SlideShare a Scribd company logo
1 of 98
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LÊ NAM
B¶O VÖ QUYÒN CON NG¦êI
TRONG LUËT H×NH Sù THEO PH¸P LUËT N¦íC NGOµI
Vµ LUËT QUèC TÕ
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LÊ NAM
B¶O VÖ QUYÒN CON NG¦êI
TRONG LUËT H×NH Sù THEO PH¸P LUËT N¦íC NGOµI
Vµ LUËT QUèC TÕ
Chuyên ngành: Luật Quốc tế
Mã số: 60 38 01 08
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS.GVC. LÊ VĂN BÍNH
HÀ NỘI - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Trong quá trình nghiên cứu, học viên đã tham khảo nhiều công trình nghiên
cứu khác, có kế thừa, phân tích, bình luận và phát triển. Các kết quả nêu trong
Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví
dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Học viên đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa
vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
LÊ NAM
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN CON NGƯỜI VÀLUẬT
HÌNHSỰQUỐCTẾ VỀBẢO VỆQUYỀN CONNGƯỜI........................7
1.1. Khái niệm quyền con người và bảo vệ quyền con người................ 7
1.2. Vấn đề quyền con người và quyền công dân .................................11
1.3. Khái niệm luật hình sự quốc tế và luật hình sự quốc gia về bảo
vệ các quyền con người .....................................................................15
Chương 2: BẢO VỆ CÁC QUYỀN CON NGƯỜI BẰNG PHÁP
LUẬT NƯỚC NGOÀI VÀ LUẬT HÌNH SỰ QUỐC TẾ ............23
2.1. Pháp luật hình sự một số nước về bảo vệ quyền con người ........23
2.1.1. Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự Trung Quốc..............23
2.1.2. Bảo vệ quyền con người theo pháp luật hình sự Nga........................25
2.1.3. Bảo vệ quyền con người theo pháp luật hình sự Nhật Bản ..............27
2.1.4. Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự Liên bang Đức...........29
2.2. Luật hình sự quốc tế và quyền con người .....................................31
2.3. Tòa án hình sự quốc tế và vấn đề quyền con người......................37
2.4. Bảo vệ quyền con người thông qua tương trợ tư pháp theo
luật hình sự quốc tế..........................................................................40
2.5. Bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự quốc tế ................43
Chương 3: BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM SO VỚI LUẬT QUỐC TẾ: MỘT SỐ KIẾN
NGHỊ, GIẢI PHÁP ..........................................................................49
3.1. Pháp luật Việt Nam và luật hình sự Việt Nam trong tương
quan so sánh với luật quốc tế về bảo vệ quyền con người.................49
3.1.1. Nhóm các quyền dân sự và chính trị..................................................50
3.1.2. Nhóm quyền kinh tế, xã hội, văn hóa.................................................65
3.2. Một số kiến nghị, giải pháp cho Việt Nam từ việc nghiên cứu
luật quốc tế và luật hình sự quốc tế về bảo vệ quyền con người.....72
3.2.1. Hoàn thiện hệ thống, chính sách pháp luật bảo vệ quyền con người........72
3.2.2. Gia nhập Tòa án hình sự quốc tế của Việt Nam ................................79
3.2.3. Giáo dục, đào tạo quyền con người ở Việt Nam................................80
3.3. Một số giải pháp khác......................................................................82
KẾT LUẬN....................................................................................................85
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................88
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ASEAN: Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á.
BLHS: Bộ luật hình sự
CAND: Công an nhân dân
CEDAW: Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt
đối xử chống lại phụ nữ
CTQG: Chính trị Quốc gia
ĐHQGHN: Đại học Quốc gia Hà Nội
ICC: Tòa án hình sự quốc tế
ICCPR: Công ước quốc tế về các quyền dân sự
ILO: Tổ chức Lao động Quốc tế
LGBT: Cộng đồng những người đồng tính luyến ái
LHQ : Liên hợp quốc
NCKH: Nghiên cứu khoa học
UDHR: Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền
VBPL: Văn bản pháp luật
VBQPPL: Văn bản quy phạm pháp luật
XHCN: Xã hội chủ nghĩa
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Nói đến việc bảo vệ quyền con người, dù dưới bất kỳ góc độ nào đều
có nghĩa cùng đề cập đến việc bảo vệ nhân thân, các quyền và lợi ích hợp
pháp của con người nói chung và công dân nói riêng. Tại Lời nói đầu Tuyên
ngôn toàn thế giới về nhân quyền năm 1948 [14] đã khẳng định rằng:
Việc thừa nhận phẩm giá vốn có, các quyền bình đẳng và không thể
tách rời của mọi thành viên trong gia đình nhân loại là cơ sở cho tự do, công
bằng và hòa bình trên thế giới. Điều cốt yếu là quyền con người cần phải
được pháp luật bảo vệ để con người không buộc phải nổi dậy như là một biện
pháp cuối cùng nhằm chống lại sự độc tài và áp bức. Các quốc gia thành viên
đã cam kết, cùng với Liên hợp quốc, phấn đấu thúc đẩy sự tôn trọng và tuân
thủ chung các quyền và tự do cơ bản của con người.
Như vậy, việc tôn trọng và bảo vệ quyền con người là nhiệm vụ chung
của tất cả các quốc gia, tất cả các dân tộc trên thế giới (hay cụ thể hơn đó là
nhiệm vụ của mỗi người trong cộng đồng các dân tộc cùng sinh tồn trên Trái
Đất), trước hết là trên bình diện chính trị - pháp lý, sau là thực tiễn xã hội. Đã
trải gần 70 năm từ khi thông qua Tuyên ngôn Nhân quyền năm 1948, nhưng
việc nghiên cứu về nhân quyền và bảo vệ quyền con người đã và luôn luôn là
vấn đề nóng hổi, cần thiết và có ý nghĩa chính trị thời đại quan trọng. Trước
yêu cầu của quá trình hội nhập và toàn cầu hóa hiện nay, khi mà việc bảo vệ
an ninh quốc gia, an ninh quốc tế, an ninh con người và quyền con người
bằng pháp luật quốc tế nói chung và đặc biệt là bằng luật hình sự và luật hình
sự quốc tế nói riêng trước nguy cơ đe dọa của chiến tranh xâm lược, của xung
đột vũ trang và bạo lực, sự hủy hoại và suy thoái môi trường sống, trước tội
2
ác diệt chủng và chống loài người, cũng như việc bảo vệ quyền con người đối
với người phạm tội, là đòi hỏi có tính cấp thiết hơn bao giờ hết.
Điều nói trên là các lý do mà học viên đã nghiên cứu và lựa chọn đề tài:
“Bảo vệ quyền con người trong luật hình sự theo pháp luật nước ngoài và
luật quốc tế” làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Vấn đề về quyền con người đã được nghiên cứu rất nhiều ở cả trong
và ngoài nước. Ví dụ, Bảo vệ an ninh quốc gia an ninh quốc tế và các quyền
con người bằng pháp luật hình sự trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp
quyền, Sách chuyên khảo do Lê Văn Cảm làm chủ biên, NXB Tư pháp, Hà Nội,
2007; Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người, do tập thể tác giả:
Nguyễn Đăng Dung, Vũ Công Giao và Lã Khánh Tùng đồng biên soạn, Khoa
Luật, ĐHQGHN, 2009; Bảo vệ tự do và an ninh cá nhân bằng pháp luật hình sự
Việt Nam, đề tài NCKH (2014) và Các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của
công dân theo luật hình sự Việt Nam, do Trịnh Tiến Việt làm chủ biên, NXB
CTQG, Hà Nội, 2010; Bảo vệ quyền con người trong luật hình sự, luật tố tụng
hình sự Việt Nam, do Trần Quang Tiệp làm chủ biên, NXB CTQG, Hà Nội,
2004; Quyền con người. Tập hợp những bình luận/khuyến nghị chung của Ủy
ban Công ước LHQ, sách tham khảo, Khoa Luật, ĐHQGHN, NXB CAND,
2010; Bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật quốc tế, Đề tài NCKH của
Nguyễn Bá Diến và Hoàng Ngọc Giao, Khoa Luật, ĐHQGHN, 2006; Bảo vệ
quyền con người bằng các quy định của pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng
hình sự Việt Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền, đề tài NCKH
cấp ĐHQG Hà Nội, do Lê Văn Cảm, Nguyễn Ngọc Chí và Trịnh Quốc Toản
đồng chủ trì, Khoa Luật, ĐHQGHN, 2004; Quyền con người trong lĩnh vực tư
pháp hình sự: Lý luận, thực trạng và hướng hoàn thiện pháp luật, đề tài NCKH
3
trọng điểm cấp ĐHQG Hà Nội, do Lê Văn Cảm chủ trì, Khoa Luật, ĐHQGHN,
2013; Luật tố tụng hình sự Việt Nam với việc bảo vệ quyền con người, đề tài
NCKH về nhân quyền do Nguyễn Ngọc Chí chủ trì, Khoa Luật, ĐHQGHN,
2011; Quốc hội Việt Nam với việc bảo đảm quyền con người, Tưởng Duy Kiên,
NXB Tư pháp, Hà Nội, 2006.
Ngoài ra, còn có các bài viết đăng trên các tạp chí khoa học chuyên
ngành, như: Công ước quốc tế về bảo vệ quyền con người trong hoạt động tư
pháp, của Nguyễn Minh Tuấn, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số chuyên đề về
hội nhập quốc tế, 2012; Tòa án hình sự quốc tế - Một thiết chế quan trọng của
luật hình sự quốc tế trong việc bảo vệ quyền con người, Tạp chí Dân chủ và
Pháp luật, số 5/2009 và Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện điều 119 Bộ luật
hình sự sửa đổi với tội mua bán người, của Trịnh Tiến Việt, Tạp chí Kiểm sát,
số 5(3)/2011; Hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về bảo
vệ quyền phụ nữ trên cơ sở tiếp thu pháp luật quốc tế, của Trần thị Hồng Lê,
Tạp chí Khoa học, chuyên san Luật học, số 2/2014; Vai trò và trách nhiệm của
các cấp chính quyền trong việc phòng ngừa và xử lý các vi phạm quyền con
người, Vũ Văn Nhiêm, Tạp chí NN và PL, 2011.
Quyền con người còn được nghiên cứu ở cấp độ các luận văn và luận
án, như: Đảm bảo quyền con người trong hoạt động tư pháp ở Việt Nam hiện
nay, Luận án tiến sỹ luật học của Nguyễn Huy Hoàn, Học viện CTQG Hồ Chí
Minh, 2004; Bảo đảm thực hiện quyền con người trong thi hành án phạt tù,
Luận án tiến sỹ luật học của Nguyễn Đức Phúc, Học viện CTQG Hồ Chí
Minh, 2011; Quyền có người bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam, Đức
và Hoa Kỳ, Luận án tiến sỹ luật học của Nguyễn Thị Mỹ Quỳnh, Trường Đại
học Luật Tp. Hồ Chí Minh, 2012; Bảo vệ các quyền con người bằng các quy
phạm về tội phạm trong pháp luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sỹ luật
học của Tạ Xuân Trà, Khoa Luật, ĐHQGHN, 2014; hoặc liên quan đến nhân
4
quyền chúng ta có thể kể đến các loại tài liệu khác, như: Báo cáo nghiên cứu
rà soát quy định của pháp luật Việt Nam về các quyền dân sự, chính trị, của
Bộ Tư pháp, 2013; Báo cáo nghiên cứu so sánh nội dung Công ước chống
tra tấn với các quy định trong pháp luật Việt Nam, của Viện Nghiên cứu
Quyền con người, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2007.
Ở nước ngoài, có nhiều công trình, bài viết nghiên cứu về quyền con
người, như: Nhân quyền và đánh giá tư pháp tại Đức của Grimm Dicter và
Các bảo đảm quyền cá nhân theo Hiến pháp Liên bang Mỹ của Scialia
Atomin, NXB, Martinus Nijhoff publishers, Dordrecht, 1994; Abashidze
A.Kh. Hệ thống khu vực về bảo vệ các quyền của con người. Trường Đại học
Tổng hợp Hữu nghị các Dân tộc. M., 2010; Abashidze A.Kh., Solntcev A.M.
Thể chế về bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền và tự do trong Hiệp hội các quốc
gia Đông Nam Á (ASEAN). Tạp chí Luật quốc tế. Moscow, 2010. № 2; UN
Human Rights Treaty Bodies/Eds.: Helen Keller, Universität Zürich, Geir
Ulfstein. - Cambridge University Press, 2012.; New Challenges for the UN
Human Rights Machinery. What Future for the UN Treaty Body System and
the Human Rights Council Procedures?/Edited by: M. Cherif Bassiouni,
William A. Schabas - Antwerp: Intersentia Publishers, 2011; Международная и
внутригосударственная защита прав человека.: Учебник. –М.: Статут.
2011.; Quyền con người ở Trung Quốc và Việt Nam (Truyền thống, Lý luận
và Thực tiễn): Tradition on and Theory and implementation of Hunman Right
in China and Vietnam, NXB CTQG, Hà Nội, 2003; Wolfgang Benedek, Tìm
hiểu về quyền con người, NXB Tư pháp Hà Nội, 2008.
Những công trình nghiên cứu nói trên đã đề cập đến những vấn đề khác
nhau về quyền con người: nghiên cứu lý luận về quyền con người; phân biệt
quyền con người và quyền công dân; một số khía cạnh pháp lý, xã hội về
quyền con người; nghiên cứu đa ngành và liên ngành về quyền con người;
5
nghiên cứu về các chế định cụ thể của pháp luật hình sự Việt Nam, luật hình
sự quốc tế về quyền con người; về an ninh con người và bảo vệ các quyền con
người bằng pháp luật hình sự và trong quá trình tố tụng hình sự. Tuy nhiên, xã
hội luôn biến đổi, con người ngày một phát triển cùng với sự phát triển của
khoa học kỹ thuật, nên nghiên cứu về con người mà đặc biệt là về lĩnh vực
bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự và tố tụng hình sự (trên cơ sở
của luật quốc gia và luật quốc tế) luôn có tính mới, cần nghiên cứu. Do đó,
việc học viên chọn đề tài “Bảo vệ quyền con người trong luật hình sự theo
pháp luật nước ngoài và luật quốc tế” để nghiên cứu và làm luận văn thạc sỹ
luật học là cần thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ các vấn đề lý luận và thực tiễn của hoạt động về quyền con
người trong pháp luật hình sự quốc tế; phân tích làm rõ một số điều khoản về
luật hình sự quốc tế và quyền con người.
Hệ thống hóa một số quy định về nhân quyền của một số nước, khu vực
trên thế giới, các quy định pháp luật về tòa án hình sự quốc tế; phân tích, so
sánh, đánh giá, tìm ra hạn chế của các quy định về quyền con người của một
số khu vực.
Đề xuất một vài phương án nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về
quyền con người trong pháp luật hình sự; phương án hoàn thiện quy định
pháp luật của Việt Nam về hoạt động quyền con người trong luật hình sự.
4. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Đề tài “Bảo vệ quyền con người trong vấn đề luật hình sự theo pháp
luật quốc tế” được lựa chọn không chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu những vấn
đề lý luận và thực tiễn của hoạt động về quyền con người trong pháp luật hình
sự quốc tế mà còn nêu lên được những tồn tại, thiếu sót của hệ thống pháp
6
luật điều chỉnh hoạt động nêu trên trên cơ sở phân tích các vấn đề thực tiễn,
kết hợp so sánh, từ đó đề xuất một vài phương án nhằm hoàn thiện các quy
định pháp luật về quyền con người trong luật hình sự quốc tế.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động quyền con người trong lĩnh vực hình
sự theo luật quốc tế.
Phạm vi nghiên cứu: Pháp luật về hoạt động nhân quyền trong vấn đề
luật hình sự theo pháp luật quốc tế.
6. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử cho
việc nghiên cứu đề tài.
Ngoài ra, là các phương pháp nghiên cứu khoa học pháp lý truyền
thống như: phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp... Các phương pháp này
sẽ giúp học viên trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
7. Kết cấu của luân văn
Ngoài phần lời mở đầu; phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo ,
nội dung của luận văn được kết cầu gồm ba chương:
Chương 1. Khái quát chung về quyền con người và luật hình sự quốc tế về
bảo vệ quyền con người;
Chương 2. Bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật nước ngoài và
luật hình sự quốc tế;
Chương 3. Bảo vệ quyền con người theo pháp luật Việt Nam so với luật
quốc tế: Một số kiến nghị, giải pháp.
7
Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN CON NGƯỜI
VÀ LUẬT HÌNH SỰ QUỐC TẾ VỀ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI
1.1. Khái niệm quyền con người [34] và bảo vệ quyền con người
Theo tài liệu của Liên hợp quốc, có đến gần 50 định nghĩa khác nhau
về quyền con người [34, 40, p.4]. Ý thức về tôn trọng quyền con người và
việc bảo vệ quyền con người là một quá trình lịch sử lâu dài, liên tục và luôn
gắn liền với lịch sử phát triển của loài người, quyền con người cũng được
khẳng định thông qua các hình thái kính tế-xã hội khác nhau, qua đó quyền
con người đã trở thành giá trị cao quý chung của nhân loại và được cộng đồng
quốc tế công nhận. Quyền con người được thể hiện thông qua các yếu tố như:
bình đẳng, tự do, bác ái, nhân văn, lòng bao dung, công lý, những khách thể
quan trọng này luôn được luật hình sự nói chung và luật hình sự quốc tế nói
riêng bảo vệ nhằm tránh cho con người khỏi sự xâm hại của những vi phạm
pháp luật ở mức độ cao nhất [34].
Tư tưởng về quyền con người và việc bảo vệ quyền này đã xuất hiện từ
rất sớm trong lịch sử của nhân loại [35]. Từ sau thế chiến thứ hai, các nước xã
hội chủ nghĩa đã nêu các quyền dân tộc cơ bản như một bộ phận thiết yếu của
các quyền tập thể, qua đó đề cập một cách toàn diện và biện chứng hơn về
quyền con người [4]. Ở châu Âu lục địa, tư tưởng về quyền tự nhiên của con
người ngày càng trở nên phổ biến. Các đại diện tiêu biểu cho tư tưởng này
như: Lôccơ (Anh), Rútxô (Pháp), Xpinôda (Hà Lan), I. Can tơ,
Pruphenđóocphơ (Đức), Jepphécxơn (Hoa Kỳ) [11, tr.15]. Mặc dù, khái niệm
quyền con người đương đại chủ yếu bắt nguồn từ châu Âu, nhưng ngày nay
8
những khái niệm cơ bản về quyền con người, về tự do và công bằng xã hội đã
có tính chất phổ quát trên toàn thế giới. Các nội dung đầu tiên về quyền con
người có thể đã được ghi nhận trong các Hiệp định về quyền tự do tôn giáo;
Công ước Westphalia năm 1648 và việc cấm chế độ chiếm hữu nô lệ như
Tuyên ngôn về việc buôn bán nô lệ của Quốc hội Vienna vào năm 1815; việc
sáng lập xã hội chống chế độ chiếm hữu nô lệ Hoa Kỳ năm 1833; Công ước
về chống chế độ chiếm hữu nô lệ năm 1926 [38, tr.13] v.v... Trong các công
trình nghiên cứu về quyền con người, chúng ta có thể nhấn mạnh đến hai văn
bản nổi tiếng và có nhiều ý nghĩa cho đến ngày nay, đó là: Tuyên ngôn Độc lập
của Hoa Kỳ năm 1776 và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp
năm 1789. Theo đó, Tuyên ngôn đã khẳng định rằng: những chân lý đã được
công nhận như những sự thật hiển nhiên là tất cả mọi người sinh ra đều bình
đẳng; tạo hóa đã cho họ các quyền không thể thay thế được; trong những quyền
ấy có quyền được sống, quyền tự do, và quyền mưu cầu hạnh phúc [43]. Đây là
những văn bản thực định xác nhận chính thức về mặt pháp lý của Nhà nước đối
với quyền con người và việc bảo vệ quyền con người.
Như vậy, cốt lõi của khái niệm quyền con người là khát vọng bảo vệ
nhân phẩm của tất cả con người hay điều cốt yếu là các quyền con người phải
được bảo vệ bằng pháp luật, gồm pháp luật quốc gia (bao gồm luật hình sự)
và pháp luật quốc tế (bao gồm luật hình sự quốc tế) [21]. Các quyền con
người cần được bảo vệ bằng luật quốc tế nói chung, luật hình sự và luật hình
sự quốc tế nói riêng [30] đã ghi nhận cụ thể trong ba văn kiện quốc tế quan
trọng về quyền con người của Liên hợp quốc, cụ thể là: Tuyên ngôn thế giới
về nhân quyền (UDHR) năm 1948; hai Công ước về: các quyền dân sự, chính
trị (ICCPR); và về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (ICESCR) năm 1966.
Tổng thể các quyền con người đã được ghi nhận và được bảo vệ bằng pháp
luật quốc tế, luật hình sự và luật hình sự quốc tế, cần được các quốc gia, dân
9
tộc và các tổ chức, cũng như mọi người trên toàn thế giới tôn trọng, thực thi
và bảo vệ. Trong số các quyền này, có các quyền được bảo vệ trực tiếp bằng
luật hình sự nói chung và luật hình sự quốc tế nói riêng (trên các bình diện nội
dung và trình tự, cũng như thủ tục xét xử), như: quyền sống; quyền tự do và
an ninh cá nhân; quyền được bảo vệ không bị bắt làm nô lệ; quyền được bảo
vệ để không bị tra tấn; quyền được bồi thường về mặt pháp lý khi bị vi phạm;
quyền được bảo vệ khỏi bị bắt giữ, giam cầm hoặc lưu đầy một cách tùy tiện;
quyền được xét xử bởi một Tòa án độc lập và không thiên vị; quyền được suy
đoán vô tội; quyền được bảo vệ không bị áp dụng luật hồi tố; quyền về sức
khỏe; quyền được đối xử nhân đạo khi bị tước tự do.
Ở Việt Nam, quyền con người, các quyền và tự do cơ bản của con
người lần đầu tiên đã được ghi nhận trong Tuyên ngôn độc lập năm 1945 và
Hiến pháp năm 1946 (Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa). Tuyên ngôn độc lập đã nhấn mạnh rằng tất cả con người và tất cả các
dân tộc trên thế giới đều có quyền bình đẳng, quyền sống, quyền sung sướng,
quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Do đó, quyền con người không chỉ
là quyền của cá nhân mà còn là quyền của mỗi dân tộc, của các dân tộc. Hai
quyền này thống nhất và làm tiền đề cho nhau vì bảo vệ quyền con người
cũng chính là bảo vệ quyền của mỗi dân tộc, bảo vệ chủ quyền quốc gia và
toàn vẹn lãnh thổ. Nói một cách khác, khi quyền dân tộc, chủ quyền quốc gia
và toàn vẹn lãnh thổ được bảo đảm, thì quyền con người của mỗi con người
trong các quốc gia đó mới được tôn trọng, bảo vệ và có điều kiện phát triển.
Bảo vệ và phát triển quyền con người là thước đo văn minh, dân chủ và thể
hiện bản chất nhân đạo của một Nhà nước.
Những tiến bộ trong việc thực hiện quyền con người thông qua việc
thực hiện các thế hệ quyền con người trong lịch sử nhân loại cho thấy, để đạt
được thành quả này làm một quá trình đấu tranh của các dân tộc bị áp bức
10
nhằm đòi các quyền vốn thuộc về họ, về mỗi con người, chống lại các chế độ
thực dân, phong kiến và các chế độ bóc lột khác. Để hiện thực hóa quyền con
người, các văn bản pháp lý quốc tế về quyền con người đã được ban hành, ví
dụ như: như Hiến chương Liên hợp quốc đã khẳng định mục tiêu, quy định
nghĩa vụ và trách nhiệm của Liên hợp quốc trong việc bảo vệ, thúc đẩy tôn
trọng các quyền và quyền tự do cơ bản của con người trên toàn thế giới. Tuyên
ngôn thế giới năm 1948 về quyền con người được xem là một trong những kết
quả có tính nhân văn nhất của Liên hợp quốc, đồng thời có ý nghĩa lịch sử vì đã
xây dựng được những chuẩn mực chung về quyền con người cho tất cả các quốc
gia và các dân tộc. Ngày 10/12 hàng năm là “Ngày Nhân quyền thế giới”. Như
vậy, quyền con người được pháp điển hóa trong các Công ước quốc tế ở các cấp
độ khác nhau về nhân quyền, đầu tiên là “Bộ luật” [12] quốc tế về nhân quyền
và sau đó là các Công ước quốc tế khác về nhân quyền, trong đó quan trọng
nhất là hai Công ước về các quyền dân sự, chính trị và về các quyền kinh tế, xã
hội và văn hóa năm 1966 [14].
Chúng ta có thể nhận thấy rằng để bảo vệ các quyền của con người nói
trên cần cần phải được thực hiện trên cơ sở hai bình diện: i) trên cơ sở luật
định (quốc gia và quốc tế), tức là các quyền của con người cần được luật hóa
thông qua các hệ thống pháp luật: luật quốc tế (phổ cập, khu vực và liên khu
vực), luật quốc gia và các điều ước song phương; ii) việc đảm bảo thực thi
pháp luật trên thức tế.
Vậy, khái niệm về bảo vệ quyền con người có thể được hiểu như sau:
bảo vệ quyền con người (các cá nhân) là một quá trình, là trách nhiệm của cả
xã hội (quốc gia và cộng đồng quốc tế). Nó phụ thuộc vào tổng thể nhiều điều
kiện khác nhau (kinh tế, chính trị, pháp luật, văn hóa…) trong đó pháp luật có
vị trí, vai trò và tầm quan trọng hàng đầu và là tiên quyết nhất trong việc bảo
vệ quyền con người. Về khía cạnh pháp lý, đảm bảo pháp lý bảo vệ quyền con
11
người là hệ thống các quy định trong hệ thống pháp luật nhằm cụ thể hóa, bảo
đảm thực hiện bảo vệ quyền con người và cơ chế bảo đảm thực hiện các quy
định đó trong thực tiễn đời sống.
Như vậy, từ việc nghiên cứu khái quát lý luận về quyền con người và
bảo vệ quyền con người đã nêu cho thấy, dưới góc độ khoa học thì quyền con
người là những đặc quyền vốn có tự nhiên của con người, chỉ có con người
mới có và các quyền này phải được bảo vệ bằng pháp luật quốc gia và quốc
tế, trong đó có luật hình sự và luật hình sự quốc tế. Nội dung của việc bảo vệ
quyền con người bằng luật hình sự và luật hình sự quốc tế, hay vai trò của luật
hình sự và luật hình sự quốc tế với việc bảo vệ quyền con người sẽ được học
viên nghiên cứu và thực hiện trong luận văn này.
1.2. Vấn đề quyền con người và quyền công dân [2]
Quyền con người là những quyền tự nhiên của con người và không thể
bị tước bỏ bởi bất cứ ai và với bất cứ chính thể nào. Các quyền không thể bị
tước bỏ bao gồm: quyền được sống; quyền tự do; quyền mưu cầu hạnh phúc;
và quyền được bảo vệ bình đẳng trước pháp luật.
Trong xã hội quốc tế hiện đại, địa vị pháp lý của con người đã được
luật quốc tế bảo vệ, điều đó đã được ghi nhận trong các văn bản luật quốc tế
quan trọng, như: Tuyên ngôn nhân quyền năm 1948 (điều 6); Công ước về
quyền dân sự và quyền chính trị năm 1966 (điều 2), Việt Nam gia nhập Công
ước này năm 1982; Công ước về bảo vệ quyền của kiều dân và gia đình, thành
viên gia đình của họ năm 1990 (điều 8); Công ước về xóa bỏ mọi hình thức
phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW) năm 1979 (đã được 182 quốc gia phê
chuẩn mặc dù còn nhiều bảo lưu); Công ước LHQ về quyền trẻ em năm 1989
(có 192 quốc gia thành viên, Việt Nam đã phê chuẩn hai Nghị định thư bổ
sung cho Công ước Quyền trẻ em, trong đó Việt Nam đã công nhận thẩm
12
quyền của Ủy ban giám sát Công ước Quyền trẻ em); Công ước về việc ngăn
cấm và trừng phạt tội diệt chủng năm 1948; Công ước về chống tra tấn và trừng
phạt hay đối xử tàn bạo, vô nhân đạo, hạ nhục năm 1984 (Công ước này đã được
Việt Nam phê chuẩn bằng Nghị quyết 83/2014/QH13 ngày 28/11/2014 của
Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 8); Công ước
về việc xoá bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc năm 1965; Công ước của
LHQ về quyền của người khuyết tật năm 2007 (Việt Nam đã Phê chuẩn Công
ước này bằng Nghị quyết 84/2014/QH13 ngày 28/11/2014 của Quốc hội nước
Cộng hoà XHCN Việt Nam khoá XIII, kỳ họp thứ 8).
Khái niệm quyền con người là khái niệm về phẩm giá vốn có của tất cả
các thành viên trong gia đình nhân loại đã được ghi nhận trong Tuyên ngôn
thế giới về quyền con người năm 1948 và các Công ước năm 1966 về chính
trị và dân sự, về kinh tế, văn hóa và xã hội. Các Công ước này cũng ghi nhận
ý tưởng về con người tự do trong việc hưởng quyền tự do khỏi sự sợ hãi, tự
do làm điều mong muốn và được hưởng các quyền bình đẳng và không thể
chuyển nhượng. Quyền con người mang tính phổ quát có nghĩa là chúng được
áp dụng ở khắp nơi và không thể lấy đi hay bị tước đoạt.
Thể nhân có quyền được bảo vệ quyền lợi của mình ở tòa án quốc tế
khu vực, ví dụ như các đơn khiếu kiện đã trở thành đối tượng xem xét của các
tổ chức quốc tế. Quyền của cá nhân được đệ trình lên toà án quốc tế đã được
ghi nhận tại điều 25 của Công ước châu Âu về bảo vệ quyền con người năm
1950. Theo đó, bất kỳ cá nhân nào đều có quyền gửi đơn thỉnh cầu đến Hội
đồng châu Âu về quyền con người.
Đơn khiếu kiện cần phải đưa ra những dẫn chứng cụ thể, thuyết phục
về việc vi phạm nhân quyền đối với người làm đơn do Nhà nước đã tham gia
Công ước gây ra. Đơn được lưu trữ tại Ban thư ký của Hội đồng châu Âu và
13
được xem xét chỉ sau khi mọi biện pháp, phương tiện pháp lý đã được áp
dụng trong nước theo khuôn khổ của luật quốc tế nhưng không có kết quả,
trong thời hạn sáu tháng kể từ khi các cơ quan pháp lý trong nước có quyết
