SlideShare a Scribd company logo
1 of 150
Download to read offline
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU
VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
(Tái bản lần thứ tư)
Tác giả: TRỊNH BÁ ĐĨNH
Với sự cộng tác của:
NGUYỄN HỮU SƠN – VŨ THANH
Tuyển chọn và giới thiệu
LỜI NÓI ĐẦU
Sáng tác của Nguyễn Du không thật đồ sộ về số lượng, tuy nhiên, khối
lượng những công trình nghiên cứu, những lời bình luận, đánh giá về nó thì
hết sức lớn. Việc bình luận, nghiên cứu Nguyễn Du và di sản của ông đã có
lịch sử dài hơn một thế kỷ rưỡi, qua nhiều chặng với những cách nhìn, cách
tiếp cận khác nhau, đặc biệt phát triển cả về bề rộng lẫn chiều sâu trong thế
kỷ XX. Có thể nói, ý thức về di sản của Nguyễn Du luôn tiến triển cùng với tư
tưởng xã hội và tư tưởng văn học của dân tộc. Tập sách này tuyển chọn
những bài viết, những công trình nghiên cứu tiêu biểu trong số những thành
tựu đó. Trước hết nó nhằm mục đích cung cấp tư liệu phục vụ cho việc giảng
dạy và học tập về Nguyễn Du trong nhà trường. Sau nữa, nó cũng có thể giúp
ích cho những người hoạt động văn hóa, văn học và phần nào cả một số nhà
nghiên cứu quan tâm tới việc tìm hiểu, khai thác di sản của Nguyễn Du nói
riêng và của văn học truyền thống nói đúng. Để thuận tiện cho việc theo dõi
và sử dụng tập sách, chúng tôi muốn lưu ý độc giả mấy điểm sau:
a. Những bài viết, những công trình được tuyển chọn vào tập sách này
chủ yếu thuộc lĩnh vực ngữ văn. Điều ấy có nghĩa là, những bài nghiên cứu
thuộc lĩnh vực vẫn gọi là văn bản học, những bài phát biểu có tính chất chính
trị xã hội và văn hóa chung sẽ không có ở đây; ngoại lệ là một đôi bài đó in
dấu ấn đậm nét trong lịch sử bình luận, nghiên cứu Truyện Kiều hay được
nhắc tới. Một số thơ ca tiêu biểu viết về Nguyễn Du và Truyện Kiều được đưa
vào tập sách vì sáng tác thơ ca cũng là một cách giải thích, đánh giá…
b. Với những công trình biên khảo lớn, ở đây chỉ tuyển một số phần tiêu
biểu, trừ hai cuốn Khảo luận về Kim Vân Kiều và Quyền sống của con người
trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du được lấy lại hầu như nguyên vẹn.
c. Các văn bản được sử dụng đều chú rõ xuất xứ và về cơ bản được
giữ nguyên văn.
Nhân tập sách ra mắt bạn đọc, chúng tôi xin gửi lời cám ơn đến các
PGS. Nguyễn Lộc và Nguyễn Thạch Giang đã góp ý cho đề cương bản thảo.
Chúng tôi cũng gửi lời cám ơn đến GS. Hà Minh Đức, Viện trưởng Viện Văn
học đã viết LỜI GIỚI THIỆU; và đặt biệt là các tác giả và thân nhân của
những cố tác giả đã giúp đỡ và cho phép sử dụng các bài viết trong tập sách
này.
NHÀ XUẤT BẢN GIÁO DỤC
LỜI GIỚI THIỆU
Trước mắt chúng ta là bộ tư liệu văn học khá đồ sộ về các tác gia tiêu
biểu của lịch sử văn học Việt Nam. Trong lịch sử phát triển của văn hóa dân
tộc, so với nhiều ngành nghệ thuật khác văn học là nhân tố trội và có một vị trí
quan trọng. Kho tàng văn học dân gian vô giá chưa khai thác và đoán định
được hết sự giàu có và xác định được đầy đủ giá trị văn chương. Mười thế kỷ
văn học viết với những đỉnh cao về tác giả: Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm,
Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Cao Bá quát, Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn
Khuyến, Phan Bội Châu, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, Tố Hữu, Xuân Diệu,
Huy Cận, Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao…
những tên tuổi luôn là niềm tự hào cho nền văn hóa và văn học dân tộc.
Theo dòng lịch sử tác phẩm văn chương luôn chịu sự thử thách chọn
lọc khắc nghiệt của thời gian và nhiều tác phẩm rơi vào lãng quên. Dưmg như
ngược với quy luật ấy, những tác giả và tác phẩm tiêu biểu lại không ngừng
được luận bàn qua các thời kỳ lịch sử. Cuộc đời và tác phẩm của họ mang
nhiều tâm tư sâu sắc, quy tụ được nhiều vấn đề xã hội và có thể dự báo một
điều gì cho mai hậu. Sinh thời Nguyễn Du băn khoăn:
Bất tri tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?
(Ba trăm năm lẻ nữa ta đâu biết,
Thiên hạ ai người khác Tố Như?)
Thế hệ kế tiếp, những kẻ hậu sinh thiết tha muốn hiểu ông và đã một
phần hiểu ông. Từ ý kiến tâm huyết của Ngô Đức Kế, đến những công trình
nghiên cứu sâu sắc của Hoài Thanh, Xuân Diệu, của các nhà nghiên cứu Lê
Đình Kỵ, Lê Trí Viễn,… Truyện Kiều đã được phân tích từ trên nhiều bình
diện, và đáng quý khi tác phẩm này đã góp phần vào sự phát triển đời sống
tình cảm của dân tộc.
“Truyện Kiều” tuyệt tác của đại thi hào Nguyễn Du” thật sự đã giữ vai
trò quan trọng biết nhường nào làm những con người Việt Nam chúng ta xích
lại gần nhau, sát cánh bên nhau, thông cảm và đồng cảm trong đời sống
thường nhật, trong lao động, đấu tranh để bảo vệ và xây dựng Tổ quốc thân
yêu của mình”.
Đấy là trường hợp Nguyễn Du và cũng là của nhiều nhà văn tiểu biểu
khác mà trước hết phải kể đến Nguyễn Trãi. Nguyễn Trãi, người anh hùng
cứu quốc, nhà tư tưởng, nhà văn hoá, nhà thơ. Tất cả những phẩm chất của
các nhân vật trên quy tụ lại trong nhiều tác phẩm văn chương và hậu thế đã
tìm hiểu, nghiên cứu ông trên nhiều bình diện. Đinh Gia Khánh nghiên cứu
quan điểm văn chương của Nguyễn Trãi; Bùi Văn Nguyên, Nguyễn Huệ Chi
tìm hiểu Quân trung từ mệnh tập – tập luận chiến quân sự và ngoại giao; rồi
văn thơ chữ Hán; văn thơ Quốc âm cũng được nhiều nhà nghiên cứu khai
thác. Đặc biệt Bình Ngô đại cáo được đánh giá rất cao qua nhiều bài viết từ
Bùi Kỷ, Vũ Khiêu đến Bùi Văn Nguyên. Sự nghiệp văn chương của Nguyễn
Trãi là của một thời và của muôn đời. Những ý kiến đánh giá về ông qua các
thời đại giúp cho người đọc hiểu được vị trí và sự đóng góp của ông cho văn
hóa và văn học nước nhà.
Văn học thời trung đại còn khởi sắc ở chặng đường cuối với nhiều nhà
văn tiêu biểu. Nguyễn Đình Chiểu là một ngôi sao, một tấm gương sáng trên
cả hai phương diện đạo và đời. Nhà yêu nước lớn, nhà nho giữ đạo vẹn tròn,
nhà văn giàu dũng khí và tài năng, người đã gìn giữ và đưa văn chương lên vị
trí cao quý. Chúng ta có thể tìm thấy nhiều ý kiến sâu sắc của Phạm Văn
Đồng và nhiều nhà nghiên cứu khác về sự nghiệp văn thơ tác giả. Trong công
lao chung nghiên cứu về tác giả thời kỳ trung đại phải kể đến những công
trình của Đặng Thai Mai, Hoài Thanh, Lê Đình Kỵ, Lê Trí Viễn, Đinh gia
Khánh, Bùi Văn Nguyên, Nguyễn Huệ Chi, đặc biệt là Xuân Diệu. Ông tự đặt
cho mình nhiệm vụ phải nói cho được cái hay, cái đẹp, hương vị cao quý của
văn thơ các danh nhân ở mọi thời. Ông bà người ngưỡng mộ thi hào dân tộc
Nguyễn Du, “Bà chúa thơ Nôm” Hồ Xuân Hương, ca ngợi Nguyễn Khuyến,
nhà thơ của “dân tình làng cảnh”, cảm thương cái tài cái phận với tiếng cười
ra nước mắt của Tú Xương.
Bước sang thời kỳ hiện đại cánh cửa lịch sử mở dần từ đầu thế kỷ XX
và chỉ sau hai thập kỷ lịch sử văn học đã bước vào thời kỳ Phục hưng với
Phong trào Thơ mới, Tự Lực văn đoàn, trào lưu hiện thực phê phán và tiếp
theo hơn nửa thế kỷ văn học cách mạng. Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh là
một tác gia lớn mở đầu và khai sáng cho nền văn học cách mạng. Sự nghiệp
của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh bao gồm trên nhiều phạm vi: thơ ca,
truyện ký, văn chính luận và ở lĩnh vực nào cũng nổi lên với những tác phẩm
tiêu biểu. Nghiên cứu sự nghiệp văn thơ Hồ Chí Minh là niềm hứng thú của
nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước và chúng ta đã có một khối lượng tư
liệu phong phú về văn thơ Hồ Chí Minh. Sự nghệp văn thơ Hồ Chí Minh đòi
hỏi phải được tiếp tục nghiên cứu trên nhiều vấn đề về nội dung tư tưởng
cũng như nghệ thuật biểu hiện. Các tác giả Đặng Thai Mai, Trần Huy Liệu,
Phạm Huy Thông, Hoài Thanh... các nhà thơ Xuân Diệu, Chế Lan Viên đều có
nhiều bài viết hay về văn thơ Hồ Chí Minh.
Tố Hữu, nhà thơ vô sản với phong cách sáng tạo độc đáo đã sớm thu
hút được sự quan tâm của bạn đọc. Ngay từ thời kỳ Mặt trận Dân chủ, Trần
Minh Tước đã gọi “Tố Hữu là nhà thơ của tương lai”. Cách mạng tháng tám
thành công, tập thơ Từ ấy được giới thiệu và Đặng Thai Mai xem tập thơ là
“bó hoa lửa lộng lẫy”. Suốt nhiều thập kỷ, Tố Hữu vẫn được xem là “lá cờ đầu
của thơ ca cách mạng”, hay nói như Chế Lan Viên: “Anh là người mở đường,
dẫn đường và hiện nay vẫn trên đường”. Hơn 60 năm sáng tác thơ Tố Hữu
đã chinh phục được nhiều thế hệ bạn đọc qua giọng điệu trữ tình cách mạng
ấm áp tình đời tình người. Hàng trăm bài viết, nhiều công trình nghiên cứu đã
khai thác khá triệt để thơ Tố Hữu với nhiều cách tiếp cận, vận dụng nhiều
phương pháp nghiên cứu thích hợp. Và chắc chắn mọi ý kiến không dễ thuận
chiều, xuôi gió. Hai cuộc tranh luận về tập thơ Từ ấy và Việt Bắc đã ghi lại
được những quan điểm học thuật khác nhau và phần nào không khí văn học
một thời. Những nhà văn nhà thơ lớn của thời kỳ hiện đại như Xuân Diệu,
Nguyễn Tuân, Nam Cao đều có phong cách sáng tạo độc đáo lôi cuốn mạnh
mẽ người đọc. Xuân Diệu “nhà thơ mới nhất” trong Phong trào Thơ mới, nhà
thơ lớn của nền thơ ca cách mạng, nhà phê bình nghiên cứu văn học uyên
thâm và tinh tế đã là đề tài của biết bao công trình. Nguyễn Tuân độc đáo và
tài hoa trong văn cũng như trong đời, một kiểu mẫu nhà văn lấy mình làm
điểm tựa để nói về cuộc đời với nhiều ý tưởng lạ, ngôn từ chắt lọc, sáng tạo.
Nam Cao đến muộn, ông chưa được biết đến trong Nhà văn hiện đại của Vũ
Ngọc Phan nhưng từ những năm đầu thập kỷ sáu mươi, Nam Cao đã thu hút
và ngày càng nằm sâu trong ký ức từ tuổi học trò đến những người trải đời và
đau đời. Tất cả những trang viết về các nhà văn tiêu biểu trên, được chọn lọc
qua các tập tư liệu, như còn mang theo hơi thở, sức sống, dư âm và tài năng
sáng tạo từ cội nguồn, những cây lớn vẫn tỏa bóng mát và hương thơm. Các
tập tư liệu về văn học Việt Nam được sưu tầm công phu, có hệ thống, chọn
lọc theo một chuẩn mực thống nhất. Chuẩn mực cao nhất là chất lượng, bài
viết phải góp phần nói lên được đặc điểm và phong cách của tác giả. Được
viết ra từ nhiều thời điểm với những quan điểm nhận thức khác nhau nên
cách đánh giá chắc chắn là có nhiều điểm khác biệt. Đó là chuyện bình
thường trong nghiên cứu văn học và theo thời gian chắc chắn còn có thêm
những suy nghĩ mới.
Đây là bộ tư liệu đầu tiên giới thiệu chín tác giả chính trong chương
trình văn học của nhà trường. Chắc chắn là chúng ta phải có thêm nhiều tập
tư liệu khác. Bên cạnh Xuân Diệu phải có Huy cận, giới thiệu Nguyễn Tuân
phải có Tô Hoài, và giới thiệu Nam Cao phải có Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng,
Nguyễn Công Hoan. Mục đích cuối cùng không chỉ vì riêng cho tác giả mà
trước hết là vì bạn đọc. Phải tạo những điều kiện thuận lợi nhất để có thể hiểu
kỹ về tác giả, tác phẩm. Chịu trách nhiệm biên soạn với Nhà xuất bản Giáo
dục, các nhà nghiên cứu của Viện Văn học đã làm việc với tinh thần say mê
và ý thức tôn trọng những giá trị tinh thần cao quý của văn học dân tộc.
Viện trưởng Viện Văn học
GS. HÀ MINH ĐỨC
DI SẢN CỦA NGUYỄN DU VÀ THỜI GIAN
Sáng tác của Nguyễn Du (1765– 1820) được lưu hành từ rất sớm, có lẽ
ngay từ lúc nhà thơ còn sống. Phạm Quý Thích, người cùng thời, chỉ mất sau
Nguyễn Du 5 năm từng có bài thơ nổi tiếng bằng chữ Hán đề vịnh Truyện
Kiều. Nhiều nhà nho ở Thăng Long, nhất là những học trò của Phạm Quý
Thích, trong đó có một số người là danh thần, danh sĩ chắc có biết và ông
tham gia vào việc phổ biến Truyện Kiều, và cũng có thể không chỉ có Truyện
Kiều mà còn cả những sáng tác khác của Nguyễn Du nữa. Tương truyền,
Truyện Kiều được chính Phạm Quý Thích nhuận sắc và cho in ở phố Hàng
Gai thuộc Hà Nội bây giờ. Nghe nói, sau khi Nguyễn Du mất vài chục năm,
vua Tự Đức từng có sớ cho quan tỉnh Nghệ An thu thập tất cả di cảo của
Nguyễn Du để đưa về kinh. Nếu những chuyện đó là có thực, thì cho tới lúc
ấy, sáng tác của ông đã có ảnh hưởng khá lớn trong xã hội, chí ít là ở tầng
lớp có văn hóa cao.
Từ đó tới nay, việc sưu tập, nghiên cứu, phổ biến di sản văn học của
Nguyễn Du không bao giờ bị đứt đoạn, nó luôn phát triển cùng với sự tiến bộ
của ngành văn bản học và ngữ văn học nước ta, đặc biệt từ sau những năm
30 của thế kỷ XX, khi việc sưu tầm, nghiên cứu văn học được ý thức như là
hoạt động khoa học. Một điểm móc đáng chú ý là năm 1965, nhân dịp 200
năm năm sinh, Nguyễn Du được Hội đồng hòa bình thế giới quyết định kỷ
niệm như một danh nhân văn hóa thế giới và chính phủ Việt Nam đã chỉ đạo
tiến hành kỷ niệm trọng thể thi hào của dân tộc mình. Một trong các hoạt động
kỷ niệm là việc nghiên cứu và cho xuất bản lại các tác phẩm của Nguyễn Du.
Hai công trình nghiêm túc đáng được chú ý ra mắt lúc đó là Thơ chữ Hán
Nguyễn Du do Lê Thước và Trương Chính sưu tầm, hiệu đính, chú thích 249
bài thơ và cuốn Truyện Kiều do nhóm nghiên cứu văn bản Truyện Kiều của
Viện Văn học thực hiện. Sau đó, các tác phẩm của Nguyễn Du còn được
nhiều nhà nghiên cứu khác giám định, bổ sung, hiệu đính và cho in lại. Đến
nay, chúng ta đã có được các tác phẩm sau của Nguyễn du: Truyện Kiều
(Đoạn trường tân thanh), Văn chiêu hồn, Thơ chữ Hán (Thanh Hiên thi tập
hay Thanh niên tiền hậu tập, Nam trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lục), Văn tế
Trường Lưu nhị nữ, Thác lời trai phường Vải.
Tuy vậy, việc nghiên cứu di sản của Ngurễn Du về mặt văn bản học,
chưa phải đã kết thúc, và cũng chưa biết đến khi nào mới kết thúc. Còn có
những ý kiến hồ nghi tác giả một số bài thơ chữ Hán vẫn được coi là của
Nguyễn Du. Việc xác định thời điểm ra đời của các tác phẩm còn chưa được
giải quyết. Ngay về thời điểm Nguyễn Du viết Truyện Kiều thì mặc dù đã mất
nhiều công sức, nhưng các ý kiến trong giới nghiên cứu vẫn còn rất khác
nhau. Nổi cộm nhất vẫn là chuyện văn bản Truyện Kiều: cần tìm kiếm một bản
Kiều gần sát với bản do chính Nguyễn Du viết ra. Bản gốc thì đã hoàn toàn
thất lạc. Bản Kiều in sớm nhất mà các nhà khảo cứu hiện có được là bản ra
đời năm 1871, tức sau khi tác giả mất đã nửa thế. kỷ. Hiện nay có đến vài
chục bản Kiều khác nhau. Tuy nhiên, thực ra thì sự sai biệt giữa các bản
không lớn, chủ yếu khác nhau ở một số chữ phiên âm, một số cách hiểu
nghỉa của từ. Với các sáng tác khác của nhà thơ tình hình cũng gần như vậy.
Do đó, trọng tâm của giới nghiên cứu là hướng vào tìm hiểu tư tưởng và nghệ
thuật của Truyện Kiều cùng những sáng tác khác của ông.
***
Truyện Kiều, một tác phẩm được Nguyễn Du sáng tác khi “chồng chất
những khối lỗi ở trong lòng” và được viết như có máu chảy trên đầu ngọn
bút”, tất nhiên phải chứa đầy những tâm tình của ông. Tuy nhiên vì thông qua
một câu chuyện, lại là câu chuyện có sẵn của Trung Quốc thì dẫu sao, tâm
tình ấy cũng chỉ được bộc lộ gián tiếp, đưa ánh xạ qua sự kể chuyện khách
quan. Thơ chữ Hán và Văn chiêu hồn của ông thì khác, đó là nơi giãi bày trực
tiếp tấm lòng của ông, ghi dấu trung thành những sự biến trong cuộc đời
thăng trầm của nhà thơ. Tìm hiểu chúng trước hết là nhằm làm rõ “phẩm cách
phức tạp và sinh hoạt bi đát” (Đào huy Anh) của Nguyễn Du. Trước Cách
mạng tháng Tám, Đào Duy Anh, Trần Trọng Kim đã từng viết về các thi phẩm
này. Trong cuốn Khảo luận về Kim Vân Kiều, Đào Duy Anh dành phần cuối,
gọi là “phụ lục” để viết về thơ chữ Hán Nguyễn Du. Sau này có nhiều tác giả
khác tiếp tục tìm hiểu thơ chữ Hán và Văn chiêu hồn như Hoài Thanh, Xuân
Diệu, Đinh Hùng, Trương chính, Nguyễn Lộc…
Ba tập thơ chữ Hán: thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm và Bắc
hành tạp lục như là ba tập nhật ký bằng thơ của Nguyễn Du trong một khoảng
thời gian dài từ năm nhà thơ 21 tuổi đến năm ông 49 tuổi (1814), ở đó “bài
nào cũng chứa đựng một lời tâm sự” và “bộc lộ thái độ sống của ông một
cách rõ nét”. (Trương Chính). Căn” cứ vào tập Bắc hành tạp lục, Đào Duy Anh
còn vẽ lại được con đường sứ trình của nhà thơ từ Huế tới Bắc kinh và từ
Bắc Kinh trở về. Các bài thờ chữ hán cho thấy rõ và nhà thơ lớn của chúng ta
đã có một cuộc sống hết sức chật vật không chỉ trong “mười năm gió bụi” mà
cả khi đã ở quê nhà Hồng Lĩnh. Về “cuộc đời lưu ly phiêu bạt” với những “sinh
hoạt bi đát” cuả Nguyễn Du thì hầu như mọi người đã nhất trí, tuy nhiên tâm
sự của ông, điều mà Đào Duy Anh gọi là “phẩm cách phức tạp” được bộc lộ
qua nội dung thơ chữ hán thì đến nay vẫn có nhiều ý kiến khác nhau. Cụ thể
trên hai khía cạnh: thái độ của Nguyễn Du đối với các triều đại Lê, Tây Sơn,
Nguyễn và nội dung tình thương của ông trước những kiếp tài hoa bạc mệnh
và những người cùng khổ.
Tình cảm thực của Nguyễn Du đối với các triều đại Lê, Tây Sơn,
Nguyễn như thế nào? Trước Cách mạng, Đào Duy Anh cho rằng thơ chữ Hán
của Nguyễn Du là “bài bi ca khảng khái”, trong đó “lòng trung trinh là phần chủ
yếu trong tâm tính Nguyễn Du… Cái lòng ấy, đến lúc chết ông vẫn chung chú
vào nhà Lê vua Lê…”. Thái độ bất đắc chí của Nguyễn Du khi làm quan triều
Nguyễn cũng được Đào Duy Anh giải thích là bởi vì nhà thơ luôn mang tâm
sự day dứt cuả “kẻ bề tôi phải thờ hai vua”. Còn với Tay Sơn thì theo Đào Duy
Anh, Nguyễn Du có thái độ chống đối đến cùng. Hơn bốn mươi năm sau, tới
năm 1988, trong lời giới thiệu cuốn Thơ chữ Hán Nguyễn Du, nhà nghiên cứu
vẫn bảo lưu ý kiến của mình. Ông viết: “Nổi bật nhất (ở thơ chữ Hán – TBĐ)
là lòng cô trung của Nguyễn Du đối với nhà Lê, trọn vẹn từ trước đến sau.
Hình như nhà thơ thấy rằng, nhà Lê mất và mất luôn cả lẽ sống của mình. Khi
làm quan với nhà Nguyễn mà lòng nhớ nhà Lê vẫn không phai nhạt”.
Ở đây cũng cần nói thêm rằng, theo sách sử và Gia phả cho biết thì
Nguyễn Du là con cựu thần nhà Lê, thân phụ ông làm đến Đại tư đồ; chú bác,
anh em đều làm quan to đời Lê - Trịnh. Khi tây sơn ra Bắc, Nguyễn Du bất
hợp tác và trốn tránh Đến. năm 1786 ông còn toan vào Gia Định với Nguyễn
Ánh khi đó đang mưu đồ đánh Tây Sơn.Nhà Nguyễn lên cầm quyền, Nguyễn
Du ra làm quan, đường hoạn lộ không có gì trắc trở, tuy nhiên ông luôn buồn
bực và bất đắc chí.
Năm 1965, cuốn Thơ chữ Hán Nguyễn Du ra mắt, trong phần giới thiệu,
ông Trương Chính đã đưa ra những nhận xét khác với Đào Duy Anh. Trương
Chính không phủ nhận thái độ trung với nhà Lê và chống Tây Sơn của
Nguyễn Du, song theo ông khi ra làm quan với nhà Nguyễn, Nguyễn Du chỉ
nhớ nhà Lê như nhớ “cái sự muôn năm cũ” chứ không phải cô trung. Nhà thơ
hiểu rằng vận nhà Lê đã hết. Nguyễn Du buồn và bất đắc chí, cái buồn và bất
đắc chí của một ông quan bị chèn ép. Trương Chính cũng không đồng tình
với Hoài Thanh khi nhà phê bình cho rằng thái độ của Nguyễn Du đối với các
triều đại bấy giờ không rõ rệt lắm. Ông viết: “(Nguyễn Du) đi theo nhà Nguyễn
mà lại nhớ tiếc nhà Lê, và đường như nhớ tiếc cả Tây Sơn nữa”. Nhận xét ấy
của Hoài Thanh là căn cứ vào bốn câu trong Long Thành cầm giả ca:
Thành quách suy di nhân sự cải,
Kỷ xứ tang điền biến thương hải.
Tây Sơn cơ nghiệp tận tiêu vong,
Ca vũ không di nhất nhân tại.
(Thành quách đổi dời việc đời cũng khác,
Bao nơi nương dâu trở thành biển cả.
Cơ nghiệp Tây Sơn tiêu vong đâu hết,
Mà còn sót lại một người trong làng ca múa).
Theo Trương Chính thì bốn câu thơ này chẳng hàm ý nhớ tiếc nhà Lê
mà chỉ là cảm xúc cuả nhà thơ về việc đời “bãi bể nương dâu”.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Lộc có vẻ đồng tình với Trương Chính trong
đánh giá tình cảm của Nguyễn Du đối với nhà Lê. Theo ông, Nguyễn Du quả
có nhớ nhà Lê cả trong cuộc đời lẫn trong thơ, nhưng vẫn ý thức được sự
sụp đổ của nó là tất yếu, “nhớ mà không có ý muốn phục hồi”. Tuy nhiên,
Nguyễn Lộc lại nghiêng về phía Hoài Thanh trong cách hiểu bốn câu thơ đã
dẫn trên của bài Long Thành cầm giả ca. Ông cho rằng ít nhất thì Nguyễn Du
cũng không thể có thái độ thù địch với Tây Sơn, khi mà nhà thơ đã đặt sóng
đôi một bên là người mình yêu mến với một bên là kẻ thù, nếu quả ông coi
Tây Sơn là kẻ thù (Tây Sơn cơ nghiệp tận tiêu vong, Ca kỹ không lưu nhất
nhân tại). Nhận xét đó thật xác đáng, tuy nhiên những câu thơ tương tự như
thế thật quá hiếm hoi trong thi tập của Nguyễn Du. Tại sao vậy? Có lẽ Nguyễn
Lộc đã đúng khi cho rằng “điều quan trọng đối với Nguyễn Du không phải là
vấn đề triều đại này hay triều đại khác, mà là vấn đề nhà thơ biết đặt lòng
mình nơi những con người bất hạnh, những con người đau khổ” tức là tinh
thần nhân đạo của nhà thơ.
Vấn đề tinh thần nhân đạo, cái khía cạnh thứ hai trong tâm sự của
Nguyễn Du cũng đã được các nhà phê bình nghiên cứu đề cập đến nhiều với
việc phân tích những bài thơ: Điếu La Thành ca giả, Long Thành cầm giả ca,
Thái Bình mại giả ca, Sở kiến hành, các bài thơ về Khuất Nguyên, Đỗ Phủ,
Âu Dương Tu…
Đào Duy Anh trong cuốn khảo luận kể trên của mình đã lý giải tình cảm
xót thương của Nguyễn Du đối với những kiếp tài hoa nhưng xấu số (người
con hát ở Long Thành, cô Cầm trong Long Thành cầm giả ca…) và những kẻ
nghèo khổ “dưới đáy xã hội” xuất phát từ chỗ cho rằng bởi nhà thơ là người
“đồng cảnh” với họ. Hình ảnh cuộc đời là sự phong chiếu hình ảnh cá nhân
nhà thơ: ông thương những giai nhân bạc mệnh “vì thấy số phận họ cũng bi
đát như mình”. Ông cũng đã từng nếm đủ sự đau đớn khổ sở cả về vật chất
lẫn tinh thần, cảnh “sinh kế quẫn bách trong bước giang hồ mươi năm gió
bụi”.
Trương Chính lại một lần nữa không đồng tình với cách nhìn nhận ấy.
Theo ông, “không phải lúc nào và ở đâu Nguyễn Du cũng chỉ thấy mình và chỉ
nghĩ đến mình”. Nguyễn Lộc cũng khẳng định: Nguyễn Du không bao giờ “chỉ
ngồi ngắm cái bóng dưới chân mình” và ông còn đi xa hơn khi cho rằng trong
thi phẩm của Nguyễn Du thấm nhuần một chủ nghĩa nhân đạo: Nguyễn Du
luôn quan tâm đến cuộc đời, đến con người, “không chỉ riêng Trung Quốc mà
của cả Việt Nam”, “khắp nhân gian, “khắp cõi người”. Vậy là tình thương của
Nguyễn Du từ chỗ được lý giải như loại tình cảm cá nhân của một con người
“đồng cảnh”, “đồng bệnh”, đi tới chỗ được xem như một phẩm chất của chủ
nghĩa nhân đạo rộng lớn. Bước đi đó dường như tiến gần hơn tới chỗ giải
thích đúng đắn nội dung thi phẩm của nhà thơ. Tác phẩm Văn chiêu hồn càng
cho ta rõ điều ấy. Văn chiêu hồn không chỉ là trường ca về “tình trắc ẩn” của
Nguyễn Du đối với một hàng người nào đó, mà về tình yêu thương với tất
thảy các nạn nhân của “thập loại chúng sinh” và cả ý nguyện muốn giải thoát
cho họ. Văn chiêu hồn nói về cõi âm. Đối với cách hiểu nghệ thuật của chúng
ta “thì cõi âm là một ám dụ về trần thế. Nhưng có thể trong lòng, trong tâm
linh nhà thơ Nguyễn Du, nó lại thực hữu, thực hữu như cuộc sống trần thế, là
mặt thứ hai của cuộc sống trần thế. Tình thương của nhà thơ đã ôm trùm
cuộc đời một cách trọn vẹn, cả phần này lẫn phần kia, âm thế và dương thế.
Cho đến nay, trừ Truyện Kiều, các thi phẩm của Nguyễn Du chủ yếu
mới được xem xét về phương diện nội dung. Giá trị nghệ thuật thường chỉ
được nêu qua. Có thể người ta nghĩ rằng việc nghiên cứu các thi phẩm này
chỉ để hỗ trợ cho việc làm sáng tỏ thêm Truyện Kiều; có thể lại nghĩ rằng để
biết tài năng nghệ thuật của Nguyễn Du thì xét Truyện Kiều đã là đầy đủ.
Thực trạng nghiên cứu ấy, về khách quan, ta thấy các thi phẩm của Nguyễn
Du chưa được xem như có giá trị nghệ thuật tự thân. Trong khi đó thì ngay từ
năm 1943, Đào Duy Anh đã viết rằng: “Về hình thức cũng như về nội dung, tôi
tưởng thơ Nguyễn Du có thể để cùng hàng với thơ Cao Bá Quát và có thể
đem so sánh với thơ Đường”.
***
Nhưng dẫu sao thì các thi phẩm của Nguyễn Du cũng không thể có cái
địa vị như của Truyện Kiều trong lịch sử văn học và văn hóa. Nói đến di sản
Nguyễn Du chủ yếu phải nói đến Truyện Kiều. Nói về việc tiếp thu nghiên cứu
di sản Nguyễn Du quan trọng nhất phải nói về quá trình tiếp thu nghiên cứu
Truyện Kiều. Dưới đây, chúng tôi chỉ phác qua những giai đoạn chính của quá
trình đó qua việc nêu lên một số nét tiêu biểu về tư tưởng và phương pháp
tiếp cận Truyện Kiều.
Giai đoạn từ khi Truyện kiều ra đời cho đến năm 1930
Trong quãng thời gian hơn mội trăm năm này, người bình luận Truyện
Kiều là các nhà nho và “nhà nho tân học” (chữ của Đào Duy Anh). Ở thế kỷ
XIX, các nhà nho thường qua những bài thơ vịnh hay những bài tựa viết về
Truyện Kiều mà bộc lộ cách nhìn, chính kiến của mình đối với tác phẩm. Còn
sang thế kỷ XX, các nhà nho tân học lại phát biểu bằng các bài văn chính
luận. Việc bình luận ở cả giai đoạn này luôn chia thành hai dòng khen và chê
(“kẻ khen người chê, kẻ yêu người ghét ồn ào” – Ngô Đức Kế). Ngợi khen có
khi đến tán dương quá mức; trái lại, những lời chê bai cũng đôi khi đến độ
quá gay gắt.
Ở thế kỷ XIX, người bình luận có khi đứng trên lập trường đạo đức
chính thống ”tam cương ngũ thường” để đánh giá các nhân vật Truyện Kiều,
nhất là Thúy Kiều. Nguyễn Văn Thắng ca ngợi Thúy Kiều “xét sau trước đủ
trung trinh hiếu nghĩa”. Minh Mệnh đánh giá Kiều có hiếu, biết tiết nghĩa.
Ngược lại cũng trên lập trường này, Nguyễn Công Trứ lại mạt sát Kiều: “Bạc
mệnh chẳng làm người tiết nghĩa, Đoạn trường cho đáng kiếp tà dâm”. Cùng
một chỗ đứng mà khen chê hoàn toàn trái ngược nhau. Bênh vực, thông cảm
với Thúy Kiều nhiệt tình nhất phải nói là các nhà nho như Mộng Liên Đường
chủ nhân, Phong Tuyết chủ nhân, và nhất la Chu Mạnh Trinh, những người
bình luận Truyện Kiều từ lập trường “nhân sinh”. Họ thấy ở Thúy Kiều một
“người đồng điệu” (Chu Mạnh Trinh), dù “tuy khác đời mà chung một dạ”
(Mộng Liên Đường chủ nhân). Họ luôn nhiệt tình bênh vực cho phẩm hạnh,
đạo đức của nàng Kiều.
Sang đầu thế kỷ XX, việc bàn luận về Truyện Kiều có lúc đã trở thành
luận chiến mang màu sắc đấu tranh chính trị xã hội. Đáng chú ý là cuộc đấu
tranh của các ông Ngô Đức Kế và Huỳnh Thúc Kháng chống việc đề cao quá
đáng Truyện Kiều của ông Phạm Quỳnh và một số người khác. Phạm Quỳnh
trong bài diễn thuyết năm 1924 đọc tại lễ kỷ niệm Nguyễn Du nhân ngày mất
đã đánh giá Truyện Kiều là “quốc hoa” “quốc hồn”, “quốc túy” của dân tộc. Trái
lại, Ngô Đức Kế cho Truyện Kiều chỉ là cuốn truyện phong tình, trong đó
không tránh khỏi tám chữ “ai, dâm, sầu, oán, đạo, dục, tăng, bi”: Huỳnh Thúc
