SlideShare a Scribd company logo
1 of 116
Trang 1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU............................................................................................................................. 2
1. Lí do chọn đề tài ......................................................................................................2
2. Lịch sử vấn đề ..........................................................................................................4
2.1. Nghiên cứu về lí thuyết kí hiệu học trên thế giới ................................................... 4
2.2. Các nghiên cứu về kí hiệu học văn học ở Việt Nam............................................... 6
2.3. Các nghiên cứu về tác phẩm của Thuận .......................................................... 8
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu............................................................................11
4. Phƣơng pháp nghiên cứu......................................................................................12
5. Đóng góp của luận văn..........................................................................................13
NỘI DUNG....................................................................................................................... 14
Chƣơng 1: Một số khuynh hƣớng tiếp cận kí hiệu học văn học và tiểu thuyết của
Thuận trong không gian văn học hải ngoại Việt Nam đƣơng đại............................14
1.1. Một số khuynh hướng tiếp cận kí hiệu học........................................................... 14
1.2. Tiểu thuyết của Thuận trong không gian văn học hải ngoại Việt Nam đương đại28
Chƣơng 2: Tiểu thuyết Thuận nhìn từ mã nhân vật và mã không gian - thời gian
nghệ thuật......................................................................................................................37
2.1. Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã nhân vật......................................................... 37
2.2. Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã không gian nghệ thuật................................... 53
2.3. Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã thời gian nghệ thuật ...................................... 69
Chƣơng 3: Tiểu thuyết Thuận nhìn từ mã kết cấu, mã ngôn ngữ và biểu tƣợng văn
hóa..................................................................................................................................80
3.1. Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã kết cấu ........................................................... 80
3.2. Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã ngôn ngữ........................................................ 88
3.3. Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ một số biểu tượng ............................................... 96
KẾT LUẬN .................................................................................................................... 108
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................................. 109
Trang 2
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Con người tồn tại trong cộng đồng và giao tiếp với nhau bằng một hệ thống các tín
hiệu - kí hiệu. Việc sử dụng kí hiệu chính là biểu hiện của nhu cầu diễn đạt ngắn gọn ý
nghĩ của chúng ta với người khác. Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp vì vậy ngôn ngữ
cũng chính là kí hiệu, hệ thống kí hiệu mang tính thỏa ước để “ghi nhận, lưu giữ, chuyển
giao, biểu đạt kinh nghiệm, hình dung, tri nhận thế giới”.[90, tr9]
Thuật ngữ kí hiệu (sign) hay kí hiệu học (semiotics) xuất hiện với tư cách là một khái
niệmtrong các ngành khoa học nói chung và nghiên cứu xã hội nhân văn nói riêng, đây
chính là bước tiến trong nhu cầu tiếp cận cũng như khai thác các lí thuyết mới cho các
lĩnh vực nghiên cứu liên quan đến kí hiệu học.
Kí hiệu học là khoa học nghiên cứu bản chất, chức năng và cơ chế hoạt động của các hệ
thống kí hiệu. Thuật ngữ này được nhà ngữ học Thụy Sĩ Ferdinand de Saussure đề xuất
vào những năm cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX. Ở đó, ông tiên đoán đến một nền kí hiệu
học bao trùm các thể loại kí hiệu của đời sống. Xuất phát từ nền tảng của kí hiệu học cấu
trúc của Saussure, triết gia Mỹ Charles Sanders Pieirce đã phát triển quan điểm sử dụng
kí hiệu theo logic học và cấu trúc tam vị. Dựa trên nền tảng kí hiệu học của Saussure và
Pieirce, ngành kí hiệu học đã phát triển với những tên tuổi quan trọng như: Louis
Hjelmslev, Roland Barthes, Juri Lotman, Umberto Eco… Khoa học nghiên cứu về kí
hiệu không chỉ dừng lại ở mối quan hệ giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt mà tiến tới
tìm hiểu quá trình thiết lập và diễn giải kí hiệu cũng như cơ chế hoạt động đặc thù của nó.
Và ở đó, kí hiệu học liên đới đến các ngành khoa học khác trong tính chất liên ngành
Như đã nói ở trên, ngôn ngữ là kí hiệu, ngôn ngữ làm phương tiện giao tiếp và
chất liệu để tạo nên tác phẩm văn học; đồng thời, khi chúng ta xem văn học là một
phương tiện để giao tiếp, là diễn ngôn thẩm mĩ của xã hội thì lúc đó chỉnh thể tác phẩm
văn học sẽ trở thành một kí hiệu. Lí thuyết kí hiệu học văn học đã nhìn văn học như một
hệ thống kí hiệu đặc thù, hệ thống siêu kí hiệu. Từ đó, bản chất của văn học không phải là
Trang 3
tính hiện thực chủ đạo như trong lí thuyết phản ánh mà là tính kí hiệu. Bởi ngôn ngữ là kí
hiệu, và văn học sử dụng ngôn ngữ làm chất liệu nên văn học cũng là kí hiệu. Khi văn
học là kí hiệu thì tính giao tiếp không phải là chức năng mà là thuộc tính bản thể của văn
học.
Từ những năm 60 của thế kỉ XX, lí thuyết kí hiệu học văn học đã thể hiện sự
năng động của nó trong hành trình nghiên cứu bản chất văn học, và quan trọng hơn, nếu
trước đây, người ta xem văn học là một vũ trụ ngữ nghĩa tự trị, khép kín theo tinh thần
của chủ nghĩa cấu trúc, thì trên thế giới hiện nay, người ta thấy cần xét lại định nghĩa kí
hiệu học văn học. Ở đó, văn bản văn học luôn luôn gắn với ngữ cảnh mà nó ra đời, bởi
đằng sau văn bản là tác giả và đằng sau tác giả là một thời đại. Kí hiệu học văn học cho
thấy những khả năng và giới hạn của nó trong việc xác lập những thuộc tính bản thể của
văn học trong sự chuyển đổi về hệ hình tư duy lí luận văn học từ tiền hiện đại sang hiện
đại và hậu hiện đại. Ở đó, kí hiệu học văn học gia nhập vào kí hiệu học văn hóa, và đằng
sau văn bản văn học là văn bản văn hóa. Tinh thần của Kí hiệu học diễn giải được chúng
tôi đặc biệt quan tâm khi lựa chọn một hiện tượng văn học tiêu biểu để nghiên cứu từ góc
nhìn của lý thuyết này.
Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay, tình hình nghiên cứu lí thuyết kí hiệu học và các loại
hình kí hiệu học vẫn là một “khoảng trống” cần được lấp đầy bởi chúng ta chưa thực sự
có một hệ thống lí thuyết, phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu riêng.
Trong văn xuôi Việt Nam đương đại, có rất nhiều cây bút xuất sắc, tiêu biểu cho
hướng văn học “thay da đổi thịt” như Thuận, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài,
Nguyễn Ngọc Tư, Bảo Ninh, Hồ Anh Thái,… Tuy nhiên chúng tôi chú ý hơn cả vẫn là
Thuận, một tác giả nữ đầy cá tính. Thuận là gương mặt tiêu biểu của văn chương nữ hải
ngoại Việt Nam đương đại. Vốn nằm ở ngoại vi của văn học trong nước, Thuận đã thể
hiện những đổi mới, tạo nên những đường biên của văn học. Tiểu thuyết của Thuận đã
thể hiện sự xâm lấn về văn hóa, giải kiến tạo những chân dung lịch sử trong quá khứ, và
hơn hết là thể hiện sự tự do của người viết theo tinh thần hiện sinh – nhà văn là chủ thể
dấn thân của Sartre. Trên hành trình dấn thân đến chân trời tự do ấy, tiểu thuyết của
Thuận luôn là bức khảm của nhiều thông điệp mà ở đấy, người đọc cũng khó xác định
Trang 4
thông điệp nào là chủ đạo. Hệ thống các kí hiệu trong tiểu thuyết của Thuận luôn đầy ắp
ý nghĩa, luôn cần được giải mã từ nhiều góc nhìn khác nhau. Những kí hiệu hàm nghĩa ấy
đa dạng và sinh động, khiến cho quá trình diễn giải về chúng của người đọc được triển
hạn đến vô cùng.
Xuất phát từ những lí do trên khiến cho đề tài mà chúng tôi lựa chọn: Tiểu
thuyết của Thuận từ góc nhìn kí hiệu học văn học trở nên cấp thiết, chứa đựng các tình
huống khoa học.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Nghiên cứu về lí thuyết kí hiệu học trên thế giới
Xu hướng kí hiệu học gắn với nghiên cứu ngôn ngữ và cấu trúc, bản chất của nghiên cứu
kí hiệu là nghiên cứu ngôn ngữ. Quan điểm của F. Saussure về tính hai mặt cái biểu đạt
và cái được biểu đạt cũng với một số cặp lưỡng phân như ngôn ngữ/lời nói, nội tại/ngoại
tại của kí hiệu đã trở thành dấu móc quan trọng không chỉ đối với ngành ngôn ngữ học
hiện đại mà với cả kí hiệu học. Theo F.Saussure, tín hiệu học/kí hiệu học (sémiologie) là
“một khoa học nghiên cứu đời sống của các tín hiệu trong lòng sinh hoạt xã hội […].
Ngành học này sẽ cho ta biết thế nào là tín hiệu, nó tuân theo những quy luật nào”
[26,15]. Ở đây F.Saussure đã tiên đoán được tầm ảnh hưởng của cấu trúc luận sẽ vượt ra
ngoài phạm vi của ngôn ngữ học với nhận đinh: “Một ngành khoa học nghiên cứu về sự
tồn tại của các kí hiệu trong đời sống xã hội là hoàn toàn phù hợp, khoa học này sẽ là một
phần của tâm lí học xã hội do đó cũng là một phần tâm lí học nói chung; tôi sẽ gọi nó là
kí hiệu học (semiology)”. Như vậy, F. Saussure nhắc đến kí hiệu học lần đầu tiên như
một thuật ngữ riêng của một phân môn nghiên cứu của chủ nghĩa cấu trúc.
Tiếp thu có phê phán và phát triển các quan điểm của Saussure, V.N.Voloshinov
trong Chủ nghĩa Marx và Triết học ngôn ngữ khẳng định, bên ngoài kí hiệu không tồn tại
ý thức – tư tưởng. Bên ngoài kí hiệu, ý thức – tư tưởng chỉ là một sự hư cấu. Theo ý kiến
của Voloshinov, ý thức – tư tưởng không tồn tại ở dạng nào khác ngoài tồn tại dưới hình
thức kí hiệu, và kí hiệu cũng chẳng có mục đích nào khác, mà tồn tại như là ý thức – tư
tưởng. Ý thức không chỉ đầy ắp kí hiệu mà “ý thức chỉ trở thành ý thức khi được lấp đầy
bằng nội dung tư tưởng, tức là nội dung kí hiệu”. Voloshinov viết: “Đặc điểm kí hiệu
Trang 5
chính là cái chung quy định tất cả các hiện tượng tư tưởng. Mỗi kí hiệu tư tưởng không
chỉ là một sự phản ánh, một cái bóng của thực tại, mà còn là một phần vật chất của chính
thực tại đó. Tất cả các hiện tượng kí hiệu tư tưởng đều được thể hiện qua một chất liệu
nào đó: như âm thanh, khối lượng vật lí, màu sắc, vận động cơ thể”, và “Nếu chúng ta
loại khỏi ý thức nội dung kí hiệu tư tưởng của nó, ý thức hoàn toàn không còn lại gì” [35,
54]. Như thế, kí hiệu là hình thức – ý thức – tư tưởng – văn hóa. Không có kí hiệu nằm
ngoài hệ thống ý thức – tư tưởng – văn hóa, cũng không có ý thức – tư tưởng – văn hóa
nếu không được biểu đạt bằng hệ thống kí hiệu.
Khác với mô hình cặp đôi về kí hiệu của F. Saussure, mô hình tam vị của C.S.
Peirce gồm: kí hiệu (sign), đối tượng (object) và diễn giải (interpretant), có thể coi đây là
“vết rạn nứt” đầu tiên của cấu trúc nội tại. Trong ba yếu tố này, nếu như kí hiệu (sign)
như là cái biểu đạt (signifier); đối tượng (object) là suy nghĩ tốt nhất về bất cứ cái gì được
biểu đạt, diễm giải (interpretant) trở thành một phần quan trọng trong mô hình kí hiệu học
của Peirce.
Tiếp nối xu hướng nghiên cứu kí hiệu học gắn với ngôn ngữ - cấu trúc, mô hình kí
hiệu của Louis Hjelmslev là sự phát triển xa hơn mô hình kí hiệu hai mặt của F. Saussure,
đối với Louis Hjelmslev, ông đã định danh lại thành biểu hiện (expression) và mặt nội
dung (content plance) coi đây là cả hai mặt của kí hiệu. Cả mặt biểu hiện và mặt nội dung
đều được phân tầng cụ thể hơn trong hình thức và nghĩa kí hiệu học.
Đối với Roland Barther ông chú ý nhấn mạnh đến sự diễn giải trên cấu trúc tam vị
của Pierce, ông cho chúng ta thấy một sức mạnh vô biên lẫn sự che giấu tồn tại của mỗi
kí hiệu. Xem kí hiệu học là khoa học về các hình thức chịu ràng buộc từ một quy chế
chung của “những khoa học về các giá trị […] xác định sự việc và khảo sát sự việc dưới
góc độ cái-giá trị-như”, R.Barthes khẳng định “huyền thoại như một hệ thống kí hiệu” và
huyền thoại học“nghiên cứu những tư tưởng dạng hình thức”. Barthes cho rằng, huyền
thoại là một hệ thống đặc thù ở chỗ “nó được thiết lập từ một chuỗi kí hiệu tồn tại trước
nó: đó là hệ thống kí hiệu thứ hai” [9, tr292-303]. Bên cạnh đó, ông còn có nhiều công
trình khác nghiên cứu về kí hiệu học khác như: Tuyển tập các công trình kí hiệu học, Thi
Trang 6
pháp học (1989), các thành tố của kí hiệu học (1964), cơ sở của kí hiệu học in trong Chủ
nghĩa cấu trúc và văn hóa (2002),…
Nghiên cứu kí hiệu học trên thế giới còn có nhiều tên tuổi khác như: Charles
Morris, Algirdas J. Greimas, Juri Lotman, Umberto Eco,… Khoa học về kí hiệu đã có
những khảo sát nghiên cứu đa chiều hơn và không ngừng phát triển, tiếp thu và cải biến.
2.2. Các nghiên cứu về kí hiệu học văn học ở Việt Nam
Ở Việt Nam, kí hiệu học nói chung và kí hiệu học văn hóa nói riêng đã nhận được
sự quan tâm của các nhà khoa học trong những năm gần đây, bao gồm các hoạt động dịch
thuật các công trình có tính chất lập thuyết của kí hiệu học tiên phong. Ở đó, các nhà
nghiên cứu đã bàn luận đến vấn đề: phạm vi và các thuật ngữ cơ bản của kí hiệu học, đặc
tính của kí hiệu như tính không đồng đều, tính đa nghĩa và trừu tượng, cơ sở kí hiệu học,
kí hiệu học như một lí thuyết về cách đọc… Có thể kể ra một số công trình dịch thuật
sau:
- Ilin và Tzuganova (2003), Các khái niệm và thuật ngữ của các trường phái nghiên cứu
văn học ở Tây Âu và Hoa Kỳ thế kỉ XX (Đào Tuấn Ảnh, Trần Hồng Vân, Lại Nguyên Ân
dịch),
- Antoine Compagnon (2006), Bản mệnh của lí thuyết – Văn chương và cảm nghĩ thông
thường (Lê Hồng Sâm và Đặng Anh Đào dịch), Nxb ĐHSP, HN.
- Trịnh Bá Đĩnh (2007), Kí hiệu học văn hóa, văn học, Đề tài cấp viện, Viện Văn học,
HN.
- Jakovson (2008), Thi học và ngữ nghĩa – Lí luận văn học phương Tây hiện đại (Trần
Duy Châu biên khảo), Nxb Văn học và TT Nghiên cứu Quốc học.
- Todrrov, Kí hiệu học văn học, Trần Đình Sử dịch, nguồn
https://trandinhsu.wordpress.com/2014/01/26/ki-hieu-hoc-van-hoc/
- V.A. Milovidov, Kí hiệu (Lã Nguyên dịch), nguồnhttp://phebinhvanhoc.com.vn/ky-
hieu/
- IU.M. Lotman, Kí hiệu học văn hóa (Lã Nguyên, Đỗ Hải Phong, Trần Đình Sử dịch),
Nxb ĐHQG, H, 2015.
Bên cạnh những công trình dịch thuật, phải kể đến những công trình nghiên cứu và
Trang 7
ứng dụng Kí hiệu học văn học ở Việt Nam:
Trước hết, phải nhắc đến Hoàng Trinh với hai công trình tiêu biểu liên quan đến kí
hiệu học, “Kí hiệu, nghĩa và phê bình văn học” (1979), “Từ kí hiệu học đến thi pháp
học” (1997). Cả hai công tình đều là sự ứng dụng hệ hình lí thuyết để áp dụng vào phê
bình văn học, cũng như sử dụng kí hiệu học để lí giải các hình tượng văn học.
- Lộc Phương Thủy (chủ biên), Lí luận phê bình văn học thế giới thế kỉ XX (tập 2), 2007
- Lã Nguyên (2012), Lí luận văn học, những vấn đề hiện đại, Nxb ĐHSP, HN.
- Nguyễn Tri Nguyên (2015), Kí hiệu học văn hóa, Nxb Thông tin và truyền thông, Hà
Nội.
- Xem biểu tượng như là một phạm trù quan trọng của kí hiệu học, Đinh Hồng Hải
với các công trình nghiên cứu liên quan đến biểu tượng dưới góc nhìn kí hiệu học như
“Nghiên cứu biểu tượng một số hướng tiếp cận lí thuyết” (2014) và “Cấu trúc luận trong
nghiên cứu biểu tượng từ kí hiệu học đến nhân học biểu tượng” (2016). Trong những
công trình lớn này, tác giả chủ yếu sử dụng nhiều lí thuyết khác nhau để nghiên cứu biểu
tượng như cấu trúc luận, ngôn ngữ học, nhân học, trong đó tiêu biểu có đề cập đến nghiên
cứu biểu tượng dưới góc nhìn kí hiệu học.
Bên cạnh đó, còn có nhiều công trình nghiên cứu về kí hiệu học nói chung và kí
hiệu học văn học nói riêng của các nhà phê bình nổi tiếng như Trịnh Bá Đĩnh với bài viết
“Biểu tượng nhìn từ góc nhìn kí hiệu học văn hóa” (2016); Lê Huy Bắc với các bài viết
“Văn chương như kí hiệu đa văn hóa”(2016), “Cổ mẫu như kí hiệu văn chương”(2015),
“Mặc định học kí hiệu” (2015); Trần Đình Sử với các bài viết được đăng trên nhiều trang
web (https:// trandinhsu.wordpress.com) như “Mã và giải mã trong văn học” , “Tính kí
hiệu của hình tượng văn học”.
Gần đây nhất (10/2016) là hội thảo Kí hiệu học, từ lí thuyết đến ứng dụng trong
nghiên cứu và dạy học Ngữ văn được tổ chức tại trường Đại học sư phạm Hà Nội, với sự
đóng góp nghiên cứu của rất nhiều các chuyên gia đầu ngành nghiên cứu văn học đã phác
thảo diện mạo tình hình nghiên cứu kí hiệu học nói chung và kí hiệu học văn học nói
riêng tại Việt Nam.
Trang 8
Nhìn chung tất cả những khảo sát về những công trình, đề tài nghiên cứu về kí
hiệu học nói chung cũng như kí hiệu học văn học nói riêng ở trên cho thấy, gần đây kí
hiệu học là ngành nghiên cứu đang được quan tâm và là xu hướng nghiên cứu chủ đạo
hiện nay. Những nghiên cứu về kí hiệu học văn học đối với những hiện tượng văn học cụ
thể (nghiên cứu trường hợp) luôncho thấy sự khát vọng xác lập những vênh lệch giữa
thực tiễn sáng tác và những vấn đề của lí thuyết văn học. Chỉ ra những vênh lệch ấy,
chúng tôi thiết nghĩ là cần thiết để thể hiện quan niệm mọi lí thuyết văn học đều xuất phát
từ thực tiễn sáng tác và những nghiên cứu trường hợp luôn có ý nghĩa trong việc tạo lập
sự sinh động, đa dạng và bổ khuyết cho lí thuyết văn học.
2.3. Các nghiên cứu về tác phẩm của Thuận
Ở Việt Nam, Thuận được coi là một cây bút mới có cá tính nên tác phẩm của chị
cũng được chú ý nghiên cứu khá nhiều. Qua tìm hiểu, chúng tôinhận thấy tác phẩm của
Thuận đã được triển khai trên nhiều phương diện khác nhau, ứng dụng nhiều lí thuyết
khác nhau để soi chiếu chiếu tác phẩm như nữ quyền luận, chủ nghĩa hiện sinh, phân tâm
học, hậu hiện đại…Tuy nhiên, trong số rất nhiều các đề tài đó, chúng tôi đặc biệt quan
tâm đến một số các đề tài có liên quan đến nghiên cứu của chúng tôi.
Luôn có ý thức cách tân văn học, nghiêm túc với công việc của mình, bạo dạn và
thậm chí khiêu khích với thẩm mỹ truyền thống, Thuận nhận được không ít sự ủng hộ
cũng như bài xích, chê bai.. Trong bài viết Suy nghĩ về dịch thuật và ngôn ngữ văn
chương, Cao Việt Dũng khẳng định: “Thuận đã tạo ra một thế giới khác, một thế giới
mong manh nằm trên biên giới các nền văn hóa, nhưng cùng lúc cũng là một thế giới
vững chắc với các nền móng chung, với những lối liên thông với những động hướng gần
gũi nhau.” Thuận có “một thứ can đảm phi thường trong một khí hậu văn chương đậm
màu tầm thường đang vây bủa: can đảm bịa đặt”.
Với nhiều cuốn tiểu thuyết nhà văn Thuận đã thu hút được bạn đọc bởi nội
dung và nghệ thuật mang nhiều hơi hướng lạ. Nhận định về tiểu thuyết của Thuận chúng
tôi tìm thấy những bài báo, những ý kiến phát biểu qua những trang Web, cụ thể như sau:
Trong bài viết Với tôi văn chương là những chuyến đi, tác giả Thủy Lê nhận định: “Đặc
điểm chung tiểu thuyết của Thuận là thường gây lạ bằng những nhan đề chứa địa danh
Trang 9
quen thuộc: Việt Nam, Chinatown, Paris và nghe nói tới đây còn có New York”. Cũng
theo Thủy Lê: Những địa danh đó liên quan đến cuộc đời và số phận nhân vật của Thuận;
phần lớn nhân vật của Thuận “là những kiếp sống tha hương thậm chí đã có lúc đã chạm
đến tận cùng cay đắng”. Tiểu Quyên trong bài viết Dòng chảy trầm của văn học xa
xứ khẳng định: các nhà văn xa xứ có cách nhìn cuộc sống già dặn, triết lí và đầy giá trị
nhân sinh sâu sắc. Bài báo đánh giá cao sáng tác của nhà văn Thuận, nhất là viết về thân
phận người phụ nữ li hương. Tác giả bài báo đề cập đến số phận những người xa xứ, nhất
là nỗi cô đơn, sự cô độc của con người trong thế giới hiện đại phương Tây.
Văn học phải viết về con người, Thuận cũng nằm ngoài phạm vi đề tài đó. Chính
vì thế vấn đề về con người trong tiểu thuyết của Thuận được quan tâm khá nhiều trong rất
nhiều các công trình nghiên cứu cũng như các bài viết được đăng trên những tạp chí uy
tín. Chúng ta có luận văn thạc sĩ của Vũ Thị Hạnh (Đại học Thái Nguyên) với đề tài “Thế
giới nhân vật trong tiểu thuyết của Thuận”( 2011) ở công trình nghiên cứu đó tác giả đã
khảo sát hệ thống các kiểu nhân vật dễ bắt gặp nhất trong một vài tiểu thuyết của Thuận;
cũng nói về con người, nhưng khảo sát hình ảnh con người cô đơn, Hoàng Thi Liên (Đại
học Đà Nẵng) trong luận văn thạc sĩ của mình đã có công trình nghiên cứu “Con người
cô đơn trong tiểu thuyết của Thuận” (2011). Không chỉ dừng lại ở những công trình luận
văn thạc sĩ, có nhiều bài báo, bài hội thảo bàn về kiểu nhân vật trong văn chương đương
đại nói chung, trong đó có nhắc nhiều đến tác phẩm của Thuận cùng những kiểu nhân vật
xuất hiện trong đó, ví dụ như Nguyễn Thị Kim Tiến ( Đại học Đồng Tháp) bàn về “Về
kiểu “ẩn danh” nhân vật - Tiếp cận qua một số tiểu thuyết Việt Nam đương đại” , trong
bài viết đó tác giả đã nhắc đến rất nhiều tác phẩm của Thuận có xuất hiện kiểu nhân vật
ẩn danh. Cũng với vấn đề về con người, có bài viết “Tiểu thuyết hải ngoại và vấn đề thân
phận tha hương”( Lí Hoài Thu – Nguyễn Thu Trang) được đăng trên tạp chí Văn nghệ
quân đội, bài viết đề cập đến nhiều tác giả hải ngoại trong đó có Thuận với cảm thức tha
hương trong việc sáng tạo nhân vật của mình. Nhân vật là một kí hiệu tiêu biểu nên
chúng tôi chọn tiêu chí này để đưa vào đề tài của mình.
Qua tìm hiểu, chúng tôi thấy giọng điệu – ngôn ngữ trong tiểu thuyết của Thuận
cũng được sự quan tâm khá nhiều của các nghiên cứu gần đây, giọng điệu và ngôn ngữ
Trang 10
trong văn chương cũng chính là một mã kí hiệu cần khai thác. Trong những công trình
nghiên cứu về giọng điệu liên quan đến tiểu thuyết của Thuân chúng tôi đặc biệt chú ý
đến bài viết “Giọng điệu trần thuật trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại”của tiến sĩ
Thái Phan Vàng Anh được đăng trên tạp chí Văn hóa Nghệ An (2010), trong đó có một
phần khảo sát giọng điệu trong nhiều tiểu thuyết khác nhau và tiểu thuyết của Thuận rất
được quan tâm. Đồng thời, có luận văn thạc sĩ của Trần Thị Thanh Thoa (Đại học sư
phạm thành phố Hồ Chí Minh) viết về “Giọng điệu giễu nhại trong tiểu thuyết của
Thuận” (2014). Trong một luận văn khác của Vũ Thị Hạnh ( Đại học Khoa học xã hội –
nhân văn, Hà Nội) “Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết của Thuận”(2010), tác giả đã dành
riêng một chương để khảo sát về giọng điệu trong tiểu thuyết của Thuận, trong đó cũng
có nhắc đến các kiểu giọng điệu đặc trưng mà theo chúng tôi nó liên quan đến đề tài mà
chúng tôi đang nghiên cứu. Liên quan đến nghiên cứu cách sử dụng ngôn ngữ trong tiểu
thuyết của Thuận chúng tôi chú ý đến một số bài viết như “Chơi cùng ngôn ngữ trong
tiểu thuyết của Thuận”, bài viết của Vũ Thị Hạnh (Trường Đại học Khoa học – Đại học
Thái Nguyên) xem xét ngôn ngữ trong các tiểu thuyết của Thuận và đưa ra một kiểu ngôn
ngữ tiêu biểu thường thấy trong tiểu thuyết; một bài nghiên cứu nhỏ hơn những có giá trị
không kém đó chính là bài viết của Nguyễn Văn Thông được đăng trên tạp chí Gác trọ
văn chương, bài viết “Đặc sắc ngôn ngữ trong Paris 11 tháng 8 của Thuận” (2013), bài
viết cho thấy những nét đặc sắc trong cách dụng ngôn ở tiểu thuyết Paris 11 tháng 8_một
tiểu thuyết thành công của Thuận.
Bên cạnh vấn đề về con người, nhân vật, ngôn ngữ- giọng điệu, ở tiểu thuyết của
Thuận có một số nét đặc sắc nữa mà chúng tôi thấy cần lưu tâm vì xét về phương diện kí
hiệu học thì các yếu tố đó cũng chính là các mã kí hiệu cần được giải mã. Các yếu tố
khác như giấc mơ (chiêm bao), không quan, thời gian,…Viết về giấc mơ trong tiểu thuyết
của Thuận có bài viết của Tâm Đanvới tiêu đề “Những giấc mơ trong tiểu thuyết của
Thuận” đăng trên nhiều báo, tạp chí văn học,…bài viết chú ý khai thác những giấc mơ
xuất hiện xuyên suốt trong một vài tác phẩm của Thuận từ đó lí giải giấc mơ từ lí thuyết
phâm tâm học. Bên cạnh đó có một số đề tài liên quan đến không gian nghệ thuật trong
các tác phẩm của Thuận như bài viết “Vấn đề không – thời gian trong tiểu thuyết Việt
Trang 11
Nam đầu thế kỷ XXI và sự xóa nhòa những đường biên thể loại” (Hoàng Cẩm Giang)
được đăng trong ký yếu Những lằn ranh văn học (2011) bài viết có một phần khảo sát các
kiểu không gian thường gặp trong tiểu thuyết của Thuận, kiểu không gian được lặp đi lặp
lại có tính hệ thống được trình bày mô tả thành bảng biểu rất rõ ràng. Ngoài ra, không
gian thời gian cũng chính là một bộ của thi pháp học, chính vì thế trong luận văn thạc sĩ
“Thi pháp tiểu thuyết của nhà văn Thuận”của Nguyễn Xuân Lệ Hằng (2009) cũng có
một chương riêng dành cho nghiên cứu không gian – thời gian nghệ thuật trong những
sáng tác của Thuận.
Từ những tìm hiểu trên, có thể thấy hướng nghiên cứu về Thuận không phải là
hướng đi hoàn toàn mới. Tuy nhiên, soi chiếu tác phẩm của Thuận dưới góc nhìn kí hiệu
học văn học là hướng đi khá mới mẻ mà từ trước tới nay ngoài những bài viết có đề cập
chút ít thì vẫn chưa có một công trình nghiên cứu nào thực sự đặt vấn đề cho hướng
nghiên cứu này.
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài trước hết chính là lí thuyết kí hiệu học văn học,
tiếp theo đó chính là tiếp cận những tác phẩm của Thuận dưới góc nhìn kí hiệu học văn
học. Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay, lí thuyết về kí hiệu học nói chung chỉ được tiếp cận
thông qua các văn bản dịch, đây chính là một khó khăn của chúng tôi trong quá trình thực
hiện đề tài. Vì vậy, để có cơ sở soi chiếu những sáng tác của Thuận một cách sáng tỏ nhất
chúng tôi đã thực hiện một chương liên quan đến lí thuyết nhằm giới thuyết ngắn gọn và
rõ ràng những tư tưởng, quan niệm của các nhà kí hiệu học, hay những trường phái kí
hiệu học trên thế giới. Trong quá trình giới thuyết đó luận văn có thể phát sinh thêm
những đối tượng nghiên cứu liên quan mật thiết với lí thuyết kí hiệu học như triết học
ngôn ngữ, cấu trúc luận và chủ nghĩa giải cấu trúc, biểu tượng, cổ mẫu,… Trên đây là
toàn bộ những vấn đề liên quan đến đối tượng nghiên cứu của luận văn mà chúng tôi đề
xuất.
Về phạm vi nghiên cứu, thông qua quá trình tìm hiểu chúng tôi nhận thấy có
một số tác phẩm của Thuận có thể giải mã dưới góc nhìn kí hiệu học văn học và chúng
Trang 12
tôi đã chọn đó làm phạm vi nghiên cứu của luận văn. Phạm vi nghiên cứu của đề tài bao
gồm các tiểu thuyết:
– Made in Vietnam (tiểu thuyết, nhà xuất bản Văn Mới, California, 2002).
– Chinatown (tiểu thuyết, nhà xuất bản Đà nẵng, 2005/.
– Paris 11 tháng 8 (tiểu thuyết, nhà xuất bản Đà nẵng, 2006)
– T mất tích (tiểu thuyết, Nhã Nam & NXB Hội nhà văn, 2007
– Vânvy (tiểu thuyết, NXB Hội nhà văn, 2008)
– Thang máy Sài Gòn (tiểu thuyết, Nhã Nam & NXB Hội Nhà Văn, 9/2013 .
– Chỉ còn 4 ngày là hết tháng Tư (tiểu thuyết, Nhã Nam, 2015).
Trong quá trình nghiên cứu, để nhìn thấy những tương đồng và khác biệt của những mã
kí hiệu văn học trong tiểu thuyết của Thuận, chúng tôi sẽ chọn một số tiểu thuyết của các
tác giả khác Văn học Việt Nam đương đại để bổ sung phạm vi nghiên cứu.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phƣơng pháp cấu trúc – kí hiệu học
Sử dụng phương pháp này trước hết chúng tôi nghiên cứu một các có hệ thống quan điểm
của một số nhà lập thuyết kí hiệu học như Ferdinand de Saussure, Charles Sander Pirce,
Louis Hjeimslev, Roland Barthes, Kiristeva, Umberto Eco,…Sau đó dùng các lí thuyết đó
để nghiên cứu những mã kí hiệu trong tác phẩm của Thuận, xem tất cả những tiểu thuyết
của Thuận là một hệ thống các kí hiệu, đặt các tác phẩm trong một hệ thống có quan hệ
với nhau và có quan hệ với nhiều kí hiệu khác ngoài văn bản. Từ đó đi đến những nhận
định, kết quả cần thiết.
- Phƣơng pháp so sánh - đối chiếu
Sử dụng phương pháp này để chỉ ra những yếu tố mới khi nghiên cứu tác phẩm của Thuận
dưới góc nhìn kí hiệu học văn học so với các lí thuyết khác đã từng nghiên cứu về Thuận
như thi pháp học, hậu hiện đại, tự sự học,… Bên cạnh đó, dùng phương pháp này để so
sánh Thuận với các nhà văn hải ngoại nữ khác như Đoàn Minh Phượng, Duyên,… để
thấy được những đóng góp của Thuận đối với nền văn học đương đại Việt Nam.
- Phƣơng pháp liên ngành
Phương pháp liên ngành là một trong những phương pháp nghiên cứu quan trọng và chủ
