SlideShare a Scribd company logo
1 of 54
Download to read offline
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
Mai Thu Quỳnh
Chu Dịch cứu nguyên - phong cách kinh học và tư
tưởng của Lê Văn Ngữ
Luận văn ThS. Ngôn ngữ học: 60 22 40
Nghd. : GS.TS. Lê Văn Quán
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
Mai Thu Quỳnh
Chu Dịch cứu nguyên - phong cách kinh học và tư
tưởng của Lê Văn Ngữ
Luận văn ThS. Ngôn ngữ học: 60 22 40
Nghd. : GS.TS. Lê Văn Quán
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..................................................................................................1
1- LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:..................................................................................1
2- TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ ĐỀ TÀI:.....................................................2
3- MỤC TIÊU VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU: ...............................................4
4- PHẠM VI VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI:...........................5
5- Ý NGHĨA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA LUẬN VĂN:..........................6
6- KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN:.........................................................................6
7- QUY CÁCH TRÌNH BÀY:.............................................................................6
PHẦN NỘI DUNG..................................................................................8
CHƯƠNG I: VĂN BẢN CHU DỊCH CỨU NGUYÊN VÀ TÁC GIẢ LÊ
VĂN NGỮ................................................................................................... 8
I. VĂN BẢN CHU DỊCH CỨU NGUYÊN:....................................................8
2. TÁC GIẢ LÊ VĂN NGỮ (1860 – 1934): ..................................................20
CHƯƠNG II: LÊ VĂN NGỮ VỚI CHU DỊCH CỨU NGUYÊN............ 31
1.DIỆN MẠO DỊCH HỌC VIỆT NAM: ......................................................31
1.1 TỔNG QUAN VỀ CHU DỊCH: ......................................................................31
1.2. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN DỊCH HỌC Ở VIỆT NAM TRƯỚC THẾ KỈ XX: ..35
1.3. ĐẶC ĐIỂM CỦA DỊCH HỌC VIỆT NAM TRƯỚC THẾ KỈ XX: ..........50
2.NHỮNG ĐIỂM ĐỘC ĐÁO CỦA CHU DỊCH CỨU NGUYÊN:...............61
2.1.HÌNH THỨC, QUAN ĐIỂM VÀ PHƯƠNG PHÁP CHÚ GIẢI CHU DỊCH..65
2.2.THỜI TRUNG – HẠT NHÂN CỦA CHU DỊCH VÀ CŨNG LÀ ĐẠO
THỐNG:..................................................................................................................78
2.3.VẬN DỤNG DỊCH GIẢI THÍCH CÁC NHO ĐIỂN KHÁC VÀ MỘT SỐ
VẤN ĐỀ CỦA VĂN HÓA - XÃ HỘI HIỆN ĐẠI:...............................................81
KẾT LUẬN............................................................................................86
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................91
Mai Thu Quỳnh. Chu Dịch cứu nguyên – Phong cách kinh học và tư tưởng
của Lê Văn Ngữ
1
MỞ ĐẦU
1- LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Đạo Nho – hệ tư tưởng giữ vai trò chủ đạo trong đời sống chính trị, tư
tưởng, kinh tế, văn hóa Trung Hoa nói riêng và phương Đông truyền thống nói
chung – có một đặc điểm nổi bật là rất coi trọng sách vở. Các nhà Nho trứ thư
để lập thuyết và mọi hiểu biết của họ đều có xu hướng được viết thành sách để
lưu truyền cho kẻ hậu học. Do có đặc điểm đó nên khi nghiên cứu về Nho giáo
nghiên cứu viên không thể thoát ly khỏi những kinh tịch của học thuyết này.
Trong bộ kinh tịch cơ bản và cô đọng nhất của Nho gia là Tứ thư (四書) và Ngũ
kinh (五經), kinh Dịch(易) nổi lên như là một tác phẩm huyền bí nhất và có
nhiều cách hiểu nhất. Bởi thế nên cho dù đã có rất nhiều công trình nghiên cứu
về Dịch học ra đời từ sau khi kinh Dịch xuất hiện nhưng Dịch học vẫn là vấn đề
cần nhiều công sức nghiên cứu hơn nữa.
Tuy không có cách đánh giá và nhìn nhận thống nhất về mặt tư tưởng
(như đã nói ở trên) nhưng kinh Dịch lại chứa trong nó những lớp trầm tích quý
của nền văn hóa Trung Hoa cổ đại. Vì thế mà dù rất khó khăn nhưng những
người nghiên cứu văn hóa cổ truyền của phương Đông nói chung không thể
không bước qua cây cầu Chu Dịch (周易) đầy bí ẩn và kỳ thú này.
Ở Việt Nam, kinh Dịch được coi là cuốn sách có rất nhiều ứng dụng và
cũng là cuốn sách thể hiện tư duy ở trình độ cao. Trong khi các học giả, các nhà
nghiên cứu thường thận trọng và dè dặt mỗi lần nhắc đến Dịch thì trong dân
gian, các thầy cúng thầy bói lại thả sức mượn Dịch để bói toán, điều này đã
khiến cho Chu Dịch tồn tại trong đời sống người Việt với tư cách là cuốn sách
bói nhiều hơn là tư cách một kiệt tác văn hóa cổ truyền. Người Việt Nam đang
rất chú ý đến Chu Dịch tuy không phải ai đọc Dịch cũng đều hiểu đúng và vận
Mai Thu Quỳnh. Chu Dịch cứu nguyên – Phong cách kinh học và tư tưởng
của Lê Văn Ngữ
2
dụng Dịch thành công. Do đó, chúng tôi cho rằng việc tìm hiểu Chu Dịch một
cách tổng quan dưới con mắt khoa học là điều rất cần thiết.
Đặc biệt, trong tình hình tìm hiểu Chu Dịch ở Việt Nam như đã nói ở
trên, có một dòng nghiên cứu Dịch tuy không tạo được nhiều tiếng vang nhưng
không phải là không đáng kể, đó là dòng nghiên cứu Chu Dịch của các học giả
Việt Nam trung cận đại. Khi nhắc đến Dịch học ở Việt Nam, những người đã
từng tìm hiểu về Dịch thường cho rằng các tác phẩm viết về Chu Dịch của
người Việt chủ yếu là tóm tắt nội dung và dịch các quẻ ra tiếng Việt, hoặc nếu
có khảo cứu thì phần lớn lại chịu ảnh hưởng bởi Chu Dịch lược lệ (周易略例)
của Vương Bật đời Ngụy (Trung Quốc) hay Chu Dịch bản nghĩa (周易本義)
của Chu Hy đời Nam Tống (Trung Quốc). Thế nhưng trên thực tế đã có một
người Việt Nam khảo cứu Chu Dịch bằng cách áp dụng những thành tựu khoa
học và tư tưởng của phương Tây nói chung và phương Tây thời cận đại nói
riêng. Đó chính là trường hợp của Lê Văn Ngữ (黎文敔) với cuốn Chu Dịch
cứu nguyên (周易究原). Đây là cuốn sách có phương pháp tiếp cận Dịch học
rất riêng mà chúng ta cần xem xét.
Vì những lí do cơ bản đó, chúng tôi đã quyết định chọn đề tài cho luận
văn này là Chu Dịch cứu nguyên – phong cách kinh học và tư tưởng của Lê
Văn Ngữ.
2- TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ ĐỀ TÀI:
Chu Dịch là nguồn đề tài nghiên cứu vô tận cho các học giả. Mà không
chỉ có những người theo đuổi lĩnh vực văn hóa truyền thống phương Đông, các
nhà khoa học tự nhiên, các nhà khoa học kĩ thuật công nghệ hiện đại cũng đã có
một số công trình nghiên cứu đáng trân trọng về Chu Dịch. Theo kết quả sưu
tầm thống kê sơ bộ của hai tác giả là Dương Ngọc Dũng và Lê Anh Minh trong
Mai Thu Quỳnh. Chu Dịch cứu nguyên – Phong cách kinh học và tư tưởng
của Lê Văn Ngữ
3
cuốn Chu Dịch và cấu hình tư tưởng Trung Quốc (NXB. Khoa học Xã hội,
2006), tính đến năm 1993 đã có 4863 quyển thuộc 1379 bộ sách của người
Trung Quốc viết về Chu Dịch. Đó là các sách lấy đề tài và triển khai nội dung
nghiên cứu Chu Dịch trên quê hương của Dịch tính đến năm 1993. Còn các tác
phẩm nghiên cứu Dịch của những người không thuộc dân tộc Hoa Hạ vào thời
gian sau đó, các tác phẩm nghiên cứu Dịch của các nước và đặc biệt là các tác
phẩm vận dụng quan điểm của Dịch thì nhiều đến mức khó mà thống kê được.
Chu Dịch cứu nguyên của Lê Văn Ngữ cũng chính là một công trình của người
Việt thời cận hiện đại nghiên cứu về Dịch.
Với tư cách là một sản phẩm của Dịch học Việt Nam, tác phẩm Chu
Dịch cứu nguyên, cho đến nay mới có hai bài tham luận đề cập đến:
1. Bài tham luận của Benjamin Wai-ming Ng (Ngô Vĩ Minh) 吳偉明
(Chinese University of Hong Kong) trong Hội nghị lần 3 về Nho Giáo tại Việt
Nam, tổ chức tại Tp Hồ Chí Minh từ 19 đến 21 tháng 7, 2001. Nguyên tựa bài
tham luận: Yijing Scholarship in Late-Nguyen Vietnam: A Study of Le Van
Ngu's 黎文敔 Chu Dich Cuu Nguyen 周易究原 (An Investigation of the
Origins of the Yijing, 1916), tạm dịch là “Dịch học ở Việt Nam cuối thời
Nguyễn: Chu Dịch cứu nguyên – một nghiên cứu của Lê Văn Ngữ”. Ở đây Ngô
Vĩ Minh đã có một số nhận xét sắc sảo về Dịch học Việt Nam và tư tưởng của
Lê Văn Ngữ thể hiện trong Chu Dịch cứu nguyên. Tuy nhiên, còn một vài tổng
kết về thái độ của Lê Văn Ngữ đối với Thập dực (十翼), đặc biệt là đối với Văn
ngôn (文言), còn chưa thật thoả đáng. Ví dụ, Ngô Vĩ Minh đã cho rằng:
Trong Thập dực, ông chỉ thích Văn ngôn và ca tụng rằng đó là nguồn
tham khảo tốt nhất về ý nghĩa của các thuật ngữ dùng trong kinh Dịch
rồi ông chú thích rằng xem văn bản Chu Dịch cứu nguyên trang 37.
Nhưng theo thực tế khảo sát của chúng tôi thì trang 37 nói riêng và cả tác phẩm
Mai Thu Quỳnh. Chu Dịch cứu nguyên – Phong cách kinh học và tư tưởng
của Lê Văn Ngữ
4
Chu Dịch cứu nguyên nói chung không có chỗ nào nhận xét về Văn ngôn như
vậy.
2. Bài tham luận của Hướng Thế Lăng (向 世 陵) – giáo sư trường Đại
học Nhân dân Trung Quốc (中 國 人 民 大 學 教 授) trong hội thảo Nho học ở
Việt Nam tổ chức tại Hà Nội năm 2007, bài tham luận mang tên: Nghiên cứu
Dịch học Lý học của Lê Ngữ (黎 敔 理 學 易 學 研 究 ). Bài tham luận này ca
ngợi Lê Văn Ngữ đã vượt ra khỏi những ảnh hưởng trong đánh giá Chu Dịch
của Lý học để có những nhận định riêng.
Nói chung, hai bài tham luận trên bước đầu đã nêu lên những điểm đặc
sắc về cách nghiên cứu, giải thích Chu Dịch của tác giả Lê Văn Ngữ. Tuy nhiên,
vì là bài tham luận của hội thảo nên những tổng kết và phát hiện của hai tác giả
trên mới dừng ở mức độ sơ khởi. Ngoài ra, về tác giả Lê Văn Ngữ và tác phẩm
khác của ông thì còn có một bài tham luận của Lý Chước/Trác Nhiên (李 焯
然) ở Hội thảo nghiên cứu học thuật phương pháp diễn giải văn hiến truyền thế
Đông Á (東 亞 傳 世 文 獻 譯 解 方 法 學 術 研 討 會) diễn ra ở Đại học
Quốc lập Đài Loan vào tháng 12 năm 2003 mang tên Sự giải thích Đại học
của Cuồng Sĩ Lê Văn Ngữ Việt Nam qua Đại học tích nghĩa (越 南 狂 士 黎 文
敔 《大 學 晰 義》 对 《 大 學》 的 詮 釋).
Như vậy, vấn đề tác phẩm Chu Dịch cứu nguyên và tác giả Lê Văn Ngữ
cho đến nay còn là một vấn đề mở khuyến khích các nghiên cứu chuyên sâu.
3- MỤC TIÊU VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU:
Khi bắt tay xử lý vấn đề này, chúng tôi hướng đến những mục tiêu sau:
Mai Thu Quỳnh. Chu Dịch cứu nguyên – Phong cách kinh học và tư tưởng
của Lê Văn Ngữ
5
Một là khái quát quá trình phát triển và đặc điểm của Dịch học Việt Nam
từ thế kỉ XX trở về trước.
Hai là, bước đầu tìm hiểu giá trị của tác phẩm Chu Dịch cứu nguyên và
tư tưởng của tác giả Lê Văn Ngữ thể hiện qua tác phẩm này, từ đó hướng tới
làm rõ những đóng góp của Lê Văn Ngữ đối với Dịch học của Việt Nam nói
riêng và Dịch học nói chung.
Ba là, chúng tôi mong muốn luận văn này sẽ góp tiếng nói khẳng định
một thành tựu khảo cứu Chu Dịch theo lối nghi cổ, mong giúp chúng ta có cái
nhìn đầy đủ hơn về bản chất của Chu Dịch cũng như Dịch học ở Việt Nam.
Bốn là, cung cấp cho người đọc một tài liệu mới được phát hiện về Dịch
học Việt Nam, góp phần vào sự nghiệp khảo và luận tư tưởng Nho gia ở Việt
Nam thể hiện qua các tác phẩm.
Để thực hiện các mục tiêu đó, nhiệm vụ của luận văn này là:
Thứ nhất, làm công tác văn bản để xác định tác phẩm, đồng thời tập hợp
tư liệu sách vở và đi thực tế, khai thác các thông tin liên quan đến tác giả Lê
Văn Ngữ.
Thứ hai, phiên âm và dịch nghĩa tác phẩm sang chữ quốc ngữ.
Thứ ba, tổng kết con đường du nhập, phát triển của Dịch học ở Việt Nam
trước thế kỉ XX.
Thứ tư, đọc, phân tích tác phẩm Chu Dịch cứu nguyên của Lê Văn Ngữ
để tìm ra những giá trị riêng có của tác phẩm này.
4- PHẠM VI VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI:
Ban đầu, khi được tiếp xúc với một tác phẩm Hán Nôm còn chưa mấy ai
biết đến, chúng tôi đã rất hào hứng, những muốn sẽ thông qua tác phẩm này để
xâu chuỗi cả 6 tác phẩm của Lê Văn Ngữ đến nay cũng chưa nhiều người biết
và rút ra phong cách kinh học của Lê Văn Ngữ. Tuy nhiên, với khuôn khổ và
những yêu cầu cụ thể của luận văn này, ý tưởng đó đã không thể thực hiện
Mai Thu Quỳnh. Chu Dịch cứu nguyên – Phong cách kinh học và tư tưởng
của Lê Văn Ngữ
6
được. Hiện trong bản luận văn này, chúng tôi chỉ làm rõ vấn đề tác giả của tác
phẩm và một vài giá trị nổi bật nhất của Chu Dịch cứu nguyên. Những hướng
khảo cứu ban đầu và một số vấn đề khác xin được thực hiện sau – khi có nhiều
thời gian và dụng công hơn.
Với giới hạn nghiên cứu nói trên, chúng tôi sẽ chủ yếu sử dụng các
phương pháp cơ bản của Văn bản học và các phương pháp cụ thể khác như: đi
điền dã, tổng hợp – phân tích, so sánh đối chiếu, hệ thống,...
5- Ý NGHĨA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA LUẬN VĂN:
Những kết quả của luận văn này sẽ góp tiếng nói giới thiệu một tác giả
Hán Nôm mà chúng ta đang lưu giữ khá đầy đủ, trọn vẹn các tác phẩm của ông
nhưng lại chưa biết nhiều về ông. Đồng thời, luận văn này cũng góp phần giới
thiệu diện mạo Dịch học Việt Nam trước thế kỉ XX.
Luận văn còn cung cấp một nguồn tài liệu phục vụ công tác giảng dạy và
học tập kinh Dịch trong nhà trường cũng như cung cấp tài liệu để các nghiên
