPL sẽ giúp cho người dân nắm bắt
pháp luật kịp thời mà không mất nhiều thời gian, công sức cho việc tự tìm
hiểu, tự học tập.
Trong pháp luật về việc làm thì PBGDPL là chuyển tải các quy định của
pháp luật về việc làm vào cuộc sống. Thực hiện pháp luật về việc làm dù bằng
hình thức nào thì trước hết từng chủ thể trong xã hội phải có hiểu biết pháp
luật. Nếu không nhận thức đầy đủ vị trí quan trọng và công tác tuyên truyền,
PBGDPL tiến hành không bài bản thì dù công tác xây dựng pháp luật được
thiết lập chặt chẽ đến mấy cũng không đạt được hiệu quả thực thi pháp luật.
1.2.3.3.Quản lý lao động, thông tin thị trường lao động:
QLNN về lao động, thực tế là sự thể hiện quyền lực nhà nước trong lĩnh
vực lao động. Hoạt động QLLĐ của Nhà nước được bảo đảm thực hiện bằng
quyền lực nhà nước thông qua hệ thống các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
trong QLNN về lao động, các cơ quan này sẽ tác động vào đối tượng quản lý
nhằm bảo vệ tốt nhất cho các chủ thể tham gia vào QHLĐ theo định hướng
mà Nhà nước đã đặt ra. Vì, trong chuỗi chu trình tạo ra của cải vật chất thì vai
trò nhân lực là nhân tố không thể thiếu để tổ chức thực hiện, cho nên Nhà
nước phải có trách nhiệm lớn nhất trong tổ chức các hoạt động kinh tế - xã
hội, trong đó có việc sử dụng lao động.
- Về phương diện kinh tế - xã hội, việc QLLĐ của Nhà nước có vai trò
đặc biệt quan trọng trong việc quản lý nguồn nhân lực quốc gia, bởi việc sử
36. 29
dụng, khai thác nguồn nhân lực quốc gia có tác động trực tiếp tới việc thực
hiện chính sách xã hội của Nhà nước, khắc phục những khía cạnh tiêu cực của
lao động, để quá trình lao động trở nên có tổ chức và có hiệu quả hơn.
- Về phương diện pháp lý, QLLĐ là chỉ những hoạt động hành chính của
Nhà nước trong lĩnh vực chính sách quốc gia về lao động. Nhà nước là chủ
thể có quyền lực pháp lý lớn nhất bảo đảm môi trường pháp lý, thể chế thuận
lợi cho việc xác lập QHLĐ là vấn đề cốt lõi và áp dụng trách nhiệm pháp lý
đối với tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật. Đồng thời thực hiện phân cấp,
phân quyền quản lý để hạn chế đến mức thấp nhất sự can thiệp không cần
thiết của Nhà nước vào các QHLĐ.
Nhà nước thực hiện việc QLLĐ trong nền kinh tế thị trường trước hết là
để bảo vệ quyền lợi của các bên tham gia QHLĐ, hướng dẫn NLĐ và NSDLĐ
xây dựng mối QHLĐ. Là chủ sử dụng lao động, NSDLĐ có quyền quản lý
NLĐ; trong đó, quyền QLLĐ của NSDLĐ là quyền không thể thiếu trong quá
trình duy trì mối QHLĐ giữa các bên tham gia QHLĐ. Như vậy, hoạt động
QLLĐ của NSDLĐ là quyền mà Nhà nước dành cho các chủ thể sử dụng lao
động; mục đích việc QLLĐ của Nhà nước thể hiện sự điều hành cả ở tầm vĩ
mô và vi mô đối với quá trình QLLĐ, tổ chức thanh tra, kiểm tra quá trình thi
hành chính sách, pháp luật lao động và giải quyết các vấn đề phát sinh trong
quá trình QHLĐ.
Theo qui định, QLNN về lao động có thể khái quát thành 3 nội dung cơ
bản sau:
- Các hoạt động nghiên cứu, ban hành văn bản pháp luật, chính sách về
lao động. Đây là hoạt động mang tính nền tảng thể hiện quyền lực Nhà nước
về lao động. Vì, chỉ khi ban hành được các văn bản phù hợp thì mới thúc đẩy
sự phát triển kinh tế, xã hội và đảm bảo việc thực hiện tốt pháp luật lao động
trong thực tế.