Kháng cũng đồng tình và coi đấy là “cuốn sách có hại”, không thể dùng làm
sách để học tập.
Nhận xét về việc bình luận Truyện Kiều ở giai đoạn này, ông Đào Duy
Anh đã rất đúng khi cho rằng. “hai bên (khen và chê - TBĐ) đều lấy tư tưởng
luân lý mà phê bình phán đoán một tác phẩm nghệ thuật”. Họ đều xem chức
năng văn học là “tải đạo” và nhiều khi coi tác phẩm văn chương như một cuốn
sách luân lý. Ngay Phạm Quỳnh, một người được xem là có cái nhìn mới mẻ,
táo bạo, nhưng khi nhận định về Thúy Kiều cũng viết rằng nàng “là nột người
đa tình, nhưng không đắm đuối vì tình; lấy nghĩa mà chế tình là đúng luân lý
đạo đức”.
Tuy nhiên, dù thuộc vào hàng ngũ những người khen ngợi hay hàng
ngũ những người phều phán Truyện Kiều, thì tất cả họ đều đánh giá cao nghệ
thuật văn chương của Nguyễn Du. Nhưng văn chương được nhìn như có sự
tách tời của hình thức với nội dung. Ngô Đức Kế thừa nhận: “kể về văn
chương quốc âm của ông Nguyễn Du thì cũng hay thật”, nhưng lại nói thêm
“văn thì hay mà truyện lại truyện phong tình” tức là dở, đáng chê trách). Văn
lúc này được xem là kỹ thuật vẽ cảnh, tả người, dùng câu, đặt chữ sao cho
khéo, xinh xắn. Còn nội dung thì cần chân thực (đối lặp với bịa đặt, hoang
đường). Thực ở đây là cái thực kinh nghiệm – “những điều trông thấy” – chứ
không phải cái thực khách quan. Nhân vật, xã hội do nhà văn tạo ra với nhân
vật, xã hội của đời sống thực tế không phải lúc nào cũng được phân biệt rõ.
Giai đoạn từ 1930 đến Cách mạng tháng Tám
Nghiên cứu phê bình văn học lúc này đã hoàn toàn khác trước. Nó đã
thành một bộ môn riêng biệt, mang ý nghĩa hiện đại. Cũng như trong đời sống
văn học, trong đời sống nghiên cứu, phê bình xuất hiện những khuynh hướng
khác nhau. Điều này cũng thấy trong việc tìm hiểu Truyện Kiều. Có thể thấy rõ
ba khuynh hướng sau: khuynh hướng phê bình ấn tượng chủ quan với các
ông Hoài Thanh, Lê Tràng Kiều, Lưu Trọng Lư…; khuynh hướng giáo khoa
qua những công trình của các ông Đào Duy Anh, Dương Quảng Hàm; và cuối
cùng là cách tiếp cận kiểu “khoa học” của ông Nguyễn Bách Khoa.
Những người phê bình theo lối ấn tượng chủ quan cho rằng không thể
phân tích, cắt nghĩa tác phẩm nghệ thuật vì làm vậy là tiêu diệt nó. Họ chủ
trương lĩnh hội tác phẩm nghệ thuật bằng trực giác, dựa vào ấn tượng chủ
quan của người đọc. Hoài Thanh viết: “Chất thơ bàng bạc trong Truyện Kiều
phải được cảm nhận một cách hồn nhiên. Cứ phân tích, giảng giải, nó sẽ tan
đi. Đến đây phải im hơi nhẹ bước mới hòng nhận thấy cái đẹp khi dịu dàng
thùy mị, khi tráng lệ huy hoàng”.
Theo họ, những người thường bị gọi là phái “nghệ thuật vị nghệ thuật”
thì nhà phê bình không phải là người giải thích tác phẩm mà là người “kể lại
cuộc phiêu lưu của mình qua các tuyệt phẩm” (A. France). “Đọc Truyện Kiều
là theo những lời văn êm đềm, bóng bẩy để phiêu lưu trong giây lát, trong một
cuộc đời phiêu lưu của một cô gái giang hồ, bất hạnh” (Lê Tràng Kiều). Họ
phủ nhận việc tìm hiểu tư tưởng, triết lý của tác phẩm, mà đề cao cái tạo nên
ở người đọc những xúc cảm nghệ thuật mạnh. Tuy nhiên, tuyên bố thì như
vậy, nhưng trong thực tế khi phê bình Truyện Kiều, họ vẫn sử dụng thao tác
phân tích, lý giải tác phẩm, coi đó như một văn bản khách quan. Bài phê bình
Một phương diện của thiên tài Nguyễn Du: Từ Hải của Hoài Thanh là một
minh chứng cho điều đó. Một số luận điểm của những người tiêu biểu cho
phái “vị nghệ thuật” lúc này đã bị những nhà “vị nhân sinh” phê phán. Trong
cuộc đấu tranh giữa hai phái ”vị nghệ thuật” và “vị nhân sinh” những năm
1935-1939, Truyện Kiều nhiều lần được đưa ra làm ví dụ. Những nhà “vị nhân
sinh” cho rằng thước đo giá trị tác phần là “lý tưởng của nó” lợi hay hại cho sự
tiến hóa chung của nhân quần”; họ phê phán việc chỉ đề cao giá trị nghệ thuật
của tác phẩm. Tuy vậy lúc này do sự chi phối trực tiếp của cuộc đấu tranh
chính trị, lại xuất phát từ quan niệm duy vật khá thô sơ về nghệ thuật, nên
việc đánh giá Truyện Kiều họ cũng có nhiều thiếu sót.
Đào Duy Anh trong công trình Khảo luận về kim Văn Kiều khi bàn về
văn chương Truyện Kiều có một số ý kiến gần gũi với những nhà “vị nghệ
thuật” nói trên, song thực chất thì khuynh hướng của ông khác hẳn. Vệc công
trình của ông dành cả một chương bàn về tư tưởng Nguyễn Du trong Truyện
Kiều là một bằng chứng. Theo Đào Duy Anh thì tư tưởng Nguyễn Du ở đây là
“tài mệnh tương đố” và nó “làm nòng cốt cho toàn truyện”. Một triết lý lại làm
nòng cốt cho toàn truyện thì đó là điều mà các nhà “vị nghệ thuật” không bao
giờ chấp nhận được. Đào Duy Anh sử dụng rất nhiều dữ liệu về tác giả (dòng
họ, gia đình, hành trạng…), thời thế, nguồn gốc tác phẩm, nhằm soi sáng
Truyện Kiều từ nhiều phía. Có người cho rằng ông ảnh hưởng cách nghiên
cứu của Gustave Lanson. Mở đầu cuốn sách, Đào Duy Anh nói rõ ông viết
cồng trình này nhằm đối tượng là “những học sinh đang muốn tìm hứng thú
nghiên cứu quốc văn. Do vậy ta có thể gọi đây là khuynh hướng giáo khoa
(hay khuynh hướng nhà trường). Cách xem xét này về sau cũng thấy được
vận dụng trong cuốn Việt Nam văn học sử yếu của Dương Quảng Hàm.
Một khuynh hướng bị phê phán nhiều nhất lúc này là của Nguyễn Bách
Khoa với hai cuốn sách: Nguyễn Du và “Truyện Kiều” (1941) và Văn chuơng
“Truyện. Kiều” (1942). Nguyễn Bách Khoa xác lập một phương pháp riêng gọi
là “khoa học” để nghiên cứu văn học và thực tế ông đã vận dụng nó để xem
xét Truyện Kiều trong hai công trình kể trên. Ông chủ trương “gác bỏ hết tình
cảm riêng, thành kiến và dư luận…” tức các yếu tố chủ quan của người đánh
giá. Theo ông “bất cứ vấn đề gì cũng là một vấn đề toán pháp” nên đều có thể
nghiên cứu theo cách của khoa học chính xác. Dễ hiểu vì sao có sự tranh cãi
gay gắt giữa Nguyễn Bách Khoa với Hoài Thanh và những người cùng hướng
với ông trong việc nghiên cứu Truyện Kiều. Theo Nguyễn Bách Khoa “thì
Truyện Kiều là sản phẩm do Nguyễn Du tạo ra, Nguyễn Du lại là sản phẩm
của thời đại ông. Thời đại Nguyễn Du là thời đại suy tàn thì con người
Nguyễn Du là chiến bại.Truyện Kiều do vậy là chiến bại, sầu oán. Chiến bại,
sầu oán làm nên chất thơ, vẻ đẹp của Truyện Kiều… Đúng là một lôgic thép,
chỉ có điều nó không đúng với thực tế sáng tạo văn học. Nguyễn Bách Khoa
cũng vận dụng nhiều luận thuyết khoa học: tâm lý học, di truyền học… để giải
thích Truyện Kiều. Các quận giải nhiều khi máy móc, cực đoan và đã bị phê
phán một cách chính đáng.
Giai đoạn từ Cách mạng tháng Tám tới đầu những năm 80
Nổi bật ở giai đoạn này là việc nghiên cứu Truyện Kiều trong quan hệ
với hiện thực đời sống xã hội theo quan điểm mỹ học mácxít. Tác phẩm văn
học được nhìn nhận như là sự phản ánh đời sống xã hội và bộc lộ thái độ của
nhà văn đối với hiện thực đó. Hai công trình theo hướng này xuất hiện sớm
và đáng chú ý hơn cả là cuốn Quyền sống của con người trong “Truyện Kiều”
của Hoài Thanh (1949) và bài báo Đặc sắc của văn học cổ điển Vệt Nam qua
nội dung “Truyện Kiều” của Đặng Thai Mai (1955). Vấn đề tinh thần nhân đạo
và tính hiện thực của Truyện Kiều được hai tác giả chú ý đặc biệt và coi là giá
trị cơ bản của tác phẩm.
Cuốn Quyền sống của con người trong “Truyện Kiều”, theo tác giả thì
nó được viết trên tinh thần của “chủ nghĩa nhân văn mới”. Tác giả Hoài Thanh
cho rằng khi Nguyễn du dựng lên một cuộc đời, một con người trong tác
phẩm, thì đó là cách ông phát biểu ý kiến của mình trước những vấn đề thời
đại. Nói về Thúy Kiều, “Nguyễn Du đã nói dùm nỗi niềm cho tất cả những
người bị ngạt thở trong cái khuôn phong kiến”. Còn nói đến Từ Hải là nói đến
cái mơ ước được sống phóng túng, “sống mạnh mẽ, sống say mê ở ngoài
khuôn khổ bấy giờ”. Giá trị nhân văn của Truyện kiều theo Hoài Thanh chính
là ở đó. Ông Đặng Thai Mai cũng đặt vấn đề: tinh thần nhân đạo của Nguyễn
Du là thế nào? Theo ông, đó trước hết là tình yêu đối với con người, con
người bị đày đọa. Từ đây ông đưa ra khái niệm nhân dân tính của tác phẩm.
Nghiên cứu tính hiện thực của văn học, Hoài Thanh cho rằng cần phải
thấy: xã hội phong kiến trong Truyện Kiều qua con mắt của Nguyễn Du. Ông
đã dành hẳn một chương của công trình cho việc phân tích xã hội phong kiến
trong Truyện Kiều và đi đến kết luận: “Đó là xã hội mục nát đến tận xương”.
Còn Đặng Thai Mai thì nói nhiều đến “tinh thần tả thực”, “bút pháp tả thực”
của Nguyễn Du. Trong bài viết của mình, ông đặt vấn đề tìm hiểu xem Truyện
kiều có phản ánh ít nhiều gì xã hội Việt Nam ở đầu thế kỷ trước hay không?
Theo Đặng Thai Mai, mặc dù là một câu chuyện của nước ngoài, nhân vật
hoàn cảnh đều ở Trung Quốc, nhưng ”từ Truyện Kiều, ta có thể nhận lấy
những tia hồi quang soi rọi cho mọi người nhìn thấy những mối mâu thuẫn
của xã hội phong kiến trên con đường phân hóa”. Ông cho rằng đó là cách
nhìn của phản ánh luận. Nội dung xã hội của tác phẩm, chủ nghĩa nhân đạo,
nhân dân tính, tinh thần hiện thực, những thuật ngữ thể hiện tiêu chí đánh giá
Truyện Kiều mà Hoài Thanh và Đặng Thai Mai vận dụng trong hai công trình
kể trên sẽ còn tiếp tục vang lên từ những cuốn sách và bài viết về Truyện
Kiều trong suốt cả giai đoạn này.
Từ sau hòa bình 1954 đến cuối những năm 50, xuất hiện cách nhìn
dung tục trong việc xem xét quan hệ giữa Truyện Kiều và hiện thực xã hội
thời đại Nguyễn Du qua những công trình của Trần Đức Thảo, Trương Tửu,
Minh Tranh. Truyện Kiều được họ xem như “tri thức lịch sử chính xác về xã
hội và con người Việt Nam cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX” (Trương Tửu). Từ
đấy dẫn tới việc phân tích nội dung xã hội Truyện Kiều một cách thô thiển,
chằng hạn các tác giả trên tìm cách xác định thành phần giai cấp, “liên minh
giai cấp” của các nhân vật trong truyện: Thuý kiều thuộc tiểu phong kiến lớp
dưới, yêu Kim Trọng vốn thuộc tầng lớp thống trị là thể hiện xu hướng tiểu
phong kiến vươn lên thành phần phong kiến thống trị. Kiều lấy Thúc Sinh là
tiểu phong kiến tìm lối thoát trong thành phần phú thương... Kết quả những
công trình nghiêng cứu thuộc loại đó là đã làm giảm uy tín cuả nghiêng cứu
phê bình văn học theo tinh thần phản ánh luận. Tuy nhiên, thật may mắn là
ảnh hưởng của chúng không lớn và đã bị phê phán kịp thời. Những năm 60,
70 việc nghiên cứu Truyện Kiều có những bước tiến mới. Dịp kỷ niệm 200
năm năm sinh Nguyễn Du (1965) xuất hiện nhiều công trình, bài viết về
Truyện Kiều của các nhà nghiêng cứu phê bình và nhà văn (Cuốn Thi hào
dân tộc Nguyễn Du của nhà thơ Xuân Diệu cũng ra đời trong dịp này. Trong
đó, phần viết về Truyện Kiều có nhiều khám phá có giá trị về nghệ thuật thơ,
về “tài thơ” của Nguyễn Du). Dường như để khắc phục cách hiểu máy móc ra
giai đoạn trước về quan hệ giữa nội dung tác phẩm và hiện thực xã hội, giờ
đây những vấn đề chủ quan của người sáng tác đã được chú ý nhiều: tư
tưởng xã hội, tư tưởng nghệ thuật của Nguyễn Du, triết lý trong Truyện
Kiều… Tuy nhiên điểm nổi bật nhất lúc này là vấn đề tìm hiểu phương pháp
sáng tác của Nguyễn Du trong Truyện Kiều. Đáng chú ý hơn cả là cuốn
chuyên khảo Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du của Lê Đình
kỵ (1970), trong đó, những trang viết về dân vật của Truyện Kiều rất đặc sắc
với nhiều kiến giải thú vị. Phần viết về lý tưởng thẩm mỹ của Nguyễn Du qua
vật Thúy Kiều có những khám phá mới. Tuy nhiên việc nhà nghiên cứu tìm
hiểu phương pháp sáng tác của Nguyễn Du ở Truyện Kiều trong tương quan
với phương pháp sáng tác của chủ nghĩa hiện thực khiến nhiều người không
đồng tình, nhất là khi ông thực sự lấy các nguyên tắc của chủ nghĩa hiện thực
làm tiêu chuẩn để đo sáng tác của Nguyễn Du (nội dung xã hội, nội dung
phản ánh, tính cách và hoàn cảnh điển hình, những chi tiết hiện thực chủ
nghĩa, ngôn ngữ đa dạng phong phú ăn khớp với sự thật đời sống…). Điều gì
chưa ăn khớp với các tiêu chuẩn đó, được ông gạt vào khu vực “những ràng
buộc của mỹ học đương thời”. Khách quan thì người ta thấy, ông đã khẳng
định có một thứ chủ nghĩa hiện thực trong Truyện Kiều, hay ít ra cũng là “một
cố gắng vươn tới chủ nghĩa hiện thực”. Dù người ta có đồng tình với tác giả
hay không ở điểm này, thì việc đặt vấn đề nghiên cứu phương pháp sáng tác
Truyện Kiều đã là một bước tiến quan trọng về phía trước. Các công trình tiếp
theo sau của Nguyễn Lộc, Đặng Thanh Lê tránh sử dụng những tiêu chí có sẵ
về phương pháp sáng tác vốn thường được đúc kết từ các nền văn học
phương Tây để tìm hiểu Truyện Kiều mà chủ yếu căn cứ vào thực tế phát
triển văn hóa, văn học truyền thống Việt Nam. Tuy nhiên, ám ảnh về một chủ
nghĩa hiện thực không phải là không còn. Đối với chúng ta hiện nay, vấn đề
này chỉ được giải quyết triệt để nếu trả lời được hai câu hỏi sau đây: Một là,
phải chăng có một con đường tiến hoá chung cho các nền văn học ở cả
phương Đông lẫn phương Tây, và như vậy tiến đến chủ nghĩa hiện thực là
một tất yếu? Hai là, ở thời đại Nguyễn Du phải chăng đã có những tiền đề
kinh tế xã hội và văn hóa để làn nảy sinh phương pháp hiện thực chủ nghĩa?
Các ý kiến vẫn còn khác biệt nhau, vấn đề còn để ngỏ. Tuy nhiên trên thực tế
nghiên cứu thì từ cuối những năm 70, việc quan tâm đến nội dung xã hội
trong tác phẩm, quan hệ giữa tác phẩm và hiện thực đời sống đã dịu bớt đi,
những cách tiếp cận mới đối với Truyện Kiều đã bắt đầu xuất hiện.
Ở miền Nam thời kỳ 1954–1975 cũng có không ít người để tâm phê
bình, nghiên cứu Truyện Kiều. Dịp kỷ niệm 200 năm năm sinh Nguyễn Du trên
các tập san Văn (số 43, 44) và Bách khoa thời đại (số 209) nhiều bài phê bình
Truyện Kiều được công bố. Trước đó, năm 1960 có cuốn Chân dung Nguyễn
Du tập hợp một loạt bài viết về Nguyễn Du và Truyện Kiều của nhiều tác giả:
Nguyễn Văn Trung, Trần Bích Lan, Trần Thanh Hiệp, Doãn Quốc Sĩ… Trước
sau năm 1970 cũng thấy một số công trình khá công phu của Phạm Thế Ngũ,
Đặng Tiến, Nguyễn Đăng Thục… Dưới ảnh hưởng của phê bình văn học
phương Tây hiện đại, trong việc phê bình nghiên cứu Truyện Kiều cũng đã
xuất hiện một số khuynh hướng như–: khuynh hướng hiện sinh với Nguyên
Sa, Đặng Tiến và ít nhiều cả Thanh Lãng; khuynh hướng cấu trúc luận với Bùi
Hữu Sủng, Trần Ngọc Ninh… Tuy nhiên các tìm tòi nói chung còn lẽ tẻ, chưa
tác giả nào triển khai một cách hệ thống và kết quả cũng không khám phá
được nhiều. Có một cuốn sách khiêm tốn về số trang với những bài tiểu luận
ngắn gọn, nhưng lại gây được hứng thú ở đông đảo người đọc, đó là cuốn
Đọc lại Nguyễn Du của Vũ Hạnh (5–1966) trong đó có nhiều nhận xét sâu
sắc, tinh tế về tư tưởng và nghệ thuật Truyện Kiều.
Giai đoạn từ đầu những năm 80 đến nay
Truyện Kiều được tiếp cận bởi nhiều phương pháp mới: phong cách
học, thi phúp học, ký hiệu học… Đã xuất hiện một số công trình đáng chú ý
của Phan Ngọc, Trần Đình Sử, Đỗ Đức Hiểu và một vài tác giả khác. Điểm
chung của các phương pháp nghiên cứu này là ở chỗ: thứ nhất, tác phẩm
được nhìn nhận là một văn bản nghệ thuật, trong đó thế giới nghệ thuật do
nhà văn tạo ra không có liên hệ trực tiếp với thế giới hiện thực được nó thể
hiện, hay nói cách khác không thể đồng nhất hai thế giới đó; thứ hai, văn bản
nghệ thuật này là một hệ thống nghệ thuật mà nói đến nội dung là nói cả cách
hình thức hóa nội dung và nói đến hình thức là nói luôn cả việc hình thức này
có tác dụng gì trong việc thể hiện nội dung” (Phan Ngọc), nghĩa là không tách
Truyện Kiều thành hai phần nội dung và hình thức để nghiên cứu. Thực ra sự
ý thức như vậy cũng đã có từ giai đoạn trước và cũng đã được áp dụng vào
phân tích tác phẩm, tuy nhiên lúc này nó được quan niệm triệt để và tiến hành
nhất quán hơn.
Năm 1985 xuất hiện công trình được giới ngữ văn học chú ý: Tìm hiểu
phong cách Nguyễn Du trong “Truyện Kiều” của Phan Ngọc. Tư tưởng chủ
đạo làm xuất phát điểm cho nhà nghiên cứu là nhằm xác định những cống
hiến nghệ thuật của riêng Nguyễn Du - cái mà ông gọi là phong cách Nguyễn
Du. Những cống hiến đó, theo ông là một giá trị khách quan, “có thể tính toán
được”. Để “định lượng” những cống hiến của Nguyễn Du, ông đã dùng cách
thức gọi là “thao tác luận”. Đi vào phân tích Truyện Kiều, đầu tiên ông căn cứ
vào tần số lặp lại để chỉ ra những “nét trội” trong tác phẩm; tiếp theo, ông đặt
chúng trên hai trục lịch sử và thời đại để xem xét, đối chiếu nhằm làm sáng tỏ
đóng góp riêng của Nguyễn Du. Nhiều điều mới mẻ đã được ông nêu lên
phương pháp tự sự kịch trong Truyện Kiều; Truyện Kiều, tiểu thuyết phân tích
tâm lý hiện đại – phân tích tâm lý tàn nhẫn… Tuy nhiên xung quanh những kết
luận của ông cũng có nhiều ý kiến khác nhau.
Nhà nghiên cứu Trần Đình Sử trong các bài viết về Truyện Kiều được
tập hợp dưới tiêu đề “Mấy khía cạnh thi pháp Truyện Kiều” đã soi tác phẩm
qua một loạt những phạm trù của thi pháp học hiện đại: cái nhìn nghệ thuật,
không gian, thời gian nghệ thuật… Ông xuất phát từ chỗ xác định trong
Truyện Kiều, Nguyễn Du đã sáng tạo ra một chủ đề tư tưởng mới so với Kim
Vân Kiều truyện; từ đó dẫn tới sáng tạo ra loại cốt truyện và người kể chuyện
mới. Những phân tích của nhà thi pháp học đối với cái nhìn nghệ thuật về con
người, thời gian nghệ thuật của Truyện Kiều cũng có nhiều điểm mới mẻ và
thú vị.
Nhìn chung các tác giả đều cố gắng khách quan hóa việc phân tích tác
phẩm, muốn làm cho những kết luận của mình là hiển nhiên, “không còn tranh
cãi”. Tuy vậy, mọi việc không đơn giản, các ý kiến vẫn cứ rất xa nhau. Chẳng
hạn Phan Ngọc cho rằng, Nguyễn Du đã cải tạo tư tưởng tình – khổ ở Kim
Vân Kiều truyện thành tư tưởng tài – mệnh (“tài mệnh tương đố”) trong
Truyện kiều, song Trần Đình Sử lại cho rằng “thân mệnh tương đố” mới là tư
tưởng cơ bản của Truyện Kiều, còn ở Kim Vân Kiều truyện là “tài mệnh tương
đố”… Điều đó có nghĩa là những cuộc tranh luận sẽ vẫn tiếp diễn và như vậy
nghiên cứu, phê bình Truyện Kiều sẽ tiếp tục tiến triển.
Sáng tác của Nguyễn Du không thật đồ sộ về khối lượng, nhưng có vị
trí đặc biệt quan trọng trong di sản Văn học và văn hóa dân tộc. Hơn nữa, nó
lại rất năng sản. Từ Truyện Kiều đã nảy sinh biết bao những hình thức sáng
tạo văn học và văn hóa khác nhau: thơ ca về Kiều, các phóng tác Truyện Kiều
bằng văn học, sân khấu, điện ảnh; rồi rất nhiều những dạng thức của nghệ
thuật dân gian: đố Kiều, giảng Kiều, tẩy Kiều, bói Kiều… Đặc biệt là số lượng
rất lớn những bài bình luận, những công trình phê bình, nghiên cứu Truyện
Kiều. Để thấy rõ vị trí và ý nghĩa di sản của Nguyễn Du, tốt nhất là chúng ta
hình dung giả định những sáng tác của ông không được viết ra, và vì thế
cũng không có những sáng tạo văn hóa văn học lấy cảm hứng từ đó. Ta sẽ
thấy ngay một khoảng trống vắng lớn trong đời sống lịch sử văn học và văn
hóa dân tộc. Trong tập sách này chúng tôi tuyển chọn những công trình
nghiên cứu ngữ văn, các bài phê bình, bình luận văn học tiêu biểu viết về các
sáng tác của Nguyễn Du. Ngoài ra, chúng tôi cũng đưa vào một số bài thơ
viết về Nguyễn Du và Truyện Kiều đã khá phổ biến. Cuốn sách mặc dù đã có
số trang khá lớn, nhưng đó cũng chỉ mới là một phần những gì mà người ta
đã nói và viết về Nguyễn Du và di sản của ông.
TRỊNH BÁ ĐĨNH
NIÊN BIỂU NGUYỄN DU
Ngày
23-11
Ất Dậu
(3-1-1766)
– Nguyễn Du, tự Tố Như, hộ Thanh Hiên, sinh ở phường Bích
câu, Thăng Long (nay thuộc Hà Nội), là con thứ bảy trong gia
đình.
– Cha: Nguyễn Nghiễm (1708 - 1775), tự Hy Di, hiệu Nghi Hiên,
biệt hiệu Hồng Ngư cư sĩ; là quan chức, sử gia, nhà thơ Quê tổ ở
làng Canh Hoạch, huyện Thanh Oai, trấn Sơn Nam (nay thuộc
tỉnh Hà Tây); quê sinh ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân (nay
thuộc tỉnh Hà Tĩnh).
– Mẹ: Trần Thị Tần (24-8-1740 – 27–8–1778). Con gái một người
làm chức câu kê. Quê làng Hoa Thiều, xã Minh Đạo, huyện Tiên
du (nay thuộc tỉnh Bắc Ninh). Bà là vợ thứ ba của Nguyễn
Nghiễm, kém chồng 32 tuổi, sinh được 5 con (4 trai, 1 gái)
Đinh Hợi
(1767)
– Nguyễn Nghiễm được thăng Thái tử Thái bảo, hàm tòng Nhất
phẩm, tước Xuân Quận công.
Tân Mão
(1771)
– Nguyễn Nghiễm trí sĩ, được thăng Đại tư đồ. Sau được vời giữ
chức quan Tham tụng, rồi đổi làm Thượng thư bộ Hộ.
– Nguyễn Huệ (1752-1792), Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ khởi binh
ở ấp Tây Sơn (nay thuộc huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định).
Giáp Ngọ
(1774)
– Nguyễn Nghiễm sung chức Tả tướng, cùng Hoàng Ngũ Phúc
đánh chúa Nguyễn ở Đàng Trong.
– Đoàn Nguyễn Thục (1718 – 1775) giữ chức Đốc trấn Nghệ An.
Ất Mùi
(1775)
– Anh trai cùng mẹ là Nguyễn Trụ (sinh 1757) qua đời.
– Đoàn Nguyễn Thục qua đời.
Bính Thân
(1776)
– Nguyễn Nghiễm qua đời tại quê nhà. Được truy tặng tước Huân
dụ Đô hiến đại vương, Thượng đẳng phúc thần.
Mậu Tuất
(1778)
– Bà Trần Thị Tần, mẹ Nguyễn Du qua đời.
– Anh thứ hai của Nguyễn Du là Nguyễn Điều (sinh năm 1745)
được thăng Trấn thủ Hưng Hóa.
Canh Tý
(1780)
– Anh cả Nguyễn Du là Nguyễn Khản (1734 - 1786) đang làm
Trấn thủ Sơn Tây bị khép tội mưu loạn “vụ án Canh Tý”, bị bãi
chức, giam ở nhà Châu Quận công.
– Nguyễn Du được Đoàn Nguyễn Tuấn (1750 -?) đón về quê ở
Sơn Nam Hạ tiếp tục học tập.
Nhâm Dần
(1782)
– Trịnh Sâm mất, kiều binh phế Trịnh Cán, lập Trịnh Tông lên ngôi
chúa.
– Nguyễn Khản được làm Thượng thư bộ Lại, tước Toản Quận
công.
– Nguyễn Điều làm Trấn thủ Sơn Tây.
Quý Mão
(1783)
– Nguyễn Du thi Hương ở trường Sơn Nam, đậu Tam trường (Tú
tài). Lấy vợ là con gái Đoàn Nguyễn Thục. Tập ấm chức Chánh
thủ hiệu hiệu quân Hùng hậu của cha nuôi họ Hà ở Thái Nguyên.
– Anh cùng mẹ là Nguyễn Đề (1761 – 1805) đỗ đầu kỳ thi Hương
ở điện Phụng Thiên (Cử nhân).
– Nguyễn Khản thăng chức Thiếu bảo, cuối năm thăng Tham
tụng.
Giáp Thìn
(1784)
– Tháng hai, kiêu binh nổi dậy đưa Hoàng tôn Lê Duy Kỳ lên làm
Thái tử.
– Tư dinh Nguyễn Khản ở phường Bích Câu bị phá, phải trốn lên
ở với người em là Nguyễn Điều (1745 –?) đang làm Trấn thủ Sơn
Tây.
– Nguyễn Huệ đánh tan 2 vạn quân Xiêm ở Rạch Gầm – Xoài
Mút.
Bính Ngọ
(1786)
– Nguyễn Huệ ra Bắc diệt Trịnh. Trịnh Tông bị bắt và tự tử, kết
thúc 216 năm “vua Lê chúa Trịnh” (1570– 1786).
– Nguyễn Khản bị bệnh mất ở Thăng Long.
– Vua Lê Hiển Tông mất. Lê Chiêu Thống nối ngôi.
Đinh Mùi
(1787)
– Vũ Văn Nhậm theo lệnh Nguyễn Huệ ra Bắc diệt Nguyễn Hữu
Chỉnh.
Mậu Thân
(1788)
– Nguyễn Huệ đem quân Bắc diệt vũ Văn Nhậm.
– Lê Chiêu Thống cầu viện nhà Thanh.
– Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế ở thành Phú Xuân (Huế), đổi
niên hiệu là Quang Trung.
Kỷ Dậu
(1789)
– Nguyễn Huệ đại phá quận Thanh.
– Đoàn Nguyễn Tuấn hợp tác với Tây Sơn, giữ chức Thị lang bộ
Lại.
– Nguyễn Du về quê vợ ở Quỳnh Côi, trấn Sơn Nam (nay thuộc
tỉnh Thái Bình).
Tân Hợi
(1791)
– Tháng mười, anh thứ tư cùng cha khác mẹ là Nguyễn Quýnh
chống Tây Sơn bị bất giết. Dinh cơ họ Nguyễn ở Tiên Điền bị
Phá.
Nhâm Tý
(1792)
– Nguyễn Huệ qua đời.
Quý Sửu
(1793)
– Nguyễn Du về thăm quê Tiên Điền.
– Cuối năm vào kinh đô Phú Xuân thăm anh là Nguyễn Đề đang
làm Thái sử ở viện Cơ mật và anh vợ là Đoàn Nguyễn Tuấn.
Giáp Dần
(1794)
– Nguyễn Đề được thăng Tả phụng nghi bộ Binh và vào Quy
Nhơn giữ chức Hiệp tán nhung vụ.
Ất Mão
(1795)
– Nguyễn Đề đi sứ sang Yên Kinh dự lễ nhường ngôi của vua
Càn Long nhà Thanh.
– Xướng họa thơ cùng các sứ thần Triều Tiên.
Bính Thìn
(1796)
– Nguyễn Đề đi sứ nhà Thanh trở về được thăng chức Tả đồng
nghị Trung thư sảnh.
– Mùa đông, Nguyễn Du có ý trốn vào Gia Định theo Nguyễn Ánh
nhưng bị Quận công Nguyễn Thận bắt giam ba tháng ở Nghệ An.
Sau khi được tha, Nguyễn Du về sống ở Tiên Điền.
– Nguyễn Du có thơ My trung mạn hứng (Cảm hứng trong tù).
Nhâm Tuất
(1802)
– Mùa thu, Gia Long diệt nhà Tây Sơn.
– Nguyễn du ra làm Tri huyện Phù Dung, phủ Khoái Châu, trấn
Sơn Nam (nay thuộc tỉnh Hưng Yên). Mấy tháng sau thăng Tri
phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam Thượng (nay thuộc tỉnh Hà Tây).
Quý Hợi
(1803)
– Được cử lên ải Nam Quan tiếp sứ Thanh sang phong sắc vua
cho Gia Long.
Ất Sửu
(1805)
– Thăng Đông các đại học sĩ (hàm Ngũ phẩm), tước Du Đức hầu.
– Vào nhậm chức ở kinh đô Phú Xuân.
Đinh Mão
(1807)
– Được cử làm giám khảo kỳ thi Hương ở Hải dương.
Mậu Thìn
(1808)
– Mùa thu, xin về quê nghỉ.
Kỷ Tỵ – Được bổ chức Cai bạ (hàm Tứ phẩm) ở Quảng Bình.
(1809)
Quý Dậu
(1813)
– Thăng Cần chánh điện học sĩ.
– Được cử làm Chánh sứ sang nhà Thanh.
Giáp Tuất
(1814)
– Đi sứ Về
– Thăng Hữu tham tri bộ Lễ (hàm Tam phẩm).
Bính Tý
(1818)
– Anh rể Nguyễn Du là Vũ Trinh (1759 – 1828) liên quan đến vụ
án cha con Tổng trấn Nguyễn Văn Thành nên bị đày vào Quảng
Nam.
Canh Thìn
(1820)
– Gia Long qua đời. Minh Mệnh nối ngôi.
– Nguyễn Du được cử làm chánh sứ Sang nhà Thanh báo tang
và cầu phong nhưng bị bệnh dịch mất ngày 10 tháng 8– (16 - 9),
thọ 54 tuổi.
– Anh táng tại xã An Ninh, huyện Quảng Điền, Thừa Thiên Huế.
Giáp Thân
(1824)
– Cải táng đưa về quê nhà Tiên Điền, Nghi Xuân, Hà Tĩnh.
Ất Tỵ
(1965)
– Hội đồng Hoà bình thế giới tổ chức kỷ niệm 200 năm năm sinh
danh nhân văn hóa – nhà thơ Nguyễn Du (1765 – 1965).
– Tổ chức kỷ niệm Nguyễn Du rộng rãi trên miền bắc theo chỉ thị
của Ban bí thư Trung ương Đảng và vùng giải phóng miền Nam.
(LA SƠN NGUYỄN HỮU SƠN biên soạn)
Phần 1. CHÂN DUNG NGUYỄN DU QUA THƠ CHỮ HÁN VÀ VĂN
CHIÊU HỒN
TÂM TÌNH NGUYỄN DU QUA MỘT SỐ BÀI THƠ CHỮ HÁN
HOÀI THANH
Ba nhà nho lão thành Bùi Kỷ, Phan Võ, Nguyễn Khắc Hanh đã làm một
việc rất hay là sưu ầm phiên dịch, chú thích và giới thiệu 102 bài thơ chữ Hán
của Nguyễn Du. Thơ chữ Hán của Nguyễn Du còn nhiều, sưu tầm chưa hết.
Những bài đã sưu tầm được, việc sắp xếp, việc chú thích, việc phiên dịch
cũng còn một hai chỗ chưa ổn. Nhưng đây là lần đầu tiên thơ chữ Hán của
Nguyễn Du được dịch và in thành một tập.
Văn chương Nguyễn Du, bằng chữ hán cũng như bằng chữ Nôm,
không bao giờ là thứ văn chương viết để mà chơ, có cũng được, không cũng
được. Một điều rất rõ là Nguyễn Du đã viết dưới sự thôi thúc của những nỗi
niềm không nói ra không được. Thơ ở đây là lời nói trực tiếp không phải là lời
nói gián tiếp như qua quyển Truyện Kiều nên lại càng có thể giúp ta đi sâu
vào tâm tình Nguyễn Du.