cứu viên tham khảo.
6- KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN:
Luận văn này gồm 3 phần: phần mở đầu, phần nội dung và phần kết luận;
trong đó phần nội dung có 2 chương chính: chương I xác định văn bản, chương
II phân tích một số giá trị của tác phẩm.
7- QUY CÁCH TRÌNH BÀY:
- Tên tác phẩm: viết hoa chữ cái đầu, in nghiêng.
Tên tác phẩm nằm trong đoạn trích: in nghiêng đậm để phân biệt.
- Phiên âm Hán Việt: in nghiêng.
- Trích chính xác (dẫn chứng): in nghiêng.
Mai Thu Quỳnh. Chu Dịch cứu nguyên – Phong cách kinh học và tư tưởng
của Lê Văn Ngữ
7
- Quy cách viết hoa: tên người, tên địa danh viết hoa toàn bộ; tên tước vị
viết hoa chữ đầu tiên.
- Quy ước viết tắt:
Viết tắt Viết đầy đủ
Nxb Nhà xuất bản
Tr hoặc tr. Trang, trang
q. quyển
TVVNCHN Thư viện viện Nghiên cứu Hán Nôm
GS.TS, PGS.TS Giáo sư. tiến sĩ, phó giáo sư. tiến sĩ
Mai Thu Quỳnh. Chu Dịch cứu nguyên – Phong cách kinh học và tư tưởng
của Lê Văn Ngữ
8
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: VĂN BẢN CHU DỊCH CỨU NGUYÊN
VÀ TÁC GIẢ LÊ VĂN NGỮ
I. VĂN BẢN CHU DỊCH CỨU NGUYÊN:
Bộ sách chúng tôi khảo sát ở đây là một văn bản gồm hai tập, theo chỉ
dẫn trong các bức thư riêng của tác giả thì sách này có ít nhất là 04 bản nhưng
hiện chúng tôi chỉ có thông tin và văn bản (ở dạng tài liệu sao chụp) của một
bản1
. Bản phục vụ độc giả là bản được photo từ bản gốc mang kí hiệu A.2592/1
(tập 1) và A.2592/2 (tập 2) của thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Chúng tôi
đã được tiếp xúc với bản gốc và thấy: hai quyển sách có hình chữ nhật, bìa
được hồ cứng màu đỏ tía, gáy sách quét sơn ta, đốc sách quét màu đỏ tía và có
ghi hai chữ 易 上 (Dịch thượng) ở quyển thứ nhất và 易 下 (Dịch hạ) ở cuốn
thứ hai. Mấy trang đầu của cả hai cuốn đều có 4 con dấu kiểm kê của thư viện.
Hình dạng của 4 con dấu này đều là hình vuông, trong đó có 2 dấu bằng nhau
và nhỏ hơn 2 dấu còn lại, 1 trong 2 dấu nhỏ đã bị mờ không đọc được, dấu kia
ghi năm kiểm kê là 1967; 2 dấu lớn hơn ghi năm kiểm kê thư viện là 1986 và
1991. Vậy là sách này đã có mặt trong thư viện muộn nhất là vào năm 1967.
Đây là cuốn sách chép tay được làm cẩn thận và còn khá mới. Đặc điểm hình
thức của từng quyển như sau:
Quyển thứ nhất (quyển thượng, tức tập 1): bìa màu đỏ tía; khổ 5,7cm x
28cm; giấy dó gồm 70 tờ đã được đánh số tờ cùng 02 tờ đầu và 02 tờ cuối
quyển không đánh số tờ; lề trên của trang giấy: 4cm; lề dưới: 1cm; lề phải:
0,5cm; lề trái: từ tờ 1 đến tờ 5: 1cm, từ tờ 6 đến hết: 0,5cm; khoảng cách giữa
các dòng là 01cm; cỡ chữ là 01x01cm; về số dòng chữ trong một trang giấy, từ
1
Bản này là bản được tác giả gửi Tòa Viễn đông bác cổ; ngoài ra còn có bản gửi cho quan Phụ chính họ Tôn
Thất, bản gửi Thống sứ Bắc kỳ và bản gửi Thượng Hải Quảng học hội. Xin xem thêm phần sau.
Mai Thu Quỳnh. Chu Dịch cứu nguyên – Phong cách kinh học và tư tưởng
của Lê Văn Ngữ
9
tờ 1 đến hết tờ 5 mỗi trang 7 dòng, từ tờ 6 đến hết quyển mỗi trang gồm 8 dòng;
dòng nhiều nhất là 24 chữ và dòng ít nhất là 01 chữ. Trong số 04 tờ không được
đánh số, 02 tờ cuối quyển không có chữ, 02 tờ đầu quyển ghi những điều như
sau:tờ thứ nhất, trên đầu của trang đầu tiên có mấy chữ quốc ngữ: Chu Dịch
cứu nguyên, và số I ở ngay dưới chân bốn chữ Chu Dịch cứu nguyên đó; tờ thứ
hai bắt đầu bằng trang chữ Pháp, trang sau là trang tiếng Việt có đầu đề là Dịch
nhời quan Thống Sứ. Nét chữ ở tờ đầu tiên và tờ thứ hai rất giống nhau.
Quyển thứ hai (quyển hạ, tức tập 2): bìa màu đỏ tía; khổ giấy 6cm x
27,3cm; giấy dó gồm 71 tờ đã được đánh số tờ cùng 03 tờ đầu và 01 tờ cuối
không được đánh số; lề trái bằng lề phải và bằng 0,5cm; lề trên 5cm; lề dưới
1cm; khoảng cách giữa các dòng là 01cm; cỡ chữ là 01x01cm; mỗi trang có 8
dòng và mỗi dòng khoảng 24 chữ. Trong số 04 tờ không được đánh số thứ tự,
03 tờ đứng đầu và 01 tờ đứng cuối quyển; tờ cuối quyển không có chữ; tờ đầu
tiên ghi mấy chữ: Chu Dịch cứu nguyên và số II với nét chữ, vị trí và bố cục
như ở quyển 1; sau tờ đầu tiên này là 02 tờ không có chữ.
Về kiểu chữ và cỡ chữ: phần chữ quốc ngữ ở cả hai cuốn đều được viết
bằng bút sắt và cùng một nét bút, chứng tỏ là do một người viết ra; còn phần
chữ Hán được viết theo thể chân và cả hai cuốn cũng thống nhất về nét bút, tức
là cũng do một người viết ra.
Như vậy, hai cuốn A.2592/1 và A.2592/2 có hình thức thống nhất, cách
trình bày thống nhất: bìa sách của cả hai quyển là màu đỏ tía, khổ giấy khoảng
6cm x 27,5cm, cả hai đều là sách chép tay theo thể chữ chân trên nền giấy dó;
cỡ chữ Hán ở hai cuốn đồng đều nhau, nét chữ quốc ngữ ở đầu hai cuốn cũng
như nét chữ Pháp ở đầu cuốn thứ nhất là giống nhau. Từ đó suy ra phần chữ
quốc ngữ và chữ Pháp trong sách do một người viết và phần chữ Hán trong
sách cũng do một người viết. Sách còn khá mới, lại có cả chữ Pháp được viết
bằng bút sắt nên nhận định ban đầu của chúng tôi là thời điểm làm ra (hoặc
Mai Thu Quỳnh. Chu Dịch cứu nguyên – Phong cách kinh học và tư tưởng
của Lê Văn Ngữ
10
chép lại) của sách này sớm nhất là khoảng thế kỉ XVIII hoặc XIX và muộn nhất
là khoảng trước năm 1967 (vì có dấu kiểm kê của thư viện vào năm 1967).
Như đã mô tả ở trên, phần chữ quốc ngữ ở đầu hai cuốn và chữ Pháp ở
đầu cuốn thứ nhất đều do một người viết. Điều này có nghĩa là người đặt tên
Chu Dịch cứu nguyên cho bộ sách này rồi chia chúng thành tập I và tập II cũng
chính là người chép trang tiếng Pháp và tiếng Việt ở tờ thứ hai của tập I. Đọc
hai trang đó thì thấy đây là một bức thư của quan Thống sứ Bắc kỳ gửi cho ông
Lê Văn Ngữ ở xã Vạn Lộc phủ Xuân Trường, Nam Định để trả lời bức thư gửi
quan Thống Sứ của ông này viết vào ngày 15 tháng giêng năm 1928; trang
tiếng Việt phía sau là bản dịch của trang tiếng Pháp mặt trước. Nguyên văn bản
dịch như sau1
:
Dịch nhời quan Thống Sứ
Tôi giả nhời cái thơ ông ngày mười rằm tháng giêng năm một nghìn chín
trăm hai mươi tám, tôi tỏ lòng chung mà giả nhời để ông biết rằng: công trình
ông làm những sách nho như thế này, mà chưa có thể in để rùng chung được,
tôi thực tiếc lắm, vì sách ông cũng bổ ích nhiều mà chưa hợp thời, và chưa tiện
rụng cho các trường học.
Vậy tôi gửi lại ông hoặc ông muốn xuất bản thạch ấn, xin tùy ý ông.
Tôi đổi lòng chung thực mà coi ông cách đặc biệt sâu sắc lắm.
Đoạn dịch trên so với bản tiếng Pháp ở trang trước thì còn thiếu phần đầu
thư ghi: của quan Thống Sứ Bắc kỳ gửi ông Lê Văn Ngu (Ngữ) xã Vạn Lộc phủ
Xuân Trường, Nam Định.
Bức thư của ông Lê Văn Ngữ tại sao lại có mặt ở đầu sách này? Những
bức thư riêng thì chỉ có người được gửi hoặc người thân cận nhất của người
được gửi mới giữ nó, vậy phải chăng bức thư và cuốn sách đều là vật sở hữu
của một người là ông Lê Văn Ngữ?
1
Chúng tôi chép và giữ nguyên cách dùng từ, cách hạ dấu câu và cách viết hoa của văn bản.
Mai Thu Quỳnh. Chu Dịch cứu nguyên – Phong cách kinh học và tư tưởng
của Lê Văn Ngữ
11
Thống Sứ Bắc kỳ nhận được một bức thư của ông Lê Văn Ngữ viết vào
ngày 15 tháng giêng năm 1928, điều này chứng tỏ rằng ông Lê Văn Ngữ là
người sống vào khoảng cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Câu nói của Thống sứ
Bắc kỳ: công trình ông làm những sách nho như thế này,... mách bảo chúng ta
rằng ông Lê Văn Ngữ đã làm hơn một cuốn sách “nho” (tức là sách viết về
những nội dung liên quan đến Nho giáo hoặc sách viết bằng văn tự Hán hoặc là
sách gồm cả hai phương diện trên). Lời lẽ của bức thư còn giúp chúng ta có thể
đưa ra giả thuyết: Sau khi làm một số sách liên quan đến Nho giáo và Hán tự,
ông Lê Văn Ngữ đã gửi chúng cùng một bức thư cho quan Thống sứ Bắc kỳ
thời đó đề nghị đem những cuốn sách ấy ra in để sử dụng trong các trường học
đương thời. Bức thư đã đến tay người cần nhận, nhưng quan Thống sứ Bắc kỳ
hồi đó đã viết bức thư bằng tiếng Pháp kể trên để từ chối đề nghị của Lê Văn
Ngữ. Vậy bức thư của Lê Văn Ngữ đã gửi cho quan Thống sứ Bắc kỳ trước đó
đâu; sách “nho” đã được Lê Văn Ngữ làm và gửi cho Thống sứ Bắc kỳ là
những cuốn sách nào, cuốn sách chúng ta đang khảo sát có nằm trong số sách
đó không; người chép và dịch bức thư trên là ai và thư ấy cùng người chép ấy
có liên quan như thế nào với văn bản chúng ta đang tìm hiểu?
Trước khi trả lời những câu hỏi trên để xác minh giả thuyết chúng tôi
đưa ra, xin quay lại với văn bản A.2592/1 – 2. Văn bản này không có mục lục,
chúng tôi đã thống kê thành một mục lục như sau:
Tên mục Trang bắt đầu Trang kết thúc
Chu Dịch đồ thuyết (周 易 圖 說) 1 10
Chu Dịch cứu nguyên tự (周
周
周
周 易
易
易
易 究
究
究
究 原
原
原
原 序
序
序
序) 11 13
化 原 考 論 (Hóa nguyên khảo luận) 13 19
圖 書 前 論 (Đồ thư tiền luận) 19 28
易 道 合 論 (Dịch đạo hợp luận) 28 34
Mai Thu Quỳnh. Chu Dịch cứu nguyên – Phong cách kinh học và tư tưởng
của Lê Văn Ngữ
12
卜 筮 問 答 (Bốc phệ vấn đáp) 35 38
圖 書 後 論 (Đồ thư hậu luận) 38 43
天 地 難 論 (Thiên địa nan luận) 43 61
龜 馬 考 論 (Quy mã khảo luận) 61 66
說 文 小 引 (Thuyết văn tiểu dẫn) 66 67
易 爻 鎖 說 (Dịch hào tỏa thuyết) 67 69
存 疑 并 序 (Tồn nghi tính tự) 69 81
解 疑 略 論 (Giải nghi lược luận) 81 85
卜 筮 改 法 (Bốc phệ cải pháp) 85 86
辨 惑 淺 論 (Biện hoặc thiển luận) 86 94
水 朝 新 演 (Thủy triều tân diễn) 94 104
附 錄 續 釋 文 王 彖 文 序 (Phụ lục tục
thích Văn Vương Thoán văn tự)
105 107
附 錄 上 下 卦 名 詩
(Phụ lục thượng hạ quái danh thi)
108 108
周
周
周
周 易
易
易
易 究
究
究
究 原
原
原
原 上
上
上
上 經
經
經
經
(Chu Dịch cứu nguyên thượng kinh)
108 139
(hết tập thượng)
周
周
周
周 易
易
易
易 究
究
究
究 原
原
原
原 卷
卷
卷
卷 下
下
下
下
(Chu Dịch cứu nguyên quyển hạ)
01 138 (tập hạ)
附 錄 干 支 演 義
(Phụ lục can chi diễn nghĩa)
138 141
* Chú thích: số trang trên được căn cứ theo cách đánh số tờ bằng chữ
Hán có sẵn ở văn bản, trong đó mỗi tờ gồm 2 trang.
Mai Thu Quỳnh. Chu Dịch cứu nguyên – Phong cách kinh học và tư tưởng
của Lê Văn Ngữ
13
Nhìn vào bảng kê mục lục trên đây chúng ta sẽ dễ dàng nhận thấy bố cục
của cuốn sách như sau: mở đầu sách là mấy trang giải thích về những sơ đồ,
biểu đồ của Chu Dịch; rồi đến bài tựa cho sách Chu Dịch cứu nguyên (周 易 究
原); sau bài tựa là 16 mục luận bàn về nguồn gốc vạn vật, Hà đồ Lạc thư, đạo
Dịch, Dịch hào, bốc phệ,...; tiếp đó là phần chính văn của cuốn sách gồm phần
một và phần hai của kinh1
Chu Dịch cứu nguyên. Bố cục sách và tên các mục
trong sách như vậy đã cho chúng ta thấy rằng phần chính của cuốn sách này là
kinh Chu Dịch cứu nguyên (gồm thượng kinh và hạ kinh, tổng cộng dung lượng
là 85 tờ), còn 16 mục trước thượng và hạ kinh là các phần luận bàn, phát triển,
tìm về nguyên nhân và nguồn gốc các chủ đề liên quan đến Chu Dịch; những
bài đó cũng được viết với mục đích “cứu nguyên” và như vậy thì có thể nói
rằng: 16 mục kia là phần phụ trợ cho Chu Dịch cứu nguyên thượng kinh và Chu
Dịch cứu nguyên hạ kinh. Điều này đồng nghĩa với kết luận: cấu trúc và tên các
đề mục trong sách đã chứng tỏ rằng cuốn sách này mang tên Chu Dịch cứu
nguyên. Hơn nữa, nét chữ, giọng văn, cách tư duy, quan điểm về Dịch học và
các vấn đề liên quan ở các bài luận và ở phần chính văn đều giống nhau nên
bước đầu chúng tôi cũng khẳng định rằng tất cả các mục viết bằng chữ Hán
trong sách này đều do một người làm ra. (Để đi sâu tìm dẫn chứng và chứng
minh cho sự giống nhau này là một việc làm phức tạp mà một luận văn Cao học
không cho phép, vì thế nên ở đây chúng tôi xin tạm khẳng định mà chưa đưa ra
dẫn chứng và lập luận cụ thể).
Tiếp tục đi vào nghiên cứu nội tại văn bản tác phẩm, chúng tôi thấy:
Thứ nhất, mục Chu Dịch cứu nguyên tự (周 易 究 原 序 – lời tựa sách
Chu Dịch cứu nguyên) có ghi: ...Sự mờ tối chìm đắm ấy kéo dài đến nay và
kinh Dịch không được thuyết giảng nữa. Thật đáng buồn và đáng tiếc thay! Kẻ
sĩ này sinh ra sau hàng ngàn năm nên chứng kiến sự tăm tối đã bao lâu của
1
Ở đây chúng tôi gọi theo tác giả, bởi tên của hai mục chính trong sách là Chu Dịch cứu nguyên thượng kinh
và Chu Dịch cứu nguyên hạ kinh.
Mai Thu Quỳnh. Chu Dịch cứu nguyên – Phong cách kinh học và tư tưởng
của Lê Văn Ngữ
14
đạo Dịch, lo sợ những mầm mống tà thuyết ngày càng mọc lên mạnh, nên đã
lắng lòng, chú tâm vào Dịch học... Do đó mà tôi viết lời tựa này và trình bày
thành sách để thức tỉnh những người có tâm với việc học Dịch ở đời sau1
.
“Kẻ sĩ này” tức là người viết bài tựa. Người ấy đã dốc sức học Dịch và
viết ra cuốn sách này, chứng tỏ rằng tác giả viết sách cũng đồng thời là người
viết bài tựa này và bài tựa này là viết cho văn bản có đính kèm nó. Mà bài tựa
lại tên là Chu Dịch cứu nguyên tự nên từ đây có thể khẳng định: tên của sách
này là Chu Dịch cứu nguyên.
Thứ hai, ở cuối mục Chu Dịch cứu nguyên tự này còn ghi:
啟 定 元 年 歲 次 丙 辰 拾 月 上 浣 越 南 國 春 長 府 萬 祿 社 狂士 姓
黎 名 敔 字 應 和 謹 序 (Khải Định nguyên niên tuế thứ Bính Thìn thập
nguyệt thượng hoán Việt Nam quốc Xuân Trường phủ Vạn Lộc xã cuồng sĩ
tính Lê danh Ngữ tự Ứng Hòa cẩn tự - Cuồng sĩ họ Lê tên Ngữ tự là Ứng Hòa
người xã Vạn Lộc phủ Xuân Trường nước Việt Nam kính cẩn ghi lời tựa).
Đến đây thì chúng ta đã thấy rõ ràng rằng: Cuồng sĩ Lê Văn Ngữ tự là
Ứng Hòa người xã Vạn Lộc phủ Xuân Trường (Nam Định) đã viết bài tựa trên