định cuối cùng về vụ việc này.
Thể nhân là chủ thể trách nhiệm hình sự quốc tế khi là tội phạm quốc
tế, thực tiễn đã có các vụ việc xét xử quốc tế để minh chứng cho vấn đề này.
Ví dụ theo Công ước về ngăn ngừa và trừng phạt tội ác diệt chủng năm
1948, những cá nhân gây nên nạn diệt chủng, đồng phạm diệt chủng, âm
mưu, kích động và những ý định thực hiện việc diệt chủng sẽ bị trừng phạt
mà không phụ thuộc vào việc người đó là lãnh đạo một quốc gia hay thường
dân. Tội phạm diệt chủng bị xét xử bởi toà án quốc gia (Ví dụ, Nuon Chea
(89 tuổi) và Khieu Samphan (84 tuổi) là những thủ lĩnh đầu tiên của chế độ
Khmer Đỏ lĩnh án tù trung thân do Tòa án Campuchia ra phán quyết ngày
07/8/2014 vì "phạm tội ác chống lại loài người, diệt chủng, đàn áp chính trị
cùng những hành vi vô nhân đạo khác khác") [42] nơi xảy ra hành vi diệt
chủng hoặc bởi Toà án hình sự quốc tế. Toà do các quốc gia thành viên tham
gia Công ước hoặc LHQ lập ra.
Như vậy, quyền con người đã được định nghĩa thông qua những đặc
tính cơ bản của nó. Theo Văn phòng Cao ủy LHQ thì quyền con người là
những đảm bảo pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm
chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm,
những sự cho phép và tự do cơ bản của con người. Điều đó có nghĩa là mọi
người đều có quyền con người từ khi vừa được sinh ra, bởi họ là con người và
quyền đó được công nhận trên phạm vi toàn cầu.
Con người từ khi được hiện diện trên trái đất cho đến nay vẫn chưa
thể thống nhất được hai quan điểm về nhân quyền: hoặc coi quyền con người
14
là quyền tự nhiên; hoặc coi quyền con người là quyền pháp lý. Tuy nhiên,
cùng với sự phát triển của lịch sử xã hội loài người, cộng đồng quốc tế đã đi
đến thống nhất khi thông qua Tuyên ngôn về quyền con người năm 1948,
trong đó đã khẳng định quyền con người là quyền bẩm sinh vốn có, là sự
bình đẳng với nhau ở tất cả mọi người, ở mọi xã hội. Quyền đó không thể bị
tước đoạt hay hạn chế tùy tiện bởi bất cứ ai, bất cứ nhà nước hay bởi một thể
chế nào, nó không thể bị phân chia và hạn chế bất cứ một phần hay toàn bộ
các quyền của con người.
Các văn bản quan trọng nhất về quyền con người của nhân loại là: Tuyên
ngôn toàn thế giới về quyền con người năm 1948 và hai công ước năm 1966
của LHQ về: các quyền chính trị, dân sự; và các quyền kinh tế, xã hội và văn
hóa. Đa số các quốc gia (trong đó có Việt Nam) đều đã ký kết và gia nhập và
đang thực hiện hóa nội dung của các văn kiện phổ cập này trong thực tiễn [43].
Tại các quốc gia, con người trở thành các cá nhân bình đẳng với nhau
trong một Nhà nước và các quyền tự nhiên được cụ thể hóa thành các quyền
công dân trong pháp luật. Như vậy, quyền công dân chưa phải là hình thức
cuối cùng, toàn diện nhất và đồng nhất với quyền con người. Quyền công dân
của nước nào sẽ được luật pháp nước đó quy định cho người mang quốc tịch
của nước đó. Tức là, quyền công dân bó hẹp trong mối quan hệ của một Nhà
nước với cá nhân. Nhưng chúng ta cần biết rằng mọi cá nhân trong một quốc
gia đồng thời là chủ thể của hai quyền: quyền con người và quyền công dân.
Điều đó đã lý giải cho câu hỏi: tại sao quyền con người và quyền công dân từ
lâu đã là một trong những nội dung cơ bản được ghi nhận trong nhiều Hiến
pháp của các quốc gia trên thế giới [20], tuy nhiên cần tránh việc các quy định
của văn bản dưới Hiến pháp vô tình hay cố ý thu hẹp lại các quyền của con
người theo hiến định [16, tr. 60].
15
Theo John Locke, triết gia người Anh ở thế kỷ XVI, ba quyền cơ bản
không thể bị tước đoạt của con người là quyền được sống, được tự do và quyền
được sở hữu. Trước đó, trong Đại Hiến chương (hay Hiến chương) Magna Carta
năm 1215, một trong những VBPL quan trọng trong lịch sử nước Anh, một
trong những tài liệu pháp lý đầu tiên trên thế giới tiết chế quyền lực của nhà
nước để bảo vệ các quyền của công dân, cũng quy định due process of law (luật
tôn trọng tất cả các quyền hợp pháp của công dân).
1.3. Khái niệm luật hình sự quốc tế và luật hình sự quốc gia về bảo vệ
các quyền con người
Thuật ngữ luật hình sự quốc tế xuất hiện từ cuối thể kỷ XIX đầu thế
kỷ XX. Nguyên nhân dẫn đến việc xuất hiện khái niệm luật hình sự quốc tế
là do nhiều nguyên nhân khác nhau. Ví dụ như, việc xuất hiện các tội phạm
mà hành vi của nó xâm hại đến một số quốc gia (buôn bán nô lệ, buôn bán
thuốc phiện, tiền giả-bạc giả); hoặc sau thế chiến thứ hai cùng với sự truy
tố và trừng phạt các tội phạm chiến tranh, tội chống lại hòa bình và loài
người, dẫn đến sự phổ biến tên gọi luật hình sự quốc tế tương ứng với các
quy phạm quy định về các hành vi vi phạm pháp luật mà luật này điều
chỉnh. Một trong các Công ước LHQ thể hiện nội dung này là Công ước về
đấu tranh chống buôn bán ma túy và các chất hướng thần năm 1988, Công
ước này được áp dụng nhằm đấu tranh chống buôn bán trái phép chất ma
túy, vận chuyển trái phép là hoạt động tội phạm quốc tế, còn có nghĩa là tội
phạm chống luật quốc tế.
Luật hình sự quốc tế có lịch sử phát triển của mình, được thể hiện
thông qua các giai đoạn lịch sử khác nhau: trước Thế chiến một; từ Thế
chiến một đến Thế chiến hai; từ Thế chiến hai đến chấm dứt chiến tranh
lạnh; và từ chấm dứt chiến tranh lạnh cho đến nay. Sự phát triển của luật
16
hình sự quốc tế còn được thể hiện thông qua sự hợp tác giữa các quốc gia
trong lĩnh vực tố tụng hình sự; và thông qua các yếu tố khác, như: các quy
định quốc tế về tội phạm và hình phạt (quốc tế hóa); thống nhất hóa mộ số
nguyên tắc, quy định chung trong việc xác định hình phạt đối với các loại tội
phạm, ví dụ như áp dụng những hình phạt nghiêm khắc nhất; không áp dụng
nguyên tắc thời hiệu trong truy tố (tham khảo quy định tại k.2, đ.23 Bộ luật
hình sự Việt Nam); không áp dụng chế độ ân xá; không áp dụng chế độ miễn
trừ đối với người thực hiện hành vi phạm tội là người đại diện hoặc đứng
đầu nhà nước; các quốc gia thiết lập các thiết chế tư pháp quốc tế hoặc có
tính chất quốc tế nhằm truy tố, xét xử những tội phạm quốc tế nghiêm trọng
nhất, ví dụ, các tòa án quân sự Nurembe, Tokyo, Nam Tư, Campuchia, Siera
Leon, Đong Timo, Libang.
Luật hình sự quốc tế [34] có thể được hiểu là tổng thể các nguyên tắc, các
quy phạm pháp lý quốc tế để điều chỉnh các vấn đề pháp lý trong hoạt động hợp
tác đấu tranh phòng, chống tội phạm của cộng đồng quốc tế [31, tr. 6], hay
tương tự được hiểu là tổng hợp các nguyên tắc và quy phạm điều chỉnh sự
hợp tác giữa các quốc gia trong việc đấu tranh chống tội phạm. Luật hình sự
quốc tế là một ngành mới trong hệ thống pháp luật quốc tế. Tội ác quốc tế
thường thường nghiêm trong, nên việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với
những kẻ phạm tội nghiêm trọng là việc làm rất cần thiết để bảo đảm hòa bình
và an ninh thế giới. Luật hình sự quốc tế được hình thành khi Quy chế các
Tòa án quân sự quốc tế Nurumbe và Tokyo xét xử bọn tội phạm chiến tranh
sau thế chiến thứ hai. Tuy nhiên, trong lịch sử thế giới người ta đã từng biết
tới khái niệm luật hình sự quốc tế ở Vương quốc La Mã cổ đại khi những tên
cướp biển được coi là kẻ thù của nhân loại. Các quốc gia cổ đại cũng đã từng
ký kết các điều ước quốc tế về truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các tội
phạm chiến tranh. Luật hình sự quốc tế đương đại đã đưa ra các quy định về
17
cấu thành tội phạm, tổ chức các tòa án hình sự quốc tế, quy định thủ tục về tố
tụng hình sự quốc tế và vấn đề hợp tác giữa các quốc gia trong việc đấu tranh
phòng, chống tội phạm [41].
Luật hình sự là một ngành luật trong hệ thống pháp luật của quốc gia,
bao gồm hệ thống các quy định pháp luật do Nhà nước ban hành trong đó xác
định rõ những hành vi vi phạm nào là tội phạm, đồng thời, quy định hình phạt
đối với từng tội phạm cụ thể.
Trong khi đó, theo quan điểm hẹp hơn thì cho rằng, luật hình sự quốc tế
là một bộ phận của luật quốc tế được ban hành để trừng phạt một số hành vi
phạm tội. Luật hình sự quốc tế cũng quy định việc xét xử để bài trừ và xét xử
những người bị buộc tội, ngoài ra, đó còn là hệ thống các quy tắc quy định
luật nào sẽ áp dụng đối với tội phạm quốc tế, các yếu tố giả định cần thiết đối
với các đạo luật này được coi như là bị cấm. Luật hình sự quốc tế còn quy
định các thủ tục quốc tế, hoạt động của các cơ quan khởi tố cũng như các giai
đoạn của các phiên tòa quốc tế [39, p.15].
Trong khi luật hình sự thì quy định và mô tả hành vi phạm tội, tính
chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm, quy định loại và mức hình phạt cụ thể
đối với từng tội phạm để dựa vào đó các cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết
vụ án được chính xác, công minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Trong giai đoạn hiện nay, nhiệm vụ của luật hình sự Việt Nam là bảo vệ chế
độ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ quyền bình đẳng
giữa đồng bào các dân tộc, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp
pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, chống
mọi hành vi phạm tội; đồng thời giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp
luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.
Theo quan điểm rộng hơn thì cho rằng luật hình sự quốc tế là một
18
ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật quốc tế, bao gồm các nguyên tắc
và các quy phạm xác định những hành vi nào đặc biệt nguy hiểm cho các lợi
ích chung của cộng đồng quốc tế là những tội phạm quốc tế (hoặc những tội
phạm có tính chất quốc tế), đồng thời quy định các biện pháp hình phạt và các
chế định pháp lý khác có thể được áp dụng đối với chủ thể có lỗi trong việc
thực hiện tội phạm [5].
Tuy nhiên, dưới góc độ khái quát nhất thì luật hình sự quốc tế là một
ngành luật trong hệ thống pháp luật quốc tế ghi nhận những hành vi đặc biệt
nguy hiểm cho các lợi ích chung của cộng đồng quốc tế là các tội phạm quốc
tế (và tội phạm có tính chất quốc tế, tội phạm xuyên quốc gia), đồng thời
quy định hệ thống hình phạt và các chế định pháp lý có thể được áp dụng đối
với những chủ thể vi phạm, cũng như tổng hợp những nguyên tắc xác định
quyền và nghĩa vụ của các thành viên cộng đồng quốc tế, nghĩa vụ hợp tác
của các quốc gia trong việc xử lý và phòng, chống các tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng đã nêu.
Từ khái niệm nói trên cho thấy rằng điểm khác biệt cơ bản giữa luật hình
sự quốc tế với luật hình sự quốc gia (trong đó có luật hình sự Việt Nam) là ở
chỗ nếu luật hình sự quốc gia chỉ bao gồm các quy phạm pháp luật hình sự
(luật nội dung) thì luật hình sự quốc tế chứa đựng tổng hợp các quy phạm pháp
luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự và pháp luật thi hành án hình sự (cả luật
hình thức). Theo cơ sở này thì luật hình sự quốc tế xác định nhiệm vụ rất quan
trọng là bảo vệ các lợi ích chung của cộng đồng quốc tế, sự tồn tại của hòa
bình, an ninh của nhân loại, cũng như quyền con người và các giá trị xã hội cao
quý khác tránh khỏi sự xâm hại của tội phạm. Ngoài ra, luật hình sự và luật
hình sự quốc tế còn phối hợp hoạt động giữa các quốc gia trong việc đấu tranh
phòng, chống tội phạm nói chung và tội phạm quốc tế nói riêng, cũng như tội
phạm có tính chất quốc tế, tội phạm xuyên quốc gia, để bảo vệ quyền con
người, quyền công dân trong mỗi quốc gia trên phạm vi toàn cầu.
19
Ngoài ra, có sự khác nhau về nguồn luật. Tuy rằng, luật hình sự và luật
hình sự quốc tế đều có mục đích chung là được sử dụng để đấu tranh với các
hành vi trái luật nhằm bảo vệ con người nói chung và quyền con người nói
riêng. Nguồn của luật hình sự quốc tế hiện nay chưa được pháp điển hóa, hiện
đang được chứa đựng trong rất nhiều các văn bản điều ước.
Một là, nhóm nguồn đầu tiên điều chỉnh các quan hệ pháp luật hình sự
trong lĩnh vực phân loại, phòng ngừa và trừng phạt các loại tội phạm quốc tế
đặc biệt nghiêm trọng liên quan đến hòa bình và an ninh nhân loại.
Các văn bản đầu tiên là điều ước quốc tế giữa các chính phủ: Liên Xô,
Hoa Kỳ, Anh Quốc và Pháp về xét xử và trừng phạt các tội phạm chiến tranh
ở châu Âu từ tháng 8/1945 – Quy chế tòa án Quân sự quốc tế Nurembe; Quy
chế tòa án Quân sự quốc tế Tokyo cho vùng Cận Đông từ ngày 19/01/1946
(Tòa án Quân sự quốc tế Nurembe và Tokyo từ 1945-1948).
Vào những năm 90 thế kỷ trước, xuất hiện nhóm các văn bản mới dưới
dạng Nghị quyết 827 của Hội đồng Bảo an LHQ ngày 25/5/1993 và Nghị
quyết 995 của Hội đồng Bảo an LHQ ngày 08/11/1994, các Nghị quyết này
đã thông qua các quy chế: Quy chế tòa án hình sự quốc tế về Nam Tư (vì vi
phạm nghiêm trọng luật nhân đạo quốc tế); Quy chế tòa án hình sự quốc tế về
Ruanda (vì hành vi diệt chủng). Tòa ad hoc Nam Tư và Ruanda (1993,1994)
về tội phạm chiến tranh (Tòa án Hình sự quốc tế) do Hội đồng Bảo an thành
lập trên cơ sở chương VII Hiến chương LHQ.
Các văn bản nói trên có xuất phát điểm khác nhau. Nhóm văn bản đầu
tiên được thông qua trực tiếp bằng điều ước giữa các quốc gia; còn nhóm thứ
hai được thông qua bằng quyết định của một cơ quan (Hội đồng Bảo an,
LHQ) về nguyên tắc pháp lý không có thẩm thông qua các văn bản quy phạm,
nhưng ở đây có sự đồng thuận của 5 ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an)
20
Đặc điểm chung của các quy chế nói trên: i) có sự thống nhất các quy
phạm vật chất (luật nội dung) và các quy phạm tố tụng (luật hình thức); ii) sự
đánh giá pháp lý các hành vi tội phạm: tội phạm chống hòa bình; tội phạm
chống loài người; và tội phạm chiến tranh.
Hai là, nhóm nguồn thứ hai của luật hình sự quốc tế là hệ thống các
điều ước đa phương chống khủng bố.
Công ước về đấu tranh chống khủng bố tài chính ngày 09/12/1999,
trong đó đã liệt kê 9 Công ước và Nghị định thư: Công ước (1970) về chống
cướp máy bay; Công ước (1971) về an ninh hàng không dân dụng quốc tế và
NĐT năm 1988 về đấu tranh chống các hành vi bạo lực trái luật tại các cảng
hàng không dân dụng quốc tế (bổ sung Công ước 1971); Công ước (1973) về
ngăn ngừa và trừng phạt tội chống các nhà ngoại giao; Công ước (1979) về
chống bắt cóc con tin; Công ước về bảo vệ thiết bị hạt nhân năm 1980; Công
ước Roma (1988) về đấu tranh chống các hành vi trái luật xâm phạm an toàn,
an ninh hàng hải; Nghị định thư năm 1988 về trấn áp các hành vi trái luật xâm
phạm an toàn các công trình cố định trên thềm lục địa; Công ước đấu tranh
chống khủng bố băng bom năm 1997 v.v... và sau này bổ sung thêm Công
ước về đấu tranh chống các hành vi khủng bố hạt nhân ngày 13/4/2005.
Đấu tranh chống khủng bố còn được quy định trong điều ước khu vực
và liên khu vực: Công ước Thượng Hải về đấu tranh chống khủng bố, ly khai
và cực đoan năm 2001; SNG (Cộng đồng các quốc gia độc lập) và EU năm
1997, về phòng ngừa khủng bố năm 2005; hoặc Công ước ASEAN về chống
khủng bố năm 2007 (có hiệu lực từ ngày 27/5/2011 sau khi Brunei là quốc gia
thứ 6 trong ASEAN thông qua Công ước này ngày 28/4/2011).
Ba là, nhóm nguồn thứ 3 của luật hình sự quốc tế là các Công ước liên
quan đến các tội phạm xâm phạm đến nhân phẩm, các lợi ích chung của cộng
đồng như kinh tế, xã hội và nhân văn.
21
Chúng ta cần có sự phân biệt sự khác nhau giữa tội phạm quốc tế và tội
phạm xuyên quốc gia, mặc dù về mặt lý luận cũng như thực tiễn, đấu tranh
với các loại tội phạm này đều dựa trên cơ sở của luật hình sự quốc gia và luật
hình sự quốc tế (tức là sự phối kết hợp hài hòa giữa luật quốc tế và luật quốc
gia nếu nhìn trên cơ sở vĩ mô).
Tội phạm xuyên quốc gia được quy định tại Công ước LHQ về chống
tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia năm 2000, theo đó, hành vi phạm tội:
được thực hiện ở nhiều quốc gia; hành vi ở một quốc gia nhưng chủ yếu việc
chuẩn bị lên kế hoạch, chỉ đạo hoặc điều khiển lại ở một quốc gia khác; hành
vi ở một quốc gia nhưng liên quan đến một nhóm tội phạm có tổ chức tham
gia phạm tội ở nhiều quốc gia; hành vi ở một quốc gia nhưng có ảnh hưởng
lớn ở một quốc gia khác. Tội phạm xuyên quốc gia có đặc điểm riêng của
mình, theo đó: được thể hiện ở tính đa quốc gia thông qua tên gọi; phương
pháp, thủ đoạn thực hiện tội phạm xuyên quốc gia thường mang tính có tổ
chức và chuyên nghiệp cao; có khả năng gây hậu quả trên phạm vi lớn, gây
hậu quả hàng loạt; xâm hại tới các lợi ích quốc gia, quyền và lợi ích chính
đáng của cá nhân, tổ chức một cách nghiêm trọng ở mức độ đe dọa đến trật
tự, an ninh một khu vực hoặc thế giới; thẩm quyền tài phán thuộc quốc gia và
trách nhiệm pháp lý được xác định trên cơ sở luật quốc gia; thường tiến hành
mua chuộc, hối lộ và lôi kéo các nhà lãnh đạo nước ngoài nhằm dung túng
bao che cho các hoạt động phạm tội của tổ chức mình. Một số tội phạm xuyên
quốc gia, như: tội khủng bố; tội phạm về ma túy; tội rửa tiền; tôi buôn bán
người; tội tham nhũng; tội vi phạm an ninh hàng hải quốc tế; tội vi phạm an
ninh, an toàn hàng không.
Như vậy, tội phạm xuyên quốc gia xâm hại đến lợi ích quốc gia, lợi ích
chính đáng của cá nhân, tổ chức được xác lập, bảo vệ bởi pháp luật quốc gia.
22
Tội phạm quốc tế là loại tội phạm đặc biệt nguy hiểm, xâm hại các giá
trị chung được nhân loại thừa nhận và pháp luật quốc tế bảo vệ: quyền con
người; chủ quyền quốc gia, dân tộc; hòa bình và an ninh của nhân loại.
Để so sánh hai loại tội phạm này chúng ta cần dựa vào các tiêu chí,
như: khách thể bị xâm hại; tính chất, mức độ nguy hiểm; chủ thể thực hiện;
thẩm quyền tài phán v.v...
Bảo vệ quyền con người trong thế giới đương đại là nhiệm vụ của cả
cộng đồng quốc tế nói chung, tuy nhiên có thể đó là chức năng và nhiệm vụ
không thể thiếu của luật hình sự nói chung và luật hình sự quốc tế nói riêng.
Những phân tích, lập luận và ví dụ nói trên đã minh chứng phần nào cho nhận
định này. Luật hình sự quốc gia và luật hình sự quốc tế có mối quan hệ qua
lại, tương tác, hỗ trợ nhau trong việc đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ
con người và quyền con người. Điều này đã được thể hiện thông qua các mối
quan hệ: luật hình sự quốc tế chịu sự tác động và bổ trợ của luật hình sự quốc
gia; luật hình sự quốc gia đã tiếp thu (nội luật hóa) các nguyên tắc, các chế
định mới các chuẩn mực quốc tế về hình sự; luật hình sự quốc tế và luật hình
sự quốc gia đã bổ trợ, tạo điều kiện cho nhau cùng phát triển vì mục đích bảo
vệ pháp chế, bảo vệ trật tự pháp lý, bảo vệ con người, bảo vệ và duy trì hòa
bình, an ninh con người và an ninh nhân loại.
23
Chương 2
BẢO VỆ CÁC QUYỀN CON NGƯỜI
BẰNG PHÁP LUẬT NƯỚC NGOÀI VÀ LUẬT HÌNH SỰ QUỐC TẾ
Từ thực tiễn quan hệ quốc tế và vấn đề thực thi pháp luật, cũng như căn
cứ vào các văn bản pháp lý quốc tế hiện hành và việc ký kết, sự tận tâm thực
hiện các điều ước quốc tế từ phía các quốc gia, có thể nhận thấy luật hình sự
quốc gia và luật hình sự quốc tế ngày càng có vai trò quan trọng trong việc
bảo vệ quyền con người [34].
2.1. Pháp luật hình sự một số nước về bảo vệ quyền con người [36]
Pháp luật quốc gia cần điều chỉnh cho tương thích với các chuẩn mực
của pháp luật quốc tế về bảo vệ quyền con người nói chung (khi quốc gia là
thành viên của các điều ước đó), cũng như việc bảo vệ quyền con người trong
lĩnh vực hình sự [15]. Do vậy, việc nghiên cứu, so sánh các quy định về bảo
vệ quyền con người trong pháp luật hình sự là cần thiết và quan trọng. Trong
phạm vi của một luận văn thạc sỹ, học viên thật khó đề cập hết được luật hình
sự của các quốc gia trên thế giới điều chỉnh việc bảo vệ quyền con người
trong tương thích với luật pháp quốc tế, Vì lý do khách quan và chủ quan, học
viên chọn pháp luật hình sự của một số nước trên thế giới, như: Nga, Đức,
Nhật Bản và Trung Hoa để nghiên cứu về một số khía cạnh về bảo vệ quyền
con người mà luật hình sự của các quốc gia này điều chỉnh.
2.1.1. Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự Trung Quốc [36]
Bộ luật hình sự [10] Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (viết tắt là Trung
Hoa) sửa đổi năm 2005 (hiện hành) đã quy định các hành vi xâm phạm đến
quyền con người và trừng phạt trong nhiều chương, điều khác nhau.
Tại Chương IV về các tội xâm phạm quyền tự do thân thể, quyền dân
24
chủ của công dân, cụ thể [19]: điều 232 về hành vi cố ý giết người quy định
rằng người nào cố ý giết người khác, thì bị phạt; điều 233 về hành vi vô ý
làm chết người quy định rằng người nào vô ý làm chết người, thì bị phạt;
điều 234 về hành vi cố ý gây thương tích cho người khác quy định rằng
người nào cố ý gây thương tích cho người khác, thì bị phạt; điều 235 về
hành vi vô ý gây thương tích nặng cho người khác đã quy định rằng người
nào vô ý gây thương tích nặng cho người khác, thì bị phạt.
Các hành vi cưỡng hiếp phụ nữ được quy định tại điều 236; các hành
vi cưỡng dâm phụ nữ quy định tại điều 237; hành vi giam giữ trái pháp luật
quy định tại điều 238; điều 239 quy định về hành vi bắt cóc người khác; điều
240 quy định về hành vi buôn bán phụ nữ, trẻ em; điều 241 quy định về
hành vi mua phụ nữ, trẻ em bị đem bán; điều 242 quy định về hành vi dùng
bạo lực hoặc uy hiếp ngăn cản nhân viên thi hành công vụ Nhà nước giải
thoát cho phụ nữ, trẻ em bị đem bán; điều 243 quy định về hành vi bịa đặt
nhằm hãm hại người khác; điều 244 quy định về hành vi của đơn vị sử dụng
người; điều 245 quy định về hành vi khám người, khám nhà bất hợp pháp;
điều 246 quy định về hành vi làm nhục người khác; điều 247 quy định về
hành vi bức cung của nhân viên tư pháp; điều 248 quy định về hành vi của
nhân viên quản giáo.
Như vậy, nếu so sánh Bộ luật hình sự Trung Hoa với Bộ luật hình sự
Việt Nam về các vấn đề có liên quan đến việc bảo vệ quyền con người, chúng
ta thấy có một vài điểm khác nhau, ví dụ như: Bộ luật hình sự Trung Hoa tập
trung mô tả hành vi phạm tội ngay trong nội dung điều luật mà không có tên tội
danh; nhiệm vụ của Bộ luật này chỉ xác định chung là bảo vệ các quan hệ xã
hội, trong đó có quyền công dân; hoặc trong khái niệm tội phạm cũng chỉ nêu
bảo vệ quyền nhân thân, tự do và các quyền khác; hoặc Chương IV có tên là
các tội xâm phạm quyền tự do thân thể, quyền dân chủ của công dân, tuy nhiên
25
lại chủ yếu nhấn mạnh đến các hành vi phạm tội xâm phạm đến quyền tự do
thân thể; hoặc các tội xâm phạm tự do và an ninh cá nhân cũng có nhiều tội
tương đồng với Việt Nam (ví dụ, điều 232 về hành vi cố ý giết người; điều 234
về hành vi cố ý gây thương tích cho người khác; điều 236 về các hành vi cưỡng
hiếp phụ nữ; điều 238 và 239 về hành vi giam giữ trái pháp luật và về hành vi
bắt cóc người khác; v.v...; hoặc có quy định trách nhiệm hình sự của đơn vị (tổ
chức), như đơn vị nào sử dụng người mà vi phạm quy định về quản lý lao
động, hạn chế tự do thân thể, cưỡng bức nhân viên lao động và hành vi của
người vi phạm quy định quản lý lao động, sử dụng trẻ em vị thành niên chưa đủ
16 tuổi lao động vượt quá sức lao động hoặc làm những công việc trên cao,
dưới hầm hoặc lao động trong môi trường nguy hiểm, dễ nổ, dễ cháy, phóng
xạ, độc hại, thì bị phạt (điều 244) [19, tr.162]; hoặc quy định tương đối đầy đủ
hơn về các hành vi và các trường hợp phạm tội cụ thể đối với tội buôn bán
phụ nữ, trẻ em (điều 240) và tội mua phụ nữ, trẻ em (điều 241).
2.1.2. Bảo vệ quyền con người theo pháp luật hình sự Nga
Bộ luật hình sự Nga [26] sửa đổi năm 2010 (hiện hành), đã khẳng định
nhiệm vụ quan trọng của Bộ luật này là bảo vệ các quyền và tự do của con người
(khoản 1 điều 2). Đồng thời, đã quy định về những hành gây nguy hiểm cho cá
nhân sẽ bị coi là tội phạm (khoản 2 điều 2) [33]. Như vậy, Bộ luật hình sự Nga đã
ghi nhận, tôn trọng và bảo vệ các quyền và tự do của con người và của công dân,
đồng thời quy định các loại hình phạt và những biện pháp mang tính chất pháp
luật hình sự khác đối với việc thực hiện hành vi phạm tội.
Bảo vệ quyền con người là nhiệm vụ của Bộ luật hình sự Nga (điều 2), các
nhà làm luật người Nga đã xác định cụ thể những hành vi xâm phạm đến tự do
và an ninh cá nhân sau là tội phạm và sẽ bị trừng phạt. Điều đó đã được khẳng
định cụ thể tài các điều: từ điều 105-128 chương 16 và chương 17; các điều: từ
điều 131-134 chương 18; điều 357 chương 34:
26
Để bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật hình sự, các điều luật
nói trên của Bộ luật hình sự Nga đã quy định cụ thể về các tội khác nhau:
giết người (điều 105); mẹ giết con mới đẻ (điều 106); giết người trong trạng
thái bị kích động mạnh (điều 107); giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ
chính đáng hoặc vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội (điều
108); vô ý làm chết người (điều 109); tội bức tử (điều 110); tội cố ý gây tổn
hại nghiêm trọng sức khỏe (điều 111); tội cố ý gây tổn hại sức khỏe rất
nghiêm trọng (điều 112); tội cố ý gây tổn hại sức khỏe rất nghiêm trọng
trong trạng thái bị kích động mạnh (điều 113); tội cố ý gây tổn hại sức khỏe ở
mức độ nghiêm trọng hoặc rất nghiêm trọng do vượt quá giới hạn phòng vệ
chính đáng hoặc sử dụng quá mức biện pháp cần thiết khi bắt giữ người
phạm tội (điều 114); tội cố ý gây tổn hại ít nghiêm trọng đến sức khỏe (điều
115); tội hành hung (điều 116); tội nhục hình (điều 117); vô ý gây tổn hại rất
nghiêm trọng đến sức khỏe của người khác (điều 118); tội đe dọa giết người
hoặc gây tổn hại nghiêm trọng đến sức khỏe (điều 119); tội cưỡng bức nhằm
lấy bộ phận cơ thể của người bị hại để cấy ghép (điều 120); tội lây truyền
bệnh truyền nhiễm (điều 121); tội lây truyền HIV (điều 122); tội nạo phá
thai bất hợp pháp (điều 123); tội không cứu giúp người bệnh (điều 124): tội
bỏ mặc người khác trong tình trạng nguy hiểm (điều 125); tội bắt cóc (điều
126); giam giữ người trái pháp luật (điều 127); tội buôn người (điều 127-1);
tội đưa người vào bệnh viện tâm thần trái pháp luật (điều 128); tội hiếp dâm
(điều 131); tội cưỡng dâm (điều 132); tội ép buộc người khác hoạt động tình
dục (điều 133); tội giao cấu và thực hiện các hoạt động tình dục khác với
người chưa đủ 16 tuổi (điều 134); tội diệt chủng (điều 357).
Như vậy, nếu đem so sánh Bộ luật hình sự của Nga với Bộ luật hình
sự Việt Nam chúng ta thấy chúng có sự tương thích nhau cả về cấu trúc và
nội dung. Tuy nhiên, cũng có các điểm khác biệt, như: Bộ luật hình sự Nga
27
bảo vệ tự do và an ninh cá nhân với tính chất phổ quát của các quyền con
người (điều 2); hoặc Bộ luật hình sự Nga xử lý hành vi đe dọa an ninh cá
nhân ở cả mức độ đe dọa tính mạng và đe dọa sự toàn vẹn thân thể (điều
119); hoặc Bộ luật hình sự Nga quy định hành vi bắt cóc nói chung là tội
phạm (điều 126); hoặc Bộ luật hình sự Nga quy định xử lý đối với tội đưa
người vào bệnh viện tâm thần trái pháp luật (điều 128).
Trên đây là những quy định còn khác biệt nếu đem so với Bộ luật hình