Trang 13
đạo trong khoa học xã hội và nhân văn hiện nay.
Đặc biệt, việc sử dụng phương pháp này là tất yếu trong nghiên cứu kí hiệu học văn học,
bởi kí hiệu văn học luôn cần được giải mã từ nền tảng của các ngành khoa học khác như
ngôn ngữ học, văn hóa học, tâm lý học, lí thuyết diễn ngôn… Việc phối kết lí thuyết của
nhiều ngành khoa học trong diễn giải kí hiệu xuất phát từ bản chất phức tạp, đa nghĩa và
luôn bí ẩn của kí hiệu văn học.Vì vậy, Phương pháp liên ngành giúp chúng tôi tiếp cận
được bản chất của vấn đề nghiên cứu từ quan điểm của nhiều ngành khoa học, phối
hợp lí thuyết của nhau, sử dụng các khái niệm để giải mã những ẩn số văn hóa, qua đó
có cái nhìn toàn diện, thấu tỏ đặc trưng tiểu thuyết Thuận từ góc nhìn kí hiệu học văn
học.
5. Đóng góp của luận văn
Về lí thuyết: Nghiên cứu kí hiệu học như một lí thuyết mới ở Việt Nam vẫn còn là
một vấn đề sơ lược, chính vì thế ở luận văn này chúng tôi nhằm khái lược lại ngắn
gọn nhất những quan niệm lí thuyết kí hiệu học nói chung và kí hiệu học văn học nói
riêng.
Về thực tiễn: Giải mã tác phẩm dưới điểm nhìn mới để khám phá được những đặc sắc
về nội dung cũng như nghệ thuật trong tác phẩm của Thuận, để chứng minh sự khác
biệt trong phong cách nhà văn Thuận, một cây bút nữ hải ngoại đầy cá tính trong thể
loại tiểu thuyết.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, Phần Nội dung luận văn
được triển khai thành 3 chương như sau:
Chƣơng 1: Một số khuynh hƣớng tiếp cận lí thuyết kí hiệu học văn học và tiểu
thuyết của Thuận trong không gian văn học hải ngoại Việt Nam đƣơng đại
Chƣơng 2: Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã nhân vật và mã không gian – thời
gian
Chƣơng 3: Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã kết cấu, mã ngôn ngữ và biểu
tƣợng văn hóa
Trang 14
NỘI DUNG
Chƣơng 1: Một số khuynh hƣớng tiếp cận kí hiệu học văn học và tiểu thuyết của
Thuận trong không gian văn học hải ngoại Việt Nam đƣơng đại.
1.1. Một số khuynh hƣớng tiếp cận kí hiệu học
1.1.1. Một số khuynh hướng tiếp cận kí hiệu học trên thế giới
Vào thế kỉ thứ XIX kí hiệu học được phát triển bởi nhà triết học người giới Mỹ Sharles
Sanders Pierce (1839 – 1914) tiếp theo ông là rất nhiều các nhà kí hiệu học khác phát
triển quan điểm của ông cũng như đưa ra các khuynh hướng nghiên cứu mới về kí hiệu
học của riêng họ. Có thê kể đến các chuyên gia hàng đầu của kí hiệu học hiện đại như:
Roland Barthes (1915 – 1980), Yiri Lotman (1922 – 1993), Umberto Eco ( 1932),
Hjmelmslev (1899 – 1966), Roman Jakobson (1896- 1982),…Tất nhiên trong lịch sử phát
triển kí hiệu học, chúng ta không thể không nhắc đến vai trò to lớn của F. Saussure (1857
– 1913), ông là người mở đầu cho ngôn ngữ học hiện đại và cũng chính là người đặt
những cơ sở khoa học vững chắc có hệ thống để từ đó kí hiệu học có thể phát triển thành
một bộ môn sâu rộng như thời điểm hiện tại.
Khuynh hƣớng tiếp cận kí hiệu học gắn với nghiên cứu ngôn ngữ và cấu trúc
(khuynh hƣớng tiếp cận dựa trên bình diện cú pháp học)
Mô hình cặp đôi kí hiệu của Ferdinand de Saussure :
Ferdinand de Saussure (1857 – 1913) là nhà ngôn ngữ học Thụy Sĩ, người mở đường cho
ngôn ngữ học hiện đại và sáng lập ngành ngôn ngữ học cấu trúc. Trong giáo trình ngôn
ngữ học đại cương (Cours de linguistique genseerale, 1916), Saussure dùng hai từ phân
biệt « langage » và « langue » trong tiếng Việt hoặc tiếng Anh chỉ có một nghĩa tương
đương là « ngôn ngữ » hoặc « language ». Ngôn ngữ (langage) là hoạt động nói năng,
không chỉ bao gồm ngôn ngữ nói mà rộng hơn (người ta có thể nói với nhau bằng động
tác…). Ngôn ngữ (langue) là tập hợp cá kí hiệu được một cộng đồng sử dụng để liên lạc,
trao đổi thông tin, như tiếng Việt, tiếng Anh, tiếng Trung,…Cùng vơi các khái niệm
langage và langue là khái niệm « ngôn từ » (parole) ; đó là việc sử dụng cụ thể các kí hiệu
Trang 15
ngôn ngữ trong ngữ cảnh nhất định. Ngôn ngữ học chỉ là một nhánh của kí hiệu nói
chung, những là nhanh quan trọng và được phát triển mạnh mẽ nhất.
Trong ngôn ngữ (langue), ông phân biệt hai mặt : cái biếu đạt ( le signifiant) và cái được
biểu đạt (le sinifie). Cái được biểu đạt là ý niệm về một sự vật nao đó hình thành trong
đầu ta ; còn cái biếu đạt là âm thanh của một từ phát ra để chỉ ý niệm kia. Mối quan hệ
giữa cái biếu đạt và cái được biểu đạt hoàn toàn có tinh chất võ đoán, vô cớ.
Như vậy, có thể nói, người duy nhất làm cuộc cách mạng thành công trong ngôn ngữ học
là Ferdinand de Saussure, ông chính là người xây dựng nên một hệ thống lí thuyết về
ngôn ngữ theo quan điểm cấu trúc luận ông nhận thấy ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội,
một thiết chế, một tập hợp kí hiệu, một công cụ giao tiếp.
Một luận điểm quan trọng của Saussure là coi ngôn ngữ về cơ bản như một công cụ giao
tiếp xã hội, chứ không phải là biểu hiện của một cấu trúc tư duy tồn tại độc lập với mọi
hình thức của nó. Sự biểu hiện này được quan niệm như một chức năng cơ bản, theo
những nhà ngữ pháp so sánh, hay như một phương tiện cần yếu cho giao tiếp, theo những
nhà ngữ pháp đại cương Port-Royan. Điều đó cũng do tính tuỳ tiện, tính quy ước của
ngôn ngữ mà ra. Muốn bảo đảm chức năng giao tiếp, ngôn ngữ trước hết phải là một hệ
thống kí hiệu. Không có kí hiệu thì không thể có một sự giao tiếp nào cả.
Kí hiệu không phải là những yếu tố rời rạc, mà là một tập hợp có tổ chức, có hệ thống,
một chỉnh thể bao gồm những yếu tố có liên quan mật thiết với nhau, tuỳ thuộc lẫn nhau,
giá trị của yếu tố này là do sự đồng thời có mặt của yếu tố kia, trong hệ thống, quyết
định. Tính hệ thống của kí hiệu ngôn ngữ cho phép sự kết hợp muôn mày muôn vẻ giữa
chúng với nhau để phát huy tính sáng tạo của tiếng nói, nhằm đáp ứng những nhu cầu
diễn đạt ngày càng cao.
Saussure chỉ ra rằng ngôn ngữ lúc nào cũng hiện ra như một tổ chức (hệ thống hay cấu
trúc). Vì vậy, mọi sự nghiên cứu phải "xuất phát từ cái tổng thể làm thành một khối – để
phân tích ra những yếu tố mà nó chứa đựng", chứ không nên "bắt đầu bằng những yếu tố
và xây dựng nên hệ thống bằng cách cộng lại tất cả các yếu tố đó lại".
Khuynh hƣớng tiếp cận kí hiệu học gắn liền với bình diện ngữ nghĩa học
Charles Sander Pirce với Mô hình cấu trúc tam vị :
Trang 16
mô hình tam vị của C.S. Peirce gồm: kí hiệu (sign), đối tượng (object) và diễn giải
(interpretant) có thể coi là vết rạn nứt đầu tiên của cấu trúc nội tại. Trong ba yếu tố này,
nếu như kí hiệu (sign) như là cái biểu đạt (signifier); đối tượng (object) là suy nghĩ tốt
nhất về bất cứ cái gì được biểu đạt, là cái mà từ được viết hoặc nói ra gắn liền vào nó, thì
diễn giải (interpretant) trở thành một phần quan trọng trong mô hình kí hiệu học của
Peirce. Đây là điểm mới và khác biệt mà Peirce đưa ra để hiểu và xác định kí hiệu, là ý
tưởng tốt nhất về sự hiểu (understanding) mà chúng ta có về mối quan hệ kí hiệu/đối
tượng.
Đối với Peirce, một kí hiệu luôn là “sự đại diện” (representation) cho ai đó “bằng
một cái gì đó trong các quan hệ hoặc khả năng nào đó”, và nó “là mọi thứ để xác định
một thứ gì khác” để ám chỉ đến một đối tượng mà bản thân nó được quy vào. Mô hình
cấu trúc trong lí thuyết của Peirce là một tương tác giao tiếp của các quá trình liên tưởng.
Ông sử dụng thuật ngữ kí hiệu học theo quan điểm của logic học, từ đó các kí hiệu được
sắp xếp bởi cấu trúc tam vị, các yếu tố luôn có sự ảnh hưởng, tương tác lẫn nhau. Từ kí
hiệu này sẽ sản sinh ra kí hiệu khác thông qua việc diễn giải kí hiệu trước đó.
Điều quan trọng của diễn giải đối với Peirce chính là ý nghĩa, không phải là mối quan hệ
cặp đôi đơn giản giữa kí hiệu và đối tượng: một kí hiệu biểu thị chỉ được tồn tại trong sự
diễn giải. Peirce không tin rằng ý nghĩa có được nhờ mối quan hệ hai mặt trực tiếp giữa
kí hiệu và đối tượng. Vì thế, ông đã đưa ra quan điểm mới này về mô hình tam vị như là
việc chúng ta nhận thức hoặc hiểu thế nào về một kí hiệu và mối quan hệ của nó với đối
tượng. Điều này khiến diễn giải trở thành nội dung trung tâm của kí hiệu. Ý nghĩa của kí
hiệu lộ ra trong diễn giải và điều này chỉ xảy ra khi xuất hiện người sử dụng kí hiệu. Ở
đây, diễn giải là ý nghĩa, là cách chúng ta giải thích về kí hiệu, tương tự như “cái được
biểu đạt” của F. Saussure, chỉ khác đó là một kí hiệu trong ý thức người diễn giải. Yếu tố
diễn giải trong lí thuyết của Peirce cũng nhấn mạnh rằng quy trình kí hiệu (semiosis) là
một quá trình (trong khi đó, lí thuyết của Saussure nhấn mạnh đến cấu trúc).
Louis Hjeimslev với mô hình cấu trúc phân tầng :
Tiếp nối xu hướng nghiên cứu kí hiệu học gắn với ngôn ngữ - cấu trúc, mô hình kí hiệu
của Louis Hjelmslevlà sự phát triển xa hơn mô hình kí hiệu hai mặt cũng như sự phân
Trang 17
biệt của Saussure về nghĩa (substance) và hình thức (form). Nếu như cái biểu đạt (hình
ảnh - âm thanh) và cái được biểu đạt (khái niệm) là hai mặt trong mô hình kí hiệu của
Saussure, thì đối với Louis Hjelmslev, ông đã định danh lại thành biểu hiện
(expression) và nội dung (content), coi đây là hai mặt của kí hiệu. Cả mặt biểu hiện
(expression plane) và mặt nội dung (content plane) đều được phân tầng cụ thể hơn
trong hình thức và nghĩa kí hiệu học. Theo ông, một kí hiệu có bốn tầng bậc: nội dung -
hình thức (content - form), biểu hiện - hình thức (expression), nội dung - nghĩa (content -
substance), và biểu hiện - nghĩa (expression). Hjelmslev đã mô hình hóa lí thuyết như
sau:
Trong sự phân tích của Hjelmslev, mỗi kí hiệu có một chức năng giữa hai hình thức, hình
thức nội dung và hình thức biểu hiện, và đây chính là điểm bắt đầu của việc phân tích
ngôn ngữ. Tuy nhiên, mỗi chức năng kí hiệu cũng biểu hiện hai nghĩa: nghĩa của nội
dung và nghĩa của biểu hiện. Nghĩa của nội dung (content substance) là sự biểu hiện tâm
lí và khái niệm của kí hiệu. Nghĩa của biểu hiện (expression substance) là nội dung vật
chất, nơi mà một kí hiệu được biểu hiện. Nghĩa này có thể là một âm thanh, nhưng cũng
có thể là bất cứ cái gì hỗ trợ hữu hình, hoặc cũng có thể như sự chuyển động của hai bàn
Trang 18
tay, trong trường hợp ngôn ngữ kí hiệu... Nói tóm lại, Hjelmslev đã đề xuất một phương
pháp phân tích phân tầng với kết thúc mở như là một kí hiệu học mới.
Theo luận thuyết của Saussure thì kí hiệu học là lí thuyết về hình thức (hoặc cấu
trúc), chứ không phải về nghĩa, vì thế Hjelmslev đã giới hạn việc sử dụng thuật ngữ kí
hiệu ở hai bậc biểu hiện - hình thức và nội dung - hình thức. Tuy nhiên, không giống như
Saussure, ông coi hai bậc về nghĩa tồn tại không định hình, được cấu trúc bởi hệ thống
hình thức của kí hiệu. Và khi thảo luận về phạm vi tiền kí hiệu của một thế giới phi cấu
trúc, Hjelmslev đã đưa ra khái niệm mục đích (purport). Ở đây mục đích sẽ phù hợp với
“nghĩa không định hình”, và các mặt nội dung và biểu hiện trong mô hình của Hjelmslev
là tương ứng và xuất phát từ nguyên tắc tùy ý. Quan niệm về nghĩa và hình thức xuất hiện
khá đa dạng trong kí hiệu học và ngôn ngữ học, song trong định nghĩa của Hjelmslev,
chính nội dung (mục đích) xuất hiện như một thuật ngữ thứ ba lại có ảnh hưởng và tạo ra
một chiều hướng mới cho việc nghiên cứu kí hiệu.
Cùng từ mô hình phân tầng kí hiệu này, đóng góp quan trọng của Hjelmslev là sự
phân biệt giữa kí hiệu học biểu thị và kí hiệu học hàm nghĩa. Hệ thống kí hiệu thông
thường là hệ thống kí hiệu học biểu thị và kí hiệu học hàm nghĩa là một hệ thống kí hiệu
mà bình diện biểu đạt (hình thức) của nó cũng là một hệ thống kí hiệu biểu thị. Hjelmslev
cũng đưa ra khái niệm siêu ngôn ngữ và siêu kí hiệu. Trong sự khác nhau giữa hàm nghĩa
và siêu kí hiệu, Hjelmslev đã chỉ ra cấu trúc song hành: kí hiệu học hàm nghĩa là kí hiệu
học mà “mặt biểu hiện của nó là một kí hiệu, và kí hiệu học biểu thị là một kí hiệu mà
mặt nội dung của nó là một kí hiệu”. Nói cách khác, kí hiệu học biểu thị và kí hiệu học
hàm nghĩa là những kí hiệu chứa đựng kí hiệu nguyên thủy hoặc là ở mặt biểu hiện, hoặc
là ở mặt nội dung. Với việc xem xét kí hiệu học hàm nghĩa với siêu ngôn ngữ hoặc siêu
kí hiệu, Hjelmslev đã đặt nền tảng cho những nghiên cứu về biểu tượng với mô hình siêu
kí hiệu của R. Barthes sau này.
Khuynh hƣớng tiếp cận kí hiệu học gắn liền với kí hiệu học diễn giải (Khuynh
hƣớng tiếp cận dựa trên bình diện ngữ dụng học)
Iu. Lotman_đa mã, chuyển mã và tạo nghĩa trong tiến trình kí hiệu hóa :
Trang 19
Quá trình tạo nghĩa của Lotman gắn liền với những biện luận của ông về hiện tượng
chuyển mã. Đầu tiên đó chính là sự chuyển mã giữa người phát và người nhận. Kế thừa
những gợi ý từ Bakhtin, khác với Peirce với Lotman, kí hiệu trước tiên thuộc về một
ngôn ngữ xác định và vì thê bình diện giao tiếp ngay lập tức được đặt lên hàng đầu. Ông
định nghĩa về kí hiệu học như sau « kí hiệu học là khoa học về các hệ thống giao tiếp và
kí hiệu được sử dụng trong quá trình thông tin » . Đinh nghĩa này gắn chặt với vấn đề
giao tiếp và thông tin trong giao tiếp. Nó là hệ thống tư tưởng giúp ông trình bày thuyết
phục các vấn đề trong Cấu trúc văn bản nghệt thuật. Nhìn lại quan điểm này có thể thấy
Lotman đã chỉ ra đặc trưng cốt lõi nhất của kí hiệu và kí hiệu học _ Không có kí hiệu nào
tồn tại ngoài giao tiếp và cũng không thể giao tiếp nếu không có kí hiệu. Như thế, nghĩa
của kí hiệu chỉ có thể hình thành và sản sinh trong giao tiếp.
Lotman có những đánh giá rất cao về tư tưởng của Bakhtin và đồng thời ông cũng thừa
nhận những đóg góp của Saussure, nhưng Lotman lưu ý cho chúng ta một thực tế, lý
thuyết ngôn ngữ của Saussure đặt chúng ta trước một loạt các nghịch lí mà nghịch lí đầu
tiên có thể kể đến đó chính là « nó đưa vào tay chúng ta một hệ thống giao tiếp, một hệ
thống kí hiệu với một người phát và một người nhận và một bộ mã chung cho hai người »
[172]. Nhưng trong thực tế, như những phân tích của Lotman, người nói và người nghe
sử dụng những bộ mã khác nhau. Hai bộ mã này có những điểm giao nhau, những tương
thích nhưng cũng có những điểm khác biệt, những điểm không tương thích. Hoạt động
giao tiếp chỉ xảy ra khi có sự giao nhau của yếu tố tương thích và không tương thích của
hai bộ mã này. Nhờ đó mà kí hiêu khi được dịch sang một bộ mã mới lại có thêm những
nét nghĩa mới. Có thể nói, kí hiệu luôn được diễn giải, tái diễn giải trên cơ sở sự đối
thoại, sự tương tác của hai bộ mã : người nói – người phát và người nghe – người nhận.
Và đó cũng chính là nguyên nhân khiến giao tiếp nói chung không chỉ là quá trình truyền
tin mà còn là quá trình sáng tạo những thông tin mới.
Với những quan điểm đó, Lotman đã lưu ý chúng ta một vấn đề rất khác và lí thú _ Văn
bản nghệ thuật với đặc trưng là không gian giao tiếp đa chủ thể, đã khiến cho kí hiệu học
cùng lúc thuộc về nhiều mã vì thế mà hết sức đa nghĩa. Nếu như ý nghĩa của kí hiệu với
Peirce nảy sinh trong quá trình diễn giải thì với Lotman ý nghĩa của kí hiệu nảy sinh
Trang 20
trong những tương tác mang tính đối thoại. Với Lotman, kí hiệu không chỉ thuộc về một
ngôn ngữ mà nó còn thuộc về một văn bản cụ thể. Cặp khái niệm ngôn ngữ - văn bản của
ông đi ra từ mô hình nhị phân ngôn ngữ - lời nói của Saussure nhưng đã có những điều
chỉnh. Nếu như Saussrure cho rằng, ngôn ngữ là cái có trước, lời nói chỉ là sự thực hiện,
hiện thực hóa cấu trúc của ngôn ngữ thì với Lotman, trong nhiều trường hợp văn bản còn
lớn hơn ngôn ngữ [52,19]. Đây chính là cơ sở để Lotman hình dung tác phẩm nghệ thuật
như một văn bản đa mã.
Roland Barthes với những huyền thoại:
Đối với R. Barthes, huyền thoại chứa những nét riêng biệt mà ở đó luôn có chức năng
giống như một hệ thống kí hiệu thứ hai được xây dựng trên nền tảng của một loạt kí hiệu
vốn là “tổng thể liên kết” của cái biểu đạt và cái được biểu đạt của hệ thống đầu tiên. Và
với khái niệm ý nghĩa (signification), R. Barthes cho chúng ta thấy một sức mạnh vô biên
lẫn sự che giấu tồn tại ở mỗi kí hiệu. Ở đây những phân tích của R. Barthes về tiến trình
kí hiệu (semiosis) tiếp nối qua quan điểm của Saussure ở cấp độ này cho chúng ta nhận
thức cấu trúc của thế giới mà chúng ta đang sống. Quá trình biểu đạt ý nghĩa được bộc lộ
trong mối quan hệ giữa biểu hiện (denotation) và hàm nghĩa (connotation). Bởi biểu hiện
thường được đưa ra với ý nghĩa sử dụng trong ngôn ngữ về những gì mà nó muốn nói tới;
hàm nghĩa có ý nghĩa sử dụng trong ngôn ngữ với tư cách là nghĩa của một cái gì đó hơn
là những gì nó được nói ra. Hàm nghĩa xuất hiện khi kí hiệu là kết quả của mối quan hệ
giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt trước đó đã trở thành “cái biểu đạt” xa hơn. Như
thế, hệ thống đầu tiên tiếp tục là biểu hiện của hệ thống thứ hai, tức là biểu hiện của hàm
nghĩa.
Văn học ở bề rộng, là một trong những “hệ thống biểu đạt thứ hai” mà chúng được đặt
trong toàn bộ “hệ thống thứ nhất” của ngôn ngữ. Khi kí hiệu của mối quan hệ cái biểu đạt
và cái được biểu đạt trở thành cái được biểu đạt của một cái gì đó xa hơn thì khi đó hệ
thống thứ hai đã trở thành một siêu ngôn ngữ (metalanguage). Đây chính là bối cảnh của
bản thân kí hiệu học và sự phức tạp của các loại kí hiệu (trong đó có biểu tượng) sẽ phụ
thuộc vào hệ thống thứ hai này.
Trang 21
Khái niệm các cấp độ và sự vượt cấp của cặp phạm trù cái biểu đạt/cái được biểu đạt và ý
nghĩa trở thành “điểm nóng” cho những nghiên cứu kí hiệu học. Nếu như R. Barthes mô
tả về sự hàm nghĩa (ở huyền thoại) giống như một hệ thống ý nghĩa “thứ hai”.
Umberto Eco với khuynh hướng kí hiệu học hậu hiện đại:
Trong cuốn Kí hiệu học và triết học về ngôn ngữ, vấn đề biểu tượng đã được U. Eco phân
tích và lí giải một cách thấu đáo trên cơ sở khảo sát những yếu tố tương quan khác của
khoa học về kí hiệu như: Kí hiệu (sign), Từ điển và Bách khoa thư (dictionary and
Encyclopedia); Ẩn dụ (metaphor); Mã (code), Tính đồng vị (Isotopy); và Sự phản ánh
(mirror). Ngay ở phần mở đầu của chương viết về biểu tượng, khi truy nguyên về nguồn
gốc biểu tượng, U.Eco đã xác định ngay bản chất của loại kí hiệu này. “Cái thường thích
hợp được gọi là biểu tượng chính xác là sự mơ hồ của chúng, độ mở, tính vô hiệu quả
hoàn hảo của chúng nhằm biểu đạt ý nghĩa “cuối cùng”. Kết quả là với những biểu tượng
và bằng các biểu tượng người ta miêu tả cái luôn ở bên ngoài sự tìm kiếm của ai đó”. Có
thể thấy, toàn bộ những khảo sát phân tích của Eco về biểu tượng đều xoay quanh vấn đề
tính tượng trưng của loại kí hiệu này. Tính tượng trưng trong quan hệ với chủ thể, với
người diễn giải tạo nên giá trị đặc thù và bản chất của biểu tượng từ cái nhìn kí hiệu học.
Được coi là người đặt nền móng và phát triển một trong những phương pháp tiếp cận
quan trọng nhất của kí hiệu học đương đại - kí hiệu học diễn giải, Eco đã nghiên cứu biểu
tượng xuất phát từ hai mô hình sản sinh kí hiệu là ratio facilis (mô hình sản sinh kí hiệu
mà ở đó “loại biểu hiện” (expression) được tái tạo bằng một “biểu hiện tượng trưng”) và
ratio difficilis (mô hình sản sinh kí hiệu mà ở đó “loại nội dung” tương quan với sự biểu
hiện - tượng trưng). Xuất phát từ hai mô hình kí hiệu này, Eco đã khảo sát và đề xuất
cách thức diễn giải dựa trên hai tiêu chí cơ bản: ý nghĩa (Significance) và giao tiếp
(Communication). Và đây cũng chính là hai vấn đề trọng tâm trong lí thuyết của Eco.
Trong mối quan hệ giữa biểu hiện (cái biểu đạt) và ý nghĩa, việc diễn giải ý nghĩa biểu
tượng được xem xét trong quan hệ giao tiếp.
Đối với Eco, ở các biểu tượng, sự tương quan giữa cái biểu đạt (biểu hiện) và cái được
biểu đạt (ý nghĩa) không phải là sự tương quan mang tính quy ước. Và ông tán thành mô
hình của Hegel: “Biểu tượng luôn miêu tả sự không cân xứng, tình trạng căng thẳng, sự
Trang 22
mơ hồ và tính mong manh nhất định”. Trong “chủ nghĩa biểu trưng xác thực”, hình thức
không biểu thị bản thân chúng, mà đúng hơn là ám chỉ đến, gợi đến một ý nghĩa rộng
hơn: Bất cứ biểu tượng nào cũng là điều bí ẩn và “bức tượng nhân sư đúng là một biểu
tượng cho chính chủ nghĩa biểu trưng”. Và tính mơ hồ, “vô tâm” về ý nghĩa trong quá
trình diễn giải biểu tượng còn được Eco xem xét ở cả nguyên mẫu và thần thánh, những
Kinh thánh thiêng liêng - nơi mà các khả năng của giao tiếp chứa đựng tính quy ước rất
lớn.
Tính mơ hồ, đa nghĩa và bí ẩn của biểu tượng còn được tiếp tục với một loạt quan điểm
cùng với sự lí giải của các lí thuyết gia khác. Trong lí thuyết về biểu tượng của Jung
(1934), khái niệm về mô hình biểu tượng được mô tả bởi sự giống nhau giữa biểu hiện và
nội dung, và bởi tính mơ hồ cơ bản của nội dung biểu hiện. Jung đã đưa tiềm thức cá
nhân để đối chọi với vô thức tập thể, cái mà một mặt biểu hiện sâu sắc hơn tinh thần của
con người ở vỉa tầng bẩm sinh và cái mà (mặt khác) có nội dung với những mô hình ứng
xử ít nhiều thấy ở mọi nơi và trong tất cả mọi cá nhân. Đối với Jung, những nội dung về
vô thức tập thể với nguyên mẫu, các mẫu hình cổ xưa, những hình tượng chung, những
đại diện chung... không phải là những kí hiệu, cũng không phải là những phúng dụ, mà
chúng chính xác là những biểu tượng chân thực “bởi chúng mang ý nghĩa mơ hồ, đầy tính
thoảng qua và vô tận như là phương sách cuối cùng”.
Lí thuyết về vô thức cá nhân này của Jung được Eco xếp cùng loại với những tư tưởng
thần bí của Chủ nghĩa thần bí Do Thái của Scholem (1960)[26]. Những tư tưởng thần bí
tồn tại ở ngưỡng cửa giữa truyền thống và cách mạng. Một mặt thần bí và huyền thoại
được truyền thống nuôi dưỡng, nhưng mặt khác những ảo ảnh, tưởng tượng mà người
diễn giải có được có thể làm xáo trộn sự thật truyền thống. “Huyền thoại sử dụng những
biểu tượng cũ nhưng làm đầy chúng với ý nghĩa mới, và trong việc làm này, nó luôn
thách thức uy quyền”, nó là “thứ thuốc giả độc” (Jung) cho tình trạng hỗn loạn của ý
thức. Trong kinh nghiệm thần bí, biểu tượng hẳn phải được thuần hóa/chế ngự một cách
chính xác bởi chúng “mở ra” khả năng vô tận về sự “phóng đại”, và sức mạnh này phải
được kiểm soát. Điều đó phụ thuộc vào tín ngưỡng tôn giáo hay tư tưởng triết học của ai
đó để có thể đi đến quyết định, hoặc sức mạnh này xuất phát từ cội nguồn thần thánh,
Trang 23
hoặc sức mạnh đó chính là cách thức mà người diễn giải thực hiện theo một phong cách
riêng, “lấp đầy những thùng chứa trống rỗng của sự biểu hiện tương trưng” .
Eco tiếp tục quan điểm của mình khi khẳng định: “không phải tất cả mọi thứ đều có thể
trở thành biểu tượng. Biểu tượng phải được sản sinh trong văn bản; nó đòi hỏi một chiến
lược kí hiệu học đặc thù. Một chiến lược chính xác đến mức mà ngày nay nên được phác
thảo ra theo một vài cách thức-ít nhất dưới hình thức của một mô hình trừu tượng. Một
chiến lược biểu tượng có thể đem đến sự thích thú thẩm mỹ, tuy nhiên trước hết nó vẫn là
một cỗ máy kí hiệu”. Không phải mọi sự can thiệp cách ngôn (ẩn dụ, châm biếm, phép
ngoa dụ...) đều dẫn đến kết quả sản sinh ra mô hình biểu tượng, song mô hình biểu tượng
có xuất phát điểm từ những can thiệp nhất định này và nó biểu hiện về sự ám chỉ văn bản
(textual implication). Chính những ám chỉ văn bản luôn khuyến khích người diễn giải bổ
sung những suy luận thích hợp và anh ta sẽ luôn cảm thấy dư thừa về ý nghĩa đối với
những chuẩn mực trong việc giải trình về mô hình biểu tượng. Ở đây chìa khóa của sự
diễn giải nằm ngoài khung cơ cấu tồn tại từ trước của văn bản. Nội dung của biểu tượng
là một lớp “tinh vân”, là sự xếp chồng của những diễn giải có thể, và biểu tượng luôn
buộc người diễn giải phải đối mặt với việc giải mã.
Như vậy từ mô hình kí hiệu hai mặt của nhà ngôn ngữ học, kí hiệu học Pháp F. Saussure
và mô hình tam vị của nhà kí hiệu học người Mỹ C. Peirce, nghiên cứu kí hiệu nói chung
và biểu tượng nói riêng đã có sự chuyển đổi mạnh mẽ. Biểu tượng không chỉ được xem
xét, khảo sát với tư cách là một kí hiệu mà phẩm chất đặc biệt của nó cũng đã được các
nhà kí hiệu học nhận thức, khám phá và lí giải từ nhiều quan điểm khác nhau. Khi mối
quan hệ giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt, giữa người gửi, thông điệp và sự giải mã
của người nhận càng trở nên tinh vi, phức tạp thì biểu tượng càng lộ rõ đặc tính đặc biệt
của nó. Trong các văn bản nghệ thuật, một mặt biểu tượng tồn tại như một kí hiệu ngôn
ngữ với các phương thức sử dụng cách ngôn (như ẩn dụ, phúng dụ, các phép tu từ) tạo ra
tính đa nghĩa, phong phú cho sự diễn giải; Mặt khác, chính khả năng tổng hợp và tích tụ,
tính mơ hồ, đa nghĩa của “cái biểu hiện”/ biểu tượng nảy sinh từ những bối cảnh giao
tiếp, môi trường văn hóa nhất định, những trầm tích văn hóa đã tạo nên tính bí ẩn đầy hấp
dẫn và tính vô tận cho những khả năng diễn giải.
Trang 24
1.1.2. Vấn đề vận dụng lí thuyết kí hiệu học trong nghiên cứu văn học ở Việt Nam
Những năm 60 của thế kỉ XX, kí hiệu học đã phát triển rầm rộ trên thế giới, được nhiều
nhà nghiên cứu trên thế giới quan tâm đến và cũng được vận dụng trên nhiều lĩnh vực.
Tuy nhiên, ở Việt Nam chúng ta, khi kí hiệu học manh nha vào những năm đầu của thế kỉ
XX, nó đã gặp không ít khó khăn bởi sự khác biệt về quan niệm và ý thức hệ. Cho nên
quá trình phát triển của kí hiệu học ở Việt Nam phải trả qua một quá trình với nhiều ngã
rẻ.
1.1.2.1.Tình hình vận dụng lí thuyết kí hiệu học trong nghiên cứu văn học ở Việt Nam
giai đoạn trước 2000
Nghiên cứu kí hiệu học văn học ở Việt Nam trước năm 2000 không thể không kể đến
Hoàng Trinh, người có công lớn trong việc giới thiệu và ứng dụng kí hiệu học ở Việt
Nam. Từ năm 1972 đến năm 1974 kí hiệu học được biết đến thông qua các bài viết của
Hoàng Trinh – Chủ nghĩa cấu trúc, một biến dạng của triết học duy tâm hiện đại (tạp chí
Học tập, 1972, TLDD) ở bài viết này Hoàng Trinh đã giới thiệu về chủ nghĩa cấu trúc
cũng như kí hiệu nhưng vẫn còn trên tinh thần phê phán. Năm 1973 với bài Phê bình và
Phê bình mới (tạp chí Học tập, 1973, TLDD) ở bài viết này của ông cũng đã giúp nhiều
người hiểu được kí hiệu học và chủ nghĩa cấu trúc hình thức, công dụng và loại hình của
ngôn ngữ. Cho đến năm 1974, trong bài viết Vấn đề kí hiệu và thông tin trong văn học
nghệ thuật (tạp chí Tác phẩm mới) Hoàng Trinh đã khẳng định vai trò và ý nghĩa của kí
hiệu học trong văn học nghệ thuật, ông bày tỏ ý kiến đồng tình với quan điểm ngôn ngữ
là một hệ thống kí hiệu nhưng phản đối ý kiến cả thế giới là một thế giới kí hiệu.
Sau đó hơn 5 năm, ba bài viết trên của ông được tập hợp và in lại trong cuốn: Ký hiệu,
nghĩa và phê bình văn học. Từ đó, kí hiệu học cũng được quan tâm nhiều hơn và chính
thức có chỗ đứng trong nghiên cứu văn học. Hoàng Trinh tiếp sau đó vẫn tiếp tục quan
tâm đến kí hiệu học bằng chứng là ông đã cho ra đời hàng loạt những công trình nghiên
cứu như: Về khoa học nghệ thuật trong phê bình văn học (1980); Đối thoại văn học
(1986); Tiếp cận văn học dưới góc độ thông tin (1990); Từ kí hiệu đến thi pháp (1992) và
đặc biệt có bài báo Những khúc hát ru con dước góc độ kí hiệu học (tạp chí văn học,
1995) [79, 23,TLDD]. Như vậy, Hoàng Trinh từ một người phê phán kí hiệu học và chưa
Trang 25
đồng tình với nhiều quan niệm mà kí hiệu học đưa ra, ông đã trở thành một người bước
đầu đặt nền móng cho lí thuyết kí hiệu học ở Việt Nam và vận dụng nó một cách rất tích
cực và hiệu quả.
Cùng với Hoàng Trinh, cũng có rất nhiều những nhà nghiên cứu khác quan tâm đến kí
hiệu học và đặc biệt là vận dụng kí hiệu học và các tác phẩm văn học để nghiên cứu, lí
giải. Năm 1985, Duy Lập công bố trên Tạp chí Văn học bài nghiên cứu theo hướng áp
dụng lí thuyết kí hiệu học vào một tác phẩm cụ thể đó là bài Vận dụng kí hiệu học vào
việc phân tích một bài thơ của Hồ Chí Minh, mặc dù ở thời điểm hiện tại nhìn lại chúng
ta sẽ thấy được những điểm hạn chế của bài viết tuy nhiên ở thời điểm hiện tại chúng ta
không thể phủ nhận được sự đóng góp có tính chất mở đầu vô cùng quan trọng của nó
trong hướng vận dụng lí thuyết kí hiệu học để nghiên cứu văn học.
Nghiên cứu kí hiệu học văn học ở Việt Nam cũng phải kể tên đến nhà nghiên cứu Trần
Đình Sử, ông cũng là người quan tâm tương đối sớm sớm và có quan điểm nhất quán
trong việc nghiên cứu quan hệ giữa hình tượng và kí hiệu. Năm 1986, khi biên soạn giáo