cho cuốn sách của chính mình và cuốn sách mang tên Chu Dịch cứu nguyên
(như đầu đề bài tựa đã cho thấy) chính là cuốn sách chúng ta đang khảo sát; tức
là cuốn sách chúng tôi đang khảo sát - sách Chu Dịch cứu nguyên - chính là tác
phẩm của người được nhận bức thư tiếng Pháp nói trên. Mà tên gọi của cuốn
sách này đã nói lên rằng nó là sách Nho học. Vậy sách này rất có thể là một
trong những sách đã được tác giả gửi cho Thống sứ Bắc kỳ.
Nhận định trên còn được củng cố bởi những dẫn chứng như:
Kẻ sĩ tôi... từ lúc tuổi 30 đến nay đã dốc hết tinh lực vào nghiên cứu
(Dịch),... đến nay đã 57 tuổi mới bắt đầu có thể luộm thuộm làm thành sách
này. (Chu Dịch cứu nguyên mục Tồn nghi tịnh tự, trang 71, 72)
1
Xin xem chữ Hán trong phần phụ lục đặt cuối luận văn.
Mai Thu Quỳnh. Chu Dịch cứu nguyên – Phong cách kinh học và tư tưởng
của Lê Văn Ngữ
15
“...từ năm 30 tuổi đến nay luôn lắng lòng khảo cứu, đến khi ngoài 50 tuổi
thì việc trước tiên là giải thích kinh Dịch nên làm sách Cứu nguyên,...” (Chu
Dịch cứu nguyên mục Phụ lục tục thích Văn Vương Thoán văn tự, trang 107)
Cuốn Chu Dịch cứu nguyên này được Lê Văn Ngữ viết khi ông 57 tuổi,
đó là năm nào? Theo số liệu chúng tôi thu thập được từ hậu duệ của Lê Văn
Ngữ thì ông sinh năm 18601
. Từ đó suy ra, cuốn sách Chu Dịch cứu nguyên
chúng ta đang xét đã chào đời năm 1917. Điều này hoàn toàn phù hợp với giới
hạn về thời điểm sống của tác giả và thời điểm ra đời của tác phẩm mà chúng
tôi đã ước lượng ở trên. Quay trở lại vấn đề Chu Dịch cứu nguyên có nằm trong
số sách tác giả Lê Văn Ngữ đã gửi Thống sứ Bắc kỳ không. Đến đây chúng ta
đã biết rằng Chu Dịch cứu nguyên ra đời năm 1917, mà Lê Văn Ngữ gửi thư và
sách “nho” cho Thống sứ Bắc kỳ năm 1928. Vậy chắc hẳn Chu Dịch cứu
nguyên phải có mặt trong số sách Lê Văn Ngữ gửi Thống sứ Bắc kỳ.
Theo tác giả gợi ý ở mục Phụ lục tục thích Văn Vương Thoán văn tự,
trang 107 của văn bản rằng: “đến khi ngoài 50 tuổi thì việc trước tiên là giải
thích kinh Dịch nên làm sách Cứu nguyên, tiếp đó là giải thích Trung dung nên
làm sách Thuyết ước. Khảo sát trong đó thì những điểm then chốt trong sự hòa
hợp giữa trời và người không gì không được tiếp nối từ tính sáng rõ của Dịch
tượng, thế nên tôi bèn lấy Dịch để khảo sát y học rồi lại làm thành sách Y học
toản yếu để làm sáng tỏ sự thống nhất về lý của trời và người. Tiếp đó tôi lại
đọc kĩ hai sách là Luận ngữ và Đại học rồi viết nên hai sách Tiết yếu và Tích
nghĩa” thì ngoài Chu Dịch cứu nguyên ông còn lần lượt viết các sách: Trung
dung thuyết ước (中 庸 說 約), Y học toản yếu (醫 學 纘 要), Luận ngữ tiết yếu
(論 語 節 要), Đại học tích nghĩa (大 學 晰 義 ). Chúng tôi đã tìm trong thư
viện của viện Nghiên cứu Hán Nôm và rất may là đã thấy và đọc được cả 5
cuốn sách đó cùng 02 cuốn khác cũng là của tác giả Lê Văn Ngữ mang tên Lễ
kinh chủ nhân (禮 經 主 仁) và Phụ tra tiểu thuyết (附 槎 小 說). Đầu sách
1
Xem thêm ở mục 2. Tác giả Lê Văn Ngữ. ở sau mục này.
Mai Thu Quỳnh. Chu Dịch cứu nguyên – Phong cách kinh học và tư tưởng
của Lê Văn Ngữ
16
Trung dung thuyết ước có chép 03 bức thư, một bức gửi Phụ chính đại thần họ
Tôn Thất, một bức gửi quan Thống sứ Bắc kì và một bức gửi Thượng Hải
quảng học hội (上 海 廣 學 會), 03 bức thư này cũng được chép lại ở sách “Đại
học tích nghĩa”. Bức thứ nhất (gửi quan Phụ chính họ Tôn Thất) đề tháng 12
năm Bảo Đại thứ hai (tức tháng 12 năm 1927), người viết là Cuồng Sĩ Lê Văn
Ngữ ở xã Vạn Lộc huyện Giao Thủy phủ Xuân Trường tỉnh Nam Định; bức thư
thứ hai và thứ ba không đề ngày tháng. Đọc bức thư thứ hai trong Trung dung
thuyết ước và Đại học tích nghĩa, tức là bức thư gửi quan Thống sứ Bắc kỳ,
chúng tôi thấy: thứ nhất, thư mở đầu với dòng chữ: Tôi Lê Văn Ngữ, tên bộ là
Trí, ở làng Vạn Lộc tổng Trà Lũ phủ Xuân Trường làm thư này kính tiến lên
quan Bắc kỳ Thống sứ đại thần đại nhân các hạ xin... chứng tỏ tác giả bức thư
này là Lê Văn Ngữ; thứ hai, nó đặt ra những yêu cầu mà bức thư của Thống sứ
Bắc kỳ gửi Lê Văn Ngữ (chép ở đầu sách Chu Dịch cứu nguyên) đã nhắc đến
và giải đáp. Từ bằng chứng về tên người viết cùng người nhận và từ tính chất
liền mạch trong hỏi đáp như vậy chúng tôi khẳng định rằng bức thư chép ở đầu
sách Chu Dịch cứu nguyên chính là hồi âm của bức thư mà người viết là Lê
Văn Ngữ đã chép lại nó trong tác phẩm của mình là Trung dung thuyết ước và
Đại học tích nghĩa.
Ngoài ra ở sách Luận ngữ tiết yếu cũng chép 01 bức thư gửi Tòa Bác cổ
(tức viện Viễn Đông bác cổ hồi đó). Bức thư này cũng không đề ngày tháng,
nhưng căn cứ vào nội dung thư chúng tôi biết rằng nó ra đời sau 03 bức thư kể
trên và sau cả bức thư mà Thống Sứ Bắc kỳ gửi tác giả được chép ở đầu sách
Chu Dịch cứu nguyên1
; và những tập sách đang có mặt ở Thư viện của Viện
nghiên cứu Hán Nôm có lẽ chính là số sách do chính tác giả Lê Văn Ngữ đã
gửi kèm theo bức thư cho Tòa Bác cổ được chép ở sách Luận ngữ tiết yếu.
Như vậy là hầu hết các tác phẩm của Lê Văn Ngữ đều có chép những
bức thư của ông gửi đi nhằm thuyết phục chính quyền đương thời chấn hưng
1
Xin xem nội dung các bức thư ở phần phụ lục II.
Mai Thu Quỳnh. Chu Dịch cứu nguyên – Phong cách kinh học và tư tưởng
của Lê Văn Ngữ
17
Nho học. Trong đó bức thư nọ liên quan đến bức thư kia và tác phẩm này lại có
đề cập đến tác phẩm khác. Vả lại, những bức thư được viết bằng chữ Hán và
chữ Nôm với nét chữ rất giống phần chính văn của các sách. Đặc điểm này
khiến chúng tôi thêm một lần nữa khẳng định chắc chắn rằng chúng cùng do
một người viết. Vậy thì bức thư chữ Pháp và bản dịch của nó sang chữ quốc
ngữ ở đầu sách Chu Dịch cứu nguyên cũng do người viết Chu Dịch cứu nguyên
và 6 tác phẩm cùng 4 bức thư của Lê Văn Ngữ viết lại.
Trong bức thư gửi tòa Bác cổ tác giả nói: đã làm được 05 bộ sách gồm
07 quyển và ông đã gửi 05 bộ sách ấy cho quan Phụ chính họ Tôn Thất, cho hội
Quảng học ở Thượng Hải, cho Thống sứ Bắc kỳ. Mà 05 bộ sách được kể đến
trong thư gửi quan Phụ chính họ Tôn Thất cũng là 05 bộ đã được nhắc đến ở
mục Phụ lục tục thích Văn Vương Thoán văn tự của Chu Dịch cứu nguyên
(gồm Chu Dịch cứu nguyên, Trung dung thuyết ước, Y học toản yếu, Luận ngữ
tiết yếu, Đại học tích nghĩa). Còn hai sách khác là Lễ kinh chủ nhân và Phụ tra
tiểu thuyết thì không thấy đả động gì. Tại sao thế?
Phụ tra tiểu thuyết là tập hợp các bài viết về chuyến Lê Văn Ngữ phụ tá
Từ Đạm1
đi sứ sang Pháp, lịch trình chuyến đi, những điều tác giả thấy, những
điều tác giả muốn luận bàn, thư của tác giả thay mặt Từ Đạm viết gửi triều
đình,... Trong sách này tác giả đã kể rằng mình cùng sứ đoàn đi Pháp từ ngày
12 tháng 4 năm Thành Thái 12 (1900)2
đến ngày 07 tháng 8 năm Thành Thái
12 (1900) thì về đến Hải Phòng. Cuối sách này còn chép bài Phụ lục tại hành
vấn đáp (附 錄 在 行 問 答) viết năm Thành Thái 17 (1905). Từ đó suy ra sách
này ra đời trong khoảng từ 1900 đến 1905, tức là được viết trước các cuốn Chu
Dịch cứu nguyên, Trung dung thuyết ước, Y học toản yếu, Luận ngữ tiết yếu,
1
Từ Đạm: hiệu Cúc Nhân, người làng Khê Hồi, huyện Thường Tín, nay thuộc Hà Tây. Năm Thành Thái Ất
Mùi (1895)được 34 tuổi, Từ Đạm đậu tiến sĩ, sau làm quan đến Tổng đốc. Khi làm quan đã có lần đi phái bộ
sang Pháp. Tác phẩm có: Lãm Tây kỉ lược (sử), A.272.
2
Nếu tính năm Thành Thái thứ nhất là 1889 như các bảng tra niên hiệu các triều đại đang lưu hành thì năm
Thành Thái 12 phải là năm 1901, nhưng trong văn bản tác giả lại chú thích là Tây lịch năm 1900. Ở đây chúng
tôi ghi theo tác giả.
Mai Thu Quỳnh. Chu Dịch cứu nguyên – Phong cách kinh học và tư tưởng
của Lê Văn Ngữ
18
Đại học tích nghĩa (Điều này cũng có nghĩa là các tác phẩm chú giải Nho điển
và Đông y kia được viết sau khi tác giả đã đi Pháp, đã tận mắt nhìn ngắm và
tiếp xúc với đời sống văn minh Tây phương đương thời). Có lẽ bởi tính chất là
cuốn nhật kí của một chuyến đi nên tác phẩm Phụ tra tiểu thuyết đã không
được kể đến trong danh mục các tác phẩm được tác giả viết và gửi đi nhằm
khẳng định tên tuổi của mình và trấn hưng Nho học. Ở đây xin chỉnh lý một
chút về những ghi chép trong phụ lục cuối sách Phụ tra tiểu thuyết. Trong Phụ
lục tại hành vấn đáp tác giả Lê Văn Ngữ viết: 不 才 於 一 千 九 百 年 曾 從
泰 省 督 學 徐 尊 官 (Bất tài ư nhất thiên cửu bách niên tằng tòng Thái tỉnh
Đốc học Từ tôn quan – Kẻ bất tài tôi từng theo quan Đốc học Thái Nguyên [đi
sang Pháp] vào năm 1900). Nhưng theo ghi chép của chính Từ Đạm trong cuốn
Lãm Tây kỉ lược (覽 西 紀 略) mục Lãm Tây kỉ trình (覽 西 紀 程) (nằm ở cuối
sách) thì khi đó ông giữ chức Tri phủ Xuân Trường (淡 辰 奉 職 春 長 府 知
府 – Đạm thời phụng chức Xuân Trường phủ Tri phủ: Đạm tôi lúc đó vâng
nhận chức Tri phủ Xuân Trường). Chúng ta nên theo Từ Đạm để đính chính lại
thông tin rằng: khi Lê Văn Ngữ phụ tá Từ Đạm đi sứ sang Pháp thì Từ Đạm
đang giữ chức Tri phủ Xuân Trương chứ không phải là giữ chức Đốc học tỉnh
Thái Nguyên như Lê Văn Ngữ đã kể ở sách Phụ tra tiểu thuyết mục Phụ lục tại
hành vấn đáp.
Còn về sách Lễ kinh chủ nhân, giở lại những trang đầu của bộ Lễ kinh
chủ nhân chúng tôi thấy có một bài tựa dài 3 trang mang tên “禮 經 主 仁 序”
(Lễ kinh chủ nhân tự - bài tựa sách Lễ kinh chủ nhân) được viết vào trung tuần
tháng 11 năm Bảo Đại thứ 3 Mậu Thìn (1928) bởi Cuồng Sĩ Lê Ngữ tên tự là
Ứng Hòa người ở Vạn Lộc, Xuân Trường, Nam Định nước Đại Nam. Sau khi
đọc bài tựa này chúng tôi thấy cần phải nói hai điều: thứ nhất là tên đầy đủ của
cuốn sách này là Lễ kinh chủ nhân (禮經主仁) chứ không phải là Lễ kinh (禮經)
như sách Tên tự tên hiệu các tác gia Hán Nôm Việt Nam của tác giả Trịnh Khắc
Mai Thu Quỳnh. Chu Dịch cứu nguyên – Phong cách kinh học và tư tưởng
của Lê Văn Ngữ
19
Mạnh hoặc danh mục sách phục vụ độc giả của viện Nghiên cứu Hán Nôm đã
viết; thứ hai là sách được làm gần một năm sau ngày ông Lê Văn Ngữ gửi thư
và sách cho quan Phụ chính họ Tôn Thất, Thống sứ Bắc kỳ cũng như sau khi
ông Lê Văn Ngữ gửi thư và sách cho Tòa Bác cổ. Bởi được hoàn thành sau khi
tác giả Lê Văn Ngữ viết thư gửi Tòa Bác cổ nên đương nhiên là tác phẩm này
không được nhắc đến trong bức thư đó. Nhưng bằng một cơ duyên nào đó, Lễ
kinh chủ nhân cùng Phụ tra tiểu thuyết của tác giả Lê Văn Ngữ cũng đã có mặt
ở Thư viện viện Nghiên cứu Hán Nôm.
Đến đây chúng ta có thể hình dung ra quá trình Lê Văn Ngữ làm sách
như sau: 40 tuổi (1900) Lê Văn Ngữ đi sứ Pháp rồi về viết cuốn Phụ tra tiểu
thuyết, 17 năm sau ( 1917) ông viết Chu Dịch cứu nguyên, sau đó mới viết
Luận ngữ tiết yếu, Đại học tích nghĩa, Trung dung thuyết ước và Y học toản
yếu, bốn sách này được làm xong trước tháng 12 năm 1927, trong vòng một
năm sau đó (từ tháng 12 năm 1927 đến tháng 11 năm 1928) ông Lê Văn Ngữ
gửi thư kèm các sách này tới triều đình Huế, Thượng Hải quảng học hội, Thống
sứ Bắc kì. Trong số đó, thư gửi Thống sứ Bắc kì đã được trả lời, nhưng chưa
hài lòng với câu trả lời của Thống sứ Bắc kỳ, tác giả lại gửi thư và các sách đó
cho Tòa Bác cổ. Cùng trong năm đó (1928) ông viết thêm sách Lễ kinh chủ
nhân.
Như vậy, văn bản chúng tôi đang khảo cứu đã được khẳng định là tác
phẩm Chu Dịch cứu nguyên của tác giả Lê Văn Ngữ hay Lê Ngữ - người tự gọi
mình là Cuồng sĩ, lấy tên tự là Ứng Hòa, ở làng Vạn Lộc tổng Trà Lũ phủ Xuân
Trường Nam Định. Ngoài tác phẩm Chu Dịch cứu nguyên mà chúng tôi đang
khảo cứu, Lê Văn Ngữ còn viết 06 cuốn sách đã nói trên. Nhưng Lê Văn Ngữ
là ai?
2. TÁC GIẢ LÊ VĂN NGỮ (1860 – 1934):
Mai Thu Quỳnh. Chu Dịch cứu nguyên – Phong cách kinh học và tư tưởng
của Lê Văn Ngữ
20
Ở sách Tên tự tên hiệu các tác gia Hán Nôm Việt Nam của tác giả Trịnh
Khắc Mạnh thấy ghi nguyên văn như sau:
120. Cuồng Sĩ (狂 士 ):
Tên hiệu của Lê Văn Ngữ, ông tự là Ứng Hòa, người xã Vạn Lộc huyện
Giao Thủy, tỉnh Nam Định.
Về thân thế và sự nghiệp của Lê Văn Ngữ hiện chưa rõ, được biết ông
sống vào khoảng cuối thế kỉ XIX và đầu thế kỉ XX.
Tác phẩm:
Chu Dịch cứu nguyên.
Đại học tích nghĩa.
Lễ kinh.
Luận ngữ tiết yếu.
Phụ tra tiểu thuyết.
Trung dung thuyết ước.
Y học toản yếu.
...
960. Ứng Hòa(應和):
Tên tự của Lê Văn Ngữ (? - ?), ông hiệu là Cuồng Sĩ, người xã Vạn Lộc
huyện Giao Thủy tỉnh Nam Định.
Xem Cuồng Sĩ, số 120.
961. Ứng Hòa:
Tên tự của Lê Ngữ (? - ?) quê ở đâu chưa rõ.
Về thân thế và sự nghiệp của Lê Ngữ hiện chưa rõ.
Tác phẩm: biên tập sách Lễ kinh (禮
禮
禮
禮 經
經
經
經)
Như vậy, cuốn sách trên cho rằng:
Thứ nhất: Cuồng Sĩ là tên hiệu và Ứng Hòa là tên tự của Lê Văn Ngữ
người xã Vạn Lộc huyện Giao Thủy, Nam Định, thân thế và sự nghiệp của ông
này chưa rõ, chỉ biết ông có 07 tác phẩm là Chu Dịch cứu nguyên, Đại học tích
Mai Thu Quỳnh. Chu Dịch cứu nguyên – Phong cách kinh học và tư tưởng
của Lê Văn Ngữ
21
nghĩa, Lễ kinh, Luận ngữ tiết yếu, Phụ tra tiểu thuyết, Trung dung thuyết ước, Y
học toản yếu.
Thứ hai: có một ông Lê Ngữ khác cũng có tên tự là Ứng Hòa mà thân thế,
sự nghiệp và cả quê quán ở đâu cũng chưa rõ, chỉ biết ông có biên tập sách Lễ
kinh.
Còn sách Lược truyện các tác gia Việt Nam (NXB. Khoa học xã hội –
1972) của Nguyễn Văn Phú và Tạ Phong Châu thì không thấy nhắc đến tác gia
