Nhận viết luận văn đại học, thạc sĩ trọn gói, chất lượng, LH ZALO=>0909232620
Tham khảo dịch vụ, bảng giá tại: https://vietbaitotnghiep.com/dich-vu-viet-thue-luan-van
Download luận án tiến sĩ ngành lịch sử Việt Nam với đề tài: Chiến tranh nhân dân ở Quảng Bình trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước những năm 1965-1973, cho các bạn tham khảo
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
Chiến tranh nhân dân ở Quảng Bình trong chống Mỹ 1965-1973
1. ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
MAI XUÂN TOÀN
CHIẾN TRANH NHÂN DÂN Ở QUẢNG BÌNH
TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC
NHỮNG NĂM 1965 - 1973
LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC
HUẾ, NĂM 2017
2. i
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
MAI XUÂN TOÀN
CHIẾN TRANH NHÂN DÂN Ở QUẢNG BÌNH
TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC
NHỮNG NĂM 1965 - 1973
LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 62.22.03.13
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC : PGS. TS. LÊ CUNG
HUẾ, NĂM 2017
3. ii
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các tư liệu và kết quả nghiên cứu nêu trong Luận án là trung thực,
chưa từng được công bố trong bất cứ công trình nào khác.
Tác giả Luận án
Mai Xuân Toàn
4. iii
LỜI CẢM ƠN
Trân trọng cảm ơn PGS.TS. Lê Cung, người đã định hướng đề tài, tận tâm
hướng dẫn, giúp đỡ, động viên tôi trong suốt quá trình nghiên cứu, học tập và
hoàn thành luận án.
Trân trọng cảm ơn quý thầy, cô Khoa Lịch sử, Phòng Đào tạo Sau đại học,
Ban Giám hiệu Trường Đại học Sư phạm – Đại học Huế, Ban Đào tạo – Đại học
Huế, UBND tỉnh Quảng Bình, Lãnh đạo Sở Nội vụ và cán bộ, công chức Ban Thi
đua – Khen thưởng tỉnh Quảng Bình đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá
trình học tập, nghiên cứu.
Xin cảm ơn Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam, Phòng Tư liệu Quân khu 4,
Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III, Chi cục Văn thư lưu trữ tỉnh Quảng Bình, Văn
Phòng Tỉnh ủy Quảng Bình, Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Quảng Bình, các nhân
chứng lịch sử, … đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi được tiếp cận, khai thác các
nguồn tư liệu phục vụ học tập và nghiên cứu.
Cảm ơn gia đình, bạn bè luôn đồng hành, động viên, chia sẻ và hỗ trợ tôi
trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành Luận án.
Huế, tháng 6 năm 2017
Tác giả Luận án
Mai Xuân Toàn
5. 1
MỤC LỤC
Trang phụ bìa .............................................................................................................i
Lời cam đoan .............................................................................................................ii
Lời cảm ơn ............................................................................................................... iii
Mục lục.......................................................................................................................1
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................4
1. Lí do chọn đề tài .................................................................................................4
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu......................................................................5
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ......................................................................6
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu.........................................................7
5. Đóng góp của luận án .........................................................................................7
6. Bố cục của luận án..............................................................................................8
Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU........................................9
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề...............................................................................9
1.1.1. Các công trình nghiên cứu về chiến tranh nhân dân Việt Nam................9
1.1.2. Các công trình nghiên cứu về chiến tranh nhân dân chống chiến
tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở Quảng Bình.................................................16
1.2. Những vấn đề đặt ra tiếp tục nghiên cứu.......................................................24
Chương 2 CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CHIẾN
TRANH NHÂN DÂN Ở QUẢNG BÌNH TRONG KHÁNG CHIẾN
CHỐNG MỸ NHỮNG NĂM 1965-1973...............................................................25
2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội và truyền thống yêu nước, cách mạng
của nhân dân Quảng Bình.....................................................................................25
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên...................................................................................25
2.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội .......................................................................28
2.1.3. Truyền thống yêu nước và cách mạng của nhân dân Quảng Bình.........32
2.2. Chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở Quảng Bình....................................34
2.2.1. Phá hoại bằng gián điệp và biệt kích......................................................34
6. 2
2.2.2. Phá hoại bằng không quân và hải quân ..................................................38
2.3. Chủ trương của Đảng về chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ.........48
2.3.1. Chủ trương của Trung ương Đảng và Quân khu 4.................................48
2.3.2. Chủ trương của Tỉnh ủy Quảng Bình .....................................................51
2.4. Công tác giáo dục chính trị - tư tưởng, xây dựng quyết tâm đánh thắng
chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ...................................................................55
2.5. Chuyển hướng nền kinh tế sang thời chiến, đảm bảo hậu cần tại chỗ cho
chiến tranh nhân dân.............................................................................................59
2.5.1. Trong sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp ................................................59
2.5.2. Trong sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp.............................66
2.5.3. Trong lưu thông phân phối.....................................................................69
Chương 3 QUÂN DÂN QUẢNG BÌNH TIẾN HÀNH CHIẾN TRANH
NHÂN DÂN CHỐNG CHIẾN TRANH PHÁ HOẠI CỦA ĐẾ QUỐC MỸ
NHỮNG NĂM 1965-1973.......................................................................................75
3.1. Công tác phòng không nhân dân ...................................................................75
3.1.1. Công tác phòng tránh tại chỗ..................................................................75
3.1.2. Công tác sơ tán, giãn dân........................................................................82
3.2. Chiến đấu chống chiến tranh phá hoại...........................................................85
3.2.1. Củng cố và xây dựng lực lượng vũ trang hình thành thế trận chiến
tranh nhân dân ..................................................................................................85
3.2.2. Đấu tranh chống gián điệp, biệt kích......................................................93
3.2.3. Đánh máy bay và tàu chiến ....................................................................99
3.3. Đảm bảo giao thông và vận tải chi viện chiến trường.................................118
3.3.1. Đảm bảo giao thông..............................................................................118
3.2.2. Vận tải chi viện chiến trường ...............................................................128
Chương 4 ĐẶC ĐIỂM, Ý NGHĨA LỊCH SỬ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
CỦA CHIẾN TRANH NHÂN DÂN Ở QUẢNG BÌNH NHỮNG NĂM 1965-1973 ..141
4.1. Đặc điểm......................................................................................................141
4.1.1. Đối đầu với cuộc chiến tranh phá hoại kéo dài, liên tục và rất khốc liệt..141
7. 3
4.1.2. Được triển khai trên địa bàn toàn tỉnh, với sự kết hợp chặt chẽ của
nhiều lực lượng...............................................................................................147
4.1.3. Diễn ra trên khắp các lĩnh vực, trong đó giao thông vận tải là nóng
bỏng nhất ........................................................................................................152
4.1.4. Chiến tranh nhân dân ở Quảng Bình những năm 1965-1973 phát
triển vượt bậc theo thời gian...........................................................................158
4.2. Ý nghĩa lịch sử.............................................................................................161
4.2.1. Góp phần quan trọng cùng với miền Bắc đánh bại cuộc chiến tranh
phá hoại của đế quốc Mỹ................................................................................161
4.2.2. Góp phần to lớn để Quảng Bình hoàn thành vai trò hậu phương của
cách mạng miền Nam, trực tiếp là chiến trường Trị - Thiên..........................164
4.2.3. Làm dày thêm những giá trị sống của cộng đồng dân cư địa phương
để Quảng Bình (cùng với Vĩnh Linh) thành tuyến đầu của miền Bắc trong
kháng chiến chống Mỹ ...................................................................................167
4.3. Bài học kinh nghiệm....................................................................................171
4.3.1. Chủ động vận dụng sáng tạo đường lối chiến tranh nhân dân của
Đảng phù hợp với điều kiện đặc thù của địa phương.....................................171
4.3.2. Nâng cao tinh thần tự lực, tự cường, chủ động phòng, tránh, đánh trả
trong tình huống có chiến tranh bao vây, cô lập và ngăn chặn ......................174
4.3.3. Gắn xây dựng thế trận với củng cố hệ thống chính trị và phát triển
kinh tế - xã hội để đảm bảo hậu cần tại chỗ cho chiến tranh nhân dân..........176
KẾT LUẬN............................................................................................................180
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................184
PHỤ LỤC
8. 4
MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), Quảng Bình (cùng
với Vĩnh Linh) là tuyến đầu của miền Bắc xã hội chủ nghĩa, hậu phương cận kề của
cách mạng miền Nam, trực tiếp là chiến trường Trị - Thiên, là điểm khởi đầu và lan
tỏa của tuyến đường Hồ Chí Minh chi viện chiến trường miền Nam và phong trào
kháng chiến chống Mỹ ở địa bàn Nam Lào và Campuchia.
Do Quảng Bình có vị thế chiến lược quan trọng như vậy nên đế quốc Mỹ xem
nơi đây là “yết hầu”, “nút chặn” quyết liệt nhất trong chiến tranh phá hoại miền
Bắc. Mỹ tập trung lực lượng lớn không quân, hải quân kết hợp chiến tranh gián điệp
biệt kích đánh phá Quảng Bình từ ngày 5-8-1964, mở rộng từ ngày 7-2-1965 và kéo
dài cho đến ngày 15-1-1973. Quảng Bình là nơi bị đánh phá dài nhất, quy mô lớn
nhất và mức độ tàn phá nghiêm trọng nhất. Đối với ta, Quảng Bình là nơi thử thách
ác liệt nhất trong chiến tranh phá hoại để mở đường, bảo vệ đường và đảm bảo giao
thông vận tải chi viện chiến trường, bảo vệ tuyến đầu của miền Bắc, đặc biệt là
những thời điểm Mỹ đánh phá ngăn chặn, phong tỏa ác liệt nhất (từ tháng 4 đến
tháng 10-1968 và năm 1972). Dưới sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng các cấp, trực tiếp
là Tỉnh ủy Quảng Bình, quân dân địa phương đã thiết lập thế trận chiến tranh nhân
dân rộng khắp, kiên cường bám địa bàn để sản xuất và chiến đấu, lập nên những
chiến công xuất sắc, dẫn đầu miền Bắc về thành tích tiêu diệt máy bay và tàu chiến
Mỹ. Tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của cấp ủy Đảng và chính quyền Quảng Bình
trong kháng chiến chống Mỹ là lấy sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân để
đánh thắng chiến tranh phá hoại tổng lực của đế quốc Mỹ. Đại tướng Võ Nguyên
Giáp, Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam, đã khẳng định: “Nếu tổng kết
cuộc chiến tranh phá hoại toàn diện thì cần nghiên cứu ở Quảng Bình, đánh phá
giao thông vận tải phải nghiên cứu ở tuyến đường Hồ Chí Minh và đánh phá đô thị
thì phải tổng kết ở Hà Nội, Hải Phòng” [164, tr. 363]. Do đó, nghiên cứu cuộc
9. 5
chiến tranh nhân dân ở Quảng Bình trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước những
năm 1965-1973 là việc làm có ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn.
Về ý nghĩa khoa học, thông qua việc tái hiện diễn biến chính của cuộc chiến
tranh nhân dân ở Quảng Bình trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước những năm
1965-1973, luận án phản ánh bức tranh toàn cảnh về cơ sở hình thành và phát triển,
diễn biến chính của chiến tranh nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng, được vận
dụng một cách sáng tạo trên địa bàn Quảng Bình. Kết quả nghiên cứu của luận án
minh chứng Quảng Bình là một mẫu hình địa phương về việc kế thừa tri thức và
truyền thống chiến tranh nhân dân chống ngoại xâm trong lịch sử dân tộc, phát huy
thành đỉnh cao trong thời kì kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Qua đó, luận án góp
phần khẳng định Quảng Bình xứng đáng với vị trí tuyến đầu của miền Bắc trong
cuộc đối đầu với đế quốc Mỹ xâm lược.