trình Lý luận văn học ( tập 1: Nguyên lý tổng quát) cùng với Phương Lựu và Lê Ngọc
Trà, ông đã khẳng định tính kí hiệu của hình tượng văn học. Ông cho rằng, kí hiệu là
phương tiện để giữ gìn và truyền đạt kinh nghiệm xã hội giữa on người với con người.
Hình tượng nghệ thuật, do đó muốn giữ lại và truyền đạt cho người khác thì phải khách
quan hóa thành kí hiệu, hình tượng “vừa là sự phản ánh, nhận thức đời sống vừa là một
hiện tượng kí hiệu giao tiếp” [79, 26,TLDD]. Sau đó, nhà nghiên cứu Trần Đình Sử đã
cho ra đời hàng loạt những nghiên cứu của mình bàn về tính kí hiệu trong hình tượng văn
học, tiêu biểu có những bài viết như Thử tìm hiểu cá lí bên trong của nghệ thuật Nguyễn
Huy Thiệp hay Ngôn ngữ nghệ thuật, mã và phê bình văn học hôm nay (1990); đặc biệt
bài viết Tính kí hiệu của hình tượng văn học được công bố gần đây cũng được ông tiếp
cận theo hướng kí hiệu học.
Ngôn ngữ thơ (1987) của Nguyễn Phan Cảnh cũng là một công trình áp dụng một cách có
hệ thống lí thuyết kí hiệu học vào thực tiễn thể loại thơ. Ở bài viết này, tác giả nhấn mạnh
sự đa nghĩa của các tác phẩm và truy tìm nguyên nhân dẫn đến sự đa nghĩa đó.
Trang 26
Nghiên cứu và vận dụng lí thuyết kí hiệu học văn học ở Việt nam chúng ta còn phải kể
đến Phan Ngọc, Đỗ Đức Hiểu.
Phan Ngọc thể hiện sự quan tâm đó của mình qua công trình Cách giải thích văn học
bằng ngôn ngữ học, ông đưa ra ý kiến của mình “ Cái làm cho ngôn ngữ thành công cụ
giao tiếp là mã (code) của nó: cái mã ấy gồm một số đơn vị cực kì hạn chế để tạo nên
một số hình vị hạn chế, nhằm tạo nên một số kiểu câu rất hạn chế, theo quy tắc trước sau.
Cái mã ấy có sẵn trong ta, cho phép ta hiểu thông báo” [79,27, TLDD]. Trong một số
công trình khác của mình ông cũng thể hiện khuynh hướng tiếp cận văn học từ kí hiệu
học ngôn ngữ, có bài viết Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều, ông
khẳng đinh “ Phong cách học là khoa học khảo sát các kiểu lựa chọn giá trị biểu cảm
của các kiểu lựa chọn ấy”[ 79, 17, TLDD]. Từ việc tìm hiểu trên chúng ta thấy được sự
rõ ràng trong khuynh hướng nghiên cứu của Phan Ngọc, ông đi từ quan điểm hệ thống, từ
cấu trúc kí hiệu ngôn ngữ, tìm hiểu nội dung của hình thức và xem hình thức như một kí
hiệu.
Đối với Đỗ Đức Hiểu, trong công trình Thi pháp hiện đại và đổi mới phê bình văn học,
ông nhấn mạnh việc phê bình phải tìm ý nghĩa trong văn bản, ông cũng gợi suy nghĩ về
mối quan hệ giữa thi pháp học và kí hiệu học “Bởi vì thi pháp sinh ra từ ngôn ngữ học
hiện đại nên có người gọi thi pháp là kí hiệu học, mỗi tiếng, mỗi câu, mỗi đoạn, mỗi
chương và mỗi tác phẩm là những kí hiệu, những hệ thống kí hiệu” [79,28, TLDD]. Nhà
nghiên cứu Đỗ Đức Hiểu đã có những hướng áp dụng lí thuyết kí hiệu học vào phân tích
các hiện tượng văn học cụ thể như ngôn từ Thơ Mới, ngôn từ trong Số đỏ hay thơ Hồ
Xuân Hương.
Tất cả những nghiên cứu đó đã đánh dấu những thành tựu cơ bản nhất khi lí thuyết kí
hiệu học chưa phát triển mạnh ở Việt Nam trước năm 2000.
1.1.2.2.Tình hình vận dụng lí thuyết kí hiệu học trong nghiên cứu văn học ở Việt Nam
giai đoạn từ năm 2000 đến nay
Từ sau năm 2000 trở lại những năm gần đây, có khá nhiều nhà nghiên cứu Việt Nam đã
quan tâm đến kí hiệu học nói chung cũng như kí hiệu học văn học nói riêng, đồng thời
Trang 27
cũng có khá nhiều những hội thảo được tổ chức liên quan đến kí hiệu học cũng như vận
dụng lí thuyết kí hiệu học vào nghiên cứu nhiều lĩnh vực trong đó có văn học.
Một trong những người quan tâm đến kí hiệu học trong giai đoạn này đó chính là Phương
Lựu, ông quan tâm đến khuynh hướng kí hiệu học văn hóa, văn học nghệ thuật của E.
Cassirer và S. Langer. Trong công trình Lý luận phê bình văn học phương Tây thế kỉ XX
(2001), Phương Lựu tiếp cận lí thuyết kí hiệu học như tiếp cận một trào lưu, một trường
phái. Ở công trình này, nhà nghiên cứu này đề cập đến những luận điểm chính như: Lịch
sử khái niệm từ Platon đến C.W. Morris; kí hiệu học văn hóa của E. Cassirer và kí hiệu
học nghệ thuật của Susanne Langer. Trong phần lịch sử khái niệm ông đưa ra quan điểm
của mình “Nếu như C. S. Peirce và F. Saussure chỉ đặt nền móng cho kí hiệu học ở góc
độ triết học và ngôn ngữ học thì triết gia Hoa Kỳ C. W. Morris có tham vọng xây dựng kí
hiệu học như chuyên ngành trung tâm của cả khoa học xã hội và nhân văn” [79, 29,
TLDD]. C. S. Morris xem xét kí hiệu trong hoạt động, hay nói như các nhà kí hiệu sau
này, là xem xét quá trình tạo nghĩa của một kí hiệu.
Lã Nguyên, Trần Đình Sử và Trịnh Bá Đĩnh quan tâm nhiều hơn đến trường phái kí hiệu
học văn hóa Tartu – Moskva mà đứng đầu là Iu.M. Lotman. Nhắc đến Lã Nguyên, nhà
nghiên cứu này có mối quan tâm sâu sắc với kí hiệu học văn hóa của Lotman qua các tác
phẩm dịch như Kết cấu tác phẩm nghệ thuật của ngôn từ ( Cấu trúc văn bản nghệ thuật),
Về kí hiệu quyển, Khái niệm ngôn ngữ nghệ thuật ngôn từ, Kí hiệu học văn hóa và khái
niệm văn bản,…Hơn nữa ông còn áp dụng những nghiên cứu đó vào một số các bài viết
thực tiễn như Về nghiên cứu cách tân nghệ thuật của Nguyễn Xuân Khánh trong Hồ Quý
Ly, Mẫu thượng ngàn và Đội gạo lên chùa, đặc biệt ở bài viết Chủ nghĩa hiện thực thị
giác trong văn học Việt Nam trước năm 1975 Lã Nguyên còn nhận diện kí hiệu trong cả
một giai đoạn văn học, ông cho rằng văn học Việt Nam trước năm 1975 đầy những tính
kí hiệu, đặc biệt là kí hiệu thị giác vì hình tượng được kiến tạo theo nguyên tắc vẽ tranh
cùng với màu sắc và đường nét. Như vậy, rõ ràng nhà nghiên cứu Lã Nguyên đã có
những phác họa “phức tạp”, cầu kì ban đầu cho những nghiên cứu về kí hiệu của mình cả
về lí thuyết cũng như hướng ứng dụng.
Trang 28
Ngoài Lã Nguyên, chúng ta cũng cần nhắc đến Trịnh Bá Đĩnh, một nhà nghiên cứu rất
quan tâm đến kí hiệu học. Ông đã dịch các công trình như Chủ nghĩa cấu trúc và văn học
(2002), Cấu trúc văn bản nghệ thuật của Iu. M. Lotman (2004). Trong năm nay (2017),
ông cho xuất bản quyển sách Từ kí hiệu đến biểu tượng, quyển sác thể hiện những nghiên
cứu hết sức nghiêm túc của một nhà làm khoa học về kí hiệu, tập hợp những vấn đề lí
luận chung về kí hiệu và những thực hành phân tích biểu tượng trên cơ sở lí thuyết đó với
những vấn đề thực hành phân tích hết sức mới mẻ; phần cuối sách là một số bài dịch cần
thiết giúp bạn đọc hiểu thêm về kí hiệu học và các vấn đề lí thuyết liên quan. Nhu vậy có
thể đánh giá rằng, Trịnh Bá Đĩnh cũng là một trong những nhà nghiên cứu về kí hiệu học
ở Việt Nam có những đóng góp hết sức tích cực.
Bên cạnh các nhà nghiên cứu trên, với những thành tựu tiêu biểu thì ở Việt Nam chúng ta
còn có dịch giả Phùng Văn Tửu là dịch giả của cuốn Những huyền thoại (R. Barthes).
Ông đã giúp chúng ta hiểu thêm về tư duy của một nhà nghiên cứu lớn. Với hai phần rất
rõ ràng, phần một P.Barthes viết về Những huyền thoại và dùng những phân tích rất cụ
thể về xã hội hiện đại Pháp, ông chỉ ra cấu trúc CBĐ và cho người đọc thất rõ CĐBĐ.
Trong phần thứ hai, ông trình bày toàn bộ lí thuyết kí hiệu, quan niệm huyền thoại như
một ngôn từ, huyền thoại cũng là một hệ thống kí hiệu. Phần cuối sách, có bài viết
Phương thức huyền thoại trong sáng tác văn học, ông xem huyền thoại cũng là một ngôn
từ, nó không thể hiện là một sự vật, một khái niệm hay một ý niệm mà đó là phương thức
thông báo, một hình thức. Nó thuộc về kí hiệu học. Từ đó Phùng Văn Tửu đi đến kết
luận, nhà văn tạo nên huyền thoại trong tác phẩm khiến tác phẩm trở thành kí hiệu đa
nghĩa. Ngoài ra, huyền thoại không chỉ là ám chỉ, huyền thoại đòi hỏi phải giải mã mới
hiểu được và không bao giờ cạn kiệt ý nghĩa.
1.2. Tiểu thuyết của Thuận trong không gian văn học hải ngoại Việt Nam đƣơng
đại
Văn học Việt Nam đương đại ngày nay luôn được đặt dưới góc nhìn tổng thể, đa chiều và
mang tính hệ thống. Ở giai đoạn trước, văn học Việt Nam còn phân chia rõ ràng thành
từng dòng văn học, mà cụ thể là văn học Việt Nam trong nước và văn học Việt Nam hải
ngoại thì giờ đây ranh giới và đường biên phân định các bộ phận văn học đó đã gần như
Trang 29
không còn sự thống nhất cao. Nếu coi văn học Việt Nam là cái tổng thể còn văn học hải
ngoại là cái bộ phận thì trong cái bộ phận có tổng thể và ngược lại trong cái tổng thể lại
có cái bộ phận. Chính hiện đại hóa văn học đã tạo nên kết quả này, văn học Việt Nam
nhờ đó được nhìn với cái nhìn đa diện, mang tính toàn vẹn khái quát hơn. Trong đó văn
học đương đại Việt Nam đã làm một công việc hết sức có ý nghĩa đó chính là việc ghi
nhận những đóng góp của các nhà văn thuộc dòng văn học di dân hải ngoại đang sinh
sống và làm việc ở nước ngoài, trong đó có Thuận ( Đoàn Ánh Thuận), một nhà văn sống
ở Pháp và có rất nhiều tiểu thuyết để lại ấn tượng.
Trên cơ sở đó chúng tôi khảo sát văn học hải ngoại Việt Nam trong hai giai đoạn (trước
và sau năm 1975) và để từ đó thấy được những đóng góp của Thuận trong dòng chảy văn
học.
1.2.1. Văn học hải ngoại Việt Nam trước năm 1975
Việc người Việt Nam lưu vong trên thế giới đã diễn ra qua một số đợt và gắn liền với
những hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Trước năm 1975, người Việt Nam chỉ mới lẻ tẻ di trú ở
một vài nước. Những di dân đầu tiên dời khỏi nước Việt Nam hồi đó còn là thuộc địa, họ
chủ yếu sinh cơ lập nghiệp ở Pháp với số lượng không lớn. Sau cuộc chiến tranh thế giới
lần thứ hai, chủ yếu vào những năm 1960-1970, các nhóm sinh viên từ miền Nam Việt
Nam đến học ở Mỹ, Canada, Nhật, Ý và các nước tư bản khác theo kế hoạch trao đổi
hoặc theo học bổng cũng như bằng tiền riêng của cá nhân. Một số sinh viên đã vĩnh viễn
ở lại tại các nước đó.
Lưu vong vừa là một tình trạng (người bị xa nước), vừa là một tâm trạng (nhớ nước). Có
người không xa nước nhưng vẫn nhớ nước như Bà Huyện Thanh Quan. Từ tâm trạng nhớ
nước xẩy ra hành động hướng về đất nước dưới nhiều hình thức, trong đó có sinh hoạt
văn chương: Viết bằng tiếng Việt. Như vậy, lưu vong là động cơ thúc đẩy con người
hướng về nước, nhưng trong văn học tính chất lưu vong chỉ là một biệt cách của mỗi tác
giả:
Lưu vong, theo nghĩa đối kháng chính quyền xuất hiện trong những hồi ký chính trị, cải
tạo. (Ở đây chúng tôi không bàn đến những tác phẩm ca tụng chính quyền vì đó không
phải là văn học đích thực trong chiều hướng phục vụ tự do và sự thật).
Trang 30
Lưu vong, theo nghĩa nhớ nước: Sâu sắc trong thơ Phạm Tăng, trong văn Võ Đình, khơi
động ở thời kỳ đầu, qua những tác phẩm như Đất Khách của Thanh Nam, Thơ Cao Tần,
v.v... Càng về sau càng dịu đi, nhường chỗ cho tính chất hội nhập và hòa hợp.
Truyền thống văn học lưu vong, khởi sinh từ những năm đầu thế kỷ, khi Phan Bội Châu,
Phan Chu Trinh, từ hải ngoại gửi những tâm văn, huyết thư về nước. Tiếp nối truyền
thống ái quốc lưu vong là dòng nghệ thuật thuần túy những năm 30, khi các họa sĩ đầu
tiên của Việt Nam như Mai Thứ, Vũ Cao Đàm, Lê Phổ, Lê Thị Lựu... xuất dương và định
cư tại Pháp.
Sau họ là lớp thứ nhì, với những tên tuổi như Lê Bá Đảng, Võ Đình, Phạm Tăng, v.v...
cùng thời với những nhà biên khảo như Hoàng Xuân Hãn, Tạ Trọng Hiệp, Trương Đình
Hòe v.v...
Một bộ phận người trẻ đã di cư sang Mỹ vào những năm 70 của thế kỉ XX, thời kì được
đánh giá là diễn ra nhiều sự kiện lịch sử, chính trị xã hội nhất ở Việt Nam. Bộ phận người
trẻ này chính là bộ phận cấu thành của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, có những đóng góp khá
tích cực cho Hoa Kỳ và quê hương Việt Nam.
Nói đến văn học hải ngoại Việt Nam thời kì này, nếu đánh gia một cách xác thực nhất thì
có lẽ chưa có thành tựu gì nổi bật. Có nhiều lí do để lí giải cho hiện tượng này, trong đó lí
do lớn nhất có lẽ là do tình hình lịch sử xã hội khiến những người di dân phải đối diện
với những khó khăn ban đầu không hề nhỏ. Bỏ xứ ra đi để tìm ánh sáng mới cho cuộc
sống tương lai, nhưng chắc hẵn họ đã phải đối diện với rất nhiều những khó khăn nơi đất
khách, vì vậy việc dành thời gian để cảm nhận cuộc sống hay dành thời gian để viết để
sáng tác văn chương nghệ thuật là điều vô cùng khó khăn. Them vào đó, lượng người di
cư vào giai đoạn này thực sự không phải là lớn, chỉ là một bộ phận các du học sinh được
cử ra nước ngoài để học tập, hoặc một bộ phận các người dân vượt biên bằng đường biển
để đến với những quốc gia khác nhau. Họ không phải là thành phần tiềm năng để có thể
góp phần vào việc xây dựng và phát triển một hệ thống những sáng tác hải ngoại có giá
trị lúc bấy giờ.
Trang 31
Như vậy, nếu đánh giá văn chương hải ngoại trước năm 1975 thì có thể thấy được sự
nghèo nàn trong lực lượng sáng tác cũng như những giới hạn ban đầu ràng buộc khá
nhiều đến sự phát triển của văn chương hải ngoại Việt Nam thời điểm này.
Văn chương hải ngoại chỉ thực sự phát triển sau năm 1975 mà đặc biệt là giai đoạn sau
năm 1980, khi mọi sự kiện lịch sư – xã hội đã ổn định và dần dần con người có cách nhìn
chậm rãi hơn, sâu sắc hơn đối với những biến động lịch sử, số phận con người.
1.2.2. Văn học hải ngoại Việt Nam từ sau 1975 đến nay (http://vanhaiphong.com/tac-
pham/3262-2016-10-11-07-05-37.html)
Khác với nền văn học trong nước, văn học hải ngoại là dòng văn học vượt qua những
ràng buộc có tính qui phạm. Bằng những cảm nhận mang cảm thức lưu vong, những tác
giả hải ngoại đã sớm khẳng định mình bằng chính những sáng tác phản ánh sắc nét số
phận con người trên đất khách cũng như những hoài niệm về quê hương đất nước.
Nếu như văn học hải ngoại trước năm 1975 chưa thực sự khẳng định được vị trí của mình
thì văn học hải ngoại Việt Nam sau 1975 đã thực sự đánh một dấu mốc quan trọng trong
hành trình hình thành và phát triển của dòng văn học lưu vong mang tên hải ngoại.
Nói đến tình hình phát triển của văn học hải ngoại từ sau 1975 đến nay có thể khái quát
thành những giai đoạn như sau:
Sau biến cố 75, người Việt rời nước ra đi, có một nhu cầu cần được thỏa mãn: Phần lớn
chưa đọc được ngoại ngữ, vậy phải có cái gì để "đọc". Đó là một nhu cầu có tính "vật
chất" tin tức, thông báo hơn là văn chương. Nhưng vì "tin tức, thông báo" trở thành quý
hiếm, xa nhòa , giữa cộng đồng trong nước và cộng đồng di tản, cho nên nó đã trở thành
một ảo ảnh, biến thành một thực tại văn học. Với những người vượt biên, vượt biển,
trong giai đoạn thứ hai, nhu cầu thông tin về kinh nghiệm và thực tại khốc liệt mà mình
đã trải qua, nhen nhúm như một đốm lửa thiêu đốt các trang trắng trong lòng người: Nơi
các nhà văn, nhu cầu ấy trở nên cấp thiết. Các bản thảo của Nhật Tiến, Mai Thảo,
Nguyễn Mộng Giác, Hà Thúc Sinh, Tạ Tỵ... đều xuất phát từ các trại tỵ nạn. Nơi họ, ảnh
ảo và ảnh thật giao nhau để tạo thành các tác phẩm thời sự văn học. Do đó mà văn học
Việt Nam hải ngoại mang hai tính chất cơ bản: Ảo ảnh xa nhớ quê hương và thực tại kinh
Trang 32
hoàng của những tử, sinh, tuyệt, đoạn. Nền văn học ấy gắn liền, thoát thai từ nhiều bi
kịch mà thuyền nhân là rường mối hàng đầu.
Thời kỳ những năm 1975-1980 gắn liền với sự khởi đầu của việc gây dựng văn học của
những người di tản Việt Nam ở nơi đất khách quê người.
Sau năm 1975, đa số các nhà văn miền Nam Việt Nam đã dần dần định cư ở Mỹ, Pháp,
châu Úc, Canada và các nước khác. Đợt di tản đầu tiên gồm có những người đại diện
tiêu biểu nhất của văn học nghệ thuật miền Nam Việt Nam trước 1975. Đó là Mặc Đỗ,
Nhật Tiến, Bình Nguyên Lộc, Nhã Ca, Duyên Anh, Lê Tất Điều, Nguyễn Mộng Giác,
Thanh Nam, Túy Hồng, Nguyễn Tường Bách, Thế Uyên, Linh Bảo Nguyễn Thị Vinh,
Phan Lạc Phúc, Du Tử Lê, Viên Linh, Kiệt Tấn, Nguyễn Xuân Hoàng, Phạm Duy (nhạc
sĩ), Võ Đình (nhà văn và họa sĩ), Tạ Tỵ (họa sĩ và nhà phê bình), Đinh Cường (họa sĩ),
Khánh Ly (ca sĩ).
Những năm đầu của thập niên 1980, văn học ở ngoài nước khởi sắc ra, nhưng là một khởi
sắc buồn thảm. Cộng đồng nhà văn Việt Nam tị nạn ngày một đông đảo hơn. Đặc biệt các
vị rời nước sau này, khi còn ở trong nước, họ đã có kinh nghiệm với cộng sản, đã là nạn
nhân, đã nhìn thấy trò đời. Đã vậy họ từng bị cấm viết, bị cầm tù vì hoặc với “tư cách” là
văn nghệ sĩ hoặc công chức, đi lính cho chế độ Cộng hòa. Nay vượt biển đi chui hoặc
đoàn tụ gia đình, tha hương, họ bắt đầu viết lại và bộ phận văn học do người Việt hải
ngoại nhờ đó sung tích, đa dạng hơn. Các nhà văn của giai đoạn này mạnh thêm tư cách tị
nạn chính trị. Nhưng họ viết nhiều về chiến tranh, đa phần là cay đắng, buồn tức, tức
người lẫn ta. Những kinh qua đắng cay của trại “cải tạo”, của đời sống tối tăm sau 1975.
Và nhất là ý chí chống cộng sản độc tài, những trì trệ không giải phóng được đất nước
khỏi nghèo đói và chậm tiến.
Thời kì tiếp theo đó chính là giai đoạn 1982-1990, đã đặt cơ sở vững chắc cho sự phát
triển tương đối ổn định của văn học Việt Nam ở hải ngoại. Số tác giả mới và số lượng
sách được xuất bản đã gia tăng, những nhà xuất bản chuyên nghiệp đã ra đời, và đã xuất
hiện một đời sống văn học thực thụ - phong phú và đa dạng. Có thể nói rằng thời kỳ này
là thời kỳ thuận lợi nhất và có kết quả nhất trong lịch sử văn học Việt Nam ở hải ngoại.
Trang 33
Vào những năm đó số lượng tiểu thuyết được công bố còn ít. Tác phẩm đáng kể nhất
trong thể loại này là bộ tiểu thuyết sử thi 5 tập Mùa biển động của Nguyễn Mộng Giác.
Truyền thống của tiểu thuyết (theo cách hiểu của châu Âu về thể loại này) trong văn học
Việt Nam còn khá non trẻ. Để viết được những tác phẩm có quy mô như vậy cần phải có
kinh nghiệm sống phong phú và tài năng, do đó, nhiều nhà văn lưu vong có thể bộc lộ
mình rõ nét nhất trong các tác phẩm văn xuôi cỡ nhỏ.
Với sự lưu ý tới tất cả những nhân tố đó, thể loại truyện ngắn về mặt lô gích đã trở thành
thể loại dẫn đầu trong văn học Việt Nam ở hải ngoại. Hầu như tất cả các nhà văn mới đều
là những cây bút truyện ngắn, trong số đó trước hết cần phải nêu lên những tên tuổi: Thế
Giang, Trần Vũ, Vũ Quỳnh Hương v.v....
Giai đoạn từ 1990-1995 nhịp độ phát triển văn học Việt Nam ở Mỹ đã chậm lại và ngày
càng ít những tác giả mới xuất hiện, ngày càng ít những tác phẩm hay và có giá trị về mặt
nghệ thuật được công bố.
Trong giới báo chí hải ngoại, vấn đề về tình trạng đình đốn trong đời sống văn học nghệ
thuật của cộng đồng người Việt ở hải ngoại được bàn luận sôi nổi. Và rất nhiều người đã
đi đến nhận định cho rằng căn nguyên của nó là những biến đổi chính trị đã diễn ra ở Việt
Nam và trên thế giới nói chung. Sự tan rã của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới và sự
sụp đổ của Liên bang Xô viết, việc thiết lập quan hệ ngoại giao giữa CHXHCN Việt Nam
và Hợp chủng quốc Hoa kỳ vào năm 1995, nước Việt Nam cộng sản dần dần hoà nhập
với thế giới đã buộc văn học Việt Nam ở hải ngoại phải thay đổi.
1.2.3. Tiểu thuyết của Thuận trong dòng chảy của văn chương hải ngoại Việt Nam
đương đại
Thuận (tên thật là Đoàn Ánh Thuận, sinh năm 1968 tại Hà Nội, hiện đang sống ở Paris,
Pháp) là một trong những nhà văn có công góp phần khơi dòng chảy tiểu thuyết đương
đại trong văn học Việt Nam. Chị được coi là hiện tượng tiêu biểu trong làng tiểu thuyết
gần đây. Hành trình sáng tạo của Thuận đang khẳng định một sự vận động không ngơi
nghỉ của một người cầm bút ý thức với nghề và đặc biệt quan tâm tới nghệ thuật viết.
Trang 34
Cái tên Thuận không phải là mới với giới phê bình, nghiên cứu; nhưng với độc giả rộng
rãi thì đây còn là cái tên xa lạ.Chị là một trong số ít các nhà văn hải ngoại viết bằng tiếng
Việt và có hầu hết tác phẩm được xu
ất bản ở trong nước. Với 5 tiểu thuyết được đánh gia khá cao liên tục trong 5 năm: Made
in Việt Nam (Nhà xuất bản Văn mới, California, 2003), Chinatown (Nhà xuất bản Đà
Nẵng, 2004), Paris 11 tháng 8 (Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2005), T mất tích (Nhà xuất bản
Hội Nhà văn, 2006), Vân Vy (Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2008), cùng với hai tiểu thuyết
gần đây nhất đó là Thang máy Sài Gòn (2013) và Chỉ còn 4 ngày là hết tháng Tư (2015);
Thuận đang từng bước chứng tỏ bản lĩnh và tài năng của một cây bút chuyên nghiệp, đam
mê với nghề. Cao Việt Dũng trong lời giới thiệu về tiểu thuyết T mất tích đã từng đánh
giá “Những tác phẩm của Thuận tiếp tục khẳng định sức viết dồi dào và khả năng chạm
đến những ngõ ngách đặc biệt của cuộc sống thời đại chúng ta” . Đặc biệt, bước vào tiểu
thuyết của Thuận độc giả luôn bị ám ảnh bởi nhiều suy tư, trăn trở của chị trước những
thân phận “công dân toàn cầu”.
Tiểu thuyết của Thuận trong dòng chảy và sự phát triển của văn học hải ngoại những năm
trở lại đây cũng đã thể hiện được vị trí của mình khi được các nhà phê bình và giới
nghiên cứu quan tậm nhiều hơn, điều này càng chứng tỏ Thuận đã có những vận dụng
tương đối trong quá trinh sáng tác, đặc biệt có thể kể đến như phân tâm học, tự sự học
(lối viết tự thuật), hiện sinh và đến bây giờ là kí hiệu học. Phá vỡ lối cấu trúc truyền
thống, các tiểu thuyết của Thuận thường sử dụng cấu trúc phân mảnh, không chú trọng
trình tự thời gian, sự kiện. Các nhà phê bình văn học đều đánh giá Thuận đã rất thành
công khi không đi theo hình thức tiểu thuyết cổ điển mà mỗi cuốn chị đều có những sáng
tạo độc đáo của riêng mình. Made in Vietnam không phân chia chương đoạn, không có
dấu chấm xuống hàng. Chinatown(2005) cũng không phân chia chương đoạn không có
chấm xuống hàng nhưng chia làm 3 phần – tiểu thuyết chính và 2 trích đoạn của tiểu
thuyết phụ do nhân vật chính đang viết. Paris 11-8 (2006) mỗi chương đều bắt đầu bằng
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã nhân vật và mã không gian
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã nhân vật và mã không gian
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã nhân vật và mã không gian
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã nhân vật và mã không gian
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã nhân vật và mã không gian
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã nhân vật và mã không gian
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã nhân vật và mã không gian
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã nhân vật và mã không gian
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã nhân vật và mã không gian
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã nhân vật và mã không gian
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã nhân vật và mã không gian
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã nhân vật và mã không gian
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã nhân vật và mã không gian
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã nhân vật và mã không gian
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã nhân vật và mã không gian
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã nhân vật và mã không gian
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã nhân vật và mã không gian
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã nhân vật và mã không gian
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã nhân vật và mã không gian
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã nhân vật và mã không gian
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã nhân vật và mã không gian
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã nhân vật và mã không gian
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã nhân vật và mã không gian
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã nhân vật và mã không gian
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã nhân vật và mã không gian
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã nhân vật và mã không gian
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã nhân vật và mã không gian
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã nhân vật và mã không gian
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã nhân vật và mã không gian
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã nhân vật và mã không gian
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã nhân vật và mã không gian
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã nhân vật và mã không gian
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã nhân vật và mã không gian
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã nhân vật và mã không gian
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã nhân vật và mã không gian
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã nhân vật và mã không gian
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã nhân vật và mã không gian
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã nhân vật và mã không gian
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã nhân vật và mã không gian
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã nhân vật và mã không gian
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã nhân vật và mã không gian
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã nhân vật và mã không gian
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã nhân vật và mã không gian
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã nhân vật và mã không gian
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã nhân vật và mã không gian
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã nhân vật và mã không gian
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã nhân vật và mã không gian
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã nhân vật và mã không gian
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã nhân vật và mã không gian
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã nhân vật và mã không gian
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã nhân vật và mã không gian
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã nhân vật và mã không gian
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã nhân vật và mã không gian
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã nhân vật và mã không gian
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã nhân vật và mã không gian
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã nhân vật và mã không gian
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã nhân vật và mã không gian
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã nhân vật và mã không gian
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã nhân vật và mã không gian
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã nhân vật và mã không gian
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã nhân vật và mã không gian
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã nhân vật và mã không gian
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã nhân vật và mã không gian
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã nhân vật và mã không gian
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã nhân vật và mã không gian
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã nhân vật và mã không gian
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã nhân vật và mã không gian
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã nhân vật và mã không gian
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã nhân vật và mã không gian
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã nhân vật và mã không gian
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã nhân vật và mã không gian
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã nhân vật và mã không gian
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã nhân vật và mã không gian
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã nhân vật và mã không gian
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã nhân vật và mã không gian
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã nhân vật và mã không gian
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã nhân vật và mã không gian
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã nhân vật và mã không gian
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã nhân vật và mã không gian
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã nhân vật và mã không gian
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã nhân vật và mã không gian
Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã nhân vật và mã không gian