nào có tên là Ứng Hòa, Cuồng Sĩ hay Lê Văn Ngữ hoặc Lê Ngữ.
Có một điều xin lưu ý ngay ở đây là vì tác giả đã lấy hai tên để ghi trong
các sách của mình nên Tên tự tên hiệu các tác gia Hán Nôm Việt Nam đã nhầm
lẫn. Tình hình cụ thể như sau:
Sách Phụ tra tiểu thuyết có bài Tự tự (自序) ở đầu, trong bài tự đó tác
giả viết: 南 春 萬 亭 懶 士 黎 子 文 敔 字 應 和 謹 序 (Nam Xuân Vạn Đình
Lãn Sĩ Lê tử Văn Ngữ tự Ứng Hòa cẩn tự - Lãn Sĩ Lê Văn Ngữ tự là Ứng Hòa
người Đình ... xã Vạn Lộc phủ Xuân Trường tỉnh Nam Định).
Ở cuối mục Chu Dịch cứu nguyên tự của sách Chu Dịch cứu nguyên tác
giả ghi: 越 南 國 春 長 府 萬 祿 社 狂 士 姓 黎 名 敔 字 應 和 謹 序(Việt
Nam quốc Xuân Trường phủ Vạn Lộc xã Cuồng Sĩ tính Lê danh Ngữ tự Ứng
Hòa cẩn tự - Cuồng Sĩ Lê Ngữ tự là Ứng Hòa người xã Vạn Lộc phủ Xuân
Trường nước Việt Nam viết tự). Tức là ở đây tác giả lại lấy tên mình là Lê Ngữ
và hiệu là Cuồng Sĩ chứ không phải là tên Lê Văn Ngữ và hiệu là Lãn Sĩ như ở
sách Phụ tra tiểu thuyết được viết trước đó nữa.
Bài tựa đầu sách Trung dung thuyết ước thì viết rằng: ...(... – Cuồng Sĩ
Lê Văn Ngữ tự Ứng Hòa người làng Vạn Lộc tổng Trà Lũ phủ Xuân Trường
tỉnh Nam Định nước Việt Nam viết). Như vậy là ở sách này tác giả lại viết tên
mình giống như ở sách Phụ tra tiểu thuyết nhưng tự của mình lại giống như ở
sách Chu Dịch cứu nguyên.
Mai Thu Quỳnh. Chu Dịch cứu nguyên – Phong cách kinh học và tư tưởng
của Lê Văn Ngữ
22
Trong sách Y học toản yếu, mục Y học toản yếu tự (醫學纘要序), tác giả
viết tên mình là: 大 南 國 南 定 省 春 長 府 萬 祿 社 狂 士 黎 氏 文 敔 字 應
和 謹 序(Đại Nam quốc Nam Định tỉnh Xuân Trường phủ Vạn Lộc xã Cuồng
Sĩ Lê thị Văn Ngữ tự Ứng Hòa cẩn tự - Cuồng Sĩ Lê Văn Ngữ tự là Ứng Hòa
người xã Vạn Lộc phủ Xuân Trường tỉnh Nam Định nước Đại Nam viết tựa).
Cách ghi tên này giống cách ghi ở sách Trung dung thuyết ước.
Ở sách Luận ngữ tiết yếu, mục Luận ngữ tiết yếu tự ghi: 大 南 國 南 定
省 春 長 府 膠 水 縣 萬 祿 社 狂 士 姓 黎 名 文 敔 字 應 和 謹 序(Đại Nam
quốc Nam Định tỉnh Xuân Trường phủ Giao Thủy huyện Vạn Lộc xã Cuồng Sĩ
tính Lê danh Văn Ngữ tự Ứng Hòa cẩn tự - Cuồng Sĩ Lê Văn Ngữ tự Ứng Hòa
người xã Vạn Lộc huyện Giao Thủy phủ Xuân Trường tỉnh Nam Định nước
Đại Nam viết tựa). Cách xưng danh này giống như cách xưng danh ở sách
Trung dung thuyết ước và Y học toản yếu.
Tên tác giả ở cuối mục Đại học tích nghĩa tự (大學晰義序) của sách Đại
học tích nghĩa thì được ghi là: 大 南 國 南 定 省 春 長 府 膠 水 縣 萬 祿 社
狂 士 姓 黎 名 文 敔 字 應 和 謹 序(Đại Nam quốc Nam Định tỉnh Xuân
Trường phủ Giao Thủy huyện Vạn Lộc xã Cuồng Sĩ tính Lê danh Văn Ngữ tự
Ứng Hòa cẩn tự - Cuồng Sĩ Lê Văn Ngữ tự là Ứng Hòa người xã Vạn Lộc
huyện Giao Thủy phủ Xuân Trường tỉnh Nam Định nước Đại Nam viết tựa).
Tác giả ghi tên mình ở đây giống như ở sách Trung dung thuyết ước nhưng quê
quán lại có bổ sung thêm.
Trong bức thư gửi quan Phụ chính họ Tôn Thất, tên tác giả được ghi là:
南 定 省 春 長 府 膠 水 縣 萬 祿 社 狂 士 黎 文 敔(Nam Định tỉnh Xuân
Trường phủ Giao Thủy huyện Vạn Lộc xã Cuồng Sĩ Lê Văn Ngữ - Cuồng Sĩ
Lê Văn Ngữ người xã Vạn Lộc huyện Giao Thủy phủ Xuân Trường tỉnh Nam
Định). Tác giả đã ghi tên mình giống như trong Trung dung thuyết ước và Đại
học tích nghĩa nhưng thiếu tên tự.
Mai Thu Quỳnh. Chu Dịch cứu nguyên – Phong cách kinh học và tư tưởng
của Lê Văn Ngữ
23
Trong bức thư gửi Thống sứ Bắc kỳ tác giả lại xưng danh bằng chữ Nôm
như sau: Tôi Lê Văn Ngữ tên bộ là Trí ở làng Vạn Lộc tổng Trà Lũ phủ Xuân
Trường. Ở đây tác giả chỉ viết tên là Lê Văn Ngữ mà không viết tự và hiệu.
Như vậy, trong hầu hết các tác phẩm đã kể trên tác giả đều ghi tên mình
là Lê Văn Ngữ (黎文敔) với tự là Ứng Hòa (應和) và hiệu là Cuồng Sĩ (狂士),
riêng ở Chu Dịch cứu nguyên tác giả ghi tên mình là Lê Ngữ (黎 敔) và ở Phụ
tra tiểu thuyết tác giả lấy hiệu là Lãn Sĩ (懶 士). Điều này có nghĩa là Lê Văn
Ngữ hay Lê Ngữ thì cũng là một người mà thôi.
Vả lại, để có thêm căn cứ giúp khẳng định Lê Văn Ngữ và Lê Ngữ cùng
là một người, chúng tôi đã tìm trong danh mục các sách của Thư viện viện
Nghiên cứu Hán Nôm và thấy chỉ có một sách có tên trong danh mục phục vụ
là Lễ kinh, kí hiệu thư viện là A.2606. Ở cuối mục Lễ kinh chủ nhân tự của
cuốn sách Lễ kinh1
này có ghi: 大 南 國 南 定 春 長 萬 溪 狂 士 黎 敔 字 應
和 謹 序(Đại Nam quốc Nam Định Xuân Trường Vạn Khê Cuồng Sĩ Lê Ngữ
tự Ứng Hòa cẩn tự - Cuồng Sĩ Lê Ngữ tự là Ứng Hòa người ở Vạn Khê, Xuân
Trường, Nam Định viết tựa). Như vậy, tác giả của cuốn sách này tên là Lê Ngữ,
mà tên này cũng đã được Lê Văn Ngữ tự xưng trong sách Chu Dịch cứu
nguyên. Vậy nếu thực có hai người là Lê Ngữ và Lê Văn Ngữ như sách Tên tự
tên hiệu các tác gia Hán Nôm Việt Nam nhận định thì tác phẩm Lễ kinh chủ
nhân này là của Lê Ngữ - người chỉ có một tác phẩm biên tập sách Lễ kinh -
chứ không phải là của tác giả Lê Văn Ngữ đã có Chu Dịch cứu nguyên và 06
tác phẩm khác mà chúng tôi đang tìm hiểu. Vậy sách Lễ kinh của tác giả Lê
Văn Ngữ đâu? Trong thư viện hiện không có cuốn Lễ kinh nào khác nữa, có lẽ
nào nó đã bị mất?
Nếu so sánh các thông tin về Lê Ngữ và Lê Văn Ngữ chúng ta sẽ thấy:
chỉ có hai điểm khác giữa hai người này, đó là một người tên Lê Ngữ và một
1
Căn cứ theo đầu đề bài tựa thì tên sách này phải là Lễ kinh chủ nhân.
Mai Thu Quỳnh. Chu Dịch cứu nguyên – Phong cách kinh học và tư tưởng
của Lê Văn Ngữ
24
người tên Lê Văn Ngữ, một người ở Vạn Lộc còn một người ở Vạn Khê.
Nhưng như trên đã khẳng định, Lê Văn Ngữ cũng đã có lúc lấy tên mình là Lê
Ngữ. Còn quê Vạn Khê thì có lẽ là cách gọi khác của Trà Lũ mà thôi, vì theo
người dân địa phương, Trà Lũ là tổng gồm 04 làng: Vạn Lộc, Thọ Vực, Thanh
Trà và Trà Khê, Vạn Khê tức là Vạn Lộc (làng đầu tiên và cũng là làng lớn
nhất) và Trà Khê (làng cuối cùng).
Tiến hành tìm hiểu kĩ hơn về cuốn Lễ kinh chủ nhân chúng tôi thấy: Đây
là một cuốn sách dày 79 tờ, tờ cuối cùng chỉ có một mặt, tổng cộng có 157
trang. Về hình thức, sách được chép tay bằng thể chữ chân, bìa sách, khổ giấy,
cỡ giấy, loại giấy, cách trình bày trang viết và cả nét chữ đều giống như sách
Chu Dịch cứu nguyên chúng tôi đang khảo sát. Về nội dung, sách gồm các mục:
Lễ kinh chủ nhân tự, Khúc lễ thượng, Khúc lễ hạ, Nhạc kí trích lược, Học kí
trích lược, Tu thư, Văn thức, Học pháp, Hôn lễ trích lược, Tang lễ bổ vong, Tế
nghi trích lược, Tang phục trích lược, Thiên quan trích lược, Hương ẩm tửu
trích lược, Quan nghĩa trích lược, Nguyệt lệnh trích lược, Xạ nghĩa trích lục,
Vương chế trích lược, Nho hạnh trích lược, Tạp kí, Xuân thu chủ tín tự, Phụ lục
Bắc sử. Nét chữ và giọng văn của tác phẩm này rất giống với nét chữ và giọng
văn của Chu Dịch cứu nguyên. Xin xem hai trang văn bản dưới đây của hai tác
phẩm để rõ hơn về nhận định của chúng tôi:
Mai Thu Quỳnh. Chu Dịch cứu nguyên – Phong cách kinh học và tư tưởng
của Lê Văn Ngữ
25
Văn bản Lễ kinh chủ nhân, trang 1.
Mai Thu Quỳnh. Chu Dịch cứu nguyên – Phong cách kinh học và tư tưởng
của Lê Văn Ngữ
26
Văn bản Chu Dịch cứu nguyên, trang 17.
Mai Thu Quỳnh. Chu Dịch cứu nguyên – Phong cách kinh học và tư tưởng
của Lê Văn Ngữ
27
Chúng tôi cũng đã tiến hành phân tích những quan điểm thể hiện trong
hai tác phẩm và thấy rất nhiều quan điểm về đạo, về lẽ quyền biến,... của Chu
Dịch cứu nguyên được vận dụng trong Lễ kinh chủ nhân, ví dụ như:
Sách Lễ kinh chủ nhân, mục Lễ kinh chủ nhân tự ghi: Gốc của Lễ là tòng
nghi, mà cái quý của đạo là tùy thời, nên quyền nắm lễ nếu muốn lễ ấy đạt đến
chỗ không có tranh chấp nhưng lại không thể tùy thời để mà thay đổi và không
thể tùy địa để thi nghi thì sao có thể hợp với đạo tối cao là cha con chủ nhân từ
đây?
Quan điểm tùy thời để mà thay đổi đã được Lê Văn Ngữ nhắc đến trong
mục Bốc phệ vấn đáp, sách Chu Dịch cứu nguyên: Nguyên nhân của việc thánh
nhân làm ra Dịch chắc là có gốc ở tứ tượng trong hai nghi, dùng thái cực để
suy ra khí số và đặt ra âm dương, rồi dạy con người tùy thời để mà thay đổi.
Còn có nhiều dẫn chứng tương tự như trên nhưng vì giới hạn của luận
văn và vì mục đích chính của luân văn này không nằm ở đó, nên chúng tôi xin
dừng lại ở đây. Tuy nhiên, dù không thể trình bày chi tiết hơn nữa, những
chứng cứ liên quan đến hình thức cũng như nội dung của tác phẩm đã nói ở trên
cũng đủ điều kiện để chúng tôi nhận định rằng Lễ kinh chủ nhân và Chu Dịch
cứu nguyên cùng do một người viết ra và người đó chính là Lê Văn Ngữ hoặc
Lê Ngữ. Và do đó, chỉ có một tác phẩm Lễ kinh chủ nhân này cùng một tác giả
Lê Văn Ngữ (hoặc Lê Ngữ) người xã Vạn Lộc tổng Trà Lũ phủ Xuân Trường
tỉnh Nam Định thời cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX mà thôi. Do đó, tác giả thứ
960 và tác giả thứ 961 trong sách Tên tự tên hiệu các tác gia Hán Nôm Việt
Nam thực ra chỉ là một.
Chúng tôi cũng đã lần theo địa chỉ mà Lê Văn Ngữ ghi trong các sách
của mình để tìm về tận quê ông. Làng Vạn Lộc của ông nay thuộc xã Xuân
Phong huyện Xuân Trường tỉnh Nam Định, đất đai của gia đình ông hiện đang
nằm ở xóm 12 của xã Xuân Phong. Trước khi tìm được làng Vạn Lộc chúng tôi
đã gặp ông Mai Văn Lý (ở xóm 1 xã Xuân Bắc huyện Xuân Trường) là một
Mai Thu Quỳnh. Chu Dịch cứu nguyên – Phong cách kinh học và tư tưởng
của Lê Văn Ngữ
28
trong những người nhiều tuổi và có học nổi tiếng trong vùng, ông Lý kể rằng
gia đình Lê Văn Ngữ có truyền thống 5 đời dạy học, bản thân Lê Văn Ngữ là
một nhà hào phú, thông gia với Cử nhân - Tri phủ Vân Đình - tên là Trần Trác,
Lê Văn Ngữ thường hay làm phúc và khi các quan trong chính phủ đương thời
về Xuân Trường đều rất nể ông…
Nhờ sự chỉ dẫn của ông Mai Văn Lý cuối cùng chúng tôi cũng tìm được
nhà bác Lê Văn Vượng là cháu đời thứ 3 của Lê Văn Ngữ.
Theo lời kể của bác Lê Văn Vượng (cháu nội đời thứ 3 của Lê Văn Ngữ,
tức là gọi Lê Văn Ngữ là cụ nội) thì Lê Văn Ngữ sinh năm 1860 và mất năm
1934, họ Lê của ông vốn xuất phát từ họ Phạm ở Kiến Xương – Thái Bình, cụ
tổ 4 đời của Lê Văn Ngữ lấy con gái họ Lê ở Vạn Lộc và sinh sống ở Vạn Lộc
nên đã đổi sang họ Lê và họ Lê này ở Vạn Lộc đến nay đã được 13 đời. Mẹ Lê
Văn Ngữ là một người Công giáo sống thọ đến 94 tuổi, đến cuối đời Lê Văn
Ngữ cũng theo Kitô giáo. Ông đã từng được theo đoàn đi sứ của triều đình nhà
Nguyễn sang Pháp, cũng từng tiếp đón các văn thân của phong trào Duy Tân ở
nhà của mình và giúp đỡ tiền của nhưng không theo. Về sau, ông có gửi sách
cho triều đình Huế, triều đình nhận và tặng ông tước Cửu phẩm văn giai cùng
một đồng tiền vàng, từ đó mọi người thường gọi ông là cụ Cửu Ngữ. Ông đã
cưới 3 người vợ, sinh được 8 con trai và 5 con gái1
.
Như vậy, có thể tạm thời kết luận rằng: Lê Văn Ngữ (1860 – 1934)2
là
một trí thức Nho học nổi tiếng trong vùng, ông sinh ra, lớn lên và sống gần như
trọn cuộc đời mình ở làng Vạn Lộc tổng Trà Lũ phủ Xuân Trường tỉnh Nam
Định (nay là xóm 12 xã Xuân Phong huyện Xuân Trường tỉnh Nam Định).
Năm 40 tuổi ông được phụ tá Đệ tam giáp tiến sĩ Từ Đạm đi sứ sang Pháp và
đến cuối đời thì trở thành một người Công giáo. Ông vốn là một Nho sĩ có tấm
1
Xin mời xem thêm ảnh về hậu duệ và làng quê ông ở phần ảnh tư liệu.
2
Theo Ngô Vĩ Minh (bài đã dẫn) thì Lê Văn Ngữ sinh năm 1859; và theo Lí Chước (Trác) Nhiên, Việt Nam
Cuồng Sĩ Lê Văn Ngữ Đại học tích nghĩa đối Đại học đích thuyên thích, Hội nghị Nho học Đông Á năm 2005,
tại Đài Loan thì Lê Văn Ngữ mất năm 1935. Ở đây chúng tôi theo ý kiến của hậu duệ Lê Văn Ngữ.
Mai Thu Quỳnh. Chu Dịch cứu nguyên – Phong cách kinh học và tư tưởng
của Lê Văn Ngữ
29
lòng nhân bản, sớm tiếp xúc với tri thức và những tư tưởng mới của phương
Tây đương thời, có đầu óc cách tân và cũng luôn ấp ủ lí tưởng tiên ưu và trị
bình của nhà Nho. Mặc dù về cuối đời ông theo Kitô giáo nhưng những tác
phẩm được viết từ thuở trung niên của ông vẫn là những tác phẩm thuộc hệ
thống thư tịch của Nho gia và thấm đượm tinh thần của nhà Nho buổi giao thời.
Mai Thu Quỳnh. Chu Dịch cứu nguyên – Phong cách kinh học và tư tưởng
của Lê Văn Ngữ
30
CHƯƠNG II: LÊ VĂN NGỮ VỚI CHU DỊCH
CỨU NGUYÊN
1.DIỆN MẠO DỊCH HỌC VIỆT NAM:
Chu Dịch là cuốn sách như thế nào, đã du nhập vào Việt Nam từ bao giờ,
diện mạo của nó ra sao? Đây là những câu hỏi không hề đơn giản nhưng cần
được chúng ta trả lời để thấy rõ giá trị của tác phẩm Chu Dịch cứu nguyên và
để góp phần tìm hiểu kinh điển Nho giáo ở Việt Nam. Bởi là vấn đề hẹp, lại
hầu như chưa có thành tựu nghiên cứu nào đáng kể và còn rất ít tư liệu có thể
sử dụng để chứng minh, nên trong luận văn này chúng tôi không tham vọng sẽ
dựng lại được một chân dung lịch sử về Dịch học ở Việt Nam mà có thể thỏa
mãn mọi thắc mắc để đi đến quyết nghi, nhưng hi vọng đây sẽ là một viên gạch
góp phần xây dựng nền móng lịch sử Dịch học và Nho học ở Việt Nam.
1.1 TỔNG QUAN VỀ CHU DỊCH:
Chu Dịch là bộ sách quan trọng của Nho gia, đã xuất hiện từ lâu nhưng
đến đầu đời Hán được xếp cùng hàng với Thi (詩), Thư (書), Lễ (禮), Xuân Thu
(春秋) và gọi gộp là Ngũ kinh1
. Kinh là phần sách ghi lời lẽ lập luận quan trọng
nhất của một tôn giáo và Ngũ kinh tức là năm bộ sách cơ bản nhất của Nho giáo,
cùng với Tứ thư thì Ngũ kinh là những sách thể hiện trọn vẹn quan điểm về