37. 30
- Tổ chức, thực hiện chính sách pháp luật về lao động. Trong đó, công
tác thông tin, tuyên truyền pháp luật lao động, việc làm là quan trọng nhất.
Tuy nhiên, trong nội dung cơ bản này còn có nhiệm vụ nghiên cứu khoa học
về lao động, thống kê thông tin lao động, thị trường lao động, mở rộng hợp
tác quốc tế về lao động.
- Hoạt động thanh tra, kiểm tra việc thi hành chính sách, pháp luật về lao
động, thông qua nội dung này nhằm đảm bảo quyền lực Nhà nước trong việc
thực thi pháp luật lao động, tăng cường pháp chế, kịp thời phát hiện các sai
phạm, xử lý theo đúng pháp luật, hạn chế tranh chấp lao động phát sinh trong
thực tiễn. Trên tất cả, qua công tác kiểm tra, thanh tra giúp Nhà nước phát
hiện ra những hạn chế, bất cập, bổ sung sửa đổi, bịt kín những kẽ hở của hệ
thống văn bản pháp luật, chính sách về lao động đã ban hành để ngăn ngừa
các hành vi vi phạm pháp luật, nâng cao năng lực QLNN về lao động được
toàn diện.
Đối với thông tin thị trường lao động, có ý nghĩa quan trọng nhằm cung
cấp thông tin về nhu cầu tuyển dụng của các doanh nghiệp, đồng thời mang
tính dự báo để phục vụ công tác đào tạo, đáp ứng nguồn cung phù hợp. Trong
thị trường lao động, NLĐ được coi là có việc làm khi có người mua hàng hóa
sức lao động mà họ muốn và ngược lại, khi NLĐ mong muốn bán sức lao
động mà không tìm được người mua, thì bị coi là thất nghiệp. Về cơ bản, thị
trường lao động được cấu thành từ ba đặc điểm: Đó là cung, cầu của thị
trường lao động và giá cả sức lao động hay mức tiền công, tiền lương mà tại
đó người sở hữu sức lao động đồng ý làm việc.
Để quản lý tốt về những thông tin thị trường lao động, các cơ quan nhà
nước quản lý về lao động thực hiện thống kê tổ chức thu thập, công bố và xây
dựng, quản lý cơ sở dữ liệu đối với thông tin thị trường lao động.
Theo Khoản 3 - Điều 24 Luật Việc làm 2013 thì: “UBND các cấp trong
38. 31
phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình quản lý thông tin thị trường lao động
tại địa phương”.
Như vậy, để khảng định được quyền lực trong lĩnh vực lao động thì nội
dung QLLĐ, thông tin thị trường lao động của Nhà nước có vai trò hết sức
quan trọng:
Thứ nhất, QLLĐ của Nhà nước thể hiện vị trí, vai trò của Nhà nước
trong xã hội. Việc thực hiện QLLĐ trong nền kinh tế thị trường là để bảo vệ
các bên tham gia QHLĐ, đảm bảo chính sách phát triển, phân bố nguồn nhân
lực, phát triển đa dạng các hình thức sử dụng lao động và giới thiệu việc làm
thông qua hệ thống cơ quan QLNN về lao động các cấp nhằm tạo lập môi
trường pháp lý thuận lợi cho các bên tham gia QHLĐ.
Thứ hai, quản lý thông tin thị trường lao động góp phần phát triển thị
trường lao động năng động, cạnh tranh, minh bạch và thống nhất.
Ở phạm vi cấp huyện, Nhà nước thực hiện quản lý các thông tin về thị
trường lao động hay được hiểu là thông tin liên quan đến thị trường mua bán
sức lao động như: Số lượng lao động, nguồn cung lao động, phân bố lao động,
cơ cấu lao động (về độ tuổi, giới tính, trình độ, ngành nghề…); nhu cầu về lao
động, thông tin các nhà tuyển dụng; các chính sách về thị trường lao động;
quy định về tiền lương, phụ cấp, trợ cấp và các chế độ đãi ngộ đối với người
lao động…UBND cấp huyện chỉ đạo, hướng dẫn UBND cấp xã thực hiện việc
thu thập thông tin ban đầu, cập nhật thông tin biến động của NLĐ, đồng thời
UBND xã, huyện có trách nhiệm quản lý, bảo mật thông tin của NLĐ,
NSDLĐ được ghi chép trong sổ Cung lao động, sổ Cầu lao động. Ngoài ra,
đưa thông tin đầy đủ, chính xác không chỉ tới đối tượng NLĐ và doanh
nghiệp mà còn giúp các cơ sở đào tạo nguồn nhân lực đào tạo đúng ngành,
nghề đáp ứng nhu cầu thị trường.