sự Việt Nam.
2.1.3. Bảo vệ quyền con người theo pháp luật hình sự Nhật Bản
Bộ luật hình sự Nhật Bản [28] sửa đổi năm 2011 (hiện hành). Bộ luật
này đã quy định tương đối rộng các hành vi xâm phạm đến quyền con người
tại các điều ở các chương khác nhau [22]. Cụ thể tại chương 9 có các điều,
như: đốt công trình nhà cửa có người ở (điều 108); làm rò rỉ khí ga, dẫn tới
thương tích hoặc chết người (điều 118); hoặc chương 10 có điều quy định về
tội làm ngập nước công trình nhà cửa có người ở (điều 119); chương 11 có
các điều quy định về nguy hiểm đi lại (điều 125) và lật tàu hỏa và gây chết
người (điều 126). Các tội về pha chất độc vào nước uống (điều 144), làm ô
nhiễm nước uống gây ra thương tích hoặc chết người (điều 145), và pha chất
độc vào nước máy gây thương tích hoặc chết người (điều 146), được quy
định tại Chương 15. Ngoài ra, cưỡng dâm (điều 176), hiếp dâm (điều 177),
coi như tội cưỡng dâm và coi như tội hiếp dâm (điều 178), và hiếp dâm tập
thể (điều 179), được quy định tại Chương 22 của Bộ luật này.
Các điều: điều 195 về hành hung ngược đãi của công chức đặc biệt
(Chương 25 - Tội tham nhũng); điều 199 về giết người và điều 202 về tham
dự vào việc tự sát và đồng ý giết người được quy định tại Chương 26 - Tội
giết người; điều 204 về thương tích, điều 205 về gây ra thương tích dẫn tới
28
chết người, điều 206 về vào hùa tại hiện trường và điều 208 về hành hung,
được quy định tại Chương 27 - Tội gây ra thương tích; điều 208-2 về lái xe
nguy hiểm gây ra thương tích hoặc chết người và điều 208(3) về tập hợp và
tụ tập chuẩn bị hung khí, được quy định tại Chương 27 - Tội gây ra thương
tích; điều 209 về sơ ý gây thương tích, điều 210 về sơ ý dẫn tới chết người
và điều 211 về bất cẩn trong khi làm việc gây ra thương tích hoặc chết
người, được quy định tại Chương 28 - Tội sơ ý gây ra thương tích. Các điều:
điều 212 về phá thai, điều 213 về đồng ý phá thai và làm việc đó dẫn đến
thương tích hoặc chết người, điều 214 về phá thai trong công việc và việc đó
dẫn tới thương tích hoặc chết người, điều 215 về phá thai không có sự đồng
ý, điểu 216 về phá thai không có sự đồng ý dẫn tới thương tích hoặc chết
người, được quy định tại Chương 29 - Tội phá thai.
Các tội: bỏ rơi (điều 217); bỏ rơi của người có trách nhiệm chăm nom
(điều 218); và bỏ rơi dẫn đến thương tích hoặc chết người (điều 219), được
quy định tại Chương 30 - Tội bỏ rơi. Các tội: bắt và giữ người (điều 220) và
tội bắt người gây ra thương tích hoặc chết người (điều 221), được quy định
tại Chương 31 - Tội bắt và giữ người. Các tội: đe dọa (điều 222) và cưỡng
bức (điều 223), được quy định tại Chương 32 - Tội đe dọa).
Các tội: bắt cóc, cưỡng đoạt trẻ vị thành niên (điều 224); bắt cóc,
cưỡng đoạt với mục đích kiếm lời (điều 225); cưỡng đoạt và bắt cóc với mục
đích đem ra nước ngoài (điều 226); buôn bán người (điều 226-2); và chuẩn
bị cưỡng đoạt với mục đích tống tiền (điều 228-3), được quy định tại
Chương 33 - Tội bắt cóc dùng vũ lực hoặc lừa gạt. Ngoài ra, tội phá hủy
công trình nhà cửa và dẫn tới thương tích hoặc chết người (điều 260), được
quy định tại Chương 40 - Tội phá hủy và giấu giếm).
Như vậy, so với Bộ luật hình sự Việt Nam chúng ta thấy Bộ luật hình
29
sự Nhật Bản có nhiều điều tương tự, tuy nhiên có những điểm khác nhau, ví
dụ như: Bộ luật hình sự Nhật Bản quy định trừng phạt cả những hành vi gây
thương tích cho thân thể không đáng kể, nhưng có tính chất hung bạo hoặc
làm tăng mức độ nghiêm trọng của tội phạm (các điều 206, 208, 208-3);
hoặc coi hành vi đe dọa tước đoạt không chỉ tính mạng, sức khỏe mà cả các
giá trị quyền con người khác như danh dự, nhân phẩm, tự do đều phạm tội
đe dọa (điều 222); hoặc trừng phạt hành vi phá thai với tư cách là một tội
xâm phạm tính mạng con người; hoặc có quy định riêng về hành hung ngược
đãi của công chức đặc biệt (điều 195); hoặc coi hành vi bỏ rơi những người
cần được cần được chăm sóc, nuôi dưỡng như người già, trẻ em, người tàn
tật là tội phạm (các điều: 217, 218, 219). Về lĩnh vực này, Bộ luật hình sự
Việt Nam chỉ quy định bị truy cứu trách nhiệm hình sự đối với: hành vi vứt
bỏ con mới đẻ dẫn đến hậu quả đứa trẻ chết (điều 94); hoặc hành vi của
người có nghĩa vụ cấp dưỡng người khác mà trốn tránh hay từ chối nghĩa vụ
này gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 152).
2.1.4. Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự Liên bang Đức
Tương tự như pháp luật Việt Nam và pháp luật Nga, Bộ luật hình sự
Liên bang Đức [25] sửa đổi năm 2009 (hiện hành) có định chế các điều
khoản điều chỉnh bảo vệ quyền con người [32], tại các chương: chương thứ
mười ba quy định về các tội xâm phạm sự tự quyết về tình dục; chương thứ
mười sáu quy định về các tội xâm phạm tính mạng; chương thứ mười bảy
quy định về các tội xâm phạm sự nguyên vẹn thân thể; chương thứ mười tám
quy định về các tội xâm phạm tự do cá nhân; chương thứ hai mươi tám quy
định về các tội gây nguy hiểm chung.
Các hành vi xâm phạm quyền con người mà Bộ luật hình sự Liên bang
Đức đã quy định tại các chương nói trên, bao gồm: lạm dụng tình dục (điều
30
174); lạm dục tình dục trẻ em (điều 176); cưỡng dâm, hiếp dâm (điều 177);
cưỡng dâm và hiếp dâm với hậu quả chết người (điều 178); lạm dụng tình
dục người không có khả năng phản kháng (điều 179): bóc lột, bảo kê mại
dâm (điều 180a, 181ª); lạm dụng tình dục người chưa thành niên (điều 182);
giết người (điều 211); đánh chết người (điều 212); làm chết người theo yêu
cầu (điều 216); phá thai (điều 218); tư vấn phá thai sai, quảng cáo phá thai
hoặc đưa vào lưu thông các phương tiện phá thai (điều 219); bỏ rơi (điều
221); vô ý làm chết người (điều 222); xâm phạm thân thể (điều 223); xâm
phạm thân thể nguy hiểm (điều 224); hành hạ người được bảo trợ (điều 225);
xâm phạm thân thể nghiêm trọng (điều 226); xâm phạm thân thể với hậu quả
chết người (điều 227); vô ý xâm phạm thân thể (điều 229); tham gia một
cuộc ẩu đả (điều 231); buôn bán người nhằm mục đích bóc lột tình dục (điều
232); buôn bán người nhằm mục đích bóc lột sức lao động (điều 233); bắt cóc
người (điều 234); bắt giữ người chưa thành niên (điều 235); buôn trẻ em
(điều 236); tước đoạt tự do (điều 239); bắt cóc để cưỡng đoạt (điều 239ª);
gây cháy (điều 306); gây nổ bởi năng lượng hạt nhân (điều 307); gây nổ
bằng chất nổ (điều 308); lạm dụng tia phóng xạ (điều 309); gây ngập lụt
(điều 313); đầu độc gây nguy hiểm chung (điều 314).
Như vậy, nếu so với Bộ luật hình sự Việt Nam thì tên tội danh trong Bộ
luật hình sự Liên bang Đức có tên gọi khác, nhưng các hành vi xâm phạm đến
quyền con người cũng có nhiều điểm tương tự. Tuy nhiên, Bộ luật hình sự
Liên bang Đức cũng có điểm khác biệt so với Bộ luật hình sự Việt Nam, ví dụ
như: Bộ luật (Đức) quy định hành vi bị coi là cấu thành tội phá thai tại điều
218; hướng tới việc bảo vệ sinh mạng của thai nhi - an toàn tính mạng của
một con người chưa được sinh ra; quy định trách nhiệm hình sự đối với cả
hành vi tham gia một cuộc ẩu đả hay tấn công do đông người thực hiện mà
gây ra cái chết hoặc xâm phạm thân thể nghiêm trọng đối với người khác tại
31
điều 231 [32]; quy định hành vi bắt cóc người (điều 234) độc lập với các dạng
tước đoạt tự do khác hay bắt cóc để cưỡng đoạt, lạm dụng [25, tr.370].
2.2. Luật hình sự quốc tế và quyền con người [36]
Chúng ta biết rằng luật hình sự quốc tế là một ngành luật trong hệ
thống pháp luật quốc tế, bao gồm hệ thống các quy phạm pháp luật, các
nguyên tắc điểu chỉnh quan hệ giữa các quốc gia trong việc bảo vệ quyền dân
tộc tự quyết, an ninh quốc gia, an ninh quốc tế và quyền con người. Luật hình
sự quốc tế xác định tính chất tội phạm và tính phải chịu hình phạt của các
hành vi đặc biệt nguy hiểm xâm hại đến các lợi ích chung của cộng đồng quốc
tế, đó là hòa bình, an ninh quốc tế của nhân loại và các giá trị xã hội cao quý
của loài người, cũng như các quan hệ hợp tác của các quốc gia trong các lĩnh
vực khác nhau của trật tự pháp luật quốc tế. Các nguyên tắc được dùng để bảo
vệ các giá trị cao quý của nhân loại mà cộng đồng thế giới xem trọng và kết
quả là sự ràng buộc tất cả các quốc gia và cá nhân. Các nguyên tắc này đã
được thể hiện bằng nhiều công cụ khác nhau.
Năm 1946, Đại hội đồng LHQ đã ban hành Nghị quyết nhấn mạnh các
nguyên tắc cơ bản luật quốc tế đã được Quy chế Tòa án Nurrumbe và các
phán quyết của nó công nhận như là các nguyên tắc được thừa nhận chung
của luật hình sự quốc tế với vai trò để khẳng định việc bảo vệ an ninh quốc
gia, an ninh quốc tế và quyền con người. Những nguyên tắc cơ bản này bao
gồm: i) nguyên tắc cấm chiến tranh xâm lược; ii) nguyên tắc trừng phạt bằng
luật hình sự đối với các tội phạm quốc tế; iii) nguyên tắc cá nhân không được
miễn trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm quốc tế; iv) nguyên tắc không
áp dụng thời hiệu tố tụng đối với các tội phạm quốc tế.
Ngoài ra, trong Tuyên ngôn về quyền con người năm 1948, Công ước
LHQ về quyền dân sự, chính trị năm 1966 và nhiều văn bản khác cũng đã ghi
32
nhận các nguyên tắc của luật hình sự quốc tế trong việc bảo vệ quyền con
người như: i) nguyên tắc hợp tác giữa các quốc gia trong việc đấu tranh chống
tội phạm; ii) nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật và Tòa án; iii) nguyên tắc
cấm tra tấn; iv) nguyên tắc hạn chế hoặc thủ tiêu án tử hình; v) nguyên tắc đối
xử nhân đạo với người bị tạm giữ.
Công ước LHQ về quyền dân sự, chính trị năm 1966 đã dành một phần
(Phần I) với duy nhất một điều quy định về quyền dân tộc tự quyết với tư cách
là quyền tập thể của quyền con người. Có thể khẳng định, đây là lần đầu tiên
quyền quốc gia, dân tộc được ghi nhận với tư cách là một quyền con người.
Nội dung của quyền này có thể được hiểu mọi dân tộc đều có quyền tự quyết,
tự do quyết định thể chế chính trị của mình và tự do phát triển kinh tế, xã hội
và văn hóa. Ngoài ra, vì lợi ích của mình, các dân tộc đều có quyền tự do định
đoạt các nguồn tài nguyên thiên nhiên và của cải của mình miễn là không làm
phương hại đến các nghĩa vụ phát sinh từ hợp tác kinh tế quốc tế, mà dựa trên
nguyên tắc các bên cùng có lợi và các nguyên tắc của pháp luật quốc tế.
Trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng không được phép tước đi những phương
tiện sinh tồn của một dân tộc. Do đó, các quốc gia thành viên Công ước này,
kể cả các quốc gia có trách nhiệm quản lý các lãnh thổ Ủy trị và các lãnh thổ
quản thác, phải thúc đẩy việc thực hiện quyền tự quyết và phải tôn trọng
quyền đó phù hợp với các quy định của Hiến chương LHQ. Quyền này sau đó
tiếp tục được tái khẳng định trong Tuyên bố Viên và Chương trình hành động
năm 1993 (được thông qua tại Hội nghị thế giới về quyền con người lần thứ
hai ngày 25/6/1993).
Đến năm 1973, Đại hội đồng LHQ đã tiếp tục thông qua Nghị quyết về
các nguyên tắc hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực truy tìm, bắt giữ, dẫn độ và
trừng phạt các cá nhân phạm tội ác chiến tranh và tội ác chống nhân loại. Như
vậy, có thể khẳng định rằng, đây là các nguyên tắc có tính đặc trưng thể hiện
33
nghĩa vụ hợp tác quốc tế của các quốc gia là thành viên của LHQ trong các
lĩnh vực đã nêu, qua đó bảo vệ an ninh quốc gia, an toàn xã hội và bảo đảm
xử lý nghiêm minh, kịp thời các cá nhân có hành vi phạm các tội ác xâm
phạm đến quyền con người, đến các giá trị văn minh của nhân loại.
Các nguyên tắc của luật hình sự quốc tế được thừa nhận chung còn
được ghi nhận tại một số điều khoản của Quy chế Rome năm 1998 về Tòa án
hình sự quốc tế. Ví dụ như: i) nguyên tắc pháp chế (các điều 22 và 23); ii)
nguyên tắc nhân đạo (các điều 22 và 24); iii) nguyên tắc trách nhiệm hình sự
cá nhân (điều 25); iv) nguyên tắc loại trừ quyền tài phán đối với người dưới
18 tuổi (điều 26); v) nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật (điều 27); vi)
nguyên tắc trách nhiệm của người chỉ huy và cấp trên (điều 28); vii) nguyên
tắc không áp dụng thời hiệu (điều 29); viii) nguyên tắc trách nhiệm trên cơ sở
có lỗi (điều 30) và; ix) nguyên tắc không xét xử hai lần (điều 20).
Bên cạnh đó, luật hình sự quốc tế còn ghi nhận nhiều điều ước quốc tế
về hình sự để các quốc gia tham gia ký kết và thực hiện. Các điều ước quốc tế
này có ý nghĩa bảo đảm con người trên toàn thế giới có môi trường sống an
bình, thịnh vượng, đồng thời lại có vai trò quan trọng để bảo vệ vững chắc và
ổn định an ninh quốc gia (an ninh quốc gia là sự ổn định, tồn tại và bền vững
của chế độ Hiến pháp, của hệ thống chính trị, cũng như sự bất khả xâm phạm
về độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Nhà nước, đồng
thời là khách thể được bảo vệ bằng pháp luật hình sự quốc gia và quốc tế), an
ninh quốc tế (an ninh quốc tế là sự ổn định và tồn tại, hợp tác và phát triển
bền vững của các quốc gia thành viên Liên hợp quốc và của cộng đồng quốc
tế, cũng như sự bất khả xâm phạm của trật tự pháp luật quốc tế trước các cuộc
chiến tranh xâm lược hoặc xung đột vũ trang, đồng thời là khách thể được bảo
vệ bằng pháp luật hình sự quốc gia và quốc tế) và quyền con người. Đặc biệt,
kể từ sau Thế chiến hai, khi cộng đồng quốc tế đã tạm thoát khỏi cảnh bị hủy
34
diệt bởi vũ khí hạt nhân và các vũ khí quân sự, vũ khí giết người hàng loạt,
mặc dù nguy cơ chiến tranh vẫn rình rập đâu đó đối với nhân loại, với các
quốc gia trên thế giới, song con người vẫn sinh tồn vì môi trường xung quanh
ta vẫn đang còn sự sống, chính là nhờ vai trò của các điều ước quốc tế về an
ninh quốc tế, về đấu tranh phòng, chống các tội phạm quốc tế mà các chủ thể
luật quốc tế nói chung và các cường quốc hạt nhân nói riêng đã ký kết, tham
gia hoặc gia nhập cùng cam kết thực hiện [6, tr. 226-227]. Ví dụ như: Hiệp
ước Luân Đôn năm 1945 và Quy chế Tòa án Quân sự Nurumbe; Công ước về
ngăn ngừa và trừng trị tội diệt chủng năm 1948; Công ước về không áp dụng
thời hiệu đối với các tội phạm chiến tranh và các tội phạm chống nhân loại
năm 1968; Công ước về ngăn chặn và trừng trị tội Apácthai năm 1973; Các
điều ước quốc tế chống khủng bố hàng không (Công ước Tokyo năm 1963;
Công ước Lahaye năm 1970); các điều ước chống khủng bố hàng hải (Công
ước năm 1958 và năm 1982 về các điều khoản chống tội phạm cướp biển;
Nghị định thư Roma năm 1998); Công ước năm 1979 về ngăn chặn và trừng
phạt các tội phạm bắt cóc con tin; Công ước năm 1999 về trừng trị hoạt động
tài trợ cho khủng bố; v.v...; Các điều ước quốc tế về chống tội phạm ma túy
(Công ước năm 1961 về các chất ma túy; Công ước năm 1971 về các chất
hướng thần; Công ước năm 1998 của LHQ về chống buôn bán bất hợp pháp
các chất ma túy và hướng thần); Công ước Giơnevơ năm 1929 về chống tội
phạm làm tiền giả; Công ước Palecmo về chống tội phạm có tổ chức xuyên
quốc gia; các công ước về dẫn độ và tương trợ tư pháp về hình sự (Công ước
năm 1957 của Châu Âu về dẫn độ tội phạm và Nghị định thư bổ sung năm
1957); Công ước về trấn áp việc buôn bán người và bóc lột mại dâm người
khác năm 1949; Nghị định thư về việc ngăn ngừa, phòng chống và trừng trị
việc buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em, bổ sung Công ước về
chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia năm 2000.
35
Trong số các công ước, điều ước, hiệp ước hoặc hiệp định song
phương, đa phương khu vực và đa phương phổ cập, đặc biệt là các công ước
mang tính tổng thể có liên quan đến lĩnh vực tư pháp hình sự quốc tế do LHQ
thông qua, có ý nghĩa rất quan trọng trong việc bảo vệ an ninh quốc gia, an
ninh quốc tế và các quyền con người, trong đó có một số Công ước quan trọng
mà Việt Nam đã tham gia [21, tr.149, 218, 223]. Ở mức độ thấp hơn, đó là các
văn bản của các cơ quan tư pháp hình sự quốc tế bao gồm các quy chế, các
hiến chương và án lệ, như: các quy định tại Hiến chương của Tòa án quân sự
quốc tế Nurembe năm 1945 và sự thể hiện chúng trong Bản án có tính chất
lịch sử toàn thế giới của Tòa án này đã có ảnh hưởng quan trọng đến việc
phân loại những tội phạm quốc tế, cũng như hình thành một số các nguyên tắc
của Luật hình sự quốc tế hay Tuyên ngôn về việc bảo vệ tất cả những người
bị tra tấn và các hình thức đối xử và hình phạt khác dã man, vô nhân đạo hoặc
hạ thấp nhân phẩm năm 1975.
Tuy nhiên, một văn bản có giá trị quốc tế quan trọng trong lĩnh vực tư
pháp hình sự để bảo vệ các quyền con người đó là Quy chế Tòa án hình sự
quốc tế được thông qua ngày 17/7/1998 tại Rome (Italia) với việc thành lập
Tòa án hình sự quốc tế (International Criminal Court, ICC) có thẩm quyền xét
xử các tội phạm diệt chủng, tội phạm chống loài người, tội phạm chiến tranh
và tội phạm xâm lược, đồng thời với mục tiêu là bắt các cá nhân phải chịu
trách nhiệm cho các tội ác đã được liệt kê trong danh sách những tội phạm
nghiêm trọng và mức độ lớn cho những giá trị chung của con người.
Quy chế tòa án ICC được thông qua năm 1998 tại Hội nghị ngoại giao của
LHQ của các đại diện ngoại giao có thẩm quyền của hơn 160 quốc gia [9]. Quy
chế có hiệu lực ngày 01/7/2002, Đại hội đồng của các quốc gia thành viên đã
bầu 18 thẩm phán, nhiệm kỳ của họ bắt đầu từ ngày 11/3/2003.
36
IСС bổ sung cho cơ quan tư pháp hình sự quốc gia, thẩm quyền của nó
bị hạn chế bới các tội phạm nguy hiểm nghiêm trọng nhất mà cần kêu gọi sự
quan tâm của cả cộng đồng quốc tế. Theo điều 5 Quy chế ICC thì các tội
phạm thuộc quyền tài phán của Tòa án ICC bao gồm: tội diệt chủng; tội
chống nhân loại; tội phạm chiến tranh; tội xâm lược.
Thể nhân thực hiện phạm tội thuộc thẩm quyền của tòa, chịu trách
nhiệm cá nhân và chịu trừng phạt, nếu thể nhân đó: thực hiện phạm tội độc
lập, cùng với những thể nhân khác hoặc thông qua thể nhân khác; chỉ đạo,
tiếp tay hoặc kích động thực hiện các tội phạm này, nếu tội phạm này đã được
thực hiện hoặc nếu có điểm cố ý để phạm tội này; với mục đích tạo điều kiện
thực hiện tội phạm này, viện trợ và tiếp tay hoặc thực hiện hành vi tương tự
nhằm khuyến khích hoặc tạo điều kiện thực hiện phạm tội, bao gồm cả việc
cung cấp phương tiện phạm tội; bất kỳ hành vi nào nhằm tạo điều kiện cho
việc phạm tội của một nhóm người thực hiện với một mục đích chung. Hành
vi hỗ trợ hoặc khuyến khích này cần được thể hiện có chủ ý hoặc với mục
đích ủng hộ hoạt động tội phạm.
Tòa án ICC tham gia bảo vệ quyền con người thông qua quy trình tố
tụng của mình, tuy nhiên Tòa ICC không có quyền tài phán đối với bất kỳ một
con người nào khi mà người đó dưới 18 tuổi tại thời điểm thực hiện phạm tội.
Quy chế được áp dụng với biện pháp như nhau đối với tất cả mọi người,
không có sự khác biệt trên cơ sở địa vị chức trách. Đặc biệt, địa vị của các
người đứng đầu nhà nước hoặc chính phủ, các thành viên chính phủ hoặc nghị
viện, dân biểu hoặc là quan chức của chính phủ, không là các lý do để mà
được miễn trách nhiệm hình sự và cũng không lấy đó làm nguyên do (cơ sở)
cho việc giảm hình phạt. Trong đó, không được áp dụng sự thừa nhận miễn
trừ hoặc là các quy phạm tố tụng đặc biệt mà có thể gắn với (liên quan) chức
trách của quan chức dù theo pháp luật quốc gia hay pháp luật quốc tế.
37
Điều 28 quy chế quy định về trách nhiệm của người chỉ huy và cấp trên.
Đối với các tội phạm thuộc quyền tài phán của tòa không được quy định về
thời hiệu. Một người không phải chịu trách nhiệm hình sự, nếu tại thời điểm
thực hiện hành vi người đó bị bệnh tâm thần hoặc có khiếm khuyết về tâm
thần; người đó đang trong tình trạng say làm mất khả năng nhận thức tính trái
pháp luật hoặc tính chất hành vi của mình hoặc khả năng kiểm soát hành vi đó
cho phù hợp với các quy định của pháp luật; người đó hành động một cách hợp
lý để tự vệ hoặc bảo vệ người khác hoặc trong trường hợp tội phạm chiến tranh
bảo vệ những tài sản thiết yếu cho sự tồn tại của người đó hay người khác hoặc
những tài sản thiết yếu cho việc hoàn thành nhiệm vụ quân sự, chống lại việc
sử dụng vũ lực bất hợp pháp và sắp xẩy ra một cách tương xứng với mức độ đe
dọa đối với người đó, người khác hoặc tài sản được bảo vệ.
Tòa bao gồm các cơ quan: ban chánh án; bộ phận phúc thẩm; bộ phận
sơ thẩm và bộ phận dự thẩm; văn phòng công tố; và ban thư ký (lục sự).
Thủ tục làm việc của Tòa và các bộ phận của Tòa được định chế cụ thể
trong Quy chế và trong các văn bản tố tụng quốc tế (như Quy tắc về thủ tục và
chứng cứ, các yếu tố cấu thành tội phạm năm 2000). Khi có mâu thuẫn giữa
Quy chế và Quy tắc thì ưu tiên áp dụng theo Quy chế.
2.3. Tòa án hình sự quốc tế và vấn đề quyền con người
Ngày 17/7/1998, theo Nghị quyết của LHQ, Tòa án hình sự quốc tế
(ICC) thường trực đã chính thức được thành lập theo Quy chế Rome (1998).
Đây là một minh chứng của công lý, lẽ phải và lương tri nhân loại về bảo vệ
quyền con người [23, tr.27] trên phạm vi toàn thế giới.
ICC là Tòa án thường trực dựa trên cơ sở hiệp ước nhằm giải quyết
trách nhiệm hình sự của các cá nhân đối với các tội phạm quốc tế nghiêm
trọng nhất liên quan đến toàn thể cộng đồng quốc tế với mục đích là nhằm
38
buộc các cá nhân phải chịu trách nhiệm hình sự đã được liệt kê trong danh
sách những vi phạm nghiêm trọng và có mức độ lớn đến những giá trị chung
của xã hội, của nhân loại và của con người.
ICC có thẩm quyền xét xử các tội phạm diệt chủng, tội phạm chống
loài người, tội phạm chiến tranh và tội phạm xâm lược, đây chính là các tội ác
nghiêm trọng nhất trong xã hội chống lại loài người. ICC là một trong những
thành tựu quan trọng nhất của loài người trong nỗ lực tìm kiếm công lý cho
những nạn nhân của các tội ác nghiêm trọng nhất diễn ra tại bất kỳ đâu trên
thế giới [17]. Tuy vậy, ICC không phải là cơ quan siêu quốc gia, nó chỉ là sự
mở rộng thẩm quyền pháp lý hình sự quốc gia, đồng thời không hề xâm phạm
đến chủ quyền quốc gia, song ICC đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ
quyền con người theo pháp luật nhân đạo quốc tế, chống lại tình trạng vô
pháp luật và chủ nghĩa khủng bố vì một nề pháp quyền trên thế giới, vì chính
sách hòa bình, công lý, bình đẳng, tự do và hữu nghị hợp tác phát triển giữa
các quốc gia trên thế giới. ICC chỉ hành động khi quốc gia liên quan không
thể hay không muốn thực hiện thẩm quyền của mình, ICC đóng góp cho công
lý và vì một nền hòa bình, an ninh thế giới.
ICC có mối liên hệ đặc biệt với LHQ. Đó là mối quan hệ dựa trên cơ sở
một thỏa thuận được Hội đồng quốc gia thành viên Quy chế Rome (1998)
thông qua và do Chánh tòa đại diện cho Tòa án ký. Trên cơ sở này, ICC và
LHQ tôn trọng và thừa nhận lẫn nhau về thẩm quyền lẫn tư cách của nhau. Mặc
dù do LHQ thành lập ra nhưng ICC vẫn hoạt động độc lập với LHQ, lấy việc
tuân thủ pháp luật, bảo vệ công lý và lẽ phải là hàng đầu. Ngoài ra, ICC và
LHQ còn có các hoạt động hợp tác về nhiều vấn đề khác nhau, đặc biệt là trong
lĩnh vực tư pháp như: cung cấp các thông tin, tài liệu, việc làm chứng trước tòa,
các trường hợp các quốc gia bất hợp tác.... Vai trò của Hội đồng Bảo an LHQ
đối với ICC trong việc thực hiện quyền tài phán, là cơ sở để ICC thực hiện
Đề tài: Quyền con người trong luật hình sự theo luật quốc tế, HAY
Đề tài: Quyền con người trong luật hình sự theo luật quốc tế, HAY
Đề tài: Quyền con người trong luật hình sự theo luật quốc tế, HAY
Đề tài: Quyền con người trong luật hình sự theo luật quốc tế, HAY
Đề tài: Quyền con người trong luật hình sự theo luật quốc tế, HAY
Đề tài: Quyền con người trong luật hình sự theo luật quốc tế, HAY
Đề tài: Quyền con người trong luật hình sự theo luật quốc tế, HAY
Đề tài: Quyền con người trong luật hình sự theo luật quốc tế, HAY
Đề tài: Quyền con người trong luật hình sự theo luật quốc tế, HAY
Đề tài: Quyền con người trong luật hình sự theo luật quốc tế, HAY
Đề tài: Quyền con người trong luật hình sự theo luật quốc tế, HAY
Đề tài: Quyền con người trong luật hình sự theo luật quốc tế, HAY
Đề tài: Quyền con người trong luật hình sự theo luật quốc tế, HAY
Đề tài: Quyền con người trong luật hình sự theo luật quốc tế, HAY
Đề tài: Quyền con người trong luật hình sự theo luật quốc tế, HAY
Đề tài: Quyền con người trong luật hình sự theo luật quốc tế, HAY
Đề tài: Quyền con người trong luật hình sự theo luật quốc tế, HAY
Đề tài: Quyền con người trong luật hình sự theo luật quốc tế, HAY
Đề tài: Quyền con người trong luật hình sự theo luật quốc tế, HAY
Đề tài: Quyền con người trong luật hình sự theo luật quốc tế, HAY
Đề tài: Quyền con người trong luật hình sự theo luật quốc tế, HAY
Đề tài: Quyền con người trong luật hình sự theo luật quốc tế, HAY
Đề tài: Quyền con người trong luật hình sự theo luật quốc tế, HAY
Đề tài: Quyền con người trong luật hình sự theo luật quốc tế, HAY
Đề tài: Quyền con người trong luật hình sự theo luật quốc tế, HAY
Đề tài: Quyền con người trong luật hình sự theo luật quốc tế, HAY
Đề tài: Quyền con người trong luật hình sự theo luật quốc tế, HAY
Đề tài: Quyền con người trong luật hình sự theo luật quốc tế, HAY
Đề tài: Quyền con người trong luật hình sự theo luật quốc tế, HAY
Đề tài: Quyền con người trong luật hình sự theo luật quốc tế, HAY
Đề tài: Quyền con người trong luật hình sự theo luật quốc tế, HAY
Đề tài: Quyền con người trong luật hình sự theo luật quốc tế, HAY
Đề tài: Quyền con người trong luật hình sự theo luật quốc tế, HAY
Đề tài: Quyền con người trong luật hình sự theo luật quốc tế, HAY
Đề tài: Quyền con người trong luật hình sự theo luật quốc tế, HAY
Đề tài: Quyền con người trong luật hình sự theo luật quốc tế, HAY
Đề tài: Quyền con người trong luật hình sự theo luật quốc tế, HAY
Đề tài: Quyền con người trong luật hình sự theo luật quốc tế, HAY
Đề tài: Quyền con người trong luật hình sự theo luật quốc tế, HAY
Đề tài: Quyền con người trong luật hình sự theo luật quốc tế, HAY
Đề tài: Quyền con người trong luật hình sự theo luật quốc tế, HAY
Đề tài: Quyền con người trong luật hình sự theo luật quốc tế, HAY
Đề tài: Quyền con người trong luật hình sự theo luật quốc tế, HAY
Đề tài: Quyền con người trong luật hình sự theo luật quốc tế, HAY
Đề tài: Quyền con người trong luật hình sự theo luật quốc tế, HAY
Đề tài: Quyền con người trong luật hình sự theo luật quốc tế, HAY
Đề tài: Quyền con người trong luật hình sự theo luật quốc tế, HAY
Đề tài: Quyền con người trong luật hình sự theo luật quốc tế, HAY
Đề tài: Quyền con người trong luật hình sự theo luật quốc tế, HAY
Đề tài: Quyền con người trong luật hình sự theo luật quốc tế, HAY
Đề tài: Quyền con người trong luật hình sự theo luật quốc tế, HAY
Đề tài: Quyền con người trong luật hình sự theo luật quốc tế, HAY
Đề tài: Quyền con người trong luật hình sự theo luật quốc tế, HAY
Đề tài: Quyền con người trong luật hình sự theo luật quốc tế, HAY