nhân sinh, vũ trụ, lí tưởng của đạo Nho. Ở đó người đọc có thể thấy được nội
dung của khái niệm “đạo”, mục đích tu đạo, cách thức để đạt đạo. Trong số ngũ
kinh, Dịch kinh lại được sách Hán thư.Nghệ văn chí (漢書.藝文誌) suy tôn là
quần kinh chi thủ (đứng đầu các kinh). Nói như vậy đủ thấy tầm quan trọng của
1
Chương Đạo cơ trong sách Tân ngữ của Lục Giả là dấu vết văn bản đầu tiên xuất hiện thuật ngữ Ngũ kinh.
Mai Thu Quỳnh. Chu Dịch cứu nguyên – Phong cách kinh học và tư tưởng
của Lê Văn Ngữ
31
Dịch kinh đối với Nho giáo, cũng tức là không thể bỏ qua tác phẩm này khi
nghiên cứu văn hóa truyền thống của Trung Hoa cũng như Việt Nam.
Tương truyền ở thời Chu quan Thái bốc dùng ba cuốn Dịch khác nhau:
Liên Sơn Dịch (連山易) của Phục Hy là sách bói của người Trung Hoa thời Hạ,
Quy Tàng Dịch (歸藏易) của Hoàng Đế là sách bói của người Trung Hoa thời
Thương, và Chu Dịch (周易) là sách bói của người Trung Hoa thời Chu. Hiện
nay chỉ tồn tại Chu Dịch nên khi nói đến Chu Dịch người ta thường quen gọi là
kinh Dịch. Như vậy Dịch trước hết là sách dùng để bói lành dữ, sau này khi tư
duy lí luận của người Trung Hoa cổ đại phát triển lên người ta mới nhận ra
những ý nghĩa triết lý, những giá trị văn hóa tồn tại trong đó và dùng Dịch để
giảng nghĩa lý. Cho đến nay, người ta vẫn đồng thời giảng tượng số và nghĩa lý
của Dịch.
Vào thời Tần, Tần Thủy Hoàng ra lệnh đốt sách chôn Nho nhưng Chu
Dịch không bị đốt vì thời đó Dịch chỉ đơn thuần là sách bói toán, thuyết giải ý
nghĩa của Dịch không chỉ là công việc riêng của Nho gia mà còn là của các học
phái khác nữa. Song chỉ sau khi nhà Hán cầm quyền, Nho gia mới được đề cao
và kinh học được khởi xướng, Chu Dịch được gọi là kinh Dịch. Từ đây, nghiên
cứu Chu Dịch mới bắt đầu trở thành một chuyên ngành, chuyên ngành này có
tên là Dịch học.
Hiện nay Chu Dịch gồm hai phần là kinh và truyện. Truyện là phần giải
thích cho kinh, ra đời sau kinh và gồm 10 chương thuộc 7 loại: Thoán truyện
(彖傳) hay còn gọi là Thoán từ (彖辭) (thoán – đoán) gồm hai chương thượng
và hạ; Tượng truyện (象傳) (tượng – hình dạng, biểu tượng) cũng gồm hai
chương là thượng và hạ; Văn ngôn (文 言); Hệ từ truyện (繫 辭傳) (hệ từ - lời
buộc vào, đính vào) cũng gồm hai chương thượng và hạ; Thuyết quái truyện
(說 卦傳); Tự quái truyện (字 卦 傳) (tự quái – thứ tự các quẻ); Tạp quái
truyện (雜 卦 傳). Ban đầu 7 loại truyện này độc lập với nhau. Đến đời Đông
Mai Thu Quỳnh. Chu Dịch cứu nguyên – Phong cách kinh học và tư tưởng
của Lê Văn Ngữ
32
Hán, Trịnh Huyền sắp xếp chúng lại theo lối: mỗi quẻ đầu tiên có quái danh,
quái tượng, quái từ, rồi đến Thoán truyện, Tượng truyện, rồi đến hào đề, hào từ
và Tượng truyện giải thích từng hào; riêng quẻ Càn và quẻ Khôn có thêm phần
giải thích của Văn ngôn; về sau người ta gọi chung cả phần kinh và phần truyện
như vậy là kinh Dịch hay Dịch kinh vì phần truyện đã ra đời từ rất lâu và đó là
cách hiểu về Chu Dịch của những người sống gần với thời đại hình thành Chu
Dịch hơn chúng ta, và do đó nó cũng là những lời gần bản nghĩa, quan trọng để
tìm hiểu Dịch và tìm hiểu Nho gia. Từ sau Trịnh Huyền, cách sắp xếp này
thông dụng và trở thành hình thức tồn tại chủ yếu của Dịch kinh. Lê Văn Ngữ
trong Chu Dịch cứu nguyên đã phản đối cách sắp xếp này. Sau Dịch kinh mới
đến Dịch truyện xuất hiện. Công việc chú giải chỉ cần thiết khi người đời sau
bắt đầu đọc sách của đời trước nhưng không hiểu nữa. Theo lẽ dĩ nhiên ấy thì
Dịch truyện không thể ra đời cùng thời điểm hoặc ngay sau khi Dịch kinh ra
đời. Có học giả cho rằng Khổng Tử làm ra Dịch truyện, có người lại bác bỏ
quan điểm này. GS.TS Lê Văn Quán đã thể hiện sự tán đồng ý kiến của một số
học giả Trung Quốc cho rằng: Dịch truyện ra đời vào thời Xuân Thu đến
khoảng giữa Chiến Quốc. Tác phẩm này không phải do Khổng Tử viết mà là do
các sử quan và nhà Nho đương thời sáng tác, có những chương có thể liên hệ
với Khổng Tử1
.
Còn về thời điểm hình thành 64 quẻ của Dịch, đã có những quan điểm
khác nhau, PGS. Phan Văn Các cho rằng buổi giao thời Ân Chu là thời Dịch
nổi lên và cũng là thời hoàn thành việc chồng 8 thành 64 quẻ.
Về tác giả của quái từ và hào từ, Trịnh Huyền thì cho rằng lời quẻ và lời
hào đều do Chu Văn Vương viết ra; Mã Dung và Lục Tích khẳng định Văn
Vương làm lời quẻ và Chu Công làm lời hào; còn Bì Tích Thụy đời Thanh lại
cho rằng lời quẻ và lời hào đều do Khổng Tử làm ra. GS. Lê Văn Quán khẳng
định: “Dịch kinh ra đời trước thời Tây Chu và hoàn thành ở những năm cuối
1
Xem GS. Lê Văn Quán, Khảo luận tư tưởng Chu Dịch, NXB. Văn hóa thông tin, 2006, tr. 227.
Mai Thu Quỳnh. Chu Dịch cứu nguyên – Phong cách kinh học và tư tưởng
của Lê Văn Ngữ
33
thời Tây Chu, do các quan Thái bốc (quan xem bói) biên soạn”1
, PGS. Phan
Văn Các cũng có nhận định tương tự. Những nhận định này cũng thống nhất
với ý kiến của Dư Vĩnh Lương, Cố Hiệt Cương chủ trương Chu Dịch ra đời vào
những năm đầu đời Tây Chu.
Như vậy, Chu Dịch là một kinh điển rất quan trọng của Nho gia tuy ban
đầu nó được dùng làm sách bói, là công trình sáng tạo của tập thể, ra đời trong
thời đại văn minh Tiên Tần và đến nay vẫn còn là một cuốn sách chứa nhiều
điều kì lạ, bí ẩn. Để giải đáp những điều lạ lùng ấy, học giả các thời không
ngừng tìm tòi nghiên cứu và không ngừng đưa ra những kiến giải mới. Chính
những phủ nhận nối tiếp ấy đã tạo nên một dòng chảy liên tục của chuyên
ngành Dịch học và thúc đẩy sự phát triển của tư duy, của khoa học. Điều này có
nghĩa là các học giả của mỗi thời nghiên cứu Dịch học theo một lối khác nhau,
do đó chúng ta có thể xem xét một số đặc trưng của nền Dịch học Việt Nam mà
biết được nó đã chịu ảnh hưởng của Dịch học Trung Quốc thời nào.
1
Xem GS. Lê Văn Quán, Khảo luận tư tưởng Chu Dịch, NXB. Văn hóa thông tin, 2006.
Mai Thu Quỳnh. Chu Dịch cứu nguyên – Phong cách kinh học và tư tưởng
của Lê Văn Ngữ
34
1.2. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN DỊCH HỌC Ở VIỆT NAM
TRƯỚC THẾ KỈ XX:
Thông thường, muốn tìm hiểu những vấn đề của xã hội trong quá khứ,
người ta thường tìm đến các bộ sử để mượn các sự kiện làm dẫn chứng. Đối với
học phái trọng tập cổ, chuộng trứ thư, chủ trương khuyến miễn bằng cách viết
sử và dùng sử để thể hiện tư tưởng như Nho gia thì các bộ sử càng trở nên gắn
bó với người nghiên cứu. Cũng vì lí do đó nên khi tìm hiểu Dịch học ở Việt
Nam, câu hỏi được đặt ra với chúng tôi là Chu Dịch đã được sử dụng như thế
nào trong các bộ sử và sử đã ghi lại những sự kiện nào liên quan đến Dịch?
Muốn trả lời được câu hỏi này, có nhiều cách khác nhau nhưng con đường của
chúng tôi là tiến hành thống kê những trường hợp nhắc đến kinh Dịch trong các
bộ sử quan trọng mà chúng ta hiện còn. Chúng tôi đã thống kê những trường
hợp nhắc đến tên sách Dịch là kinh Dịch, Chu Dịch, hay Dịch; những trường
hợp dẫn giải nội dung của Dịch kinh và Dịch truyện; những trường hợp viện
dẫn các hào, các quẻ của Dịch; và những trường hợp nhắc đến từ kinh hoặc ngũ
kinh vì rõ ràng là nói đến ngũ kinh chắc chắn sẽ bao gồm kinh Dịch. (Vì thời
gian có hạn nên chúng tôi chỉ có thể thực hiện công việc tìm kiếm trên các bản
dịch). Các bộ sử mà chúng tôi đã tiến hành xử lý là:
1.An Nam chí lược (安南志略) của Lê Tắc/Trắc, bản dịch của Viện Đại
học Huế - ủy ban Phiên dịch sử liệu Việt Nam, NXB. Viện đại học Huế, 1961.
2.Đại Việt sử lược (大越史略) của tác giả khuyết danh (1377 – 1388),
Nguyễn Gia Tường dịch năm 1972, NXB Thành phố Hồ Chí Minh và Đại học
Tổng Hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 1993.
3.Lam Sơn thực lục (藍山實錄) của Lam Sơn Động Chủ, Bảo Thần dịch
năm 1944, nhà sách Tân Việt 1956.
Mai Thu Quỳnh. Chu Dịch cứu nguyên – Phong cách kinh học và tư tưởng
của Lê Văn Ngữ
35
4.Đại Việt sử kí toàn thư (大越史記全書) của Lê Văn Hưu, Phan Phu
Tiên, Ngô Sĩ Liên và các nhà Nho khác, viện Khoa học xã hội Việt Nam dịch
năm 1992, NXB. Khoa học xã hội, H.1993.
5.Lê triều thông sử (黎朝通史) (hay Đại Việt thông sử) của Lê Quý Đôn
do NXB. Khoa học xã hội dịch và xuất bản năm 1978.
6.Khâm định Việt sử thông giám cương mục (欽定越史通鑑綱目) của
Quốc sử quán triều Nguyễn, Viện Sử học dịch, NXB. Giáo dục, H.1998.
7.Quốc triều chính biên toát yếu (國朝正編撮要) của Tổng tài Quốc sử
quán triều Nguyễn Cao Xuân Dục soạn năm 1908, Quốc sử quán triều Nguyễn
dịch năm 1925, xuất bản bởi Nhóm nghiên cứu sử địa Việt Nam, 1972.
8.Việt sử tiêu án (越史標案) của Ngô Thời Sĩ, hội Việt Nam nghiên cứu
liên lạc văn hóa Á châu dịch năm 1960, NXB. Văn sử, 1990.
9.Việt Nam sử lược (越南史略) của Trần Trọng Kim, Trung tâm học liệu
– bộ Giáo dục (chính quyền Sài Gòn cũ).
Sau khi tìm kiếm và thống kê, chúng tôi nhận thấy các bộ sử trên không
chỉ nhắc đến người Việt dùng Dịch mà còn nhắc đến người Hán dùng Dịch. Vì
thế chúng tôi tạm sắp xếp các dẫn chứng tìm được theo 02 loại lớn là:
* A (những trường hợp người Việt dùng Chu Dịch)
* B (những trường hợp người Hán dùng Chu Dịch).
Trong loại lớn A, chúng tôi lại phân chia thành 02 loại nhỏ hơn là:
+ A1 (những trường hợp nhắc đến sự kiện liên quan đến việc sử dụng
Dịch)
+ A2 (những trường hợp người Việt trực tiếp dẫn Dịch để bàn luận, bày
tỏ quan điểm)
Kết quả tìm kiếm cụ thể như sau:
1.Trong sách An Nam chí lược:
STT Vị trí xuất hiện Phân loại
Mai Thu Quỳnh. Chu Dịch cứu nguyên – Phong cách kinh học và tư tưởng
của Lê Văn Ngữ
36
1 Quyển đệ ngũ (tr.48 của bản dịch) B
2 Quyển đệ ngũ (tr.52 của bản dịch) B
3 Quyển đệ thất (tr.66 của bản dịch) B
4 Quyển đệ thập (tr.89 của bản dịch) B
5 Quyển đệ thập nhất (tr.150 của bản dịch) A1
6 Quyển đệ thập thất (tr.140 bản dịch) B
Bảng kê 1: Tình hình Chu Dịch xuất hiện trong sách An Nam chí
lược.
2.Trong sách Đại Việt sử lược:
STT Vị trí xuất hiện Phân loại
1 Quyển 1 (tr.23 của bản dịch) B
2 Quyển 3 (tr.80 của bản dịch) A1
Bảng kê 2: Tình hình Chu Dịch xuất hiện trong sách Đại Việt sử lược.
3.Trong sách Lam Sơn thực lục: Không tìm được dẫn chứng nào.
4.Trong sách Đại Việt sử kí toàn thư:
STT Vị trí xuất hiện Phân loại
1 Ngoại kỉ, q.1 (tr.4 bản dịch) A2
2 Ngoại kỉ, q.2 (tr.14 bản dịch) A2
3 Ngoại kỉ, q.5 (tr.51 bản dịch) A2
4 Bản kỉ, q.1 (tr.66 bản dịch) A2
5 Bản kỉ, q.3 (tr.124 bản dịch) A2
6 Bản kỉ, q.3 (tr.128 bản dịch) A2
Mai Thu Quỳnh. Chu Dịch cứu nguyên – Phong cách kinh học và tư tưởng
của Lê Văn Ngữ
37
7 Bản kỉ, q.5 (tr.183 bản dịch) A2
8 Bản kỉ, q.5 (tr.193 bản dịch) A2
9 Bản kỉ, q.6 (tr.214 bản dịch) A1
10 Bản kỉ, q.6 (tr.237 bản dịch) A2
11 Bản kỉ, q.8 (tr.272 bản dịch) A2
12 Bản kỉ, q.8 (tr.278 bản dịch) A2
13 Bản kỉ, q.8 (tr.285 bản dịch, tờ 21b bản chữ Hán) A2
14 Bản kỉ, q.8 (tr.285 bản dịch, tờ 22a bản chữ Hán) A2
15 Bản kỉ, q.8 (tr.290 bản dịch) B
16 Bản kỉ, q.8 (tr.292 bản dịch) A2
17 Bản kỉ, q.10 (tr.359 bản dịch) A2
18 Bản kỉ, q.11 (tr.419 bản dịch) A2
19 Bản kỉ, q.12 (tr.449 bản dịch) A1
20 Bản kỉ, q.12 (tr.465 bản dịch) A2
21 Bản kỉ, q.13 (tr.487 bản dịch) A2
22 Bản kỉ, q.14 (tr.524 bản dịch) A2
23 Bản kỉ, q.14 (tr.525 bản dịch) A2
24 Bản kỉ, q.14 (tr.528 bản dịch) A2
25 Bản kỉ, q.15 (tr.575 bản dịch) A2
26 Bản kỉ, q.17 (tr.625 bản dịch) A2
27 Bản kỉ,q.18 (tr.665 bản dịch) A2
28 Bản kỉ, q.19 (tr.690 bản dịch) A2
Mai Thu Quỳnh. Chu Dịch cứu nguyên – Phong cách kinh học và tư tưởng
của Lê Văn Ngữ
38
Bảng kê 3: Tình hình Chu Dịch xuất hiện trong sách Đại Việt sử kí
toàn thư
5. Trong sách Đại Việt thông sử:
STT Vị trí xuất hiện Phân loại
1 Liệt truyện – Nghịch thần truyện (tr.77 bản dịch) A2
2 Liệt truyện – Nghịch thần truyện (tr.78 bản dịch) A2
Bảng kê 4: Tình hình Chu Dịch xuất hiện trong sách Đại Việt thông
sử.
6.Trong sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục:
STT Vị trí xuất hiện Phân loại
1 Chính biên, q.1 (tr.101 bản dịch) A1
2 Chính biên, q.2 (tr.103 bản dịch) A1
3 Chính biên, q.2 (tr.105 bản dịch) A1
4 Chính biên, q.6 (tr.206 bản dịch) A1
5 Chính biên, q.6 (tr.211 bản dịch) A2
6 Chính biên, q.8 (tr.241 bản dịch) A1
7 Chính biên, q.8 (tr.250 bản dịch) A1
8 Chính biên, q.8 (tr.255 bản dịch) A1
9 Chính biên, q.11 (tr.313 bản dịch) A2
10 Chính biên, q.11 (tr.322 bản dịch) A2
11 Chính biên, q.11 (tr.325 bản dịch) A2
12 Chính biên, q.13 (tr.353 bản dịch) A1
Mai Thu Quỳnh. Chu Dịch cứu nguyên – Phong cách kinh học và tư tưởng
của Lê Văn Ngữ
39
13 Chính biên, q.18 (tr.455 bản dịch) A2
14 Chính biên, q.20 (tr.493 bản dịch) A1
15 Chính biên, q.24 (tr.570 bản dịch) A2
16 Chính biên, q.24 (tr.572 bản dịch) A2
17 Chính biên, q.24 (tr.574 bản dịch) A2
18 Chính biên, q.37 (tr.815 bản dịch) A1
19 Chính biên, q.37 (tr.820 bản dịch) A1
Bảng kê 5: Tình hình Chu Dịch xuất hiện trong sách Khâm Định Việt
sử thông giám cương mục..
7.Trong Quốc triều chính biên toát yếu: Không tìm thấy trường hợp nào.
8.Trong Việt sử tiêu án:
STT Vị trí xuất hiện Phân loại
1 Tr.22 bản dịch A2
2 Tr.58 bản dịch A2
Bảng kê 6: Tình hình Chu Dịch xuất hiện trong sách Việt sử tiêu án.
9.Trong Việt Nam sử lược:
STT Vị trí xuất hiện Phân loại
1 Chương 6, tr. 30 B
Bảng kê 7: Tình hình Chu Dịch xuất hiện trong sách Việt Nam sử
lược.