39. 32
1.2.3.4.Kiểm tra, thanh tra, giải quyết KN, TC và xử lý vi phạm pháp
luật về việc làm
Kiểm tra, thanh tra, giải quyết KN, TC và xử lý hành vi vi phạm pháp
luật về việc làm cũng là một nội dung QLNN rất quan trọng về việc làm, là
cách thức tiến hành góp phần vào việc tuân thủ, thực hiện pháp luật về việc
làm mang tính hiệu lực, hiệu quả cao.
Kiểm tra và thanh tra đều là những công cụ quan trọng, một chức năng
chung của QLNN, là hoạt động mang tính chất phản hồi của “chu trình quản
lý”; giữa kiểm tra và thanh tra có một mảng giao thoa về chủ thể, đó là Nhà
nước, tuy nhiên chủ thể của kiểm tra rộng hơn của thanh tra.
Trong đó, kiểm tra là hoạt động của cơ quan, tổ chức, thủ trưởng cấp trên
với cấp dưới nhằm đánh giá mọi mặt hoặc từng vấn đề do cấp dưới đã thực
hiện; cơ sở của kiểm tra là sự kết hợp chặt chẽ giữa hai nhân tố chủ quan và
khách quan trong tổ chức hoặc hai nhân tố khác nhau trong cùng một công
việc. Khi triển khai một chương trình, kế hoạch cần phải kiểm tra theo dõi các
bước tiến hành, đo lường, lượng hóa kết quả thực hiện so sánh với mục tiêu
hoạch định trong kế hoạch để kịp thời phát hiện sự chệch hướng khỏi kế
hoạch, đề ra biện pháp khắc phục hạn chế, bất cập hoặc đề ra mục tiêu mới,
hình thành kế hoạch mới. Về mặt quản lý chung, kiểm tra hướng tới việc xem
xét tính khả thi hay không khả thi của một chương trình công tác đã vạch ra,
khả năng thực hiện trong thực tế.
Trong quản lý hành chính nhà nước, kiểm tra có mục tiêu cốt lõi là tìm
kiếm động cơ thúc đẩy cán bộ làm tốt (hay không làm tốt) nhiệm vụ được
giao. Kiểm tra thường gắn liền với công việc của một tổ chức theo một số
hướng chủ yếu sau đây:
- Theo dõi và hướng hoạt động của tổ chức, cơ quan, đơn vị phù hợp
với chức năng, nhiệm vụ đã được phân công.
40. 33
- Quan sát dự báo, nhận định nhiệm vụ được giao có đủ điều kiện thực
hiện, phù hợp với thực tế không hoặc tiềm ẩn những nguy cơ có thể phát sinh.
Hướng dẫn và đưa ra những giải pháp tức thì để đảm bảo hiệu suất công việc
của từng tổ chức, cơ quan, đơn vị.
- Kiểm tra còn đóng vai trò xác định kết quả cuối cùng, đánh giá hiệu
lực hiệu quả của một hoạt động nhất định trong thực tế để so sánh với mục
tiêu kế hoạch đặt ra.
Những biện pháp kiểm tra hiệu quả phải đơn giản (Càng ít đầu mối kiểm
tra càng tốt) cần tạo cơ chế cho cấp dưới thuộc quyền chủ động sử dụng kinh
nghiệm, khả năng và tài quản trị của mình kiểm soát những công việc được
giao.