More Related Content

What's hot

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY_1024...
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY_1024...LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY_1024...
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY_1024...PinkHandmade
 
Ngôn ngữ văn chương
Ngôn ngữ văn chươngNgôn ngữ văn chương
Ngôn ngữ văn chươngChamcham239
 
[Tiểu luận] Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ
[Tiểu luận] Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ[Tiểu luận] Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ
[Tiểu luận] Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ PhủThanh Cong Ma
 
Luận văn thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn hồ anh thái
Luận văn thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn hồ anh tháiLuận văn thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn hồ anh thái
Luận văn thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn hồ anh tháinataliej4
 
Diễn ngôn tính dục trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại (Qua một số tác giả v...
Diễn ngôn tính dục trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại (Qua một số tác giả v...Diễn ngôn tính dục trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại (Qua một số tác giả v...
Diễn ngôn tính dục trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại (Qua một số tác giả v...nataliej4
 
Tiểu Luận Sử Thi Mahabharata Của Ấn Độ
Tiểu Luận Sử Thi Mahabharata Của Ấn Độ Tiểu Luận Sử Thi Mahabharata Của Ấn Độ
Tiểu Luận Sử Thi Mahabharata Của Ấn Độ nataliej4
 
Mô típ hóa thân trong truyện cổ tích của người việt
Mô típ hóa thân trong truyện cổ tích của người việtMô típ hóa thân trong truyện cổ tích của người việt
Mô típ hóa thân trong truyện cổ tích của người việtnataliej4
 
Luận án: Nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam từ đầu thế kỷ XXI, HAY - Gửi miễ...
Luận án: Nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam từ đầu thế kỷ XXI, HAY - Gửi miễ...Luận án: Nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam từ đầu thế kỷ XXI, HAY - Gửi miễ...
Luận án: Nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam từ đầu thế kỷ XXI, HAY - Gửi miễ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

What's hot (20)

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY_1024...
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY_1024...LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY_1024...
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY_1024...
 
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đLuận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
 
Ngôn ngữ văn chương
Ngôn ngữ văn chươngNgôn ngữ văn chương
Ngôn ngữ văn chương
 
Luận văn: Văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Đàn hương hình, HAY
Luận văn: Văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Đàn hương hình, HAYLuận văn: Văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Đàn hương hình, HAY
Luận văn: Văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Đàn hương hình, HAY
 
Cảm thức hiện sinh trong truyện ngắn Việt Nam (1986 - 2010), HOT
Cảm thức hiện sinh trong truyện ngắn Việt Nam (1986 - 2010), HOTCảm thức hiện sinh trong truyện ngắn Việt Nam (1986 - 2010), HOT
Cảm thức hiện sinh trong truyện ngắn Việt Nam (1986 - 2010), HOT
 
Luận văn: Nghệ thuật tự sự tiểu thuyết Murakami Haruki, HAY
Luận văn: Nghệ thuật tự sự tiểu thuyết Murakami Haruki, HAYLuận văn: Nghệ thuật tự sự tiểu thuyết Murakami Haruki, HAY
Luận văn: Nghệ thuật tự sự tiểu thuyết Murakami Haruki, HAY
 
[Tiểu luận] Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ
[Tiểu luận] Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ[Tiểu luận] Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ
[Tiểu luận] Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ
 
Luận văn thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn hồ anh thái
Luận văn thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn hồ anh tháiLuận văn thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn hồ anh thái
Luận văn thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn hồ anh thái
 
Luận án: Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975
Luận án: Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975Luận án: Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975
Luận án: Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975
 
Dấu ấn hiện sinh trong tiểu thuyết “Một thế giới không có đàn bà”, HAY
Dấu ấn hiện sinh trong tiểu thuyết “Một thế giới không có đàn bà”, HAYDấu ấn hiện sinh trong tiểu thuyết “Một thế giới không có đàn bà”, HAY
Dấu ấn hiện sinh trong tiểu thuyết “Một thế giới không có đàn bà”, HAY
 
Luận văn: Diễn ngôn chấn thương trong tiểu thuyết nữ Việt Nam, HAY
Luận văn: Diễn ngôn chấn thương trong tiểu thuyết nữ Việt Nam, HAYLuận văn: Diễn ngôn chấn thương trong tiểu thuyết nữ Việt Nam, HAY
Luận văn: Diễn ngôn chấn thương trong tiểu thuyết nữ Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Vấn đề bản chất và đặc trưng của văn học Việt Nam
Luận văn: Vấn đề bản chất và đặc trưng của văn học Việt NamLuận văn: Vấn đề bản chất và đặc trưng của văn học Việt Nam
Luận văn: Vấn đề bản chất và đặc trưng của văn học Việt Nam
 
Diễn ngôn tính dục trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại (Qua một số tác giả v...
Diễn ngôn tính dục trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại (Qua một số tác giả v...Diễn ngôn tính dục trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại (Qua một số tác giả v...
Diễn ngôn tính dục trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại (Qua một số tác giả v...
 
Tiểu Luận Sử Thi Mahabharata Của Ấn Độ
Tiểu Luận Sử Thi Mahabharata Của Ấn Độ Tiểu Luận Sử Thi Mahabharata Của Ấn Độ
Tiểu Luận Sử Thi Mahabharata Của Ấn Độ
 
Mô típ hóa thân trong truyện cổ tích của người việt
Mô típ hóa thân trong truyện cổ tích của người việtMô típ hóa thân trong truyện cổ tích của người việt
Mô típ hóa thân trong truyện cổ tích của người việt
 
Luận án: Nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam từ đầu thế kỷ XXI, HAY - Gửi miễ...
Luận án: Nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam từ đầu thế kỷ XXI, HAY - Gửi miễ...Luận án: Nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam từ đầu thế kỷ XXI, HAY - Gửi miễ...
Luận án: Nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam từ đầu thế kỷ XXI, HAY - Gửi miễ...
 