Về ý nghĩa thực tiễn, luận án góp phần bổ sung nguồn tư liệu lịch sử kháng
chiến chống Mỹ của dân tộc nói chung và của Quảng Bình nói riêng. Luận án rút ra
những bài học kinh nghiệm giúp các nhà chính trị, quân sự nghiên cứu vận dụng để
hoạch định chính sách, đề ra những chủ trương sát đúng phục vụ công cuộc xây
dựng và bảo vệ đất nước hiện nay; luận án còn là tài liệu để giáo dục tinh thần yêu
nước và cách mạng cho các thế hệ nhân dân Quảng Bình, đặc biệt là đối với thế hệ
trẻ, nhằm khơi dậy lòng tự hào về truyền thống tốt đẹp của cha ông, để nỗ lực vươn
lên xây dựng quê hương giàu mạnh, góp phần vào sự nghiệp đổi mới đất nước do
Đảng khởi xướng và lãnh đạo.
Với ý nghĩa đó, chúng tôi chọn vấn đề “Chiến tranh nhân dân ở Quảng Bình
trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước những năm 1965-1973” làm đề tài Luận
án Tiến sĩ, chuyên ngành Lịch sử Việt Nam.
2. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận án là tái hiện một cách có hệ thống và tương đối toàn diện về
cuộc chiến tranh nhân dân ở Quảng Bình giai đoạn chống chiến tranh phá hoại của đế
quốc Mỹ những năm 1965-1973; làm rõ một số đặc điểm, ý nghĩa lịch sử và bài học
10. 6
kinh nghiệm trong việc vận dụng đường lối chiến tranh nhân dân vào điều kiện cụ thể
của Quảng Bình. Thông qua đó, khẳng định vị trí chiến lược, vai trò của chiến tranh
nhân dân ở Quảng Bình đối với sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của dân tộc.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, luận án thực hiện:
- Tổng quan tình hình nghiên cứu, đánh giá những vấn đề đã được nghiên cứu,
rút ra những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu.
- Làm rõ cơ sở hình thành và phát triển của cuộc chiến tranh nhân dân ở
Quảng Bình trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước những năm 1965-1973.
- Những diễn biến chính của cuộc chiến tranh nhân dân ở Quảng Bình trong
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước những năm 1965-1973 trên các mặt như quá trình
hình thành thế trận chiến tranh nhân dân, sản xuất, phòng tránh, đánh trả, đảm bảo
giao thông vận tải chi viện chiến trường, …
- Rút ra những đặc điểm, ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm của cuộc
chiến tranh nhân dân ở Quảng Bình trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước những
năm 1965-1973.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu của luận án là chiến tranh nhân dân ở Quảng Bình
trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước những năm 1965-1973, với những cơ sở
hình thành và phát triển, những diễn biến chính trên các lĩnh vực của chiến tranh.
Phạm vi nghiên cứu
Về thời gian, từ ngày 7-2-1965 đến ngày 15-1-1973, tức là thời điểm Mỹ mở
rộng và kết thúc chiến tranh phá hoại miền Bắc và là khung thời gian triển khai thế
trận chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ trên địa bàn
Quảng Bình.
Về không gian, toàn bộ địa bàn tỉnh Quảng Bình, gồm thị xã Đồng Hới và 6
huyện (Quảng Trạch, Bố Trạch, Quảng Ninh, Lệ Thủy, Tuyên Hóa và Minh Hóa)
nhưng tập trung ở những địa bàn, trọng điểm then chốt nhất. Tuy nhiên, trong một
số trường hợp nhất định, để làm rõ hơn nội dung, không gian có thể được mở rộng
11. 7
ra một số địa phương khác thuộc Quân khu 4 và thời gian có thể đẩy lùi về trước
ngày 7-2-1965 liên quan đến những hành động đánh phá hạn chế của đế quốc Mỹ
cũng như quá trình chuẩn bị cho cuộc chiến đấu của quân dân Quảng Bình.
Về nội dung, luận án tập trung nghiên cứu về quá trình hình thành và phát triển
thế trận chiến tranh nhân dân, chuyển hướng sản xuất sang thời chiến để đảm bảo
hậu cần cho chiến tranh nhân dân, công tác phòng tránh, đánh trả và đảm bảo giao
thông vận tải chi viện chiến trường.
4. NGUỒN TƯ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Về nguồn tư liệu
- Các công trình chuyên khảo trong và ngoài nước đã công bố, những bài viết
trên các tạp chí chuyên ngành, liên quan trực tiếp đến đề tài.
- Tài liệu lưu trữ tại Chi cục Văn thư Lưu trữ tỉnh Quảng Bình, Phòng Lưu trữ -
Văn phòng Tỉnh ủy Quảng Bình, Bộ Chỉ huy quân sự Quảng Bình, Phòng Khoa học
quân sự Quân khu 4, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III, bao gồm các báo cáo, biên bản,
chỉ thị, nghị quyết, nghị định, thông tư, kế hoạch, ... của Bộ Chính trị, Ban Bí thư,
Chính phủ, các Bộ, ngành Trung ương, Quân khu 4, Tỉnh ủy, Ủy ban Hành chính tỉnh
Quảng Bình, các Ban, ngành, huyện, thị xã thuộc tỉnh Quảng Bình, ...
- Tài liệu điều tra điền dã, hồi kí, những nhân chứng lịch sử, ...
Về phương pháp nghiên cứu
Chủ yếu luận án sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp lô-gic để trình
bày các vấn đề theo diễn tiến trình tự thời gian trong mối quan hệ móc xích với nhau.
Các phương pháp như văn bản học, phân tích, so sánh, tổng hợp, … kết hợp phỏng
vấn khai thác tư liệu từ các nhân chứng, phương pháp chuyên gia, ... cũng được lựa
chọn, sử dụng để xử lí tư liệu nhằm tái hiện một cách trung thực nhất diễn biến của
cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại của Mỹ ở Quảng Bình cũng
như rút ra những nhận định khách quan, phù hợp với thực tế lịch sử.
5. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN
Một là, luận án là công trình đầu tiên nghiên cứu có hệ thống và tương đối đầy
đủ về chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại ở Quảng Bình những năm
1965-1973.
12. 8
Hai là, luận án làm rõ những cơ sở hình thành và phát triển, những diễn biến
chính của cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại của quân và dân
Quảng Bình trong những năm 1965-1973, thông qua sự sáng tạo của quân dân
Quảng Bình trong việc vận dụng đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng vào thực
tế của địa phương; từ đó rút ra những đặc điểm, ý nghĩa lịch sử và bài học kinh
nghiệm đóng góp vào kho tàng tri thức và kinh nghiệm lịch sử trong chiến tranh vệ
quốc và chiến tranh giải phóng của dân tộc.
Ba là, luận án cung cấp nguồn tư liệu cho việc nghiên cứu, biên soạn và giảng
dạy lịch sử kháng chiến chống Mỹ, đặc biệt là lịch sử chống chiến tranh phá hoại ở
Quảng Bình; giáo dục truyền thống yêu nước, khơi dậy lòng tự hào và trách nhiệm
của thế hệ trẻ trong việc xây dựng và bảo vệ đất nước hiện nay, cũng như góp phần
vào kho tàng tri thức lịch sử chiến tranh cách mạng của dân tộc đồng thời cung cấp
luận cứ khoa học cho việc hoạch định chiến lược và xây dựng lực lượng quốc
phòng toàn dân phục vụ công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
6. BỐ CỤC CỦA LUẬN ÁN
Ngoài phần mở đầu (5 trang), kết luận (4 trang), tài liệu tham khảo (21 trang),
nội dung luận án dài 171 trang, chia làm 4 chương:
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu (16 trang)
Chương 2. Cơ sở hình thành và phát triển của chiến tranh nhân dân ở Quảng
Bình trong kháng chiến chống Mỹ những năm 1965-1973 (50 trang).
Chương 3. Quân và dân Quảng Bình tiến hành chiến tranh nhân dân chống
chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ những năm 1965-1973 (66 trang).
Chương 4. Đặc điểm, ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm của chiến tranh
nhân dân ở Quảng Bình những năm 1965-1973 (39 trang).
13. 9
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Tiếp cận dưới góc độ nghiên cứu chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá
hoại, đã có nhiều công trình nghiên cứu trong và ngoài nước được công bố, chủ yếu
như sau:
1.1.1. Các công trình nghiên cứu về chiến tranh nhân dân Việt Nam
1.1.1.1. Ở trong nước
Nghiên cứu về chiến tranh cách mạng nói chung, chiến tranh nhân dân trong
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nói riêng đã có rất nhiều công trình:
Võ Nguyên Giáp (1970), Mấy vấn đề về đường lối quân sự của Đảng ta, Nxb
Quân đội Nhân dân, Hà Nội; Nắm vững đường lối chiến tranh nhân dân đánh thắng
chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ (1972), Nxb Quân đội Nhân dân, Hà Nội;
Chiến tranh giải phóng dân tộc và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc (1979), Nxb Quân
đội Nhân dân, Hà Nội, ... Với vai trò là Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam,
Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, các công trình của Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã thể
hiện rõ nét những quan điểm về đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng và Nhà
nước Việt Nam, như về quá trình hình thành và phát triển đường lối chiến tranh
nhân dân Việt Nam của Đảng, về tư tưởng chiến tranh nhân dân của Hồ Chí Minh,
về mục đích, lực lượng, phương thức tiến hành, nghệ thuật quân sự của chiến tranh
nhân dân, nổi bật là tư tưởng toàn dân đánh giặc, cả nước đánh giặc, lấy lực lượng
vũ trang nhân dân làm nòng cốt. Tác giả khẳng định 1930-1945 là thời kì hình
thành đường lối khởi nghĩa toàn dân và chiến tranh nhân dân của Đảng, đi đến hoàn
chỉnh ở thời kì 1945-1954 và được nâng cao trong thời kì 1954-1975. Riêng về
công trình Nắm vững đường lối chiến tranh nhân dân đánh thắng chiến tranh phá
hoại của đế quốc Mỹ, gồm 5 bài viết, sau khi tổng kết những thắng lợi hết sức to lớn
mà quân và dân ta đã giành được trong cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại,
tác giả phân tích tính chất, mục đích thủ đoạn đánh phá cùng những thất bại của đế
14. 10
quốc Mỹ; nêu bật tính chất chính nghĩa của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước
của quân dân ta, đường lối chiến tranh, đặc biệt là đường lối chiến tranh nhân dân
chống chiến tranh phá hoại, từ đó rút ra những bài học qua 4 năm chống chiến tranh
phá hoại lần thứ nhất (1965-1968), trong đó nhấn mạnh vị trí chiến lược của chiến
tranh nhân dân ở địa phương và của các lực lượng vũ trang địa phương, cũng như
phát huy sức mạnh to lớn của chiến tranh nhân dân trên chiến trường sông biển.
Riêng đối với cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại, tác giả làm rõ
đó là một cuộc chiến đất đối không, đất đối biển, không đối không, không đối biển
và thậm chí là cả đất đối đất, với những nội dung cụ thể là “toàn dân đánh máy bay
và tàu chiến địch, toàn dân làm công tác phòng tránh, toàn dân đảm bảo giao thông
vận tải, kết hợp chặt chẽ giữa chiến đấu và sản xuất, thực hiện chuyển hướng kinh
tế để phục vụ quốc phòng, bảo đảm đời sống nhân dân, xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở miền Bắc, tiếp tục làm tròn nhiệm vụ chi viện miền Nam và chi viện quốc tế”
[100, tr. 62].
Văn Tiến Dũng (1979), Chiến tranh nhân dân quốc phòng toàn dân, tập 2,
Nxb. Quân đội Nhân dân, Hà Nội, luận giải nhiều vấn đề mang tính tổng kết về
truyền thống chiến tranh nhân dân trong lịch sử và chiến tranh nhân dân dưới sự
lãnh đạo của Đảng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc như về nghệ thuật quân sự
trong kháng chiến chống Mỹ, về một số kinh nghiệm trong chiến tranh nhân dân
chống chiến tranh phá hoại của Mỹ, như đánh giá đúng âm mưu chiến lược và khả
năng hoạt động của địch, có quyết tâm cao đối phó kịp thời và giành thắng lợi, tiến
hành chiến tranh toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính, đồng thời
ra sức tranh thủ sự viện trợ quốc tế, …
Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (1982, 1983), Chiến tranh nhân dân đánh
thắng chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, Nxb. Quân đội Nhân dân, Hà Nội,
trình bày đặc điểm tình hình và diễn biến của chiến tranh, rút ra 9 bài học kinh
nghiệm về chỉ đạo chiến tranh nhân dân đánh thắng không quân và hải quân Mỹ,
xây dựng lực lượng vũ trang trong chiến tranh, đảm bảo giao thông vận tải, chuyển
15. 11
hướng kinh tế, tổ chức phòng không nhân dân, … bảo vệ vững chắc hậu phương và
chi viện cho tiền tuyến.