More Related Content

What's hot

LUẬN ÁN TIẾN SĨ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ THÔNG TIN CÁ NHÂN Ở VIỆT NAM H...
LUẬN ÁN TIẾN SĨ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ THÔNG TIN CÁ NHÂN Ở VIỆT NAM H...LUẬN ÁN TIẾN SĨ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ THÔNG TIN CÁ NHÂN Ở VIỆT NAM H...
LUẬN ÁN TIẾN SĨ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ THÔNG TIN CÁ NHÂN Ở VIỆT NAM H...PinkHandmade
 
Giáo trình công pháp quốc tế, Q.1.pdf
Giáo trình công pháp quốc tế, Q.1.pdfGiáo trình công pháp quốc tế, Q.1.pdf
Giáo trình công pháp quốc tế, Q.1.pdfMan_Ebook
 

What's hot (20)

Luận văn: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về Quyền an tử, HOT
Luận văn: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về Quyền an tử, HOTLuận văn: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về Quyền an tử, HOT
Luận văn: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về Quyền an tử, HOT
 
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân, HOT
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân, HOTLuận văn: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân, HOT
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân, HOT
 
Luận văn: Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa
Luận văn: Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóaLuận văn: Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa
Luận văn: Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa
 
Đề tài: Hoàn thiện chế định hòa giải trong luật tố tụng dân sự, HOT
Đề tài: Hoàn thiện chế định hòa giải trong luật tố tụng dân sự, HOTĐề tài: Hoàn thiện chế định hòa giải trong luật tố tụng dân sự, HOT
Đề tài: Hoàn thiện chế định hòa giải trong luật tố tụng dân sự, HOT
 
Luận văn: Trách nhiệm của thương nhân đối với người tiêu dùng
Luận văn: Trách nhiệm của thương nhân đối với người tiêu dùngLuận văn: Trách nhiệm của thương nhân đối với người tiêu dùng
Luận văn: Trách nhiệm của thương nhân đối với người tiêu dùng
 
Luận văn: Giải quyết tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ trên biển
Luận văn: Giải quyết tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ trên biểnLuận văn: Giải quyết tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ trên biển
Luận văn: Giải quyết tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ trên biển
 
Luận văn: Các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự, HAYLuận văn: Các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự, HAY
 
Luận văn: Hình thức giao dịch dân sự theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hình thức giao dịch dân sự theo pháp luật Việt NamLuận văn: Hình thức giao dịch dân sự theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hình thức giao dịch dân sự theo pháp luật Việt Nam
 
Tiểu Luận Môn Luật Hiến Pháp Việt Nam Hiến Pháp Đạo Luật Bảo Vệ Các Quyền Cơ ...
Tiểu Luận Môn Luật Hiến Pháp Việt Nam Hiến Pháp Đạo Luật Bảo Vệ Các Quyền Cơ ...Tiểu Luận Môn Luật Hiến Pháp Việt Nam Hiến Pháp Đạo Luật Bảo Vệ Các Quyền Cơ ...
Tiểu Luận Môn Luật Hiến Pháp Việt Nam Hiến Pháp Đạo Luật Bảo Vệ Các Quyền Cơ ...
 