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975, HAY
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975, HAYLuận án: Cái tôi trữ tình trong thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975, HAY
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975, HAY
 
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đLuận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1965 đến 1975, 9đ
 
Luận văn: Yếu tố trữ tình trong truyện ngắn Trần Thùy Mai và Quế Hương
Luận văn: Yếu tố trữ tình trong truyện ngắn Trần Thùy Mai và Quế HươngLuận văn: Yếu tố trữ tình trong truyện ngắn Trần Thùy Mai và Quế Hương
Luận văn: Yếu tố trữ tình trong truyện ngắn Trần Thùy Mai và Quế Hương
 
Luận án: Nghệ thuật tiểu thuyết Diêm Liên Khoa, HAY
Luận án: Nghệ thuật tiểu thuyết Diêm Liên Khoa, HAYLuận án: Nghệ thuật tiểu thuyết Diêm Liên Khoa, HAY
Luận án: Nghệ thuật tiểu thuyết Diêm Liên Khoa, HAY
 

Similar to Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã nhân vật và mã không gian

Tim hieu dac_trung_ngon_ngu_trong_truyen_ki_cua_nguyen_tuan_4705
Tim hieu dac_trung_ngon_ngu_trong_truyen_ki_cua_nguyen_tuan_4705Tim hieu dac_trung_ngon_ngu_trong_truyen_ki_cua_nguyen_tuan_4705
Tim hieu dac_trung_ngon_ngu_trong_truyen_ki_cua_nguyen_tuan_4705Garment Space Blog0
 
Tailieu.vncty.com the loai-tuy_but_trong_van_hoc_viet_nam_tu_1930_den_1975
Tailieu.vncty.com   the loai-tuy_but_trong_van_hoc_viet_nam_tu_1930_den_1975Tailieu.vncty.com   the loai-tuy_but_trong_van_hoc_viet_nam_tu_1930_den_1975
Tailieu.vncty.com the loai-tuy_but_trong_van_hoc_viet_nam_tu_1930_den_1975Trần Đức Anh
 
Lược đồ văn học quốc ngữ việt nam nhìn từ quá trình hình thành và tương tác t...
Lược đồ văn học quốc ngữ việt nam nhìn từ quá trình hình thành và tương tác t...Lược đồ văn học quốc ngữ việt nam nhìn từ quá trình hình thành và tương tác t...
Lược đồ văn học quốc ngữ việt nam nhìn từ quá trình hình thành và tương tác t...Thế Giới Tinh Hoa
 
Khóa luận sư phạm về Một số ẩn dụ tiêu biểu trong thơ Đường.
Khóa luận sư phạm về Một số ẩn dụ tiêu biểu trong thơ Đường.Khóa luận sư phạm về Một số ẩn dụ tiêu biểu trong thơ Đường.
Khóa luận sư phạm về Một số ẩn dụ tiêu biểu trong thơ Đường.Dịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Mấy Vấn Đề Thi Pháp Văn Học Trung Đại Việt Nam
Mấy Vấn Đề Thi Pháp Văn Học Trung Đại Việt Nam Mấy Vấn Đề Thi Pháp Văn Học Trung Đại Việt Nam
Mấy Vấn Đề Thi Pháp Văn Học Trung Đại Việt Nam nataliej4
 
Chuyên đề VĂN HỌC HIỆN THỰC 30-45.docx
Chuyên đề VĂN HỌC HIỆN THỰC 30-45.docxChuyên đề VĂN HỌC HIỆN THỰC 30-45.docx
Chuyên đề VĂN HỌC HIỆN THỰC 30-45.docxhiutrn809713
 
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết ThiệnSự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết ThiệnMan_Ebook
 
TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY.pdf
TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY.pdfTRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY.pdf
TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY.pdfNuioKila
 
Nghiên cứu yếu tố Kỳ Ảo qua cách sử dụng từ điểm âm trong Truyền Kỳ Mạn Lục c...
Nghiên cứu yếu tố Kỳ Ảo qua cách sử dụng từ điểm âm trong Truyền Kỳ Mạn Lục c...Nghiên cứu yếu tố Kỳ Ảo qua cách sử dụng từ điểm âm trong Truyền Kỳ Mạn Lục c...
Nghiên cứu yếu tố Kỳ Ảo qua cách sử dụng từ điểm âm trong Truyền Kỳ Mạn Lục c...Dịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 

Similar to Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã nhân vật và mã không gian (20)

Luận văn: Tiểu thuyết Nguyễn Danh Lam dưới góc nhìn Liên văn bản
Luận văn: Tiểu thuyết Nguyễn Danh Lam dưới góc nhìn Liên văn bảnLuận văn: Tiểu thuyết Nguyễn Danh Lam dưới góc nhìn Liên văn bản
Luận văn: Tiểu thuyết Nguyễn Danh Lam dưới góc nhìn Liên văn bản
 
Tim hieu dac_trung_ngon_ngu_trong_truyen_ki_cua_nguyen_tuan_4705
Tim hieu dac_trung_ngon_ngu_trong_truyen_ki_cua_nguyen_tuan_4705Tim hieu dac_trung_ngon_ngu_trong_truyen_ki_cua_nguyen_tuan_4705
Tim hieu dac_trung_ngon_ngu_trong_truyen_ki_cua_nguyen_tuan_4705
 
Đề tài: Truyện ngắn Việt Nam từ 1986 đến nay (nhìn từ góc độ thể loại)
Đề tài: Truyện ngắn Việt Nam từ 1986 đến nay (nhìn từ góc độ thể loại)Đề tài: Truyện ngắn Việt Nam từ 1986 đến nay (nhìn từ góc độ thể loại)
Đề tài: Truyện ngắn Việt Nam từ 1986 đến nay (nhìn từ góc độ thể loại)
 
Tailieu.vncty.com the loai-tuy_but_trong_van_hoc_viet_nam_tu_1930_den_1975
Tailieu.vncty.com   the loai-tuy_but_trong_van_hoc_viet_nam_tu_1930_den_1975Tailieu.vncty.com   the loai-tuy_but_trong_van_hoc_viet_nam_tu_1930_den_1975
Tailieu.vncty.com the loai-tuy_but_trong_van_hoc_viet_nam_tu_1930_den_1975
 
Luận văn: Diễn ngôn về giới nữ của các nhà văn nữ đương đại, HOT
Luận văn: Diễn ngôn về giới nữ của các nhà văn nữ đương đại, HOTLuận văn: Diễn ngôn về giới nữ của các nhà văn nữ đương đại, HOT
Luận văn: Diễn ngôn về giới nữ của các nhà văn nữ đương đại, HOT
 
Lược đồ văn học quốc ngữ việt nam nhìn từ quá trình hình thành và tương tác t...
Lược đồ văn học quốc ngữ việt nam nhìn từ quá trình hình thành và tương tác t...Lược đồ văn học quốc ngữ việt nam nhìn từ quá trình hình thành và tương tác t...
Lược đồ văn học quốc ngữ việt nam nhìn từ quá trình hình thành và tương tác t...
 
Thời đại, cuộc đời, con người, quan niệm, sự nghiệp sáng tác, thơ của Xuân Di...
Thời đại, cuộc đời, con người, quan niệm, sự nghiệp sáng tác, thơ của Xuân Di...Thời đại, cuộc đời, con người, quan niệm, sự nghiệp sáng tác, thơ của Xuân Di...
Thời đại, cuộc đời, con người, quan niệm, sự nghiệp sáng tác, thơ của Xuân Di...
 
Luận án: Truyện nôm bác học từ góc nhìn của cổ mẫu, HAY
Luận án: Truyện nôm bác học từ góc nhìn của cổ mẫu, HAYLuận án: Truyện nôm bác học từ góc nhìn của cổ mẫu, HAY
Luận án: Truyện nôm bác học từ góc nhìn của cổ mẫu, HAY
 
Thế Giới Biểu Tượng Trong Văn Xuôi Võ Thị Hảo.doc
Thế Giới Biểu Tượng Trong Văn Xuôi Võ Thị Hảo.docThế Giới Biểu Tượng Trong Văn Xuôi Võ Thị Hảo.doc
Thế Giới Biểu Tượng Trong Văn Xuôi Võ Thị Hảo.doc
 
Luận án: Đặc điểm hồi ký văn học Việt Nam từ 1975 đến 2010
Luận án: Đặc điểm hồi ký văn học Việt Nam từ 1975 đến 2010Luận án: Đặc điểm hồi ký văn học Việt Nam từ 1975 đến 2010
Luận án: Đặc điểm hồi ký văn học Việt Nam từ 1975 đến 2010
 
Ảnh hưởng của chủ nghĩa hậu hiện đại đối với tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến...
Ảnh hưởng của chủ nghĩa hậu hiện đại đối với tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến...Ảnh hưởng của chủ nghĩa hậu hiện đại đối với tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến...
Ảnh hưởng của chủ nghĩa hậu hiện đại đối với tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến...
 
Khóa luận sư phạm về Một số ẩn dụ tiêu biểu trong thơ Đường.
Khóa luận sư phạm về Một số ẩn dụ tiêu biểu trong thơ Đường.Khóa luận sư phạm về Một số ẩn dụ tiêu biểu trong thơ Đường.
Khóa luận sư phạm về Một số ẩn dụ tiêu biểu trong thơ Đường.
 
Khảo sát các tương tác biểu tượng trong ca từ Trịnh Công Sơn
Khảo sát các tương tác biểu tượng trong ca từ Trịnh Công SơnKhảo sát các tương tác biểu tượng trong ca từ Trịnh Công Sơn
Khảo sát các tương tác biểu tượng trong ca từ Trịnh Công Sơn
 
Mấy Vấn Đề Thi Pháp Văn Học Trung Đại Việt Nam
Mấy Vấn Đề Thi Pháp Văn Học Trung Đại Việt Nam Mấy Vấn Đề Thi Pháp Văn Học Trung Đại Việt Nam
Mấy Vấn Đề Thi Pháp Văn Học Trung Đại Việt Nam
 
Luận văn: Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Nhật Ánh, HAY
Luận văn: Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Nhật Ánh, HAYLuận văn: Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Nhật Ánh, HAY
Luận văn: Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Nhật Ánh, HAY
 
Chuyên đề VĂN HỌC HIỆN THỰC 30-45.docx
Chuyên đề VĂN HỌC HIỆN THỰC 30-45.docxChuyên đề VĂN HỌC HIỆN THỰC 30-45.docx
Chuyên đề VĂN HỌC HIỆN THỰC 30-45.docx
 
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết ThiệnSự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
 
Luận án: Truyện ngắn nữ Việt Nam từ 1986 đến nay, HAY
Luận án: Truyện ngắn nữ Việt Nam từ 1986 đến nay, HAYLuận án: Truyện ngắn nữ Việt Nam từ 1986 đến nay, HAY
Luận án: Truyện ngắn nữ Việt Nam từ 1986 đến nay, HAY
 
TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY.pdf
TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY.pdfTRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY.pdf
TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY.pdf
 
Nghiên cứu yếu tố Kỳ Ảo qua cách sử dụng từ điểm âm trong Truyền Kỳ Mạn Lục c...
Nghiên cứu yếu tố Kỳ Ảo qua cách sử dụng từ điểm âm trong Truyền Kỳ Mạn Lục c...Nghiên cứu yếu tố Kỳ Ảo qua cách sử dụng từ điểm âm trong Truyền Kỳ Mạn Lục c...
Nghiên cứu yếu tố Kỳ Ảo qua cách sử dụng từ điểm âm trong Truyền Kỳ Mạn Lục c...
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877

Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877 (20)

Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...
 
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...
 
Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...
Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...
Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...
 
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...
 
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
 
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y Tế
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y TếHoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y Tế
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y Tế
 
Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...
Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...
Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...
 
Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!
Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!
Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!
 
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!
 
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.
 
Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!
Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!
Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!
 
Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!
Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!
Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!
 
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
 
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!
 
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...
 
Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!
Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!
Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!
 
Quy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện Taf
Quy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện TafQuy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện Taf
Quy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện Taf
 
Thực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng Cáo
Thực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng CáoThực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng Cáo
Thực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng Cáo
 
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
 
Hoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu Tư
Hoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu TưHoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu Tư
Hoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu Tư
 

Recently uploaded

GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢImyvh40253
 
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảoKiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảohoanhv296
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfNguyen Thanh Tu Collection
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfTrnHoa46
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdfTrnHoa46
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanmyvh40253
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...Nguyen Thanh Tu Collection
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docxTHAO316680
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngYhoccongdong.com
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (20)

GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
 
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảoKiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 

Luận văn: Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã nhân vật và mã không gian