Trong tâm tình ấy có một điểm khá rắc rối là thái độ của Nguyễn Du đối
với các triều đại lần lượt thay thế nhau từ cuối thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ
XIX. Nguyễn Du vốn là tôi nhà Lê và đã từng vì nhà Lê mà chống lại nhà Tây
Sơn, cuối cùng lại ra làm quan với nhà Nguyễn. Vậy thái độ của Nguyễn Du
đối với từng triều đại như thế nào?
Nguyễn Du quả thật có nhớ tiếc nhà Lê và trong sự nhớ tiếc có một cái
gì đau xót. Trên đường đi sứ, trở lại Thăng Long, Nguyễn Du nhớ từ những
cung điện xưa, đường sá xưa đến tiếng hát điệu đàn xưa:
Cù hạng tứ khai mê cựu tích,
Quản huyền nhất biến tạp tân thanh.
(Đường phố mở mang ngang dọc làm mờ cả dấu vết cũ,
Tiếng đàn tiếng sáo cũng đổi thay vì lẫn với những âm điệu mới)
Nhưng Nguyễn Du nhìn rõ vận nhà Lê đã hết rồi. Đi qua mộ Phạm
Tăng, một mưu sĩ của Hạng Vũ, Nguyễn Du viết:
Đãn đắc thử tâm vô phụ Sở,
Bất tri thiên mệnh dĩ quy Lưu…
Đa thiểu nhất tâm trung sở sự,
Mỗi vi thiên hạ tiếu kỳ ngu.
(Miễn là lòng này không phụ nước Sở,
Không biết mạng trời đã hướng về họ Lưu…
Những người cứ một lòng trung thành với kẻ mình
giúp việc,
Thường để người đời chê cười cho là ngu).
Cho nên Nguyễn Du thật thà đi theo nhà Nguyễn. Ông làm quan đến
chức Tham tri và hai lần được làm chánh sứ. Không phải vô cớ mà nhà
Nguyễn tin dùng ông đến thế. Nhưng làm quan với nhà Nguyễn ông vẫn
không nguôi nhớ tiếc nhà Lê. Gặp lại một người nàng hầu cũ của người em,
ông buông ra những lời não nuột:
Phúc bồn dĩ hỹ nan thu thủy,
Đoạn ngẫu thương tai vị tuyệt ty.
Kiến thuyết giá nhân dĩ tam tử,
Khả tiên do trước cựu thời y.
(Ôi thôi rồi, chậu nước đã đổ khó vét lại cho đầy,
Thương thay, ngó sen tuy gãy nhưng tơ chưa dứt được.
Nghe nói đi lấy chồng đã có ba con rồi,
Thế mà vẫn mặc chiếc áo ngày trước thì thật cũng đáng ái ngại!).
Chắc chắn rằng đối với nhà Lê, Nguyễn Du cũng chung một tâm trạng
như thế. Tâm trạng ấy tuy thế vẫn chưa khó hiểu bằng tâm trạng của Nguyễn
Du đối với Tây Sơn. Nguyễn Du là người từng tính chuyện chống lại Tây Sơn.
Thế mà lạ, đối với Tây Sơn, lại không thấy Nguyễn Du có một lời nào là lời
oán giận. Trong lúc Nguyễn Du còn long đong và Tây Sơn còn đắc chí, không
thấy Nguyễn Du nói đến Tây Sơn. Đến khi Tây Sơn thất bại, Nguyễn Du ra
làm quan, thì có một bài thơ nói đến Tây Sơn tức là bài Long Thành cầm giả
ca. Trong bài này, Nguyễn Du kể chuyện một chị giỏi đánh đàn cầm, đương
thời mọi người đều gọi là chị Cầm. Nguyễn Du lúc thiếu thời từng có thấy
trong một bữa tiệc bên cạnh hồ Giám. Nhà thơ hết lời ca ngợi tiếng đàn chị
Cầm và nói rõ khúc đàn ấy vốn chị đã học được ở trong cung vua Lê, nhà thơ
cũng cực tả thái độ say sưa nghe đàn của tướng tá Tây Sơn có mặt trong
bữa tiệc và kết thúc bằng hai câu rõ ràng có giọng kích phục:
Hào hoa ý khí lăng vương hầu,
Ngũ Lăng thiếu niên bất túc đạo.
(Ý khí hào hoa của họ át cả bậc vương hầu,
Bọn thiếu niên đất Ngũ Lăng không thấm vào đâu)
Hơn hai mươi năm về sau, trở ra Bắc, gặp lại chị Cầm mái tóc đã hoa
râm, thân hình tiều tụy, Nguyễn Du ngậm ngùi đến rơi nước mắt:
Thành quách suy di nhân sự cải,
Kỷ xứ tang điền biến thương hải,
Tây Sơn cơ nghiệp tận tiêu vong,
Ca vũ không di nhất nhân tại.
(Thành quách thay dời việc người biến đổi,
Mấy nơi nương dâu đã biến thành biển cả,
Cơ nghiệp Tây Sơn tiêu vong hết rồi,
Chỉ còn sót lại một người trong nghề ca múa)
Khó có thể nói trong nỗi niềm tưởng nhớ ở đây chỉ có tưởng nhớ nhà
Lê. Thế là nghĩa thế nào? Đi theo nhà Nguyễn, nhưng lại nhớ tiếc nhà Lê và
có khi dường như nhớ tiếc cả Tây Sơn nữa! Tâm trạng Nguyễn Du thực cũng
rắc rối.
Có thể nói thái độ của Nguyễn Du đối với các triều đại kế tiếp nhau hồi
bấy giờ không lấy gì làm rõ ràng lắm (đối với Nguyễn Du, Tây Sơn cũng chỉ là
một triều đại). Trái lại, cái điều rõ ràng là Nguyễn Du không bằng lòng với toàn
bộ cuộc đời lúc bấy giờ. Bản thân Nguyễn Du từng trải qua những cảnh đời
cơ cực:
Táo đầu chung nhật vô yên hoả,
Song ngoại hoàng hoa tú khả xan.
(Bếp núc suốt ngày không có khói lửa,
Hoa vàng ngoài cửa sổ, sắc đẹp có thể ăn được)
Tam xuân tích bệnh bần vô dược,
Táp tải phù sinh hoạn hữu thân.
(Ba xuân mang bệnh, nghèo không thuốc,
Cuộc phù sinh ba mươi năm, vì có thân mà phải lo)
Chính những thiếu thốn ấy đã đưa Nguyễn Du về với quần chúng.
Nguyễn Du học được những bài hát cùng tiếng nói của quần chúng. Nguyễn
Du thông cảm với những đau xót của quần chúng:
Thôn ca sơ học tang ma ngữ,
Dã chốc thời văn chiến phạt thanh.
(Trong tiếng hát nơi thôn xóm, ta bắt đầu học được những câu
chuyện về trồng dâu, trồng gai,
Trong tiếng khóc nơi đồng ruộng, ta nghe có tiếng dội của chiến
tranh)
Qua Truyện Kiều, ta đã thấy Nguyễn Du thương xót như thế nào những
kiếp người bị đầy đọa. Qua Văn chiêu hồn ta đã thấy những cảnh đời nheo
nhóc hiện ra như thế nào dưới ngòi bút của Nguyễn Du, Nguyễn Du đã đi sâu
như thế nào trong đời sống cay cực của con nhà kẻ khó. Đọc thơ chữ Hán
của Nguyễn Du cũng vậy. Đặc biệt có hai bài rất hay về phương diện này là
bai Thái Bình mại ca giả, và bài Sở kiến hành, cả hai bài đều sáng tác trên
con đường đi sứ.
Bài thứ nhất kể chuyện một ông già mắt mù đi hát rong ở châu Thái
Bình thuộc tỉnh Quảng Tây. Lúc bấy giờ Nguyễn Du đi thuyền. Có thuyền bên
cạnh gọi ông già xuống hát. Ông già vừa múa vừa hát, Nguyễn Du không hiểu
tiếng nhưng nghe cũng thấy hay. Mọi người xung quanh đều im lặng trong khi
gió trên sông thổi vi vu và trăng trên sông sáng vằng vặc. Nguyễn Du theo dõi
từng cử chỉ của ông già:
Khẩu phún bạch mạt thủ loan súc,
Khước tọa liễm huyền cáo chung khúc.
(Miệng sùi bọt mép, tay mỏi rã rời,
Ông già ngồi xuống, xếp đàn, ngỏ lời đã đàn hát xong)
Nhà thơ ái ngại cho ông đàn hát mệt nhọc như thế mà rốt lại chỉ được
có năm sáu đồng tiền. Hình dáng ông già trong lời thơ khi đứng dậy ra về mới
cảm động làm sao:
Tiểu nhi dẫn đắc hạ thuyền lai,
Do thả hồi cố đảo đa phúc.
(Đứa bé đã dẫn ông ra khỏi thuyền,
Ông còn quay lại ngỏ lời chúc tụng)
Bài Sở kiến hành dựng lên một cảnh không kém phần ảm đạm. Đó là
cảnh mấy mẹ con vì đói phải lưu lạc tha hương, làm thuê không đủ sống, đi
xưa cũng không đủ sống, sớm muộn ắt sẽ đến bỏ thây nơi ngòi rãnh:
Mẫu tử bất túc tuất,
Phủ nhi tăng đoạn trường.
Kỳ thống tại tâm đầu,
Thiên nhật giai vị hoàng.
(Mẹ chết đã đành rồi,
Trông con thêm đứt ruột.
Nỗi lòng đau đớn lạ thường,
Mặt trời cũng vì người mà vàng úa)
Kế đó, cũng như trong bài trước, Nguyễn Du nhìn lại cảnh yến tiệc linh
đình mà chính mình được hưởng theo lệ thường của người đi sứ. Của ngon
vật lạ bày la liệt:
Trưởng quan bất hạ trợ,
Tiểu môn chỉ lược thường.
Bát khí vô cô tích,
Lân cẩu yếm cao lương.
(Quan trên không chọc đũa,
Kẻ dưới chỉ nếm qua.
Bỏ mứa không đoái tiếc,
Chó hàng xóm chán cao lương)
Tấm lòng của Nguyễn Du đối với những người lao khổ rất giống tấm
lòng của Đỗ Phủ. Đi qua mộ Đỗ Phủ, ông từng có thơ viếng và ứa nước mắt
khóc nhà thi hào Trung Quốc:
Dị đại tương liên không hữu lệ.
(Khác thời đại mà thương nhau, chỉ có nước mắt suông)
Chính vì nhìn rõ những cảnh giàu sang, cảnh cực khổ chen lẫn nhau,
đối lập với nhau như vậy nên những năm làm quan, trong lòng nguyễn Du
luôn luôn có điều bất nhẫn và Nguyễn Du khinh bỉ vô cùng những kẻ chỉ nuôi
cái mộng làm quan. Hai lần ông có lời chỉ trích Tô Tần. Một lần ông viết:
Tung hoành tự khả ngu nhân chúa,
Phú quý hoàn năng cứ quả thê.
(Chuyện hợp tung và liên hoành có thể đánh lừa vua chúa,
Chẳng qua là cốt cầu phú quý để lên mặt với vợ)
Một lần nữa ông kể tỉ mỉ hơn. Ông thuật lại Tô Tần khi thất chí trở về
nhà bị khinh rẻ như thế nào, khi đắc chí trở về được trọng vọng như thế nào.
Ông nhắc lại câu Tô Tần trách chị dâu: “Sao trước khinh mà nay trọng” và
xem đó là một lời nói cực kỳ bỉ ổi…
Hợp tung bất tại khước cường Tần,
Đãn hướng sở thân kiêu phú quý.
Thích cổ nguyên vị quyền lợi mưu,
Ta hồ thử nhân tiểu tai khí.
(Mưu hợp tung không nhằm đẩy lui nước Tần cường bạo,
Mà chỉ cốt lấy phú quý vênh váo với người thân.
Đâm dùi vào vế cố học vốn là để mưu quyền lợi riêng,
Ôi khí cục con người ấy mới bé nhỏ làm sao!)
Chắc chắn không phải vô cớ mà Nguyễn Du nhắc đi nhắc lại chuyện Tô
Tần. Khi Nguyễn Du viết những bài này, chế độ phong kiến nhà Nguyễn đã
đứng được trên mười năm, trong tầng lớp nho sĩ cái mộng làm quan, cái
mộng thăng quan chức đang trên đà phát triển. Và cố nhiên những mơ ước
nhỏ nhen ấy được ngụy trang dưới một nước sơn hiếu trung theo thời
thượng. Nguyễn Du cũng đã từng bóc đi cái nước sơn giả tạo ấy. Trong một
bài thơ, sau khi ca ngợi ba người liệt nữ thời trước, thà chết không chịu nhục,
ông viết thêm:
Thanh thời đa thiểu tu như kích,
Thuyết hiếu đàm trung các tự tôn.
(Lúc thanh bình biết bao kẻ vểnh râu,
Nói hiếu bàn trung để tự tôn mình!)
Một lần khác, trong một bài thơ viếng Khuất Nguyên, Nguyễn Du lại trở
lại ý này. Thơ Khuất Nguyên thường hay nhắc đến các loại hoa thơm vì lòng
Khuất Nguyên thanh khiết. Nguễn Du nói người thời nay cũng hay đeo hoa
thơm, nhưng chí hướng lại không giống Khuất Nguyên.
Khuất nguyên có lẽ là người Nguyễn Du tưởng nhớ nhiều nhất. Riêng
trong tập thơ này đã có đến năm bài thơ về Khuất Nguyên, mà bài nào lời thơ
cũng thấm thía. Người đọc có cảm giác như Nguyễn Du đã tìm thấy ở Khuất
Nguyên một con người đồng điệu.
Tấm lòng thanh cao của Khuất Nguyên, tài trí tuyệt vời của Khuất
Nguyên, cả cái tình cảnh éo le của Khuất nguyên, Nguyễn Du đều thấy như
có gì giống với mình:
Thiên cổ thùy nhân liên độc tỉnh,
Tứ phương hà xứ thác cô trung?
(Nghìn năm sau, ai biết thương người độc tỉnh,
Tấm lòng cô trung biết ký thác vào đâu?)
Đó là lời Nguyễn Du ái ngại cho Khuất Nguyên và có lẽ cũng là tự ái
ngại cho mình nữa. Thời thế lúc bấy giờ, Nguyễn Du không thấy hơn gì thời
Khuất Nguyên còn sống. Trong bài thơ ngũ nguyệt quan cạnh độ, nhắc lại
việc bao nhiêu đời người ta gọi hồn Khuất Nguyên mà hồn vẫn không về,
Nguyễn Du viết:
Hồn nhược quy lai đã vô thác,
Long xà quỷ quắc biến nhân gian.
(Hồn mà trở về thì cũng không biết nương tựa vào đâu,
Khắp trên cõi người đầy những loài rắn rồng quỷ quắc)
Ý này, một lần khác, Nguyễn Du đã phát triển thành một bài thơ kiệt tác
tức là bài Phản Chiêu hồn. Trong lời nói đầu quyển Thơ chữ Hán Nguyễn Du,
nhận xét về bài thơ làm trong lúc đi sứ, các dịch giả nói: “Nguyễn Du thường
than thở là “tiếu đề tuẫn tục” nghĩa là phải chiều theo đời, cả tiếng cười tiếng
khóc cũng không được tự do, nhưng lúc này là lúc ở nước ngoài, cười tha hồ
cười, khóc tha hồ khóc, Nguyễn Du muốn nói ra cho sướng miệng hả lòng,
cho nên văn khí trong phần này xem ra khảng khái hùng tráng, có tính tranh
đấu khá mạnh”. Nhận xét này rất đúng. Làm những bài thơ này cũng như viết
Truyện Kiều, Nguyễn Du đã mượn những sự tích, những nhân vật của Trung
Quốc để phát biểu về cuộc sống theo như Nguyễn Du nhìn thấy và cảm thấy,
nghĩa là trước hết về cuộc sống trên đất nước Việt Nam, nhưng lại không tiện
nói ra bằng sự tích và nhân vật Việt Nam. Vả chăng trong tình hình hồi bấy
giờ có lẽ Nguyễn Du cũng không thấy có gì khác nhau lắm giữa hai nước.
Trở lại bài Phản Chiêu hồn. Trái với thói thường, Nguyễn Du gọi hồn
Khuất Nguyên và bảo với hồn đừng có trở về cõi đời này vì cõi đời này
Nguyễn Du thấy nó cực kỳ ghê tởm. Yên, Sính, những đất cũ của nước Sở,
những nơi quen biết với Khuất Nguyên giờ đây như thế nào?
Thành quách do thị nhân dân phi,
Trần ai cổn cổn ô nhân y.
Xuất giả khu xa nhập cử tọa,
Tọa đàm lập nghị giai Cao, Quỳ.
Bất lộ trảo nha dữ giác độc,
Giảo tước nhân nhục cam như di.
(Thành quách vẫn như cũ, nhân dân thì khác rồi,
Cát lầm bụi đọng nhơ nhớp cả quần áo người.
Họ ra ngoài ngựa ngựa xe xe, họ ngồi nhà vênh vênh váo váo,
Họ đứng ngồi bàn tán y như ông Cao, ông Quỳ.
Họ không để lộ vuốt nanh và nọc độc,
Nhưng họ nhai xé thịt người thì ngọt xớt như đường)
Rõ ràng là một cái nhìn rất bi đát và đầy phẫn uất đối với cuộc đời thời
bấy giờ, chắc chắn không phải chỉ riêng cuộc đời ở Trung Quốc mà ở khắp
mọi nơi. Cuối bài Nguyễn Du có nói:
Hậu thế nhân nhân giai Thượng quan,
Đại địa xứ xứ giai Mịch La.
(Người đời sau, ai nấy đều dòng dõi Thượng Quan,
Trên mặt đất, chỗ nào cũng đều là sông Mịch La)
Do đâu có cái nhìn bi phẫn ấy đối với cuộc đời? Tôi nghĩ cái nhìn ấy đã
bắt nguồn từ những cảnh đau xót trong Văn chiêu hồn:
Kìa những kẻ chìm sông lạc suối,
Cũng có người sẩy cối sa cây…
Từ hình ảnh ông già mù đi hát rong, hát đến sùi bọt mép và lúc đã
xuống khỏi thuyền còn quay đầu lại ngỏ lời chúc tụng, từ tất cả những cảnh
cơ cực, Nguyễn Du rất thông cảm vì chính Nguyễn Du cũng đã trải qua. Ngay
trong bài này, cái nhìn rất ghê tởm của Nguyễn Du đối với bọn “nhai xé thịt
người ngọt xớt như đường” cũng gắn liền với một cái nhìn rất đau xót đối với
quần chúng lao khổ:
Quân bắt kiến Hồ Nam sổ oách châu,
Chỉ hữu sấu tích vô sung phì.
(Kìa hồn không thấy thấy trăm châu ở Hồ Nam,
Toàn xơ xác, gầy còm, không một người nào béo tốt)
Chính do một tấm lòng yêu thương vô hạn đối với những người này mà
Nguyễn Du hết sức căm giận cái bọn bất nhân nó ngang nhiên chà đạp lên
kiếp sống người ta.
Ở đây cũng như ở Truyện Kiều, Nguyễn Du chưa nhìn được rõ nguồn
gốc sâu xa của mọi điều ngang trái, Nguyễn Du hoàn toàn không nhìn thấy lối
ra:
Ngư long bất thực sài hổ thực,
Hồn hề hồn hề nại hồn hà?
(Cá rồng không nuốt thì hùm sói cũng tha đi,
Hồn ơi, hồn hỡi, biết làm thế nào bây giờ?)
Nhưng giữa một bên là những thế lực bạo tàn nó ngự trị trên cuộc đời
cũ, một bên là hàng vạn vạn con người cơ khổ, thái độ Nguyễn Du rõ ràng,
tình cảm Nguyễn Du chân thành, sâu sắc. Thợ Nguyễn Du do đó có giá trị
hiện thực rất cao, có sức rung cảm mãnh liệt.
(Tạp chí Văn nghệ, tháng 3- 1960)
CON NGƯỜI NGUYỄN DU TRONG THƠ CHỮ HÁN
XUÂN DIỆU
Trước đây mười chín năm (1941), trong cái tuổi trẻ bồng bột và mê say
của mình, với cái tình hình sưu tầm các tác phẩm và tài liệu văn học Việt Nam
rất què quặt dưới thời Pháp thuộc, khi được đọc hai câu thơ:
Bất tri tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như.
tôi coi đó như là hai câu thơ duy nhất, trong một bài thơ duy nhất của Nguyễn
Du hé mở ra một thế giới con người mà từ trước hầu như không ai để ý: té ra
phía sau Nguyễn Du tác giả Truyện Kiều, Nguyễn Du ông quan, đang còn có
Tố Như; còn có cái thế giới Tố Như thân mật hơn, riêng tây hơn, tưởng
chừng như cũng xúc cảm hơn nữa kia… Và do hai câu thơ hiếm quý trên đây,
tôi đã viết những cảm nghĩ của mình để vội vàng mà “khấp Tố Như”, không
chờ đợi được đến hết ba trăm năm; trong văn, đang còn cái xấc lấc của tuổi
trẻ:
“… Xưa nay, ta hằng gọi Nguyễn Du là cụ, là vì những người phê chú
Truyện kiều đều là cụ. Họ đeo cặp kính bô lão, nên trông Tố Như cũng “búi
tóc củ hành, buông quần lá tọa”, cũng lơ thơ một chòm râu dê. Đến nỗi thi
nhân là kẻ được trẻ mãi ở trong muôn đời, mà phải già đi nhiều quá! Không,
thanh niên chúng ta nên hiểu Tố Như với tấm lòng trẻ trung của mình kia, bàn
tay xanh non của ta sẽ rũ bụi cho hương hồn tài tử, ta phải đặt lại Nguyễn Du
trong khung xuân sắc, có hoa lá đụng vào mình thi sĩ, có bướm chim rạo rực
chung quanh…
Nguyễn Du trước hết là một tài tử như bọn thi sĩ của muôn đời; quyển
Kiều đâu có tả hết tấm lòng của Nguyễn Du! Nguyễn Du còn có Tố Như, với
bao nhiêu chuyện riêng tây, rất riêng tây nữa kia, nhưng không nói. Có lẽ vì
văn chương Việt Nam khi ấy chưa có lối trữ tình, Tố Như không quen đem cái
tôi ra mà bộc lộ…
Nguyễn Du không hề nói đến Tố Như, bỗng nhiên nhân câu chuyện
Tiểu Thanh lại tự hỏi một câu vơ vẩn. Ta xem văn Kiều, Văn chiêu hồn,
thường chỉ nghĩ đến một tác giả, thoắt đọc hai câu thơ kia, ta vụt nghĩ đến
con người Nguyễn Du, đến Tố Như:
Ba trăm năm nữa mơ màng,
Có ai thiên hạ khóc chàng Tố Như?
Một tấm lòng vẫn giấu che, bỗng lộ trong một phút giây, chệch nhẹ bức
mành, mà ta trông được cả một thế giới còn chưa nói - Sao Nguyễn Du không
vẽ thử vài nét về bản thân mình? Khiến cho ta nay, nghe thơ hay, luống tiếc
không được thấy dáng hình thi sĩ!...
Thôi tài tử không tự vẽ, thì ta hãy tưởng tượng ra; này người, này nét
mặt, này cuộc đời, này tâm tình… Tố Như ghét cái này, ưa cái nọ, ngồi nơi ấy,
dạo nơi kia… Nghĩ xem: sao tài tử không nói “khấp Nguyễn Du”, mà lại nói
“khấp Tố Như”? Tự xưng cái tên tự của mình, lòng tài tử lúc ấy thân mật biết
mấy, nói đến mình, đến mình, chứ không nói đến tác giả hay ông quan…
… Tố Như cần có người khóc lắm chứ, lòng ấy có rất nhiều bạn trong
khoảng rộng và trong khoảng sâu; lòng ấy cần có người khóc. Khóc đây là
thương cảm cùng nhau, thấu hiểu cho nhau, quý hóa lấy nhau. Khóc đây
chưa hẳn là thảm sầu, mà là một nụ cười cũng có. Khóc đây chưa hẳn là
khóc vì, mà còn là khác với… lời kêu gọi của một trang tài tình, nghe êm ái
ngậm ngùi như một tiếng chim cô lẻ dội giữa trời thu khuya. Đó là tiếng giã
đời, nhưng cũng là tiếng họp bạn; tiếng tuyệt vọng, nhưng cũng là tiếng hy
vọng; câu tư hỏi nhưng cũng là câu tự trả lời…” (1941).
Chỉ hai câu thơ “Ba trăm năm nữa ta không biết, Thiên hạ ai người
khóc Tố Như” đã gợi lên trong tâm trí một thanh niên mất nước, mất văn học
dân tộc, những cảm xúc và suy nghĩ bời bời, xa xót trên đây. Cái người không
đợi đến ba trăm năm đã khóc trước Tố Như cũng là người ngụ ý tự khóc
mình, bởi anh ta thời ấy chưa giác ngộ về chủ nghĩa Mác – Lê nin soi đường
vào văn học. Bây giờ, chưa đến ba trăm năm, sắp sửa đến 1965 này thôi, là
hai trăm năm sau ngày sinh Nguyễn Du, cái người được có nước, có văn học
dân tộc, có chủ nghĩa Mác – Lênin thật không còn khóc Nguyễn Du theo như
cũ nữa; anh ta vui sướng cầm tập Thơ chữ Hán 102 bài, phiên âm và dịch
dưới chế độ ta, mừng rỡ được thấy những nét của con người Nguyễn Du mà
trước đây anh rất muốn tìm nhưng không hy vọng. Chính Thơ chữ Hán chứa
đựng bóng hình, đời sống, nét mặt, mái tóc, dấu chân, tâm tình, suy nghĩ của
Nguyễn Du. Đây là một cái được rất quý báu, nó mở rộng trí tuệ anh ta… Tố
Như yên nghỉ dưới đất, có ngậm cười khi có thêm những tri kỷ hàng vạn
người?
***
Không phải là một nhà thiên cứu, tôi bằng theo những tài liệu đã có, đi
tìm lưa thưa dấu vết của một thi hào tôi mến yêu. Tự mình không biết chữ
Hán, đọc qua phiên âm, hiểu qua phiên dịch, thế tất còn nhiều lõm bõm và
khó tránh lầm sai. Đọc hai lần, ba lần, bốn năm lần, vẫn chưa thấy mình nắm
được một cái gì thật chắc lắm!
Trong phạm vi của những hạn chế ấy, gấp quyển Thơ chữ Hán lại, tự
nhiên tôi có một cảm giác chung: là một buổi chiểu mùa thu rất dài và tê tái,
cũng không phải là một buổi chiểu tà nắng – tà nắng là hãy còn có màu vàng
nhạt vui vui – mà một thứ chiều thu “Mây như pha sữa cả trời nhòa”, không
thấy mặt trời ở đâu, chỉ một ánh sáng bàng bạc như bị sai làm cho tê đi, và
cứ thế mà kéo dài mãi cho đến khi trời tối. Thơ Nguyễn Du làm ở thời kỳ nhà
Lê, thơ làm thời kỳ nhà Nguyễn, thơ trong đi sứ Trung Quốc: cái thời đại của
Nguyễn Du đúng là tê đi và tái lại, tái cắt không ra máu đỏ của niềm vui!
Truyện Kiều là một “đoạn trường tân thanh”, tuy nhiên tôi vẫn có cảm giác về
màu sắc, màu sắc mở đầu là mặt đẹp tuyệt vời và xiêm áo, nhà cửa của Thúy
Vân, Thúy Kiều, là mùa xuân, là hiên Lãm Thúy nét vàng chưa phai, vân
vân…; mười lăm năm của Truyện Kiều là có màu sắc. Thế thì tại sao cũng
đồng một ngòi bút, mà đến Thơ chữ Hán thì hầu như chỉ có một xa xám chiều
thu?
Lý đo là ở sự phức tạp của sự sống. Vẫn là một Nguyễn Du ấy, trong
tâm hồn, trí tuệ của Nguyễn Du có màu sắc “Rõ ràng trong ngọc trắng ngà”,
có cả chói lên màu sắc “Đầu tường lửa lựu lập lòe đâm bông”, có muôn màu
sắc; nhưng ta có thể nói: khi Nguyễn Du là một nhà tiểu thuyết, một nhà viết
kịch, như ở trường hợp Truyện kiều, thì Nguyễn Du phải là một ông tạo hóa
phun ra sự sống, biết buồn, vui, khóc, cười, tan, hợp, biết cùng yêu với con
trai, con gái, cùng làm “giặc” với Từ Hải, cùng thay hoa đổi lá với bốn mùa…
Nhưng bản thân của Nguyễn Du thì đã đem cái bệnh của thời đại làm cái
bệnh của chính mình, mâu thuẫn xã hội trong thời đại mình không giải quyết
được, không biết cách thế nào mà giải quyết, tích lại thành một nỗi u uất trong
tâm hồn riêng, thì Nguyễn Du là nàng Kiều trong cái lầu Ngưng Bích của chế
độ phong kiến:
Mặc người mưa Sở mây Tần,
Những mình nào biết có xuân là gì!
Cho nên khi nói đến bản thân mình, thì Thơ chữ Hán của Nguyễn Du
cho ta cảm giác triền miên một buổi chiều thu.
Trong Thơ chữ Hán – trong Văn chiêu hồn cũng có điểm như thế – nó
không phải là tiểu thuyết, là kịch nữa, mà thuần là tâm tình bản thân, Nguyễn
Du đã để con người của mình trong thơ; đã cho ta thấy Tố Như, Tố Như bên
sau cái vỏ ông quan, ông chánh sứ. Ở đây, chúng ta quen thuộc với Tố Như,
có thể nói là chúng ta vào dưới da của Nguyễn Du. Thơ chữ Hán (và Văn
chiêu hồn) soi cho chúng ta hiểu thêm Truyện Kiều, hai tác phẩm trên làm cho
chúng ta yêu thêm Nguyễn Du, do vậy càng yêu Truyện Kiều hơn nữa.
***
Thơ Nôm của Nguyễn Du: Truyện Kiều, Văn chiêu hồn là những câu
hỏi về xã hội, về đời người, kiếp người. Thơ chữ Hán của Nguyễn Du cũng là
một câu hỏi mãi mãi; ở trên là hỏi chung cho mọi người, ở dưới là hỏi cho
mình nữa, hỏi thiết thân đến mình, nhưng mình đây chằng qua là một bản
người cụ thể, cá thể trong loài và kiếp người chung. Trong thơ ở thời kỳ triều
Lê, Nguyễn Du hỏi:
Tráng sĩ bạch đầu bi hướng thiên,
Hùng tâm sinh kế lưỡng mang nhiên?
Cái hùng tâm muốn mưu đồ nghiệp chung và cái sinh kế cho tấm thân
mình đều là mờ mịt cả, người tráng sĩ bạc đầu vẫn buồn ngẩng mặt lên trời!
Bi hướng thiên, với cái đầu bạc của một người còn trẻ tuổi! Hoàn cảnh riêng
của Nguyễn Du, trải qua một thời ly loạn, theo như nói trong thơ, đã chịu
nhiều thiếu thốn, cơ cực; hoàn cảnh đó làm cho Nguyễn Du dễ thống nhất
câu hỏi về bản thân: – sinh sống ra sao? với câu hỏi cho xã hội: – thời thế đi
đến đâu?
“Mới chớm rét đã cảm thấy nỗi khổ không áo” (bài Đêm thu); “Bếp núc
suốt ngày không có khói lửa” (bài Tạp ngâm); “Tóc bạc còn loay hoay vì cơm
áo” (bài Ngồi đêm): đó là mấy câu thơ ở dưới triều Lê. “Trăm năm thân thế
gửi ở phong trấn; Hết ăn nhờ ở miền sông lại ở miền bể; Ba tháng xuân, bệnh
liên miên, nghèo không thuốc; Cuộc phù sinh ba mươi năm, vẫn vì có thân
mà phải lo” (bài Khởi hứng lan man,I; “Bước chân như cỏ bồng không rễ luôn
luôn chuyển; Qua cả hai miền nam, Bắc, túi vẫn rỗng không; Trăm năm nghèo
xác trong chốn văn chương; Thân sáu thước nổi chìm trong vòng trời đất…”
(bài Khởi hứng lan man, II): đó là những câu thơ ở dưới triều Nguyễn.
Những cực khổ, thiếu thốn, những phiêu bạt, nổi chìm ấy tất có liên
quan đến niềm thông cảm của Nguyễn Du đối với những người đói nghèo, lao
khổ, những người “đòn gánh tre chín dạn hai vai” (Văn chiêu hồn). Nguyễn
Du nói trong Thơ chữ Hán: “Tiếng hát nơi thôn xóm giúp ta học những câu về
trồng dâu, trồng gai; Tiếng khóc nơi đòng nội như nhắc lại những lúc chinh
chiến”.
Mặc dầu bị hạn chế trong vòng thời đại của mình, bị hạn chế trong tư
tưởng mình, Nguyễn Du, người đã nói trong Văn chiêu hồn: “Giàu sang càng
nặng oán thù, Giãi thây trăm họ làm công một người”, cũng nói trong Thơ chữ
Hán:
Cổ kim vị kiến thiên niên quốc,
Hình thế không lưu bách chiến danh.
(Xưa nay chưa thấy nước ngàn năm,
Non núi chỉ lưu danh bách chiến.)
chưa có triều phong kiến nào tồn tại được mãi; và hình thế núi non chỉ để lại
cái tiếng là nơi trăm trận đánh nhau! Và câu thơ “Thiên niên phú quý cung
tranh đoạt” (trong bài Thăng Long) cũng nói cái ý đó: cái ngai vàng giàu sang,
hàng nghìn năm rồi, chỉ bày trò cho bọn phong kiến giành giật.
Nguyễn Du thường than thở về nỗi ở trong xã hội (phong kiến) khóc
cười cũng không được tự do. Người cháu của Nguyễn Du, Minh Quyên, trong
bài viếng Nguyễn Du, có câu: “Chú tôi xảo toàn được 19 năm”, tức là Nguyễn
Du phải khôn khéo mới giữ được tính mệnh trong 19 năm làm quan triều
Nguyễn. “Danh lợi doanh trường lũy tiếu tần”: trên trường danh lợi, một tiếng
cười hay cái nhăn mặt, có khi cũng không được tự do (bài Xuân tiêu lữ thứ);
cười gượng là chuyện cũng thường tình, và cũng đã khổ; chứ đến cái nhăn
mặt mà cũng phải gượng, thì Nguyễn Du đã khổ đến bao nhiêu! Khi đi sứ
sang Trung Quốc, trên đường qua ải Nam Quan, Nguyễn Du làm một bài thơ
rất kín đáo:
Năm mây chiếu ngọc vâng ban,
Chiếc xe muôn dặm, Nam quan mấy trùng.
Tóc sương là bạn đi cùng,
Hai tuần chỉ thấy trập trùng núi xanh.
Ơn vua chưa trả đinh đinh,
Mưa xuân nhuần thấm nhưng mình lạnh xương.
Theo tôi hiểu, bài thơ này chỉ muốn nói: Chiếu nhà vua từ trên mây năm
sắc đưa xuống, cử tôi làm chánh sứ, nhưng tôi chả có lý thú gì! Tôi cứ lạnh
buốt tự trong xương lạnh ra! – Nhưng muốn nói cái đó, Nguyễn Du đã phải
bọc trong nhung êm, trong gấm đẹp một cách trào phúng sâu cay! Nguyễn Du
chắp hai tay lạy vua trước đã:
Quân ân tự hải, hào vô báo
thì mới trôi được câu sau:
Xuân vũ như cao, cốt tự hàn.
Nói phong cảnh núi non trập trùng, để dễ tiếp theo nói cảnh mưa xuân
như mỡ (béo bổ); mưa từ nghĩa đen ngoài trời đã thành ơn mưa móc của
vua; cái mưa trời ấy (cũng như cái mưa ơn) chỉ làm cho tôi lạnh toát!
Tác giả Truyện Kiều là trữ tình, nhưng cũng không phải là không biết
trào phúng khi cần thiết; những hình tượng trào phúng châm biếm của
Nguyễn Du có bề rộng lớn, có chiều sâu xa. Chính Nguyễn Du đã nói về
mình: “Tính tự nhiên như chim hạc có ống chân dài không thể cắt ngắn đi
được”, nhưng trong thực tế, người ta cũng đã bắt hạc phải ngắn chân, và đối
với chim phượng, thì:
Sinh bình văn thái tàn lung phượng
Phù thế công danh tẩu hác xà.
Văn chương bình sinh như chim phượng nhốt trong lồng nát; công
danh phù thế như con rắn chui tọt vào trong hang; văn chương là đẹp đẽ thế,
mà bị gò bó, có phải cựa quậy; còn công danh chức tước thì là vào chỗ tắc tị
không có lối ra! (bài Tiễn bạn họ Nguyễn vào Nam).
Nguyễn Du có khi nó, không biết là khóc hay là cười:
Vô lụy vị ưng chiêu quỷ trách,
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM

More Related Content

What's hot

Giao trinh van hoc trung dai Viet Nam. Tap 1.pdf
Giao trinh van hoc trung dai Viet Nam. Tap 1.pdfGiao trinh van hoc trung dai Viet Nam. Tap 1.pdf
Giao trinh van hoc trung dai Viet Nam. Tap 1.pdfMan_Ebook
 
Ngôn Ngữ Nghệ Thuật Trong Tiểu Thuyết Mười Lẻ Một Đêm Của Hồ Anh Thái.pdf
Ngôn Ngữ Nghệ Thuật Trong Tiểu Thuyết Mười Lẻ Một Đêm Của Hồ Anh Thái.pdfNgôn Ngữ Nghệ Thuật Trong Tiểu Thuyết Mười Lẻ Một Đêm Của Hồ Anh Thái.pdf
Ngôn Ngữ Nghệ Thuật Trong Tiểu Thuyết Mười Lẻ Một Đêm Của Hồ Anh Thái.pdfHanaTiti
 
Dạy học các tác phẩm thơ Nguyễn Khuyến, Tú Xương ở trung học phổ thông theo h...
Dạy học các tác phẩm thơ Nguyễn Khuyến, Tú Xương ở trung học phổ thông theo h...Dạy học các tác phẩm thơ Nguyễn Khuyến, Tú Xương ở trung học phổ thông theo h...
Dạy học các tác phẩm thơ Nguyễn Khuyến, Tú Xương ở trung học phổ thông theo h...nataliej4
 
KHÁT VỌNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ VI THÙY LINH 2827260
KHÁT VỌNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ VI THÙY LINH 2827260KHÁT VỌNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ VI THÙY LINH 2827260
KHÁT VỌNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ VI THÙY LINH 2827260nataliej4
 
HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN ...
HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN ...HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN ...
HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Tiểu Luận Sử Thi Mahabharata Của Ấn Độ
Tiểu Luận Sử Thi Mahabharata Của Ấn Độ Tiểu Luận Sử Thi Mahabharata Của Ấn Độ
Tiểu Luận Sử Thi Mahabharata Của Ấn Độ nataliej4
 
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdf
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdfNGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdf
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdfNuioKila
 

What's hot (20)

Luận văn: Yếu tố phong tục trong truyện cổ tích người Việt từ góc nhìn văn hoá
Luận văn: Yếu tố phong tục trong truyện cổ tích người Việt từ góc nhìn văn hoáLuận văn: Yếu tố phong tục trong truyện cổ tích người Việt từ góc nhìn văn hoá
Luận văn: Yếu tố phong tục trong truyện cổ tích người Việt từ góc nhìn văn hoá
 
Luận văn: Phương thức biểu hiện nhân vật anh hùng trong thủy hử
Luận văn: Phương thức biểu hiện nhân vật anh hùng trong thủy hửLuận văn: Phương thức biểu hiện nhân vật anh hùng trong thủy hử
Luận văn: Phương thức biểu hiện nhân vật anh hùng trong thủy hử
 
Đặc trưng nghệ thuật Truyện truyền kỳ Việt Nam thời trung đại, HAY
Đặc trưng nghệ thuật Truyện truyền kỳ Việt Nam thời trung đại, HAYĐặc trưng nghệ thuật Truyện truyền kỳ Việt Nam thời trung đại, HAY
Đặc trưng nghệ thuật Truyện truyền kỳ Việt Nam thời trung đại, HAY
 
Luận văn: Quá trình tiếp nhận tác phẩm của Tô Hoài, 9đ
Luận văn: Quá trình tiếp nhận tác phẩm của Tô Hoài, 9đLuận văn: Quá trình tiếp nhận tác phẩm của Tô Hoài, 9đ
Luận văn: Quá trình tiếp nhận tác phẩm của Tô Hoài, 9đ
 
Giao trinh van hoc trung dai Viet Nam. Tap 1.pdf
Giao trinh van hoc trung dai Viet Nam. Tap 1.pdfGiao trinh van hoc trung dai Viet Nam. Tap 1.pdf
Giao trinh van hoc trung dai Viet Nam. Tap 1.pdf
 
Luận văn: Motif hôn nhân giữa người và thần linh trong truyền thuyết
Luận văn: Motif hôn nhân giữa người và thần linh trong truyền thuyếtLuận văn: Motif hôn nhân giữa người và thần linh trong truyền thuyết
Luận văn: Motif hôn nhân giữa người và thần linh trong truyền thuyết
 
Ngôn Ngữ Nghệ Thuật Trong Tiểu Thuyết Mười Lẻ Một Đêm Của Hồ Anh Thái.pdf
Ngôn Ngữ Nghệ Thuật Trong Tiểu Thuyết Mười Lẻ Một Đêm Của Hồ Anh Thái.pdfNgôn Ngữ Nghệ Thuật Trong Tiểu Thuyết Mười Lẻ Một Đêm Của Hồ Anh Thái.pdf
Ngôn Ngữ Nghệ Thuật Trong Tiểu Thuyết Mười Lẻ Một Đêm Của Hồ Anh Thái.pdf
 
Dạy học các tác phẩm thơ Nguyễn Khuyến, Tú Xương ở trung học phổ thông theo h...
Dạy học các tác phẩm thơ Nguyễn Khuyến, Tú Xương ở trung học phổ thông theo h...Dạy học các tác phẩm thơ Nguyễn Khuyến, Tú Xương ở trung học phổ thông theo h...
Dạy học các tác phẩm thơ Nguyễn Khuyến, Tú Xương ở trung học phổ thông theo h...
 
321+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Văn Học – Điểm Cao Nhất Hiện Nay!
321+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Văn Học – Điểm Cao Nhất Hiện Nay!321+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Văn Học – Điểm Cao Nhất Hiện Nay!
321+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Văn Học – Điểm Cao Nhất Hiện Nay!
 
Luận văn: Yếu tố kì ảo trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, HAY
Luận văn: Yếu tố kì ảo trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, HAYLuận văn: Yếu tố kì ảo trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, HAY
Luận văn: Yếu tố kì ảo trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, HAY
 
Luận án: Nghệ thuật tiểu thuyết Diêm Liên Khoa, HAY
Luận án: Nghệ thuật tiểu thuyết Diêm Liên Khoa, HAYLuận án: Nghệ thuật tiểu thuyết Diêm Liên Khoa, HAY
Luận án: Nghệ thuật tiểu thuyết Diêm Liên Khoa, HAY
 
KHÁT VỌNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ VI THÙY LINH 2827260
KHÁT VỌNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ VI THÙY LINH 2827260KHÁT VỌNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ VI THÙY LINH 2827260
KHÁT VỌNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ VI THÙY LINH 2827260
 
Luận văn: Tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh từ góc nhìn liên văn bản, HAY
Luận văn: Tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh từ góc nhìn liên văn bản, HAYLuận văn: Tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh từ góc nhìn liên văn bản, HAY
Luận văn: Tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh từ góc nhìn liên văn bản, HAY
 
HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN ...
HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN ...HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN ...
HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN ...
 
Luận án: Ảnh hưởng văn học dân gian trong truyện thiếu nhi, HAY
Luận án: Ảnh hưởng văn học dân gian trong truyện thiếu nhi, HAYLuận án: Ảnh hưởng văn học dân gian trong truyện thiếu nhi, HAY
Luận án: Ảnh hưởng văn học dân gian trong truyện thiếu nhi, HAY
 
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh ChâuLuận văn: Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu
 
Tiểu Luận Sử Thi Mahabharata Của Ấn Độ
Tiểu Luận Sử Thi Mahabharata Của Ấn Độ Tiểu Luận Sử Thi Mahabharata Của Ấn Độ
Tiểu Luận Sử Thi Mahabharata Của Ấn Độ
 
Luận án: Tiểu thuyết Việt Nam từ góc nhìn phê bình sinh thái, HAY
Luận án: Tiểu thuyết Việt Nam từ góc nhìn phê bình sinh thái, HAYLuận án: Tiểu thuyết Việt Nam từ góc nhìn phê bình sinh thái, HAY
Luận án: Tiểu thuyết Việt Nam từ góc nhìn phê bình sinh thái, HAY
 
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdf
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdfNGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdf
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdf
 
Luận văn: Tư tưởng Nho, Phật của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Dữ
Luận văn: Tư tưởng Nho, Phật của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn DữLuận văn: Tư tưởng Nho, Phật của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Dữ
Luận văn: Tư tưởng Nho, Phật của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Dữ
 

Similar to NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM

An sinh xa hoi
An sinh xa hoiAn sinh xa hoi
An sinh xa hoiforeman
 
MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH
MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH
MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH nataliej4
 
SKKN Phát triển năng lực học sinh thông qua cách giải bài tập Hóa học ở cấp THCS
SKKN Phát triển năng lực học sinh thông qua cách giải bài tập Hóa học ở cấp THCSSKKN Phát triển năng lực học sinh thông qua cách giải bài tập Hóa học ở cấp THCS
SKKN Phát triển năng lực học sinh thông qua cách giải bài tập Hóa học ở cấp THCSnataliej4
 
CTXH tai truong hoc
CTXH tai truong hocCTXH tai truong hoc
CTXH tai truong hocforeman
 
Tam ly hoc dai cuong
Tam ly hoc dai cuongTam ly hoc dai cuong
Tam ly hoc dai cuongforeman
 
Phuong Phap Nckh
Phuong Phap NckhPhuong Phap Nckh
Phuong Phap Nckhguesta60ae
 
Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh
Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí MinhGiáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh
Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí MinhVuKirikou
 
Tiểu Luận Xây Dựng Chính Phủ Điện Tử
Tiểu Luận Xây Dựng Chính Phủ Điện Tử Tiểu Luận Xây Dựng Chính Phủ Điện Tử
Tiểu Luận Xây Dựng Chính Phủ Điện Tử nataliej4
 
Cam nang dao tao cho giao duc vien dong dang
Cam nang dao tao cho giao duc vien dong dangCam nang dao tao cho giao duc vien dong dang
Cam nang dao tao cho giao duc vien dong dangforeman
 
10 nghịch lý cuộc sống
10 nghịch lý cuộc sống10 nghịch lý cuộc sống
10 nghịch lý cuộc sốnglenho
 
Long trieu q19 c29 c124
Long trieu q19 c29 c124Long trieu q19 c29 c124
Long trieu q19 c29 c124Le Viet
 
Su Bi An Cua Tu Ban
Su Bi An Cua Tu BanSu Bi An Cua Tu Ban
Su Bi An Cua Tu Banguest83eef9
 
Nguồn gốc hình thành Tư tưởng Hồ Chí Minh - Phẩm chất đạo đức
Nguồn gốc hình thành Tư tưởng Hồ Chí Minh - Phẩm chất đạo đứcNguồn gốc hình thành Tư tưởng Hồ Chí Minh - Phẩm chất đạo đức
Nguồn gốc hình thành Tư tưởng Hồ Chí Minh - Phẩm chất đạo đứcVuKirikou
 
Giáo Trình Phòng Bệnh Cho Trẻ Mầm Non
Giáo Trình Phòng Bệnh Cho Trẻ Mầm Non Giáo Trình Phòng Bệnh Cho Trẻ Mầm Non
Giáo Trình Phòng Bệnh Cho Trẻ Mầm Non nataliej4
 
Sach An Sinh Xa Hoi
Sach An Sinh Xa HoiSach An Sinh Xa Hoi
Sach An Sinh Xa Hoiforeman
 
TS. BÙI QUANG XUÂN NGHỆ THUẬT LÃNH ĐẠO
TS. BÙI QUANG XUÂN NGHỆ THUẬT LÃNH ĐẠO TS. BÙI QUANG XUÂN NGHỆ THUẬT LÃNH ĐẠO
TS. BÙI QUANG XUÂN NGHỆ THUẬT LÃNH ĐẠO Bùi Quang Xuân
 
Binh dang gioi o Viet Nam
Binh dang gioi o Viet NamBinh dang gioi o Viet Nam
Binh dang gioi o Viet Namforeman
 

Similar to NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM (20)