Từ những thông tin và số liệu trên, chúng ta có các con số tổng kết như
sau:
Mai Thu Quỳnh. Chu Dịch cứu nguyên – Phong cách kinh học và tư tưởng
của Lê Văn Ngữ
40
S
T
T
Tên sách
Số
T.H
loại
A1
Số
T.H
loại
A2
Số
T.H
loại
B
Tổng
số
T.H
1 An Nam chí lược 1 0 5 6
2 Đại Việt sử lược 1 0 1 2
3 Lam Sơn thực lục 0 0 0 0
4 Đại Việt sử kí toàn thư 2 25 1 28
5 Đại Việt thông sử 0 2 0 2
6 Khâm định Việt sử thông giám cương mục 11 8 0 19
7 Quốc triều chính biên toát yếu 0 0 0 0
8 Việt sử tiêu án 0 2 0 2
9 Việt Nam sử lược 0 0 1 1
Tổng số 15 37 8 60
Bảng kê 8. Bảng tổng hợp tình hình Chu Dịch xuất hiện trong chín
bộ sử.
* Chú thích: T.H = trường hợp.
Mai Thu Quỳnh. Chu Dịch cứu nguyên – Phong cách kinh học và tư tưởng
của Lê Văn Ngữ
41
Như vậy, trong 3 loại trường hợp xuất hiện của Chu Dịch ở chín bộ sử,
loại A2 chiếm số lượng nhiều nhất, loại B chiếm số lượng ít nhất. Kết quả này
nói lên điều gì?
Điều đầu tiên, khá hiển nhiên, là các sách sử của người Việt viết về con
người, sự kiện của nước Việt nhiều hơn Trung Hoa. Tương quan chênh lệch
giữa loại trường hợp B và loại trường hợp A như vậy là rất phù hợp với chân lý:
đối tượng chủ yếu của sử sách Việt là người Việt và nước Việt.
Khi xét đến vấn đề Chu Dịch theo người Trung Hoa vào Việt Nam,
chúng tôi thấy ghi chép sớm nhất trong số chín cuốn sử kể trên là An Nam chí
lược quyển 7, mục Các quan Thứ sử, Thái thú ở các quận Giao Châu, Cửu
Chân và Nhật Nam, phụ biên các quan Thứ sử, Thái thú đời Tam Quốc, phần
viết về Nhậm Diên: Tự là Trường Tồn, mới 12 tuổi đã thông hiểu kinh Thi, kinh
Dịch, kinh Xuân Thu, nổi tiếng trong trường Thái Học, người ta gọi là Nhậm
Thánh Đồng, nghĩa là ông thánh con nít họ Nhậm. Đầu niên hiệu Kiến Võ (năm
25 sau Công nguyên) làm Thái thú quận Cửu Chân… Như vậy là đã có một
ông quan của nhà Hán hiểu biết sâu rộng về Nho học đến Nam Việt ngay từ
những năm đầu Công nguyên. Còn những ông quan khác thì sao? Thái thú
đương nhiên là những người có học, là trí thức; mà trí thức nhà Hán thì có thể
không học Nho đạo chăng khi mà ngay từ những năm đầu tiên triều đình nhà
Hán đã chủ trương bãi truất bách gia, độc tôn Nho thuật? Việc Nhậm Diên làm
Thái Thú Cửu Chân khoảng năm 25 sau Công nguyên cũng đồng nghĩa với
việc kiến thức về Nho học nói chung và Dịch học nói riêng đã theo những con
người này vào đất Việt từ buổi đó. Vì thế, có lẽ Nhậm Diên chỉ là trường hợp
tiêu biểu chứ không phải là trường hợp duy nhất; tiêu biểu bởi theo người viết
An Nam chí lược thì ông thông thạo các kinh điển Nho gia ngay từ khi còn nhỏ
(12 tuổi). Về diện mạo Nho học ở Cửu Chân lúc này, chúng tôi đồng ý với
quan điểm cho rằng: vì Nho học mới xuất hiện cùng với các quan cai trị nhà
Hán nên nó vừa bị người bản địa tẩy chay, vừa chưa đủ thời gian để phát triển
Mai Thu Quỳnh. Chu Dịch cứu nguyên – Phong cách kinh học và tư tưởng
của Lê Văn Ngữ
42
rộng rãi trong xã hội. Lúc này, Chu Dịch cũng mới chỉ là đối tượng được nhắc
đến trong một vài câu chuyện của mấy người làm quan nhà Hán xuất hiện ở
Việt Nam thời đó.
Sau Nhậm Diên khoảng một thế kỉ, Sĩ Nhiếp cũng là người Hán tích cực
truyền bá Nho giáo ở Cửu Chân. Sĩ Nhiếp làm Thái thú Giao Chỉ từ năm 187
đến năm 226, trước đó (khi còn trẻ) đã được cha cho du học ở kinh sư, theo học
Lưu Tử Kỳ người Dĩnh Xuyên, chuyên trị sách Tả Thị Xuân Thu (左氏春秋).
Sĩ Nhiếp đỗ Hiếu liêm, được bổ làm Thượng thư lang nhưng vì việc công nên
bị miễn chức, rồi về chịu tang cha. Sau đó đỗ Mậu tài, được bổ làm Huyện lệnh
Vu Dương, rồi lại đổi làm Thái thú ở quận Giao Chỉ, được phong tước Long
Độ Đình Hầu, đóng đô ở Luy Lâu1
. Vì không ngừng cố gắng xây dựng nền Nho
học ở đất Việt nên Sĩ Nhiếp đã được gọi là “Nam giao học tổ”.
Ngoài những trí thức nhà Hán sang cai trị đất Việt còn có những người di
cư sang để lánh nạn hoặc di cư theo chủ trương “Hán hóa” dân tộc Việt của nhà
Hán. Và trong số hành trang họ đem theo hẳn không thể thiếu sách vở của Nho
giáo. Cũng trong An Nam chí lược, quyển 10, mục Những người tôi đời trước
sang kí ngụ có viết về Trình Bỉnh như sau: (Trình Bỉnh) tự là Đức Xu, người
quận Nhữ Nam, có được học với Trịnh Huyền, tránh loạn qua Giao Chỉ,
thường cùng Lưu Hy bàn đại nghĩa, học rộng, thông hiểu ngũ kinh, Sĩ Nhiếp
khiến làm chức Trưởng Sử. Sau Tôn Quyền mời về làm chức Thái tử Thái phó.
Đến đây, chúng tôi tạm dựng lại quang cảnh Nho học đầu Công nguyên
như sau: vì mới được truyền vào theo bước chân của người Hán, Nho học chưa
thể phát triển rộng rãi trong cộng đồng người Việt, những nội dung kinh điển
như Dịch mới chỉ được một số người Hán ở Việt Nam lúc đó học tập và bàn
luận mà thôi.
Như vậy, trong số 8 trường hợp nhắc đến Chu Dịch thuộc loại B kể trên
có tới 3 trường hợp cho ta thấy Dịch học đã theo người Hán vào nước ta từ đầu
1
Theo ghi chép của Ngô chí.
Mai Thu Quỳnh. Chu Dịch cứu nguyên – Phong cách kinh học và tư tưởng
của Lê Văn Ngữ
43
Công nguyên. 5 trường hợp còn lại xuất hiện trong lời giới thiệu, đánh giá của
người Việt về các nhà Nho Trung Quốc.
Trên đây đã xét đến vai trò của người Hán trong việc đưa Nho học nói
chung và Dịch học nói riêng vào Việt Nam. Về phía người Việt, họ đã tiếp
nhận và sử dụng Chu Dịch như thế nào? Những dẫn chứng thuộc loại A trong
bảng thống kê và phân loại trên sẽ cho ta câu trả lời, cụ thể là những dẫn chứng
thuộc tiểu loại A1 cho thấy lịch sử phát triển Chu Dịch ở Việt Nam còn tiểu
loại A2 nói lên tình hình người Việt vận dụng Chu Dịch. Về tiểu loại A1, trong
số các dẫn chứng thống kê trên có hai dẫn chứng thuộc hai sách là An Nam chí
lược và Khâm định Việt sử thông giám cương mục cùng nhắc đến một sự kiện:
năm 1007 Lê Long Đĩnh sai em trai mình và Hoàng Thành Nhã sang triều cống
nhà Tống rồi dâng biểu xin Cửu kinh và một tạng kinh Phật, nhà Tống đồng ý.
An Nam chí lược (Quyển đệ thập nhất, mục Long Đĩnh, tr.100 của bản dịch)
viết: Tháng 7 năm thứ tư (1007 – nd) quyền An Nam Tịnh Hải Quân Tiết Độ
Quan Sát xử Trí Lưu hầu Lê Long Đĩnh khiến em là Lê Minh Vĩnh cùng
Chưởng thư kí Hoàng Thành Nhã vào cống, Long Đĩnh dâng biểu xin sách Cửu
kinh và một tạng kinh Phật. Còn sách Khâm định Việt sử thông giám cương
mục (Chính biên, quyển 1, tr.101 của bản dịch) thì viết: Mùa xuân Đinh mùi,
năm thứ 14 (1007 – nd) nhà vua sai em là Minh Sưởng và Chưởng thư kí là
Hoàng Thành Nhã đem con tê trắng sang biếu nhà Tống, dâng biểu xin Cửu
kinh và kinh sách Đại tạng. Nhà Tống ưng thuận cho cả. Chúng ta biết rằng,
khái niệm Cửu kinh bắt đầu có từ thời Đường, thời này lấy Thi, Thư, Dịch, Tam
lễ (Nghi lễ, Lễ kí và Chu lễ) và Xuân thu tam truyện (Tả truyện, Công Dương
truyện, Cốc Lương truyện) làm Cửu kinh, dùng trong khảo thí minh kinh. Từ
thời Tống thì Cửu kinh gồm Dịch, Thư, Thi, Tam lễ, Xuân thu, Luận ngữ, Mạnh
Tử. Về sau, Cửu kinh lại là 9 kinh bất kì trong số 13 kinh (thập tam kinh – gồm
Dịch, Thi, Thư, Tam lễ, Xuân thu tam truyện, Hiếu kinh, Luận ngữ, Nhĩ nhã,
Mai Thu Quỳnh. Chu Dịch cứu nguyên – Phong cách kinh học và tư tưởng
của Lê Văn Ngữ
44
Mạnh Tử). Như vậy thời điểm năm 1007 mà dùng khái niệm Cửu kinh thì dù
theo cách gọi của thời Đường hay thời Tống cũng không thể thiếu Chu Dịch.
Sự kiện trên là ghi chép sớm nhất (trong chín bộ sách đang xét) về sự
chủ động tiếp nhận Nho học của người Việt. Trong đó người chủ động xin Nho
điển lại là một ông vua, điều này chứng tỏ rằng ở phương diện quản lý nhà
nước những người đứng đầu nước Việt thời đó đã ý thức được tầm quan trọng
của Nho điển, họ đã thực sự muốn đọc, tham khảo và học tập theo quan điểm
của Nho gia để lãnh đạo đất nước. Mà một khi một ông vua thấy những sách đó
quan trọng thì việc phổ biến những sách đó trong lãnh địa của mình sẽ không
phải là một việc quá khó khăn.
Tiếp nối sự kiện này, các sự kiện thuộc loại A2 được tìm thấy lần lượt
như sau:
*Năm Kỉ Hợi (Trinh Phù 4 – 1179 – nd): Đầu mùa đông vua ngự ở điện
Sùng Dương coi khoa thi Tam giáo. Các con em thi viết bài thơ xưa và làm các
môn: thơ, phú, kinh nghĩa và bói toán. (Đại Việt sử lược, quyển 3, tr.80 bản
dịch).
Sự kiện này chứng tỏ khi đó Nho học đã được triều đình coi trọng ngang
hàng với Phật giáo và Đạo giáo, hơn nữa nội dung của ba tôn giáo này còn trở
thành những kiến thức tiêu chuẩn, buộc những con em quý tộc đi học phải
thông thạo.
*Tháng 9 (năm 1253 – nd) vua hạ chiếu cho học trò trong nước vào viện
Quốc Tử để giảng luận nghĩa lý Ngũ kinh và Tứ thư. (Khâm định Việt sử thông
giám cương mục, Chính biên, quyển 6, tr.206 bản dịch).
Sự kiện này chứng tỏ rằng đến thời Trần, thế kỉ thứ XIII, Nho học đã
được giảng dạy cho dân chúng trong cả nước. Như vậy Nho học đã trở thành hệ
tư tưởng tồn tại rộng rãi trong toàn xã hội người Việt.
*Năm 1292: Trần Kiến là môn khách của Hưng Đạo Vương, nên Hưng
Đạo Vương tiến cử, khi quân Nguyên mới sang xâm lấn, nhà vua sai Trần Kiến
Mai Thu Quỳnh. Chu Dịch cứu nguyên – Phong cách kinh học và tư tưởng
của Lê Văn Ngữ
45
bói Dịch (bói được quẻ Dự, biến ra quẻ Chấn) hai lần đều đúng... vua khen có
tài và đặc cách bổ dụng. (Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Chính
biên, quyển 8, tr.241 bản dịch).
Lúc này vua Trần đã thường bói Dịch và cần những người biết bói Dịch
cho tham gia hàng ngũ bề tôi của mình, nói rộng ra là trong dân chúng nước
Đại Việt, người ta đã vận dụng Chu Dịch khá thuần thục. Đặc biệt, mức độ
nhuần nhuyễn và thành thạo Chu Dịch của người Việt không chỉ dừng lại ở
việc bốc phệ mà đã vận dụng để viết sách khiển binh, giúp đỡ đắc lực cho công
cuộc xây dựng và bảo vệ nền độc lập của dân tộc. Dẫn chứng dưới đây là một
minh chứng hùng hồn:
*Năm 1300: Quốc Tuấn lại sưu tập binh pháp các nhà, làm thành “Bát
quái cửu cung đồ”, đặt tên là “Vạn Kiếp tông bí truyền thư”... Nhân Huệ
Vương Khánh Dư viết bài tựa cho sách ấy như sau: “...” (Đại Việt sử kí toàn
thư, Bản kỉ, quyển 6, tr.214 bản dịch). Khâm định Việt sử thông giám cương
mục (Chính biên, quyển 8, tr.250 bản dịch) cũng ghi việc này.
Tiếp theo là những dẫn chứng giúp ta hình dung ra nền giáo dục, học
thuật, tư tưởng, văn hóa và đường lối chỉ đạo của xã hội phong kiến Việt Nam
liên quan mật thiết đến Chu Dịch và Nho học:
*Mùa hạ năm 1306 vua hạ lệnh cho Thiên chương học sĩ Nguyễn Sĩ Cố
giảng dạy năm kinh. (Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Chính biên,
quyển 8, tr.255 bản dịch).
*Tháng 12 năm Nhâm Tuất (Quang Thái 5 – 1392 – nd) Quý Ly soạn
sách “Minh đạo” gồm 14 thiên dâng lên, đại lược cho Chu Công là tiên thánh,
Khổng Tử là tiên sư. Văn miếu đặt tượng Chu Công ở chính giữa, nhìn về
phương Nam, Khổng Tử ở phía bên, nhìn về phương Tây. Cho sách Luận ngữ
có bốn chỗ đáng ngờ như:..., cho Hàn Dũ là “đạo Nho”, cho bọn Chu Mậu
Thúc, Trình Di, Dương Thi, La Trọng Tổ, Lý Diên Bình, Chu Tử tuy học rộng
Mai Thu Quỳnh. Chu Dịch cứu nguyên – Phong cách kinh học và tư tưởng
của Lê Văn Ngữ
46
nhưng ít tài, không sát với sự việc, chỉ thạo cóp nhặt. (Đại Việt sử kí toàn thư,
Bản kỉ, quyển 8, tr.278 bản dịch, tờ 10a bản chữ Hán).
*Tháng 12 (năm 1419) nhà Minh ban phát sách vở để dùng cho các
trường học hàng phủ, hàng châu và hàng huyện. Lai sai thầy chùa truyền bá
kinh Phật.
Trước kia, vua Minh dưới sự định đoạt của mình, cho in ra các sách Ngũ
kinh, Tứ thư, Tính lý đại toàn. Khi sách xong, hạ chiếu cho ban phát khắp trong
và ngoài nước. Vua Minh dụ bảo bộ Lễ rằng: “Nghĩa lý tinh túy của thánh hiền
ở cả trong sách này. Đó thật là căn bản cho người theo học. Các người khá thể
theo ý chỉ của trẫm, hiểu dụ những người theo học hết lòng giảng luận nghiên
cứu, chứ đừng nên coi chỉ là lời suông mà thôi. Đến đây vua Minh sai giám
sinh Đường Nghĩa sang Nam, ban phát sách vở nói trên cho những người Nho
học ở các phủ, các châu, các huyện. Lại sai các thày chùa truyền bá kinh Phật
ở các Tăng, Đạo ti. Còn các sự tích và sử sách của nước ta từ đời Trần trở về
trước đều tịch thu đưa về Kim Lăng (nay là thành phố Nam Kinh thuộc huyện
Giang Kinh, Trung Quốc – nd). (Khâm định Việt sử thông giám cương mục,
Chính biên, quyển 13).
* Tháng 3 năm 1467 bắt đầu đặt chức Bác sỹ dạy năm kinh.
Lúc ấy giám sinh nhiều người chuyên trị kinh Thi, kinh Thư, ít người học
tập sách Lễ ký, Chu Dịch và Xuân thu, cho nên nhà vua đặt chức Bác sỹ năm
kinh, mỗi viên Bác sỹ chuyên nghiên cứu một kinh để dạy các học trò. (Khâm
định Việt sử thông giám cương mục, Chính biên, quyển 20, tr.493 bản dịch).
Sách Đại Việt sử kí toàn thư (Bản kỉ, quyển 12, tr.449 bản dịch) cũng ghi như
thế.
* Tháng giêng năm 1734 ban phát sách Ngũ kinh đại toàn cho học quan
các xứ.
Trước đây, quan sai hiệu đính kiểm duyệt năm kinh theo bản khắc văn
của Trung Quốc rồi khắc thành sách, nay sách đã in xong, ban bố cho trong
Phong cách kinh học và tư tưởng của Lê Văn Ngữ 6795510.pdf
Phong cách kinh học và tư tưởng của Lê Văn Ngữ 6795510.pdf
Phong cách kinh học và tư tưởng của Lê Văn Ngữ 6795510.pdf
Phong cách kinh học và tư tưởng của Lê Văn Ngữ 6795510.pdf
Phong cách kinh học và tư tưởng của Lê Văn Ngữ 6795510.pdf