  • 1. Trang 1 MỤC LỤC MỞ ĐẦU............................................................................................................................. 2 1. Lí do chọn đề tài ......................................................................................................2 2. Lịch sử vấn đề ..........................................................................................................4 2.1. Nghiên cứu về lí thuyết kí hiệu học trên thế giới ................................................... 4 2.2. Các nghiên cứu về kí hiệu học văn học ở Việt Nam............................................... 6 2.3. Các nghiên cứu về tác phẩm của Thuận .......................................................... 8 3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu............................................................................11 4. Phƣơng pháp nghiên cứu......................................................................................12 5. Đóng góp của luận văn..........................................................................................13 NỘI DUNG....................................................................................................................... 14 Chƣơng 1: Một số khuynh hƣớng tiếp cận kí hiệu học văn học và tiểu thuyết của Thuận trong không gian văn học hải ngoại Việt Nam đƣơng đại............................14 1.1. Một số khuynh hướng tiếp cận kí hiệu học........................................................... 14 1.2. Tiểu thuyết của Thuận trong không gian văn học hải ngoại Việt Nam đương đại28 Chƣơng 2: Tiểu thuyết Thuận nhìn từ mã nhân vật và mã không gian - thời gian nghệ thuật......................................................................................................................37 2.1. Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã nhân vật......................................................... 37 2.2. Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã không gian nghệ thuật................................... 53 2.3. Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã thời gian nghệ thuật ...................................... 69 Chƣơng 3: Tiểu thuyết Thuận nhìn từ mã kết cấu, mã ngôn ngữ và biểu tƣợng văn hóa..................................................................................................................................80 3.1. Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã kết cấu ........................................................... 80 3.2. Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã ngôn ngữ........................................................ 88 3.3. Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ một số biểu tượng ............................................... 96 KẾT LUẬN .................................................................................................................... 108 TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................................. 109
  • 2. Trang 2 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Con người tồn tại trong cộng đồng và giao tiếp với nhau bằng một hệ thống các tín hiệu - kí hiệu. Việc sử dụng kí hiệu chính là biểu hiện của nhu cầu diễn đạt ngắn gọn ý nghĩ của chúng ta với người khác. Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp vì vậy ngôn ngữ cũng chính là kí hiệu, hệ thống kí hiệu mang tính thỏa ước để “ghi nhận, lưu giữ, chuyển giao, biểu đạt kinh nghiệm, hình dung, tri nhận thế giới”.[90, tr9] Thuật ngữ kí hiệu (sign) hay kí hiệu học (semiotics) xuất hiện với tư cách là một khái niệmtrong các ngành khoa học nói chung và nghiên cứu xã hội nhân văn nói riêng, đây chính là bước tiến trong nhu cầu tiếp cận cũng như khai thác các lí thuyết mới cho các lĩnh vực nghiên cứu liên quan đến kí hiệu học. Kí hiệu học là khoa học nghiên cứu bản chất, chức năng và cơ chế hoạt động của các hệ thống kí hiệu. Thuật ngữ này được nhà ngữ học Thụy Sĩ Ferdinand de Saussure đề xuất vào những năm cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX. Ở đó, ông tiên đoán đến một nền kí hiệu học bao trùm các thể loại kí hiệu của đời sống. Xuất phát từ nền tảng của kí hiệu học cấu trúc của Saussure, triết gia Mỹ Charles Sanders Pieirce đã phát triển quan điểm sử dụng kí hiệu theo logic học và cấu trúc tam vị. Dựa trên nền tảng kí hiệu học của Saussure và Pieirce, ngành kí hiệu học đã phát triển với những tên tuổi quan trọng như: Louis Hjelmslev, Roland Barthes, Juri Lotman, Umberto Eco… Khoa học nghiên cứu về kí hiệu không chỉ dừng lại ở mối quan hệ giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt mà tiến tới tìm hiểu quá trình thiết lập và diễn giải kí hiệu cũng như cơ chế hoạt động đặc thù của nó. Và ở đó, kí hiệu học liên đới đến các ngành khoa học khác trong tính chất liên ngành Như đã nói ở trên, ngôn ngữ là kí hiệu, ngôn ngữ làm phương tiện giao tiếp và chất liệu để tạo nên tác phẩm văn học; đồng thời, khi chúng ta xem văn học là một phương tiện để giao tiếp, là diễn ngôn thẩm mĩ của xã hội thì lúc đó chỉnh thể tác phẩm văn học sẽ trở thành một kí hiệu. Lí thuyết kí hiệu học văn học đã nhìn văn học như một hệ thống kí hiệu đặc thù, hệ thống siêu kí hiệu. Từ đó, bản chất của văn học không phải là
  • 3. Trang 3 tính hiện thực chủ đạo như trong lí thuyết phản ánh mà là tính kí hiệu. Bởi ngôn ngữ là kí hiệu, và văn học sử dụng ngôn ngữ làm chất liệu nên văn học cũng là kí hiệu. Khi văn học là kí hiệu thì tính giao tiếp không phải là chức năng mà là thuộc tính bản thể của văn học. Từ những năm 60 của thế kỉ XX, lí thuyết kí hiệu học văn học đã thể hiện sự năng động của nó trong hành trình nghiên cứu bản chất văn học, và quan trọng hơn, nếu trước đây, người ta xem văn học là một vũ trụ ngữ nghĩa tự trị, khép kín theo tinh thần của chủ nghĩa cấu trúc, thì trên thế giới hiện nay, người ta thấy cần xét lại định nghĩa kí hiệu học văn học. Ở đó, văn bản văn học luôn luôn gắn với ngữ cảnh mà nó ra đời, bởi đằng sau văn bản là tác giả và đằng sau tác giả là một thời đại. Kí hiệu học văn học cho thấy những khả năng và giới hạn của nó trong việc xác lập những thuộc tính bản thể của văn học trong sự chuyển đổi về hệ hình tư duy lí luận văn học từ tiền hiện đại sang hiện đại và hậu hiện đại. Ở đó, kí hiệu học văn học gia nhập vào kí hiệu học văn hóa, và đằng sau văn bản văn học là văn bản văn hóa. Tinh thần của Kí hiệu học diễn giải được chúng tôi đặc biệt quan tâm khi lựa chọn một hiện tượng văn học tiêu biểu để nghiên cứu từ góc nhìn của lý thuyết này. Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay, tình hình nghiên cứu lí thuyết kí hiệu học và các loại hình kí hiệu học vẫn là một “khoảng trống” cần được lấp đầy bởi chúng ta chưa thực sự có một hệ thống lí thuyết, phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu riêng. Trong văn xuôi Việt Nam đương đại, có rất nhiều cây bút xuất sắc, tiêu biểu cho hướng văn học “thay da đổi thịt” như Thuận, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Nguyễn Ngọc Tư, Bảo Ninh, Hồ Anh Thái,… Tuy nhiên chúng tôi chú ý hơn cả vẫn là Thuận, một tác giả nữ đầy cá tính. Thuận là gương mặt tiêu biểu của văn chương nữ hải ngoại Việt Nam đương đại. Vốn nằm ở ngoại vi của văn học trong nước, Thuận đã thể hiện những đổi mới, tạo nên những đường biên của văn học. Tiểu thuyết của Thuận đã thể hiện sự xâm lấn về văn hóa, giải kiến tạo những chân dung lịch sử trong quá khứ, và hơn hết là thể hiện sự tự do của người viết theo tinh thần hiện sinh – nhà văn là chủ thể dấn thân của Sartre. Trên hành trình dấn thân đến chân trời tự do ấy, tiểu thuyết của Thuận luôn là bức khảm của nhiều thông điệp mà ở đấy, người đọc cũng khó xác định
  • 4. Trang 4 thông điệp nào là chủ đạo. Hệ thống các kí hiệu trong tiểu thuyết của Thuận luôn đầy ắp ý nghĩa, luôn cần được giải mã từ nhiều góc nhìn khác nhau. Những kí hiệu hàm nghĩa ấy đa dạng và sinh động, khiến cho quá trình diễn giải về chúng của người đọc được triển hạn đến vô cùng. Xuất phát từ những lí do trên khiến cho đề tài mà chúng tôi lựa chọn: Tiểu thuyết của Thuận từ góc nhìn kí hiệu học văn học trở nên cấp thiết, chứa đựng các tình huống khoa học. 2. Lịch sử vấn đề 2.1. Nghiên cứu về lí thuyết kí hiệu học trên thế giới Xu hướng kí hiệu học gắn với nghiên cứu ngôn ngữ và cấu trúc, bản chất của nghiên cứu kí hiệu là nghiên cứu ngôn ngữ. Quan điểm của F. Saussure về tính hai mặt cái biểu đạt và cái được biểu đạt cũng với một số cặp lưỡng phân như ngôn ngữ/lời nói, nội tại/ngoại tại của kí hiệu đã trở thành dấu móc quan trọng không chỉ đối với ngành ngôn ngữ học hiện đại mà với cả kí hiệu học. Theo F.Saussure, tín hiệu học/kí hiệu học (sémiologie) là “một khoa học nghiên cứu đời sống của các tín hiệu trong lòng sinh hoạt xã hội […]. Ngành học này sẽ cho ta biết thế nào là tín hiệu, nó tuân theo những quy luật nào” [26,15]. Ở đây F.Saussure đã tiên đoán được tầm ảnh hưởng của cấu trúc luận sẽ vượt ra ngoài phạm vi của ngôn ngữ học với nhận đinh: “Một ngành khoa học nghiên cứu về sự tồn tại của các kí hiệu trong đời sống xã hội là hoàn toàn phù hợp, khoa học này sẽ là một phần của tâm lí học xã hội do đó cũng là một phần tâm lí học nói chung; tôi sẽ gọi nó là kí hiệu học (semiology)”. Như vậy, F. Saussure nhắc đến kí hiệu học lần đầu tiên như một thuật ngữ riêng của một phân môn nghiên cứu của chủ nghĩa cấu trúc. Tiếp thu có phê phán và phát triển các quan điểm của Saussure, V.N.Voloshinov trong Chủ nghĩa Marx và Triết học ngôn ngữ khẳng định, bên ngoài kí hiệu không tồn tại ý thức – tư tưởng. Bên ngoài kí hiệu, ý thức – tư tưởng chỉ là một sự hư cấu. Theo ý kiến của Voloshinov, ý thức – tư tưởng không tồn tại ở dạng nào khác ngoài tồn tại dưới hình thức kí hiệu, và kí hiệu cũng chẳng có mục đích nào khác, mà tồn tại như là ý thức – tư tưởng. Ý thức không chỉ đầy ắp kí hiệu mà “ý thức chỉ trở thành ý thức khi được lấp đầy bằng nội dung tư tưởng, tức là nội dung kí hiệu”. Voloshinov viết: “Đặc điểm kí hiệu
  • 5. Trang 5 chính là cái chung quy định tất cả các hiện tượng tư tưởng. Mỗi kí hiệu tư tưởng không chỉ là một sự phản ánh, một cái bóng của thực tại, mà còn là một phần vật chất của chính thực tại đó. Tất cả các hiện tượng kí hiệu tư tưởng đều được thể hiện qua một chất liệu nào đó: như âm thanh, khối lượng vật lí, màu sắc, vận động cơ thể”, và “Nếu chúng ta loại khỏi ý thức nội dung kí hiệu tư tưởng của nó, ý thức hoàn toàn không còn lại gì” [35, 54]. Như thế, kí hiệu là hình thức – ý thức – tư tưởng – văn hóa. Không có kí hiệu nằm ngoài hệ thống ý thức – tư tưởng – văn hóa, cũng không có ý thức – tư tưởng – văn hóa nếu không được biểu đạt bằng hệ thống kí hiệu. Khác với mô hình cặp đôi về kí hiệu của F. Saussure, mô hình tam vị của C.S. Peirce gồm: kí hiệu (sign), đối tượng (object) và diễn giải (interpretant), có thể coi đây là “vết rạn nứt” đầu tiên của cấu trúc nội tại. Trong ba yếu tố này, nếu như kí hiệu (sign) như là cái biểu đạt (signifier); đối tượng (object) là suy nghĩ tốt nhất về bất cứ cái gì được biểu đạt, diễm giải (interpretant) trở thành một phần quan trọng trong mô hình kí hiệu học của Peirce. Tiếp nối xu hướng nghiên cứu kí hiệu học gắn với ngôn ngữ - cấu trúc, mô hình kí hiệu của Louis Hjelmslev là sự phát triển xa hơn mô hình kí hiệu hai mặt của F. Saussure, đối với Louis Hjelmslev, ông đã định danh lại thành biểu hiện (expression) và mặt nội dung (content plance) coi đây là cả hai mặt của kí hiệu. Cả mặt biểu hiện và mặt nội dung đều được phân tầng cụ thể hơn trong hình thức và nghĩa kí hiệu học. Đối với Roland Barther ông chú ý nhấn mạnh đến sự diễn giải trên cấu trúc tam vị của Pierce, ông cho chúng ta thấy một sức mạnh vô biên lẫn sự che giấu tồn tại của mỗi kí hiệu. Xem kí hiệu học là khoa học về các hình thức chịu ràng buộc từ một quy chế chung của “những khoa học về các giá trị […] xác định sự việc và khảo sát sự việc dưới góc độ cái-giá trị-như”, R.Barthes khẳng định “huyền thoại như một hệ thống kí hiệu” và huyền thoại học“nghiên cứu những tư tưởng dạng hình thức”. Barthes cho rằng, huyền thoại là một hệ thống đặc thù ở chỗ “nó được thiết lập từ một chuỗi kí hiệu tồn tại trước nó: đó là hệ thống kí hiệu thứ hai” [9, tr292-303]. Bên cạnh đó, ông còn có nhiều công trình khác nghiên cứu về kí hiệu học khác như: Tuyển tập các công trình kí hiệu học, Thi
  • 6. Trang 6 pháp học (1989), các thành tố của kí hiệu học (1964), cơ sở của kí hiệu học in trong Chủ nghĩa cấu trúc và văn hóa (2002),… Nghiên cứu kí hiệu học trên thế giới còn có nhiều tên tuổi khác như: Charles Morris, Algirdas J. Greimas, Juri Lotman, Umberto Eco,… Khoa học về kí hiệu đã có những khảo sát nghiên cứu đa chiều hơn và không ngừng phát triển, tiếp thu và cải biến. 2.2. Các nghiên cứu về kí hiệu học văn học ở Việt Nam Ở Việt Nam, kí hiệu học nói chung và kí hiệu học văn hóa nói riêng đã nhận được sự quan tâm của các nhà khoa học trong những năm gần đây, bao gồm các hoạt động dịch thuật các công trình có tính chất lập thuyết của kí hiệu học tiên phong. Ở đó, các nhà nghiên cứu đã bàn luận đến vấn đề: phạm vi và các thuật ngữ cơ bản của kí hiệu học, đặc tính của kí hiệu như tính không đồng đều, tính đa nghĩa và trừu tượng, cơ sở kí hiệu học, kí hiệu học như một lí thuyết về cách đọc… Có thể kể ra một số công trình dịch thuật sau: - Ilin và Tzuganova (2003), Các khái niệm và thuật ngữ của các trường phái nghiên cứu văn học ở Tây Âu và Hoa Kỳ thế kỉ XX (Đào Tuấn Ảnh, Trần Hồng Vân, Lại Nguyên Ân dịch), - Antoine Compagnon (2006), Bản mệnh của lí thuyết – Văn chương và cảm nghĩ thông thường (Lê Hồng Sâm và Đặng Anh Đào dịch), Nxb ĐHSP, HN. - Trịnh Bá Đĩnh (2007), Kí hiệu học văn hóa, văn học, Đề tài cấp viện, Viện Văn học, HN. - Jakovson (2008), Thi học và ngữ nghĩa – Lí luận văn học phương Tây hiện đại (Trần Duy Châu biên khảo), Nxb Văn học và TT Nghiên cứu Quốc học. - Todrrov, Kí hiệu học văn học, Trần Đình Sử dịch, nguồn https://trandinhsu.wordpress.com/2014/01/26/ki-hieu-hoc-van-hoc/ - V.A. Milovidov, Kí hiệu (Lã Nguyên dịch), nguồnhttp://phebinhvanhoc.com.vn/ky- hieu/ - IU.M. Lotman, Kí hiệu học văn hóa (Lã Nguyên, Đỗ Hải Phong, Trần Đình Sử dịch), Nxb ĐHQG, H, 2015. Bên cạnh những công trình dịch thuật, phải kể đến những công trình nghiên cứu và
  • 7. Trang 7 ứng dụng Kí hiệu học văn học ở Việt Nam: Trước hết, phải nhắc đến Hoàng Trinh với hai công trình tiêu biểu liên quan đến kí hiệu học, “Kí hiệu, nghĩa và phê bình văn học” (1979), “Từ kí hiệu học đến thi pháp học” (1997). Cả hai công tình đều là sự ứng dụng hệ hình lí thuyết để áp dụng vào phê bình văn học, cũng như sử dụng kí hiệu học để lí giải các hình tượng văn học. - Lộc Phương Thủy (chủ biên), Lí luận phê bình văn học thế giới thế kỉ XX (tập 2), 2007 - Lã Nguyên (2012), Lí luận văn học, những vấn đề hiện đại, Nxb ĐHSP, HN. - Nguyễn Tri Nguyên (2015), Kí hiệu học văn hóa, Nxb Thông tin và truyền thông, Hà Nội. - Xem biểu tượng như là một phạm trù quan trọng của kí hiệu học, Đinh Hồng Hải với các công trình nghiên cứu liên quan đến biểu tượng dưới góc nhìn kí hiệu học như “Nghiên cứu biểu tượng một số hướng tiếp cận lí thuyết” (2014) và “Cấu trúc luận trong nghiên cứu biểu tượng từ kí hiệu học đến nhân học biểu tượng” (2016). Trong những công trình lớn này, tác giả chủ yếu sử dụng nhiều lí thuyết khác nhau để nghiên cứu biểu tượng như cấu trúc luận, ngôn ngữ học, nhân học, trong đó tiêu biểu có đề cập đến nghiên cứu biểu tượng dưới góc nhìn kí hiệu học. Bên cạnh đó, còn có nhiều công trình nghiên cứu về kí hiệu học nói chung và kí hiệu học văn học nói riêng của các nhà phê bình nổi tiếng như Trịnh Bá Đĩnh với bài viết “Biểu tượng nhìn từ góc nhìn kí hiệu học văn hóa” (2016); Lê Huy Bắc với các bài viết “Văn chương như kí hiệu đa văn hóa”(2016), “Cổ mẫu như kí hiệu văn chương”(2015), “Mặc định học kí hiệu” (2015); Trần Đình Sử với các bài viết được đăng trên nhiều trang web (https:// trandinhsu.wordpress.com) như “Mã và giải mã trong văn học” , “Tính kí hiệu của hình tượng văn học”. Gần đây nhất (10/2016) là hội thảo Kí hiệu học, từ lí thuyết đến ứng dụng trong nghiên cứu và dạy học Ngữ văn được tổ chức tại trường Đại học sư phạm Hà Nội, với sự đóng góp nghiên cứu của rất nhiều các chuyên gia đầu ngành nghiên cứu văn học đã phác thảo diện mạo tình hình nghiên cứu kí hiệu học nói chung và kí hiệu học văn học nói riêng tại Việt Nam.
  • 8. Trang 8 Nhìn chung tất cả những khảo sát về những công trình, đề tài nghiên cứu về kí hiệu học nói chung cũng như kí hiệu học văn học nói riêng ở trên cho thấy, gần đây kí hiệu học là ngành nghiên cứu đang được quan tâm và là xu hướng nghiên cứu chủ đạo hiện nay. Những nghiên cứu về kí hiệu học văn học đối với những hiện tượng văn học cụ thể (nghiên cứu trường hợp) luôncho thấy sự khát vọng xác lập những vênh lệch giữa thực tiễn sáng tác và những vấn đề của lí thuyết văn học. Chỉ ra những vênh lệch ấy, chúng tôi thiết nghĩ là cần thiết để thể hiện quan niệm mọi lí thuyết văn học đều xuất phát từ thực tiễn sáng tác và những nghiên cứu trường hợp luôn có ý nghĩa trong việc tạo lập sự sinh động, đa dạng và bổ khuyết cho lí thuyết văn học. 2.3. Các nghiên cứu về tác phẩm của Thuận Ở Việt Nam, Thuận được coi là một cây bút mới có cá tính nên tác phẩm của chị cũng được chú ý nghiên cứu khá nhiều. Qua tìm hiểu, chúng tôinhận thấy tác phẩm của Thuận đã được triển khai trên nhiều phương diện khác nhau, ứng dụng nhiều lí thuyết khác nhau để soi chiếu chiếu tác phẩm như nữ quyền luận, chủ nghĩa hiện sinh, phân tâm học, hậu hiện đại…Tuy nhiên, trong số rất nhiều các đề tài đó, chúng tôi đặc biệt quan tâm đến một số các đề tài có liên quan đến nghiên cứu của chúng tôi. Luôn có ý thức cách tân văn học, nghiêm túc với công việc của mình, bạo dạn và thậm chí khiêu khích với thẩm mỹ truyền thống, Thuận nhận được không ít sự ủng hộ cũng như bài xích, chê bai.. Trong bài viết Suy nghĩ về dịch thuật và ngôn ngữ văn chương, Cao Việt Dũng khẳng định: “Thuận đã tạo ra một thế giới khác, một thế giới mong manh nằm trên biên giới các nền văn hóa, nhưng cùng lúc cũng là một thế giới vững chắc với các nền móng chung, với những lối liên thông với những động hướng gần gũi nhau.” Thuận có “một thứ can đảm phi thường trong một khí hậu văn chương đậm màu tầm thường đang vây bủa: can đảm bịa đặt”. Với nhiều cuốn tiểu thuyết nhà văn Thuận đã thu hút được bạn đọc bởi nội dung và nghệ thuật mang nhiều hơi hướng lạ. Nhận định về tiểu thuyết của Thuận chúng tôi tìm thấy những bài báo, những ý kiến phát biểu qua những trang Web, cụ thể như sau: Trong bài viết Với tôi văn chương là những chuyến đi, tác giả Thủy Lê nhận định: “Đặc điểm chung tiểu thuyết của Thuận là thường gây lạ bằng những nhan đề chứa địa danh
  • 9. Trang 9 quen thuộc: Việt Nam, Chinatown, Paris và nghe nói tới đây còn có New York”. Cũng theo Thủy Lê: Những địa danh đó liên quan đến cuộc đời và số phận nhân vật của Thuận; phần lớn nhân vật của Thuận “là những kiếp sống tha hương thậm chí đã có lúc đã chạm đến tận cùng cay đắng”. Tiểu Quyên trong bài viết Dòng chảy trầm của văn học xa xứ khẳng định: các nhà văn xa xứ có cách nhìn cuộc sống già dặn, triết lí và đầy giá trị nhân sinh sâu sắc. Bài báo đánh giá cao sáng tác của nhà văn Thuận, nhất là viết về thân phận người phụ nữ li hương. Tác giả bài báo đề cập đến số phận những người xa xứ, nhất là nỗi cô đơn, sự cô độc của con người trong thế giới hiện đại phương Tây. Văn học phải viết về con người, Thuận cũng nằm ngoài phạm vi đề tài đó. Chính vì thế vấn đề về con người trong tiểu thuyết của Thuận được quan tâm khá nhiều trong rất nhiều các công trình nghiên cứu cũng như các bài viết được đăng trên những tạp chí uy tín. Chúng ta có luận văn thạc sĩ của Vũ Thị Hạnh (Đại học Thái Nguyên) với đề tài “Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết của Thuận”( 2011) ở công trình nghiên cứu đó tác giả đã khảo sát hệ thống các kiểu nhân vật dễ bắt gặp nhất trong một vài tiểu thuyết của Thuận; cũng nói về con người, nhưng khảo sát hình ảnh con người cô đơn, Hoàng Thi Liên (Đại học Đà Nẵng) trong luận văn thạc sĩ của mình đã có công trình nghiên cứu “Con người cô đơn trong tiểu thuyết của Thuận” (2011). Không chỉ dừng lại ở những công trình luận văn thạc sĩ, có nhiều bài báo, bài hội thảo bàn về kiểu nhân vật trong văn chương đương đại nói chung, trong đó có nhắc nhiều đến tác phẩm của Thuận cùng những kiểu nhân vật xuất hiện trong đó, ví dụ như Nguyễn Thị Kim Tiến ( Đại học Đồng Tháp) bàn về “Về kiểu “ẩn danh” nhân vật - Tiếp cận qua một số tiểu thuyết Việt Nam đương đại” , trong bài viết đó tác giả đã nhắc đến rất nhiều tác phẩm của Thuận có xuất hiện kiểu nhân vật ẩn danh. Cũng với vấn đề về con người, có bài viết “Tiểu thuyết hải ngoại và vấn đề thân phận tha hương”( Lí Hoài Thu – Nguyễn Thu Trang) được đăng trên tạp chí Văn nghệ quân đội, bài viết đề cập đến nhiều tác giả hải ngoại trong đó có Thuận với cảm thức tha hương trong việc sáng tạo nhân vật của mình. Nhân vật là một kí hiệu tiêu biểu nên chúng tôi chọn tiêu chí này để đưa vào đề tài của mình. Qua tìm hiểu, chúng tôi thấy giọng điệu – ngôn ngữ trong tiểu thuyết của Thuận cũng được sự quan tâm khá nhiều của các nghiên cứu gần đây, giọng điệu và ngôn ngữ
  • 10. Trang 10 trong văn chương cũng chính là một mã kí hiệu cần khai thác. Trong những công trình nghiên cứu về giọng điệu liên quan đến tiểu thuyết của Thuân chúng tôi đặc biệt chú ý đến bài viết “Giọng điệu trần thuật trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại”của tiến sĩ Thái Phan Vàng Anh được đăng trên tạp chí Văn hóa Nghệ An (2010), trong đó có một phần khảo sát giọng điệu trong nhiều tiểu thuyết khác nhau và tiểu thuyết của Thuận rất được quan tâm. Đồng thời, có luận văn thạc sĩ của Trần Thị Thanh Thoa (Đại học sư phạm thành phố Hồ Chí Minh) viết về “Giọng điệu giễu nhại trong tiểu thuyết của Thuận” (2014). Trong một luận văn khác của Vũ Thị Hạnh ( Đại học Khoa học xã hội – nhân văn, Hà Nội) “Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết của Thuận”(2010), tác giả đã dành riêng một chương để khảo sát về giọng điệu trong tiểu thuyết của Thuận, trong đó cũng có nhắc đến các kiểu giọng điệu đặc trưng mà theo chúng tôi nó liên quan đến đề tài mà chúng tôi đang nghiên cứu. Liên quan đến nghiên cứu cách sử dụng ngôn ngữ trong tiểu thuyết của Thuận chúng tôi chú ý đến một số bài viết như “Chơi cùng ngôn ngữ trong tiểu thuyết của Thuận”, bài viết của Vũ Thị Hạnh (Trường Đại học Khoa học – Đại học Thái Nguyên) xem xét ngôn ngữ trong các tiểu thuyết của Thuận và đưa ra một kiểu ngôn ngữ tiêu biểu thường thấy trong tiểu thuyết; một bài nghiên cứu nhỏ hơn những có giá trị không kém đó chính là bài viết của Nguyễn Văn Thông được đăng trên tạp chí Gác trọ văn chương, bài viết “Đặc sắc ngôn ngữ trong Paris 11 tháng 8 của Thuận” (2013), bài viết cho thấy những nét đặc sắc trong cách dụng ngôn ở tiểu thuyết Paris 11 tháng 8_một tiểu thuyết thành công của Thuận. Bên cạnh vấn đề về con người, nhân vật, ngôn ngữ- giọng điệu, ở tiểu thuyết của Thuận có một số nét đặc sắc nữa mà chúng tôi thấy cần lưu tâm vì xét về phương diện kí hiệu học thì các yếu tố đó cũng chính là các mã kí hiệu cần được giải mã. Các yếu tố khác như giấc mơ (chiêm bao), không quan, thời gian,…Viết về giấc mơ trong tiểu thuyết của Thuận có bài viết của Tâm Đanvới tiêu đề “Những giấc mơ trong tiểu thuyết của Thuận” đăng trên nhiều báo, tạp chí văn học,…bài viết chú ý khai thác những giấc mơ xuất hiện xuyên suốt trong một vài tác phẩm của Thuận từ đó lí giải giấc mơ từ lí thuyết phâm tâm học. Bên cạnh đó có một số đề tài liên quan đến không gian nghệ thuật trong các tác phẩm của Thuận như bài viết “Vấn đề không – thời gian trong tiểu thuyết Việt
  • 11. Trang 11 Nam đầu thế kỷ XXI và sự xóa nhòa những đường biên thể loại” (Hoàng Cẩm Giang) được đăng trong ký yếu Những lằn ranh văn học (2011) bài viết có một phần khảo sát các kiểu không gian thường gặp trong tiểu thuyết của Thuận, kiểu không gian được lặp đi lặp lại có tính hệ thống được trình bày mô tả thành bảng biểu rất rõ ràng. Ngoài ra, không gian thời gian cũng chính là một bộ của thi pháp học, chính vì thế trong luận văn thạc sĩ “Thi pháp tiểu thuyết của nhà văn Thuận”của Nguyễn Xuân Lệ Hằng (2009) cũng có một chương riêng dành cho nghiên cứu không gian – thời gian nghệ thuật trong những sáng tác của Thuận. Từ những tìm hiểu trên, có thể thấy hướng nghiên cứu về Thuận không phải là hướng đi hoàn toàn mới. Tuy nhiên, soi chiếu tác phẩm của Thuận dưới góc nhìn kí hiệu học văn học là hướng đi khá mới mẻ mà từ trước tới nay ngoài những bài viết có đề cập chút ít thì vẫn chưa có một công trình nghiên cứu nào thực sự đặt vấn đề cho hướng nghiên cứu này. 3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài trước hết chính là lí thuyết kí hiệu học văn học, tiếp theo đó chính là tiếp cận những tác phẩm của Thuận dưới góc nhìn kí hiệu học văn học. Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay, lí thuyết về kí hiệu học nói chung chỉ được tiếp cận thông qua các văn bản dịch, đây chính là một khó khăn của chúng tôi trong quá trình thực hiện đề tài. Vì vậy, để có cơ sở soi chiếu những sáng tác của Thuận một cách sáng tỏ nhất chúng tôi đã thực hiện một chương liên quan đến lí thuyết nhằm giới thuyết ngắn gọn và rõ ràng những tư tưởng, quan niệm của các nhà kí hiệu học, hay những trường phái kí hiệu học trên thế giới. Trong quá trình giới thuyết đó luận văn có thể phát sinh thêm những đối tượng nghiên cứu liên quan mật thiết với lí thuyết kí hiệu học như triết học ngôn ngữ, cấu trúc luận và chủ nghĩa giải cấu trúc, biểu tượng, cổ mẫu,… Trên đây là toàn bộ những vấn đề liên quan đến đối tượng nghiên cứu của luận văn mà chúng tôi đề xuất. Về phạm vi nghiên cứu, thông qua quá trình tìm hiểu chúng tôi nhận thấy có một số tác phẩm của Thuận có thể giải mã dưới góc nhìn kí hiệu học văn học và chúng