Luận văn: Quyền của người đồng tính theo pháp luật hiện nay, 9đ
Luận văn: Quyền của người đồng tính theo pháp luật hiện nay, 9đLuận văn: Quyền của người đồng tính theo pháp luật hiện nay, 9đ
Luận văn: Quyền của người đồng tính theo pháp luật hiện nay, 9đ
 
Giải quyết tranh chấp quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, HOT
Giải quyết tranh chấp quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, HOTGiải quyết tranh chấp quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, HOT
Giải quyết tranh chấp quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, HOT
 
Luận văn: Hợp đồng thuê nhà ở theo Luật Kinh doanh bất động sản
Luận văn: Hợp đồng thuê nhà ở theo Luật Kinh doanh bất động sảnLuận văn: Hợp đồng thuê nhà ở theo Luật Kinh doanh bất động sản
Luận văn: Hợp đồng thuê nhà ở theo Luật Kinh doanh bất động sản
 
LUẬN ÁN TIẾN SĨ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ THÔNG TIN CÁ NHÂN Ở VIỆT NAM H...
LUẬN ÁN TIẾN SĨ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ THÔNG TIN CÁ NHÂN Ở VIỆT NAM H...LUẬN ÁN TIẾN SĨ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ THÔNG TIN CÁ NHÂN Ở VIỆT NAM H...
LUẬN ÁN TIẾN SĨ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ THÔNG TIN CÁ NHÂN Ở VIỆT NAM H...
 
Giáo trình công pháp quốc tế, Q.1.pdf
Giáo trình công pháp quốc tế, Q.1.pdfGiáo trình công pháp quốc tế, Q.1.pdf
Giáo trình công pháp quốc tế, Q.1.pdf
 
Luận văn: Thừa kế theo pháp luật - vấn đề lý luận và thực tiễn
Luận văn: Thừa kế theo pháp luật - vấn đề lý luận và thực tiễnLuận văn: Thừa kế theo pháp luật - vấn đề lý luận và thực tiễn
Luận văn: Thừa kế theo pháp luật - vấn đề lý luận và thực tiễn
 
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sựLuận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự
 
Luận văn: Mặt khách quan của tội phạm trong Luật hình sự, HOT
Luận văn: Mặt khách quan của tội phạm trong Luật hình sự, HOTLuận văn: Mặt khách quan của tội phạm trong Luật hình sự, HOT
Luận văn: Mặt khách quan của tội phạm trong Luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Hợp đồng lao động vô hiệu theo pháp luật lao động, 9đ
Luận văn: Hợp đồng lao động vô hiệu theo pháp luật lao động, 9đLuận văn: Hợp đồng lao động vô hiệu theo pháp luật lao động, 9đ
Luận văn: Hợp đồng lao động vô hiệu theo pháp luật lao động, 9đ
 
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOTLuận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
Luận văn: Quyền kinh tế, văn hóa, xã hội qua bản Hiến pháp, HOT
 
Luận văn: Giải quyết vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài, HAY
Luận văn: Giải quyết vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài, HAYLuận văn: Giải quyết vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài, HAY
Luận văn: Giải quyết vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài, HAY
 

Similar to Đề tài: Quyền con người trong luật hình sự theo luật quốc tế, HAY

Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hì...
Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hì...Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hì...
Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hì...jackjohn45
 
Khóa luận Quyền an tử và vấn đề hợp pháp hóa na tử ở Việt Nam
Khóa luận Quyền an tử và vấn đề hợp pháp hóa na tử ở Việt NamKhóa luận Quyền an tử và vấn đề hợp pháp hóa na tử ở Việt Nam
Khóa luận Quyền an tử và vấn đề hợp pháp hóa na tử ở Việt NamDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Vai trò của luật sư trong bảo vệ quyền con người ở giai đoạn khởi tố điều tra...
Vai trò của luật sư trong bảo vệ quyền con người ở giai đoạn khởi tố điều tra...Vai trò của luật sư trong bảo vệ quyền con người ở giai đoạn khởi tố điều tra...
Vai trò của luật sư trong bảo vệ quyền con người ở giai đoạn khởi tố điều tra...nataliej4
 
Luận án: Bảo đảm quyền con người của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hì...
Luận án: Bảo đảm quyền con người của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hì...Luận án: Bảo đảm quyền con người của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hì...
Luận án: Bảo đảm quyền con người của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hì...Viết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 

Similar to Đề tài: Quyền con người trong luật hình sự theo luật quốc tế, HAY (20)

Luận văn: Vấn đề quyền con người và can thiệp nhân đạo, HAY
Luận văn: Vấn đề quyền con người và can thiệp nhân đạo, HAYLuận văn: Vấn đề quyền con người và can thiệp nhân đạo, HAY
Luận văn: Vấn đề quyền con người và can thiệp nhân đạo, HAY
 
Quyền con người của người bị buộc tội theo luật Tố tụng Hình sự
Quyền con người của người bị buộc tội theo luật Tố tụng Hình sựQuyền con người của người bị buộc tội theo luật Tố tụng Hình sự
Quyền con người của người bị buộc tội theo luật Tố tụng Hình sự
 
Bảo Vệ Quyền Con Người Trong Việc Áp Dụng Biện Pháp Tạm Giữ, Tạm Giam.
Bảo Vệ Quyền Con Người Trong Việc Áp Dụng Biện Pháp Tạm Giữ, Tạm Giam.Bảo Vệ Quyền Con Người Trong Việc Áp Dụng Biện Pháp Tạm Giữ, Tạm Giam.
Bảo Vệ Quyền Con Người Trong Việc Áp Dụng Biện Pháp Tạm Giữ, Tạm Giam.
 
Bảo vệ quyền con người trong biện pháp tạm giữ, tạm giam, HAY
Bảo vệ quyền con người trong biện pháp tạm giữ, tạm giam, HAYBảo vệ quyền con người trong biện pháp tạm giữ, tạm giam, HAY
Bảo vệ quyền con người trong biện pháp tạm giữ, tạm giam, HAY
 
Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hì...
Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hì...Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hì...
Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hì...
 
Luan an bao dam quyen con nguoi cua bi can bi cao trong to tung
Luan an bao dam quyen con nguoi cua bi can bi cao trong to tungLuan an bao dam quyen con nguoi cua bi can bi cao trong to tung
Luan an bao dam quyen con nguoi cua bi can bi cao trong to tung
 
Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáoBảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
 
Đề tài: Bảo vệ quyền con người bằng các quy phạm về tội phạm, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền con người bằng các quy phạm về tội phạm, HAYĐề tài: Bảo vệ quyền con người bằng các quy phạm về tội phạm, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền con người bằng các quy phạm về tội phạm, HAY
 
Quyền của người bị tạm giữ, tạm giam và chấp hành hình phạt tù
Quyền của người bị tạm giữ, tạm giam và chấp hành hình phạt tùQuyền của người bị tạm giữ, tạm giam và chấp hành hình phạt tù
Quyền của người bị tạm giữ, tạm giam và chấp hành hình phạt tù
 
Khóa luận Quyền an tử và vấn đề hợp pháp hóa na tử ở Việt Nam
Khóa luận Quyền an tử và vấn đề hợp pháp hóa na tử ở Việt NamKhóa luận Quyền an tử và vấn đề hợp pháp hóa na tử ở Việt Nam
Khóa luận Quyền an tử và vấn đề hợp pháp hóa na tử ở Việt Nam
 
Luận văn: Bảo vệ quyền con người bằng chế định hình phạt, HOT
Luận văn: Bảo vệ quyền con người bằng chế định hình phạt, HOTLuận văn: Bảo vệ quyền con người bằng chế định hình phạt, HOT
Luận văn: Bảo vệ quyền con người bằng chế định hình phạt, HOT
 
Bảo vệ quyền con người bằng các chế định về chấp hành hình phạt
Bảo vệ quyền con người bằng các chế định về chấp hành hình phạtBảo vệ quyền con người bằng các chế định về chấp hành hình phạt
Bảo vệ quyền con người bằng các chế định về chấp hành hình phạt
 
Đấu tranh phòng chống tội phạm vệ quyền, lợi ích của công dân
Đấu tranh phòng chống tội phạm vệ quyền, lợi ích của công dânĐấu tranh phòng chống tội phạm vệ quyền, lợi ích của công dân
Đấu tranh phòng chống tội phạm vệ quyền, lợi ích của công dân
 
Vai trò của luật sư trong bảo vệ quyền con người ở giai đoạn khởi tố điều tra...
Vai trò của luật sư trong bảo vệ quyền con người ở giai đoạn khởi tố điều tra...Vai trò của luật sư trong bảo vệ quyền con người ở giai đoạn khởi tố điều tra...
Vai trò của luật sư trong bảo vệ quyền con người ở giai đoạn khởi tố điều tra...
 
Đề tài: Quyền con người và chủ quyền quốc gia theo pháp luật
Đề tài: Quyền con người và chủ quyền quốc gia theo pháp luậtĐề tài: Quyền con người và chủ quyền quốc gia theo pháp luật
Đề tài: Quyền con người và chủ quyền quốc gia theo pháp luật
 
Luận án: Bảo đảm quyền con người của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hì...
Luận án: Bảo đảm quyền con người của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hì...Luận án: Bảo đảm quyền con người của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hì...
Luận án: Bảo đảm quyền con người của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hì...
 
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...
 
Đề tài: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự, HAY
Đề tài: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự, HAYĐề tài: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự, HAY
Đề tài: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự, HAY
 
Luận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự
Luận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sựLuận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự
Luận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự
 
Đề tài: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, HOTĐề tài: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, HOT
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864

Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docDịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864 (20)

Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.docYếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
 
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.docTừ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
 
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
 
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.docTác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
 
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.docSong Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
 
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.docỨng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
 
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.docVai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
 
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.docThu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
 

Recently uploaded

Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptxBài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptxDungxPeach
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoiC6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoidnghia2002
 
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhkinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhdtlnnm
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình PhươngGiáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phươnghazzthuan
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfXem Số Mệnh
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngYhoccongdong.com
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...hoangtuansinh1
 
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiTrắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiNgocNguyen591215
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.pptAccess: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.pptPhamThiThuThuy1
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhdangdinhkien2k4
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfNguyen Thanh Tu Collection
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docxTHAO316680
 
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng TạoĐề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạowindcances
 

Recently uploaded (20)

Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptxBài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoiC6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
 
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhkinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình PhươngGiáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
 
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiTrắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
 
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.pptAccess: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
 
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng TạoĐề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
 