Ban Chỉ đạo Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị (1995), Tổng kết
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Thắng lợi và bài học, Nxb. Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, trình bày các giai đoạn phát triển của cuộc kháng chiến chống Mỹ, rút
ra những bài học kinh nghiệm lớn, trong đó có “nghệ thuật tiến hành chiến tranh
nhân dân sáng tạo, tổ chức lực lượng cả nước đánh giặc”.
Viện Nghiên cứu Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh (1995),
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, tập II (1954-1975), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, trong chương X và XI đề cập những diễn biến chính của cuộc chiến đấu của
quân dân miền Bắc chống chiến tranh phá hoại của Mỹ.
Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (1997), Hậu phương chiến tranh nhân dân
Việt Nam (1945-1975), Nxb. Quân đội Nhân dân, Hà Nội, ngoài đề cập quá trình
xây dựng hậu phương vững mạnh toàn diện, làm chỗ dựa cho cách mạng miền
Nam, công trình dành phần quan trọng trình bày về xây dựng và phát huy tuyến vận
tải chiến lược chi viện cách mạng miền Nam, chủ yếu là qua tuyến đường Trường
Sơn. Công trình cũng rút ra những bài học kinh nghiệm lớn về phát huy vai trò hậu
phương trong chiến tranh nhân dân.
Ban Chỉ đạo Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị (2000), Chiến
tranh cách mạng Việt Nam 1945-1975. Thắng lợi và bài học, Nxb. Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, tổng kết nguyên nhân và diễn biến của cuộc chiến tranh cách mạng
30 năm (1945-1975), rút ra những bài học, trong đó có bài học về đường lối kháng
chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, tự lực cánh sinh, về hậu phương - căn cứ địa, về
vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong chiến tranh cách mạng giải
phóng dân tộc, …
Bộ Tổng Tham mưu (2001), Tổng kết chiến tranh nhân dân: Chuyên đề chỉ
đạo xây dựng và hoạt động chiến đấu của lực lượng phòng không địa phương
chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ trên miền Bắc (1954-1975), Nxb. Quân
đội Nhân dân, Hà Nội, làm rõ một số đặc điểm có liên quan đến quá trình chỉ đạo
16. 12
xây dựng và hoạt động của lực lượng phòng không địa phương, từ đó rút ra 4 bài
học kinh nghiệm, đó là thường xuyên nâng cao cảnh giác cách mạng, chủ động xây
dựng, phát triển lực lượng phòng không địa phương trong thế trận chiến tranh nhân
dân đối không; Vừa chỉ đạo đánh trả có hiệu quả máy bay địch, vừa chỉ đạo thực
hiện tốt việc sơ tán phòng tránh, khắc phục hậu quả ở địa phương; Quán triệt sâu
sắc tư tưởng, nguyên tắc tác chiến phòng không, vận dụng sáng tạo vào chỉ đạo tác
chiến phòng không địa phương, thực hiện cách đánh thích hợp có hiệu quả, kết hợp
phòng không địa phương với phòng không chủ lực; Phát huy vai trò lãnh đạo của
cấp ủy Đảng, quản lí điều hành của chính quyền, tham gia của các ngành, đoàn thể,
vai trò tham mưu và chỉ huy của cơ quan tham mưu phòng không các cấp.
Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2013), Lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nước (1954-1975), xuất bản lần thứ 2, Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự Thật, Hà
Nội, trong đó về cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của quân dân miền Bắc
được phản ánh trong các tập IV, V, VI, VII.
Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2015), Tổng kết chiến đấu chống đế quốc
Mỹ phong tỏa sông, biển miền Bắc bằng thủy lôi và bom từ trường những năm
1965-1973, Nxb. Quân đội Nhân dân, Hà Nội, tái hiện những nét đặc sắc, tiêu biểu
nhất về quá trình lãnh đạo, chỉ huy, tổ chức chiến đấu của quân dân ta, từng bước
đánh bại mọi âm mưu thủ đoạn đánh phá, phong tỏa bằng vũ khí công nghệ cao hết
sức hiểm độc của đế quốc Mỹ ở trên chiến trường sông biển thuộc quân khu 3 và 4
(gồm các tỉnh ven biển từ Quảng Ninh vào đến Vĩnh Linh), trong đó tập trung chủ
yếu ở một số vùng có ý nghĩa chiến lược như cảng Hải Phòng, cảng Gianh và Nhật
Lệ. Công trình làm rõ những loại vũ khí và thủ đoạn đánh phá, phong tỏa của Mỹ
cùng quá trình quân dân ta đối phó, làm vô hiệu hóa cuộc chiến phong tỏa. Trên cơ
sở đó, công trình rút ra kết quả, ý nghĩa và 7 bài học kinh nghiệm, trong đó có
“quán triệt sâu sắc đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng, … Không ngừng xây
dựng và củng cố thế trận chiến tranh nhân dân chống địch đánh phá phong tỏa”
[214, tr. 286, 356].
17. 13
Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2015), Lịch sử tư tưởng quân sự Việt Nam -
Tập IV: Từ năm 1945 đến năm 1975, Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự Thật, Hà Nội,
nghiên cứu tư tưởng quân sự của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam qua
quá trình lãnh đạo hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, trong đó có tư
tưởng tiến hành chiến tranh nhân dân, kháng chiến toàn dân toàn diện, dựa vào sức
mình là chính, đồng thời tranh thủ viện trợ quốc tế; tư tưởng xây dựng căn cứ địa,
hậu phương chiến tranh; vừa kháng chiến vừa kiến quốc; tư tưởng xây dựng lực
lượng vũ trang nhân dân ba thứ quân và nền quốc phòng toàn dân ở Việt Nam.
Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2015), Lịch sử tư tưởng quân sự Việt Nam -
Tập V: Tổng luận, Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, rút ra những vấn đề
chung nhất, có tính quy luật, xuyên suốt tiến trình lịch sử tư tưởng quân sự Việt
Nam, trong đó có tư tưởng chiến tranh nhân dân và nghệ thuật quân sự Việt Nam;
tư tưởng xây dựng căn cứ địa, hậu phương; tư tưởng xây dựng lực lượng vũ trang;
tư tưởng đại đoàn kết toàn dân, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Cùng với những công trình nghiên cứu đã viện dẫn trên đây, trong những thập
kỉ cuối của thế kỉ XX, rất nhiều công trình nghiên cứu về chiến tranh nhân dân đã
được công bố dưới hình thức chuyên khảo của các nhà xuất bản: Chính trị quốc gia,
Quân đội nhân dân, Khoa học xã hội, … và các chuyên luận liên quan đến vấn đề
chiến tranh nhân dân đăng trên các tạp chí: Cộng sản, Lịch sử Đảng, Nghiên cứu
Lịch sử, Lịch sử Quân sự và nhiều tạp chí, nội san của các cơ quan Trung ương và
địa phương.
Nhìn chung, qua các công trình trên đây, vấn đề chiến tranh nhân dân Việt
Nam - lí luận và thực tiễn đã được nghiên cứu kĩ dưới nhiều góc độ khác nhau.
Về lí luận, các công trình công bố đã tổng kết những thuộc tính, đặc điểm
và bài học kinh nghiệm từ truyền thống chống ngoại xâm trong lịch sử dân tộc,
được vận dụng và nâng cao thành lí luận về chiến tranh nhân dân trong thời đại
Hồ Chí Minh.
Về thực tiễn, các công trình đã tái hiện bức tranh toàn cảnh về chiến tranh
nhân dân trong bối cảnh cách mạng Việt Nam, nổi bật là cuộc vận động Cách mạng
18. 14
tháng Tám năm 1945, cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kì chống thực
dân Pháp và cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Đó là những nguồn tư liệu quý để chúng tôi kế thừa và làm cơ sở để nghiên
cứu về chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại ở Quảng Bình những năm
1965-1973.
1.1.1.2. Ở ngoài nước
Mc. T. Kahin and John Lewis (1967), The US in Vietnam (Mỹ ở Việt Nam),
Codell Publish, New York, tái hiện quá trình can thiệp của Mỹ vào Việt Nam cùng
tiến trình đi đến ném bom phá hoại miền Bắc nhằm ngăn chặn sự chi viện từ hậu
phương lớn cho cách mạng miền Nam. Từ thực tế của cuộc chiến đấu của nhân dân
miền Bắc chống chiến tranh phá hoại, các tác giả nhận thấy “những cuộc ném bom
của Mỹ không làm nao núng và khủng bố tinh thần dân chúng mà đã kích thích và
hun đúc họ. Ngay từ lúc quả bom Mỹ đầu tiên rơi xuống Bắc Việt Nam, đất nước
này đã kết lại thành một khối không gì lay chuyển được” [222, tr. 231-232]. Thậm
chí còn đi xa hơn, các tác giả khẳng định nếu Mỹ mở cuộc xâm lược miền Bắc sẽ
vấp phải cuộc phản công liên tục của một quân đội chính quy và một quốc gia toàn
du kích, buộc Mỹ cuối cùng phải rút lui.
T. Hoopes (1969), The limits of intervention (Những giới hạn của sự can
thiệp), David Mc. Kay Company, New York, sớm nhận ra việc Mỹ tăng cường ném
bom lại giúp miền Bắc mở rộng hệ thống giao thông vận tải cũng như mở ra những
biện pháp sáng tạo trong công tác phòng tránh, vận chuyển hàng hóa và chi viện
chiến trường miền Nam. Từ đó, tác giả cho rằng sức mạnh can thiệp của Mỹ là có
giới hạn và Nhà Trắng khó có thể đạt được mục đích trong cuộc chiến này khi phải
đối đầu với một dân tộc ngoan cường, đầy sáng tạo.
Jon Vandyke (1972), North’s Vietnam Strategy for survival (Chiến lược để tồn
tại của Bắc Việt Nam), Pacific Books, California, đi sâu nghiên cứu công tác tổ
chức hệ thống giao thông của Việt Nam Dân chủ cộng hòa. Tác giả nhận ra, để đảm
bảo cho công tác giao thông vận tải, chi viện chiến trường miền Nam, một lực
lượng lớn nhân công được huy động gồm công binh, công nhân giao thông, dân
19. 15
quân tự vệ, thanh niên xung phong với đủ lứa tuổi, không chỉ là những thanh niên
tuổi từ 15 đến 30 mà còn có cả người già, bà mẹ và thiếu niên. Những lực lượng này
vừa tự sản xuất đảm bảo lương thực vừa làm những công việc như vận chuyển đất
đá sửa đường, xây dựng công sự và hầm trú ẩn, bốc dỡ hàng hóa, di chuyển vũ khí
phòng không và tham gia tháo gỡ bom nổ chậm, … Nhờ đó, hệ thống giao thông
dày đặc gồm đường bộ, đường sắt, đường thủy trên toàn miền Bắc luôn được duy trì
hoạt động với sự nỗ lực tối đa, bất chấp mọi hiểm nguy của những người điều khiển
phương tiện cũng như người làm công tác đảm bảo bằng nhiều biện pháp ngụy
trang khéo léo và những nỗ lực vận chuyển phi thường.
US. Government Printing Office (1973), Causes, Origins and lessons of the
Vietnam War, May, 9, 10 and 11, 1972 (Nguyên nhân, nguồn gốc và bài học trong
chiến tranh Việt Nam), Washington, tập hợp những luận điểm chính của các học giả
và nghị sĩ Mỹ làm rõ nguồn gốc và nguyên nhân của việc Hoa Kỳ can dự vào cuộc
chiến đang diễn ra ở Việt Nam, từ đó rút ra những bài học cần thiết. Một trong
những bài học mà các nhà lập pháp Mỹ phát hiện ra là đánh giá đúng sức mạnh của
dân tộc Việt Nam: “Đối phương đã tìm ra “một chiến lược khôn khéo đến mức
nguy hiểm để đánh bại Mỹ. Chiến lược đó là tiến hành một cuộc chiến tranh giải
phóng dân tộc dựa trên nguyện vọng của nông dân Việt Nam muốn độc lập và công
bằng xã hội. Nước ngoài không bao giờ có thể địch nổi chiến lược đó” [224, tr. 91].