  • 12. Trang 12 tôi đã chọn đó làm phạm vi nghiên cứu của luận văn. Phạm vi nghiên cứu của đề tài bao gồm các tiểu thuyết: – Made in Vietnam (tiểu thuyết, nhà xuất bản Văn Mới, California, 2002). – Chinatown (tiểu thuyết, nhà xuất bản Đà nẵng, 2005/. – Paris 11 tháng 8 (tiểu thuyết, nhà xuất bản Đà nẵng, 2006) – T mất tích (tiểu thuyết, Nhã Nam & NXB Hội nhà văn, 2007 – Vânvy (tiểu thuyết, NXB Hội nhà văn, 2008) – Thang máy Sài Gòn (tiểu thuyết, Nhã Nam & NXB Hội Nhà Văn, 9/2013 . – Chỉ còn 4 ngày là hết tháng Tư (tiểu thuyết, Nhã Nam, 2015). Trong quá trình nghiên cứu, để nhìn thấy những tương đồng và khác biệt của những mã kí hiệu văn học trong tiểu thuyết của Thuận, chúng tôi sẽ chọn một số tiểu thuyết của các tác giả khác Văn học Việt Nam đương đại để bổ sung phạm vi nghiên cứu. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu - Phƣơng pháp cấu trúc – kí hiệu học Sử dụng phương pháp này trước hết chúng tôi nghiên cứu một các có hệ thống quan điểm của một số nhà lập thuyết kí hiệu học như Ferdinand de Saussure, Charles Sander Pirce, Louis Hjeimslev, Roland Barthes, Kiristeva, Umberto Eco,…Sau đó dùng các lí thuyết đó để nghiên cứu những mã kí hiệu trong tác phẩm của Thuận, xem tất cả những tiểu thuyết của Thuận là một hệ thống các kí hiệu, đặt các tác phẩm trong một hệ thống có quan hệ với nhau và có quan hệ với nhiều kí hiệu khác ngoài văn bản. Từ đó đi đến những nhận định, kết quả cần thiết. - Phƣơng pháp so sánh - đối chiếu Sử dụng phương pháp này để chỉ ra những yếu tố mới khi nghiên cứu tác phẩm của Thuận dưới góc nhìn kí hiệu học văn học so với các lí thuyết khác đã từng nghiên cứu về Thuận như thi pháp học, hậu hiện đại, tự sự học,… Bên cạnh đó, dùng phương pháp này để so sánh Thuận với các nhà văn hải ngoại nữ khác như Đoàn Minh Phượng, Duyên,… để thấy được những đóng góp của Thuận đối với nền văn học đương đại Việt Nam. - Phƣơng pháp liên ngành Phương pháp liên ngành là một trong những phương pháp nghiên cứu quan trọng và chủ
  • 13. Trang 13 đạo trong khoa học xã hội và nhân văn hiện nay. Đặc biệt, việc sử dụng phương pháp này là tất yếu trong nghiên cứu kí hiệu học văn học, bởi kí hiệu văn học luôn cần được giải mã từ nền tảng của các ngành khoa học khác như ngôn ngữ học, văn hóa học, tâm lý học, lí thuyết diễn ngôn… Việc phối kết lí thuyết của nhiều ngành khoa học trong diễn giải kí hiệu xuất phát từ bản chất phức tạp, đa nghĩa và luôn bí ẩn của kí hiệu văn học.Vì vậy, Phương pháp liên ngành giúp chúng tôi tiếp cận được bản chất của vấn đề nghiên cứu từ quan điểm của nhiều ngành khoa học, phối hợp lí thuyết của nhau, sử dụng các khái niệm để giải mã những ẩn số văn hóa, qua đó có cái nhìn toàn diện, thấu tỏ đặc trưng tiểu thuyết Thuận từ góc nhìn kí hiệu học văn học. 5. Đóng góp của luận văn Về lí thuyết: Nghiên cứu kí hiệu học như một lí thuyết mới ở Việt Nam vẫn còn là một vấn đề sơ lược, chính vì thế ở luận văn này chúng tôi nhằm khái lược lại ngắn gọn nhất những quan niệm lí thuyết kí hiệu học nói chung và kí hiệu học văn học nói riêng. Về thực tiễn: Giải mã tác phẩm dưới điểm nhìn mới để khám phá được những đặc sắc về nội dung cũng như nghệ thuật trong tác phẩm của Thuận, để chứng minh sự khác biệt trong phong cách nhà văn Thuận, một cây bút nữ hải ngoại đầy cá tính trong thể loại tiểu thuyết. 6. Cấu trúc luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, Phần Nội dung luận văn được triển khai thành 3 chương như sau: Chƣơng 1: Một số khuynh hƣớng tiếp cận lí thuyết kí hiệu học văn học và tiểu thuyết của Thuận trong không gian văn học hải ngoại Việt Nam đƣơng đại Chƣơng 2: Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã nhân vật và mã không gian – thời gian Chƣơng 3: Tiểu thuyết của Thuận nhìn từ mã kết cấu, mã ngôn ngữ và biểu tƣợng văn hóa
  • 14. Trang 14 NỘI DUNG Chƣơng 1: Một số khuynh hƣớng tiếp cận kí hiệu học văn học và tiểu thuyết của Thuận trong không gian văn học hải ngoại Việt Nam đƣơng đại. 1.1. Một số khuynh hƣớng tiếp cận kí hiệu học 1.1.1. Một số khuynh hướng tiếp cận kí hiệu học trên thế giới Vào thế kỉ thứ XIX kí hiệu học được phát triển bởi nhà triết học người giới Mỹ Sharles Sanders Pierce (1839 – 1914) tiếp theo ông là rất nhiều các nhà kí hiệu học khác phát triển quan điểm của ông cũng như đưa ra các khuynh hướng nghiên cứu mới về kí hiệu học của riêng họ. Có thê kể đến các chuyên gia hàng đầu của kí hiệu học hiện đại như: Roland Barthes (1915 – 1980), Yiri Lotman (1922 – 1993), Umberto Eco ( 1932), Hjmelmslev (1899 – 1966), Roman Jakobson (1896- 1982),…Tất nhiên trong lịch sử phát triển kí hiệu học, chúng ta không thể không nhắc đến vai trò to lớn của F. Saussure (1857 – 1913), ông là người mở đầu cho ngôn ngữ học hiện đại và cũng chính là người đặt những cơ sở khoa học vững chắc có hệ thống để từ đó kí hiệu học có thể phát triển thành một bộ môn sâu rộng như thời điểm hiện tại. Khuynh hƣớng tiếp cận kí hiệu học gắn với nghiên cứu ngôn ngữ và cấu trúc (khuynh hƣớng tiếp cận dựa trên bình diện cú pháp học) Mô hình cặp đôi kí hiệu của Ferdinand de Saussure : Ferdinand de Saussure (1857 – 1913) là nhà ngôn ngữ học Thụy Sĩ, người mở đường cho ngôn ngữ học hiện đại và sáng lập ngành ngôn ngữ học cấu trúc. Trong giáo trình ngôn ngữ học đại cương (Cours de linguistique genseerale, 1916), Saussure dùng hai từ phân biệt « langage » và « langue » trong tiếng Việt hoặc tiếng Anh chỉ có một nghĩa tương đương là « ngôn ngữ » hoặc « language ». Ngôn ngữ (langage) là hoạt động nói năng, không chỉ bao gồm ngôn ngữ nói mà rộng hơn (người ta có thể nói với nhau bằng động tác…). Ngôn ngữ (langue) là tập hợp cá kí hiệu được một cộng đồng sử dụng để liên lạc, trao đổi thông tin, như tiếng Việt, tiếng Anh, tiếng Trung,…Cùng vơi các khái niệm langage và langue là khái niệm « ngôn từ » (parole) ; đó là việc sử dụng cụ thể các kí hiệu
  • 15. Trang 15 ngôn ngữ trong ngữ cảnh nhất định. Ngôn ngữ học chỉ là một nhánh của kí hiệu nói chung, những là nhanh quan trọng và được phát triển mạnh mẽ nhất. Trong ngôn ngữ (langue), ông phân biệt hai mặt : cái biếu đạt ( le signifiant) và cái được biểu đạt (le sinifie). Cái được biểu đạt là ý niệm về một sự vật nao đó hình thành trong đầu ta ; còn cái biếu đạt là âm thanh của một từ phát ra để chỉ ý niệm kia. Mối quan hệ giữa cái biếu đạt và cái được biểu đạt hoàn toàn có tinh chất võ đoán, vô cớ. Như vậy, có thể nói, người duy nhất làm cuộc cách mạng thành công trong ngôn ngữ học là Ferdinand de Saussure, ông chính là người xây dựng nên một hệ thống lí thuyết về ngôn ngữ theo quan điểm cấu trúc luận ông nhận thấy ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội, một thiết chế, một tập hợp kí hiệu, một công cụ giao tiếp. Một luận điểm quan trọng của Saussure là coi ngôn ngữ về cơ bản như một công cụ giao tiếp xã hội, chứ không phải là biểu hiện của một cấu trúc tư duy tồn tại độc lập với mọi hình thức của nó. Sự biểu hiện này được quan niệm như một chức năng cơ bản, theo những nhà ngữ pháp so sánh, hay như một phương tiện cần yếu cho giao tiếp, theo những nhà ngữ pháp đại cương Port-Royan. Điều đó cũng do tính tuỳ tiện, tính quy ước của ngôn ngữ mà ra. Muốn bảo đảm chức năng giao tiếp, ngôn ngữ trước hết phải là một hệ thống kí hiệu. Không có kí hiệu thì không thể có một sự giao tiếp nào cả. Kí hiệu không phải là những yếu tố rời rạc, mà là một tập hợp có tổ chức, có hệ thống, một chỉnh thể bao gồm những yếu tố có liên quan mật thiết với nhau, tuỳ thuộc lẫn nhau, giá trị của yếu tố này là do sự đồng thời có mặt của yếu tố kia, trong hệ thống, quyết định. Tính hệ thống của kí hiệu ngôn ngữ cho phép sự kết hợp muôn mày muôn vẻ giữa chúng với nhau để phát huy tính sáng tạo của tiếng nói, nhằm đáp ứng những nhu cầu diễn đạt ngày càng cao. Saussure chỉ ra rằng ngôn ngữ lúc nào cũng hiện ra như một tổ chức (hệ thống hay cấu trúc). Vì vậy, mọi sự nghiên cứu phải "xuất phát từ cái tổng thể làm thành một khối – để phân tích ra những yếu tố mà nó chứa đựng", chứ không nên "bắt đầu bằng những yếu tố và xây dựng nên hệ thống bằng cách cộng lại tất cả các yếu tố đó lại". Khuynh hƣớng tiếp cận kí hiệu học gắn liền với bình diện ngữ nghĩa học Charles Sander Pirce với Mô hình cấu trúc tam vị :
  • 16. Trang 16 mô hình tam vị của C.S. Peirce gồm: kí hiệu (sign), đối tượng (object) và diễn giải (interpretant) có thể coi là vết rạn nứt đầu tiên của cấu trúc nội tại. Trong ba yếu tố này, nếu như kí hiệu (sign) như là cái biểu đạt (signifier); đối tượng (object) là suy nghĩ tốt nhất về bất cứ cái gì được biểu đạt, là cái mà từ được viết hoặc nói ra gắn liền vào nó, thì diễn giải (interpretant) trở thành một phần quan trọng trong mô hình kí hiệu học của Peirce. Đây là điểm mới và khác biệt mà Peirce đưa ra để hiểu và xác định kí hiệu, là ý tưởng tốt nhất về sự hiểu (understanding) mà chúng ta có về mối quan hệ kí hiệu/đối tượng. Đối với Peirce, một kí hiệu luôn là “sự đại diện” (representation) cho ai đó “bằng một cái gì đó trong các quan hệ hoặc khả năng nào đó”, và nó “là mọi thứ để xác định một thứ gì khác” để ám chỉ đến một đối tượng mà bản thân nó được quy vào. Mô hình cấu trúc trong lí thuyết của Peirce là một tương tác giao tiếp của các quá trình liên tưởng. Ông sử dụng thuật ngữ kí hiệu học theo quan điểm của logic học, từ đó các kí hiệu được sắp xếp bởi cấu trúc tam vị, các yếu tố luôn có sự ảnh hưởng, tương tác lẫn nhau. Từ kí hiệu này sẽ sản sinh ra kí hiệu khác thông qua việc diễn giải kí hiệu trước đó. Điều quan trọng của diễn giải đối với Peirce chính là ý nghĩa, không phải là mối quan hệ cặp đôi đơn giản giữa kí hiệu và đối tượng: một kí hiệu biểu thị chỉ được tồn tại trong sự diễn giải. Peirce không tin rằng ý nghĩa có được nhờ mối quan hệ hai mặt trực tiếp giữa kí hiệu và đối tượng. Vì thế, ông đã đưa ra quan điểm mới này về mô hình tam vị như là việc chúng ta nhận thức hoặc hiểu thế nào về một kí hiệu và mối quan hệ của nó với đối tượng. Điều này khiến diễn giải trở thành nội dung trung tâm của kí hiệu. Ý nghĩa của kí hiệu lộ ra trong diễn giải và điều này chỉ xảy ra khi xuất hiện người sử dụng kí hiệu. Ở đây, diễn giải là ý nghĩa, là cách chúng ta giải thích về kí hiệu, tương tự như “cái được biểu đạt” của F. Saussure, chỉ khác đó là một kí hiệu trong ý thức người diễn giải. Yếu tố diễn giải trong lí thuyết của Peirce cũng nhấn mạnh rằng quy trình kí hiệu (semiosis) là một quá trình (trong khi đó, lí thuyết của Saussure nhấn mạnh đến cấu trúc). Louis Hjeimslev với mô hình cấu trúc phân tầng : Tiếp nối xu hướng nghiên cứu kí hiệu học gắn với ngôn ngữ - cấu trúc, mô hình kí hiệu của Louis Hjelmslevlà sự phát triển xa hơn mô hình kí hiệu hai mặt cũng như sự phân
  • 17. Trang 17 biệt của Saussure về nghĩa (substance) và hình thức (form). Nếu như cái biểu đạt (hình ảnh - âm thanh) và cái được biểu đạt (khái niệm) là hai mặt trong mô hình kí hiệu của Saussure, thì đối với Louis Hjelmslev, ông đã định danh lại thành biểu hiện (expression) và nội dung (content), coi đây là hai mặt của kí hiệu. Cả mặt biểu hiện (expression plane) và mặt nội dung (content plane) đều được phân tầng cụ thể hơn trong hình thức và nghĩa kí hiệu học. Theo ông, một kí hiệu có bốn tầng bậc: nội dung - hình thức (content - form), biểu hiện - hình thức (expression), nội dung - nghĩa (content - substance), và biểu hiện - nghĩa (expression). Hjelmslev đã mô hình hóa lí thuyết như sau: Trong sự phân tích của Hjelmslev, mỗi kí hiệu có một chức năng giữa hai hình thức, hình thức nội dung và hình thức biểu hiện, và đây chính là điểm bắt đầu của việc phân tích ngôn ngữ. Tuy nhiên, mỗi chức năng kí hiệu cũng biểu hiện hai nghĩa: nghĩa của nội dung và nghĩa của biểu hiện. Nghĩa của nội dung (content substance) là sự biểu hiện tâm lí và khái niệm của kí hiệu. Nghĩa của biểu hiện (expression substance) là nội dung vật chất, nơi mà một kí hiệu được biểu hiện. Nghĩa này có thể là một âm thanh, nhưng cũng có thể là bất cứ cái gì hỗ trợ hữu hình, hoặc cũng có thể như sự chuyển động của hai bàn
  • 18. Trang 18 tay, trong trường hợp ngôn ngữ kí hiệu... Nói tóm lại, Hjelmslev đã đề xuất một phương pháp phân tích phân tầng với kết thúc mở như là một kí hiệu học mới. Theo luận thuyết của Saussure thì kí hiệu học là lí thuyết về hình thức (hoặc cấu trúc), chứ không phải về nghĩa, vì thế Hjelmslev đã giới hạn việc sử dụng thuật ngữ kí hiệu ở hai bậc biểu hiện - hình thức và nội dung - hình thức. Tuy nhiên, không giống như Saussure, ông coi hai bậc về nghĩa tồn tại không định hình, được cấu trúc bởi hệ thống hình thức của kí hiệu. Và khi thảo luận về phạm vi tiền kí hiệu của một thế giới phi cấu trúc, Hjelmslev đã đưa ra khái niệm mục đích (purport). Ở đây mục đích sẽ phù hợp với “nghĩa không định hình”, và các mặt nội dung và biểu hiện trong mô hình của Hjelmslev là tương ứng và xuất phát từ nguyên tắc tùy ý. Quan niệm về nghĩa và hình thức xuất hiện khá đa dạng trong kí hiệu học và ngôn ngữ học, song trong định nghĩa của Hjelmslev, chính nội dung (mục đích) xuất hiện như một thuật ngữ thứ ba lại có ảnh hưởng và tạo ra một chiều hướng mới cho việc nghiên cứu kí hiệu. Cùng từ mô hình phân tầng kí hiệu này, đóng góp quan trọng của Hjelmslev là sự phân biệt giữa kí hiệu học biểu thị và kí hiệu học hàm nghĩa. Hệ thống kí hiệu thông thường là hệ thống kí hiệu học biểu thị và kí hiệu học hàm nghĩa là một hệ thống kí hiệu mà bình diện biểu đạt (hình thức) của nó cũng là một hệ thống kí hiệu biểu thị. Hjelmslev cũng đưa ra khái niệm siêu ngôn ngữ và siêu kí hiệu. Trong sự khác nhau giữa hàm nghĩa và siêu kí hiệu, Hjelmslev đã chỉ ra cấu trúc song hành: kí hiệu học hàm nghĩa là kí hiệu học mà “mặt biểu hiện của nó là một kí hiệu, và kí hiệu học biểu thị là một kí hiệu mà mặt nội dung của nó là một kí hiệu”. Nói cách khác, kí hiệu học biểu thị và kí hiệu học hàm nghĩa là những kí hiệu chứa đựng kí hiệu nguyên thủy hoặc là ở mặt biểu hiện, hoặc là ở mặt nội dung. Với việc xem xét kí hiệu học hàm nghĩa với siêu ngôn ngữ hoặc siêu kí hiệu, Hjelmslev đã đặt nền tảng cho những nghiên cứu về biểu tượng với mô hình siêu kí hiệu của R. Barthes sau này. Khuynh hƣớng tiếp cận kí hiệu học gắn liền với kí hiệu học diễn giải (Khuynh hƣớng tiếp cận dựa trên bình diện ngữ dụng học) Iu. Lotman_đa mã, chuyển mã và tạo nghĩa trong tiến trình kí hiệu hóa :
  • 19. Trang 19 Quá trình tạo nghĩa của Lotman gắn liền với những biện luận của ông về hiện tượng chuyển mã. Đầu tiên đó chính là sự chuyển mã giữa người phát và người nhận. Kế thừa những gợi ý từ Bakhtin, khác với Peirce với Lotman, kí hiệu trước tiên thuộc về một ngôn ngữ xác định và vì thê bình diện giao tiếp ngay lập tức được đặt lên hàng đầu. Ông định nghĩa về kí hiệu học như sau « kí hiệu học là khoa học về các hệ thống giao tiếp và kí hiệu được sử dụng trong quá trình thông tin » . Đinh nghĩa này gắn chặt với vấn đề giao tiếp và thông tin trong giao tiếp. Nó là hệ thống tư tưởng giúp ông trình bày thuyết phục các vấn đề trong Cấu trúc văn bản nghệt thuật. Nhìn lại quan điểm này có thể thấy Lotman đã chỉ ra đặc trưng cốt lõi nhất của kí hiệu và kí hiệu học _ Không có kí hiệu nào tồn tại ngoài giao tiếp và cũng không thể giao tiếp nếu không có kí hiệu. Như thế, nghĩa của kí hiệu chỉ có thể hình thành và sản sinh trong giao tiếp. Lotman có những đánh giá rất cao về tư tưởng của Bakhtin và đồng thời ông cũng thừa nhận những đóg góp của Saussure, nhưng Lotman lưu ý cho chúng ta một thực tế, lý thuyết ngôn ngữ của Saussure đặt chúng ta trước một loạt các nghịch lí mà nghịch lí đầu tiên có thể kể đến đó chính là « nó đưa vào tay chúng ta một hệ thống giao tiếp, một hệ thống kí hiệu với một người phát và một người nhận và một bộ mã chung cho hai người » [172]. Nhưng trong thực tế, như những phân tích của Lotman, người nói và người nghe sử dụng những bộ mã khác nhau. Hai bộ mã này có những điểm giao nhau, những tương thích nhưng cũng có những điểm khác biệt, những điểm không tương thích. Hoạt động giao tiếp chỉ xảy ra khi có sự giao nhau của yếu tố tương thích và không tương thích của hai bộ mã này. Nhờ đó mà kí hiêu khi được dịch sang một bộ mã mới lại có thêm những nét nghĩa mới. Có thể nói, kí hiệu luôn được diễn giải, tái diễn giải trên cơ sở sự đối thoại, sự tương tác của hai bộ mã : người nói – người phát và người nghe – người nhận. Và đó cũng chính là nguyên nhân khiến giao tiếp nói chung không chỉ là quá trình truyền tin mà còn là quá trình sáng tạo những thông tin mới. Với những quan điểm đó, Lotman đã lưu ý chúng ta một vấn đề rất khác và lí thú _ Văn bản nghệ thuật với đặc trưng là không gian giao tiếp đa chủ thể, đã khiến cho kí hiệu học cùng lúc thuộc về nhiều mã vì thế mà hết sức đa nghĩa. Nếu như ý nghĩa của kí hiệu với Peirce nảy sinh trong quá trình diễn giải thì với Lotman ý nghĩa của kí hiệu nảy sinh
  • 20. Trang 20 trong những tương tác mang tính đối thoại. Với Lotman, kí hiệu không chỉ thuộc về một ngôn ngữ mà nó còn thuộc về một văn bản cụ thể. Cặp khái niệm ngôn ngữ - văn bản của ông đi ra từ mô hình nhị phân ngôn ngữ - lời nói của Saussure nhưng đã có những điều chỉnh. Nếu như Saussrure cho rằng, ngôn ngữ là cái có trước, lời nói chỉ là sự thực hiện, hiện thực hóa cấu trúc của ngôn ngữ thì với Lotman, trong nhiều trường hợp văn bản còn lớn hơn ngôn ngữ [52,19]. Đây chính là cơ sở để Lotman hình dung tác phẩm nghệ thuật như một văn bản đa mã. Roland Barthes với những huyền thoại: Đối với R. Barthes, huyền thoại chứa những nét riêng biệt mà ở đó luôn có chức năng giống như một hệ thống kí hiệu thứ hai được xây dựng trên nền tảng của một loạt kí hiệu vốn là “tổng thể liên kết” của cái biểu đạt và cái được biểu đạt của hệ thống đầu tiên. Và với khái niệm ý nghĩa (signification), R. Barthes cho chúng ta thấy một sức mạnh vô biên lẫn sự che giấu tồn tại ở mỗi kí hiệu. Ở đây những phân tích của R. Barthes về tiến trình kí hiệu (semiosis) tiếp nối qua quan điểm của Saussure ở cấp độ này cho chúng ta nhận thức cấu trúc của thế giới mà chúng ta đang sống. Quá trình biểu đạt ý nghĩa được bộc lộ trong mối quan hệ giữa biểu hiện (denotation) và hàm nghĩa (connotation). Bởi biểu hiện thường được đưa ra với ý nghĩa sử dụng trong ngôn ngữ về những gì mà nó muốn nói tới; hàm nghĩa có ý nghĩa sử dụng trong ngôn ngữ với tư cách là nghĩa của một cái gì đó hơn là những gì nó được nói ra. Hàm nghĩa xuất hiện khi kí hiệu là kết quả của mối quan hệ giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt trước đó đã trở thành “cái biểu đạt” xa hơn. Như thế, hệ thống đầu tiên tiếp tục là biểu hiện của hệ thống thứ hai, tức là biểu hiện của hàm nghĩa. Văn học ở bề rộng, là một trong những “hệ thống biểu đạt thứ hai” mà chúng được đặt trong toàn bộ “hệ thống thứ nhất” của ngôn ngữ. Khi kí hiệu của mối quan hệ cái biểu đạt và cái được biểu đạt trở thành cái được biểu đạt của một cái gì đó xa hơn thì khi đó hệ thống thứ hai đã trở thành một siêu ngôn ngữ (metalanguage). Đây chính là bối cảnh của bản thân kí hiệu học và sự phức tạp của các loại kí hiệu (trong đó có biểu tượng) sẽ phụ thuộc vào hệ thống thứ hai này.
  • 21. Trang 21 Khái niệm các cấp độ và sự vượt cấp của cặp phạm trù cái biểu đạt/cái được biểu đạt và ý nghĩa trở thành “điểm nóng” cho những nghiên cứu kí hiệu học. Nếu như R. Barthes mô tả về sự hàm nghĩa (ở huyền thoại) giống như một hệ thống ý nghĩa “thứ hai”. Umberto Eco với khuynh hướng kí hiệu học hậu hiện đại: Trong cuốn Kí hiệu học và triết học về ngôn ngữ, vấn đề biểu tượng đã được U. Eco phân tích và lí giải một cách thấu đáo trên cơ sở khảo sát những yếu tố tương quan khác của khoa học về kí hiệu như: Kí hiệu (sign), Từ điển và Bách khoa thư (dictionary and Encyclopedia); Ẩn dụ (metaphor); Mã (code), Tính đồng vị (Isotopy); và Sự phản ánh (mirror). Ngay ở phần mở đầu của chương viết về biểu tượng, khi truy nguyên về nguồn gốc biểu tượng, U.Eco đã xác định ngay bản chất của loại kí hiệu này. “Cái thường thích hợp được gọi là biểu tượng chính xác là sự mơ hồ của chúng, độ mở, tính vô hiệu quả hoàn hảo của chúng nhằm biểu đạt ý nghĩa “cuối cùng”. Kết quả là với những biểu tượng và bằng các biểu tượng người ta miêu tả cái luôn ở bên ngoài sự tìm kiếm của ai đó”. Có thể thấy, toàn bộ những khảo sát phân tích của Eco về biểu tượng đều xoay quanh vấn đề tính tượng trưng của loại kí hiệu này. Tính tượng trưng trong quan hệ với chủ thể, với người diễn giải tạo nên giá trị đặc thù và bản chất của biểu tượng từ cái nhìn kí hiệu học. Được coi là người đặt nền móng và phát triển một trong những phương pháp tiếp cận quan trọng nhất của kí hiệu học đương đại - kí hiệu học diễn giải, Eco đã nghiên cứu biểu tượng xuất phát từ hai mô hình sản sinh kí hiệu là ratio facilis (mô hình sản sinh kí hiệu mà ở đó “loại biểu hiện” (expression) được tái tạo bằng một “biểu hiện tượng trưng”) và ratio difficilis (mô hình sản sinh kí hiệu mà ở đó “loại nội dung” tương quan với sự biểu hiện - tượng trưng). Xuất phát từ hai mô hình kí hiệu này, Eco đã khảo sát và đề xuất cách thức diễn giải dựa trên hai tiêu chí cơ bản: ý nghĩa (Significance) và giao tiếp (Communication). Và đây cũng chính là hai vấn đề trọng tâm trong lí thuyết của Eco. Trong mối quan hệ giữa biểu hiện (cái biểu đạt) và ý nghĩa, việc diễn giải ý nghĩa biểu tượng được xem xét trong quan hệ giao tiếp. Đối với Eco, ở các biểu tượng, sự tương quan giữa cái biểu đạt (biểu hiện) và cái được biểu đạt (ý nghĩa) không phải là sự tương quan mang tính quy ước. Và ông tán thành mô hình của Hegel: “Biểu tượng luôn miêu tả sự không cân xứng, tình trạng căng thẳng, sự
  • 22. Trang 22 mơ hồ và tính mong manh nhất định”. Trong “chủ nghĩa biểu trưng xác thực”, hình thức không biểu thị bản thân chúng, mà đúng hơn là ám chỉ đến, gợi đến một ý nghĩa rộng hơn: Bất cứ biểu tượng nào cũng là điều bí ẩn và “bức tượng nhân sư đúng là một biểu tượng cho chính chủ nghĩa biểu trưng”. Và tính mơ hồ, “vô tâm” về ý nghĩa trong quá trình diễn giải biểu tượng còn được Eco xem xét ở cả nguyên mẫu và thần thánh, những Kinh thánh thiêng liêng - nơi mà các khả năng của giao tiếp chứa đựng tính quy ước rất lớn. Tính mơ hồ, đa nghĩa và bí ẩn của biểu tượng còn được tiếp tục với một loạt quan điểm cùng với sự lí giải của các lí thuyết gia khác. Trong lí thuyết về biểu tượng của Jung (1934), khái niệm về mô hình biểu tượng được mô tả bởi sự giống nhau giữa biểu hiện và nội dung, và bởi tính mơ hồ cơ bản của nội dung biểu hiện. Jung đã đưa tiềm thức cá nhân để đối chọi với vô thức tập thể, cái mà một mặt biểu hiện sâu sắc hơn tinh thần của con người ở vỉa tầng bẩm sinh và cái mà (mặt khác) có nội dung với những mô hình ứng xử ít nhiều thấy ở mọi nơi và trong tất cả mọi cá nhân. Đối với Jung, những nội dung về vô thức tập thể với nguyên mẫu, các mẫu hình cổ xưa, những hình tượng chung, những đại diện chung... không phải là những kí hiệu, cũng không phải là những phúng dụ, mà chúng chính xác là những biểu tượng chân thực “bởi chúng mang ý nghĩa mơ hồ, đầy tính thoảng qua và vô tận như là phương sách cuối cùng”. Lí thuyết về vô thức cá nhân này của Jung được Eco xếp cùng loại với những tư tưởng thần bí của Chủ nghĩa thần bí Do Thái của Scholem (1960)[26]. Những tư tưởng thần bí tồn tại ở ngưỡng cửa giữa truyền thống và cách mạng. Một mặt thần bí và huyền thoại được truyền thống nuôi dưỡng, nhưng mặt khác những ảo ảnh, tưởng tượng mà người diễn giải có được có thể làm xáo trộn sự thật truyền thống. “Huyền thoại sử dụng những biểu tượng cũ nhưng làm đầy chúng với ý nghĩa mới, và trong việc làm này, nó luôn thách thức uy quyền”, nó là “thứ thuốc giả độc” (Jung) cho tình trạng hỗn loạn của ý thức. Trong kinh nghiệm thần bí, biểu tượng hẳn phải được thuần hóa/chế ngự một cách chính xác bởi chúng “mở ra” khả năng vô tận về sự “phóng đại”, và sức mạnh này phải được kiểm soát. Điều đó phụ thuộc vào tín ngưỡng tôn giáo hay tư tưởng triết học của ai đó để có thể đi đến quyết định, hoặc sức mạnh này xuất phát từ cội nguồn thần thánh,
  • 23. Trang 23 hoặc sức mạnh đó chính là cách thức mà người diễn giải thực hiện theo một phong cách riêng, “lấp đầy những thùng chứa trống rỗng của sự biểu hiện tương trưng” . Eco tiếp tục quan điểm của mình khi khẳng định: “không phải tất cả mọi thứ đều có thể trở thành biểu tượng. Biểu tượng phải được sản sinh trong văn bản; nó đòi hỏi một chiến lược kí hiệu học đặc thù. Một chiến lược chính xác đến mức mà ngày nay nên được phác thảo ra theo một vài cách thức-ít nhất dưới hình thức của một mô hình trừu tượng. Một chiến lược biểu tượng có thể đem đến sự thích thú thẩm mỹ, tuy nhiên trước hết nó vẫn là một cỗ máy kí hiệu”. Không phải mọi sự can thiệp cách ngôn (ẩn dụ, châm biếm, phép ngoa dụ...) đều dẫn đến kết quả sản sinh ra mô hình biểu tượng, song mô hình biểu tượng có xuất phát điểm từ những can thiệp nhất định này và nó biểu hiện về sự ám chỉ văn bản (textual implication). Chính những ám chỉ văn bản luôn khuyến khích người diễn giải bổ sung những suy luận thích hợp và anh ta sẽ luôn cảm thấy dư thừa về ý nghĩa đối với những chuẩn mực trong việc giải trình về mô hình biểu tượng. Ở đây chìa khóa của sự diễn giải nằm ngoài khung cơ cấu tồn tại từ trước của văn bản. Nội dung của biểu tượng là một lớp “tinh vân”, là sự xếp chồng của những diễn giải có thể, và biểu tượng luôn buộc người diễn giải phải đối mặt với việc giải mã. Như vậy từ mô hình kí hiệu hai mặt của nhà ngôn ngữ học, kí hiệu học Pháp F. Saussure và mô hình tam vị của nhà kí hiệu học người Mỹ C. Peirce, nghiên cứu kí hiệu nói chung và biểu tượng nói riêng đã có sự chuyển đổi mạnh mẽ. Biểu tượng không chỉ được xem xét, khảo sát với tư cách là một kí hiệu mà phẩm chất đặc biệt của nó cũng đã được các nhà kí hiệu học nhận thức, khám phá và lí giải từ nhiều quan điểm khác nhau. Khi mối quan hệ giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt, giữa người gửi, thông điệp và sự giải mã của người nhận càng trở nên tinh vi, phức tạp thì biểu tượng càng lộ rõ đặc tính đặc biệt của nó. Trong các văn bản nghệ thuật, một mặt biểu tượng tồn tại như một kí hiệu ngôn ngữ với các phương thức sử dụng cách ngôn (như ẩn dụ, phúng dụ, các phép tu từ) tạo ra tính đa nghĩa, phong phú cho sự diễn giải; Mặt khác, chính khả năng tổng hợp và tích tụ, tính mơ hồ, đa nghĩa của “cái biểu hiện”/ biểu tượng nảy sinh từ những bối cảnh giao tiếp, môi trường văn hóa nhất định, những trầm tích văn hóa đã tạo nên tính bí ẩn đầy hấp dẫn và tính vô tận cho những khả năng diễn giải.