HDJHJ
HDJHJHDJHJ
HDJHJ
 
An sinh xa hoi
An sinh xa hoiAn sinh xa hoi
An sinh xa hoi
 
MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH
MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH
MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH
 
SKKN Phát triển năng lực học sinh thông qua cách giải bài tập Hóa học ở cấp THCS
SKKN Phát triển năng lực học sinh thông qua cách giải bài tập Hóa học ở cấp THCSSKKN Phát triển năng lực học sinh thông qua cách giải bài tập Hóa học ở cấp THCS
SKKN Phát triển năng lực học sinh thông qua cách giải bài tập Hóa học ở cấp THCS
 
CTXH tai truong hoc
CTXH tai truong hocCTXH tai truong hoc
CTXH tai truong hoc
 
Tam ly hoc dai cuong
Tam ly hoc dai cuongTam ly hoc dai cuong
Tam ly hoc dai cuong
 
Phuong Phap Nckh
Phuong Phap NckhPhuong Phap Nckh
Phuong Phap Nckh
 
Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh
Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí MinhGiáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh
Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh
 
Tiểu Luận Xây Dựng Chính Phủ Điện Tử
Tiểu Luận Xây Dựng Chính Phủ Điện Tử Tiểu Luận Xây Dựng Chính Phủ Điện Tử
Tiểu Luận Xây Dựng Chính Phủ Điện Tử
 
Cam nang dao tao cho giao duc vien dong dang
Cam nang dao tao cho giao duc vien dong dangCam nang dao tao cho giao duc vien dong dang
Cam nang dao tao cho giao duc vien dong dang
 
10 nghịch lý cuộc sống
10 nghịch lý cuộc sống10 nghịch lý cuộc sống
10 nghịch lý cuộc sống
 
Quy Dau Tu Chung Khoan
Quy Dau Tu Chung KhoanQuy Dau Tu Chung Khoan
Quy Dau Tu Chung Khoan
 
Long trieu q19 c29 c124
Long trieu q19 c29 c124Long trieu q19 c29 c124
Long trieu q19 c29 c124
 
Su Bi An Cua Tu Ban
Su Bi An Cua Tu BanSu Bi An Cua Tu Ban
Su Bi An Cua Tu Ban
 
Nguồn gốc hình thành Tư tưởng Hồ Chí Minh - Phẩm chất đạo đức
Nguồn gốc hình thành Tư tưởng Hồ Chí Minh - Phẩm chất đạo đứcNguồn gốc hình thành Tư tưởng Hồ Chí Minh - Phẩm chất đạo đức
Nguồn gốc hình thành Tư tưởng Hồ Chí Minh - Phẩm chất đạo đức
 
Giáo Trình Phòng Bệnh Cho Trẻ Mầm Non
Giáo Trình Phòng Bệnh Cho Trẻ Mầm Non Giáo Trình Phòng Bệnh Cho Trẻ Mầm Non
Giáo Trình Phòng Bệnh Cho Trẻ Mầm Non
 
Sach An Sinh Xa Hoi
Sach An Sinh Xa HoiSach An Sinh Xa Hoi
Sach An Sinh Xa Hoi
 
TS. BÙI QUANG XUÂN NGHỆ THUẬT LÃNH ĐẠO
TS. BÙI QUANG XUÂN NGHỆ THUẬT LÃNH ĐẠO TS. BÙI QUANG XUÂN NGHỆ THUẬT LÃNH ĐẠO
TS. BÙI QUANG XUÂN NGHỆ THUẬT LÃNH ĐẠO
 
Binh dang gioi o Viet Nam
Binh dang gioi o Viet NamBinh dang gioi o Viet Nam
Binh dang gioi o Viet Nam
 
C3 Hg
C3 HgC3 Hg
C3 Hg
 

More from nataliej4

đồ áN xây dựng website bán laptop 1129155
đồ áN xây dựng website bán laptop 1129155đồ áN xây dựng website bán laptop 1129155
đồ áN xây dựng website bán laptop 1129155nataliej4
 
Nghệ thuật chiến tranh nhân dân việt nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ t...
Nghệ thuật chiến tranh nhân dân việt nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ t...Nghệ thuật chiến tranh nhân dân việt nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ t...
Nghệ thuật chiến tranh nhân dân việt nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ t...nataliej4
 
Quản lý dịch vụ ô tô toyota 724279
Quản lý dịch vụ ô tô toyota 724279Quản lý dịch vụ ô tô toyota 724279
Quản lý dịch vụ ô tô toyota 724279nataliej4
 
Từ vựng tiếng anh luyện thi thpt quốc gia
Từ vựng tiếng anh luyện thi thpt quốc giaTừ vựng tiếng anh luyện thi thpt quốc gia
Từ vựng tiếng anh luyện thi thpt quốc gianataliej4
 
Công tác dược lâm sàng tại bv cấp cứu trưng vương
Công tác dược lâm sàng tại bv cấp cứu trưng vươngCông tác dược lâm sàng tại bv cấp cứu trưng vương
Công tác dược lâm sàng tại bv cấp cứu trưng vươngnataliej4
 
Bài giảng nghề giám đốc
Bài giảng nghề giám đốcBài giảng nghề giám đốc
Bài giảng nghề giám đốcnataliej4
 
đề Cương chương trình đào tạo trình độ trung cấp kế toán tin học
đề Cương chương trình đào tạo trình độ trung cấp kế toán   tin họcđề Cương chương trình đào tạo trình độ trung cấp kế toán   tin học
đề Cương chương trình đào tạo trình độ trung cấp kế toán tin họcnataliej4
 
Giáo trình kỹ thuật an toàn và bảo hộ lao động
Giáo trình kỹ thuật an toàn và bảo hộ lao độngGiáo trình kỹ thuật an toàn và bảo hộ lao động
Giáo trình kỹ thuật an toàn và bảo hộ lao độngnataliej4
 
Lựa chọn trong điều kiện không chắc chắn
Lựa chọn trong điều kiện không chắc chắnLựa chọn trong điều kiện không chắc chắn
Lựa chọn trong điều kiện không chắc chắnnataliej4
 
Thực trạng phân bố và khai thác khoáng sét ở đồng bằng sông cửu long 4857877
Thực trạng phân bố và khai thác khoáng sét ở đồng bằng sông cửu long 4857877Thực trạng phân bố và khai thác khoáng sét ở đồng bằng sông cửu long 4857877
Thực trạng phân bố và khai thác khoáng sét ở đồng bằng sông cửu long 4857877nataliej4
 
Sổ tay hướng dẫn khách thuê tòa nhà ree tower
Sổ tay hướng dẫn khách thuê   tòa nhà ree towerSổ tay hướng dẫn khách thuê   tòa nhà ree tower
Sổ tay hướng dẫn khách thuê tòa nhà ree towernataliej4
 
Phân tích tác động của thiên lệch hành vi đến quyết định của nhà đầu tư cá nh...
Phân tích tác động của thiên lệch hành vi đến quyết định của nhà đầu tư cá nh...Phân tích tác động của thiên lệch hành vi đến quyết định của nhà đầu tư cá nh...
Phân tích tác động của thiên lệch hành vi đến quyết định của nhà đầu tư cá nh...nataliej4
 
Bài giảng giáo dục hoà nhập trẻ khuyết tật
Bài giảng giáo dục hoà nhập trẻ khuyết tậtBài giảng giáo dục hoà nhập trẻ khuyết tật
Bài giảng giáo dục hoà nhập trẻ khuyết tậtnataliej4
 
đồ áN thiết kế quần âu nam 6838864
đồ áN thiết kế quần âu nam 6838864đồ áN thiết kế quần âu nam 6838864
đồ áN thiết kế quần âu nam 6838864nataliej4
 
Tài liệu hội thảo chuyên đề công tác tuyển sinh – thực trạng và giải pháp 717...
Tài liệu hội thảo chuyên đề công tác tuyển sinh – thực trạng và giải pháp 717...Tài liệu hội thảo chuyên đề công tác tuyển sinh – thực trạng và giải pháp 717...
Tài liệu hội thảo chuyên đề công tác tuyển sinh – thực trạng và giải pháp 717...nataliej4
 
Bài giảng dịch tễ học bệnh nhiễm trùng
Bài giảng dịch tễ học bệnh nhiễm trùngBài giảng dịch tễ học bệnh nhiễm trùng
Bài giảng dịch tễ học bệnh nhiễm trùngnataliej4
 
Bài giảng môn khởi sự kinh doanh
Bài giảng môn khởi sự kinh doanhBài giảng môn khởi sự kinh doanh
Bài giảng môn khởi sự kinh doanhnataliej4
 
Giới thiệu học máy – mô hình naïve bayes learning intro
Giới thiệu học máy – mô hình naïve bayes   learning introGiới thiệu học máy – mô hình naïve bayes   learning intro
Giới thiệu học máy – mô hình naïve bayes learning intronataliej4
 
Lý thuyết thuế chuẩn tắc
Lý thuyết thuế chuẩn tắcLý thuyết thuế chuẩn tắc
Lý thuyết thuế chuẩn tắcnataliej4
 
Bài giảng thuế thu nhập (cá nhân, doanh nghiệp)
Bài giảng thuế thu nhập (cá nhân, doanh nghiệp)Bài giảng thuế thu nhập (cá nhân, doanh nghiệp)
Bài giảng thuế thu nhập (cá nhân, doanh nghiệp)nataliej4
 

More from nataliej4 (20)

đồ áN xây dựng website bán laptop 1129155
đồ áN xây dựng website bán laptop 1129155đồ áN xây dựng website bán laptop 1129155
đồ áN xây dựng website bán laptop 1129155
 
Nghệ thuật chiến tranh nhân dân việt nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ t...
Nghệ thuật chiến tranh nhân dân việt nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ t...Nghệ thuật chiến tranh nhân dân việt nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ t...
Nghệ thuật chiến tranh nhân dân việt nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ t...
 
Quản lý dịch vụ ô tô toyota 724279
Quản lý dịch vụ ô tô toyota 724279Quản lý dịch vụ ô tô toyota 724279
Quản lý dịch vụ ô tô toyota 724279
 
Từ vựng tiếng anh luyện thi thpt quốc gia
Từ vựng tiếng anh luyện thi thpt quốc giaTừ vựng tiếng anh luyện thi thpt quốc gia
Từ vựng tiếng anh luyện thi thpt quốc gia
 
Công tác dược lâm sàng tại bv cấp cứu trưng vương
Công tác dược lâm sàng tại bv cấp cứu trưng vươngCông tác dược lâm sàng tại bv cấp cứu trưng vương
Công tác dược lâm sàng tại bv cấp cứu trưng vương
 
Bài giảng nghề giám đốc
Bài giảng nghề giám đốcBài giảng nghề giám đốc
Bài giảng nghề giám đốc
 
đề Cương chương trình đào tạo trình độ trung cấp kế toán tin học
đề Cương chương trình đào tạo trình độ trung cấp kế toán   tin họcđề Cương chương trình đào tạo trình độ trung cấp kế toán   tin học
đề Cương chương trình đào tạo trình độ trung cấp kế toán tin học
 
Giáo trình kỹ thuật an toàn và bảo hộ lao động
Giáo trình kỹ thuật an toàn và bảo hộ lao độngGiáo trình kỹ thuật an toàn và bảo hộ lao động
Giáo trình kỹ thuật an toàn và bảo hộ lao động
 
Lựa chọn trong điều kiện không chắc chắn
Lựa chọn trong điều kiện không chắc chắnLựa chọn trong điều kiện không chắc chắn
Lựa chọn trong điều kiện không chắc chắn
 
Thực trạng phân bố và khai thác khoáng sét ở đồng bằng sông cửu long 4857877
Thực trạng phân bố và khai thác khoáng sét ở đồng bằng sông cửu long 4857877Thực trạng phân bố và khai thác khoáng sét ở đồng bằng sông cửu long 4857877
Thực trạng phân bố và khai thác khoáng sét ở đồng bằng sông cửu long 4857877
 
Sổ tay hướng dẫn khách thuê tòa nhà ree tower
Sổ tay hướng dẫn khách thuê   tòa nhà ree towerSổ tay hướng dẫn khách thuê   tòa nhà ree tower
Sổ tay hướng dẫn khách thuê tòa nhà ree tower
 
Phân tích tác động của thiên lệch hành vi đến quyết định của nhà đầu tư cá nh...
Phân tích tác động của thiên lệch hành vi đến quyết định của nhà đầu tư cá nh...Phân tích tác động của thiên lệch hành vi đến quyết định của nhà đầu tư cá nh...
Phân tích tác động của thiên lệch hành vi đến quyết định của nhà đầu tư cá nh...
 
Bài giảng giáo dục hoà nhập trẻ khuyết tật
Bài giảng giáo dục hoà nhập trẻ khuyết tậtBài giảng giáo dục hoà nhập trẻ khuyết tật
Bài giảng giáo dục hoà nhập trẻ khuyết tật
 
đồ áN thiết kế quần âu nam 6838864
đồ áN thiết kế quần âu nam 6838864đồ áN thiết kế quần âu nam 6838864
đồ áN thiết kế quần âu nam 6838864
 
Tài liệu hội thảo chuyên đề công tác tuyển sinh – thực trạng và giải pháp 717...
Tài liệu hội thảo chuyên đề công tác tuyển sinh – thực trạng và giải pháp 717...Tài liệu hội thảo chuyên đề công tác tuyển sinh – thực trạng và giải pháp 717...
Tài liệu hội thảo chuyên đề công tác tuyển sinh – thực trạng và giải pháp 717...
 
Bài giảng dịch tễ học bệnh nhiễm trùng
Bài giảng dịch tễ học bệnh nhiễm trùngBài giảng dịch tễ học bệnh nhiễm trùng
Bài giảng dịch tễ học bệnh nhiễm trùng
 
Bài giảng môn khởi sự kinh doanh
Bài giảng môn khởi sự kinh doanhBài giảng môn khởi sự kinh doanh
Bài giảng môn khởi sự kinh doanh
 
Giới thiệu học máy – mô hình naïve bayes learning intro
Giới thiệu học máy – mô hình naïve bayes   learning introGiới thiệu học máy – mô hình naïve bayes   learning intro
Giới thiệu học máy – mô hình naïve bayes learning intro
 
Lý thuyết thuế chuẩn tắc
Lý thuyết thuế chuẩn tắcLý thuyết thuế chuẩn tắc
Lý thuyết thuế chuẩn tắc
 
Bài giảng thuế thu nhập (cá nhân, doanh nghiệp)
Bài giảng thuế thu nhập (cá nhân, doanh nghiệp)Bài giảng thuế thu nhập (cá nhân, doanh nghiệp)
Bài giảng thuế thu nhập (cá nhân, doanh nghiệp)
 

Recently uploaded

bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa2353020138
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxendkay31
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNguyễn Đăng Quang
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdftohoanggiabao81
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxnhungdt08102004
 

Recently uploaded (19)

bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
 

NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM

  • 1. NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM (Tái bản lần thứ tư) Tác giả: TRỊNH BÁ ĐĨNH Với sự cộng tác của: NGUYỄN HỮU SƠN – VŨ THANH Tuyển chọn và giới thiệu LỜI NÓI ĐẦU Sáng tác của Nguyễn Du không thật đồ sộ về số lượng, tuy nhiên, khối lượng những công trình nghiên cứu, những lời bình luận, đánh giá về nó thì hết sức lớn. Việc bình luận, nghiên cứu Nguyễn Du và di sản của ông đã có lịch sử dài hơn một thế kỷ rưỡi, qua nhiều chặng với những cách nhìn, cách tiếp cận khác nhau, đặc biệt phát triển cả về bề rộng lẫn chiều sâu trong thế kỷ XX. Có thể nói, ý thức về di sản của Nguyễn Du luôn tiến triển cùng với tư tưởng xã hội và tư tưởng văn học của dân tộc. Tập sách này tuyển chọn những bài viết, những công trình nghiên cứu tiêu biểu trong số những thành tựu đó. Trước hết nó nhằm mục đích cung cấp tư liệu phục vụ cho việc giảng dạy và học tập về Nguyễn Du trong nhà trường. Sau nữa, nó cũng có thể giúp ích cho những người hoạt động văn hóa, văn học và phần nào cả một số nhà nghiên cứu quan tâm tới việc tìm hiểu, khai thác di sản của Nguyễn Du nói riêng và của văn học truyền thống nói đúng. Để thuận tiện cho việc theo dõi và sử dụng tập sách, chúng tôi muốn lưu ý độc giả mấy điểm sau: a. Những bài viết, những công trình được tuyển chọn vào tập sách này chủ yếu thuộc lĩnh vực ngữ văn. Điều ấy có nghĩa là, những bài nghiên cứu thuộc lĩnh vực vẫn gọi là văn bản học, những bài phát biểu có tính chất chính trị xã hội và văn hóa chung sẽ không có ở đây; ngoại lệ là một đôi bài đó in dấu ấn đậm nét trong lịch sử bình luận, nghiên cứu Truyện Kiều hay được
  • 2. nhắc tới. Một số thơ ca tiêu biểu viết về Nguyễn Du và Truyện Kiều được đưa vào tập sách vì sáng tác thơ ca cũng là một cách giải thích, đánh giá… b. Với những công trình biên khảo lớn, ở đây chỉ tuyển một số phần tiêu biểu, trừ hai cuốn Khảo luận về Kim Vân Kiều và Quyền sống của con người trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du được lấy lại hầu như nguyên vẹn. c. Các văn bản được sử dụng đều chú rõ xuất xứ và về cơ bản được giữ nguyên văn. Nhân tập sách ra mắt bạn đọc, chúng tôi xin gửi lời cám ơn đến các PGS. Nguyễn Lộc và Nguyễn Thạch Giang đã góp ý cho đề cương bản thảo. Chúng tôi cũng gửi lời cám ơn đến GS. Hà Minh Đức, Viện trưởng Viện Văn học đã viết LỜI GIỚI THIỆU; và đặt biệt là các tác giả và thân nhân của những cố tác giả đã giúp đỡ và cho phép sử dụng các bài viết trong tập sách này. NHÀ XUẤT BẢN GIÁO DỤC LỜI GIỚI THIỆU Trước mắt chúng ta là bộ tư liệu văn học khá đồ sộ về các tác gia tiêu biểu của lịch sử văn học Việt Nam. Trong lịch sử phát triển của văn hóa dân tộc, so với nhiều ngành nghệ thuật khác văn học là nhân tố trội và có một vị trí quan trọng. Kho tàng văn học dân gian vô giá chưa khai thác và đoán định được hết sự giàu có và xác định được đầy đủ giá trị văn chương. Mười thế kỷ văn học viết với những đỉnh cao về tác giả: Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Cao Bá quát, Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Khuyến, Phan Bội Châu, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, Tố Hữu, Xuân Diệu, Huy Cận, Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao… những tên tuổi luôn là niềm tự hào cho nền văn hóa và văn học dân tộc. Theo dòng lịch sử tác phẩm văn chương luôn chịu sự thử thách chọn lọc khắc nghiệt của thời gian và nhiều tác phẩm rơi vào lãng quên. Dưmg như ngược với quy luật ấy, những tác giả và tác phẩm tiêu biểu lại không ngừng
  • 3. được luận bàn qua các thời kỳ lịch sử. Cuộc đời và tác phẩm của họ mang nhiều tâm tư sâu sắc, quy tụ được nhiều vấn đề xã hội và có thể dự báo một điều gì cho mai hậu. Sinh thời Nguyễn Du băn khoăn: Bất tri tam bách dư niên hậu, Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như? (Ba trăm năm lẻ nữa ta đâu biết, Thiên hạ ai người khác Tố Như?) Thế hệ kế tiếp, những kẻ hậu sinh thiết tha muốn hiểu ông và đã một phần hiểu ông. Từ ý kiến tâm huyết của Ngô Đức Kế, đến những công trình nghiên cứu sâu sắc của Hoài Thanh, Xuân Diệu, của các nhà nghiên cứu Lê Đình Kỵ, Lê Trí Viễn,… Truyện Kiều đã được phân tích từ trên nhiều bình diện, và đáng quý khi tác phẩm này đã góp phần vào sự phát triển đời sống tình cảm của dân tộc. “Truyện Kiều” tuyệt tác của đại thi hào Nguyễn Du” thật sự đã giữ vai trò quan trọng biết nhường nào làm những con người Việt Nam chúng ta xích lại gần nhau, sát cánh bên nhau, thông cảm và đồng cảm trong đời sống thường nhật, trong lao động, đấu tranh để bảo vệ và xây dựng Tổ quốc thân yêu của mình”. Đấy là trường hợp Nguyễn Du và cũng là của nhiều nhà văn tiểu biểu khác mà trước hết phải kể đến Nguyễn Trãi. Nguyễn Trãi, người anh hùng cứu quốc, nhà tư tưởng, nhà văn hoá, nhà thơ. Tất cả những phẩm chất của các nhân vật trên quy tụ lại trong nhiều tác phẩm văn chương và hậu thế đã tìm hiểu, nghiên cứu ông trên nhiều bình diện. Đinh Gia Khánh nghiên cứu quan điểm văn chương của Nguyễn Trãi; Bùi Văn Nguyên, Nguyễn Huệ Chi tìm hiểu Quân trung từ mệnh tập – tập luận chiến quân sự và ngoại giao; rồi văn thơ chữ Hán; văn thơ Quốc âm cũng được nhiều nhà nghiên cứu khai thác. Đặc biệt Bình Ngô đại cáo được đánh giá rất cao qua nhiều bài viết từ Bùi Kỷ, Vũ Khiêu đến Bùi Văn Nguyên. Sự nghiệp văn chương của Nguyễn Trãi là của một thời và của muôn đời. Những ý kiến đánh giá về ông qua các
  • 4. thời đại giúp cho người đọc hiểu được vị trí và sự đóng góp của ông cho văn hóa và văn học nước nhà. Văn học thời trung đại còn khởi sắc ở chặng đường cuối với nhiều nhà văn tiêu biểu. Nguyễn Đình Chiểu là một ngôi sao, một tấm gương sáng trên cả hai phương diện đạo và đời. Nhà yêu nước lớn, nhà nho giữ đạo vẹn tròn, nhà văn giàu dũng khí và tài năng, người đã gìn giữ và đưa văn chương lên vị trí cao quý. Chúng ta có thể tìm thấy nhiều ý kiến sâu sắc của Phạm Văn Đồng và nhiều nhà nghiên cứu khác về sự nghiệp văn thơ tác giả. Trong công lao chung nghiên cứu về tác giả thời kỳ trung đại phải kể đến những công trình của Đặng Thai Mai, Hoài Thanh, Lê Đình Kỵ, Lê Trí Viễn, Đinh gia Khánh, Bùi Văn Nguyên, Nguyễn Huệ Chi, đặc biệt là Xuân Diệu. Ông tự đặt cho mình nhiệm vụ phải nói cho được cái hay, cái đẹp, hương vị cao quý của văn thơ các danh nhân ở mọi thời. Ông bà người ngưỡng mộ thi hào dân tộc Nguyễn Du, “Bà chúa thơ Nôm” Hồ Xuân Hương, ca ngợi Nguyễn Khuyến, nhà thơ của “dân tình làng cảnh”, cảm thương cái tài cái phận với tiếng cười ra nước mắt của Tú Xương. Bước sang thời kỳ hiện đại cánh cửa lịch sử mở dần từ đầu thế kỷ XX và chỉ sau hai thập kỷ lịch sử văn học đã bước vào thời kỳ Phục hưng với Phong trào Thơ mới, Tự Lực văn đoàn, trào lưu hiện thực phê phán và tiếp theo hơn nửa thế kỷ văn học cách mạng. Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh là một tác gia lớn mở đầu và khai sáng cho nền văn học cách mạng. Sự nghiệp của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh bao gồm trên nhiều phạm vi: thơ ca, truyện ký, văn chính luận và ở lĩnh vực nào cũng nổi lên với những tác phẩm tiêu biểu. Nghiên cứu sự nghiệp văn thơ Hồ Chí Minh là niềm hứng thú của nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước và chúng ta đã có một khối lượng tư liệu phong phú về văn thơ Hồ Chí Minh. Sự nghệp văn thơ Hồ Chí Minh đòi hỏi phải được tiếp tục nghiên cứu trên nhiều vấn đề về nội dung tư tưởng cũng như nghệ thuật biểu hiện. Các tác giả Đặng Thai Mai, Trần Huy Liệu, Phạm Huy Thông, Hoài Thanh... các nhà thơ Xuân Diệu, Chế Lan Viên đều có nhiều bài viết hay về văn thơ Hồ Chí Minh.
  • 5. Tố Hữu, nhà thơ vô sản với phong cách sáng tạo độc đáo đã sớm thu hút được sự quan tâm của bạn đọc. Ngay từ thời kỳ Mặt trận Dân chủ, Trần Minh Tước đã gọi “Tố Hữu là nhà thơ của tương lai”. Cách mạng tháng tám thành công, tập thơ Từ ấy được giới thiệu và Đặng Thai Mai xem tập thơ là “bó hoa lửa lộng lẫy”. Suốt nhiều thập kỷ, Tố Hữu vẫn được xem là “lá cờ đầu của thơ ca cách mạng”, hay nói như Chế Lan Viên: “Anh là người mở đường, dẫn đường và hiện nay vẫn trên đường”. Hơn 60 năm sáng tác thơ Tố Hữu đã chinh phục được nhiều thế hệ bạn đọc qua giọng điệu trữ tình cách mạng ấm áp tình đời tình người. Hàng trăm bài viết, nhiều công trình nghiên cứu đã khai thác khá triệt để thơ Tố Hữu với nhiều cách tiếp cận, vận dụng nhiều phương pháp nghiên cứu thích hợp. Và chắc chắn mọi ý kiến không dễ thuận chiều, xuôi gió. Hai cuộc tranh luận về tập thơ Từ ấy và Việt Bắc đã ghi lại được những quan điểm học thuật khác nhau và phần nào không khí văn học một thời. Những nhà văn nhà thơ lớn của thời kỳ hiện đại như Xuân Diệu, Nguyễn Tuân, Nam Cao đều có phong cách sáng tạo độc đáo lôi cuốn mạnh mẽ người đọc. Xuân Diệu “nhà thơ mới nhất” trong Phong trào Thơ mới, nhà thơ lớn của nền thơ ca cách mạng, nhà phê bình nghiên cứu văn học uyên thâm và tinh tế đã là đề tài của biết bao công trình. Nguyễn Tuân độc đáo và tài hoa trong văn cũng như trong đời, một kiểu mẫu nhà văn lấy mình làm điểm tựa để nói về cuộc đời với nhiều ý tưởng lạ, ngôn từ chắt lọc, sáng tạo. Nam Cao đến muộn, ông chưa được biết đến trong Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan nhưng từ những năm đầu thập kỷ sáu mươi, Nam Cao đã thu hút và ngày càng nằm sâu trong ký ức từ tuổi học trò đến những người trải đời và đau đời. Tất cả những trang viết về các nhà văn tiêu biểu trên, được chọn lọc qua các tập tư liệu, như còn mang theo hơi thở, sức sống, dư âm và tài năng sáng tạo từ cội nguồn, những cây lớn vẫn tỏa bóng mát và hương thơm. Các tập tư liệu về văn học Việt Nam được sưu tầm công phu, có hệ thống, chọn lọc theo một chuẩn mực thống nhất. Chuẩn mực cao nhất là chất lượng, bài viết phải góp phần nói lên được đặc điểm và phong cách của tác giả. Được viết ra từ nhiều thời điểm với những quan điểm nhận thức khác nhau nên cách đánh giá chắc chắn là có nhiều điểm khác biệt. Đó là chuyện bình
  • 6. thường trong nghiên cứu văn học và theo thời gian chắc chắn còn có thêm những suy nghĩ mới. Đây là bộ tư liệu đầu tiên giới thiệu chín tác giả chính trong chương trình văn học của nhà trường. Chắc chắn là chúng ta phải có thêm nhiều tập tư liệu khác. Bên cạnh Xuân Diệu phải có Huy cận, giới thiệu Nguyễn Tuân phải có Tô Hoài, và giới thiệu Nam Cao phải có Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan. Mục đích cuối cùng không chỉ vì riêng cho tác giả mà trước hết là vì bạn đọc. Phải tạo những điều kiện thuận lợi nhất để có thể hiểu kỹ về tác giả, tác phẩm. Chịu trách nhiệm biên soạn với Nhà xuất bản Giáo dục, các nhà nghiên cứu của Viện Văn học đã làm việc với tinh thần say mê và ý thức tôn trọng những giá trị tinh thần cao quý của văn học dân tộc. Viện trưởng Viện Văn học GS. HÀ MINH ĐỨC DI SẢN CỦA NGUYỄN DU VÀ THỜI GIAN Sáng tác của Nguyễn Du (1765– 1820) được lưu hành từ rất sớm, có lẽ ngay từ lúc nhà thơ còn sống. Phạm Quý Thích, người cùng thời, chỉ mất sau Nguyễn Du 5 năm từng có bài thơ nổi tiếng bằng chữ Hán đề vịnh Truyện Kiều. Nhiều nhà nho ở Thăng Long, nhất là những học trò của Phạm Quý Thích, trong đó có một số người là danh thần, danh sĩ chắc có biết và ông tham gia vào việc phổ biến Truyện Kiều, và cũng có thể không chỉ có Truyện Kiều mà còn cả những sáng tác khác của Nguyễn Du nữa. Tương truyền, Truyện Kiều được chính Phạm Quý Thích nhuận sắc và cho in ở phố Hàng Gai thuộc Hà Nội bây giờ. Nghe nói, sau khi Nguyễn Du mất vài chục năm, vua Tự Đức từng có sớ cho quan tỉnh Nghệ An thu thập tất cả di cảo của Nguyễn Du để đưa về kinh. Nếu những chuyện đó là có thực, thì cho tới lúc ấy, sáng tác của ông đã có ảnh hưởng khá lớn trong xã hội, chí ít là ở tầng lớp có văn hóa cao.
  • 7. Từ đó tới nay, việc sưu tập, nghiên cứu, phổ biến di sản văn học của Nguyễn Du không bao giờ bị đứt đoạn, nó luôn phát triển cùng với sự tiến bộ của ngành văn bản học và ngữ văn học nước ta, đặc biệt từ sau những năm 30 của thế kỷ XX, khi việc sưu tầm, nghiên cứu văn học được ý thức như là hoạt động khoa học. Một điểm móc đáng chú ý là năm 1965, nhân dịp 200 năm năm sinh, Nguyễn Du được Hội đồng hòa bình thế giới quyết định kỷ niệm như một danh nhân văn hóa thế giới và chính phủ Việt Nam đã chỉ đạo tiến hành kỷ niệm trọng thể thi hào của dân tộc mình. Một trong các hoạt động kỷ niệm là việc nghiên cứu và cho xuất bản lại các tác phẩm của Nguyễn Du. Hai công trình nghiêm túc đáng được chú ý ra mắt lúc đó là Thơ chữ Hán Nguyễn Du do Lê Thước và Trương Chính sưu tầm, hiệu đính, chú thích 249 bài thơ và cuốn Truyện Kiều do nhóm nghiên cứu văn bản Truyện Kiều của Viện Văn học thực hiện. Sau đó, các tác phẩm của Nguyễn Du còn được nhiều nhà nghiên cứu khác giám định, bổ sung, hiệu đính và cho in lại. Đến nay, chúng ta đã có được các tác phẩm sau của Nguyễn du: Truyện Kiều (Đoạn trường tân thanh), Văn chiêu hồn, Thơ chữ Hán (Thanh Hiên thi tập hay Thanh niên tiền hậu tập, Nam trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lục), Văn tế Trường Lưu nhị nữ, Thác lời trai phường Vải. Tuy vậy, việc nghiên cứu di sản của Ngurễn Du về mặt văn bản học, chưa phải đã kết thúc, và cũng chưa biết đến khi nào mới kết thúc. Còn có những ý kiến hồ nghi tác giả một số bài thơ chữ Hán vẫn được coi là của Nguyễn Du. Việc xác định thời điểm ra đời của các tác phẩm còn chưa được giải quyết. Ngay về thời điểm Nguyễn Du viết Truyện Kiều thì mặc dù đã mất nhiều công sức, nhưng các ý kiến trong giới nghiên cứu vẫn còn rất khác nhau. Nổi cộm nhất vẫn là chuyện văn bản Truyện Kiều: cần tìm kiếm một bản Kiều gần sát với bản do chính Nguyễn Du viết ra. Bản gốc thì đã hoàn toàn thất lạc. Bản Kiều in sớm nhất mà các nhà khảo cứu hiện có được là bản ra đời năm 1871, tức sau khi tác giả mất đã nửa thế. kỷ. Hiện nay có đến vài chục bản Kiều khác nhau. Tuy nhiên, thực ra thì sự sai biệt giữa các bản không lớn, chủ yếu khác nhau ở một số chữ phiên âm, một số cách hiểu nghỉa của từ. Với các sáng tác khác của nhà thơ tình hình cũng gần như vậy.
  • 8. Do đó, trọng tâm của giới nghiên cứu là hướng vào tìm hiểu tư tưởng và nghệ thuật của Truyện Kiều cùng những sáng tác khác của ông. *** Truyện Kiều, một tác phẩm được Nguyễn Du sáng tác khi “chồng chất những khối lỗi ở trong lòng” và được viết như có máu chảy trên đầu ngọn bút”, tất nhiên phải chứa đầy những tâm tình của ông. Tuy nhiên vì thông qua một câu chuyện, lại là câu chuyện có sẵn của Trung Quốc thì dẫu sao, tâm tình ấy cũng chỉ được bộc lộ gián tiếp, đưa ánh xạ qua sự kể chuyện khách quan. Thơ chữ Hán và Văn chiêu hồn của ông thì khác, đó là nơi giãi bày trực tiếp tấm lòng của ông, ghi dấu trung thành những sự biến trong cuộc đời thăng trầm của nhà thơ. Tìm hiểu chúng trước hết là nhằm làm rõ “phẩm cách phức tạp và sinh hoạt bi đát” (Đào huy Anh) của Nguyễn Du. Trước Cách mạng tháng Tám, Đào Duy Anh, Trần Trọng Kim đã từng viết về các thi phẩm này. Trong cuốn Khảo luận về Kim Vân Kiều, Đào Duy Anh dành phần cuối, gọi là “phụ lục” để viết về thơ chữ Hán Nguyễn Du. Sau này có nhiều tác giả khác tiếp tục tìm hiểu thơ chữ Hán và Văn chiêu hồn như Hoài Thanh, Xuân Diệu, Đinh Hùng, Trương chính, Nguyễn Lộc… Ba tập thơ chữ Hán: thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm và Bắc hành tạp lục như là ba tập nhật ký bằng thơ của Nguyễn Du trong một khoảng thời gian dài từ năm nhà thơ 21 tuổi đến năm ông 49 tuổi (1814), ở đó “bài nào cũng chứa đựng một lời tâm sự” và “bộc lộ thái độ sống của ông một cách rõ nét”. (Trương Chính). Căn” cứ vào tập Bắc hành tạp lục, Đào Duy Anh còn vẽ lại được con đường sứ trình của nhà thơ từ Huế tới Bắc kinh và từ Bắc Kinh trở về. Các bài thờ chữ hán cho thấy rõ và nhà thơ lớn của chúng ta đã có một cuộc sống hết sức chật vật không chỉ trong “mười năm gió bụi” mà cả khi đã ở quê nhà Hồng Lĩnh. Về “cuộc đời lưu ly phiêu bạt” với những “sinh hoạt bi đát” cuả Nguyễn Du thì hầu như mọi người đã nhất trí, tuy nhiên tâm sự của ông, điều mà Đào Duy Anh gọi là “phẩm cách phức tạp” được bộc lộ qua nội dung thơ chữ hán thì đến nay vẫn có nhiều ý kiến khác nhau. Cụ thể trên hai khía cạnh: thái độ của Nguyễn Du đối với các triều đại Lê, Tây Sơn,
  • 9. Nguyễn và nội dung tình thương của ông trước những kiếp tài hoa bạc mệnh và những người cùng khổ. Tình cảm thực của Nguyễn Du đối với các triều đại Lê, Tây Sơn, Nguyễn như thế nào? Trước Cách mạng, Đào Duy Anh cho rằng thơ chữ Hán của Nguyễn Du là “bài bi ca khảng khái”, trong đó “lòng trung trinh là phần chủ yếu trong tâm tính Nguyễn Du… Cái lòng ấy, đến lúc chết ông vẫn chung chú vào nhà Lê vua Lê…”. Thái độ bất đắc chí của Nguyễn Du khi làm quan triều Nguyễn cũng được Đào Duy Anh giải thích là bởi vì nhà thơ luôn mang tâm sự day dứt cuả “kẻ bề tôi phải thờ hai vua”. Còn với Tay Sơn thì theo Đào Duy Anh, Nguyễn Du có thái độ chống đối đến cùng. Hơn bốn mươi năm sau, tới năm 1988, trong lời giới thiệu cuốn Thơ chữ Hán Nguyễn Du, nhà nghiên cứu vẫn bảo lưu ý kiến của mình. Ông viết: “Nổi bật nhất (ở thơ chữ Hán – TBĐ) là lòng cô trung của Nguyễn Du đối với nhà Lê, trọn vẹn từ trước đến sau. Hình như nhà thơ thấy rằng, nhà Lê mất và mất luôn cả lẽ sống của mình. Khi làm quan với nhà Nguyễn mà lòng nhớ nhà Lê vẫn không phai nhạt”. Ở đây cũng cần nói thêm rằng, theo sách sử và Gia phả cho biết thì Nguyễn Du là con cựu thần nhà Lê, thân phụ ông làm đến Đại tư đồ; chú bác, anh em đều làm quan to đời Lê - Trịnh. Khi tây sơn ra Bắc, Nguyễn Du bất hợp tác và trốn tránh Đến. năm 1786 ông còn toan vào Gia Định với Nguyễn Ánh khi đó đang mưu đồ đánh Tây Sơn.Nhà Nguyễn lên cầm quyền, Nguyễn Du ra làm quan, đường hoạn lộ không có gì trắc trở, tuy nhiên ông luôn buồn bực và bất đắc chí. Năm 1965, cuốn Thơ chữ Hán Nguyễn Du ra mắt, trong phần giới thiệu, ông Trương Chính đã đưa ra những nhận xét khác với Đào Duy Anh. Trương Chính không phủ nhận thái độ trung với nhà Lê và chống Tây Sơn của Nguyễn Du, song theo ông khi ra làm quan với nhà Nguyễn, Nguyễn Du chỉ nhớ nhà Lê như nhớ “cái sự muôn năm cũ” chứ không phải cô trung. Nhà thơ hiểu rằng vận nhà Lê đã hết. Nguyễn Du buồn và bất đắc chí, cái buồn và bất đắc chí của một ông quan bị chèn ép. Trương Chính cũng không đồng tình với Hoài Thanh khi nhà phê bình cho rằng thái độ của Nguyễn Du đối với các
  • 10. triều đại bấy giờ không rõ rệt lắm. Ông viết: “(Nguyễn Du) đi theo nhà Nguyễn mà lại nhớ tiếc nhà Lê, và đường như nhớ tiếc cả Tây Sơn nữa”. Nhận xét ấy của Hoài Thanh là căn cứ vào bốn câu trong Long Thành cầm giả ca: Thành quách suy di nhân sự cải, Kỷ xứ tang điền biến thương hải. Tây Sơn cơ nghiệp tận tiêu vong, Ca vũ không di nhất nhân tại. (Thành quách đổi dời việc đời cũng khác, Bao nơi nương dâu trở thành biển cả. Cơ nghiệp Tây Sơn tiêu vong đâu hết, Mà còn sót lại một người trong làng ca múa). Theo Trương Chính thì bốn câu thơ này chẳng hàm ý nhớ tiếc nhà Lê mà chỉ là cảm xúc cuả nhà thơ về việc đời “bãi bể nương dâu”. Nhà nghiên cứu Nguyễn Lộc có vẻ đồng tình với Trương Chính trong đánh giá tình cảm của Nguyễn Du đối với nhà Lê. Theo ông, Nguyễn Du quả có nhớ nhà Lê cả trong cuộc đời lẫn trong thơ, nhưng vẫn ý thức được sự sụp đổ của nó là tất yếu, “nhớ mà không có ý muốn phục hồi”. Tuy nhiên, Nguyễn Lộc lại nghiêng về phía Hoài Thanh trong cách hiểu bốn câu thơ đã dẫn trên của bài Long Thành cầm giả ca. Ông cho rằng ít nhất thì Nguyễn Du cũng không thể có thái độ thù địch với Tây Sơn, khi mà nhà thơ đã đặt sóng đôi một bên là người mình yêu mến với một bên là kẻ thù, nếu quả ông coi Tây Sơn là kẻ thù (Tây Sơn cơ nghiệp tận tiêu vong, Ca kỹ không lưu nhất nhân tại). Nhận xét đó thật xác đáng, tuy nhiên những câu thơ tương tự như thế thật quá hiếm hoi trong thi tập của Nguyễn Du. Tại sao vậy? Có lẽ Nguyễn Lộc đã đúng khi cho rằng “điều quan trọng đối với Nguyễn Du không phải là vấn đề triều đại này hay triều đại khác, mà là vấn đề nhà thơ biết đặt lòng mình nơi những con người bất hạnh, những con người đau khổ” tức là tinh thần nhân đạo của nhà thơ.
  • 11. Vấn đề tinh thần nhân đạo, cái khía cạnh thứ hai trong tâm sự của Nguyễn Du cũng đã được các nhà phê bình nghiên cứu đề cập đến nhiều với việc phân tích những bài thơ: Điếu La Thành ca giả, Long Thành cầm giả ca, Thái Bình mại giả ca, Sở kiến hành, các bài thơ về Khuất Nguyên, Đỗ Phủ, Âu Dương Tu… Đào Duy Anh trong cuốn khảo luận kể trên của mình đã lý giải tình cảm xót thương của Nguyễn Du đối với những kiếp tài hoa nhưng xấu số (người con hát ở Long Thành, cô Cầm trong Long Thành cầm giả ca…) và những kẻ nghèo khổ “dưới đáy xã hội” xuất phát từ chỗ cho rằng bởi nhà thơ là người “đồng cảnh” với họ. Hình ảnh cuộc đời là sự phong chiếu hình ảnh cá nhân nhà thơ: ông thương những giai nhân bạc mệnh “vì thấy số phận họ cũng bi đát như mình”. Ông cũng đã từng nếm đủ sự đau đớn khổ sở cả về vật chất lẫn tinh thần, cảnh “sinh kế quẫn bách trong bước giang hồ mươi năm gió bụi”. Trương Chính lại một lần nữa không đồng tình với cách nhìn nhận ấy. Theo ông, “không phải lúc nào và ở đâu Nguyễn Du cũng chỉ thấy mình và chỉ nghĩ đến mình”. Nguyễn Lộc cũng khẳng định: Nguyễn Du không bao giờ “chỉ ngồi ngắm cái bóng dưới chân mình” và ông còn đi xa hơn khi cho rằng trong thi phẩm của Nguyễn Du thấm nhuần một chủ nghĩa nhân đạo: Nguyễn Du luôn quan tâm đến cuộc đời, đến con người, “không chỉ riêng Trung Quốc mà của cả Việt Nam”, “khắp nhân gian, “khắp cõi người”. Vậy là tình thương của Nguyễn Du từ chỗ được lý giải như loại tình cảm cá nhân của một con người “đồng cảnh”, “đồng bệnh”, đi tới chỗ được xem như một phẩm chất của chủ nghĩa nhân đạo rộng lớn. Bước đi đó dường như tiến gần hơn tới chỗ giải thích đúng đắn nội dung thi phẩm của nhà thơ. Tác phẩm Văn chiêu hồn càng cho ta rõ điều ấy. Văn chiêu hồn không chỉ là trường ca về “tình trắc ẩn” của Nguyễn Du đối với một hàng người nào đó, mà về tình yêu thương với tất thảy các nạn nhân của “thập loại chúng sinh” và cả ý nguyện muốn giải thoát cho họ. Văn chiêu hồn nói về cõi âm. Đối với cách hiểu nghệ thuật của chúng ta “thì cõi âm là một ám dụ về trần thế. Nhưng có thể trong lòng, trong tâm
  • 12. linh nhà thơ Nguyễn Du, nó lại thực hữu, thực hữu như cuộc sống trần thế, là mặt thứ hai của cuộc sống trần thế. Tình thương của nhà thơ đã ôm trùm cuộc đời một cách trọn vẹn, cả phần này lẫn phần kia, âm thế và dương thế. Cho đến nay, trừ Truyện Kiều, các thi phẩm của Nguyễn Du chủ yếu mới được xem xét về phương diện nội dung. Giá trị nghệ thuật thường chỉ được nêu qua. Có thể người ta nghĩ rằng việc nghiên cứu các thi phẩm này chỉ để hỗ trợ cho việc làm sáng tỏ thêm Truyện Kiều; có thể lại nghĩ rằng để biết tài năng nghệ thuật của Nguyễn Du thì xét Truyện Kiều đã là đầy đủ. Thực trạng nghiên cứu ấy, về khách quan, ta thấy các thi phẩm của Nguyễn Du chưa được xem như có giá trị nghệ thuật tự thân. Trong khi đó thì ngay từ năm 1943, Đào Duy Anh đã viết rằng: “Về hình thức cũng như về nội dung, tôi tưởng thơ Nguyễn Du có thể để cùng hàng với thơ Cao Bá Quát và có thể đem so sánh với thơ Đường”. *** Nhưng dẫu sao thì các thi phẩm của Nguyễn Du cũng không thể có cái địa vị như của Truyện Kiều trong lịch sử văn học và văn hóa. Nói đến di sản Nguyễn Du chủ yếu phải nói đến Truyện Kiều. Nói về việc tiếp thu nghiên cứu di sản Nguyễn Du quan trọng nhất phải nói về quá trình tiếp thu nghiên cứu Truyện Kiều. Dưới đây, chúng tôi chỉ phác qua những giai đoạn chính của quá trình đó qua việc nêu lên một số nét tiêu biểu về tư tưởng và phương pháp tiếp cận Truyện Kiều. Giai đoạn từ khi Truyện kiều ra đời cho đến năm 1930 Trong quãng thời gian hơn mội trăm năm này, người bình luận Truyện Kiều là các nhà nho và “nhà nho tân học” (chữ của Đào Duy Anh). Ở thế kỷ XIX, các nhà nho thường qua những bài thơ vịnh hay những bài tựa viết về Truyện Kiều mà bộc lộ cách nhìn, chính kiến của mình đối với tác phẩm. Còn sang thế kỷ XX, các nhà nho tân học lại phát biểu bằng các bài văn chính luận. Việc bình luận ở cả giai đoạn này luôn chia thành hai dòng khen và chê (“kẻ khen người chê, kẻ yêu người ghét ồn ào” – Ngô Đức Kế). Ngợi khen có
  • 13. khi đến tán dương quá mức; trái lại, những lời chê bai cũng đôi khi đến độ quá gay gắt. Ở thế kỷ XIX, người bình luận có khi đứng trên lập trường đạo đức chính thống ”tam cương ngũ thường” để đánh giá các nhân vật Truyện Kiều, nhất là Thúy Kiều. Nguyễn Văn Thắng ca ngợi Thúy Kiều “xét sau trước đủ trung trinh hiếu nghĩa”. Minh Mệnh đánh giá Kiều có hiếu, biết tiết nghĩa. Ngược lại cũng trên lập trường này, Nguyễn Công Trứ lại mạt sát Kiều: “Bạc mệnh chẳng làm người tiết nghĩa, Đoạn trường cho đáng kiếp tà dâm”. Cùng một chỗ đứng mà khen chê hoàn toàn trái ngược nhau. Bênh vực, thông cảm với Thúy Kiều nhiệt tình nhất phải nói là các nhà nho như Mộng Liên Đường chủ nhân, Phong Tuyết chủ nhân, và nhất la Chu Mạnh Trinh, những người bình luận Truyện Kiều từ lập trường “nhân sinh”. Họ thấy ở Thúy Kiều một “người đồng điệu” (Chu Mạnh Trinh), dù “tuy khác đời mà chung một dạ” (Mộng Liên Đường chủ nhân). Họ luôn nhiệt tình bênh vực cho phẩm hạnh, đạo đức của nàng Kiều. Sang đầu thế kỷ XX, việc bàn luận về Truyện Kiều có lúc đã trở thành luận chiến mang màu sắc đấu tranh chính trị xã hội. Đáng chú ý là cuộc đấu tranh của các ông Ngô Đức Kế và Huỳnh Thúc Kháng chống việc đề cao quá đáng Truyện Kiều của ông Phạm Quỳnh và một số người khác. Phạm Quỳnh trong bài diễn thuyết năm 1924 đọc tại lễ kỷ niệm Nguyễn Du nhân ngày mất đã đánh giá Truyện Kiều là “quốc hoa” “quốc hồn”, “quốc túy” của dân tộc. Trái lại, Ngô Đức Kế cho Truyện Kiều chỉ là cuốn truyện phong tình, trong đó không tránh khỏi tám chữ “ai, dâm, sầu, oán, đạo, dục, tăng, bi”: Huỳnh Thúc Kháng cũng đồng tình và coi đấy là “cuốn sách có hại”, không thể dùng làm sách để học tập. Nhận xét về việc bình luận Truyện Kiều ở giai đoạn này, ông Đào Duy Anh đã rất đúng khi cho rằng. “hai bên (khen và chê - TBĐ) đều lấy tư tưởng luân lý mà phê bình phán đoán một tác phẩm nghệ thuật”. Họ đều xem chức năng văn học là “tải đạo” và nhiều khi coi tác phẩm văn chương như một cuốn sách luân lý. Ngay Phạm Quỳnh, một người được xem là có cái nhìn mới mẻ,