Gabriel Kolko (1985), Anatomy of a War: Vietnam, the United States and the
Modern Historical Experience, New York, The New Press. 1994 (Giải phẫu một
cuộc chiến tranh - Nước Mỹ và kinh nghiệm chiến tranh hiện đại), Người dịch:
Nguyễn Tấn Cưu, Nxb. Quân đội Nhân dân, Hà Nội, (2003), phân tích chi tiết, sâu
sắc các đối tượng trong cuộc chiến mà Mỹ tiến hành ở Việt Nam, gồm Hoa Kỳ, Việt
Nam cộng hòa, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam/Chính phủ Cách
mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Việt Nam Dân chủ cộng hòa,
đồng thời cảnh báo mọi sự can thiệp của Mỹ trong tương lai chắc chắn sẽ phải chịu
kết quả tai hại như ở Việt Nam, bởi vấp phải một dân tộc luôn lấy dân làm gốc, huy
20. 16
động được quần chúng nhân dân và lấy chiến tranh nhân dân làm nền tảng trong
công cuộc đấu tranh giành độc lập.
Những công trình đã công bố ở ngoài nước phần lớn đề cập đến chính sách,
âm mưu, thủ đoạn tiến hành chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ đối với miền Bắc
qua đó thấy được mức độ khốc liệt của chiến tranh phá hoại. Đồng thời, thông qua
việc phản ánh phản ứng và đối phó của nhân dân miền Bắc đối với chiến tranh phá
hoại của đế quốc Mỹ, các công trình này cũng thể hiện sự thừa nhận khách quan về
sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân đáp trả chiến tranh phá hoại tổng lực
của Mỹ. Đây là những luận cứ quan trọng để luận án đưa ra những nhận định khách
quan, khoa học.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu về chiến tranh nhân dân chống chiến
tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở Quảng Bình
1.1.2.1. Ở trong nước
- Những công trình nghiên cứu về chiến tranh nhân dân chống chiến tranh
phá hoại trên địa bàn Quân khu 4, trong đó có Quảng Bình
Bộ Tổng Tham mưu (2001), Tổng kết chiến tranh nhân dân địa phương:
Chuyên đề Vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ, chính quyền, đoàn thể và cơ
quan quân sự địa phương trên địa bàn Quân khu 4 trong kháng chiến chống thực
dân Pháp và đế quốc Mỹ (1946-1975), Nxb. Quân đội Nhân dân, Hà Nội. Sau khi
khái quát diễn biến về cuộc chiến tranh cách mạng 30 năm ở Quân khu 4, công trình
đã rút ra 5 bài học về việc phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, về xây dựng tổ chức,
nêu cao trách nhiệm và chỉ đạo các lực lượng tiến hành chiến tranh nhân dân trên
địa bàn Quân khu 4 qua hai cuộc kháng chiến.
Quân khu 4 (2001), Mặt trận giao thông vận tải trên địa bàn Quân khu 4
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Nxb. Quân đội Nhân dân, Hà Nội, tập
hợp những tham luận từ hội thảo cùng tên, đề cập đến nhiều khía cạnh của cuộc
chiến tranh phá hoại của Mỹ và cuộc chiến đấu của quân dân Quân khu 4 nói chung,
của các tỉnh ở Quân khu 4 nói riêng, trong đó có Quảng Bình, trên mặt trận giao
thông vận tải.
21. 17
Quân khu 4 (2005), Tổng kết chiến thuật trong kháng chiến chống thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ của lực lượng vũ trang Quân khu 4 (1945-1975), Nxb. Quân
đội Nhân dân, Hà Nội, sau khi trình bày những hình thức chiến thuật mà lực lượng
vũ trang Quân khu 4 đã thực hiện trong hai cuộc kháng chiến, công trình rút ra 5 bài
học kinh nghiệm có liên quan đến chiến tranh nhân dân là tăng cường vai trò lãnh
đạo của các cấp ủy Đảng và chỉ huy; chủ động đánh địch bằng mọi lực lượng, mọi
vũ khí, mọi hình thức ở trong mọi điều kiện địa hình và thời tiết; thực hiện ba bám:
bám địch, bám dân, bám đồng bằng trong thế trận chiến tranh nhân dân; kết hợp
chặt chẽ giữa chiến tranh du kích của các lực lượng vũ trang địa phương với chiến
tranh chính quy của bộ đội chủ lực; chú trọng, xây dựng củng cố mối quan hệ với
cách mạng Lào.
Bộ Tư lệnh Quân khu 4 - Cục Hậu cần (2007), Lịch sử hậu cần lực lượng vũ
trang Quân khu 4 (1945-2005), Nxb. Quân đội Nhân dân, Hà Nội, đề cập công tác
chuẩn bị về hậu cần cho lực lượng vũ trang trên địa bàn Quân khu 4 trong 2 cuộc
kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc hiện nay. Liên quan đến thời kì kháng chiến chống Mỹ, công trình có đề cập
công tác chi viện chiến trường Trị - Thiên và cũng như việc mở đường vận
chuyển, đảm bảo hậu cần, giải quyết hậu quả các chiến dịch lớn, … của lực lượng
hậu cần Quân khu 4.
Bộ Tư lệnh Quân khu 4 (2012), Lịch sử dân quân tự vệ Quân khu 4 (1945-
2010), Nxb. Quân đội Nhân dân, Hà Nội, dành chương II đề cập đến lực lượng dân
quân tự vệ ở Quân khu 4 trong cuộc kháng chiến chống Mỹ (1954-1975), rút ra
những bài học về vai trò của lực lượng dân quân tự vệ trong chiến tranh, về công tác
lãnh đạo chính trị, tư tưởng, tổ chức đối với dân quân tự vệ, về xây dựng thế trận
quốc phòng toàn dân, lấy dân quân tự vệ làm nòng cốt ở cơ sở.
Bộ Tư lệnh Quân khu 4 (2015), Lịch sử Quân khu 4 (1945-2015), tập 2: Thời
kì kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), tái bản bổ sung lần 1, Nxb. Quân
đội Nhân dân, Hà Nội, dành ra 4 chương (III, IV, V và VI) phản ánh cuộc kháng
chiến chống Mỹ của quân dân Quân khu 4, như về bối cảnh lịch sử, một số chủ
22. 18
trương của Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Quân khu, trong đó đối với Quảng Bình, những
chiến công tiêu biểu nhất trên lĩnh vực sản xuất và chiến đấu, đảm bảo giao thông
được ghi nhận. Trong chương kết, một trong những bài học kinh nghiệm rút ra từ
thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ trên địa bàn Quân khu 4 là đã động viên
được toàn dân phát huy vai trò chiến tranh nhân dân, góp phần đánh bại các loại hình
chiến tranh xâm lược.
- Những công trình nghiên cứu về công tác mở đường, chiến đấu bảo vệ
đường và đảm bảo vận chuyển trên đường Trường Sơn qua địa bàn Quảng Bình
Trận đồ bát quái xuyên rừng rậm do Cục Chính trị - Tổng cục xây dựng kinh tế
biên soạn năm 1979 trên cơ sở tập hợp những tư liệu của nước ngoài về sự hình thành
và phát triển của hệ thống đường Trường Sơn cùng cuộc chiến tranh ngăn chặn của
đế quốc Mỹ. Đoàn Thị Lợi (2004), Đường Hồ Chí Minh con đường huyền thoại,
Nxb. Quân đội Nhân dân; Phan Hữu Đại - Nguyễn Quốc Dũng (đồng chủ biên),
(1999), Lịch sử Đoàn 559 Bộ đội Trường Sơn đường Hồ Chí Minh, Nxb. Quân đội
Nhân dân, Hà Nội, Nguyễn Thế Kỷ - Nguyễn Sĩ Cứ (chủ biên), (2009), Trường Sơn
đường khát vọng, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, … Qua những công trình này,
quá trình xây dựng và chiến đấu, bảo đảm vận chuyển trên đường Trường Sơn trong
tình hình chiến tranh ngăn chặn, phá hoại của đế quốc Mỹ diễn ra ác liệt, được thể
hiện tương đối toàn diện và có hệ thống. Tuy nhiên, Quảng Bình với vị trí là trung
tâm, điểm khởi đầu của hệ thống đường chiến lược này lại chưa được nhấn mạnh nên
các công trình chưa cho thấy điểm khác biệt giữa chiến tranh ngăn chặn, phá hoại của
Mỹ ở Quảng Bình so với những nơi khác trên đường Trường Sơn.
- Những công trình nghiên cứu về Quảng Bình trong kháng chiến chống Mỹ
Ban Chấp hành Đảng bộ Quảng Bình (2000), Lịch sử Đảng bộ Quảng Bình,
tập II, 1954-1975, Đồng Hới; Đảng ủy Quân sự tỉnh Quảng Bình (2010), Lịch sử
Đảng bộ Quân sự tỉnh Quảng Bình (1945-2010), Nxb. Quân đội Nhân dân, Hà Nội,
đề cập tình hình, chủ trương của Tỉnh ủy và Đảng ủy Quân sự tỉnh Quảng Bình
trong lãnh đạo, chỉ đạo cùng những diễn biến nổi bật của cuộc kháng chiến chống
Mỹ cứu nước ở địa phương.
23. 19
Thường vụ Tỉnh ủy - Đảng ủy, Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Quảng Bình (1994),
Lịch sử Quảng Bình chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, là công trình đề cập khá toàn
diện cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của Quảng Bình (1954-1975). Ưu điểm
nổi bật của công trình này là có nguồn tư liệu gốc và nhân chứng phong phú, tái
hiện sinh động công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội cùng quá trình quân dân
Quảng Bình chiến đấu chống chiến tranh phá hoại, đảm bảo chi viện chiến trường,
làm nghĩa vụ của hậu phương. Luận án kế thừa nhiều tư liệu từ công trình này.
Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình (2012), Lịch sử hệ thống hành
chính nhà nước cấp tỉnh ở Quảng Bình (1945-2000), dành chương V đề cập công
tác tổ chức các lực lượng, điều hành các hoạt động quản lí xã hội, vừa sản xuất vừa
chiến đấu chống chiến tranh phá hoại, trong đó nhấn mạnh công tác chỉ đạo chuyển
hướng mọi hoạt động sang thời chiến, thiết lập thế trận chiến tranh nhân dân chống
chiến tranh phá hoại và những thành tích tiêu biểu trong sản xuất và chiến đấu.
Nguyễn Khắc Thái (2014), Lịch sử Quảng Bình, Nxb. Chính trị - Hành
chính, Hà Nội, dành chương 14 đề cập cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân
Quảng Bình, trong đó có những diễn biến chính của cuộc chiến đấu chống chiến
tranh phá hoại.