  • 24. Trang 24 1.1.2. Vấn đề vận dụng lí thuyết kí hiệu học trong nghiên cứu văn học ở Việt Nam Những năm 60 của thế kỉ XX, kí hiệu học đã phát triển rầm rộ trên thế giới, được nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới quan tâm đến và cũng được vận dụng trên nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên, ở Việt Nam chúng ta, khi kí hiệu học manh nha vào những năm đầu của thế kỉ XX, nó đã gặp không ít khó khăn bởi sự khác biệt về quan niệm và ý thức hệ. Cho nên quá trình phát triển của kí hiệu học ở Việt Nam phải trả qua một quá trình với nhiều ngã rẻ. 1.1.2.1.Tình hình vận dụng lí thuyết kí hiệu học trong nghiên cứu văn học ở Việt Nam giai đoạn trước 2000 Nghiên cứu kí hiệu học văn học ở Việt Nam trước năm 2000 không thể không kể đến Hoàng Trinh, người có công lớn trong việc giới thiệu và ứng dụng kí hiệu học ở Việt Nam. Từ năm 1972 đến năm 1974 kí hiệu học được biết đến thông qua các bài viết của Hoàng Trinh – Chủ nghĩa cấu trúc, một biến dạng của triết học duy tâm hiện đại (tạp chí Học tập, 1972, TLDD) ở bài viết này Hoàng Trinh đã giới thiệu về chủ nghĩa cấu trúc cũng như kí hiệu nhưng vẫn còn trên tinh thần phê phán. Năm 1973 với bài Phê bình và Phê bình mới (tạp chí Học tập, 1973, TLDD) ở bài viết này của ông cũng đã giúp nhiều người hiểu được kí hiệu học và chủ nghĩa cấu trúc hình thức, công dụng và loại hình của ngôn ngữ. Cho đến năm 1974, trong bài viết Vấn đề kí hiệu và thông tin trong văn học nghệ thuật (tạp chí Tác phẩm mới) Hoàng Trinh đã khẳng định vai trò và ý nghĩa của kí hiệu học trong văn học nghệ thuật, ông bày tỏ ý kiến đồng tình với quan điểm ngôn ngữ là một hệ thống kí hiệu nhưng phản đối ý kiến cả thế giới là một thế giới kí hiệu. Sau đó hơn 5 năm, ba bài viết trên của ông được tập hợp và in lại trong cuốn: Ký hiệu, nghĩa và phê bình văn học. Từ đó, kí hiệu học cũng được quan tâm nhiều hơn và chính thức có chỗ đứng trong nghiên cứu văn học. Hoàng Trinh tiếp sau đó vẫn tiếp tục quan tâm đến kí hiệu học bằng chứng là ông đã cho ra đời hàng loạt những công trình nghiên cứu như: Về khoa học nghệ thuật trong phê bình văn học (1980); Đối thoại văn học (1986); Tiếp cận văn học dưới góc độ thông tin (1990); Từ kí hiệu đến thi pháp (1992) và đặc biệt có bài báo Những khúc hát ru con dước góc độ kí hiệu học (tạp chí văn học, 1995) [79, 23,TLDD]. Như vậy, Hoàng Trinh từ một người phê phán kí hiệu học và chưa
  • 25. Trang 25 đồng tình với nhiều quan niệm mà kí hiệu học đưa ra, ông đã trở thành một người bước đầu đặt nền móng cho lí thuyết kí hiệu học ở Việt Nam và vận dụng nó một cách rất tích cực và hiệu quả. Cùng với Hoàng Trinh, cũng có rất nhiều những nhà nghiên cứu khác quan tâm đến kí hiệu học và đặc biệt là vận dụng kí hiệu học và các tác phẩm văn học để nghiên cứu, lí giải. Năm 1985, Duy Lập công bố trên Tạp chí Văn học bài nghiên cứu theo hướng áp dụng lí thuyết kí hiệu học vào một tác phẩm cụ thể đó là bài Vận dụng kí hiệu học vào việc phân tích một bài thơ của Hồ Chí Minh, mặc dù ở thời điểm hiện tại nhìn lại chúng ta sẽ thấy được những điểm hạn chế của bài viết tuy nhiên ở thời điểm hiện tại chúng ta không thể phủ nhận được sự đóng góp có tính chất mở đầu vô cùng quan trọng của nó trong hướng vận dụng lí thuyết kí hiệu học để nghiên cứu văn học. Nghiên cứu kí hiệu học văn học ở Việt Nam cũng phải kể tên đến nhà nghiên cứu Trần Đình Sử, ông cũng là người quan tâm tương đối sớm sớm và có quan điểm nhất quán trong việc nghiên cứu quan hệ giữa hình tượng và kí hiệu. Năm 1986, khi biên soạn giáo trình Lý luận văn học ( tập 1: Nguyên lý tổng quát) cùng với Phương Lựu và Lê Ngọc Trà, ông đã khẳng định tính kí hiệu của hình tượng văn học. Ông cho rằng, kí hiệu là phương tiện để giữ gìn và truyền đạt kinh nghiệm xã hội giữa on người với con người. Hình tượng nghệ thuật, do đó muốn giữ lại và truyền đạt cho người khác thì phải khách quan hóa thành kí hiệu, hình tượng “vừa là sự phản ánh, nhận thức đời sống vừa là một hiện tượng kí hiệu giao tiếp” [79, 26,TLDD]. Sau đó, nhà nghiên cứu Trần Đình Sử đã cho ra đời hàng loạt những nghiên cứu của mình bàn về tính kí hiệu trong hình tượng văn học, tiêu biểu có những bài viết như Thử tìm hiểu cá lí bên trong của nghệ thuật Nguyễn Huy Thiệp hay Ngôn ngữ nghệ thuật, mã và phê bình văn học hôm nay (1990); đặc biệt bài viết Tính kí hiệu của hình tượng văn học được công bố gần đây cũng được ông tiếp cận theo hướng kí hiệu học. Ngôn ngữ thơ (1987) của Nguyễn Phan Cảnh cũng là một công trình áp dụng một cách có hệ thống lí thuyết kí hiệu học vào thực tiễn thể loại thơ. Ở bài viết này, tác giả nhấn mạnh sự đa nghĩa của các tác phẩm và truy tìm nguyên nhân dẫn đến sự đa nghĩa đó.
  • 26. Trang 26 Nghiên cứu và vận dụng lí thuyết kí hiệu học văn học ở Việt nam chúng ta còn phải kể đến Phan Ngọc, Đỗ Đức Hiểu. Phan Ngọc thể hiện sự quan tâm đó của mình qua công trình Cách giải thích văn học bằng ngôn ngữ học, ông đưa ra ý kiến của mình “ Cái làm cho ngôn ngữ thành công cụ giao tiếp là mã (code) của nó: cái mã ấy gồm một số đơn vị cực kì hạn chế để tạo nên một số hình vị hạn chế, nhằm tạo nên một số kiểu câu rất hạn chế, theo quy tắc trước sau. Cái mã ấy có sẵn trong ta, cho phép ta hiểu thông báo” [79,27, TLDD]. Trong một số công trình khác của mình ông cũng thể hiện khuynh hướng tiếp cận văn học từ kí hiệu học ngôn ngữ, có bài viết Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều, ông khẳng đinh “ Phong cách học là khoa học khảo sát các kiểu lựa chọn giá trị biểu cảm của các kiểu lựa chọn ấy”[ 79, 17, TLDD]. Từ việc tìm hiểu trên chúng ta thấy được sự rõ ràng trong khuynh hướng nghiên cứu của Phan Ngọc, ông đi từ quan điểm hệ thống, từ cấu trúc kí hiệu ngôn ngữ, tìm hiểu nội dung của hình thức và xem hình thức như một kí hiệu. Đối với Đỗ Đức Hiểu, trong công trình Thi pháp hiện đại và đổi mới phê bình văn học, ông nhấn mạnh việc phê bình phải tìm ý nghĩa trong văn bản, ông cũng gợi suy nghĩ về mối quan hệ giữa thi pháp học và kí hiệu học “Bởi vì thi pháp sinh ra từ ngôn ngữ học hiện đại nên có người gọi thi pháp là kí hiệu học, mỗi tiếng, mỗi câu, mỗi đoạn, mỗi chương và mỗi tác phẩm là những kí hiệu, những hệ thống kí hiệu” [79,28, TLDD]. Nhà nghiên cứu Đỗ Đức Hiểu đã có những hướng áp dụng lí thuyết kí hiệu học vào phân tích các hiện tượng văn học cụ thể như ngôn từ Thơ Mới, ngôn từ trong Số đỏ hay thơ Hồ Xuân Hương. Tất cả những nghiên cứu đó đã đánh dấu những thành tựu cơ bản nhất khi lí thuyết kí hiệu học chưa phát triển mạnh ở Việt Nam trước năm 2000. 1.1.2.2.Tình hình vận dụng lí thuyết kí hiệu học trong nghiên cứu văn học ở Việt Nam giai đoạn từ năm 2000 đến nay Từ sau năm 2000 trở lại những năm gần đây, có khá nhiều nhà nghiên cứu Việt Nam đã quan tâm đến kí hiệu học nói chung cũng như kí hiệu học văn học nói riêng, đồng thời
  • 27. Trang 27 cũng có khá nhiều những hội thảo được tổ chức liên quan đến kí hiệu học cũng như vận dụng lí thuyết kí hiệu học vào nghiên cứu nhiều lĩnh vực trong đó có văn học. Một trong những người quan tâm đến kí hiệu học trong giai đoạn này đó chính là Phương Lựu, ông quan tâm đến khuynh hướng kí hiệu học văn hóa, văn học nghệ thuật của E. Cassirer và S. Langer. Trong công trình Lý luận phê bình văn học phương Tây thế kỉ XX (2001), Phương Lựu tiếp cận lí thuyết kí hiệu học như tiếp cận một trào lưu, một trường phái. Ở công trình này, nhà nghiên cứu này đề cập đến những luận điểm chính như: Lịch sử khái niệm từ Platon đến C.W. Morris; kí hiệu học văn hóa của E. Cassirer và kí hiệu học nghệ thuật của Susanne Langer. Trong phần lịch sử khái niệm ông đưa ra quan điểm của mình “Nếu như C. S. Peirce và F. Saussure chỉ đặt nền móng cho kí hiệu học ở góc độ triết học và ngôn ngữ học thì triết gia Hoa Kỳ C. W. Morris có tham vọng xây dựng kí hiệu học như chuyên ngành trung tâm của cả khoa học xã hội và nhân văn” [79, 29, TLDD]. C. S. Morris xem xét kí hiệu trong hoạt động, hay nói như các nhà kí hiệu sau này, là xem xét quá trình tạo nghĩa của một kí hiệu. Lã Nguyên, Trần Đình Sử và Trịnh Bá Đĩnh quan tâm nhiều hơn đến trường phái kí hiệu học văn hóa Tartu – Moskva mà đứng đầu là Iu.M. Lotman. Nhắc đến Lã Nguyên, nhà nghiên cứu này có mối quan tâm sâu sắc với kí hiệu học văn hóa của Lotman qua các tác phẩm dịch như Kết cấu tác phẩm nghệ thuật của ngôn từ ( Cấu trúc văn bản nghệ thuật), Về kí hiệu quyển, Khái niệm ngôn ngữ nghệ thuật ngôn từ, Kí hiệu học văn hóa và khái niệm văn bản,…Hơn nữa ông còn áp dụng những nghiên cứu đó vào một số các bài viết thực tiễn như Về nghiên cứu cách tân nghệ thuật của Nguyễn Xuân Khánh trong Hồ Quý Ly, Mẫu thượng ngàn và Đội gạo lên chùa, đặc biệt ở bài viết Chủ nghĩa hiện thực thị giác trong văn học Việt Nam trước năm 1975 Lã Nguyên còn nhận diện kí hiệu trong cả một giai đoạn văn học, ông cho rằng văn học Việt Nam trước năm 1975 đầy những tính kí hiệu, đặc biệt là kí hiệu thị giác vì hình tượng được kiến tạo theo nguyên tắc vẽ tranh cùng với màu sắc và đường nét. Như vậy, rõ ràng nhà nghiên cứu Lã Nguyên đã có những phác họa “phức tạp”, cầu kì ban đầu cho những nghiên cứu về kí hiệu của mình cả về lí thuyết cũng như hướng ứng dụng.
  • 28. Trang 28 Ngoài Lã Nguyên, chúng ta cũng cần nhắc đến Trịnh Bá Đĩnh, một nhà nghiên cứu rất quan tâm đến kí hiệu học. Ông đã dịch các công trình như Chủ nghĩa cấu trúc và văn học (2002), Cấu trúc văn bản nghệ thuật của Iu. M. Lotman (2004). Trong năm nay (2017), ông cho xuất bản quyển sách Từ kí hiệu đến biểu tượng, quyển sác thể hiện những nghiên cứu hết sức nghiêm túc của một nhà làm khoa học về kí hiệu, tập hợp những vấn đề lí luận chung về kí hiệu và những thực hành phân tích biểu tượng trên cơ sở lí thuyết đó với những vấn đề thực hành phân tích hết sức mới mẻ; phần cuối sách là một số bài dịch cần thiết giúp bạn đọc hiểu thêm về kí hiệu học và các vấn đề lí thuyết liên quan. Nhu vậy có thể đánh giá rằng, Trịnh Bá Đĩnh cũng là một trong những nhà nghiên cứu về kí hiệu học ở Việt Nam có những đóng góp hết sức tích cực. Bên cạnh các nhà nghiên cứu trên, với những thành tựu tiêu biểu thì ở Việt Nam chúng ta còn có dịch giả Phùng Văn Tửu là dịch giả của cuốn Những huyền thoại (R. Barthes). Ông đã giúp chúng ta hiểu thêm về tư duy của một nhà nghiên cứu lớn. Với hai phần rất rõ ràng, phần một P.Barthes viết về Những huyền thoại và dùng những phân tích rất cụ thể về xã hội hiện đại Pháp, ông chỉ ra cấu trúc CBĐ và cho người đọc thất rõ CĐBĐ. Trong phần thứ hai, ông trình bày toàn bộ lí thuyết kí hiệu, quan niệm huyền thoại như một ngôn từ, huyền thoại cũng là một hệ thống kí hiệu. Phần cuối sách, có bài viết Phương thức huyền thoại trong sáng tác văn học, ông xem huyền thoại cũng là một ngôn từ, nó không thể hiện là một sự vật, một khái niệm hay một ý niệm mà đó là phương thức thông báo, một hình thức. Nó thuộc về kí hiệu học. Từ đó Phùng Văn Tửu đi đến kết luận, nhà văn tạo nên huyền thoại trong tác phẩm khiến tác phẩm trở thành kí hiệu đa nghĩa. Ngoài ra, huyền thoại không chỉ là ám chỉ, huyền thoại đòi hỏi phải giải mã mới hiểu được và không bao giờ cạn kiệt ý nghĩa. 1.2. Tiểu thuyết của Thuận trong không gian văn học hải ngoại Việt Nam đƣơng đại Văn học Việt Nam đương đại ngày nay luôn được đặt dưới góc nhìn tổng thể, đa chiều và mang tính hệ thống. Ở giai đoạn trước, văn học Việt Nam còn phân chia rõ ràng thành từng dòng văn học, mà cụ thể là văn học Việt Nam trong nước và văn học Việt Nam hải ngoại thì giờ đây ranh giới và đường biên phân định các bộ phận văn học đó đã gần như
  • 29. Trang 29 không còn sự thống nhất cao. Nếu coi văn học Việt Nam là cái tổng thể còn văn học hải ngoại là cái bộ phận thì trong cái bộ phận có tổng thể và ngược lại trong cái tổng thể lại có cái bộ phận. Chính hiện đại hóa văn học đã tạo nên kết quả này, văn học Việt Nam nhờ đó được nhìn với cái nhìn đa diện, mang tính toàn vẹn khái quát hơn. Trong đó văn học đương đại Việt Nam đã làm một công việc hết sức có ý nghĩa đó chính là việc ghi nhận những đóng góp của các nhà văn thuộc dòng văn học di dân hải ngoại đang sinh sống và làm việc ở nước ngoài, trong đó có Thuận ( Đoàn Ánh Thuận), một nhà văn sống ở Pháp và có rất nhiều tiểu thuyết để lại ấn tượng. Trên cơ sở đó chúng tôi khảo sát văn học hải ngoại Việt Nam trong hai giai đoạn (trước và sau năm 1975) và để từ đó thấy được những đóng góp của Thuận trong dòng chảy văn học. 1.2.1. Văn học hải ngoại Việt Nam trước năm 1975 Việc người Việt Nam lưu vong trên thế giới đã diễn ra qua một số đợt và gắn liền với những hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Trước năm 1975, người Việt Nam chỉ mới lẻ tẻ di trú ở một vài nước. Những di dân đầu tiên dời khỏi nước Việt Nam hồi đó còn là thuộc địa, họ chủ yếu sinh cơ lập nghiệp ở Pháp với số lượng không lớn. Sau cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai, chủ yếu vào những năm 1960-1970, các nhóm sinh viên từ miền Nam Việt Nam đến học ở Mỹ, Canada, Nhật, Ý và các nước tư bản khác theo kế hoạch trao đổi hoặc theo học bổng cũng như bằng tiền riêng của cá nhân. Một số sinh viên đã vĩnh viễn ở lại tại các nước đó. Lưu vong vừa là một tình trạng (người bị xa nước), vừa là một tâm trạng (nhớ nước). Có người không xa nước nhưng vẫn nhớ nước như Bà Huyện Thanh Quan. Từ tâm trạng nhớ nước xẩy ra hành động hướng về đất nước dưới nhiều hình thức, trong đó có sinh hoạt văn chương: Viết bằng tiếng Việt. Như vậy, lưu vong là động cơ thúc đẩy con người hướng về nước, nhưng trong văn học tính chất lưu vong chỉ là một biệt cách của mỗi tác giả: Lưu vong, theo nghĩa đối kháng chính quyền xuất hiện trong những hồi ký chính trị, cải tạo. (Ở đây chúng tôi không bàn đến những tác phẩm ca tụng chính quyền vì đó không phải là văn học đích thực trong chiều hướng phục vụ tự do và sự thật).
  • 30. Trang 30 Lưu vong, theo nghĩa nhớ nước: Sâu sắc trong thơ Phạm Tăng, trong văn Võ Đình, khơi động ở thời kỳ đầu, qua những tác phẩm như Đất Khách của Thanh Nam, Thơ Cao Tần, v.v... Càng về sau càng dịu đi, nhường chỗ cho tính chất hội nhập và hòa hợp. Truyền thống văn học lưu vong, khởi sinh từ những năm đầu thế kỷ, khi Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, từ hải ngoại gửi những tâm văn, huyết thư về nước. Tiếp nối truyền thống ái quốc lưu vong là dòng nghệ thuật thuần túy những năm 30, khi các họa sĩ đầu tiên của Việt Nam như Mai Thứ, Vũ Cao Đàm, Lê Phổ, Lê Thị Lựu... xuất dương và định cư tại Pháp. Sau họ là lớp thứ nhì, với những tên tuổi như Lê Bá Đảng, Võ Đình, Phạm Tăng, v.v... cùng thời với những nhà biên khảo như Hoàng Xuân Hãn, Tạ Trọng Hiệp, Trương Đình Hòe v.v... Một bộ phận người trẻ đã di cư sang Mỹ vào những năm 70 của thế kỉ XX, thời kì được đánh giá là diễn ra nhiều sự kiện lịch sử, chính trị xã hội nhất ở Việt Nam. Bộ phận người trẻ này chính là bộ phận cấu thành của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, có những đóng góp khá tích cực cho Hoa Kỳ và quê hương Việt Nam. Nói đến văn học hải ngoại Việt Nam thời kì này, nếu đánh gia một cách xác thực nhất thì có lẽ chưa có thành tựu gì nổi bật. Có nhiều lí do để lí giải cho hiện tượng này, trong đó lí do lớn nhất có lẽ là do tình hình lịch sử xã hội khiến những người di dân phải đối diện với những khó khăn ban đầu không hề nhỏ. Bỏ xứ ra đi để tìm ánh sáng mới cho cuộc sống tương lai, nhưng chắc hẵn họ đã phải đối diện với rất nhiều những khó khăn nơi đất khách, vì vậy việc dành thời gian để cảm nhận cuộc sống hay dành thời gian để viết để sáng tác văn chương nghệ thuật là điều vô cùng khó khăn. Them vào đó, lượng người di cư vào giai đoạn này thực sự không phải là lớn, chỉ là một bộ phận các du học sinh được cử ra nước ngoài để học tập, hoặc một bộ phận các người dân vượt biên bằng đường biển để đến với những quốc gia khác nhau. Họ không phải là thành phần tiềm năng để có thể góp phần vào việc xây dựng và phát triển một hệ thống những sáng tác hải ngoại có giá trị lúc bấy giờ.
  • 31. Trang 31 Như vậy, nếu đánh giá văn chương hải ngoại trước năm 1975 thì có thể thấy được sự nghèo nàn trong lực lượng sáng tác cũng như những giới hạn ban đầu ràng buộc khá nhiều đến sự phát triển của văn chương hải ngoại Việt Nam thời điểm này. Văn chương hải ngoại chỉ thực sự phát triển sau năm 1975 mà đặc biệt là giai đoạn sau năm 1980, khi mọi sự kiện lịch sư – xã hội đã ổn định và dần dần con người có cách nhìn chậm rãi hơn, sâu sắc hơn đối với những biến động lịch sử, số phận con người. 1.2.2. Văn học hải ngoại Việt Nam từ sau 1975 đến nay (http://vanhaiphong.com/tac- pham/3262-2016-10-11-07-05-37.html) Khác với nền văn học trong nước, văn học hải ngoại là dòng văn học vượt qua những ràng buộc có tính qui phạm. Bằng những cảm nhận mang cảm thức lưu vong, những tác giả hải ngoại đã sớm khẳng định mình bằng chính những sáng tác phản ánh sắc nét số phận con người trên đất khách cũng như những hoài niệm về quê hương đất nước. Nếu như văn học hải ngoại trước năm 1975 chưa thực sự khẳng định được vị trí của mình thì văn học hải ngoại Việt Nam sau 1975 đã thực sự đánh một dấu mốc quan trọng trong hành trình hình thành và phát triển của dòng văn học lưu vong mang tên hải ngoại. Nói đến tình hình phát triển của văn học hải ngoại từ sau 1975 đến nay có thể khái quát thành những giai đoạn như sau: Sau biến cố 75, người Việt rời nước ra đi, có một nhu cầu cần được thỏa mãn: Phần lớn chưa đọc được ngoại ngữ, vậy phải có cái gì để "đọc". Đó là một nhu cầu có tính "vật chất" tin tức, thông báo hơn là văn chương. Nhưng vì "tin tức, thông báo" trở thành quý hiếm, xa nhòa , giữa cộng đồng trong nước và cộng đồng di tản, cho nên nó đã trở thành một ảo ảnh, biến thành một thực tại văn học. Với những người vượt biên, vượt biển, trong giai đoạn thứ hai, nhu cầu thông tin về kinh nghiệm và thực tại khốc liệt mà mình đã trải qua, nhen nhúm như một đốm lửa thiêu đốt các trang trắng trong lòng người: Nơi các nhà văn, nhu cầu ấy trở nên cấp thiết. Các bản thảo của Nhật Tiến, Mai Thảo, Nguyễn Mộng Giác, Hà Thúc Sinh, Tạ Tỵ... đều xuất phát từ các trại tỵ nạn. Nơi họ, ảnh ảo và ảnh thật giao nhau để tạo thành các tác phẩm thời sự văn học. Do đó mà văn học Việt Nam hải ngoại mang hai tính chất cơ bản: Ảo ảnh xa nhớ quê hương và thực tại kinh
  • 32. Trang 32 hoàng của những tử, sinh, tuyệt, đoạn. Nền văn học ấy gắn liền, thoát thai từ nhiều bi kịch mà thuyền nhân là rường mối hàng đầu. Thời kỳ những năm 1975-1980 gắn liền với sự khởi đầu của việc gây dựng văn học của những người di tản Việt Nam ở nơi đất khách quê người. Sau năm 1975, đa số các nhà văn miền Nam Việt Nam đã dần dần định cư ở Mỹ, Pháp, châu Úc, Canada và các nước khác. Đợt di tản đầu tiên gồm có những người đại diện tiêu biểu nhất của văn học nghệ thuật miền Nam Việt Nam trước 1975. Đó là Mặc Đỗ, Nhật Tiến, Bình Nguyên Lộc, Nhã Ca, Duyên Anh, Lê Tất Điều, Nguyễn Mộng Giác, Thanh Nam, Túy Hồng, Nguyễn Tường Bách, Thế Uyên, Linh Bảo Nguyễn Thị Vinh, Phan Lạc Phúc, Du Tử Lê, Viên Linh, Kiệt Tấn, Nguyễn Xuân Hoàng, Phạm Duy (nhạc sĩ), Võ Đình (nhà văn và họa sĩ), Tạ Tỵ (họa sĩ và nhà phê bình), Đinh Cường (họa sĩ), Khánh Ly (ca sĩ). Những năm đầu của thập niên 1980, văn học ở ngoài nước khởi sắc ra, nhưng là một khởi sắc buồn thảm. Cộng đồng nhà văn Việt Nam tị nạn ngày một đông đảo hơn. Đặc biệt các vị rời nước sau này, khi còn ở trong nước, họ đã có kinh nghiệm với cộng sản, đã là nạn nhân, đã nhìn thấy trò đời. Đã vậy họ từng bị cấm viết, bị cầm tù vì hoặc với “tư cách” là văn nghệ sĩ hoặc công chức, đi lính cho chế độ Cộng hòa. Nay vượt biển đi chui hoặc đoàn tụ gia đình, tha hương, họ bắt đầu viết lại và bộ phận văn học do người Việt hải ngoại nhờ đó sung tích, đa dạng hơn. Các nhà văn của giai đoạn này mạnh thêm tư cách tị nạn chính trị. Nhưng họ viết nhiều về chiến tranh, đa phần là cay đắng, buồn tức, tức người lẫn ta. Những kinh qua đắng cay của trại “cải tạo”, của đời sống tối tăm sau 1975. Và nhất là ý chí chống cộng sản độc tài, những trì trệ không giải phóng được đất nước khỏi nghèo đói và chậm tiến. Thời kì tiếp theo đó chính là giai đoạn 1982-1990, đã đặt cơ sở vững chắc cho sự phát triển tương đối ổn định của văn học Việt Nam ở hải ngoại. Số tác giả mới và số lượng sách được xuất bản đã gia tăng, những nhà xuất bản chuyên nghiệp đã ra đời, và đã xuất hiện một đời sống văn học thực thụ - phong phú và đa dạng. Có thể nói rằng thời kỳ này là thời kỳ thuận lợi nhất và có kết quả nhất trong lịch sử văn học Việt Nam ở hải ngoại.
  • 33. Trang 33 Vào những năm đó số lượng tiểu thuyết được công bố còn ít. Tác phẩm đáng kể nhất trong thể loại này là bộ tiểu thuyết sử thi 5 tập Mùa biển động của Nguyễn Mộng Giác. Truyền thống của tiểu thuyết (theo cách hiểu của châu Âu về thể loại này) trong văn học Việt Nam còn khá non trẻ. Để viết được những tác phẩm có quy mô như vậy cần phải có kinh nghiệm sống phong phú và tài năng, do đó, nhiều nhà văn lưu vong có thể bộc lộ mình rõ nét nhất trong các tác phẩm văn xuôi cỡ nhỏ. Với sự lưu ý tới tất cả những nhân tố đó, thể loại truyện ngắn về mặt lô gích đã trở thành thể loại dẫn đầu trong văn học Việt Nam ở hải ngoại. Hầu như tất cả các nhà văn mới đều là những cây bút truyện ngắn, trong số đó trước hết cần phải nêu lên những tên tuổi: Thế Giang, Trần Vũ, Vũ Quỳnh Hương v.v.... Giai đoạn từ 1990-1995 nhịp độ phát triển văn học Việt Nam ở Mỹ đã chậm lại và ngày càng ít những tác giả mới xuất hiện, ngày càng ít những tác phẩm hay và có giá trị về mặt nghệ thuật được công bố. Trong giới báo chí hải ngoại, vấn đề về tình trạng đình đốn trong đời sống văn học nghệ thuật của cộng đồng người Việt ở hải ngoại được bàn luận sôi nổi. Và rất nhiều người đã đi đến nhận định cho rằng căn nguyên của nó là những biến đổi chính trị đã diễn ra ở Việt Nam và trên thế giới nói chung. Sự tan rã của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới và sự sụp đổ của Liên bang Xô viết, việc thiết lập quan hệ ngoại giao giữa CHXHCN Việt Nam và Hợp chủng quốc Hoa kỳ vào năm 1995, nước Việt Nam cộng sản dần dần hoà nhập với thế giới đã buộc văn học Việt Nam ở hải ngoại phải thay đổi. 1.2.3. Tiểu thuyết của Thuận trong dòng chảy của văn chương hải ngoại Việt Nam đương đại Thuận (tên thật là Đoàn Ánh Thuận, sinh năm 1968 tại Hà Nội, hiện đang sống ở Paris, Pháp) là một trong những nhà văn có công góp phần khơi dòng chảy tiểu thuyết đương đại trong văn học Việt Nam. Chị được coi là hiện tượng tiêu biểu trong làng tiểu thuyết gần đây. Hành trình sáng tạo của Thuận đang khẳng định một sự vận động không ngơi nghỉ của một người cầm bút ý thức với nghề và đặc biệt quan tâm tới nghệ thuật viết.
  • 34. Trang 34 Cái tên Thuận không phải là mới với giới phê bình, nghiên cứu; nhưng với độc giả rộng rãi thì đây còn là cái tên xa lạ.Chị là một trong số ít các nhà văn hải ngoại viết bằng tiếng Việt và có hầu hết tác phẩm được xu ất bản ở trong nước. Với 5 tiểu thuyết được đánh gia khá cao liên tục trong 5 năm: Made in Việt Nam (Nhà xuất bản Văn mới, California, 2003), Chinatown (Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2004), Paris 11 tháng 8 (Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2005), T mất tích (Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2006), Vân Vy (Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2008), cùng với hai tiểu thuyết gần đây nhất đó là Thang máy Sài Gòn (2013) và Chỉ còn 4 ngày là hết tháng Tư (2015); Thuận đang từng bước chứng tỏ bản lĩnh và tài năng của một cây bút chuyên nghiệp, đam mê với nghề. Cao Việt Dũng trong lời giới thiệu về tiểu thuyết T mất tích đã từng đánh giá “Những tác phẩm của Thuận tiếp tục khẳng định sức viết dồi dào và khả năng chạm đến những ngõ ngách đặc biệt của cuộc sống thời đại chúng ta” . Đặc biệt, bước vào tiểu thuyết của Thuận độc giả luôn bị ám ảnh bởi nhiều suy tư, trăn trở của chị trước những thân phận “công dân toàn cầu”. Tiểu thuyết của Thuận trong dòng chảy và sự phát triển của văn học hải ngoại những năm trở lại đây cũng đã thể hiện được vị trí của mình khi được các nhà phê bình và giới nghiên cứu quan tậm nhiều hơn, điều này càng chứng tỏ Thuận đã có những vận dụng tương đối trong quá trinh sáng tác, đặc biệt có thể kể đến như phân tâm học, tự sự học (lối viết tự thuật), hiện sinh và đến bây giờ là kí hiệu học. Phá vỡ lối cấu trúc truyền thống, các tiểu thuyết của Thuận thường sử dụng cấu trúc phân mảnh, không chú trọng trình tự thời gian, sự kiện. Các nhà phê bình văn học đều đánh giá Thuận đã rất thành công khi không đi theo hình thức tiểu thuyết cổ điển mà mỗi cuốn chị đều có những sáng tạo độc đáo của riêng mình. Made in Vietnam không phân chia chương đoạn, không có dấu chấm xuống hàng. Chinatown(2005) cũng không phân chia chương đoạn không có chấm xuống hàng nhưng chia làm 3 phần – tiểu thuyết chính và 2 trích đoạn của tiểu thuyết phụ do nhân vật chính đang viết. Paris 11-8 (2006) mỗi chương đều bắt đầu bằng