More Related Content

Similar to Phong cách kinh học và tư tưởng của Lê Văn Ngữ 6795510.pdf

Th s33.005 bản sắc dân tộc trong văn xuôi triều ân
Th s33.005 bản sắc dân tộc trong văn xuôi triều ânTh s33.005 bản sắc dân tộc trong văn xuôi triều ân
Th s33.005 bản sắc dân tộc trong văn xuôi triều ân
https://www.facebook.com/garmentspace
 
Th s33.008 giá trị và vị trí tập thơ việt bắc trong hành trình thơ tố hữu
Th s33.008 giá trị và vị trí tập thơ việt bắc trong hành trình thơ tố hữuTh s33.008 giá trị và vị trí tập thơ việt bắc trong hành trình thơ tố hữu
Th s33.008 giá trị và vị trí tập thơ việt bắc trong hành trình thơ tố hữu
https://www.facebook.com/garmentspace
 
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdfTinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Man_Ebook
 

Similar to Phong cách kinh học và tư tưởng của Lê Văn Ngữ 6795510.pdf (20)

Khoá Luận Tốt Nghiệp Nghiên Cứu Đại Chúng Hóa Kinh Điển Nho Gia 10 Năm Đầu Th...
Khoá Luận Tốt Nghiệp Nghiên Cứu Đại Chúng Hóa Kinh Điển Nho Gia 10 Năm Đầu Th...Khoá Luận Tốt Nghiệp Nghiên Cứu Đại Chúng Hóa Kinh Điển Nho Gia 10 Năm Đầu Th...
Khoá Luận Tốt Nghiệp Nghiên Cứu Đại Chúng Hóa Kinh Điển Nho Gia 10 Năm Đầu Th...
 
THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ
THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ
THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ
 
THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ
THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ
THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ
 
Luận văn: Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Nhật Ánh, HAY
Luận văn: Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Nhật Ánh, HAYLuận văn: Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Nhật Ánh, HAY
Luận văn: Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Nhật Ánh, HAY
 
Th s33.005 bản sắc dân tộc trong văn xuôi triều ân
Th s33.005 bản sắc dân tộc trong văn xuôi triều ânTh s33.005 bản sắc dân tộc trong văn xuôi triều ân
Th s33.005 bản sắc dân tộc trong văn xuôi triều ân
 
Luận án: Tư tưởng triết học của Tôn Trung Sơn và ý nghĩa, HAY
Luận án: Tư tưởng triết học của Tôn Trung Sơn và ý nghĩa, HAYLuận án: Tư tưởng triết học của Tôn Trung Sơn và ý nghĩa, HAY
Luận án: Tư tưởng triết học của Tôn Trung Sơn và ý nghĩa, HAY
 
Th s33.008 giá trị và vị trí tập thơ việt bắc trong hành trình thơ tố hữu
Th s33.008 giá trị và vị trí tập thơ việt bắc trong hành trình thơ tố hữuTh s33.008 giá trị và vị trí tập thơ việt bắc trong hành trình thơ tố hữu
Th s33.008 giá trị và vị trí tập thơ việt bắc trong hành trình thơ tố hữu
 
Khảo cứu Hoàng Lê Cảnh Hưng bản đồ từ góc nhìn văn bản học, 9đ - Gửi miễn ph...
Khảo cứu Hoàng Lê Cảnh Hưng bản đồ từ góc nhìn văn bản học, 9đ  - Gửi miễn ph...Khảo cứu Hoàng Lê Cảnh Hưng bản đồ từ góc nhìn văn bản học, 9đ  - Gửi miễn ph...
Khảo cứu Hoàng Lê Cảnh Hưng bản đồ từ góc nhìn văn bản học, 9đ - Gửi miễn ph...
 
ẢNH HƯỞNG HỌC THUYẾT ÂM DƯƠNG, NGŨ HÀNH ĐẾN ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN NGƯỜI ...
ẢNH HƯỞNG HỌC THUYẾT ÂM DƯƠNG, NGŨ HÀNH ĐẾN ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN NGƯỜI ...ẢNH HƯỞNG HỌC THUYẾT ÂM DƯƠNG, NGŨ HÀNH ĐẾN ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN NGƯỜI ...
ẢNH HƯỞNG HỌC THUYẾT ÂM DƯƠNG, NGŨ HÀNH ĐẾN ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN NGƯỜI ...
 
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdfTinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
 
Luận văn: Vai trò cùa nhân viên công tác xã hội chuyên nghiệp trong bệnh viện...
Luận văn: Vai trò cùa nhân viên công tác xã hội chuyên nghiệp trong bệnh viện...Luận văn: Vai trò cùa nhân viên công tác xã hội chuyên nghiệp trong bệnh viện...
Luận văn: Vai trò cùa nhân viên công tác xã hội chuyên nghiệp trong bệnh viện...
 
Đặc điểm thể chân dung và văn học của Hồ Anh Thái
Đặc điểm thể chân dung và văn học của Hồ Anh TháiĐặc điểm thể chân dung và văn học của Hồ Anh Thái
Đặc điểm thể chân dung và văn học của Hồ Anh Thái
 
VĂN HÓA TÂM LINH TRONG “TRUYỆN KIỀU” VÀ “VĂN CHIÊU HỒN” CỦA NGUYỄN DU - TẢI F...
VĂN HÓA TÂM LINH TRONG “TRUYỆN KIỀU” VÀ “VĂN CHIÊU HỒN” CỦA NGUYỄN DU - TẢI F...VĂN HÓA TÂM LINH TRONG “TRUYỆN KIỀU” VÀ “VĂN CHIÊU HỒN” CỦA NGUYỄN DU - TẢI F...
VĂN HÓA TÂM LINH TRONG “TRUYỆN KIỀU” VÀ “VĂN CHIÊU HỒN” CỦA NGUYỄN DU - TẢI F...
 
Liên văn bản trong sáng tác nguyễn huy thiệp
Liên văn bản trong sáng tác nguyễn huy thiệpLiên văn bản trong sáng tác nguyễn huy thiệp
Liên văn bản trong sáng tác nguyễn huy thiệp
 
LUẬN VĂN: HỘI NHẬP VĂN HÓA QUA MỘT SỐ VĂN BIA HÁN NÔM CÔNG GIÁO Ở ĐỒNG BẰNG...
LUẬN VĂN: HỘI NHẬP VĂN HÓA  QUA MỘT SỐ VĂN BIA HÁN NÔM CÔNG GIÁO  Ở ĐỒNG BẰNG...LUẬN VĂN: HỘI NHẬP VĂN HÓA  QUA MỘT SỐ VĂN BIA HÁN NÔM CÔNG GIÁO  Ở ĐỒNG BẰNG...
LUẬN VĂN: HỘI NHẬP VĂN HÓA QUA MỘT SỐ VĂN BIA HÁN NÔM CÔNG GIÁO Ở ĐỒNG BẰNG...
 
Hội nhập văn hóa qua một số văn bia Hán Nôm công giáo, 9đ
Hội nhập văn hóa qua một số văn bia Hán Nôm công giáo, 9đHội nhập văn hóa qua một số văn bia Hán Nôm công giáo, 9đ
Hội nhập văn hóa qua một số văn bia Hán Nôm công giáo, 9đ
 
Luận Văn Thạc Sĩ Lịch Sử Tiếp Nhận Tác Phẩm Nguyễn Đình Chiểu.
Luận Văn Thạc Sĩ Lịch Sử Tiếp Nhận Tác Phẩm Nguyễn Đình Chiểu.Luận Văn Thạc Sĩ Lịch Sử Tiếp Nhận Tác Phẩm Nguyễn Đình Chiểu.
Luận Văn Thạc Sĩ Lịch Sử Tiếp Nhận Tác Phẩm Nguyễn Đình Chiểu.
 