Về lịch sử các ngành có: Lịch sử phong trào đấu tranh cách mạng Phụ nữ tỉnh
Quảng Bình 1930-1975, sơ thảo, (1995); Lịch sử Y tế Quảng Bình 1945-1995, Đồng
Hới, (1996); Lịch sử phong trào Công nhân và Công đoàn tỉnh Quảng Bình, tập 1
(1885-1975) (1998); Lịch sử Bộ đội biên phòng Quảng Bình, tập 1 (1959-1995),
(1998); Lịch sử Giao thông vận tải tỉnh Quảng Bình 1885-1999, Nxb. Giao thông
vận tải, Hà Nội, (1999); Lực lượng vũ trang nhân dân huyện Quảng Ninh - 55 năm
xây dựng - chiến đấu - trưởng thành (1945-2000), (2000); Lịch sử Công an nhân
dân thành phố Đồng Hới 1945-2005, (2005); Những trận đánh tiêu biểu của lực
lượng vũ trang nhân dân tỉnh Quảng Bình, tập 1 (1945-1975), (2005); Lịch sử
Đảng bộ Khối cơ quan Dân Chính Đảng tỉnh Quảng Bình, tập 1 (1946-2005),
(2010); Nghiên cứu mối quan hệ hữu nghị và hợp tác đặc biệt giữa Quảng Bình,
Khăm Muộn và Savannakhet giai đoạn 1954-2000, Sở Ngoại vụ Quảng Bình,
(2011); Ban Tổ chức Tỉnh ủy Quảng Bình 80 năm xây dựng và trưởng thành (1930-
24. 20
2010), Đồng Hới, (2012); Lịch sử Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh và
phong trào thanh thiếu nhi tỉnh Quảng Bình, tập 1 (1930-2000), (2012); Lịch sử
ngành Tuyên giáo Quảng Bình giai đoạn 1930-2010), Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy
Quảng Bình, (2013); Lịch sử ngành Kiểm tra Đảng tỉnh Quảng Bình từ năm 1948
đến năm 2013, Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy Quảng Bình, (2014); Nghiên cứu quá trình
phát triển kinh tế hợp tác xã tỉnh Quảng Bình từ năm 1946 đến nay, Liên minh Hợp
tác xã tỉnh Quảng Bình, (2014); Lịch sử giao thông vận tải tỉnh Quảng Bình (1945-
2015), Nxb. Giao thông Vận tải, Hà Nội, (2015), … Tiếp cận truyền thống của các
ngành, ở những mức độ đậm nhạt khác nhau, lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nước (1954-1975) nói chung và tham gia chiến đấu chống chiến tranh phá hoại
của Mỹ những năm 1965-1973 nói riêng ở Quảng Bình được phản ánh trong sự đa
dạng về lực lượng toàn dân đánh giặc, với sự phong phú về hình thức chiến đấu, …
Về lịch sử Đảng bộ các địa phương có: Lịch sử Đảng bộ huyện Lệ Thủy, tập 2
(1954-1975), (2000); Lịch sử Đảng bộ huyện Quảng Ninh, tập 2 (1954-1975), Sơ
thảo, (2000); Lịch sử Đảng bộ huyện Bố Trạch, tập 2 (1954-1975), (2005); Lịch sử
Đảng bộ huyện Quảng Trạch, tập 2 (1954-1975), (2005); Lịch sử Đảng bộ huyện
Tuyên Hóa, tập 2 (1954-1975), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, (2006) … đề cập
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước ở các địa phương, trong đó có chiến đấu
chống chiến tranh phá hoại, với những sự kiện nổi bật ở cơ sở.
Mặc dù các công trình đã viện dẫn trên đây đều có đề cập đến nội hàm chiến
tranh nhân dân, nhưng mỗi công trình nhìn nhận vấn đề chiến tranh nhân dân ở
những góc nhìn khác nhau, chưa có công trình nào tái hiện đầy đủ bức tranh toàn
cảnh của chiến tranh nhân dân và chưa dành sự đánh giá, nhận định đầy đủ về các
thuộc tính bộc lộ từ cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại của đế
quốc Mỹ trong một thời gian dài từ trước năn 1965 đến năm 1973.
- Những luận án, luận văn đề cập chiến tranh nhân dân ở Quảng Bình trong
kháng chiến chống Mỹ
Nguyễn Khắc Thái (1977), Đảng bộ Quảng Bình lãnh đạo công tác xây dựng
lực lượng dân quân tự vệ trong những năm chống Mỹ (1965-1968), Luận án tốt
nghiệp ngành lịch sử Đảng, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, làm rõ quá trình
25. 21
Đảng bộ tỉnh Quảng Bình lãnh đạo công tác xây dựng lực lượng dân quân tự vệ làm
nòng cốt cho chiến tranh nhân dân ở cơ sở như về tư tưởng chính trị, về phát triển
lực lượng, về trang bị, về huấn luyện chiến đấu, về xây dựng làng xã chiến đấu, về
những chiến công mà dân quân tự vệ Quảng Bình lập được trong giai đoạn 1965-
1968, … Trên cơ sở đó, tác giả rút ra một số bài học kinh nghiệm như quán triệt
đường lối quốc phòng toàn dân, vũ trang toàn dân và chiến tranh nhân dân của
Đảng, về hình thức tổ chức lực lượng dân quân tự vệ, về mối quan hệ giữa công tác
chính trị với trang bị kĩ thuật, chiến đấu, … Phần phụ lục công phu, cung cấp nhiều
số liệu quan trọng về quá trình phát triển, tổ chức, chiến đấu của dân quân tự vệ
Quảng Bình giai đoạn 1965-1968.
Lê Văn Lợi (1977), Đảng bộ Quảng Bình lãnh đạo quân và dân toàn tỉnh
đánh thắng chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ trên mặt trận đảm bảo giao thông
vận tải (1965-1968), Luận văn tốt nghiệp ngành lịch sử Đảng, Trường Đại học
Tổng hợp Hà Nội, làm rõ quá trình Đảng bộ Quảng Bình tổ chức, lãnh đạo công tác
đảm bảo giao thông vận tải giai đoạn 1965-1968 như về việc chuyển hướng đảm
bảo giao thông vận tải những năm 1965-1966, tập trung các lực lượng để đảm bảo
giao thông vận tải, đánh bại chiến tranh phá hoại của Mỹ những năm 1966-1968.
Trên cơ sở đó, tác giả rút ra một số suy nghĩ về thành công cơ bản của Đảng bộ
Quảng Bình trong lãnh đạo, chỉ đạo đảm bảo giao thông vận tải như nghiêm chỉnh
chấp hành đường lối chống Mỹ cứu nước của Trung ương Đảng và vận dụng sáng
tạo đường lối đó vào thực tiễn, quá triệt đường lối chiến tranh nhân dân và nêu cao
tinh thần tự lực, dựa vào sức mạnh quần chúng, kết hợp chặt chẽ giữa củng cố quan
hệ sản xuất và tổ chức phân công lao động hợp lí để dành một phần lao động thích
đáng đảm bảo giao thông vận tải. Phần phụ lục cung cấp nhiều số liệu quan trọng về
cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ ở Quảng Bình và những thành tích mà quân dân
Quảng Bình đạt được trên mặt trận giao thông vận tải giai đoạn 1965-1968.
Đinh Phan Thủy Yến (2006), Quảng Bình kháng chiến chống Mỹ cứu nước
trên mặt trận giao thông vận tải (1965-1968), Luận văn Thạc sĩ Sử học, Trường Đại
học Sư phạm Huế; Thái Thị Lợi (2007), Lực lượng thanh niên xung phong tỉnh
26. 22
Quảng Bình trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1965-1975), Luận văn Thạc sĩ
Sử học, Trường Đại học Sư phạm Huế; Phan Thị Trà Giang (2010), Phong trào
“hai giỏi” ở Quảng Bình trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước những năm 1965-
1973, Luận văn Thạc sĩ Sử học, Trường Đại học Sư phạm Huế, … ở những mức độ
khác nhau lần lượt đề cập đến cuộc kháng chiến chống Mỹ của quân dân Quảng
Bình trên lĩnh vực giao thông vận tải, xây dựng hậu phương, chi viện chiến trường,
chủ yếu tập trung trong giai đoạn 1965-1968.
Trần Như Hiền (2016), Đảng bộ tỉnh Quảng Bình lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ
hậu phương từ năm 1964 đến năm 1975, Luận án Tiến sĩ Lịch sử Đảng, Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, làm rõ những cơ sở để Đảng bộ Quảng
Bình đề ra những chủ trương cùng quá trình lãnh đạo quân dân địa phương thực
hiện nhiệm vụ hậu phương trên các lĩnh vực: Xây dựng tiềm lực hậu phương về
kinh tế - chính trị - văn hóa, xây dựng lực lượng quốc phòng, chiến đấu bảo vệ địa
bàn và đảm bảo giao thông vận tải, chi viện cách mạng miền Nam và cách mạng
Lào trong thời kì 1964-1975, một số bài học về phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng
trong xây dựng hậu phương. Tuy đề cập đến nhiều vấn đề của chiến tranh nhân dân
ở Quảng Bình trong kháng chiến chống Mỹ nhưng dưới góc độ của chuyên ngành
lịch sử Đảng nên nội dung luận án tập trung vào những chủ trương và vai trò lãnh
đạo thực hiện nhiệm vụ hậu phương của Tỉnh ủy Quảng Bình.
Nhìn chung, các công trình chuyên khảo liên quan đến Quảng Bình trong
thời kì kháng chiến chống Mỹ, cứu nước dưới những góc nhìn khác nhau đã ít
nhiều đề cập đến vai trò lãnh đạo của cấp ủy Đảng, chính quyền, hoạt động của
lực lượng vũ trang, các lực lượng phục vụ chiến đấu và trực tiếp sản xuất, chiến
đấu trong thời kì kháng chiến chống Mỹ trên địa bàn Quảng Bình. Mặc dù chưa
có công trình nào phản ánh toàn diện các thành tố và thuộc tính của chiến tranh
nhân dân nhưng dưới nhiều góc độ khác nhau, các công trình này đã cung cấp
nguồn tư liệu lí luận và thực tiễn quan trọng để làm cơ sở xây dựng các luận đề
khoa học trong luận án này.
27. 23
1.1.2.2. Ở ngoài nước
Peter Weiss (1968), Réponse à Johnson sur les bombs ments limités (Trả lời
Johnson về những cuộc ném bom hạn chế), Seuil, Paris; trình bày diễn biến và
những thủ đoạn mà Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại ở Quảng Bình kể từ
ngày 5-8-1964, chỉ ra những thiệt hại to lớn về người và vật chất mà các cuộc ném
bom gây ra, như phá hủy hoàn toàn Đồng Hới, Ba Đồn và các huyện lị trong tỉnh.
Công trình cũng cho thấy trong chiến tranh khốc liệt, công tác phòng tránh và cứu
thương được quân dân Quảng Bình thực hiện rất tốt, đảm bảo cho hoạt động sản
xuất vẫn được duy trì ở tất cả các ngành như nông nghiệp, công nghiệp, thủ công
nghiệp và ngư nghiệp, làm ra những sản phẩm thiết yếu phục vụ cuộc sống cho
nhân dân địa phương cũng như chi viện cho chiến trường.
Alain Wasmes (1976), Vietnam, la feau du pachyderme (Việt Nam, tấm da của
loài thú da dày), Edition Socialies, Paris, khái quát quá trình hình thành và phát
triển của tuyến đường Trường Sơn, cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc của Mỹ,
trong đó đối với Quảng Bình, hậu quả của các trận ném bom tạo nên khung cảnh
như đang ở trên Mặt Trăng với những chết chóc và đổ nát hiện diện khắp mọi nơi,
nhất là ở Đồng Hới. Đồng thời, tác giả chứng kiến nghị lực phi thường của nhân
dân địa phương tham gia công tác sửa chữa đường sá phục vụ chi viện cách mạng
miền Nam.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu đã viện dẫn trên và hầu hết các công
trình nghiên cứu đã công bố liên quan đến luận án đã đề cập đến cơ sở hình thành
và những vấn đề lí luận về chiến tranh nhân dân. Dưới nhiều góc độ khác nhau,
những công trình nghiên cứu đã công bố đã đề cập ít nhiều đến diễn tiến cuộc kháng
chiến chống Mỹ, trực tiếp là cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của đế quốc
Mỹ, trong đó chứa đựng cả nhiệm vụ sản xuất, chiến đấu, đảm bảo giao thông vận
tải và chi viện chiến trường.
Có thể nói rằng, với sự phong phú của các hình thái, thế trận chiến tranh với
sự kết hợp khéo léo, hài hòa và sáng tạo giữa các thành tố làm nên chiến tranh nhân
dân như sản xuất và chiến đấu, phòng tránh với đánh trả, xây dựng hậu phương với
28. 24
chi viện tiền tuyến, những diễn tiến của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã
được đề cập dưới rất nhiều góc nhìn khác nhau, trên những đối tượng nghiên cứu
khác nhau. Tuy nhiên, vẫn chưa có một công trình nào nghiên cứu tương đối đầy đủ
và có hệ thống từ lí luận đến thực tiễn cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh
phá hoại của đế quốc Mỹ ở Quảng Bình những năm 1965-1973, rút ra những đặc
điểm, ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm vận dụng trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ tổ quốc trước mắt và lâu dài.
1.2. Những vấn đề đặt ra tiếp tục nghiên cứu
Trên cơ sở kế thừa có lựa chọn những công trình nghiên cứu đã có và đặc biệt
là những tài liệu khai thác được, căn cứ diễn biến thực tế của cuộc chiến tranh nhân
dân chống chiến tranh phá hoại ở Quảng Bình những năm 1965-1973, luận án tập
trung nghiên cứu những vấn đề chủ yếu sau đây:
- Cơ sở hình thành và phát triển của chiến tranh nhân dân ở Quảng Bình những
năm 1965-1973.