Nội dung kiểm các quy định quản lý của Nhà nước về việc làm đối với
cấp huyện chủ yếu có một số nội dung sau:
- Hướng dẫn, tuyên truyền về chính sách, pháp luật về lao động - Việc
làm - BHXH đối với các doanh nghiệp được phân cấp quản lý: Hình thức, nội
dung tổ chức thông tin, tuyên truyền, phổ biến …
- Tổ chức thực hiện chính sách pháp luật về lao động, việc làm: Tổ
chức thực hiện chương trình việc làm, giải pháp về việc làm, chính sách phát
triển thị trường lao động trên cơ sở chương trình mục tiêu quốc gia về việc
làm. Lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Thực hiện chương
trình cho vay vốn giải quyết việc làm. Tổ chức thực hiện pháp luật Lao động,
BHXH. Thực hiện công tác thống kê, báo cáo định kỳ và đột xuất về lao
động, việc làm với UBND cùng cấp và cơ quan cấp trên…
Thanh tra trong hoạt động QLNN thì thanh tra không chỉ có ý nghĩa
quan trọng mà còn là một nhu cầu tất yếu trong quản lý hành chính nhà nước;
là chức năng của quản lý, là công cụ của người lãnh đạo, người quản lý.
Thanh tra được nhận dạng là một hoạt động kiểm tra đặc biệt, được các chủ
41. 34
thể có thẩm quyền nhất định tiến hành. Thanh tra được xem là một biện pháp
(phương pháp) của kiểm tra và gắn liền với chức năng pháp lý trong QLNN
thanh tra góp phần nâng cao hiệu quả của QLNN. Đây cũng là một khâu chủ
yếu, kết thúc của một chu trình quản lý.
Thanh tra là một phương thức bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa, là
hoạt động xem xét việc làm của các cơ quan, tổ chức cá nhân có đúng chính
sách, pháp luật hay không. Mục tiêu tối thượng của thanh tra là góp phần
củng cố lòng tin của nhân dân đối với bộ máy QLNN, đề cao phép nước, tính
thượng tôn pháp luật để hoạt động QLNN có kỷ cương đi vào nền nếp và
minh bạch trong các hoạt động. Nhiệm vụ của thanh tra cũng là kiểm tra, tuy
nhiên chỉ kiểm tra các quyền sở hữu nhà nước, quyền sở hữu tập thể có được
thực hiện đúng, có thực sự được bảo vệ hay không, tính hợp pháp của các
hoạt động kinh tế, tài chính...
Với tư cách là một chức năng của QLNN, hoạt động thanh tra trên tổng
thể các lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực quản lý việc làm nhằm phát hiện các
hành vi vi phạm trong quá trình tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật
nói chung, pháp luật về việc làm nói riêng, phát hiện những sơ hở trong quản
lý, cơ chế chính sách từ đó kiến nghị các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
tiến hành các biện pháp phù hợp để phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý hoặc phát
hiện các yếu tố tích cực để khuyến khích, mở rộng, phát huy, nhân rộng điển
hình, tiên tiến.
Vai trò của hoạt động thanh tra ngày càng quan trọng, đặc biệt trong bối
cảnh hiện nay nước ta đang xây dựng nhà nước pháp quyền, cải cách nền
hành chính theo hướng phục vụ, ngày càng hội nhập quốc tế toàn diện trên tất
cả các lĩnh vực trong đó có lĩnh vực việc làm; vì vậy, trong quá trình thực
hiện chức năng QLNN thanh tra về hoạt động quản lý lĩnh vực việc làm, các
cơ quan QLNN nhất thiết phải tiến hành hoạt động thanh tra đối với việc thực
42. 35
hiện các quyết định đã ban hành. Đó là một khâu không thể thiếu được trong
quá trình hoạt động QLNN.
QLNN về KN, TC là biện pháp bảo đảm cho hoạt động giải quyết KN,
TC của công dân diễn ra đúng pháp luật, đạt hiệu quả cao và bảo đảm được
quyền KN, TC của công dân đã được pháp luật quy định thông qua hoạt động
quản lý của các cơ quan, tổ chức và cá nhân được Nhà nước giao quyền trong
từng lĩnh vực này. Trong giải quyết KN, TC về lĩnh vực việc làm là nhu cầu
tất yếu khách quan, xuất phát từ hoạt động của bộ máy Nhà nước và chức
năng của cơ quan thanh tra nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra, giải
quyết KN, TC và góp phần tăng cường hiệu quả hoạt động của bộ máy Nhà
nước về lĩnh vực việc làm.
- Việc khiếu nại là khi xảy ra xung đột lợi ích giữa tập thể với cá nhân,
giữa cá nhân với cá nhân, giữa nhóm người này với nhóm người khác; cho
nên, chủ thể thực hiện quyền khiếu nại là công dân, cơ quan, tổ chức khi thấy
quyền lợi bị xâm hại bởi một quyết định hành chính, hành vi hành chính của
cơ quan hành chính nhà nước hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan
hành chính nhà nước.