  • 14. táo bạo, nhưng khi nhận định về Thúy Kiều cũng viết rằng nàng “là nột người đa tình, nhưng không đắm đuối vì tình; lấy nghĩa mà chế tình là đúng luân lý đạo đức”. Tuy nhiên, dù thuộc vào hàng ngũ những người khen ngợi hay hàng ngũ những người phều phán Truyện Kiều, thì tất cả họ đều đánh giá cao nghệ thuật văn chương của Nguyễn Du. Nhưng văn chương được nhìn như có sự tách tời của hình thức với nội dung. Ngô Đức Kế thừa nhận: “kể về văn chương quốc âm của ông Nguyễn Du thì cũng hay thật”, nhưng lại nói thêm “văn thì hay mà truyện lại truyện phong tình” tức là dở, đáng chê trách). Văn lúc này được xem là kỹ thuật vẽ cảnh, tả người, dùng câu, đặt chữ sao cho khéo, xinh xắn. Còn nội dung thì cần chân thực (đối lặp với bịa đặt, hoang đường). Thực ở đây là cái thực kinh nghiệm – “những điều trông thấy” – chứ không phải cái thực khách quan. Nhân vật, xã hội do nhà văn tạo ra với nhân vật, xã hội của đời sống thực tế không phải lúc nào cũng được phân biệt rõ. Giai đoạn từ 1930 đến Cách mạng tháng Tám Nghiên cứu phê bình văn học lúc này đã hoàn toàn khác trước. Nó đã thành một bộ môn riêng biệt, mang ý nghĩa hiện đại. Cũng như trong đời sống văn học, trong đời sống nghiên cứu, phê bình xuất hiện những khuynh hướng khác nhau. Điều này cũng thấy trong việc tìm hiểu Truyện Kiều. Có thể thấy rõ ba khuynh hướng sau: khuynh hướng phê bình ấn tượng chủ quan với các ông Hoài Thanh, Lê Tràng Kiều, Lưu Trọng Lư…; khuynh hướng giáo khoa qua những công trình của các ông Đào Duy Anh, Dương Quảng Hàm; và cuối cùng là cách tiếp cận kiểu “khoa học” của ông Nguyễn Bách Khoa. Những người phê bình theo lối ấn tượng chủ quan cho rằng không thể phân tích, cắt nghĩa tác phẩm nghệ thuật vì làm vậy là tiêu diệt nó. Họ chủ trương lĩnh hội tác phẩm nghệ thuật bằng trực giác, dựa vào ấn tượng chủ quan của người đọc. Hoài Thanh viết: “Chất thơ bàng bạc trong Truyện Kiều phải được cảm nhận một cách hồn nhiên. Cứ phân tích, giảng giải, nó sẽ tan đi. Đến đây phải im hơi nhẹ bước mới hòng nhận thấy cái đẹp khi dịu dàng thùy mị, khi tráng lệ huy hoàng”.
  • 15. Theo họ, những người thường bị gọi là phái “nghệ thuật vị nghệ thuật” thì nhà phê bình không phải là người giải thích tác phẩm mà là người “kể lại cuộc phiêu lưu của mình qua các tuyệt phẩm” (A. France). “Đọc Truyện Kiều là theo những lời văn êm đềm, bóng bẩy để phiêu lưu trong giây lát, trong một cuộc đời phiêu lưu của một cô gái giang hồ, bất hạnh” (Lê Tràng Kiều). Họ phủ nhận việc tìm hiểu tư tưởng, triết lý của tác phẩm, mà đề cao cái tạo nên ở người đọc những xúc cảm nghệ thuật mạnh. Tuy nhiên, tuyên bố thì như vậy, nhưng trong thực tế khi phê bình Truyện Kiều, họ vẫn sử dụng thao tác phân tích, lý giải tác phẩm, coi đó như một văn bản khách quan. Bài phê bình Một phương diện của thiên tài Nguyễn Du: Từ Hải của Hoài Thanh là một minh chứng cho điều đó. Một số luận điểm của những người tiêu biểu cho phái “vị nghệ thuật” lúc này đã bị những nhà “vị nhân sinh” phê phán. Trong cuộc đấu tranh giữa hai phái ”vị nghệ thuật” và “vị nhân sinh” những năm 1935-1939, Truyện Kiều nhiều lần được đưa ra làm ví dụ. Những nhà “vị nhân sinh” cho rằng thước đo giá trị tác phần là “lý tưởng của nó” lợi hay hại cho sự tiến hóa chung của nhân quần”; họ phê phán việc chỉ đề cao giá trị nghệ thuật của tác phẩm. Tuy vậy lúc này do sự chi phối trực tiếp của cuộc đấu tranh chính trị, lại xuất phát từ quan niệm duy vật khá thô sơ về nghệ thuật, nên việc đánh giá Truyện Kiều họ cũng có nhiều thiếu sót. Đào Duy Anh trong công trình Khảo luận về kim Văn Kiều khi bàn về văn chương Truyện Kiều có một số ý kiến gần gũi với những nhà “vị nghệ thuật” nói trên, song thực chất thì khuynh hướng của ông khác hẳn. Vệc công trình của ông dành cả một chương bàn về tư tưởng Nguyễn Du trong Truyện Kiều là một bằng chứng. Theo Đào Duy Anh thì tư tưởng Nguyễn Du ở đây là “tài mệnh tương đố” và nó “làm nòng cốt cho toàn truyện”. Một triết lý lại làm nòng cốt cho toàn truyện thì đó là điều mà các nhà “vị nghệ thuật” không bao giờ chấp nhận được. Đào Duy Anh sử dụng rất nhiều dữ liệu về tác giả (dòng họ, gia đình, hành trạng…), thời thế, nguồn gốc tác phẩm, nhằm soi sáng Truyện Kiều từ nhiều phía. Có người cho rằng ông ảnh hưởng cách nghiên cứu của Gustave Lanson. Mở đầu cuốn sách, Đào Duy Anh nói rõ ông viết cồng trình này nhằm đối tượng là “những học sinh đang muốn tìm hứng thú
  • 16. nghiên cứu quốc văn. Do vậy ta có thể gọi đây là khuynh hướng giáo khoa (hay khuynh hướng nhà trường). Cách xem xét này về sau cũng thấy được vận dụng trong cuốn Việt Nam văn học sử yếu của Dương Quảng Hàm. Một khuynh hướng bị phê phán nhiều nhất lúc này là của Nguyễn Bách Khoa với hai cuốn sách: Nguyễn Du và “Truyện Kiều” (1941) và Văn chuơng “Truyện. Kiều” (1942). Nguyễn Bách Khoa xác lập một phương pháp riêng gọi là “khoa học” để nghiên cứu văn học và thực tế ông đã vận dụng nó để xem xét Truyện Kiều trong hai công trình kể trên. Ông chủ trương “gác bỏ hết tình cảm riêng, thành kiến và dư luận…” tức các yếu tố chủ quan của người đánh giá. Theo ông “bất cứ vấn đề gì cũng là một vấn đề toán pháp” nên đều có thể nghiên cứu theo cách của khoa học chính xác. Dễ hiểu vì sao có sự tranh cãi gay gắt giữa Nguyễn Bách Khoa với Hoài Thanh và những người cùng hướng với ông trong việc nghiên cứu Truyện Kiều. Theo Nguyễn Bách Khoa “thì Truyện Kiều là sản phẩm do Nguyễn Du tạo ra, Nguyễn Du lại là sản phẩm của thời đại ông. Thời đại Nguyễn Du là thời đại suy tàn thì con người Nguyễn Du là chiến bại.Truyện Kiều do vậy là chiến bại, sầu oán. Chiến bại, sầu oán làm nên chất thơ, vẻ đẹp của Truyện Kiều… Đúng là một lôgic thép, chỉ có điều nó không đúng với thực tế sáng tạo văn học. Nguyễn Bách Khoa cũng vận dụng nhiều luận thuyết khoa học: tâm lý học, di truyền học… để giải thích Truyện Kiều. Các quận giải nhiều khi máy móc, cực đoan và đã bị phê phán một cách chính đáng. Giai đoạn từ Cách mạng tháng Tám tới đầu những năm 80 Nổi bật ở giai đoạn này là việc nghiên cứu Truyện Kiều trong quan hệ với hiện thực đời sống xã hội theo quan điểm mỹ học mácxít. Tác phẩm văn học được nhìn nhận như là sự phản ánh đời sống xã hội và bộc lộ thái độ của nhà văn đối với hiện thực đó. Hai công trình theo hướng này xuất hiện sớm và đáng chú ý hơn cả là cuốn Quyền sống của con người trong “Truyện Kiều” của Hoài Thanh (1949) và bài báo Đặc sắc của văn học cổ điển Vệt Nam qua nội dung “Truyện Kiều” của Đặng Thai Mai (1955). Vấn đề tinh thần nhân đạo
  • 17. và tính hiện thực của Truyện Kiều được hai tác giả chú ý đặc biệt và coi là giá trị cơ bản của tác phẩm. Cuốn Quyền sống của con người trong “Truyện Kiều”, theo tác giả thì nó được viết trên tinh thần của “chủ nghĩa nhân văn mới”. Tác giả Hoài Thanh cho rằng khi Nguyễn du dựng lên một cuộc đời, một con người trong tác phẩm, thì đó là cách ông phát biểu ý kiến của mình trước những vấn đề thời đại. Nói về Thúy Kiều, “Nguyễn Du đã nói dùm nỗi niềm cho tất cả những người bị ngạt thở trong cái khuôn phong kiến”. Còn nói đến Từ Hải là nói đến cái mơ ước được sống phóng túng, “sống mạnh mẽ, sống say mê ở ngoài khuôn khổ bấy giờ”. Giá trị nhân văn của Truyện kiều theo Hoài Thanh chính là ở đó. Ông Đặng Thai Mai cũng đặt vấn đề: tinh thần nhân đạo của Nguyễn Du là thế nào? Theo ông, đó trước hết là tình yêu đối với con người, con người bị đày đọa. Từ đây ông đưa ra khái niệm nhân dân tính của tác phẩm. Nghiên cứu tính hiện thực của văn học, Hoài Thanh cho rằng cần phải thấy: xã hội phong kiến trong Truyện Kiều qua con mắt của Nguyễn Du. Ông đã dành hẳn một chương của công trình cho việc phân tích xã hội phong kiến trong Truyện Kiều và đi đến kết luận: “Đó là xã hội mục nát đến tận xương”. Còn Đặng Thai Mai thì nói nhiều đến “tinh thần tả thực”, “bút pháp tả thực” của Nguyễn Du. Trong bài viết của mình, ông đặt vấn đề tìm hiểu xem Truyện kiều có phản ánh ít nhiều gì xã hội Việt Nam ở đầu thế kỷ trước hay không? Theo Đặng Thai Mai, mặc dù là một câu chuyện của nước ngoài, nhân vật hoàn cảnh đều ở Trung Quốc, nhưng ”từ Truyện Kiều, ta có thể nhận lấy những tia hồi quang soi rọi cho mọi người nhìn thấy những mối mâu thuẫn của xã hội phong kiến trên con đường phân hóa”. Ông cho rằng đó là cách nhìn của phản ánh luận. Nội dung xã hội của tác phẩm, chủ nghĩa nhân đạo, nhân dân tính, tinh thần hiện thực, những thuật ngữ thể hiện tiêu chí đánh giá Truyện Kiều mà Hoài Thanh và Đặng Thai Mai vận dụng trong hai công trình kể trên sẽ còn tiếp tục vang lên từ những cuốn sách và bài viết về Truyện Kiều trong suốt cả giai đoạn này.
  • 18. Từ sau hòa bình 1954 đến cuối những năm 50, xuất hiện cách nhìn dung tục trong việc xem xét quan hệ giữa Truyện Kiều và hiện thực xã hội thời đại Nguyễn Du qua những công trình của Trần Đức Thảo, Trương Tửu, Minh Tranh. Truyện Kiều được họ xem như “tri thức lịch sử chính xác về xã hội và con người Việt Nam cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX” (Trương Tửu). Từ đấy dẫn tới việc phân tích nội dung xã hội Truyện Kiều một cách thô thiển, chằng hạn các tác giả trên tìm cách xác định thành phần giai cấp, “liên minh giai cấp” của các nhân vật trong truyện: Thuý kiều thuộc tiểu phong kiến lớp dưới, yêu Kim Trọng vốn thuộc tầng lớp thống trị là thể hiện xu hướng tiểu phong kiến vươn lên thành phần phong kiến thống trị. Kiều lấy Thúc Sinh là tiểu phong kiến tìm lối thoát trong thành phần phú thương... Kết quả những công trình nghiêng cứu thuộc loại đó là đã làm giảm uy tín cuả nghiêng cứu phê bình văn học theo tinh thần phản ánh luận. Tuy nhiên, thật may mắn là ảnh hưởng của chúng không lớn và đã bị phê phán kịp thời. Những năm 60, 70 việc nghiên cứu Truyện Kiều có những bước tiến mới. Dịp kỷ niệm 200 năm năm sinh Nguyễn Du (1965) xuất hiện nhiều công trình, bài viết về Truyện Kiều của các nhà nghiêng cứu phê bình và nhà văn (Cuốn Thi hào dân tộc Nguyễn Du của nhà thơ Xuân Diệu cũng ra đời trong dịp này. Trong đó, phần viết về Truyện Kiều có nhiều khám phá có giá trị về nghệ thuật thơ, về “tài thơ” của Nguyễn Du). Dường như để khắc phục cách hiểu máy móc ra giai đoạn trước về quan hệ giữa nội dung tác phẩm và hiện thực xã hội, giờ đây những vấn đề chủ quan của người sáng tác đã được chú ý nhiều: tư tưởng xã hội, tư tưởng nghệ thuật của Nguyễn Du, triết lý trong Truyện Kiều… Tuy nhiên điểm nổi bật nhất lúc này là vấn đề tìm hiểu phương pháp sáng tác của Nguyễn Du trong Truyện Kiều. Đáng chú ý hơn cả là cuốn chuyên khảo Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du của Lê Đình kỵ (1970), trong đó, những trang viết về dân vật của Truyện Kiều rất đặc sắc với nhiều kiến giải thú vị. Phần viết về lý tưởng thẩm mỹ của Nguyễn Du qua vật Thúy Kiều có những khám phá mới. Tuy nhiên việc nhà nghiên cứu tìm hiểu phương pháp sáng tác của Nguyễn Du ở Truyện Kiều trong tương quan với phương pháp sáng tác của chủ nghĩa hiện thực khiến nhiều người không
  • 19. đồng tình, nhất là khi ông thực sự lấy các nguyên tắc của chủ nghĩa hiện thực làm tiêu chuẩn để đo sáng tác của Nguyễn Du (nội dung xã hội, nội dung phản ánh, tính cách và hoàn cảnh điển hình, những chi tiết hiện thực chủ nghĩa, ngôn ngữ đa dạng phong phú ăn khớp với sự thật đời sống…). Điều gì chưa ăn khớp với các tiêu chuẩn đó, được ông gạt vào khu vực “những ràng buộc của mỹ học đương thời”. Khách quan thì người ta thấy, ông đã khẳng định có một thứ chủ nghĩa hiện thực trong Truyện Kiều, hay ít ra cũng là “một cố gắng vươn tới chủ nghĩa hiện thực”. Dù người ta có đồng tình với tác giả hay không ở điểm này, thì việc đặt vấn đề nghiên cứu phương pháp sáng tác Truyện Kiều đã là một bước tiến quan trọng về phía trước. Các công trình tiếp theo sau của Nguyễn Lộc, Đặng Thanh Lê tránh sử dụng những tiêu chí có sẵ về phương pháp sáng tác vốn thường được đúc kết từ các nền văn học phương Tây để tìm hiểu Truyện Kiều mà chủ yếu căn cứ vào thực tế phát triển văn hóa, văn học truyền thống Việt Nam. Tuy nhiên, ám ảnh về một chủ nghĩa hiện thực không phải là không còn. Đối với chúng ta hiện nay, vấn đề này chỉ được giải quyết triệt để nếu trả lời được hai câu hỏi sau đây: Một là, phải chăng có một con đường tiến hoá chung cho các nền văn học ở cả phương Đông lẫn phương Tây, và như vậy tiến đến chủ nghĩa hiện thực là một tất yếu? Hai là, ở thời đại Nguyễn Du phải chăng đã có những tiền đề kinh tế xã hội và văn hóa để làn nảy sinh phương pháp hiện thực chủ nghĩa? Các ý kiến vẫn còn khác biệt nhau, vấn đề còn để ngỏ. Tuy nhiên trên thực tế nghiên cứu thì từ cuối những năm 70, việc quan tâm đến nội dung xã hội trong tác phẩm, quan hệ giữa tác phẩm và hiện thực đời sống đã dịu bớt đi, những cách tiếp cận mới đối với Truyện Kiều đã bắt đầu xuất hiện. Ở miền Nam thời kỳ 1954–1975 cũng có không ít người để tâm phê bình, nghiên cứu Truyện Kiều. Dịp kỷ niệm 200 năm năm sinh Nguyễn Du trên các tập san Văn (số 43, 44) và Bách khoa thời đại (số 209) nhiều bài phê bình Truyện Kiều được công bố. Trước đó, năm 1960 có cuốn Chân dung Nguyễn Du tập hợp một loạt bài viết về Nguyễn Du và Truyện Kiều của nhiều tác giả: Nguyễn Văn Trung, Trần Bích Lan, Trần Thanh Hiệp, Doãn Quốc Sĩ… Trước sau năm 1970 cũng thấy một số công trình khá công phu của Phạm Thế Ngũ,
  • 20. Đặng Tiến, Nguyễn Đăng Thục… Dưới ảnh hưởng của phê bình văn học phương Tây hiện đại, trong việc phê bình nghiên cứu Truyện Kiều cũng đã xuất hiện một số khuynh hướng như–: khuynh hướng hiện sinh với Nguyên Sa, Đặng Tiến và ít nhiều cả Thanh Lãng; khuynh hướng cấu trúc luận với Bùi Hữu Sủng, Trần Ngọc Ninh… Tuy nhiên các tìm tòi nói chung còn lẽ tẻ, chưa tác giả nào triển khai một cách hệ thống và kết quả cũng không khám phá được nhiều. Có một cuốn sách khiêm tốn về số trang với những bài tiểu luận ngắn gọn, nhưng lại gây được hứng thú ở đông đảo người đọc, đó là cuốn Đọc lại Nguyễn Du của Vũ Hạnh (5–1966) trong đó có nhiều nhận xét sâu sắc, tinh tế về tư tưởng và nghệ thuật Truyện Kiều. Giai đoạn từ đầu những năm 80 đến nay Truyện Kiều được tiếp cận bởi nhiều phương pháp mới: phong cách học, thi phúp học, ký hiệu học… Đã xuất hiện một số công trình đáng chú ý của Phan Ngọc, Trần Đình Sử, Đỗ Đức Hiểu và một vài tác giả khác. Điểm chung của các phương pháp nghiên cứu này là ở chỗ: thứ nhất, tác phẩm được nhìn nhận là một văn bản nghệ thuật, trong đó thế giới nghệ thuật do nhà văn tạo ra không có liên hệ trực tiếp với thế giới hiện thực được nó thể hiện, hay nói cách khác không thể đồng nhất hai thế giới đó; thứ hai, văn bản nghệ thuật này là một hệ thống nghệ thuật mà nói đến nội dung là nói cả cách hình thức hóa nội dung và nói đến hình thức là nói luôn cả việc hình thức này có tác dụng gì trong việc thể hiện nội dung” (Phan Ngọc), nghĩa là không tách Truyện Kiều thành hai phần nội dung và hình thức để nghiên cứu. Thực ra sự ý thức như vậy cũng đã có từ giai đoạn trước và cũng đã được áp dụng vào phân tích tác phẩm, tuy nhiên lúc này nó được quan niệm triệt để và tiến hành nhất quán hơn. Năm 1985 xuất hiện công trình được giới ngữ văn học chú ý: Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong “Truyện Kiều” của Phan Ngọc. Tư tưởng chủ đạo làm xuất phát điểm cho nhà nghiên cứu là nhằm xác định những cống hiến nghệ thuật của riêng Nguyễn Du - cái mà ông gọi là phong cách Nguyễn Du. Những cống hiến đó, theo ông là một giá trị khách quan, “có thể tính toán
  • 21. được”. Để “định lượng” những cống hiến của Nguyễn Du, ông đã dùng cách thức gọi là “thao tác luận”. Đi vào phân tích Truyện Kiều, đầu tiên ông căn cứ vào tần số lặp lại để chỉ ra những “nét trội” trong tác phẩm; tiếp theo, ông đặt chúng trên hai trục lịch sử và thời đại để xem xét, đối chiếu nhằm làm sáng tỏ đóng góp riêng của Nguyễn Du. Nhiều điều mới mẻ đã được ông nêu lên phương pháp tự sự kịch trong Truyện Kiều; Truyện Kiều, tiểu thuyết phân tích tâm lý hiện đại – phân tích tâm lý tàn nhẫn… Tuy nhiên xung quanh những kết luận của ông cũng có nhiều ý kiến khác nhau. Nhà nghiên cứu Trần Đình Sử trong các bài viết về Truyện Kiều được tập hợp dưới tiêu đề “Mấy khía cạnh thi pháp Truyện Kiều” đã soi tác phẩm qua một loạt những phạm trù của thi pháp học hiện đại: cái nhìn nghệ thuật, không gian, thời gian nghệ thuật… Ông xuất phát từ chỗ xác định trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã sáng tạo ra một chủ đề tư tưởng mới so với Kim Vân Kiều truyện; từ đó dẫn tới sáng tạo ra loại cốt truyện và người kể chuyện mới. Những phân tích của nhà thi pháp học đối với cái nhìn nghệ thuật về con người, thời gian nghệ thuật của Truyện Kiều cũng có nhiều điểm mới mẻ và thú vị. Nhìn chung các tác giả đều cố gắng khách quan hóa việc phân tích tác phẩm, muốn làm cho những kết luận của mình là hiển nhiên, “không còn tranh cãi”. Tuy vậy, mọi việc không đơn giản, các ý kiến vẫn cứ rất xa nhau. Chẳng hạn Phan Ngọc cho rằng, Nguyễn Du đã cải tạo tư tưởng tình – khổ ở Kim Vân Kiều truyện thành tư tưởng tài – mệnh (“tài mệnh tương đố”) trong Truyện kiều, song Trần Đình Sử lại cho rằng “thân mệnh tương đố” mới là tư tưởng cơ bản của Truyện Kiều, còn ở Kim Vân Kiều truyện là “tài mệnh tương đố”… Điều đó có nghĩa là những cuộc tranh luận sẽ vẫn tiếp diễn và như vậy nghiên cứu, phê bình Truyện Kiều sẽ tiếp tục tiến triển. Sáng tác của Nguyễn Du không thật đồ sộ về khối lượng, nhưng có vị trí đặc biệt quan trọng trong di sản Văn học và văn hóa dân tộc. Hơn nữa, nó lại rất năng sản. Từ Truyện Kiều đã nảy sinh biết bao những hình thức sáng tạo văn học và văn hóa khác nhau: thơ ca về Kiều, các phóng tác Truyện Kiều
  • 22. bằng văn học, sân khấu, điện ảnh; rồi rất nhiều những dạng thức của nghệ thuật dân gian: đố Kiều, giảng Kiều, tẩy Kiều, bói Kiều… Đặc biệt là số lượng rất lớn những bài bình luận, những công trình phê bình, nghiên cứu Truyện Kiều. Để thấy rõ vị trí và ý nghĩa di sản của Nguyễn Du, tốt nhất là chúng ta hình dung giả định những sáng tác của ông không được viết ra, và vì thế cũng không có những sáng tạo văn hóa văn học lấy cảm hứng từ đó. Ta sẽ thấy ngay một khoảng trống vắng lớn trong đời sống lịch sử văn học và văn hóa dân tộc. Trong tập sách này chúng tôi tuyển chọn những công trình nghiên cứu ngữ văn, các bài phê bình, bình luận văn học tiêu biểu viết về các sáng tác của Nguyễn Du. Ngoài ra, chúng tôi cũng đưa vào một số bài thơ viết về Nguyễn Du và Truyện Kiều đã khá phổ biến. Cuốn sách mặc dù đã có số trang khá lớn, nhưng đó cũng chỉ mới là một phần những gì mà người ta đã nói và viết về Nguyễn Du và di sản của ông. TRỊNH BÁ ĐĨNH NIÊN BIỂU NGUYỄN DU Ngày 23-11 Ất Dậu (3-1-1766) – Nguyễn Du, tự Tố Như, hộ Thanh Hiên, sinh ở phường Bích câu, Thăng Long (nay thuộc Hà Nội), là con thứ bảy trong gia đình. – Cha: Nguyễn Nghiễm (1708 - 1775), tự Hy Di, hiệu Nghi Hiên, biệt hiệu Hồng Ngư cư sĩ; là quan chức, sử gia, nhà thơ Quê tổ ở làng Canh Hoạch, huyện Thanh Oai, trấn Sơn Nam (nay thuộc tỉnh Hà Tây); quê sinh ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân (nay thuộc tỉnh Hà Tĩnh). – Mẹ: Trần Thị Tần (24-8-1740 – 27–8–1778). Con gái một người làm chức câu kê. Quê làng Hoa Thiều, xã Minh Đạo, huyện Tiên du (nay thuộc tỉnh Bắc Ninh). Bà là vợ thứ ba của Nguyễn Nghiễm, kém chồng 32 tuổi, sinh được 5 con (4 trai, 1 gái)
  • 23. Đinh Hợi (1767) – Nguyễn Nghiễm được thăng Thái tử Thái bảo, hàm tòng Nhất phẩm, tước Xuân Quận công. Tân Mão (1771) – Nguyễn Nghiễm trí sĩ, được thăng Đại tư đồ. Sau được vời giữ chức quan Tham tụng, rồi đổi làm Thượng thư bộ Hộ. – Nguyễn Huệ (1752-1792), Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ khởi binh ở ấp Tây Sơn (nay thuộc huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định). Giáp Ngọ (1774) – Nguyễn Nghiễm sung chức Tả tướng, cùng Hoàng Ngũ Phúc đánh chúa Nguyễn ở Đàng Trong. – Đoàn Nguyễn Thục (1718 – 1775) giữ chức Đốc trấn Nghệ An. Ất Mùi (1775) – Anh trai cùng mẹ là Nguyễn Trụ (sinh 1757) qua đời. – Đoàn Nguyễn Thục qua đời. Bính Thân (1776) – Nguyễn Nghiễm qua đời tại quê nhà. Được truy tặng tước Huân dụ Đô hiến đại vương, Thượng đẳng phúc thần. Mậu Tuất (1778) – Bà Trần Thị Tần, mẹ Nguyễn Du qua đời. – Anh thứ hai của Nguyễn Du là Nguyễn Điều (sinh năm 1745) được thăng Trấn thủ Hưng Hóa. Canh Tý (1780) – Anh cả Nguyễn Du là Nguyễn Khản (1734 - 1786) đang làm Trấn thủ Sơn Tây bị khép tội mưu loạn “vụ án Canh Tý”, bị bãi chức, giam ở nhà Châu Quận công. – Nguyễn Du được Đoàn Nguyễn Tuấn (1750 -?) đón về quê ở Sơn Nam Hạ tiếp tục học tập. Nhâm Dần (1782) – Trịnh Sâm mất, kiều binh phế Trịnh Cán, lập Trịnh Tông lên ngôi chúa. – Nguyễn Khản được làm Thượng thư bộ Lại, tước Toản Quận công. – Nguyễn Điều làm Trấn thủ Sơn Tây. Quý Mão (1783) – Nguyễn Du thi Hương ở trường Sơn Nam, đậu Tam trường (Tú tài). Lấy vợ là con gái Đoàn Nguyễn Thục. Tập ấm chức Chánh thủ hiệu hiệu quân Hùng hậu của cha nuôi họ Hà ở Thái Nguyên.
  • 24. – Anh cùng mẹ là Nguyễn Đề (1761 – 1805) đỗ đầu kỳ thi Hương ở điện Phụng Thiên (Cử nhân). – Nguyễn Khản thăng chức Thiếu bảo, cuối năm thăng Tham tụng. Giáp Thìn (1784) – Tháng hai, kiêu binh nổi dậy đưa Hoàng tôn Lê Duy Kỳ lên làm Thái tử. – Tư dinh Nguyễn Khản ở phường Bích Câu bị phá, phải trốn lên ở với người em là Nguyễn Điều (1745 –?) đang làm Trấn thủ Sơn Tây. – Nguyễn Huệ đánh tan 2 vạn quân Xiêm ở Rạch Gầm – Xoài Mút. Bính Ngọ (1786) – Nguyễn Huệ ra Bắc diệt Trịnh. Trịnh Tông bị bắt và tự tử, kết thúc 216 năm “vua Lê chúa Trịnh” (1570– 1786). – Nguyễn Khản bị bệnh mất ở Thăng Long. – Vua Lê Hiển Tông mất. Lê Chiêu Thống nối ngôi. Đinh Mùi (1787) – Vũ Văn Nhậm theo lệnh Nguyễn Huệ ra Bắc diệt Nguyễn Hữu Chỉnh. Mậu Thân (1788) – Nguyễn Huệ đem quân Bắc diệt vũ Văn Nhậm. – Lê Chiêu Thống cầu viện nhà Thanh. – Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế ở thành Phú Xuân (Huế), đổi niên hiệu là Quang Trung. Kỷ Dậu (1789) – Nguyễn Huệ đại phá quận Thanh. – Đoàn Nguyễn Tuấn hợp tác với Tây Sơn, giữ chức Thị lang bộ Lại. – Nguyễn Du về quê vợ ở Quỳnh Côi, trấn Sơn Nam (nay thuộc tỉnh Thái Bình). Tân Hợi (1791) – Tháng mười, anh thứ tư cùng cha khác mẹ là Nguyễn Quýnh chống Tây Sơn bị bất giết. Dinh cơ họ Nguyễn ở Tiên Điền bị
  • 25. Phá. Nhâm Tý (1792) – Nguyễn Huệ qua đời. Quý Sửu (1793) – Nguyễn Du về thăm quê Tiên Điền. – Cuối năm vào kinh đô Phú Xuân thăm anh là Nguyễn Đề đang làm Thái sử ở viện Cơ mật và anh vợ là Đoàn Nguyễn Tuấn. Giáp Dần (1794) – Nguyễn Đề được thăng Tả phụng nghi bộ Binh và vào Quy Nhơn giữ chức Hiệp tán nhung vụ. Ất Mão (1795) – Nguyễn Đề đi sứ sang Yên Kinh dự lễ nhường ngôi của vua Càn Long nhà Thanh. – Xướng họa thơ cùng các sứ thần Triều Tiên. Bính Thìn (1796) – Nguyễn Đề đi sứ nhà Thanh trở về được thăng chức Tả đồng nghị Trung thư sảnh. – Mùa đông, Nguyễn Du có ý trốn vào Gia Định theo Nguyễn Ánh nhưng bị Quận công Nguyễn Thận bắt giam ba tháng ở Nghệ An. Sau khi được tha, Nguyễn Du về sống ở Tiên Điền. – Nguyễn Du có thơ My trung mạn hứng (Cảm hứng trong tù). Nhâm Tuất (1802) – Mùa thu, Gia Long diệt nhà Tây Sơn. – Nguyễn du ra làm Tri huyện Phù Dung, phủ Khoái Châu, trấn Sơn Nam (nay thuộc tỉnh Hưng Yên). Mấy tháng sau thăng Tri phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam Thượng (nay thuộc tỉnh Hà Tây). Quý Hợi (1803) – Được cử lên ải Nam Quan tiếp sứ Thanh sang phong sắc vua cho Gia Long. Ất Sửu (1805) – Thăng Đông các đại học sĩ (hàm Ngũ phẩm), tước Du Đức hầu. – Vào nhậm chức ở kinh đô Phú Xuân. Đinh Mão (1807) – Được cử làm giám khảo kỳ thi Hương ở Hải dương. Mậu Thìn (1808) – Mùa thu, xin về quê nghỉ. Kỷ Tỵ – Được bổ chức Cai bạ (hàm Tứ phẩm) ở Quảng Bình.
  • 26. (1809) Quý Dậu (1813) – Thăng Cần chánh điện học sĩ. – Được cử làm Chánh sứ sang nhà Thanh. Giáp Tuất (1814) – Đi sứ Về – Thăng Hữu tham tri bộ Lễ (hàm Tam phẩm). Bính Tý (1818) – Anh rể Nguyễn Du là Vũ Trinh (1759 – 1828) liên quan đến vụ án cha con Tổng trấn Nguyễn Văn Thành nên bị đày vào Quảng Nam. Canh Thìn (1820) – Gia Long qua đời. Minh Mệnh nối ngôi. – Nguyễn Du được cử làm chánh sứ Sang nhà Thanh báo tang và cầu phong nhưng bị bệnh dịch mất ngày 10 tháng 8– (16 - 9), thọ 54 tuổi. – Anh táng tại xã An Ninh, huyện Quảng Điền, Thừa Thiên Huế. Giáp Thân (1824) – Cải táng đưa về quê nhà Tiên Điền, Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Ất Tỵ (1965) – Hội đồng Hoà bình thế giới tổ chức kỷ niệm 200 năm năm sinh danh nhân văn hóa – nhà thơ Nguyễn Du (1765 – 1965). – Tổ chức kỷ niệm Nguyễn Du rộng rãi trên miền bắc theo chỉ thị của Ban bí thư Trung ương Đảng và vùng giải phóng miền Nam. (LA SƠN NGUYỄN HỮU SƠN biên soạn) Phần 1. CHÂN DUNG NGUYỄN DU QUA THƠ CHỮ HÁN VÀ VĂN CHIÊU HỒN TÂM TÌNH NGUYỄN DU QUA MỘT SỐ BÀI THƠ CHỮ HÁN HOÀI THANH Ba nhà nho lão thành Bùi Kỷ, Phan Võ, Nguyễn Khắc Hanh đã làm một việc rất hay là sưu ầm phiên dịch, chú thích và giới thiệu 102 bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du. Thơ chữ Hán của Nguyễn Du còn nhiều, sưu tầm chưa hết. Những bài đã sưu tầm được, việc sắp xếp, việc chú thích, việc phiên dịch