- Sự hình thành thế trận chiến tranh nhân dân ở Quảng Bình những năm
1965-1973.
- Công tác chuyển hướng kinh tế và đảm bảo duy trì sản xuất nhằm đảm bảo
hậu cần tại chỗ cho chiến tranh nhân dân và chi viện chiến trường ở Quảng Bình
những năm 1965-1973.
- Công tác đảm bảo giao thông vận tải trên địa bàn Quảng Bình bao gồm các
hoạt động mở đường, chiến đấu bảo vệ đường và vận tải chiến lược chi viện chiến
trường miền Nam.
- Công tác phòng không nhân dân ở Quảng Bình những năm 1965-1973, bao
gồm nội dung phòng tránh và đánh trả.
- Công tác đấu tranh chống gián điệp, biệt kích của Mỹ và chính quyền Sài
Gòn ở Quảng Bình những năm 1965-1973.
- Những đặc điểm, ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm rút ra từ cuộc
chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại của Mỹ ở Quảng Bình những
năm 1965-1973.
29. 25
Chương 2
CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
CỦA CHIẾN TRANH NHÂN DÂN Ở QUẢNG BÌNH
TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ NHỮNG NĂM 1965 - 1973
2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội và truyền thống yêu nước, cách
mạng của nhân dân Quảng Bình
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên
Quảng Bình là tỉnh ven biển Bắc Trung Bộ, có diện tích 8.065,27 km2
, tọa độ
địa lí phần đất liền giới hạn từ 170
05,02 đến 180
05,12 vĩ độ Bắc, 1050
36,55 đến
1060
059,37 kinh độ Đông. Quảng Bình có chiều ngang hẹp nhất của cả nước (nơi
rộng nhất 94,2km, nơi hẹp nhất 40,5km), phía Đông bờ biển dài 116km, phía Tây có
201,87 km biên giới với Lào, phía Bắc giáp tỉnh Hà Tĩnh với chiều dài 136,5km và
phía Nam giáp tỉnh Quảng Trị dài 78,8km. Nhìn chung, địa hình Quảng Bình thấp
dần từ Tây sang Đông và hẹp dần từ Bắc vào Nam, phân thành 4 vùng liên quan với
nhau trong một hình thái địa lí hoàn chỉnh.
Vùng rừng núi ở phía Tây rộng 5.236,16 km2
(chiếm 65% diện tích tự nhiên),
địa hình hiểm trở, nhiều sông suối, bị chia cắt mạnh nên dễ bị đối phương lợi dụng
sơ hở xâm nhập, hoạt động biệt kích ta khó phát hiện, truy lùng. Ngoài ra, Quảng
Bình còn có các dãy núi chạy ra sát biển, như Đèo Ngang và mũi Roòn. Những dãy
núi này có thể xây dựng trận địa phòng thủ, khống chế vùng đồng bằng, tổ chức các
trạm quan sát, trinh sát, cảnh giới trên không, trên biển.
Vùng gò đồi rộng 1.677,95km2
(chiếm 19,7% diện tích tự nhiên), có độ cao từ
50-250m, là vùng đệm tiếp giáp giữa rừng núi và đồng bằng. Vùng này thuận lợi cho
ta triển khai lực lượng, sơ tán giãn dân, làm công trình và các đường vòng tránh.
Vùng đồng bằng rộng 866,9km2
(chiếm 10,95% diện tích tự nhiên), nằm ở hạ
lưu các con sông. Vùng này có nhiều đồng lầy, nhiều cầu phà, tập trung đường sá và
các đầu mối giao thông quan trọng, dân cư đông đúc, thuận lợi cho việc huy động
sức người sức của tương đối lớn để đảm bảo giao thông vận tải, chiến đấu và phục
30. 26
vụ chiến đấu. Trong chiến tranh phá hoại, khi địch tập trung đánh mạnh, nhất là
bằng máy bay và tàu chiến, ta khó bảo vệ mục tiêu, khó cơ động và triển khai lực
lượng, khó bố trí mạng hỏa lực và phòng vệ có chiều sâu, hỗ trợ nhau đắc lực, khó
cấu trúc công sự vững chắc.
Vùng ven biển ngoài nguồn lợi lớn về thủy hải sản còn có một số cảng như
Roòn, Gianh, Nhật Lệ, ... thuận tiện cho việc phát triển giao thông đường biển, kết
hợp vận chuyển đường biển và đường sông. Tuy nhiên, trong điều kiện hải quân,
không quân và các lực lượng bảo vệ bờ biển chưa lớn mạnh, công tác bố phòng, bảo
vệ và chống địch xâm nhập, đánh phá còn nhiều khó khăn. Mặt khác, các cửa biển
nhỏ, cạn chỉ có thể sử dụng tàu thuyền nhỏ và bị ảnh hưởng bởi mùa mưa bão. Dọc
bờ biển có nhiều cồn cát lớn, địa hình trống trải, khiến địch có thể dùng tàu chiến
vào gần bờ, bắn phá sâu vào đất liền. Ngược lại, do các cồn cát che khuất tầm nhìn
nên chúng phải dùng khí tài quan sát và hiệu chỉnh bắn. Vì vậy, ta có thể bố trí các
trận địa hỏa lực để đánh trả trong điều kiện phải đảm bảo công sự vững chắc và
ngụy trang tốt trận địa.
Vùng biển Quảng Bình mực nước tương đối cạn, ít có điều kiện cho tàu đổ bộ
nhưng các tàu khu trục và tuần dương Mỹ có thể vào cách bờ 5km và tàu biệt kích
là 1-3km. Một số đảo ven bờ như Hòn La, đảo Yến, Hòn Gió, Hòn Nấm, Hòn Cọ
hay các mũi đèo Ngang và Roòn, ta có thể bố trí hỏa lực để khống chế vùng biển và
đặt các trạm quan sát cảnh giới.
Quảng Bình có các con lớn sông là Roòn, Gianh (gồm 4 nguồn: Rào Nậy, Rào
Trổ, Rào Nam và Rào Son), Lý Hòa, Dinh và Nhật Lệ (gồm 2 nguồn: Kiến Giang
và Long Đại), chủ yếu chảy theo hướng Tây - Đông (trừ sông Nhật Lệ chảy hướng
Tây Nam - Đông Bắc). Các sông đều ngắn, dốc nên vào mùa mưa sẽ hứng một
lượng nước khổng lồ từ dãy Trường Sơn đổ xuống, gây nên lũ lụt và tạo thành
chướng ngại thiên nhiên lớn, chia cắt địa hình, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản
xuất và giao thông vận tải. Với đặc điểm đó, trong thời bình việc khắc phục lũ lụt,
lầy úng đã khó thì trong chiến tranh, địch tập trung đánh phá các điểm vượt sông và
các khu vực lầy lội sẽ càng thêm gây khó khăn cho ta. Riêng sông Nhật Lệ, do
31. 27
hướng chảy của mình lại tạo điều kiện thuận lợi hình thành tuyến vận tải từ cảng
Nhật Lệ đi về phía Nam hoặc đi sâu vào chân dãy Trường Sơn, nơi có các kho hàng
tập kết của Đoàn 559. Tuyến vận tải này đặc biệt phát huy vai trò nhất là vào những
thời điểm Quốc lộ 1 và Đường 15 bị ách tắc.
Thời tiết ở Quảng Bình chia làm 2 mùa rõ rệt: mùa mưa từ tháng 8 đến tháng
12, mùa khô kéo dài từ đầu năm đến tháng 7. Từ tháng 10 năm trước đến tháng 3
năm sau, Quảng Bình chịu ảnh hưởng mạnh của gió mùa Đông Bắc, có nhiều mưa
phùn và lạnh. Vào tháng 1 và 2 hàng năm, vùng trung du và miền núi có sương mù
từ chiều hôm trước đến giữa sáng hôm sau, khiến tầm nhìn bị hạn chế xuống dưới
1.000m. Điều kiện này vừa có thuận lợi cho ta (như mây mù, mưa phùn hạn chế
hoạt động của máy bay địch) nhưng mặt khác, khi bị đánh phá thì tác hại lại kéo
dài, khó khắc phục. Ở Quảng Bình, mùa mưa bão hàng năm kéo dài từ tháng 9 đến
tháng 12, gây lũ lụt nghiêm trọng. Trong điều kiện này, máy bay và tàu chiến địch
cũng không hoạt động được. Do đó, việc nghiên cứu kĩ yếu tố thời tiết để tìm giải
pháp khắc phục khó khăn và phát huy thuận lợi nhằm hạn chế đến mức tối đa hoạt
động đánh phá của đối phương là vấn đề mang tính thường trực của quân dân
Quảng Bình.
Như vậy, đặc điểm tự nhiên của Quảng Bình vừa có thuận lợi cho việc triển
khai thế trận chiến tranh nhân dân như địa hình nhiều rừng núi, hang động có thể
xây dựng các căn cứ, kho tàng, che dấu lực lượng cũng như nhanh chóng sử dụng
lực lượng tại chỗ cơ động đánh địch xâm nhập, … Trong trường hợp bị chia cắt,
mỗi vùng là một khu phòng thủ hoàn chỉnh. Ở vùng nông thôn đồng bằng, dân cư
sống tập trung ven các trục đường nên dễ huy động được nguồn nhân lực lớn để bảo
đảm giao thông khi cần thiết. Tuy vậy, nhìn chung điều kiện tự nhiên của Quảng
Bình trong chiến tranh khó khăn là cơ bản, trong đó lớn nhất là địa hình bị chia cắt
mạnh nên khó cho việc mở đường mới cũng như sửa chữa khi gặp mưa lũ hoặc bị
địch đánh phá. Do đó, công tác chi viện cách mạng miền Nam sẽ gặp rất nhiều khó
khăn. Địa thế hẹp bề ngang với nhiều cửa sông và mỏm núi ăn ra biển khó cho việc
phòng thủ trước những âm mưu xâm nhập bằng biệt kích hoặc tập kích, đổ bộ của
32. 28
địch hòng biến thành “nút chặn” con đường chi viện cách mạng miền Nam, chia
cắt, uy hiếp các mục tiêu nội địa.
Với đặc điểm và điều kiện tự nhiên, vị trí địa lí có ý nghĩa chiến lược quan
trọng như vậy, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975), Quảng
Bình cùng với Vĩnh Linh là tuyến đầu của miền Bắc xã hội chủ nghĩa, là hậu
phương trực tiếp của cách mạng miền Nam, trước hết là đối với Trị - Thiên. Với
tầm nhìn chiến lược, nhận rõ vị trí địa – chính trị, địa - quân sự của Quảng Bình,
ngay từ lần vào thăm (16-6-1957), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Quảng Bình
cùng với Vĩnh Linh ở tuyến đầu miền Bắc, tiếp giáp miền Nam. Mọi việc làm tốt hay
xấu của các cô, các chú ở đây đều có ảnh hưởng nhất định đến cách mạng miền
Nam, đều có ý nghĩa đối với việc bảo vệ miền Bắc. Nếu kẻ địch có hành động gì, thì
Quảng Bình, Vĩnh Linh phải đương đầu với chúng trước hết và phải đánh thắng
chúng trước hết” [40, tr. 278].