Đề tài: Quyền con người trong luật hình sự theo luật quốc tế, HAY

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ NAM B¶O VÖ QUYÒN CON NG¦êI TRONG LUËT H×NH Sù THEO PH¸P LUËT N¦íC NGOµI Vµ LUËT QUèC TÕ LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ NAM B¶O VÖ QUYÒN CON NG¦êI TRONG LUËT H×NH Sù THEO PH¸P LUËT N¦íC NGOµI Vµ LUËT QUèC TÕ Chuyên ngành: Luật Quốc tế Mã số: 60 38 01 08 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS.GVC. LÊ VĂN BÍNH HÀ NỘI - 2015
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Trong quá trình nghiên cứu, học viên đã tham khảo nhiều công trình nghiên cứu khác, có kế thừa, phân tích, bình luận và phát triển. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Học viên đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN LÊ NAM
  • 4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN CON NGƯỜI VÀLUẬT HÌNHSỰQUỐCTẾ VỀBẢO VỆQUYỀN CONNGƯỜI........................7 1.1. Khái niệm quyền con người và bảo vệ quyền con người................ 7 1.2. Vấn đề quyền con người và quyền công dân .................................11 1.3. Khái niệm luật hình sự quốc tế và luật hình sự quốc gia về bảo vệ các quyền con người .....................................................................15 Chương 2: BẢO VỆ CÁC QUYỀN CON NGƯỜI BẰNG PHÁP LUẬT NƯỚC NGOÀI VÀ LUẬT HÌNH SỰ QUỐC TẾ ............23 2.1. Pháp luật hình sự một số nước về bảo vệ quyền con người ........23 2.1.1. Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự Trung Quốc..............23 2.1.2. Bảo vệ quyền con người theo pháp luật hình sự Nga........................25 2.1.3. Bảo vệ quyền con người theo pháp luật hình sự Nhật Bản ..............27 2.1.4. Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự Liên bang Đức...........29 2.2. Luật hình sự quốc tế và quyền con người .....................................31 2.3. Tòa án hình sự quốc tế và vấn đề quyền con người......................37 2.4. Bảo vệ quyền con người thông qua tương trợ tư pháp theo luật hình sự quốc tế..........................................................................40 2.5. Bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự quốc tế ................43
  • 5. Chương 3: BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM SO VỚI LUẬT QUỐC TẾ: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ, GIẢI PHÁP ..........................................................................49 3.1. Pháp luật Việt Nam và luật hình sự Việt Nam trong tương quan so sánh với luật quốc tế về bảo vệ quyền con người.................49 3.1.1. Nhóm các quyền dân sự và chính trị..................................................50 3.1.2. Nhóm quyền kinh tế, xã hội, văn hóa.................................................65 3.2. Một số kiến nghị, giải pháp cho Việt Nam từ việc nghiên cứu luật quốc tế và luật hình sự quốc tế về bảo vệ quyền con người.....72 3.2.1. Hoàn thiện hệ thống, chính sách pháp luật bảo vệ quyền con người........72 3.2.2. Gia nhập Tòa án hình sự quốc tế của Việt Nam ................................79 3.2.3. Giáo dục, đào tạo quyền con người ở Việt Nam................................80 3.3. Một số giải pháp khác......................................................................82 KẾT LUẬN....................................................................................................85 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................88
  • 6. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ASEAN: Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á. BLHS: Bộ luật hình sự CAND: Công an nhân dân CEDAW: Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ CTQG: Chính trị Quốc gia ĐHQGHN: Đại học Quốc gia Hà Nội ICC: Tòa án hình sự quốc tế ICCPR: Công ước quốc tế về các quyền dân sự ILO: Tổ chức Lao động Quốc tế LGBT: Cộng đồng những người đồng tính luyến ái LHQ : Liên hợp quốc NCKH: Nghiên cứu khoa học UDHR: Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền VBPL: Văn bản pháp luật VBQPPL: Văn bản quy phạm pháp luật XHCN: Xã hội chủ nghĩa
  • 7. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Nói đến việc bảo vệ quyền con người, dù dưới bất kỳ góc độ nào đều có nghĩa cùng đề cập đến việc bảo vệ nhân thân, các quyền và lợi ích hợp pháp của con người nói chung và công dân nói riêng. Tại Lời nói đầu Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền năm 1948 [14] đã khẳng định rằng: Việc thừa nhận phẩm giá vốn có, các quyền bình đẳng và không thể tách rời của mọi thành viên trong gia đình nhân loại là cơ sở cho tự do, công bằng và hòa bình trên thế giới. Điều cốt yếu là quyền con người cần phải được pháp luật bảo vệ để con người không buộc phải nổi dậy như là một biện pháp cuối cùng nhằm chống lại sự độc tài và áp bức. Các quốc gia thành viên đã cam kết, cùng với Liên hợp quốc, phấn đấu thúc đẩy sự tôn trọng và tuân thủ chung các quyền và tự do cơ bản của con người. Như vậy, việc tôn trọng và bảo vệ quyền con người là nhiệm vụ chung của tất cả các quốc gia, tất cả các dân tộc trên thế giới (hay cụ thể hơn đó là nhiệm vụ của mỗi người trong cộng đồng các dân tộc cùng sinh tồn trên Trái Đất), trước hết là trên bình diện chính trị - pháp lý, sau là thực tiễn xã hội. Đã trải gần 70 năm từ khi thông qua Tuyên ngôn Nhân quyền năm 1948, nhưng việc nghiên cứu về nhân quyền và bảo vệ quyền con người đã và luôn luôn là vấn đề nóng hổi, cần thiết và có ý nghĩa chính trị thời đại quan trọng. Trước yêu cầu của quá trình hội nhập và toàn cầu hóa hiện nay, khi mà việc bảo vệ an ninh quốc gia, an ninh quốc tế, an ninh con người và quyền con người bằng pháp luật quốc tế nói chung và đặc biệt là bằng luật hình sự và luật hình sự quốc tế nói riêng trước nguy cơ đe dọa của chiến tranh xâm lược, của xung đột vũ trang và bạo lực, sự hủy hoại và suy thoái môi trường sống, trước tội
  • 8. 2 ác diệt chủng và chống loài người, cũng như việc bảo vệ quyền con người đối với người phạm tội, là đòi hỏi có tính cấp thiết hơn bao giờ hết. Điều nói trên là các lý do mà học viên đã nghiên cứu và lựa chọn đề tài: “Bảo vệ quyền con người trong luật hình sự theo pháp luật nước ngoài và luật quốc tế” làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Vấn đề về quyền con người đã được nghiên cứu rất nhiều ở cả trong và ngoài nước. Ví dụ, Bảo vệ an ninh quốc gia an ninh quốc tế và các quyền con người bằng pháp luật hình sự trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền, Sách chuyên khảo do Lê Văn Cảm làm chủ biên, NXB Tư pháp, Hà Nội, 2007; Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người, do tập thể tác giả: Nguyễn Đăng Dung, Vũ Công Giao và Lã Khánh Tùng đồng biên soạn, Khoa Luật, ĐHQGHN, 2009; Bảo vệ tự do và an ninh cá nhân bằng pháp luật hình sự Việt Nam, đề tài NCKH (2014) và Các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân theo luật hình sự Việt Nam, do Trịnh Tiến Việt làm chủ biên, NXB CTQG, Hà Nội, 2010; Bảo vệ quyền con người trong luật hình sự, luật tố tụng hình sự Việt Nam, do Trần Quang Tiệp làm chủ biên, NXB CTQG, Hà Nội, 2004; Quyền con người. Tập hợp những bình luận/khuyến nghị chung của Ủy ban Công ước LHQ, sách tham khảo, Khoa Luật, ĐHQGHN, NXB CAND, 2010; Bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật quốc tế, Đề tài NCKH của Nguyễn Bá Diến và Hoàng Ngọc Giao, Khoa Luật, ĐHQGHN, 2006; Bảo vệ quyền con người bằng các quy định của pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền, đề tài NCKH cấp ĐHQG Hà Nội, do Lê Văn Cảm, Nguyễn Ngọc Chí và Trịnh Quốc Toản đồng chủ trì, Khoa Luật, ĐHQGHN, 2004; Quyền con người trong lĩnh vực tư pháp hình sự: Lý luận, thực trạng và hướng hoàn thiện pháp luật, đề tài NCKH
  • 9. 3 trọng điểm cấp ĐHQG Hà Nội, do Lê Văn Cảm chủ trì, Khoa Luật, ĐHQGHN, 2013; Luật tố tụng hình sự Việt Nam với việc bảo vệ quyền con người, đề tài NCKH về nhân quyền do Nguyễn Ngọc Chí chủ trì, Khoa Luật, ĐHQGHN, 2011; Quốc hội Việt Nam với việc bảo đảm quyền con người, Tưởng Duy Kiên, NXB Tư pháp, Hà Nội, 2006. Ngoài ra, còn có các bài viết đăng trên các tạp chí khoa học chuyên ngành, như: Công ước quốc tế về bảo vệ quyền con người trong hoạt động tư pháp, của Nguyễn Minh Tuấn, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số chuyên đề về hội nhập quốc tế, 2012; Tòa án hình sự quốc tế - Một thiết chế quan trọng của luật hình sự quốc tế trong việc bảo vệ quyền con người, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 5/2009 và Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện điều 119 Bộ luật hình sự sửa đổi với tội mua bán người, của Trịnh Tiến Việt, Tạp chí Kiểm sát, số 5(3)/2011; Hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về bảo vệ quyền phụ nữ trên cơ sở tiếp thu pháp luật quốc tế, của Trần thị Hồng Lê, Tạp chí Khoa học, chuyên san Luật học, số 2/2014; Vai trò và trách nhiệm của các cấp chính quyền trong việc phòng ngừa và xử lý các vi phạm quyền con người, Vũ Văn Nhiêm, Tạp chí NN và PL, 2011. Quyền con người còn được nghiên cứu ở cấp độ các luận văn và luận án, như: Đảm bảo quyền con người trong hoạt động tư pháp ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sỹ luật học của Nguyễn Huy Hoàn, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, 2004; Bảo đảm thực hiện quyền con người trong thi hành án phạt tù, Luận án tiến sỹ luật học của Nguyễn Đức Phúc, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, 2011; Quyền có người bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam, Đức và Hoa Kỳ, Luận án tiến sỹ luật học của Nguyễn Thị Mỹ Quỳnh, Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, 2012; Bảo vệ các quyền con người bằng các quy phạm về tội phạm trong pháp luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sỹ luật học của Tạ Xuân Trà, Khoa Luật, ĐHQGHN, 2014; hoặc liên quan đến nhân
  • 10. 4 quyền chúng ta có thể kể đến các loại tài liệu khác, như: Báo cáo nghiên cứu rà soát quy định của pháp luật Việt Nam về các quyền dân sự, chính trị, của Bộ Tư pháp, 2013; Báo cáo nghiên cứu so sánh nội dung Công ước chống tra tấn với các quy định trong pháp luật Việt Nam, của Viện Nghiên cứu Quyền con người, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2007. Ở nước ngoài, có nhiều công trình, bài viết nghiên cứu về quyền con người, như: Nhân quyền và đánh giá tư pháp tại Đức của Grimm Dicter và Các bảo đảm quyền cá nhân theo Hiến pháp Liên bang Mỹ của Scialia Atomin, NXB, Martinus Nijhoff publishers, Dordrecht, 1994; Abashidze A.Kh. Hệ thống khu vực về bảo vệ các quyền của con người. Trường Đại học Tổng hợp Hữu nghị các Dân tộc. M., 2010; Abashidze A.Kh., Solntcev A.M. Thể chế về bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền và tự do trong Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Tạp chí Luật quốc tế. Moscow, 2010. № 2; UN Human Rights Treaty Bodies/Eds.: Helen Keller, Universität Zürich, Geir Ulfstein. - Cambridge University Press, 2012.; New Challenges for the UN Human Rights Machinery. What Future for the UN Treaty Body System and the Human Rights Council Procedures?/Edited by: M. Cherif Bassiouni, William A. Schabas - Antwerp: Intersentia Publishers, 2011; Международная и внутригосударственная защита прав человека.: Учебник. –М.: Статут. 2011.; Quyền con người ở Trung Quốc và Việt Nam (Truyền thống, Lý luận và Thực tiễn): Tradition on and Theory and implementation of Hunman Right in China and Vietnam, NXB CTQG, Hà Nội, 2003; Wolfgang Benedek, Tìm hiểu về quyền con người, NXB Tư pháp Hà Nội, 2008. Những công trình nghiên cứu nói trên đã đề cập đến những vấn đề khác nhau về quyền con người: nghiên cứu lý luận về quyền con người; phân biệt quyền con người và quyền công dân; một số khía cạnh pháp lý, xã hội về quyền con người; nghiên cứu đa ngành và liên ngành về quyền con người;
  • 11. 5 nghiên cứu về các chế định cụ thể của pháp luật hình sự Việt Nam, luật hình sự quốc tế về quyền con người; về an ninh con người và bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật hình sự và trong quá trình tố tụng hình sự. Tuy nhiên, xã hội luôn biến đổi, con người ngày một phát triển cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, nên nghiên cứu về con người mà đặc biệt là về lĩnh vực bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự và tố tụng hình sự (trên cơ sở của luật quốc gia và luật quốc tế) luôn có tính mới, cần nghiên cứu. Do đó, việc học viên chọn đề tài “Bảo vệ quyền con người trong luật hình sự theo pháp luật nước ngoài và luật quốc tế” để nghiên cứu và làm luận văn thạc sỹ luật học là cần thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. 3. Mục đích nghiên cứu Làm rõ các vấn đề lý luận và thực tiễn của hoạt động về quyền con người trong pháp luật hình sự quốc tế; phân tích làm rõ một số điều khoản về luật hình sự quốc tế và quyền con người. Hệ thống hóa một số quy định về nhân quyền của một số nước, khu vực trên thế giới, các quy định pháp luật về tòa án hình sự quốc tế; phân tích, so sánh, đánh giá, tìm ra hạn chế của các quy định về quyền con người của một số khu vực. Đề xuất một vài phương án nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về quyền con người trong pháp luật hình sự; phương án hoàn thiện quy định pháp luật của Việt Nam về hoạt động quyền con người trong luật hình sự. 4. Tính mới và những đóng góp của đề tài Đề tài “Bảo vệ quyền con người trong vấn đề luật hình sự theo pháp luật quốc tế” được lựa chọn không chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn của hoạt động về quyền con người trong pháp luật hình sự quốc tế mà còn nêu lên được những tồn tại, thiếu sót của hệ thống pháp
  • 12. 6 luật điều chỉnh hoạt động nêu trên trên cơ sở phân tích các vấn đề thực tiễn, kết hợp so sánh, từ đó đề xuất một vài phương án nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về quyền con người trong luật hình sự quốc tế. 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động quyền con người trong lĩnh vực hình sự theo luật quốc tế. Phạm vi nghiên cứu: Pháp luật về hoạt động nhân quyền trong vấn đề luật hình sự theo pháp luật quốc tế. 6. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử cho việc nghiên cứu đề tài. Ngoài ra, là các phương pháp nghiên cứu khoa học pháp lý truyền thống như: phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp... Các phương pháp này sẽ giúp học viên trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn. 7. Kết cấu của luân văn Ngoài phần lời mở đầu; phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo , nội dung của luận văn được kết cầu gồm ba chương: Chương 1. Khái quát chung về quyền con người và luật hình sự quốc tế về bảo vệ quyền con người; Chương 2. Bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật nước ngoài và luật hình sự quốc tế; Chương 3. Bảo vệ quyền con người theo pháp luật Việt Nam so với luật quốc tế: Một số kiến nghị, giải pháp.
  • 13. 7 Chương 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN CON NGƯỜI VÀ LUẬT HÌNH SỰ QUỐC TẾ VỀ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI 1.1. Khái niệm quyền con người [34] và bảo vệ quyền con người Theo tài liệu của Liên hợp quốc, có đến gần 50 định nghĩa khác nhau về quyền con người [34, 40, p.4]. Ý thức về tôn trọng quyền con người và việc bảo vệ quyền con người là một quá trình lịch sử lâu dài, liên tục và luôn gắn liền với lịch sử phát triển của loài người, quyền con người cũng được khẳng định thông qua các hình thái kính tế-xã hội khác nhau, qua đó quyền con người đã trở thành giá trị cao quý chung của nhân loại và được cộng đồng quốc tế công nhận. Quyền con người được thể hiện thông qua các yếu tố như: bình đẳng, tự do, bác ái, nhân văn, lòng bao dung, công lý, những khách thể quan trọng này luôn được luật hình sự nói chung và luật hình sự quốc tế nói riêng bảo vệ nhằm tránh cho con người khỏi sự xâm hại của những vi phạm pháp luật ở mức độ cao nhất [34]. Tư tưởng về quyền con người và việc bảo vệ quyền này đã xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử của nhân loại [35]. Từ sau thế chiến thứ hai, các nước xã hội chủ nghĩa đã nêu các quyền dân tộc cơ bản như một bộ phận thiết yếu của các quyền tập thể, qua đó đề cập một cách toàn diện và biện chứng hơn về quyền con người [4]. Ở châu Âu lục địa, tư tưởng về quyền tự nhiên của con người ngày càng trở nên phổ biến. Các đại diện tiêu biểu cho tư tưởng này như: Lôccơ (Anh), Rútxô (Pháp), Xpinôda (Hà Lan), I. Can tơ, Pruphenđóocphơ (Đức), Jepphécxơn (Hoa Kỳ) [11, tr.15]. Mặc dù, khái niệm quyền con người đương đại chủ yếu bắt nguồn từ châu Âu, nhưng ngày nay
  • 14. 8 những khái niệm cơ bản về quyền con người, về tự do và công bằng xã hội đã có tính chất phổ quát trên toàn thế giới. Các nội dung đầu tiên về quyền con người có thể đã được ghi nhận trong các Hiệp định về quyền tự do tôn giáo; Công ước Westphalia năm 1648 và việc cấm chế độ chiếm hữu nô lệ như Tuyên ngôn về việc buôn bán nô lệ của Quốc hội Vienna vào năm 1815; việc sáng lập xã hội chống chế độ chiếm hữu nô lệ Hoa Kỳ năm 1833; Công ước về chống chế độ chiếm hữu nô lệ năm 1926 [38, tr.13] v.v... Trong các công trình nghiên cứu về quyền con người, chúng ta có thể nhấn mạnh đến hai văn bản nổi tiếng và có nhiều ý nghĩa cho đến ngày nay, đó là: Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ năm 1776 và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp năm 1789. Theo đó, Tuyên ngôn đã khẳng định rằng: những chân lý đã được công nhận như những sự thật hiển nhiên là tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng; tạo hóa đã cho họ các quyền không thể thay thế được; trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do, và quyền mưu cầu hạnh phúc [43]. Đây là những văn bản thực định xác nhận chính thức về mặt pháp lý của Nhà nước đối với quyền con người và việc bảo vệ quyền con người. Như vậy, cốt lõi của khái niệm quyền con người là khát vọng bảo vệ nhân phẩm của tất cả con người hay điều cốt yếu là các quyền con người phải được bảo vệ bằng pháp luật, gồm pháp luật quốc gia (bao gồm luật hình sự) và pháp luật quốc tế (bao gồm luật hình sự quốc tế) [21]. Các quyền con người cần được bảo vệ bằng luật quốc tế nói chung, luật hình sự và luật hình sự quốc tế nói riêng [30] đã ghi nhận cụ thể trong ba văn kiện quốc tế quan trọng về quyền con người của Liên hợp quốc, cụ thể là: Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền (UDHR) năm 1948; hai Công ước về: các quyền dân sự, chính trị (ICCPR); và về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (ICESCR) năm 1966. Tổng thể các quyền con người đã được ghi nhận và được bảo vệ bằng pháp luật quốc tế, luật hình sự và luật hình sự quốc tế, cần được các quốc gia, dân
  • 15. 9 tộc và các tổ chức, cũng như mọi người trên toàn thế giới tôn trọng, thực thi và bảo vệ. Trong số các quyền này, có các quyền được bảo vệ trực tiếp bằng luật hình sự nói chung và luật hình sự quốc tế nói riêng (trên các bình diện nội dung và trình tự, cũng như thủ tục xét xử), như: quyền sống; quyền tự do và an ninh cá nhân; quyền được bảo vệ không bị bắt làm nô lệ; quyền được bảo vệ để không bị tra tấn; quyền được bồi thường về mặt pháp lý khi bị vi phạm; quyền được bảo vệ khỏi bị bắt giữ, giam cầm hoặc lưu đầy một cách tùy tiện; quyền được xét xử bởi một Tòa án độc lập và không thiên vị; quyền được suy đoán vô tội; quyền được bảo vệ không bị áp dụng luật hồi tố; quyền về sức khỏe; quyền được đối xử nhân đạo khi bị tước tự do. Ở Việt Nam, quyền con người, các quyền và tự do cơ bản của con người lần đầu tiên đã được ghi nhận trong Tuyên ngôn độc lập năm 1945 và Hiến pháp năm 1946 (Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa). Tuyên ngôn độc lập đã nhấn mạnh rằng tất cả con người và tất cả các dân tộc trên thế giới đều có quyền bình đẳng, quyền sống, quyền sung sướng, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Do đó, quyền con người không chỉ là quyền của cá nhân mà còn là quyền của mỗi dân tộc, của các dân tộc. Hai quyền này thống nhất và làm tiền đề cho nhau vì bảo vệ quyền con người cũng chính là bảo vệ quyền của mỗi dân tộc, bảo vệ chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ. Nói một cách khác, khi quyền dân tộc, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ được bảo đảm, thì quyền con người của mỗi con người trong các quốc gia đó mới được tôn trọng, bảo vệ và có điều kiện phát triển. Bảo vệ và phát triển quyền con người là thước đo văn minh, dân chủ và thể hiện bản chất nhân đạo của một Nhà nước. Những tiến bộ trong việc thực hiện quyền con người thông qua việc thực hiện các thế hệ quyền con người trong lịch sử nhân loại cho thấy, để đạt được thành quả này làm một quá trình đấu tranh của các dân tộc bị áp bức
  • 16. 10 nhằm đòi các quyền vốn thuộc về họ, về mỗi con người, chống lại các chế độ thực dân, phong kiến và các chế độ bóc lột khác. Để hiện thực hóa quyền con người, các văn bản pháp lý quốc tế về quyền con người đã được ban hành, ví dụ như: như Hiến chương Liên hợp quốc đã khẳng định mục tiêu, quy định nghĩa vụ và trách nhiệm của Liên hợp quốc trong việc bảo vệ, thúc đẩy tôn trọng các quyền và quyền tự do cơ bản của con người trên toàn thế giới. Tuyên ngôn thế giới năm 1948 về quyền con người được xem là một trong những kết quả có tính nhân văn nhất của Liên hợp quốc, đồng thời có ý nghĩa lịch sử vì đã xây dựng được những chuẩn mực chung về quyền con người cho tất cả các quốc gia và các dân tộc. Ngày 10/12 hàng năm là “Ngày Nhân quyền thế giới”. Như vậy, quyền con người được pháp điển hóa trong các Công ước quốc tế ở các cấp độ khác nhau về nhân quyền, đầu tiên là “Bộ luật” [12] quốc tế về nhân quyền và sau đó là các Công ước quốc tế khác về nhân quyền, trong đó quan trọng nhất là hai Công ước về các quyền dân sự, chính trị và về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966 [14]. Chúng ta có thể nhận thấy rằng để bảo vệ các quyền của con người nói trên cần cần phải được thực hiện trên cơ sở hai bình diện: i) trên cơ sở luật định (quốc gia và quốc tế), tức là các quyền của con người cần được luật hóa thông qua các hệ thống pháp luật: luật quốc tế (phổ cập, khu vực và liên khu vực), luật quốc gia và các điều ước song phương; ii) việc đảm bảo thực thi pháp luật trên thức tế. Vậy, khái niệm về bảo vệ quyền con người có thể được hiểu như sau: bảo vệ quyền con người (các cá nhân) là một quá trình, là trách nhiệm của cả xã hội (quốc gia và cộng đồng quốc tế). Nó phụ thuộc vào tổng thể nhiều điều kiện khác nhau (kinh tế, chính trị, pháp luật, văn hóa…) trong đó pháp luật có vị trí, vai trò và tầm quan trọng hàng đầu và là tiên quyết nhất trong việc bảo vệ quyền con người. Về khía cạnh pháp lý, đảm bảo pháp lý bảo vệ quyền con
  • 17. 11 người là hệ thống các quy định trong hệ thống pháp luật nhằm cụ thể hóa, bảo đảm thực hiện bảo vệ quyền con người và cơ chế bảo đảm thực hiện các quy định đó trong thực tiễn đời sống. Như vậy, từ việc nghiên cứu khái quát lý luận về quyền con người và bảo vệ quyền con người đã nêu cho thấy, dưới góc độ khoa học thì quyền con người là những đặc quyền vốn có tự nhiên của con người, chỉ có con người mới có và các quyền này phải được bảo vệ bằng pháp luật quốc gia và quốc tế, trong đó có luật hình sự và luật hình sự quốc tế. Nội dung của việc bảo vệ quyền con người bằng luật hình sự và luật hình sự quốc tế, hay vai trò của luật hình sự và luật hình sự quốc tế với việc bảo vệ quyền con người sẽ được học viên nghiên cứu và thực hiện trong luận văn này. 1.2. Vấn đề quyền con người và quyền công dân [2] Quyền con người là những quyền tự nhiên của con người và không thể bị tước bỏ bởi bất cứ ai và với bất cứ chính thể nào. Các quyền không thể bị tước bỏ bao gồm: quyền được sống; quyền tự do; quyền mưu cầu hạnh phúc; và quyền được bảo vệ bình đẳng trước pháp luật. Trong xã hội quốc tế hiện đại, địa vị pháp lý của con người đã được luật quốc tế bảo vệ, điều đó đã được ghi nhận trong các văn bản luật quốc tế quan trọng, như: Tuyên ngôn nhân quyền năm 1948 (điều 6); Công ước về quyền dân sự và quyền chính trị năm 1966 (điều 2), Việt Nam gia nhập Công ước này năm 1982; Công ước về bảo vệ quyền của kiều dân và gia đình, thành viên gia đình của họ năm 1990 (điều 8); Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW) năm 1979 (đã được 182 quốc gia phê chuẩn mặc dù còn nhiều bảo lưu); Công ước LHQ về quyền trẻ em năm 1989 (có 192 quốc gia thành viên, Việt Nam đã phê chuẩn hai Nghị định thư bổ sung cho Công ước Quyền trẻ em, trong đó Việt Nam đã công nhận thẩm