  • 27. cũng còn một hai chỗ chưa ổn. Nhưng đây là lần đầu tiên thơ chữ Hán của Nguyễn Du được dịch và in thành một tập. Văn chương Nguyễn Du, bằng chữ hán cũng như bằng chữ Nôm, không bao giờ là thứ văn chương viết để mà chơ, có cũng được, không cũng được. Một điều rất rõ là Nguyễn Du đã viết dưới sự thôi thúc của những nỗi niềm không nói ra không được. Thơ ở đây là lời nói trực tiếp không phải là lời nói gián tiếp như qua quyển Truyện Kiều nên lại càng có thể giúp ta đi sâu vào tâm tình Nguyễn Du. Trong tâm tình ấy có một điểm khá rắc rối là thái độ của Nguyễn Du đối với các triều đại lần lượt thay thế nhau từ cuối thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX. Nguyễn Du vốn là tôi nhà Lê và đã từng vì nhà Lê mà chống lại nhà Tây Sơn, cuối cùng lại ra làm quan với nhà Nguyễn. Vậy thái độ của Nguyễn Du đối với từng triều đại như thế nào? Nguyễn Du quả thật có nhớ tiếc nhà Lê và trong sự nhớ tiếc có một cái gì đau xót. Trên đường đi sứ, trở lại Thăng Long, Nguyễn Du nhớ từ những cung điện xưa, đường sá xưa đến tiếng hát điệu đàn xưa: Cù hạng tứ khai mê cựu tích, Quản huyền nhất biến tạp tân thanh. (Đường phố mở mang ngang dọc làm mờ cả dấu vết cũ, Tiếng đàn tiếng sáo cũng đổi thay vì lẫn với những âm điệu mới) Nhưng Nguyễn Du nhìn rõ vận nhà Lê đã hết rồi. Đi qua mộ Phạm Tăng, một mưu sĩ của Hạng Vũ, Nguyễn Du viết: Đãn đắc thử tâm vô phụ Sở, Bất tri thiên mệnh dĩ quy Lưu… Đa thiểu nhất tâm trung sở sự, Mỗi vi thiên hạ tiếu kỳ ngu. (Miễn là lòng này không phụ nước Sở,
  • 28. Không biết mạng trời đã hướng về họ Lưu… Những người cứ một lòng trung thành với kẻ mình giúp việc, Thường để người đời chê cười cho là ngu). Cho nên Nguyễn Du thật thà đi theo nhà Nguyễn. Ông làm quan đến chức Tham tri và hai lần được làm chánh sứ. Không phải vô cớ mà nhà Nguyễn tin dùng ông đến thế. Nhưng làm quan với nhà Nguyễn ông vẫn không nguôi nhớ tiếc nhà Lê. Gặp lại một người nàng hầu cũ của người em, ông buông ra những lời não nuột: Phúc bồn dĩ hỹ nan thu thủy, Đoạn ngẫu thương tai vị tuyệt ty. Kiến thuyết giá nhân dĩ tam tử, Khả tiên do trước cựu thời y. (Ôi thôi rồi, chậu nước đã đổ khó vét lại cho đầy, Thương thay, ngó sen tuy gãy nhưng tơ chưa dứt được. Nghe nói đi lấy chồng đã có ba con rồi, Thế mà vẫn mặc chiếc áo ngày trước thì thật cũng đáng ái ngại!). Chắc chắn rằng đối với nhà Lê, Nguyễn Du cũng chung một tâm trạng như thế. Tâm trạng ấy tuy thế vẫn chưa khó hiểu bằng tâm trạng của Nguyễn Du đối với Tây Sơn. Nguyễn Du là người từng tính chuyện chống lại Tây Sơn. Thế mà lạ, đối với Tây Sơn, lại không thấy Nguyễn Du có một lời nào là lời oán giận. Trong lúc Nguyễn Du còn long đong và Tây Sơn còn đắc chí, không thấy Nguyễn Du nói đến Tây Sơn. Đến khi Tây Sơn thất bại, Nguyễn Du ra làm quan, thì có một bài thơ nói đến Tây Sơn tức là bài Long Thành cầm giả ca. Trong bài này, Nguyễn Du kể chuyện một chị giỏi đánh đàn cầm, đương thời mọi người đều gọi là chị Cầm. Nguyễn Du lúc thiếu thời từng có thấy trong một bữa tiệc bên cạnh hồ Giám. Nhà thơ hết lời ca ngợi tiếng đàn chị
  • 29. Cầm và nói rõ khúc đàn ấy vốn chị đã học được ở trong cung vua Lê, nhà thơ cũng cực tả thái độ say sưa nghe đàn của tướng tá Tây Sơn có mặt trong bữa tiệc và kết thúc bằng hai câu rõ ràng có giọng kích phục: Hào hoa ý khí lăng vương hầu, Ngũ Lăng thiếu niên bất túc đạo. (Ý khí hào hoa của họ át cả bậc vương hầu, Bọn thiếu niên đất Ngũ Lăng không thấm vào đâu) Hơn hai mươi năm về sau, trở ra Bắc, gặp lại chị Cầm mái tóc đã hoa râm, thân hình tiều tụy, Nguyễn Du ngậm ngùi đến rơi nước mắt: Thành quách suy di nhân sự cải, Kỷ xứ tang điền biến thương hải, Tây Sơn cơ nghiệp tận tiêu vong, Ca vũ không di nhất nhân tại. (Thành quách thay dời việc người biến đổi, Mấy nơi nương dâu đã biến thành biển cả, Cơ nghiệp Tây Sơn tiêu vong hết rồi, Chỉ còn sót lại một người trong nghề ca múa) Khó có thể nói trong nỗi niềm tưởng nhớ ở đây chỉ có tưởng nhớ nhà Lê. Thế là nghĩa thế nào? Đi theo nhà Nguyễn, nhưng lại nhớ tiếc nhà Lê và có khi dường như nhớ tiếc cả Tây Sơn nữa! Tâm trạng Nguyễn Du thực cũng rắc rối. Có thể nói thái độ của Nguyễn Du đối với các triều đại kế tiếp nhau hồi bấy giờ không lấy gì làm rõ ràng lắm (đối với Nguyễn Du, Tây Sơn cũng chỉ là một triều đại). Trái lại, cái điều rõ ràng là Nguyễn Du không bằng lòng với toàn bộ cuộc đời lúc bấy giờ. Bản thân Nguyễn Du từng trải qua những cảnh đời cơ cực: Táo đầu chung nhật vô yên hoả,
  • 30. Song ngoại hoàng hoa tú khả xan. (Bếp núc suốt ngày không có khói lửa, Hoa vàng ngoài cửa sổ, sắc đẹp có thể ăn được) Tam xuân tích bệnh bần vô dược, Táp tải phù sinh hoạn hữu thân. (Ba xuân mang bệnh, nghèo không thuốc, Cuộc phù sinh ba mươi năm, vì có thân mà phải lo) Chính những thiếu thốn ấy đã đưa Nguyễn Du về với quần chúng. Nguyễn Du học được những bài hát cùng tiếng nói của quần chúng. Nguyễn Du thông cảm với những đau xót của quần chúng: Thôn ca sơ học tang ma ngữ, Dã chốc thời văn chiến phạt thanh. (Trong tiếng hát nơi thôn xóm, ta bắt đầu học được những câu chuyện về trồng dâu, trồng gai, Trong tiếng khóc nơi đồng ruộng, ta nghe có tiếng dội của chiến tranh) Qua Truyện Kiều, ta đã thấy Nguyễn Du thương xót như thế nào những kiếp người bị đầy đọa. Qua Văn chiêu hồn ta đã thấy những cảnh đời nheo nhóc hiện ra như thế nào dưới ngòi bút của Nguyễn Du, Nguyễn Du đã đi sâu như thế nào trong đời sống cay cực của con nhà kẻ khó. Đọc thơ chữ Hán của Nguyễn Du cũng vậy. Đặc biệt có hai bài rất hay về phương diện này là bai Thái Bình mại ca giả, và bài Sở kiến hành, cả hai bài đều sáng tác trên con đường đi sứ. Bài thứ nhất kể chuyện một ông già mắt mù đi hát rong ở châu Thái Bình thuộc tỉnh Quảng Tây. Lúc bấy giờ Nguyễn Du đi thuyền. Có thuyền bên cạnh gọi ông già xuống hát. Ông già vừa múa vừa hát, Nguyễn Du không hiểu tiếng nhưng nghe cũng thấy hay. Mọi người xung quanh đều im lặng trong khi
  • 31. gió trên sông thổi vi vu và trăng trên sông sáng vằng vặc. Nguyễn Du theo dõi từng cử chỉ của ông già: Khẩu phún bạch mạt thủ loan súc, Khước tọa liễm huyền cáo chung khúc. (Miệng sùi bọt mép, tay mỏi rã rời, Ông già ngồi xuống, xếp đàn, ngỏ lời đã đàn hát xong) Nhà thơ ái ngại cho ông đàn hát mệt nhọc như thế mà rốt lại chỉ được có năm sáu đồng tiền. Hình dáng ông già trong lời thơ khi đứng dậy ra về mới cảm động làm sao: Tiểu nhi dẫn đắc hạ thuyền lai, Do thả hồi cố đảo đa phúc. (Đứa bé đã dẫn ông ra khỏi thuyền, Ông còn quay lại ngỏ lời chúc tụng) Bài Sở kiến hành dựng lên một cảnh không kém phần ảm đạm. Đó là cảnh mấy mẹ con vì đói phải lưu lạc tha hương, làm thuê không đủ sống, đi xưa cũng không đủ sống, sớm muộn ắt sẽ đến bỏ thây nơi ngòi rãnh: Mẫu tử bất túc tuất, Phủ nhi tăng đoạn trường. Kỳ thống tại tâm đầu, Thiên nhật giai vị hoàng. (Mẹ chết đã đành rồi, Trông con thêm đứt ruột. Nỗi lòng đau đớn lạ thường, Mặt trời cũng vì người mà vàng úa)
  • 32. Kế đó, cũng như trong bài trước, Nguyễn Du nhìn lại cảnh yến tiệc linh đình mà chính mình được hưởng theo lệ thường của người đi sứ. Của ngon vật lạ bày la liệt: Trưởng quan bất hạ trợ, Tiểu môn chỉ lược thường. Bát khí vô cô tích, Lân cẩu yếm cao lương. (Quan trên không chọc đũa, Kẻ dưới chỉ nếm qua. Bỏ mứa không đoái tiếc, Chó hàng xóm chán cao lương) Tấm lòng của Nguyễn Du đối với những người lao khổ rất giống tấm lòng của Đỗ Phủ. Đi qua mộ Đỗ Phủ, ông từng có thơ viếng và ứa nước mắt khóc nhà thi hào Trung Quốc: Dị đại tương liên không hữu lệ. (Khác thời đại mà thương nhau, chỉ có nước mắt suông) Chính vì nhìn rõ những cảnh giàu sang, cảnh cực khổ chen lẫn nhau, đối lập với nhau như vậy nên những năm làm quan, trong lòng nguyễn Du luôn luôn có điều bất nhẫn và Nguyễn Du khinh bỉ vô cùng những kẻ chỉ nuôi cái mộng làm quan. Hai lần ông có lời chỉ trích Tô Tần. Một lần ông viết: Tung hoành tự khả ngu nhân chúa, Phú quý hoàn năng cứ quả thê. (Chuyện hợp tung và liên hoành có thể đánh lừa vua chúa, Chẳng qua là cốt cầu phú quý để lên mặt với vợ)
  • 33. Một lần nữa ông kể tỉ mỉ hơn. Ông thuật lại Tô Tần khi thất chí trở về nhà bị khinh rẻ như thế nào, khi đắc chí trở về được trọng vọng như thế nào. Ông nhắc lại câu Tô Tần trách chị dâu: “Sao trước khinh mà nay trọng” và xem đó là một lời nói cực kỳ bỉ ổi… Hợp tung bất tại khước cường Tần, Đãn hướng sở thân kiêu phú quý. Thích cổ nguyên vị quyền lợi mưu, Ta hồ thử nhân tiểu tai khí. (Mưu hợp tung không nhằm đẩy lui nước Tần cường bạo, Mà chỉ cốt lấy phú quý vênh váo với người thân. Đâm dùi vào vế cố học vốn là để mưu quyền lợi riêng, Ôi khí cục con người ấy mới bé nhỏ làm sao!) Chắc chắn không phải vô cớ mà Nguyễn Du nhắc đi nhắc lại chuyện Tô Tần. Khi Nguyễn Du viết những bài này, chế độ phong kiến nhà Nguyễn đã đứng được trên mười năm, trong tầng lớp nho sĩ cái mộng làm quan, cái mộng thăng quan chức đang trên đà phát triển. Và cố nhiên những mơ ước nhỏ nhen ấy được ngụy trang dưới một nước sơn hiếu trung theo thời thượng. Nguyễn Du cũng đã từng bóc đi cái nước sơn giả tạo ấy. Trong một bài thơ, sau khi ca ngợi ba người liệt nữ thời trước, thà chết không chịu nhục, ông viết thêm: Thanh thời đa thiểu tu như kích, Thuyết hiếu đàm trung các tự tôn. (Lúc thanh bình biết bao kẻ vểnh râu, Nói hiếu bàn trung để tự tôn mình!) Một lần khác, trong một bài thơ viếng Khuất Nguyên, Nguyễn Du lại trở lại ý này. Thơ Khuất Nguyên thường hay nhắc đến các loại hoa thơm vì lòng
  • 34. Khuất Nguyên thanh khiết. Nguễn Du nói người thời nay cũng hay đeo hoa thơm, nhưng chí hướng lại không giống Khuất Nguyên. Khuất nguyên có lẽ là người Nguyễn Du tưởng nhớ nhiều nhất. Riêng trong tập thơ này đã có đến năm bài thơ về Khuất Nguyên, mà bài nào lời thơ cũng thấm thía. Người đọc có cảm giác như Nguyễn Du đã tìm thấy ở Khuất Nguyên một con người đồng điệu. Tấm lòng thanh cao của Khuất Nguyên, tài trí tuyệt vời của Khuất Nguyên, cả cái tình cảnh éo le của Khuất nguyên, Nguyễn Du đều thấy như có gì giống với mình: Thiên cổ thùy nhân liên độc tỉnh, Tứ phương hà xứ thác cô trung? (Nghìn năm sau, ai biết thương người độc tỉnh, Tấm lòng cô trung biết ký thác vào đâu?) Đó là lời Nguyễn Du ái ngại cho Khuất Nguyên và có lẽ cũng là tự ái ngại cho mình nữa. Thời thế lúc bấy giờ, Nguyễn Du không thấy hơn gì thời Khuất Nguyên còn sống. Trong bài thơ ngũ nguyệt quan cạnh độ, nhắc lại việc bao nhiêu đời người ta gọi hồn Khuất Nguyên mà hồn vẫn không về, Nguyễn Du viết: Hồn nhược quy lai đã vô thác, Long xà quỷ quắc biến nhân gian. (Hồn mà trở về thì cũng không biết nương tựa vào đâu, Khắp trên cõi người đầy những loài rắn rồng quỷ quắc) Ý này, một lần khác, Nguyễn Du đã phát triển thành một bài thơ kiệt tác tức là bài Phản Chiêu hồn. Trong lời nói đầu quyển Thơ chữ Hán Nguyễn Du, nhận xét về bài thơ làm trong lúc đi sứ, các dịch giả nói: “Nguyễn Du thường than thở là “tiếu đề tuẫn tục” nghĩa là phải chiều theo đời, cả tiếng cười tiếng khóc cũng không được tự do, nhưng lúc này là lúc ở nước ngoài, cười tha hồ cười, khóc tha hồ khóc, Nguyễn Du muốn nói ra cho sướng miệng hả lòng,
  • 35. cho nên văn khí trong phần này xem ra khảng khái hùng tráng, có tính tranh đấu khá mạnh”. Nhận xét này rất đúng. Làm những bài thơ này cũng như viết Truyện Kiều, Nguyễn Du đã mượn những sự tích, những nhân vật của Trung Quốc để phát biểu về cuộc sống theo như Nguyễn Du nhìn thấy và cảm thấy, nghĩa là trước hết về cuộc sống trên đất nước Việt Nam, nhưng lại không tiện nói ra bằng sự tích và nhân vật Việt Nam. Vả chăng trong tình hình hồi bấy giờ có lẽ Nguyễn Du cũng không thấy có gì khác nhau lắm giữa hai nước. Trở lại bài Phản Chiêu hồn. Trái với thói thường, Nguyễn Du gọi hồn Khuất Nguyên và bảo với hồn đừng có trở về cõi đời này vì cõi đời này Nguyễn Du thấy nó cực kỳ ghê tởm. Yên, Sính, những đất cũ của nước Sở, những nơi quen biết với Khuất Nguyên giờ đây như thế nào? Thành quách do thị nhân dân phi, Trần ai cổn cổn ô nhân y. Xuất giả khu xa nhập cử tọa, Tọa đàm lập nghị giai Cao, Quỳ. Bất lộ trảo nha dữ giác độc, Giảo tước nhân nhục cam như di. (Thành quách vẫn như cũ, nhân dân thì khác rồi, Cát lầm bụi đọng nhơ nhớp cả quần áo người. Họ ra ngoài ngựa ngựa xe xe, họ ngồi nhà vênh vênh váo váo, Họ đứng ngồi bàn tán y như ông Cao, ông Quỳ. Họ không để lộ vuốt nanh và nọc độc, Nhưng họ nhai xé thịt người thì ngọt xớt như đường) Rõ ràng là một cái nhìn rất bi đát và đầy phẫn uất đối với cuộc đời thời bấy giờ, chắc chắn không phải chỉ riêng cuộc đời ở Trung Quốc mà ở khắp mọi nơi. Cuối bài Nguyễn Du có nói: Hậu thế nhân nhân giai Thượng quan,
  • 36. Đại địa xứ xứ giai Mịch La. (Người đời sau, ai nấy đều dòng dõi Thượng Quan, Trên mặt đất, chỗ nào cũng đều là sông Mịch La) Do đâu có cái nhìn bi phẫn ấy đối với cuộc đời? Tôi nghĩ cái nhìn ấy đã bắt nguồn từ những cảnh đau xót trong Văn chiêu hồn: Kìa những kẻ chìm sông lạc suối, Cũng có người sẩy cối sa cây… Từ hình ảnh ông già mù đi hát rong, hát đến sùi bọt mép và lúc đã xuống khỏi thuyền còn quay đầu lại ngỏ lời chúc tụng, từ tất cả những cảnh cơ cực, Nguyễn Du rất thông cảm vì chính Nguyễn Du cũng đã trải qua. Ngay trong bài này, cái nhìn rất ghê tởm của Nguyễn Du đối với bọn “nhai xé thịt người ngọt xớt như đường” cũng gắn liền với một cái nhìn rất đau xót đối với quần chúng lao khổ: Quân bắt kiến Hồ Nam sổ oách châu, Chỉ hữu sấu tích vô sung phì. (Kìa hồn không thấy thấy trăm châu ở Hồ Nam, Toàn xơ xác, gầy còm, không một người nào béo tốt) Chính do một tấm lòng yêu thương vô hạn đối với những người này mà Nguyễn Du hết sức căm giận cái bọn bất nhân nó ngang nhiên chà đạp lên kiếp sống người ta. Ở đây cũng như ở Truyện Kiều, Nguyễn Du chưa nhìn được rõ nguồn gốc sâu xa của mọi điều ngang trái, Nguyễn Du hoàn toàn không nhìn thấy lối ra: Ngư long bất thực sài hổ thực, Hồn hề hồn hề nại hồn hà? (Cá rồng không nuốt thì hùm sói cũng tha đi, Hồn ơi, hồn hỡi, biết làm thế nào bây giờ?)
  • 37. Nhưng giữa một bên là những thế lực bạo tàn nó ngự trị trên cuộc đời cũ, một bên là hàng vạn vạn con người cơ khổ, thái độ Nguyễn Du rõ ràng, tình cảm Nguyễn Du chân thành, sâu sắc. Thợ Nguyễn Du do đó có giá trị hiện thực rất cao, có sức rung cảm mãnh liệt. (Tạp chí Văn nghệ, tháng 3- 1960) CON NGƯỜI NGUYỄN DU TRONG THƠ CHỮ HÁN XUÂN DIỆU Trước đây mười chín năm (1941), trong cái tuổi trẻ bồng bột và mê say của mình, với cái tình hình sưu tầm các tác phẩm và tài liệu văn học Việt Nam rất què quặt dưới thời Pháp thuộc, khi được đọc hai câu thơ: Bất tri tam bách dư niên hậu, Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như. tôi coi đó như là hai câu thơ duy nhất, trong một bài thơ duy nhất của Nguyễn Du hé mở ra một thế giới con người mà từ trước hầu như không ai để ý: té ra phía sau Nguyễn Du tác giả Truyện Kiều, Nguyễn Du ông quan, đang còn có Tố Như; còn có cái thế giới Tố Như thân mật hơn, riêng tây hơn, tưởng chừng như cũng xúc cảm hơn nữa kia… Và do hai câu thơ hiếm quý trên đây, tôi đã viết những cảm nghĩ của mình để vội vàng mà “khấp Tố Như”, không chờ đợi được đến hết ba trăm năm; trong văn, đang còn cái xấc lấc của tuổi trẻ: “… Xưa nay, ta hằng gọi Nguyễn Du là cụ, là vì những người phê chú Truyện kiều đều là cụ. Họ đeo cặp kính bô lão, nên trông Tố Như cũng “búi tóc củ hành, buông quần lá tọa”, cũng lơ thơ một chòm râu dê. Đến nỗi thi nhân là kẻ được trẻ mãi ở trong muôn đời, mà phải già đi nhiều quá! Không, thanh niên chúng ta nên hiểu Tố Như với tấm lòng trẻ trung của mình kia, bàn tay xanh non của ta sẽ rũ bụi cho hương hồn tài tử, ta phải đặt lại Nguyễn Du
  • 38. trong khung xuân sắc, có hoa lá đụng vào mình thi sĩ, có bướm chim rạo rực chung quanh… Nguyễn Du trước hết là một tài tử như bọn thi sĩ của muôn đời; quyển Kiều đâu có tả hết tấm lòng của Nguyễn Du! Nguyễn Du còn có Tố Như, với bao nhiêu chuyện riêng tây, rất riêng tây nữa kia, nhưng không nói. Có lẽ vì văn chương Việt Nam khi ấy chưa có lối trữ tình, Tố Như không quen đem cái tôi ra mà bộc lộ… Nguyễn Du không hề nói đến Tố Như, bỗng nhiên nhân câu chuyện Tiểu Thanh lại tự hỏi một câu vơ vẩn. Ta xem văn Kiều, Văn chiêu hồn, thường chỉ nghĩ đến một tác giả, thoắt đọc hai câu thơ kia, ta vụt nghĩ đến con người Nguyễn Du, đến Tố Như: Ba trăm năm nữa mơ màng, Có ai thiên hạ khóc chàng Tố Như? Một tấm lòng vẫn giấu che, bỗng lộ trong một phút giây, chệch nhẹ bức mành, mà ta trông được cả một thế giới còn chưa nói - Sao Nguyễn Du không vẽ thử vài nét về bản thân mình? Khiến cho ta nay, nghe thơ hay, luống tiếc không được thấy dáng hình thi sĩ!... Thôi tài tử không tự vẽ, thì ta hãy tưởng tượng ra; này người, này nét mặt, này cuộc đời, này tâm tình… Tố Như ghét cái này, ưa cái nọ, ngồi nơi ấy, dạo nơi kia… Nghĩ xem: sao tài tử không nói “khấp Nguyễn Du”, mà lại nói “khấp Tố Như”? Tự xưng cái tên tự của mình, lòng tài tử lúc ấy thân mật biết mấy, nói đến mình, đến mình, chứ không nói đến tác giả hay ông quan… … Tố Như cần có người khóc lắm chứ, lòng ấy có rất nhiều bạn trong khoảng rộng và trong khoảng sâu; lòng ấy cần có người khóc. Khóc đây là thương cảm cùng nhau, thấu hiểu cho nhau, quý hóa lấy nhau. Khóc đây chưa hẳn là thảm sầu, mà là một nụ cười cũng có. Khóc đây chưa hẳn là khóc vì, mà còn là khác với… lời kêu gọi của một trang tài tình, nghe êm ái ngậm ngùi như một tiếng chim cô lẻ dội giữa trời thu khuya. Đó là tiếng giã
  • 39. đời, nhưng cũng là tiếng họp bạn; tiếng tuyệt vọng, nhưng cũng là tiếng hy vọng; câu tư hỏi nhưng cũng là câu tự trả lời…” (1941). Chỉ hai câu thơ “Ba trăm năm nữa ta không biết, Thiên hạ ai người khóc Tố Như” đã gợi lên trong tâm trí một thanh niên mất nước, mất văn học dân tộc, những cảm xúc và suy nghĩ bời bời, xa xót trên đây. Cái người không đợi đến ba trăm năm đã khóc trước Tố Như cũng là người ngụ ý tự khóc mình, bởi anh ta thời ấy chưa giác ngộ về chủ nghĩa Mác – Lê nin soi đường vào văn học. Bây giờ, chưa đến ba trăm năm, sắp sửa đến 1965 này thôi, là hai trăm năm sau ngày sinh Nguyễn Du, cái người được có nước, có văn học dân tộc, có chủ nghĩa Mác – Lênin thật không còn khóc Nguyễn Du theo như cũ nữa; anh ta vui sướng cầm tập Thơ chữ Hán 102 bài, phiên âm và dịch dưới chế độ ta, mừng rỡ được thấy những nét của con người Nguyễn Du mà trước đây anh rất muốn tìm nhưng không hy vọng. Chính Thơ chữ Hán chứa đựng bóng hình, đời sống, nét mặt, mái tóc, dấu chân, tâm tình, suy nghĩ của Nguyễn Du. Đây là một cái được rất quý báu, nó mở rộng trí tuệ anh ta… Tố Như yên nghỉ dưới đất, có ngậm cười khi có thêm những tri kỷ hàng vạn người? *** Không phải là một nhà thiên cứu, tôi bằng theo những tài liệu đã có, đi tìm lưa thưa dấu vết của một thi hào tôi mến yêu. Tự mình không biết chữ Hán, đọc qua phiên âm, hiểu qua phiên dịch, thế tất còn nhiều lõm bõm và khó tránh lầm sai. Đọc hai lần, ba lần, bốn năm lần, vẫn chưa thấy mình nắm được một cái gì thật chắc lắm! Trong phạm vi của những hạn chế ấy, gấp quyển Thơ chữ Hán lại, tự nhiên tôi có một cảm giác chung: là một buổi chiểu mùa thu rất dài và tê tái, cũng không phải là một buổi chiểu tà nắng – tà nắng là hãy còn có màu vàng nhạt vui vui – mà một thứ chiều thu “Mây như pha sữa cả trời nhòa”, không thấy mặt trời ở đâu, chỉ một ánh sáng bàng bạc như bị sai làm cho tê đi, và cứ thế mà kéo dài mãi cho đến khi trời tối. Thơ Nguyễn Du làm ở thời kỳ nhà Lê, thơ làm thời kỳ nhà Nguyễn, thơ trong đi sứ Trung Quốc: cái thời đại của
  • 40. Nguyễn Du đúng là tê đi và tái lại, tái cắt không ra máu đỏ của niềm vui! Truyện Kiều là một “đoạn trường tân thanh”, tuy nhiên tôi vẫn có cảm giác về màu sắc, màu sắc mở đầu là mặt đẹp tuyệt vời và xiêm áo, nhà cửa của Thúy Vân, Thúy Kiều, là mùa xuân, là hiên Lãm Thúy nét vàng chưa phai, vân vân…; mười lăm năm của Truyện Kiều là có màu sắc. Thế thì tại sao cũng đồng một ngòi bút, mà đến Thơ chữ Hán thì hầu như chỉ có một xa xám chiều thu? Lý đo là ở sự phức tạp của sự sống. Vẫn là một Nguyễn Du ấy, trong tâm hồn, trí tuệ của Nguyễn Du có màu sắc “Rõ ràng trong ngọc trắng ngà”, có cả chói lên màu sắc “Đầu tường lửa lựu lập lòe đâm bông”, có muôn màu sắc; nhưng ta có thể nói: khi Nguyễn Du là một nhà tiểu thuyết, một nhà viết kịch, như ở trường hợp Truyện kiều, thì Nguyễn Du phải là một ông tạo hóa phun ra sự sống, biết buồn, vui, khóc, cười, tan, hợp, biết cùng yêu với con trai, con gái, cùng làm “giặc” với Từ Hải, cùng thay hoa đổi lá với bốn mùa… Nhưng bản thân của Nguyễn Du thì đã đem cái bệnh của thời đại làm cái bệnh của chính mình, mâu thuẫn xã hội trong thời đại mình không giải quyết được, không biết cách thế nào mà giải quyết, tích lại thành một nỗi u uất trong tâm hồn riêng, thì Nguyễn Du là nàng Kiều trong cái lầu Ngưng Bích của chế độ phong kiến: Mặc người mưa Sở mây Tần, Những mình nào biết có xuân là gì! Cho nên khi nói đến bản thân mình, thì Thơ chữ Hán của Nguyễn Du cho ta cảm giác triền miên một buổi chiều thu. Trong Thơ chữ Hán – trong Văn chiêu hồn cũng có điểm như thế – nó không phải là tiểu thuyết, là kịch nữa, mà thuần là tâm tình bản thân, Nguyễn Du đã để con người của mình trong thơ; đã cho ta thấy Tố Như, Tố Như bên sau cái vỏ ông quan, ông chánh sứ. Ở đây, chúng ta quen thuộc với Tố Như, có thể nói là chúng ta vào dưới da của Nguyễn Du. Thơ chữ Hán (và Văn chiêu hồn) soi cho chúng ta hiểu thêm Truyện Kiều, hai tác phẩm trên làm cho chúng ta yêu thêm Nguyễn Du, do vậy càng yêu Truyện Kiều hơn nữa.
  • 41. *** Thơ Nôm của Nguyễn Du: Truyện Kiều, Văn chiêu hồn là những câu hỏi về xã hội, về đời người, kiếp người. Thơ chữ Hán của Nguyễn Du cũng là một câu hỏi mãi mãi; ở trên là hỏi chung cho mọi người, ở dưới là hỏi cho mình nữa, hỏi thiết thân đến mình, nhưng mình đây chằng qua là một bản người cụ thể, cá thể trong loài và kiếp người chung. Trong thơ ở thời kỳ triều Lê, Nguyễn Du hỏi: Tráng sĩ bạch đầu bi hướng thiên, Hùng tâm sinh kế lưỡng mang nhiên? Cái hùng tâm muốn mưu đồ nghiệp chung và cái sinh kế cho tấm thân mình đều là mờ mịt cả, người tráng sĩ bạc đầu vẫn buồn ngẩng mặt lên trời! Bi hướng thiên, với cái đầu bạc của một người còn trẻ tuổi! Hoàn cảnh riêng của Nguyễn Du, trải qua một thời ly loạn, theo như nói trong thơ, đã chịu nhiều thiếu thốn, cơ cực; hoàn cảnh đó làm cho Nguyễn Du dễ thống nhất câu hỏi về bản thân: – sinh sống ra sao? với câu hỏi cho xã hội: – thời thế đi đến đâu? “Mới chớm rét đã cảm thấy nỗi khổ không áo” (bài Đêm thu); “Bếp núc suốt ngày không có khói lửa” (bài Tạp ngâm); “Tóc bạc còn loay hoay vì cơm áo” (bài Ngồi đêm): đó là mấy câu thơ ở dưới triều Lê. “Trăm năm thân thế gửi ở phong trấn; Hết ăn nhờ ở miền sông lại ở miền bể; Ba tháng xuân, bệnh liên miên, nghèo không thuốc; Cuộc phù sinh ba mươi năm, vẫn vì có thân mà phải lo” (bài Khởi hứng lan man,I; “Bước chân như cỏ bồng không rễ luôn luôn chuyển; Qua cả hai miền nam, Bắc, túi vẫn rỗng không; Trăm năm nghèo xác trong chốn văn chương; Thân sáu thước nổi chìm trong vòng trời đất…” (bài Khởi hứng lan man, II): đó là những câu thơ ở dưới triều Nguyễn. Những cực khổ, thiếu thốn, những phiêu bạt, nổi chìm ấy tất có liên quan đến niềm thông cảm của Nguyễn Du đối với những người đói nghèo, lao khổ, những người “đòn gánh tre chín dạn hai vai” (Văn chiêu hồn). Nguyễn Du nói trong Thơ chữ Hán: “Tiếng hát nơi thôn xóm giúp ta học những câu về
  • 42. trồng dâu, trồng gai; Tiếng khóc nơi đòng nội như nhắc lại những lúc chinh chiến”. Mặc dầu bị hạn chế trong vòng thời đại của mình, bị hạn chế trong tư tưởng mình, Nguyễn Du, người đã nói trong Văn chiêu hồn: “Giàu sang càng nặng oán thù, Giãi thây trăm họ làm công một người”, cũng nói trong Thơ chữ Hán: Cổ kim vị kiến thiên niên quốc, Hình thế không lưu bách chiến danh. (Xưa nay chưa thấy nước ngàn năm, Non núi chỉ lưu danh bách chiến.) chưa có triều phong kiến nào tồn tại được mãi; và hình thế núi non chỉ để lại cái tiếng là nơi trăm trận đánh nhau! Và câu thơ “Thiên niên phú quý cung tranh đoạt” (trong bài Thăng Long) cũng nói cái ý đó: cái ngai vàng giàu sang, hàng nghìn năm rồi, chỉ bày trò cho bọn phong kiến giành giật. Nguyễn Du thường than thở về nỗi ở trong xã hội (phong kiến) khóc cười cũng không được tự do. Người cháu của Nguyễn Du, Minh Quyên, trong bài viếng Nguyễn Du, có câu: “Chú tôi xảo toàn được 19 năm”, tức là Nguyễn Du phải khôn khéo mới giữ được tính mệnh trong 19 năm làm quan triều Nguyễn. “Danh lợi doanh trường lũy tiếu tần”: trên trường danh lợi, một tiếng cười hay cái nhăn mặt, có khi cũng không được tự do (bài Xuân tiêu lữ thứ); cười gượng là chuyện cũng thường tình, và cũng đã khổ; chứ đến cái nhăn mặt mà cũng phải gượng, thì Nguyễn Du đã khổ đến bao nhiêu! Khi đi sứ sang Trung Quốc, trên đường qua ải Nam Quan, Nguyễn Du làm một bài thơ rất kín đáo: Năm mây chiếu ngọc vâng ban, Chiếc xe muôn dặm, Nam quan mấy trùng. Tóc sương là bạn đi cùng, Hai tuần chỉ thấy trập trùng núi xanh.
  • 43. Ơn vua chưa trả đinh đinh, Mưa xuân nhuần thấm nhưng mình lạnh xương. Theo tôi hiểu, bài thơ này chỉ muốn nói: Chiếu nhà vua từ trên mây năm sắc đưa xuống, cử tôi làm chánh sứ, nhưng tôi chả có lý thú gì! Tôi cứ lạnh buốt tự trong xương lạnh ra! – Nhưng muốn nói cái đó, Nguyễn Du đã phải bọc trong nhung êm, trong gấm đẹp một cách trào phúng sâu cay! Nguyễn Du chắp hai tay lạy vua trước đã: Quân ân tự hải, hào vô báo thì mới trôi được câu sau: Xuân vũ như cao, cốt tự hàn. Nói phong cảnh núi non trập trùng, để dễ tiếp theo nói cảnh mưa xuân như mỡ (béo bổ); mưa từ nghĩa đen ngoài trời đã thành ơn mưa móc của vua; cái mưa trời ấy (cũng như cái mưa ơn) chỉ làm cho tôi lạnh toát! Tác giả Truyện Kiều là trữ tình, nhưng cũng không phải là không biết trào phúng khi cần thiết; những hình tượng trào phúng châm biếm của Nguyễn Du có bề rộng lớn, có chiều sâu xa. Chính Nguyễn Du đã nói về mình: “Tính tự nhiên như chim hạc có ống chân dài không thể cắt ngắn đi được”, nhưng trong thực tế, người ta cũng đã bắt hạc phải ngắn chân, và đối với chim phượng, thì: Sinh bình văn thái tàn lung phượng Phù thế công danh tẩu hác xà. Văn chương bình sinh như chim phượng nhốt trong lồng nát; công danh phù thế như con rắn chui tọt vào trong hang; văn chương là đẹp đẽ thế, mà bị gò bó, có phải cựa quậy; còn công danh chức tước thì là vào chỗ tắc tị không có lối ra! (bài Tiễn bạn họ Nguyễn vào Nam). Nguyễn Du có khi nó, không biết là khóc hay là cười: Vô lụy vị ưng chiêu quỷ trách,