- Việc tố cáo là khi, công dân nói chung, NLĐ nói riêng tố cáo hành vi
vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào có hành vi gây
phương hại hoặc đe dọa trực tiếp gây thiệt hại đến lợi ích của nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, của mình và của người
khác. Vì vậy, chủ thể thực hiện quyền tố cáo chỉ có thể là cá nhân, một
người cụ thể.
Giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực việc làm là nhằm bảo vệ, khôi phục
quyền, lợi ích hợp pháp của người khiếu nại; trong đó tố cáo không chỉ để bảo
vệ quyền, lợi ích của người tố cáo mà còn để bảo vệ lợi ích của Nhà nước, xã
hội và của tập thể, của cá nhân khác trong lĩnh vực lao động, giáo dục nghề
43. 36
nghiệp, đưa NLĐ Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, việc
làm, an toàn, vệ sinh lao động ... Tuy nhiên thực tế, từ khi Luật Việc làm có
hiệu lực, chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào quy định về KN, TC và
giải quyết KN, TC trong lĩnh vực việc làm; vì vậy, trong thực tiễn các cơ quan
chức năng QLNN về việc làm ở các cấp khá lúng túng trong việc xử lý những
vấn đề phát sinh, vì các quy định về KN, TC hành chính chỉ áp dụng đối với
khiếu nại về quyết định hành chính và hành vi hành chính.
Trong quá trình kiểm tra, thanh tra, giải quyết KN, TC về việc làm nếu
phát hiện hành vi vi phạm pháp luật, căn cứ vào tính chất, mức độ vi phạm,
trong phạm vi quyền hạn của UBND cấp huyện thực hiện xử lý theo quy định
của pháp luật hiện hành nhằm áp dụng các biện pháp nghiêm khắc để loại trừ
những hành vi trái pháp luật xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước của tập thể,
của cá nhân.
Tóm lại, hoạt động giải quyết KN, TC và xử lý vi phạm pháp luật về việc
làm là một trong những hoạt động đặc biệt nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng
của Nhà nước, tổ chức, lợi ích hợp pháp của công dân thông qua các quyền cơ
bản của công dân trong lĩnh vực việc làm là khiếu nại và tố cáo. Đây là một
hoạt động tương đối có hiệu quả trong việc phát hiện và xử lý các vi phạm
pháp luật nói chung, pháp luật về việc làm nói riêng.
1.3. Kinh nghiệm QLNN về việc làm của thanh niên ở nông thôn ở
một số địa phương
1.3.1. Kinh nghiệm QLNN về việc làm của thanh niên ở nông thôn tại
huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc:
Xác định là huyện miền núi, đời sống của người dân còn nhiều khó khăn;
trên địa bàn hiện chưa có cơ sở công nghiệp lớn, tiểu thủ công nghiệp nhỏ lẻ,
huyện Lập Thạch tỉnh Vĩnh Phúc trong nhiều năm qua thực hiện tốt chủ
trương đẩy mạnh sản xuất, giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho NLĐ ở khu
44. 37
vực nông thôn chính là yếu tố quan trọng thúc đẩy hoàn thành Chương trình
mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới.
Quan điểm và mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội: Huyện ủy, UBND
huyện Lập Thạch xác định là phải đặt trong tổng thể phát triển kinh tế xã hội
của tỉnh Vĩnh Phúc, phát huy tiềm năng, thế mạnh của huyện, tranh thủ tối đa
nguồn lực từ bên ngoài kết hợp với huy động và sử dụng nội lực có hiệu quả
tạo ra bước đột phá về tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế; tăng
cường hợp tác với các huyện trong tỉnh, với các địa phương lân cận.
Nhờ đó giai đoạn 2011-2015, toàn huyện có trên 14.300 lao động được
giải quyết việc làm, trong đó, giải quyết việc làm trong nước cho 13.930 lao
động, XKLĐ 465 người.
Theo số liệu thống kê (đến hết tháng 9/2016), số lao động ở khu vực
nông thôn trên địa bàn huyện là trên 36.000 người (chiếm 47,8%); làm việc
trong ngành dịch vụ, thương mại là trên 12.000 người (chiếm 17%), làm việc
trong lĩnh vực công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây dựng là trên 19.000
người (chiếm 26%). Ngoài ra, còn khoảng hơn 5.000 lao động làm trong các
lĩnh vực khác và lao động tự do.
Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, UBND huyện đã chủ động khảo
sát nhu cầu học nghề, nhu cầu bồi dưỡng kiến thức của NLĐ, phối hợp với
Trung tâm Giáo dục thường xuyên của huyện, Trung tâm Bồi dưỡng kiến
thức và Đào tạo nghề cho lao động nông thôn (Sở NN&PTNT) tổ chức các
lớp dạy nghề ngắn hạn, như: Trồng trọt, chăn nuôi gia súc, gia cầm, nuôi
trồng thủy sản, trồng rừng….. Kết quả NLĐ sau khi tham gia các khóa học đã
tích lũy được kiến thức cơ bản, xây dựng được nhiều mô hình sản xuất nông
nghiệp như: Mô hình trồng Thanh long ruột đỏ ở xã Vân Trục, mô hình nuôi
lợn theo hình thức trang trại ở xã Quang Sơn, mô hình nuôi cá Rô phi đơn
tính đường nghiệp tại các xã như: Văn Quán, Xuân Lôi, Liên Hòa, Hợp Lý,
45. 38
Đồng Ích, Đình Chu, Thái Hòa có tổng diện tích 10ha. Tiêu biểu trong chuyển
đổi cây trồng có nhiều mô hình chuyển đổi trong chăn nuôi mang lại hiệu quả
kinh tế cao như chăn nuôi bò sữa, lợn gia cầm. Đến nay, toàn huyện có 52
trang trại, gia trại chăn nuôi và 7 trang trại tổng hợp, giá trị thu nhập từ 200 -
250 triệu/ha, nhiều trang trại, mô hình đạt từ 300 - 350 triệu/ha/năm. Tổng
đàn bò sữa trên địa bàn huyện đã có 241 con, giá trị thu hoạch từ bán sữa đạt
hơn 20 tỷ đồng/năm, trừ chi phí đạt khoảng 12 tỷ đồng, hiệu quả mang lại
khoảng 8 tỷ đồng/năm, tạo việc làm tại chỗ cho 500-600 lao động.
Trong lĩnh vực công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và xây dựng, Huyện
ủy, UBND huyện chỉ đạo tốt công tác quy hoạch, coi đây là tiền đề để thu hút
đầu tư. Hiện huyện Lập Thạch đã quy hoạch chi tiết 3 khu công nghiệp, với
tổng diện tích 839,3 ha, gồm Khu công nghiệp Lập Thạch I, II và khu công
nghiệp Thái Hòa, Liễn Sơn, Liên Hòa. Ngoài ra, còn có 2 cụm công nghiệp
(Thái Hòa - Bắc Bình và Triệu Đề), hiện nay toàn huyện có hơn 230 doanh
nghiệp, đơn vị sản xuất kinh doanh, hàng năm tạo công ăn, việc làm cho hàng
nghìn lao động của địa phương, nâng cao thu nhập cho người dân. Điển hình
như: Nhà máy Giày da Lập Thạch tại Xuân Lôi, giải quyết việc làm cho 3.500
công nhân, thu nhập bình quân đạt trên 4 triệu đồng/người/tháng; Nhà máy
Giày da Lợi Tín tại thị trấn Lập Thạch, giải quyết việc làm cho 1.050 lao
động, Nhà máy sản xuất tai nghe điện thoại tại Xuân Lôi, giải quyết việc làm
cho 630 lao động, với thu nhập bình quân 3,5 triệu đồng/người/tháng. Trong
đó, Nhà máy Giày da Lợi Tín hiện đang có nhu cầu tuyển thêm khoảng 3.000
công nhân và hiện nay, có nhiều nhà đầu tư, doanh nghiệp đang xúc tiến các
dự án đầu tư trên địa bàn như: Dự án nhà máy sản xuất đồ điện dân dụng của
Công ty TNHH cơ điện Minh Khoa, Dự án Nhà máy sản xuất, lắp ráp các sản
phẩm điện tử điện lạnh của Công ty Cổ phần Nagakawa (Việt Nam); Dự án
Nhà máy may thời trang Hoplun của Công ty TNHH Chang An International