  • 18. 12 quyền của Ủy ban giám sát Công ước Quyền trẻ em); Công ước về việc ngăn cấm và trừng phạt tội diệt chủng năm 1948; Công ước về chống tra tấn và trừng phạt hay đối xử tàn bạo, vô nhân đạo, hạ nhục năm 1984 (Công ước này đã được Việt Nam phê chuẩn bằng Nghị quyết 83/2014/QH13 ngày 28/11/2014 của Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 8); Công ước về việc xoá bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc năm 1965; Công ước của LHQ về quyền của người khuyết tật năm 2007 (Việt Nam đã Phê chuẩn Công ước này bằng Nghị quyết 84/2014/QH13 ngày 28/11/2014 của Quốc hội nước Cộng hoà XHCN Việt Nam khoá XIII, kỳ họp thứ 8). Khái niệm quyền con người là khái niệm về phẩm giá vốn có của tất cả các thành viên trong gia đình nhân loại đã được ghi nhận trong Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948 và các Công ước năm 1966 về chính trị và dân sự, về kinh tế, văn hóa và xã hội. Các Công ước này cũng ghi nhận ý tưởng về con người tự do trong việc hưởng quyền tự do khỏi sự sợ hãi, tự do làm điều mong muốn và được hưởng các quyền bình đẳng và không thể chuyển nhượng. Quyền con người mang tính phổ quát có nghĩa là chúng được áp dụng ở khắp nơi và không thể lấy đi hay bị tước đoạt. Thể nhân có quyền được bảo vệ quyền lợi của mình ở tòa án quốc tế khu vực, ví dụ như các đơn khiếu kiện đã trở thành đối tượng xem xét của các tổ chức quốc tế. Quyền của cá nhân được đệ trình lên toà án quốc tế đã được ghi nhận tại điều 25 của Công ước châu Âu về bảo vệ quyền con người năm 1950. Theo đó, bất kỳ cá nhân nào đều có quyền gửi đơn thỉnh cầu đến Hội đồng châu Âu về quyền con người. Đơn khiếu kiện cần phải đưa ra những dẫn chứng cụ thể, thuyết phục về việc vi phạm nhân quyền đối với người làm đơn do Nhà nước đã tham gia Công ước gây ra. Đơn được lưu trữ tại Ban thư ký của Hội đồng châu Âu và
  • 19. 13 được xem xét chỉ sau khi mọi biện pháp, phương tiện pháp lý đã được áp dụng trong nước theo khuôn khổ của luật quốc tế nhưng không có kết quả, trong thời hạn sáu tháng kể từ khi các cơ quan pháp lý trong nước có quyết định cuối cùng về vụ việc này. Thể nhân là chủ thể trách nhiệm hình sự quốc tế khi là tội phạm quốc tế, thực tiễn đã có các vụ việc xét xử quốc tế để minh chứng cho vấn đề này. Ví dụ theo Công ước về ngăn ngừa và trừng phạt tội ác diệt chủng năm 1948, những cá nhân gây nên nạn diệt chủng, đồng phạm diệt chủng, âm mưu, kích động và những ý định thực hiện việc diệt chủng sẽ bị trừng phạt mà không phụ thuộc vào việc người đó là lãnh đạo một quốc gia hay thường dân. Tội phạm diệt chủng bị xét xử bởi toà án quốc gia (Ví dụ, Nuon Chea (89 tuổi) và Khieu Samphan (84 tuổi) là những thủ lĩnh đầu tiên của chế độ Khmer Đỏ lĩnh án tù trung thân do Tòa án Campuchia ra phán quyết ngày 07/8/2014 vì "phạm tội ác chống lại loài người, diệt chủng, đàn áp chính trị cùng những hành vi vô nhân đạo khác khác") [42] nơi xảy ra hành vi diệt chủng hoặc bởi Toà án hình sự quốc tế. Toà do các quốc gia thành viên tham gia Công ước hoặc LHQ lập ra. Như vậy, quyền con người đã được định nghĩa thông qua những đặc tính cơ bản của nó. Theo Văn phòng Cao ủy LHQ thì quyền con người là những đảm bảo pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự cho phép và tự do cơ bản của con người. Điều đó có nghĩa là mọi người đều có quyền con người từ khi vừa được sinh ra, bởi họ là con người và quyền đó được công nhận trên phạm vi toàn cầu. Con người từ khi được hiện diện trên trái đất cho đến nay vẫn chưa thể thống nhất được hai quan điểm về nhân quyền: hoặc coi quyền con người
  • 20. 14 là quyền tự nhiên; hoặc coi quyền con người là quyền pháp lý. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của lịch sử xã hội loài người, cộng đồng quốc tế đã đi đến thống nhất khi thông qua Tuyên ngôn về quyền con người năm 1948, trong đó đã khẳng định quyền con người là quyền bẩm sinh vốn có, là sự bình đẳng với nhau ở tất cả mọi người, ở mọi xã hội. Quyền đó không thể bị tước đoạt hay hạn chế tùy tiện bởi bất cứ ai, bất cứ nhà nước hay bởi một thể chế nào, nó không thể bị phân chia và hạn chế bất cứ một phần hay toàn bộ các quyền của con người. Các văn bản quan trọng nhất về quyền con người của nhân loại là: Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người năm 1948 và hai công ước năm 1966 của LHQ về: các quyền chính trị, dân sự; và các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa. Đa số các quốc gia (trong đó có Việt Nam) đều đã ký kết và gia nhập và đang thực hiện hóa nội dung của các văn kiện phổ cập này trong thực tiễn [43]. Tại các quốc gia, con người trở thành các cá nhân bình đẳng với nhau trong một Nhà nước và các quyền tự nhiên được cụ thể hóa thành các quyền công dân trong pháp luật. Như vậy, quyền công dân chưa phải là hình thức cuối cùng, toàn diện nhất và đồng nhất với quyền con người. Quyền công dân của nước nào sẽ được luật pháp nước đó quy định cho người mang quốc tịch của nước đó. Tức là, quyền công dân bó hẹp trong mối quan hệ của một Nhà nước với cá nhân. Nhưng chúng ta cần biết rằng mọi cá nhân trong một quốc gia đồng thời là chủ thể của hai quyền: quyền con người và quyền công dân. Điều đó đã lý giải cho câu hỏi: tại sao quyền con người và quyền công dân từ lâu đã là một trong những nội dung cơ bản được ghi nhận trong nhiều Hiến pháp của các quốc gia trên thế giới [20], tuy nhiên cần tránh việc các quy định của văn bản dưới Hiến pháp vô tình hay cố ý thu hẹp lại các quyền của con người theo hiến định [16, tr. 60].
  • 21. 15 Theo John Locke, triết gia người Anh ở thế kỷ XVI, ba quyền cơ bản không thể bị tước đoạt của con người là quyền được sống, được tự do và quyền được sở hữu. Trước đó, trong Đại Hiến chương (hay Hiến chương) Magna Carta năm 1215, một trong những VBPL quan trọng trong lịch sử nước Anh, một trong những tài liệu pháp lý đầu tiên trên thế giới tiết chế quyền lực của nhà nước để bảo vệ các quyền của công dân, cũng quy định due process of law (luật tôn trọng tất cả các quyền hợp pháp của công dân). 1.3. Khái niệm luật hình sự quốc tế và luật hình sự quốc gia về bảo vệ các quyền con người Thuật ngữ luật hình sự quốc tế xuất hiện từ cuối thể kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Nguyên nhân dẫn đến việc xuất hiện khái niệm luật hình sự quốc tế là do nhiều nguyên nhân khác nhau. Ví dụ như, việc xuất hiện các tội phạm mà hành vi của nó xâm hại đến một số quốc gia (buôn bán nô lệ, buôn bán thuốc phiện, tiền giả-bạc giả); hoặc sau thế chiến thứ hai cùng với sự truy tố và trừng phạt các tội phạm chiến tranh, tội chống lại hòa bình và loài người, dẫn đến sự phổ biến tên gọi luật hình sự quốc tế tương ứng với các quy phạm quy định về các hành vi vi phạm pháp luật mà luật này điều chỉnh. Một trong các Công ước LHQ thể hiện nội dung này là Công ước về đấu tranh chống buôn bán ma túy và các chất hướng thần năm 1988, Công ước này được áp dụng nhằm đấu tranh chống buôn bán trái phép chất ma túy, vận chuyển trái phép là hoạt động tội phạm quốc tế, còn có nghĩa là tội phạm chống luật quốc tế. Luật hình sự quốc tế có lịch sử phát triển của mình, được thể hiện thông qua các giai đoạn lịch sử khác nhau: trước Thế chiến một; từ Thế chiến một đến Thế chiến hai; từ Thế chiến hai đến chấm dứt chiến tranh lạnh; và từ chấm dứt chiến tranh lạnh cho đến nay. Sự phát triển của luật
  • 22. 16 hình sự quốc tế còn được thể hiện thông qua sự hợp tác giữa các quốc gia trong lĩnh vực tố tụng hình sự; và thông qua các yếu tố khác, như: các quy định quốc tế về tội phạm và hình phạt (quốc tế hóa); thống nhất hóa mộ số nguyên tắc, quy định chung trong việc xác định hình phạt đối với các loại tội phạm, ví dụ như áp dụng những hình phạt nghiêm khắc nhất; không áp dụng nguyên tắc thời hiệu trong truy tố (tham khảo quy định tại k.2, đ.23 Bộ luật hình sự Việt Nam); không áp dụng chế độ ân xá; không áp dụng chế độ miễn trừ đối với người thực hiện hành vi phạm tội là người đại diện hoặc đứng đầu nhà nước; các quốc gia thiết lập các thiết chế tư pháp quốc tế hoặc có tính chất quốc tế nhằm truy tố, xét xử những tội phạm quốc tế nghiêm trọng nhất, ví dụ, các tòa án quân sự Nurembe, Tokyo, Nam Tư, Campuchia, Siera Leon, Đong Timo, Libang. Luật hình sự quốc tế [34] có thể được hiểu là tổng thể các nguyên tắc, các quy phạm pháp lý quốc tế để điều chỉnh các vấn đề pháp lý trong hoạt động hợp tác đấu tranh phòng, chống tội phạm của cộng đồng quốc tế [31, tr. 6], hay tương tự được hiểu là tổng hợp các nguyên tắc và quy phạm điều chỉnh sự hợp tác giữa các quốc gia trong việc đấu tranh chống tội phạm. Luật hình sự quốc tế là một ngành mới trong hệ thống pháp luật quốc tế. Tội ác quốc tế thường thường nghiêm trong, nên việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với những kẻ phạm tội nghiêm trọng là việc làm rất cần thiết để bảo đảm hòa bình và an ninh thế giới. Luật hình sự quốc tế được hình thành khi Quy chế các Tòa án quân sự quốc tế Nurumbe và Tokyo xét xử bọn tội phạm chiến tranh sau thế chiến thứ hai. Tuy nhiên, trong lịch sử thế giới người ta đã từng biết tới khái niệm luật hình sự quốc tế ở Vương quốc La Mã cổ đại khi những tên cướp biển được coi là kẻ thù của nhân loại. Các quốc gia cổ đại cũng đã từng ký kết các điều ước quốc tế về truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm chiến tranh. Luật hình sự quốc tế đương đại đã đưa ra các quy định về
  • 23. 17 cấu thành tội phạm, tổ chức các tòa án hình sự quốc tế, quy định thủ tục về tố tụng hình sự quốc tế và vấn đề hợp tác giữa các quốc gia trong việc đấu tranh phòng, chống tội phạm [41]. Luật hình sự là một ngành luật trong hệ thống pháp luật của quốc gia, bao gồm hệ thống các quy định pháp luật do Nhà nước ban hành trong đó xác định rõ những hành vi vi phạm nào là tội phạm, đồng thời, quy định hình phạt đối với từng tội phạm cụ thể. Trong khi đó, theo quan điểm hẹp hơn thì cho rằng, luật hình sự quốc tế là một bộ phận của luật quốc tế được ban hành để trừng phạt một số hành vi phạm tội. Luật hình sự quốc tế cũng quy định việc xét xử để bài trừ và xét xử những người bị buộc tội, ngoài ra, đó còn là hệ thống các quy tắc quy định luật nào sẽ áp dụng đối với tội phạm quốc tế, các yếu tố giả định cần thiết đối với các đạo luật này được coi như là bị cấm. Luật hình sự quốc tế còn quy định các thủ tục quốc tế, hoạt động của các cơ quan khởi tố cũng như các giai đoạn của các phiên tòa quốc tế [39, p.15]. Trong khi luật hình sự thì quy định và mô tả hành vi phạm tội, tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm, quy định loại và mức hình phạt cụ thể đối với từng tội phạm để dựa vào đó các cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết vụ án được chính xác, công minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Trong giai đoạn hiện nay, nhiệm vụ của luật hình sự Việt Nam là bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ quyền bình đẳng giữa đồng bào các dân tộc, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, chống mọi hành vi phạm tội; đồng thời giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Theo quan điểm rộng hơn thì cho rằng luật hình sự quốc tế là một
  • 24. 18 ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật quốc tế, bao gồm các nguyên tắc và các quy phạm xác định những hành vi nào đặc biệt nguy hiểm cho các lợi ích chung của cộng đồng quốc tế là những tội phạm quốc tế (hoặc những tội phạm có tính chất quốc tế), đồng thời quy định các biện pháp hình phạt và các chế định pháp lý khác có thể được áp dụng đối với chủ thể có lỗi trong việc thực hiện tội phạm [5]. Tuy nhiên, dưới góc độ khái quát nhất thì luật hình sự quốc tế là một ngành luật trong hệ thống pháp luật quốc tế ghi nhận những hành vi đặc biệt nguy hiểm cho các lợi ích chung của cộng đồng quốc tế là các tội phạm quốc tế (và tội phạm có tính chất quốc tế, tội phạm xuyên quốc gia), đồng thời quy định hệ thống hình phạt và các chế định pháp lý có thể được áp dụng đối với những chủ thể vi phạm, cũng như tổng hợp những nguyên tắc xác định quyền và nghĩa vụ của các thành viên cộng đồng quốc tế, nghĩa vụ hợp tác của các quốc gia trong việc xử lý và phòng, chống các tội phạm đặc biệt nghiêm trọng đã nêu. Từ khái niệm nói trên cho thấy rằng điểm khác biệt cơ bản giữa luật hình sự quốc tế với luật hình sự quốc gia (trong đó có luật hình sự Việt Nam) là ở chỗ nếu luật hình sự quốc gia chỉ bao gồm các quy phạm pháp luật hình sự (luật nội dung) thì luật hình sự quốc tế chứa đựng tổng hợp các quy phạm pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự và pháp luật thi hành án hình sự (cả luật hình thức). Theo cơ sở này thì luật hình sự quốc tế xác định nhiệm vụ rất quan trọng là bảo vệ các lợi ích chung của cộng đồng quốc tế, sự tồn tại của hòa bình, an ninh của nhân loại, cũng như quyền con người và các giá trị xã hội cao quý khác tránh khỏi sự xâm hại của tội phạm. Ngoài ra, luật hình sự và luật hình sự quốc tế còn phối hợp hoạt động giữa các quốc gia trong việc đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và tội phạm quốc tế nói riêng, cũng như tội phạm có tính chất quốc tế, tội phạm xuyên quốc gia, để bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong mỗi quốc gia trên phạm vi toàn cầu.
  • 25. 19 Ngoài ra, có sự khác nhau về nguồn luật. Tuy rằng, luật hình sự và luật hình sự quốc tế đều có mục đích chung là được sử dụng để đấu tranh với các hành vi trái luật nhằm bảo vệ con người nói chung và quyền con người nói riêng. Nguồn của luật hình sự quốc tế hiện nay chưa được pháp điển hóa, hiện đang được chứa đựng trong rất nhiều các văn bản điều ước. Một là, nhóm nguồn đầu tiên điều chỉnh các quan hệ pháp luật hình sự trong lĩnh vực phân loại, phòng ngừa và trừng phạt các loại tội phạm quốc tế đặc biệt nghiêm trọng liên quan đến hòa bình và an ninh nhân loại. Các văn bản đầu tiên là điều ước quốc tế giữa các chính phủ: Liên Xô, Hoa Kỳ, Anh Quốc và Pháp về xét xử và trừng phạt các tội phạm chiến tranh ở châu Âu từ tháng 8/1945 – Quy chế tòa án Quân sự quốc tế Nurembe; Quy chế tòa án Quân sự quốc tế Tokyo cho vùng Cận Đông từ ngày 19/01/1946 (Tòa án Quân sự quốc tế Nurembe và Tokyo từ 1945-1948). Vào những năm 90 thế kỷ trước, xuất hiện nhóm các văn bản mới dưới dạng Nghị quyết 827 của Hội đồng Bảo an LHQ ngày 25/5/1993 và Nghị quyết 995 của Hội đồng Bảo an LHQ ngày 08/11/1994, các Nghị quyết này đã thông qua các quy chế: Quy chế tòa án hình sự quốc tế về Nam Tư (vì vi phạm nghiêm trọng luật nhân đạo quốc tế); Quy chế tòa án hình sự quốc tế về Ruanda (vì hành vi diệt chủng). Tòa ad hoc Nam Tư và Ruanda (1993,1994) về tội phạm chiến tranh (Tòa án Hình sự quốc tế) do Hội đồng Bảo an thành lập trên cơ sở chương VII Hiến chương LHQ. Các văn bản nói trên có xuất phát điểm khác nhau. Nhóm văn bản đầu tiên được thông qua trực tiếp bằng điều ước giữa các quốc gia; còn nhóm thứ hai được thông qua bằng quyết định của một cơ quan (Hội đồng Bảo an, LHQ) về nguyên tắc pháp lý không có thẩm thông qua các văn bản quy phạm, nhưng ở đây có sự đồng thuận của 5 ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an)
  • 26. 20 Đặc điểm chung của các quy chế nói trên: i) có sự thống nhất các quy phạm vật chất (luật nội dung) và các quy phạm tố tụng (luật hình thức); ii) sự đánh giá pháp lý các hành vi tội phạm: tội phạm chống hòa bình; tội phạm chống loài người; và tội phạm chiến tranh. Hai là, nhóm nguồn thứ hai của luật hình sự quốc tế là hệ thống các điều ước đa phương chống khủng bố. Công ước về đấu tranh chống khủng bố tài chính ngày 09/12/1999, trong đó đã liệt kê 9 Công ước và Nghị định thư: Công ước (1970) về chống cướp máy bay; Công ước (1971) về an ninh hàng không dân dụng quốc tế và NĐT năm 1988 về đấu tranh chống các hành vi bạo lực trái luật tại các cảng hàng không dân dụng quốc tế (bổ sung Công ước 1971); Công ước (1973) về ngăn ngừa và trừng phạt tội chống các nhà ngoại giao; Công ước (1979) về chống bắt cóc con tin; Công ước về bảo vệ thiết bị hạt nhân năm 1980; Công ước Roma (1988) về đấu tranh chống các hành vi trái luật xâm phạm an toàn, an ninh hàng hải; Nghị định thư năm 1988 về trấn áp các hành vi trái luật xâm phạm an toàn các công trình cố định trên thềm lục địa; Công ước đấu tranh chống khủng bố băng bom năm 1997 v.v... và sau này bổ sung thêm Công ước về đấu tranh chống các hành vi khủng bố hạt nhân ngày 13/4/2005. Đấu tranh chống khủng bố còn được quy định trong điều ước khu vực và liên khu vực: Công ước Thượng Hải về đấu tranh chống khủng bố, ly khai và cực đoan năm 2001; SNG (Cộng đồng các quốc gia độc lập) và EU năm 1997, về phòng ngừa khủng bố năm 2005; hoặc Công ước ASEAN về chống khủng bố năm 2007 (có hiệu lực từ ngày 27/5/2011 sau khi Brunei là quốc gia thứ 6 trong ASEAN thông qua Công ước này ngày 28/4/2011). Ba là, nhóm nguồn thứ 3 của luật hình sự quốc tế là các Công ước liên quan đến các tội phạm xâm phạm đến nhân phẩm, các lợi ích chung của cộng đồng như kinh tế, xã hội và nhân văn.
  • 27. 21 Chúng ta cần có sự phân biệt sự khác nhau giữa tội phạm quốc tế và tội phạm xuyên quốc gia, mặc dù về mặt lý luận cũng như thực tiễn, đấu tranh với các loại tội phạm này đều dựa trên cơ sở của luật hình sự quốc gia và luật hình sự quốc tế (tức là sự phối kết hợp hài hòa giữa luật quốc tế và luật quốc gia nếu nhìn trên cơ sở vĩ mô). Tội phạm xuyên quốc gia được quy định tại Công ước LHQ về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia năm 2000, theo đó, hành vi phạm tội: được thực hiện ở nhiều quốc gia; hành vi ở một quốc gia nhưng chủ yếu việc chuẩn bị lên kế hoạch, chỉ đạo hoặc điều khiển lại ở một quốc gia khác; hành vi ở một quốc gia nhưng liên quan đến một nhóm tội phạm có tổ chức tham gia phạm tội ở nhiều quốc gia; hành vi ở một quốc gia nhưng có ảnh hưởng lớn ở một quốc gia khác. Tội phạm xuyên quốc gia có đặc điểm riêng của mình, theo đó: được thể hiện ở tính đa quốc gia thông qua tên gọi; phương pháp, thủ đoạn thực hiện tội phạm xuyên quốc gia thường mang tính có tổ chức và chuyên nghiệp cao; có khả năng gây hậu quả trên phạm vi lớn, gây hậu quả hàng loạt; xâm hại tới các lợi ích quốc gia, quyền và lợi ích chính đáng của cá nhân, tổ chức một cách nghiêm trọng ở mức độ đe dọa đến trật tự, an ninh một khu vực hoặc thế giới; thẩm quyền tài phán thuộc quốc gia và trách nhiệm pháp lý được xác định trên cơ sở luật quốc gia; thường tiến hành mua chuộc, hối lộ và lôi kéo các nhà lãnh đạo nước ngoài nhằm dung túng bao che cho các hoạt động phạm tội của tổ chức mình. Một số tội phạm xuyên quốc gia, như: tội khủng bố; tội phạm về ma túy; tội rửa tiền; tôi buôn bán người; tội tham nhũng; tội vi phạm an ninh hàng hải quốc tế; tội vi phạm an ninh, an toàn hàng không. Như vậy, tội phạm xuyên quốc gia xâm hại đến lợi ích quốc gia, lợi ích chính đáng của cá nhân, tổ chức được xác lập, bảo vệ bởi pháp luật quốc gia.
  • 28. 22 Tội phạm quốc tế là loại tội phạm đặc biệt nguy hiểm, xâm hại các giá trị chung được nhân loại thừa nhận và pháp luật quốc tế bảo vệ: quyền con người; chủ quyền quốc gia, dân tộc; hòa bình và an ninh của nhân loại. Để so sánh hai loại tội phạm này chúng ta cần dựa vào các tiêu chí, như: khách thể bị xâm hại; tính chất, mức độ nguy hiểm; chủ thể thực hiện; thẩm quyền tài phán v.v... Bảo vệ quyền con người trong thế giới đương đại là nhiệm vụ của cả cộng đồng quốc tế nói chung, tuy nhiên có thể đó là chức năng và nhiệm vụ không thể thiếu của luật hình sự nói chung và luật hình sự quốc tế nói riêng. Những phân tích, lập luận và ví dụ nói trên đã minh chứng phần nào cho nhận định này. Luật hình sự quốc gia và luật hình sự quốc tế có mối quan hệ qua lại, tương tác, hỗ trợ nhau trong việc đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ con người và quyền con người. Điều này đã được thể hiện thông qua các mối quan hệ: luật hình sự quốc tế chịu sự tác động và bổ trợ của luật hình sự quốc gia; luật hình sự quốc gia đã tiếp thu (nội luật hóa) các nguyên tắc, các chế định mới các chuẩn mực quốc tế về hình sự; luật hình sự quốc tế và luật hình sự quốc gia đã bổ trợ, tạo điều kiện cho nhau cùng phát triển vì mục đích bảo vệ pháp chế, bảo vệ trật tự pháp lý, bảo vệ con người, bảo vệ và duy trì hòa bình, an ninh con người và an ninh nhân loại.
  • 29. 23 Chương 2 BẢO VỆ CÁC QUYỀN CON NGƯỜI BẰNG PHÁP LUẬT NƯỚC NGOÀI VÀ LUẬT HÌNH SỰ QUỐC TẾ Từ thực tiễn quan hệ quốc tế và vấn đề thực thi pháp luật, cũng như căn cứ vào các văn bản pháp lý quốc tế hiện hành và việc ký kết, sự tận tâm thực hiện các điều ước quốc tế từ phía các quốc gia, có thể nhận thấy luật hình sự quốc gia và luật hình sự quốc tế ngày càng có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền con người [34]. 2.1. Pháp luật hình sự một số nước về bảo vệ quyền con người [36] Pháp luật quốc gia cần điều chỉnh cho tương thích với các chuẩn mực của pháp luật quốc tế về bảo vệ quyền con người nói chung (khi quốc gia là thành viên của các điều ước đó), cũng như việc bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực hình sự [15]. Do vậy, việc nghiên cứu, so sánh các quy định về bảo vệ quyền con người trong pháp luật hình sự là cần thiết và quan trọng. Trong phạm vi của một luận văn thạc sỹ, học viên thật khó đề cập hết được luật hình sự của các quốc gia trên thế giới điều chỉnh việc bảo vệ quyền con người trong tương thích với luật pháp quốc tế, Vì lý do khách quan và chủ quan, học viên chọn pháp luật hình sự của một số nước trên thế giới, như: Nga, Đức, Nhật Bản và Trung Hoa để nghiên cứu về một số khía cạnh về bảo vệ quyền con người mà luật hình sự của các quốc gia này điều chỉnh. 2.1.1. Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự Trung Quốc [36] Bộ luật hình sự [10] Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (viết tắt là Trung Hoa) sửa đổi năm 2005 (hiện hành) đã quy định các hành vi xâm phạm đến quyền con người và trừng phạt trong nhiều chương, điều khác nhau. Tại Chương IV về các tội xâm phạm quyền tự do thân thể, quyền dân
  • 30. 24 chủ của công dân, cụ thể [19]: điều 232 về hành vi cố ý giết người quy định rằng người nào cố ý giết người khác, thì bị phạt; điều 233 về hành vi vô ý làm chết người quy định rằng người nào vô ý làm chết người, thì bị phạt; điều 234 về hành vi cố ý gây thương tích cho người khác quy định rằng người nào cố ý gây thương tích cho người khác, thì bị phạt; điều 235 về hành vi vô ý gây thương tích nặng cho người khác đã quy định rằng người nào vô ý gây thương tích nặng cho người khác, thì bị phạt. Các hành vi cưỡng hiếp phụ nữ được quy định tại điều 236; các hành vi cưỡng dâm phụ nữ quy định tại điều 237; hành vi giam giữ trái pháp luật quy định tại điều 238; điều 239 quy định về hành vi bắt cóc người khác; điều 240 quy định về hành vi buôn bán phụ nữ, trẻ em; điều 241 quy định về hành vi mua phụ nữ, trẻ em bị đem bán; điều 242 quy định về hành vi dùng bạo lực hoặc uy hiếp ngăn cản nhân viên thi hành công vụ Nhà nước giải thoát cho phụ nữ, trẻ em bị đem bán; điều 243 quy định về hành vi bịa đặt nhằm hãm hại người khác; điều 244 quy định về hành vi của đơn vị sử dụng người; điều 245 quy định về hành vi khám người, khám nhà bất hợp pháp; điều 246 quy định về hành vi làm nhục người khác; điều 247 quy định về hành vi bức cung của nhân viên tư pháp; điều 248 quy định về hành vi của nhân viên quản giáo. Như vậy, nếu so sánh Bộ luật hình sự Trung Hoa với Bộ luật hình sự Việt Nam về các vấn đề có liên quan đến việc bảo vệ quyền con người, chúng ta thấy có một vài điểm khác nhau, ví dụ như: Bộ luật hình sự Trung Hoa tập trung mô tả hành vi phạm tội ngay trong nội dung điều luật mà không có tên tội danh; nhiệm vụ của Bộ luật này chỉ xác định chung là bảo vệ các quan hệ xã hội, trong đó có quyền công dân; hoặc trong khái niệm tội phạm cũng chỉ nêu bảo vệ quyền nhân thân, tự do và các quyền khác; hoặc Chương IV có tên là các tội xâm phạm quyền tự do thân thể, quyền dân chủ của công dân, tuy nhiên
  • 31. 25 lại chủ yếu nhấn mạnh đến các hành vi phạm tội xâm phạm đến quyền tự do thân thể; hoặc các tội xâm phạm tự do và an ninh cá nhân cũng có nhiều tội tương đồng với Việt Nam (ví dụ, điều 232 về hành vi cố ý giết người; điều 234 về hành vi cố ý gây thương tích cho người khác; điều 236 về các hành vi cưỡng hiếp phụ nữ; điều 238 và 239 về hành vi giam giữ trái pháp luật và về hành vi bắt cóc người khác; v.v...; hoặc có quy định trách nhiệm hình sự của đơn vị (tổ chức), như đơn vị nào sử dụng người mà vi phạm quy định về quản lý lao động, hạn chế tự do thân thể, cưỡng bức nhân viên lao động và hành vi của người vi phạm quy định quản lý lao động, sử dụng trẻ em vị thành niên chưa đủ 16 tuổi lao động vượt quá sức lao động hoặc làm những công việc trên cao, dưới hầm hoặc lao động trong môi trường nguy hiểm, dễ nổ, dễ cháy, phóng xạ, độc hại, thì bị phạt (điều 244) [19, tr.162]; hoặc quy định tương đối đầy đủ hơn về các hành vi và các trường hợp phạm tội cụ thể đối với tội buôn bán phụ nữ, trẻ em (điều 240) và tội mua phụ nữ, trẻ em (điều 241). 2.1.2. Bảo vệ quyền con người theo pháp luật hình sự Nga Bộ luật hình sự Nga [26] sửa đổi năm 2010 (hiện hành), đã khẳng định nhiệm vụ quan trọng của Bộ luật này là bảo vệ các quyền và tự do của con người (khoản 1 điều 2). Đồng thời, đã quy định về những hành gây nguy hiểm cho cá nhân sẽ bị coi là tội phạm (khoản 2 điều 2) [33]. Như vậy, Bộ luật hình sự Nga đã ghi nhận, tôn trọng và bảo vệ các quyền và tự do của con người và của công dân, đồng thời quy định các loại hình phạt và những biện pháp mang tính chất pháp luật hình sự khác đối với việc thực hiện hành vi phạm tội. Bảo vệ quyền con người là nhiệm vụ của Bộ luật hình sự Nga (điều 2), các nhà làm luật người Nga đã xác định cụ thể những hành vi xâm phạm đến tự do và an ninh cá nhân sau là tội phạm và sẽ bị trừng phạt. Điều đó đã được khẳng định cụ thể tài các điều: từ điều 105-128 chương 16 và chương 17; các điều: từ điều 131-134 chương 18; điều 357 chương 34:
  • 32. 26 Để bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật hình sự, các điều luật nói trên của Bộ luật hình sự Nga đã quy định cụ thể về các tội khác nhau: giết người (điều 105); mẹ giết con mới đẻ (điều 106); giết người trong trạng thái bị kích động mạnh (điều 107); giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội (điều 108); vô ý làm chết người (điều 109); tội bức tử (điều 110); tội cố ý gây tổn hại nghiêm trọng sức khỏe (điều 111); tội cố ý gây tổn hại sức khỏe rất nghiêm trọng (điều 112); tội cố ý gây tổn hại sức khỏe rất nghiêm trọng trong trạng thái bị kích động mạnh (điều 113); tội cố ý gây tổn hại sức khỏe ở mức độ nghiêm trọng hoặc rất nghiêm trọng do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc sử dụng quá mức biện pháp cần thiết khi bắt giữ người phạm tội (điều 114); tội cố ý gây tổn hại ít nghiêm trọng đến sức khỏe (điều 115); tội hành hung (điều 116); tội nhục hình (điều 117); vô ý gây tổn hại rất nghiêm trọng đến sức khỏe của người khác (điều 118); tội đe dọa giết người hoặc gây tổn hại nghiêm trọng đến sức khỏe (điều 119); tội cưỡng bức nhằm lấy bộ phận cơ thể của người bị hại để cấy ghép (điều 120); tội lây truyền bệnh truyền nhiễm (điều 121); tội lây truyền HIV (điều 122); tội nạo phá thai bất hợp pháp (điều 123); tội không cứu giúp người bệnh (điều 124): tội bỏ mặc người khác trong tình trạng nguy hiểm (điều 125); tội bắt cóc (điều 126); giam giữ người trái pháp luật (điều 127); tội buôn người (điều 127-1); tội đưa người vào bệnh viện tâm thần trái pháp luật (điều 128); tội hiếp dâm (điều 131); tội cưỡng dâm (điều 132); tội ép buộc người khác hoạt động tình dục (điều 133); tội giao cấu và thực hiện các hoạt động tình dục khác với người chưa đủ 16 tuổi (điều 134); tội diệt chủng (điều 357). Như vậy, nếu đem so sánh Bộ luật hình sự của Nga với Bộ luật hình sự Việt Nam chúng ta thấy chúng có sự tương thích nhau cả về cấu trúc và nội dung. Tuy nhiên, cũng có các điểm khác biệt, như: Bộ luật hình sự Nga
  • 33. 27 bảo vệ tự do và an ninh cá nhân với tính chất phổ quát của các quyền con người (điều 2); hoặc Bộ luật hình sự Nga xử lý hành vi đe dọa an ninh cá nhân ở cả mức độ đe dọa tính mạng và đe dọa sự toàn vẹn thân thể (điều 119); hoặc Bộ luật hình sự Nga quy định hành vi bắt cóc nói chung là tội phạm (điều 126); hoặc Bộ luật hình sự Nga quy định xử lý đối với tội đưa người vào bệnh viện tâm thần trái pháp luật (điều 128). Trên đây là những quy định còn khác biệt nếu đem so với Bộ luật hình sự Việt Nam. 2.1.3. Bảo vệ quyền con người theo pháp luật hình sự Nhật Bản Bộ luật hình sự Nhật Bản [28] sửa đổi năm 2011 (hiện hành). Bộ luật này đã quy định tương đối rộng các hành vi xâm phạm đến quyền con người tại các điều ở các chương khác nhau [22]. Cụ thể tại chương 9 có các điều, như: đốt công trình nhà cửa có người ở (điều 108); làm rò rỉ khí ga, dẫn tới thương tích hoặc chết người (điều 118); hoặc chương 10 có điều quy định về tội làm ngập nước công trình nhà cửa có người ở (điều 119); chương 11 có các điều quy định về nguy hiểm đi lại (điều 125) và lật tàu hỏa và gây chết người (điều 126). Các tội về pha chất độc vào nước uống (điều 144), làm ô nhiễm nước uống gây ra thương tích hoặc chết người (điều 145), và pha chất độc vào nước máy gây thương tích hoặc chết người (điều 146), được quy định tại Chương 15. Ngoài ra, cưỡng dâm (điều 176), hiếp dâm (điều 177), coi như tội cưỡng dâm và coi như tội hiếp dâm (điều 178), và hiếp dâm tập thể (điều 179), được quy định tại Chương 22 của Bộ luật này. Các điều: điều 195 về hành hung ngược đãi của công chức đặc biệt (Chương 25 - Tội tham nhũng); điều 199 về giết người và điều 202 về tham dự vào việc tự sát và đồng ý giết người được quy định tại Chương 26 - Tội giết người; điều 204 về thương tích, điều 205 về gây ra thương tích dẫn tới
  • 34. 28 chết người, điều 206 về vào hùa tại hiện trường và điều 208 về hành hung, được quy định tại Chương 27 - Tội gây ra thương tích; điều 208-2 về lái xe nguy hiểm gây ra thương tích hoặc chết người và điều 208(3) về tập hợp và tụ tập chuẩn bị hung khí, được quy định tại Chương 27 - Tội gây ra thương tích; điều 209 về sơ ý gây thương tích, điều 210 về sơ ý dẫn tới chết người và điều 211 về bất cẩn trong khi làm việc gây ra thương tích hoặc chết người, được quy định tại Chương 28 - Tội sơ ý gây ra thương tích. Các điều: điều 212 về phá thai, điều 213 về đồng ý phá thai và làm việc đó dẫn đến thương tích hoặc chết người, điều 214 về phá thai trong công việc và việc đó dẫn tới thương tích hoặc chết người, điều 215 về phá thai không có sự đồng ý, điểu 216 về phá thai không có sự đồng ý dẫn tới thương tích hoặc chết người, được quy định tại Chương 29 - Tội phá thai. Các tội: bỏ rơi (điều 217); bỏ rơi của người có trách nhiệm chăm nom (điều 218); và bỏ rơi dẫn đến thương tích hoặc chết người (điều 219), được quy định tại Chương 30 - Tội bỏ rơi. Các tội: bắt và giữ người (điều 220) và tội bắt người gây ra thương tích hoặc chết người (điều 221), được quy định tại Chương 31 - Tội bắt và giữ người. Các tội: đe dọa (điều 222) và cưỡng bức (điều 223), được quy định tại Chương 32 - Tội đe dọa). Các tội: bắt cóc, cưỡng đoạt trẻ vị thành niên (điều 224); bắt cóc, cưỡng đoạt với mục đích kiếm lời (điều 225); cưỡng đoạt và bắt cóc với mục đích đem ra nước ngoài (điều 226); buôn bán người (điều 226-2); và chuẩn bị cưỡng đoạt với mục đích tống tiền (điều 228-3), được quy định tại Chương 33 - Tội bắt cóc dùng vũ lực hoặc lừa gạt. Ngoài ra, tội phá hủy công trình nhà cửa và dẫn tới thương tích hoặc chết người (điều 260), được quy định tại Chương 40 - Tội phá hủy và giấu giếm). Như vậy, so với Bộ luật hình sự Việt Nam chúng ta thấy Bộ luật hình
  • 35. 29 sự Nhật Bản có nhiều điều tương tự, tuy nhiên có những điểm khác nhau, ví dụ như: Bộ luật hình sự Nhật Bản quy định trừng phạt cả những hành vi gây thương tích cho thân thể không đáng kể, nhưng có tính chất hung bạo hoặc làm tăng mức độ nghiêm trọng của tội phạm (các điều 206, 208, 208-3); hoặc coi hành vi đe dọa tước đoạt không chỉ tính mạng, sức khỏe mà cả các giá trị quyền con người khác như danh dự, nhân phẩm, tự do đều phạm tội đe dọa (điều 222); hoặc trừng phạt hành vi phá thai với tư cách là một tội xâm phạm tính mạng con người; hoặc có quy định riêng về hành hung ngược đãi của công chức đặc biệt (điều 195); hoặc coi hành vi bỏ rơi những người cần được cần được chăm sóc, nuôi dưỡng như người già, trẻ em, người tàn tật là tội phạm (các điều: 217, 218, 219). Về lĩnh vực này, Bộ luật hình sự Việt Nam chỉ quy định bị truy cứu trách nhiệm hình sự đối với: hành vi vứt bỏ con mới đẻ dẫn đến hậu quả đứa trẻ chết (điều 94); hoặc hành vi của người có nghĩa vụ cấp dưỡng người khác mà trốn tránh hay từ chối nghĩa vụ này gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 152). 2.1.4. Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự Liên bang Đức Tương tự như pháp luật Việt Nam và pháp luật Nga, Bộ luật hình sự Liên bang Đức [25] sửa đổi năm 2009 (hiện hành) có định chế các điều khoản điều chỉnh bảo vệ quyền con người [32], tại các chương: chương thứ mười ba quy định về các tội xâm phạm sự tự quyết về tình dục; chương thứ mười sáu quy định về các tội xâm phạm tính mạng; chương thứ mười bảy quy định về các tội xâm phạm sự nguyên vẹn thân thể; chương thứ mười tám quy định về các tội xâm phạm tự do cá nhân; chương thứ hai mươi tám quy định về các tội gây nguy hiểm chung. Các hành vi xâm phạm quyền con người mà Bộ luật hình sự Liên bang Đức đã quy định tại các chương nói trên, bao gồm: lạm dụng tình dục (điều
  • 36. 30 174); lạm dục tình dục trẻ em (điều 176); cưỡng dâm, hiếp dâm (điều 177); cưỡng dâm và hiếp dâm với hậu quả chết người (điều 178); lạm dụng tình dục người không có khả năng phản kháng (điều 179): bóc lột, bảo kê mại dâm (điều 180a, 181ª); lạm dụng tình dục người chưa thành niên (điều 182); giết người (điều 211); đánh chết người (điều 212); làm chết người theo yêu cầu (điều 216); phá thai (điều 218); tư vấn phá thai sai, quảng cáo phá thai hoặc đưa vào lưu thông các phương tiện phá thai (điều 219); bỏ rơi (điều 221); vô ý làm chết người (điều 222); xâm phạm thân thể (điều 223); xâm phạm thân thể nguy hiểm (điều 224); hành hạ người được bảo trợ (điều 225); xâm phạm thân thể nghiêm trọng (điều 226); xâm phạm thân thể với hậu quả chết người (điều 227); vô ý xâm phạm thân thể (điều 229); tham gia một cuộc ẩu đả (điều 231); buôn bán người nhằm mục đích bóc lột tình dục (điều 232); buôn bán người nhằm mục đích bóc lột sức lao động (điều 233); bắt cóc người (điều 234); bắt giữ người chưa thành niên (điều 235); buôn trẻ em (điều 236); tước đoạt tự do (điều 239); bắt cóc để cưỡng đoạt (điều 239ª); gây cháy (điều 306); gây nổ bởi năng lượng hạt nhân (điều 307); gây nổ bằng chất nổ (điều 308); lạm dụng tia phóng xạ (điều 309); gây ngập lụt (điều 313); đầu độc gây nguy hiểm chung (điều 314). Như vậy, nếu so với Bộ luật hình sự Việt Nam thì tên tội danh trong Bộ luật hình sự Liên bang Đức có tên gọi khác, nhưng các hành vi xâm phạm đến quyền con người cũng có nhiều điểm tương tự. Tuy nhiên, Bộ luật hình sự Liên bang Đức cũng có điểm khác biệt so với Bộ luật hình sự Việt Nam, ví dụ như: Bộ luật (Đức) quy định hành vi bị coi là cấu thành tội phá thai tại điều 218; hướng tới việc bảo vệ sinh mạng của thai nhi - an toàn tính mạng của một con người chưa được sinh ra; quy định trách nhiệm hình sự đối với cả hành vi tham gia một cuộc ẩu đả hay tấn công do đông người thực hiện mà gây ra cái chết hoặc xâm phạm thân thể nghiêm trọng đối với người khác tại
  • 37. 31 điều 231 [32]; quy định hành vi bắt cóc người (điều 234) độc lập với các dạng tước đoạt tự do khác hay bắt cóc để cưỡng đoạt, lạm dụng [25, tr.370]. 2.2. Luật hình sự quốc tế và quyền con người [36] Chúng ta biết rằng luật hình sự quốc tế là một ngành luật trong hệ thống pháp luật quốc tế, bao gồm hệ thống các quy phạm pháp luật, các nguyên tắc điểu chỉnh quan hệ giữa các quốc gia trong việc bảo vệ quyền dân tộc tự quyết, an ninh quốc gia, an ninh quốc tế và quyền con người. Luật hình sự quốc tế xác định tính chất tội phạm và tính phải chịu hình phạt của các hành vi đặc biệt nguy hiểm xâm hại đến các lợi ích chung của cộng đồng quốc tế, đó là hòa bình, an ninh quốc tế của nhân loại và các giá trị xã hội cao quý của loài người, cũng như các quan hệ hợp tác của các quốc gia trong các lĩnh vực khác nhau của trật tự pháp luật quốc tế. Các nguyên tắc được dùng để bảo vệ các giá trị cao quý của nhân loại mà cộng đồng thế giới xem trọng và kết quả là sự ràng buộc tất cả các quốc gia và cá nhân. Các nguyên tắc này đã được thể hiện bằng nhiều công cụ khác nhau. Năm 1946, Đại hội đồng LHQ đã ban hành Nghị quyết nhấn mạnh các nguyên tắc cơ bản luật quốc tế đã được Quy chế Tòa án Nurrumbe và các phán quyết của nó công nhận như là các nguyên tắc được thừa nhận chung của luật hình sự quốc tế với vai trò để khẳng định việc bảo vệ an ninh quốc gia, an ninh quốc tế và quyền con người. Những nguyên tắc cơ bản này bao gồm: i) nguyên tắc cấm chiến tranh xâm lược; ii) nguyên tắc trừng phạt bằng luật hình sự đối với các tội phạm quốc tế; iii) nguyên tắc cá nhân không được miễn trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm quốc tế; iv) nguyên tắc không áp dụng thời hiệu tố tụng đối với các tội phạm quốc tế. Ngoài ra, trong Tuyên ngôn về quyền con người năm 1948, Công ước LHQ về quyền dân sự, chính trị năm 1966 và nhiều văn bản khác cũng đã ghi
  • 38. 32 nhận các nguyên tắc của luật hình sự quốc tế trong việc bảo vệ quyền con người như: i) nguyên tắc hợp tác giữa các quốc gia trong việc đấu tranh chống tội phạm; ii) nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật và Tòa án; iii) nguyên tắc cấm tra tấn; iv) nguyên tắc hạn chế hoặc thủ tiêu án tử hình; v) nguyên tắc đối xử nhân đạo với người bị tạm giữ. Công ước LHQ về quyền dân sự, chính trị năm 1966 đã dành một phần (Phần I) với duy nhất một điều quy định về quyền dân tộc tự quyết với tư cách là quyền tập thể của quyền con người. Có thể khẳng định, đây là lần đầu tiên quyền quốc gia, dân tộc được ghi nhận với tư cách là một quyền con người. Nội dung của quyền này có thể được hiểu mọi dân tộc đều có quyền tự quyết, tự do quyết định thể chế chính trị của mình và tự do phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa. Ngoài ra, vì lợi ích của mình, các dân tộc đều có quyền tự do định đoạt các nguồn tài nguyên thiên nhiên và của cải của mình miễn là không làm phương hại đến các nghĩa vụ phát sinh từ hợp tác kinh tế quốc tế, mà dựa trên nguyên tắc các bên cùng có lợi và các nguyên tắc của pháp luật quốc tế. Trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng không được phép tước đi những phương tiện sinh tồn của một dân tộc. Do đó, các quốc gia thành viên Công ước này, kể cả các quốc gia có trách nhiệm quản lý các lãnh thổ Ủy trị và các lãnh thổ quản thác, phải thúc đẩy việc thực hiện quyền tự quyết và phải tôn trọng quyền đó phù hợp với các quy định của Hiến chương LHQ. Quyền này sau đó tiếp tục được tái khẳng định trong Tuyên bố Viên và Chương trình hành động năm 1993 (được thông qua tại Hội nghị thế giới về quyền con người lần thứ hai ngày 25/6/1993). Đến năm 1973, Đại hội đồng LHQ đã tiếp tục thông qua Nghị quyết về các nguyên tắc hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực truy tìm, bắt giữ, dẫn độ và trừng phạt các cá nhân phạm tội ác chiến tranh và tội ác chống nhân loại. Như vậy, có thể khẳng định rằng, đây là các nguyên tắc có tính đặc trưng thể hiện
  • 39. 33 nghĩa vụ hợp tác quốc tế của các quốc gia là thành viên của LHQ trong các lĩnh vực đã nêu, qua đó bảo vệ an ninh quốc gia, an toàn xã hội và bảo đảm xử lý nghiêm minh, kịp thời các cá nhân có hành vi phạm các tội ác xâm phạm đến quyền con người, đến các giá trị văn minh của nhân loại. Các nguyên tắc của luật hình sự quốc tế được thừa nhận chung còn được ghi nhận tại một số điều khoản của Quy chế Rome năm 1998 về Tòa án hình sự quốc tế. Ví dụ như: i) nguyên tắc pháp chế (các điều 22 và 23); ii) nguyên tắc nhân đạo (các điều 22 và 24); iii) nguyên tắc trách nhiệm hình sự cá nhân (điều 25); iv) nguyên tắc loại trừ quyền tài phán đối với người dưới 18 tuổi (điều 26); v) nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật (điều 27); vi) nguyên tắc trách nhiệm của người chỉ huy và cấp trên (điều 28); vii) nguyên tắc không áp dụng thời hiệu (điều 29); viii) nguyên tắc trách nhiệm trên cơ sở có lỗi (điều 30) và; ix) nguyên tắc không xét xử hai lần (điều 20). Bên cạnh đó, luật hình sự quốc tế còn ghi nhận nhiều điều ước quốc tế về hình sự để các quốc gia tham gia ký kết và thực hiện. Các điều ước quốc tế này có ý nghĩa bảo đảm con người trên toàn thế giới có môi trường sống an bình, thịnh vượng, đồng thời lại có vai trò quan trọng để bảo vệ vững chắc và ổn định an ninh quốc gia (an ninh quốc gia là sự ổn định, tồn tại và bền vững của chế độ Hiến pháp, của hệ thống chính trị, cũng như sự bất khả xâm phạm về độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Nhà nước, đồng thời là khách thể được bảo vệ bằng pháp luật hình sự quốc gia và quốc tế), an ninh quốc tế (an ninh quốc tế là sự ổn định và tồn tại, hợp tác và phát triển bền vững của các quốc gia thành viên Liên hợp quốc và của cộng đồng quốc tế, cũng như sự bất khả xâm phạm của trật tự pháp luật quốc tế trước các cuộc chiến tranh xâm lược hoặc xung đột vũ trang, đồng thời là khách thể được bảo vệ bằng pháp luật hình sự quốc gia và quốc tế) và quyền con người. Đặc biệt, kể từ sau Thế chiến hai, khi cộng đồng quốc tế đã tạm thoát khỏi cảnh bị hủy
  • 40. 34 diệt bởi vũ khí hạt nhân và các vũ khí quân sự, vũ khí giết người hàng loạt, mặc dù nguy cơ chiến tranh vẫn rình rập đâu đó đối với nhân loại, với các quốc gia trên thế giới, song con người vẫn sinh tồn vì môi trường xung quanh ta vẫn đang còn sự sống, chính là nhờ vai trò của các điều ước quốc tế về an ninh quốc tế, về đấu tranh phòng, chống các tội phạm quốc tế mà các chủ thể luật quốc tế nói chung và các cường quốc hạt nhân nói riêng đã ký kết, tham gia hoặc gia nhập cùng cam kết thực hiện [6, tr. 226-227]. Ví dụ như: Hiệp ước Luân Đôn năm 1945 và Quy chế Tòa án Quân sự Nurumbe; Công ước về ngăn ngừa và trừng trị tội diệt chủng năm 1948; Công ước về không áp dụng thời hiệu đối với các tội phạm chiến tranh và các tội phạm chống nhân loại năm 1968; Công ước về ngăn chặn và trừng trị tội Apácthai năm 1973; Các điều ước quốc tế chống khủng bố hàng không (Công ước Tokyo năm 1963; Công ước Lahaye năm 1970); các điều ước chống khủng bố hàng hải (Công ước năm 1958 và năm 1982 về các điều khoản chống tội phạm cướp biển; Nghị định thư Roma năm 1998); Công ước năm 1979 về ngăn chặn và trừng phạt các tội phạm bắt cóc con tin; Công ước năm 1999 về trừng trị hoạt động tài trợ cho khủng bố; v.v...; Các điều ước quốc tế về chống tội phạm ma túy (Công ước năm 1961 về các chất ma túy; Công ước năm 1971 về các chất hướng thần; Công ước năm 1998 của LHQ về chống buôn bán bất hợp pháp các chất ma túy và hướng thần); Công ước Giơnevơ năm 1929 về chống tội phạm làm tiền giả; Công ước Palecmo về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia; các công ước về dẫn độ và tương trợ tư pháp về hình sự (Công ước năm 1957 của Châu Âu về dẫn độ tội phạm và Nghị định thư bổ sung năm 1957); Công ước về trấn áp việc buôn bán người và bóc lột mại dâm người khác năm 1949; Nghị định thư về việc ngăn ngừa, phòng chống và trừng trị việc buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em, bổ sung Công ước về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia năm 2000.
  • 41. 35 Trong số các công ước, điều ước, hiệp ước hoặc hiệp định song phương, đa phương khu vực và đa phương phổ cập, đặc biệt là các công ước mang tính tổng thể có liên quan đến lĩnh vực tư pháp hình sự quốc tế do LHQ thông qua, có ý nghĩa rất quan trọng trong việc bảo vệ an ninh quốc gia, an ninh quốc tế và các quyền con người, trong đó có một số Công ước quan trọng mà Việt Nam đã tham gia [21, tr.149, 218, 223]. Ở mức độ thấp hơn, đó là các văn bản của các cơ quan tư pháp hình sự quốc tế bao gồm các quy chế, các hiến chương và án lệ, như: các quy định tại Hiến chương của Tòa án quân sự quốc tế Nurembe năm 1945 và sự thể hiện chúng trong Bản án có tính chất lịch sử toàn thế giới của Tòa án này đã có ảnh hưởng quan trọng đến việc phân loại những tội phạm quốc tế, cũng như hình thành một số các nguyên tắc của Luật hình sự quốc tế hay Tuyên ngôn về việc bảo vệ tất cả những người bị tra tấn và các hình thức đối xử và hình phạt khác dã man, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm năm 1975. Tuy nhiên, một văn bản có giá trị quốc tế quan trọng trong lĩnh vực tư pháp hình sự để bảo vệ các quyền con người đó là Quy chế Tòa án hình sự quốc tế được thông qua ngày 17/7/1998 tại Rome (Italia) với việc thành lập Tòa án hình sự quốc tế (International Criminal Court, ICC) có thẩm quyền xét xử các tội phạm diệt chủng, tội phạm chống loài người, tội phạm chiến tranh và tội phạm xâm lược, đồng thời với mục tiêu là bắt các cá nhân phải chịu trách nhiệm cho các tội ác đã được liệt kê trong danh sách những tội phạm nghiêm trọng và mức độ lớn cho những giá trị chung của con người. Quy chế tòa án ICC được thông qua năm 1998 tại Hội nghị ngoại giao của LHQ của các đại diện ngoại giao có thẩm quyền của hơn 160 quốc gia [9]. Quy chế có hiệu lực ngày 01/7/2002, Đại hội đồng của các quốc gia thành viên đã bầu 18 thẩm phán, nhiệm kỳ của họ bắt đầu từ ngày 11/3/2003.
  • 42. 36 IСС bổ sung cho cơ quan tư pháp hình sự quốc gia, thẩm quyền của nó bị hạn chế bới các tội phạm nguy hiểm nghiêm trọng nhất mà cần kêu gọi sự quan tâm của cả cộng đồng quốc tế. Theo điều 5 Quy chế ICC thì các tội phạm thuộc quyền tài phán của Tòa án ICC bao gồm: tội diệt chủng; tội chống nhân loại; tội phạm chiến tranh; tội xâm lược. Thể nhân thực hiện phạm tội thuộc thẩm quyền của tòa, chịu trách nhiệm cá nhân và chịu trừng phạt, nếu thể nhân đó: thực hiện phạm tội độc lập, cùng với những thể nhân khác hoặc thông qua thể nhân khác; chỉ đạo, tiếp tay hoặc kích động thực hiện các tội phạm này, nếu tội phạm này đã được thực hiện hoặc nếu có điểm cố ý để phạm tội này; với mục đích tạo điều kiện thực hiện tội phạm này, viện trợ và tiếp tay hoặc thực hiện hành vi tương tự nhằm khuyến khích hoặc tạo điều kiện thực hiện phạm tội, bao gồm cả việc cung cấp phương tiện phạm tội; bất kỳ hành vi nào nhằm tạo điều kiện cho việc phạm tội của một nhóm người thực hiện với một mục đích chung. Hành vi hỗ trợ hoặc khuyến khích này cần được thể hiện có chủ ý hoặc với mục đích ủng hộ hoạt động tội phạm. Tòa án ICC tham gia bảo vệ quyền con người thông qua quy trình tố tụng của mình, tuy nhiên Tòa ICC không có quyền tài phán đối với bất kỳ một con người nào khi mà người đó dưới 18 tuổi tại thời điểm thực hiện phạm tội. Quy chế được áp dụng với biện pháp như nhau đối với tất cả mọi người, không có sự khác biệt trên cơ sở địa vị chức trách. Đặc biệt, địa vị của các người đứng đầu nhà nước hoặc chính phủ, các thành viên chính phủ hoặc nghị viện, dân biểu hoặc là quan chức của chính phủ, không là các lý do để mà được miễn trách nhiệm hình sự và cũng không lấy đó làm nguyên do (cơ sở) cho việc giảm hình phạt. Trong đó, không được áp dụng sự thừa nhận miễn trừ hoặc là các quy phạm tố tụng đặc biệt mà có thể gắn với (liên quan) chức trách của quan chức dù theo pháp luật quốc gia hay pháp luật quốc tế.
  • 43. 37 Điều 28 quy chế quy định về trách nhiệm của người chỉ huy và cấp trên. Đối với các tội phạm thuộc quyền tài phán của tòa không được quy định về thời hiệu. Một người không phải chịu trách nhiệm hình sự, nếu tại thời điểm thực hiện hành vi người đó bị bệnh tâm thần hoặc có khiếm khuyết về tâm thần; người đó đang trong tình trạng say làm mất khả năng nhận thức tính trái pháp luật hoặc tính chất hành vi của mình hoặc khả năng kiểm soát hành vi đó cho phù hợp với các quy định của pháp luật; người đó hành động một cách hợp lý để tự vệ hoặc bảo vệ người khác hoặc trong trường hợp tội phạm chiến tranh bảo vệ những tài sản thiết yếu cho sự tồn tại của người đó hay người khác hoặc những tài sản thiết yếu cho việc hoàn thành nhiệm vụ quân sự, chống lại việc sử dụng vũ lực bất hợp pháp và sắp xẩy ra một cách tương xứng với mức độ đe dọa đối với người đó, người khác hoặc tài sản được bảo vệ. Tòa bao gồm các cơ quan: ban chánh án; bộ phận phúc thẩm; bộ phận sơ thẩm và bộ phận dự thẩm; văn phòng công tố; và ban thư ký (lục sự). Thủ tục làm việc của Tòa và các bộ phận của Tòa được định chế cụ thể trong Quy chế và trong các văn bản tố tụng quốc tế (như Quy tắc về thủ tục và chứng cứ, các yếu tố cấu thành tội phạm năm 2000). Khi có mâu thuẫn giữa Quy chế và Quy tắc thì ưu tiên áp dụng theo Quy chế. 2.3. Tòa án hình sự quốc tế và vấn đề quyền con người Ngày 17/7/1998, theo Nghị quyết của LHQ, Tòa án hình sự quốc tế (ICC) thường trực đã chính thức được thành lập theo Quy chế Rome (1998). Đây là một minh chứng của công lý, lẽ phải và lương tri nhân loại về bảo vệ quyền con người [23, tr.27] trên phạm vi toàn thế giới. ICC là Tòa án thường trực dựa trên cơ sở hiệp ước nhằm giải quyết trách nhiệm hình sự của các cá nhân đối với các tội phạm quốc tế nghiêm trọng nhất liên quan đến toàn thể cộng đồng quốc tế với mục đích là nhằm
  • 44. 38 buộc các cá nhân phải chịu trách nhiệm hình sự đã được liệt kê trong danh sách những vi phạm nghiêm trọng và có mức độ lớn đến những giá trị chung của xã hội, của nhân loại và của con người. ICC có thẩm quyền xét xử các tội phạm diệt chủng, tội phạm chống loài người, tội phạm chiến tranh và tội phạm xâm lược, đây chính là các tội ác nghiêm trọng nhất trong xã hội chống lại loài người. ICC là một trong những thành tựu quan trọng nhất của loài người trong nỗ lực tìm kiếm công lý cho những nạn nhân của các tội ác nghiêm trọng nhất diễn ra tại bất kỳ đâu trên thế giới [17]. Tuy vậy, ICC không phải là cơ quan siêu quốc gia, nó chỉ là sự mở rộng thẩm quyền pháp lý hình sự quốc gia, đồng thời không hề xâm phạm đến chủ quyền quốc gia, song ICC đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền con người theo pháp luật nhân đạo quốc tế, chống lại tình trạng vô pháp luật và chủ nghĩa khủng bố vì một nề pháp quyền trên thế giới, vì chính sách hòa bình, công lý, bình đẳng, tự do và hữu nghị hợp tác phát triển giữa các quốc gia trên thế giới. ICC chỉ hành động khi quốc gia liên quan không thể hay không muốn thực hiện thẩm quyền của mình, ICC đóng góp cho công lý và vì một nền hòa bình, an ninh thế giới. ICC có mối liên hệ đặc biệt với LHQ. Đó là mối quan hệ dựa trên cơ sở một thỏa thuận được Hội đồng quốc gia thành viên Quy chế Rome (1998) thông qua và do Chánh tòa đại diện cho Tòa án ký. Trên cơ sở này, ICC và LHQ tôn trọng và thừa nhận lẫn nhau về thẩm quyền lẫn tư cách của nhau. Mặc dù do LHQ thành lập ra nhưng ICC vẫn hoạt động độc lập với LHQ, lấy việc tuân thủ pháp luật, bảo vệ công lý và lẽ phải là hàng đầu. Ngoài ra, ICC và LHQ còn có các hoạt động hợp tác về nhiều vấn đề khác nhau, đặc biệt là trong lĩnh vực tư pháp như: cung cấp các thông tin, tài liệu, việc làm chứng trước tòa, các trường hợp các quốc gia bất hợp tác.... Vai trò của Hội đồng Bảo an LHQ đối với ICC trong việc thực hiện quyền tài phán, là cơ sở để ICC thực hiện