2.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội
2.1.2.1. Về kinh tế
Cho đến trước cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ (1965), nền kinh tế Quảng
Bình chủ yếu dựa vào nông nghiệp. Qua cải cách ruộng đất, hợp tác hóa nông
nghiệp và cải tạo xã hội chủ nghĩa, đến năm 1960, có 95% số hộ tham gia hợp tác
xã nông nghiệp, 74% số hộ vào hợp tác xã tín dụng, 66,6% hộ tham gia hợp tác xã
mua bán, 90,6% thợ thủ công tham gia hợp tác xã thủ công nghiệp, 32 hộ tư sản ở
Đồng Hới và Ba Đồn tham gia công tư hợp doanh, thành lập mới 7 xí nghiệp sản
xuất kinh doanh [33, tr. 90]. Nổi bật trong sản xuất nông nghiệp là Hợp tác xã Đại
Phong (Lệ Thủy), ngọn cờ đầu của phong trào hợp tác xã nông nghiệp toàn miền
Bắc. Trong ngư nghiệp, Quang Phú (Đồng Hới) là ngọn cờ đầu của hợp tác xã
nghề cá toàn miền Bắc. Trong những năm 1960-1962, phong trào thi đua “học
tập, tiến kịp và vượt Hợp tác xã Đại Phong” được phát động và dấy lên trong toàn
tỉnh. Kết quả, đến cuối năm 1962 có 200/780 hợp tác xã đạt danh hiệu “Hợp tác
xã Đại Phong”. Cùng với việc đẩy mạnh áp dụng khoa học kĩ thuật vào sản xuất
nông nghiệp, một loạt công trình thủy lợi được xây dựng như đê Hạc Hải, Rào
33. 29
Sen, Cẩm Ly (Lệ Thủy), Ba Nương (Tuyên Hóa), Sông Thai, Cự Nẫm (Bố Trạch),
… đã góp phần đưa năng suất lương thực tăng lên. Năm 1962, toàn tỉnh đạt sản
lượng 119.290 tấn, bình quân đầu người là 329kg (so với năm 1960 cao hơn
29.490 tấn và 29kg) [196, tr. 136]. Nhờ vậy, nhiều hợp tác xã trước đây thiếu ăn
nay đã tự túc được lương thực và nhiều hợp tác xã từ tự túc lương thực có dư thừa
bán nghĩa vụ cho nhà nước.
Trên lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp, năm 1960, Quảng Bình có 18 xí nghiệp
công nghiệp quốc doanh, 4 xí nghiệp công tư hợp doanh và 2 xí nghiệp hợp tác.
Tỉnh ủy và Ủy ban Hành chính tỉnh có những chính sách và biện pháp chỉ đạo để
phát triển mạnh công nghiệp địa phương một cách vững chắc, xây dựng tiểu thủ
công nghiệp tiến dần lên cơ giới, đảm bảo cung cấp một phần tư liệu sản xuất, vật
phẩm tiêu dùng và vật liệu xây dựng. Kết quả, đến năm 1965, toàn tỉnh có 31 xí
nghiệp quốc doanh, 116 hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp, trong đó quan trọng và có
quy mô khá như xí nghiệp cơ khí 3-2, xí nghiệp cưa mộc Ba Đồn, xí nghiệp cưa
mộc Trị Thiên, xưởng cưa xẻ Ba Rền, xưởng gạch ngói Phúc Duệ, xí nghiệp đá Bến
Tiêm, xí nghiệp tàu Đồng Hới, xí nghiệp chế biến hải sản Bảo Ninh, xí nghiệp rượu
dâu Đồng Hới, …
Như vậy, phần lớn các xí nghiệp thủ công nghiệp ở Quảng Bình nặng về chế
biến thô từ nguồn tài nguyên tại chỗ của địa phương (gỗ, đá, thủy sản, …) nên trong
điều kiện có chiến tranh, những cơ sở này dễ phân tán và vẫn duy trì được sản xuất
bình thường, đảm bảo cung cấp vật liệu đá và gỗ phục vụ sửa chữa đường sá, xây
dựng hầm hào phòng tránh, … Mặt khác, do sản xuất thuần túy nông nghiệp nên
các mục tiêu kinh tế ở Quảng Bình rất phân tán, hạn chế được thiệt hại bởi các cuộc
đánh phá của đối phương, ngoại trừ những công trình thủy lợi.
Điều quan trọng là việc xây dựng được phong trào hợp tác xã mạnh về nhiều
mặt là điều kiện đảm bảo cho chiến tranh nhân dân ở Quảng Bình phát huy được ưu
thế của mình như chủ động được việc bố trí, sắp xếp, huy động nhân lực sản xuất,
chiến đấu và phục vụ chiến đấu cũng như làm công tác chi viện cách mạng miền
Nam như tham gia xây dựng, sửa chữa đường sá, vận chuyển hàng hóa và hỗ trợ về
34. 30
mọi mặt cho chiến trường Trị - Thiên, chiến trường Lào, ngay cả khi có một bộ
phận lớn lực lượng thanh niên đã lên đường nhập ngũ.
2.1.2.2. Về xã hội
Cho đến năm 1965, dân số Quảng Bình có khoảng 41 vạn người, đa số là
người Kinh, nhưng phân bố không đều. Vùng miền núi rộng lớn chỉ có khoảng
4.000 người thuộc các dân tộc như Vân Kiều, Chứt sống rải rác trong các bản cách
nhau hàng ngày đường. Vùng ven biển có khoảng 24.000 người nhưng tập trung
chủ yếu ở các cửa sông. Do vậy, có những quãng biên giới, bờ biển dài 20-30km
không có người ở, dễ bị địch lợi dụng sơ hở để hoạt động gián điệp, biệt kích, xâm
nhập nội địa để chống phá. Trong khi đó, vùng đồng bằng nhỏ hẹp lại tập trung hơn
90% dân số bám theo các trục đường và ven sông [168, tr. 3]. Tuy có thuận lợi là dễ
huy động nguồn nhân lực lớn khi có yêu cầu nhưng với mật độ quá đông trên một
diện hẹp rất khó cho việc tổ chức phòng tránh, hạn chế đến mức thấp nhất thiệt hại
về người và tài sản khi bị đánh phá cũng như cơ động lực lượng để đánh trả.
Việc dân số phân bố không đều gây ảnh hưởng lớn đến phát triển kinh tế - xã
hội cũng như đảm bảo an ninh, quốc phòng. Vùng miền núi rộng lớn tuy có nhiều
tiềm năng để phát triển nhưng còn quá thưa dân, trình độ nhận thức của đồng bào
dân tộc thiểu số còn hạn chế là khó khăn rất lớn trong việc khai thác tài nguyên
cũng như góp phần đấu tranh chống các hoạt động xâm nhập, phá hoại của địch.
Trong những năm trước chiến tranh, việc khai thác khu vực cận sơn đã được chú ý
bằng việc xây dựng một số nông trường dọc theo Đường 15 như Nông trường 1-5,
Nông trường Việt - Trung, Nông trường Lệ - Ninh, … Đây thực chất là mô hình quân
đội làm kinh tế trong thời bình, góp phần quan trọng thực hiện kinh tế kết hợp với
quốc phòng, hình thành tuyến hậu phương chiến lược trong chiến tranh 1
. Tuy nhiên,
những vùng kinh tế mới như trên vẫn còn ít, một mảng lớn núi rừng vẫn còn bỏ trống.
Đây là địa bàn mà đối phương thường xuyên lợi dụng để hoạt động biệt kích. Khi
chiến tranh phá hoại của Mỹ diễn ra, phần lớn các tuyến đường chi viện cách mạng
1
. Như Nông trường Việt - Trung có thể sửa chữa lớn 1.000 ô tô/năm, có sức chứa 2 sư đoàn
bộ binh.
35. 31
miền Nam đều đi qua địa bàn miền núi Quảng Bình nhưng việc huy động nguồn nhân
lực và vật lực tại chỗ để xây dựng, sửa chữa gặp rất nhiều khó khăn, chủ yếu phải đưa
thanh niên xung phong từ đồng bằng hoặc các tỉnh phía Bắc vào thực hiện.
Nhân dân Quảng Bình đa phần theo tín ngưỡng cổ truyền, số ít theo Phật giáo
và Thiên Chúa giáo. Từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, ở Quảng Bình không
còn tổ chức giáo hội Phật giáo nên không có những hoạt động phật sự. Thiên Chúa
giáo có khoảng 5 vạn người, tập trung ở Quảng Trạch và một số xã thuộc Tuyên
Hóa, Bố Trạch. Nhìn chung, đồng bào có truyền thống kính Chúa yêu nước, có
những đóng góp nhất định đối với công cuộc kháng chiến, giải phóng dân tộc. Sau
Hiệp định Genève (21-7-1954), bằng các biện pháp tuyên truyền, cưỡng ép và dụ
dỗ, chính quyền Ngô Đình Diệm đã đưa hơn 1 vạn người vào Nam [115, tr. 29],
trong đó phần lớn là đồng bào Thiên Chúa giáo. Thực dân Pháp còn cài lại nhiều
phần tử tay sai nhằm phá hoại công cuộc xây dựng chế độ mới. Mặt khác, khi tiến
hành phá hoại miền Bắc, địch lợi dụng những vùng ven biển và nơi tập trung đồng
bào Thiên Chúa giáo để tung người xâm nhập, tuyên truyền, kích động chống phá
chính quyền và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Do đó, song song với ổn định
mọi mặt đời sống xã hội sau chiến tranh, việc đấu tranh nhằm phát hiện, đấu tranh
với những phần tử phản động, làm sạch địa bàn, đảm bảo an toàn cho tuyến đầu
miền Bắc luôn là nhiệm vụ thường trực của quân dân Quảng Bình.
Nhìn chung, cộng đồng cư dân ở Quảng Bình tương đối thuần nhất. Nội bộ
nhân dân đoàn kết, thương yêu đùm bọc lẫn nhau. Nhân dân các dân tộc, tôn giáo
đều một lòng tin tưởng vào đường lối cách mạng của Đảng, cùng chia sẻ những
khó khăn, hỗ trợ nhau trong sản xuất và tích cực đóng góp sức người, sức của cho
sự nghiệp cách mạng nói chung, cho công cuộc bảo vệ quê hương, đất nước nói
riêng. Đây là một thuận lợi cơ bản để cấp ủy Đảng và chính quyền huy động mọi
lực lượng tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân chống thực dân Pháp và đế quốc
Mỹ xâm lược.
36. 32
2.1.3. Truyền thống yêu nước và cách mạng của nhân dân Quảng Bình
Quảng Bình là vùng đất thụ ứng, tiếp biến và lan tỏa văn hóa cùng với quá
trình mở nước để xác lập chủ quyền trên dải đất Việt Nam hình chữ S và vùng biển
đảo rộng lớn ngày nay. Đây là địa bàn giao thoa của văn minh Ấn Độ - Trung Hoa,
của nền văn hóa Đông Sơn - Sa Huỳnh, của các nhóm ngôn ngữ Việt - Mường, một
thời biên viễn giữa Đại Việt với Champa, cũng là vùng đất nhiều lần là biên giới
chia cắt quốc gia/ vùng miền. Để sinh tồn, nhân dân Quảng Bình đã tạo lập cho
mình một “sức sống linh hoạt, nội lực thâm hậu, khả năng chịu đựng, hóa giải, gan
góc, nghị lực, bền bỉ và có biệt tài phát huy năng lực ấy, vượt khỏi không gian sinh
tồn nhỏ hẹp vốn có, để trở thành một thành phần quan trọng của sức mạnh quốc
gia” [158, tr. 87].
Từ sau năm 1069, vùng đất Quảng Bình (gồm hai châu Bố Chính và Địa Lý)
trở thành một phần của quốc gia Đại Việt. Cùng với quá trình di cư lập làng, nhân
dân Quảng Bình tham gia tích cực công cuộc khai phá vùng đất mới, cùng với triều
đình giữ yên bờ cõi. Trong cuộc kháng chiến lần thứ hai chống quân Mông -
Nguyên xâm lược năm 1285, nhân dân Quảng Bình đã phối hợp tích cực với quân
triều đình chặn đánh quyết liệt, làm chậm bước tiến của đạo quân Toa Đô trên
đường từ Chiêm Thành ra Bắc. Nửa đầu thế kỉ XV, nhân dân Quảng Bình đã nhất
loạt nổi dậy phối hợp với nghĩa quân Lam Sơn do Trần Nguyên Hãn từ Nghệ An
kéo vào giải phóng Tân Bình.
Trong phong trào Tây Sơn cuối thế kỉ XVIII, nhân dân Quảng Bình hăng hái
tham gia đại quân của Quang Trung - Nguyễn Huệ, góp phần làm nên đại thắng
Xuân Kỉ Dậu 1789, quét sạch 29 vạn quân Thanh xâm lược ra khỏi đất nước.
Cuối thế kỉ XIX, trong phong trào Cần Vương, triều đình kháng chiến Hàm
Nghi chọn Quảng Bình làm nơi đứng chân. Tại đây, “kẻ có thế, người có tiền, mộ
phu binh lính, đổi nhà làm trường diễn võ, mang cơ nghiệp ra giúp quân lương, bỏ
cày cuốc cầm gươm súng” [119, tr. 21]. Những thủ lĩnh ở địa phương như Nguyễn
Phạm Tuân, Lê Trực, Đoàn Chí Tuân, Mai Lượng, Lê Mô Khởi, Đề Én, Đề Chít,
Hoàng Phúc, ... vốn là những người có uy tín nên khi họ đứng ra mộ quân, tập hợp
37. 33
lực lượng, đã được đông đảo nhân dân hưởng ứng. Chính những đội nghĩa quân
khắp nơi trong tỉnh đã kết thành một thế trận bao vây quân Pháp, nhiều phen gây
cho chúng những tổn thất lớn. Qua 3 năm kháng chiến anh dũng và sôi nổi của nhân
dân Quảng Bình dưới ngọn cờ Cần Vương (1885-1888), có thể thấy về thực chất
đây là cuộc chiến tranh của nhân dân chống Pháp dưới sự lãnh đạo của những sĩ phu
yêu nước dưới danh nghĩa “Cần Vương” để tập hợp lực lượng. Nguồn gốc sức
mạnh của phong trào ấy chính là của nhân dân, chủ yếu là nông dân Quảng Bình
trong cuộc chiến chống lại thực dân Pháp xâm lược để bảo vệ xóm làng, quê hương.
Triều đình Hàm Nghi đã dựa vào phong trào mạnh mẽ, rộng lớn của nhân dân mà
tồn tại và phong trào Cần Vương của nhân dân cả nước nói chung, của nhân dân
Minh Hóa, Tuyên Hóa và các địa phương ở Quảng Bình nói riêng chính là gạch nối
để ngọn lửa yêu nước không những không bị gián đoạn mà còn có cơ hội bùng phát
trong thời kì đấu tranh giải phóng dân tộc giai đoạn sau [152].
Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (1930), nhân dân Quảng Bình sớm
theo Đảng làm cách mạng. Trong Cách mạng tháng Tám 1945, khởi nghĩa giành
chính quyền ở Quảng Bình, bạo lực cách mạng của quần chúng nhân dân được biểu
hiện dưới hình thức biểu tình chính trị là chủ yếu và quyết định thắng lợi. Lực
lượng tự vệ vũ trang đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ tinh thần đấu tranh
của nhân dân, thị uy và làm áp lực mạnh mẽ cho Ủy ban khởi nghĩa tiến hành thuyết
phục và bắt buộc quan lại Nam triều trao chính quyền cho nhân dân. Tại một số
phủ, huyện như Quảng Ninh, Lệ Thủy và Tuyên Hóa, Ủy ban khởi nghĩa đã dùng
đò, phà chuyên chở tự vệ và quần chúng nhân dân về phủ, huyện lị tiến hành khởi
nghĩa. Hàng trăm quần chúng của phủ Quảng Ninh đã tham gia giành chính quyền ở
thị xã Đồng Hới [116, tr. 511-512].
Từ cuối tháng 3-1947, khi thực dân Pháp tấn công Quảng Bình, quán triệt
đường lối kháng chiến “toàn dân, toàn diện” của Đảng, thực hiện khẩu hiệu “mỗi
người dân là một chiến sĩ, mỗi làng xóm là một pháo đài”, công tác xây dựng làng
chiến đấu được đẩy mạnh khắp các địa phương trong tỉnh. Nhân dân huy động các
loại tre trồng kín quanh làng, làm cổng làng bằng tre gai, tổ chức tuần tra canh gác,
38. 34
phát hiện và kiểm tra những người lạ mặt vào làng. Hệ thống hầm hào, công sự
được đào đắp từ xóm này sang xóm khác, kết hợp với hầm chông, bãi mìn theo
phương án chiến đấu đánh ngoài làng, đánh trong làng. Một số khu vực trống trải
được cắm chông cao để đề phòng địch đổ bộ đường không, tiêu biểu đầu tiên ở
Quảng Bình trong kháng chiến chống Pháp có thể kể đến như Cự Nẫm (Bố Trạch),
Cảnh Dương (Quảng Trạch), Hoàn Lão (Bố Trạch), Hiển Lộc (Quảng Ninh), Hưng
Đạo (Lệ Thủy), [102, tr. 529].
Với tinh thần “Quảng Bình quật khởi”, làng chiến đấu đã tạo nên thế trận
chiến tranh nhân dân rộng khắp, một “thiên la địa võng” đánh địch mọi nơi mọi
lúc, tạo cơ sở cho lực lượng vũ trang của tỉnh mở những cuộc tấn công lớn. “Các
làng chiến đấu ấy không những chỉ bảo vệ hay che chở cho dân quân, mà còn là lợi
khí của dân quân để giết địch ngay tại chỗ” [105, tr. 54]. Đây là một sáng tạo nổi
bật của chiến tranh nhân dân ở Quảng Bình, để cùng với quân dân Quảng Trị và
Thừa Thiên Huế làm nên một “Bình Trị Thiên khói lửa”, góp phần đi đến thắng lợi
trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Và truyền thống đó càng được nhân
lên, phát huy mạnh mẽ khi bước vào cuộc đối đầu với chiến tranh phá hoại nhiều
mặt của đế quốc Mỹ trong những năm 1965-1973.
2.2. Chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở Quảng Bình
Ngay từ khi thay Pháp ở miền Nam Việt Nam, đế quốc Mỹ nhận thấy miền
Bắc là căn cứ địa cách mạng của cả nước, là hậu phương lớn của tiền tuyến lớn
miền Nam. Vì thế, Mỹ thực hiện phá hoại, ngăn chặn miền Bắc chi viện cho cách
mạng miền Nam. Đối với Quảng Bình, do vị trí chiến lược của mình nên trở thành
một trọng điểm đánh phá của Mỹ và chính quyền Sài Gòn, trong đó nổi lên hai hình
thức chủ yếu sau.
2.2.1. Phá hoại bằng gián điệp và biệt kích
Thực ra, từ năm 1961, triển khai chiến lược“Chiến tranh đặc biệt”, Mỹ và
chính quyền Sài Gòn sử dụng gián điệp và biệt kích hòng gây ra “cuộc chiến trong
lòng Cộng sản” và thu thập thông tin chuẩn bị “Bắc tiến”, trong đó Quảng Bình là
một trọng điểm.
39. 35
Bằng những phương thức khác nhau, Mỹ và chính quyền Sài Gòn tung người
ra Bắc theo cả đường bộ, đường biển và đường không. Do đặc điểm tự nhiên của
Quảng Bình phần lớn là rừng núi hiểm trở và có bờ biển dài, địa hình phức tạp nên
đối phương lợi dụng để tung gián điệp và biệt kích chủ yếu theo hai tuyến này.
Theo đường bộ, gián điệp xâm nhập qua biên giới Việt - Lào hoặc qua giới tuyến
quân sự tạm thời. Phương thức vượt tuyến của chúng hoặc bí mật hoặc công khai trà
trộn vào trong số người trốn ra Bắc với nhiều lí do, như trốn quân dịch, đầu hàng,
bất mãn, ... để nắm tin tức, móc nối với các tổ chức phản động cũ được cài lại.
Ngoài ra, lợi dụng đêm tối và địa hình phức tạp, đối phương nhiều lần dùng máy
bay thả biệt kích xuống vùng núi. Theo đường biển, chúng thường xâm nhập vào
khu vực Đèo Ngang và cảng Gianh và các bãi ngang ven biển, nơi dân cư thưa thớt,
khó phát hiện.
Hoạt động của gián điệp, biệt kích chủ yếu là điều tra về lực lượng quân đội,
tiềm lực và khả năng quốc phòng, các kho tàng quân sự và đường giao thông chiến
lược quan trọng; về lực lượng an ninh, dân quân tự vệ, thái độ chính trị của nhân
dân đối với Đảng và chính phủ; về mối quan hệ giữa Việt Nam Dân chủ cộng hòa
với các nước xã hội chủ nghĩa; về các cơ sở kinh tế, phong tục tập quán của địa
phương, mẫu tiền của miền Bắc và các loại giấy tờ tùy thân của nhân dân. Đồng
thời, chúng tìm cách móc nối cơ sở, tăng cường phục kích bắt cóc, ám sát cán bộ,
bộ đội, phá hoại cầu cống, kho tàng, các mục tiêu trọng điểm trên địa bàn, … Trong
vòng 3 năm (từ tháng 6-1961 đến tháng 7-1964), Mỹ và chính quyền Sài Gòn tung
ra địa bàn Quảng Bình 10 toán biệt kích, với gần 100 tên.
Từ năm 1965, Mỹ mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc, hoạt động biệt kích
của chúng có sự thay đổi. Hàng loạt toán biệt kích, thám báo và biệt hải được tung
ra nhằm điều tra, chỉ điểm cho máy bay đánh phá, ngăn chặn các tuyến đường chiến
lược chi viện cách mạng miền Nam. Trên tuyến biên giới Việt - Lào, Mỹ và chính
quyền Sài Gòn sử dụng máy bay lên thẳng để tận dụng yếu tố cơ động cao đánh
nhanh, rút nhanh. Chúng còn tăng cường thả dù thám báo xuống khu vực ngoại
biên, sử dụng đất Lào làm bàn đạp để xâm nhập, phát hiện các tuyến đường vận
40. 36
chuyển cũng như các kho tàng, binh trạm, … Để tránh bị phát hiện, số này cải trang,
mang trang phục bộ đội và trang bị súng AK.47, … Từ đầu năm 1965 đến cuối năm
1968, chúng đánh xuống khu vực miền núi và ngoại biên Quảng Bình 28 vụ gián
điệp, biệt kích và thám báo.
Trên tuyến biển, một phương thức hoạt động mới là ngoài pháo kích từ các tàu
chiến vào đất liền còn sử dụng tàu biệt kích vào sát bờ và các cửa sông để uy hiếp
ngư dân, ngăn chặn các hoạt động vận chuyển và quan sát tình hình bố phòng của
ta. Thậm chí, liều lĩnh hơn, đối phương còn tập kích một số địa điểm như ngày 23-
1-1965, pháo kích ở Đông Thành (Đồng Hới) theo thủ đoạn: tiếp cận gần, bắn
nhanh, rút nhanh, bắn dồn dập làm cho ta không kịp đối phó [9]. Đối phương còn
vây bắt nhiều thuyền đánh cá, uy hiếp những người bị bắt, buộc họ phải làm việc
cho chúng. Mục đích của chúng bên cạnh ngăn chặn tuyến vận tải trên biển của ta
còn nhằm thu thập tin tức chuẩn bị cho những hoạt động tập kích ở quy mô lớn hơn.
Năm 1965, địch bắt 5 vụ, gồm 6 thuyền với 34 người. Trong số 4 thuyền được thả
ra, ta phát hiện có 7 người được đối phương cài cắm lại để điều tra tình hình và gây
dựng cơ sở.
Bước sang năm 1967-1968, địch tiếp tục tung các toán gián điệp, biệt kích
xuống nhiều địa bàn nội, ngoại biên giới phía Tây. Về đường biển, ngày 14-4-
1967 và 8-1967, biệt kích xâm nhập Thanh Trạch (Bố Trạch), ngày 6-6-1967 lên
Quảng Phúc và 17-7-1967 lên Quảng Đông (Quảng Trạch), 80 lần vây ngư dân,
bắt 267 người đưa vào Nam khai thác (trong đó có thả ra 187 người). Về đường
không, đối phương tung biệt kích bằng trực thăng hoặc nhảy dù xuống đường 12
và 20 nhằm theo dõi sự vận chuyển, phát hiện kho tàng để chỉ điểm cho máy bay
đánh phá và xây dựng cơ sở gián điệp. Ngày 30-10-1967, địch thả 10 tên xuống
Thanh Lạng [59].
Ngoài ra, việc cài cắm gián điệp vẫn được đối phương ráo riết thực hiện dưới
nhiều hình thức như lợi dụng trà trộn vào trong số những người dân ở miền Nam
vượt tuyến ra Bắc. Một thủ đoạn rất nham hiểm của đối phương nữa là dụ dỗ, ép
buộc những người bị tàu biệt kích bắt cung cấp tin tức ở địa phương hoặc làm việc