Quan niệm của Immanuel Kant về tự do
Quan niệm của Immanuel Kant về tự doQuan niệm của Immanuel Kant về tự do
Quan niệm của Immanuel Kant về tự do
 
Luận Văn Thạc Sĩ Ngôn Ngữ Học về Quá trình tiếp nhận tác phẩm của tô hoài
Luận Văn Thạc Sĩ Ngôn Ngữ Học về Quá trình tiếp nhận tác phẩm của tô hoàiLuận Văn Thạc Sĩ Ngôn Ngữ Học về Quá trình tiếp nhận tác phẩm của tô hoài
Luận Văn Thạc Sĩ Ngôn Ngữ Học về Quá trình tiếp nhận tác phẩm của tô hoài
 
Luận văn: Nguồn mạch dân gian trong bối cảnh hiện đại, HAY
Luận văn: Nguồn mạch dân gian trong bối cảnh hiện đại, HAYLuận văn: Nguồn mạch dân gian trong bối cảnh hiện đại, HAY
Luận văn: Nguồn mạch dân gian trong bối cảnh hiện đại, HAY
 

More from jackjohn45

More from jackjohn45 (20)

ĐẶC ĐIỂM THƠ MAI VĂN PHẤN Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam.pdf
ĐẶC ĐIỂM THƠ MAI VĂN PHẤN Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam.pdfĐẶC ĐIỂM THƠ MAI VĂN PHẤN Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam.pdf
ĐẶC ĐIỂM THƠ MAI VĂN PHẤN Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam.pdf
 
ĐẶC ĐIỂM THƠ MAI VĂN PHẤN Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam.pdf
ĐẶC ĐIỂM THƠ MAI VĂN PHẤN Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam.pdfĐẶC ĐIỂM THƠ MAI VĂN PHẤN Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam.pdf
ĐẶC ĐIỂM THƠ MAI VĂN PHẤN Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam.pdf
 
Sử dụng Bản đồ khái niệm trong dạy học chương Động học chất điểm.pdf
Sử dụng Bản đồ khái niệm trong dạy học chương Động học chất điểm.pdfSử dụng Bản đồ khái niệm trong dạy học chương Động học chất điểm.pdf
Sử dụng Bản đồ khái niệm trong dạy học chương Động học chất điểm.pdf
 
Sử dụng tài liệu về di sản văn hóa vật thể ở địa phương trong dạy học lịch sử...
Sử dụng tài liệu về di sản văn hóa vật thể ở địa phương trong dạy học lịch sử...Sử dụng tài liệu về di sản văn hóa vật thể ở địa phương trong dạy học lịch sử...
Sử dụng tài liệu về di sản văn hóa vật thể ở địa phương trong dạy học lịch sử...
 
NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG LAN TRUYỀN VI RÚTTỪ RỆP SÁP (Ferrisia virgata) ĐẾN CÂY TI...
NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG LAN TRUYỀN VI RÚTTỪ RỆP SÁP (Ferrisia virgata) ĐẾN CÂY TI...NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG LAN TRUYỀN VI RÚTTỪ RỆP SÁP (Ferrisia virgata) ĐẾN CÂY TI...
NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG LAN TRUYỀN VI RÚTTỪ RỆP SÁP (Ferrisia virgata) ĐẾN CÂY TI...
 
BÁO CÁO ĐÁNH GIÁ NGOÀI Trung tâm Giáo dục thường xuyên tỉnh Ninh Thuận (TP Ph...
BÁO CÁO ĐÁNH GIÁ NGOÀI Trung tâm Giáo dục thường xuyên tỉnh Ninh Thuận (TP Ph...BÁO CÁO ĐÁNH GIÁ NGOÀI Trung tâm Giáo dục thường xuyên tỉnh Ninh Thuận (TP Ph...
BÁO CÁO ĐÁNH GIÁ NGOÀI Trung tâm Giáo dục thường xuyên tỉnh Ninh Thuận (TP Ph...
 
BÌNH ĐẲNG GIỚI Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 8067022.pdf
BÌNH ĐẲNG GIỚI Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 8067022.pdfBÌNH ĐẲNG GIỚI Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 8067022.pdf
BÌNH ĐẲNG GIỚI Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 8067022.pdf
 
PHƯƠNG PHÁP DẠY DẠNG BÀI KẾT HỢP KỸ NĂNG TRONG TIẾT DẠY SKILLS 2.pdf
PHƯƠNG PHÁP DẠY DẠNG BÀI KẾT HỢP KỸ NĂNG TRONG TIẾT DẠY SKILLS 2.pdfPHƯƠNG PHÁP DẠY DẠNG BÀI KẾT HỢP KỸ NĂNG TRONG TIẾT DẠY SKILLS 2.pdf
PHƯƠNG PHÁP DẠY DẠNG BÀI KẾT HỢP KỸ NĂNG TRONG TIẾT DẠY SKILLS 2.pdf
 
Hiệu quả sử dụng tài sản tại công ty cổ phần công nghệ Hợp Long.pdf
Hiệu quả sử dụng tài sản tại công ty cổ phần công nghệ Hợp Long.pdfHiệu quả sử dụng tài sản tại công ty cổ phần công nghệ Hợp Long.pdf
Hiệu quả sử dụng tài sản tại công ty cổ phần công nghệ Hợp Long.pdf
 
TỔ CHỨC KHÔNG GIAN KIẾN TRÚC VÀ BẢO TỒN CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA KHU VĂN HÓA LỊCH ...
TỔ CHỨC KHÔNG GIAN KIẾN TRÚC VÀ BẢO TỒN CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA KHU VĂN HÓA LỊCH ...TỔ CHỨC KHÔNG GIAN KIẾN TRÚC VÀ BẢO TỒN CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA KHU VĂN HÓA LỊCH ...
TỔ CHỨC KHÔNG GIAN KIẾN TRÚC VÀ BẢO TỒN CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA KHU VĂN HÓA LỊCH ...
 
ĐÁNH GIÁ TÍNH THÍCH NGHI SINH THÁI CỦA MỘT SỐ LOÀI CÂY TRỒNG CHỦ LỰC VỚI ĐIỀU...
ĐÁNH GIÁ TÍNH THÍCH NGHI SINH THÁI CỦA MỘT SỐ LOÀI CÂY TRỒNG CHỦ LỰC VỚI ĐIỀU...ĐÁNH GIÁ TÍNH THÍCH NGHI SINH THÁI CỦA MỘT SỐ LOÀI CÂY TRỒNG CHỦ LỰC VỚI ĐIỀU...
ĐÁNH GIÁ TÍNH THÍCH NGHI SINH THÁI CỦA MỘT SỐ LOÀI CÂY TRỒNG CHỦ LỰC VỚI ĐIỀU...
 
Nỗ lực hướng đến việc tiếp nhận nguồn nhân lực nước ngoài mới và thực hiện ki...
Nỗ lực hướng đến việc tiếp nhận nguồn nhân lực nước ngoài mới và thực hiện ki...Nỗ lực hướng đến việc tiếp nhận nguồn nhân lực nước ngoài mới và thực hiện ki...
Nỗ lực hướng đến việc tiếp nhận nguồn nhân lực nước ngoài mới và thực hiện ki...
 
[123doc] - thu-nghiem-nuoi-trong-mot-so-nam-an-tren-co-chat-loi-ngo.pdf
[123doc] - thu-nghiem-nuoi-trong-mot-so-nam-an-tren-co-chat-loi-ngo.pdf[123doc] - thu-nghiem-nuoi-trong-mot-so-nam-an-tren-co-chat-loi-ngo.pdf
[123doc] - thu-nghiem-nuoi-trong-mot-so-nam-an-tren-co-chat-loi-ngo.pdf
 
THỬ NGHIỆM NUÔI TRỒNG MỘT SỐ NẤM ĂN TRÊN CƠ CHẤT LÕI NGÔ.pdf
THỬ NGHIỆM NUÔI TRỒNG MỘT SỐ NẤM ĂN TRÊN CƠ CHẤT LÕI NGÔ.pdfTHỬ NGHIỆM NUÔI TRỒNG MỘT SỐ NẤM ĂN TRÊN CƠ CHẤT LÕI NGÔ.pdf
THỬ NGHIỆM NUÔI TRỒNG MỘT SỐ NẤM ĂN TRÊN CƠ CHẤT LÕI NGÔ.pdf
 
Bài Giảng Thị Trường Chứng Khoán.pdf
Bài Giảng Thị Trường Chứng Khoán.pdfBài Giảng Thị Trường Chứng Khoán.pdf
Bài Giảng Thị Trường Chứng Khoán.pdf
 
CHUỖI THỜI GIAN - LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC.pdf
CHUỖI THỜI GIAN - LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC.pdfCHUỖI THỜI GIAN - LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC.pdf
CHUỖI THỜI GIAN - LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC.pdf
 
Experimental Research on the Effect of Self-monitoring Technique on Improving...
Experimental Research on the Effect of Self-monitoring Technique on Improving...Experimental Research on the Effect of Self-monitoring Technique on Improving...
Experimental Research on the Effect of Self-monitoring Technique on Improving...
 
Vietnamese translated variants of verbs of Giving Receiving in Harry Potter a...
Vietnamese translated variants of verbs of Giving Receiving in Harry Potter a...Vietnamese translated variants of verbs of Giving Receiving in Harry Potter a...
Vietnamese translated variants of verbs of Giving Receiving in Harry Potter a...
 
[123doc] - university-of-copenhagen-characteristics-of-the-vietnamese-rural-e...
[123doc] - university-of-copenhagen-characteristics-of-the-vietnamese-rural-e...[123doc] - university-of-copenhagen-characteristics-of-the-vietnamese-rural-e...
[123doc] - university-of-copenhagen-characteristics-of-the-vietnamese-rural-e...
 
university of copenhagen Characteristics of the Vietnamese Rural EconomyEvide...
university of copenhagen Characteristics of the Vietnamese Rural EconomyEvide...university of copenhagen Characteristics of the Vietnamese Rural EconomyEvide...
university of copenhagen Characteristics of the Vietnamese Rural EconomyEvide...
 

Recently uploaded

Recently uploaded (20)

Tiểu luận triết học_Nguyễn Gia Nghi_QHCCCLC_11230120.pdf
Tiểu luận triết học_Nguyễn Gia Nghi_QHCCCLC_11230120.pdfTiểu luận triết học_Nguyễn Gia Nghi_QHCCCLC_11230120.pdf
Tiểu luận triết học_Nguyễn Gia Nghi_QHCCCLC_11230120.pdf
 
Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện an toàn lao động điện công ty trách nhiệm hữu h...
Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện an toàn lao động điện công ty trách nhiệm hữu h...Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện an toàn lao động điện công ty trách nhiệm hữu h...
Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện an toàn lao động điện công ty trách nhiệm hữu h...
 
Báo cáo bài tập nhóm môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bà...
Báo cáo bài tập nhóm môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bà...Báo cáo bài tập nhóm môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bà...
Báo cáo bài tập nhóm môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bà...
 
Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực c...
Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực c...Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực c...
Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực c...
 
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...
 
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Kế toán tiền mặt tại Công ty trách nhiệm hữu hạn ...
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Kế toán tiền mặt tại Công ty trách nhiệm hữu hạn ...Báo cáo thực tập tốt nghiệp Kế toán tiền mặt tại Công ty trách nhiệm hữu hạn ...
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Kế toán tiền mặt tại Công ty trách nhiệm hữu hạn ...
 
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích hiệu quả hoạt động huy động và cho vay ...
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích hiệu quả hoạt động huy động và cho vay ...Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích hiệu quả hoạt động huy động và cho vay ...
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích hiệu quả hoạt động huy động và cho vay ...
 
Hệ thống ca dao than thân người Việt từ góc nhìn thi pháp
Hệ thống ca dao than thân người Việt từ góc nhìn thi phápHệ thống ca dao than thân người Việt từ góc nhìn thi pháp
Hệ thống ca dao than thân người Việt từ góc nhìn thi pháp
 
Tóm tắt luận văn Hệ thống ca dao than thân người Việt từ góc nhìn thi pháp
Tóm tắt luận văn Hệ thống ca dao than thân người Việt từ góc nhìn thi phápTóm tắt luận văn Hệ thống ca dao than thân người Việt từ góc nhìn thi pháp
Tóm tắt luận văn Hệ thống ca dao than thân người Việt từ góc nhìn thi pháp
 
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tại...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tại...Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tại...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tại...
 
35 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM ...
35 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM ...35 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM ...
35 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM ...
 
Báo cáo tốt nghiệp Kế toán tiền gửi ngân hàng tại công ty TNHH Một Thành Viên...
Báo cáo tốt nghiệp Kế toán tiền gửi ngân hàng tại công ty TNHH Một Thành Viên...Báo cáo tốt nghiệp Kế toán tiền gửi ngân hàng tại công ty TNHH Một Thành Viên...
Báo cáo tốt nghiệp Kế toán tiền gửi ngân hàng tại công ty TNHH Một Thành Viên...
 
Phân tích báo cáo tài chính tại công ty TNHH xây dựng và thương mại Thịnh An
Phân tích báo cáo tài chính tại công ty TNHH xây dựng và thương mại Thịnh AnPhân tích báo cáo tài chính tại công ty TNHH xây dựng và thương mại Thịnh An
Phân tích báo cáo tài chính tại công ty TNHH xây dựng và thương mại Thịnh An
 
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro quá trình xử lí nước cấp tại Chi nhánh Cấp...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro quá trình xử lí nước cấp tại Chi nhánh Cấp...Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro quá trình xử lí nước cấp tại Chi nhánh Cấp...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro quá trình xử lí nước cấp tại Chi nhánh Cấp...
 
Hoàn thiện công tác kiểm soát chi NSNN qua Kho bạc Nhà nước huyện Tri Tôn – t...
Hoàn thiện công tác kiểm soát chi NSNN qua Kho bạc Nhà nước huyện Tri Tôn – t...Hoàn thiện công tác kiểm soát chi NSNN qua Kho bạc Nhà nước huyện Tri Tôn – t...
Hoàn thiện công tác kiểm soát chi NSNN qua Kho bạc Nhà nước huyện Tri Tôn – t...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...
Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...
Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...
 
NHKTS SLIDE B2 KHAI NIEM FINTECH VA YEU TO CUNG CAU DOI MOI TRONG CN_GV HANG ...
NHKTS SLIDE B2 KHAI NIEM FINTECH VA YEU TO CUNG CAU DOI MOI TRONG CN_GV HANG ...NHKTS SLIDE B2 KHAI NIEM FINTECH VA YEU TO CUNG CAU DOI MOI TRONG CN_GV HANG ...
NHKTS SLIDE B2 KHAI NIEM FINTECH VA YEU TO CUNG CAU DOI MOI TRONG CN_GV HANG ...
 
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường ô nhiễm hữu cơ trong nước thải ...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường ô nhiễm hữu cơ trong nước thải ...Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường ô nhiễm hữu cơ trong nước thải ...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường ô nhiễm hữu cơ trong nước thải ...
 
Thực trạng ứng dụng công nghệ trong lĩnh vực giống cây trồng: Nghiên cứu điển...
Thực trạng ứng dụng công nghệ trong lĩnh vực giống cây trồng: Nghiên cứu điển...Thực trạng ứng dụng công nghệ trong lĩnh vực giống cây trồng: Nghiên cứu điển...
Thực trạng ứng dụng công nghệ trong lĩnh vực giống cây trồng: Nghiên cứu điển...
 

Phong cách kinh học và tư tưởng của Lê Văn Ngữ 6795510.pdf

  • 1. 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN Mai Thu Quỳnh Chu Dịch cứu nguyên - phong cách kinh học và tư tưởng của Lê Văn Ngữ Luận văn ThS. Ngôn ngữ học: 60 22 40 Nghd. : GS.TS. Lê Văn Quán
  • 2. 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN Mai Thu Quỳnh Chu Dịch cứu nguyên - phong cách kinh học và tư tưởng của Lê Văn Ngữ Luận văn ThS. Ngôn ngữ học: 60 22 40 Nghd. : GS.TS. Lê Văn Quán
  • 3. MỤC LỤC MỞ ĐẦU..................................................................................................1 1- LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:..................................................................................1 2- TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ ĐỀ TÀI:.....................................................2 3- MỤC TIÊU VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU: ...............................................4 4- PHẠM VI VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI:...........................5 5- Ý NGHĨA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA LUẬN VĂN:..........................6 6- KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN:.........................................................................6 7- QUY CÁCH TRÌNH BÀY:.............................................................................6 PHẦN NỘI DUNG..................................................................................8 CHƯƠNG I: VĂN BẢN CHU DỊCH CỨU NGUYÊN VÀ TÁC GIẢ LÊ VĂN NGỮ................................................................................................... 8 I. VĂN BẢN CHU DỊCH CỨU NGUYÊN:....................................................8 2. TÁC GIẢ LÊ VĂN NGỮ (1860 – 1934): ..................................................20 CHƯƠNG II: LÊ VĂN NGỮ VỚI CHU DỊCH CỨU NGUYÊN............ 31 1.DIỆN MẠO DỊCH HỌC VIỆT NAM: ......................................................31 1.1 TỔNG QUAN VỀ CHU DỊCH: ......................................................................31 1.2. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN DỊCH HỌC Ở VIỆT NAM TRƯỚC THẾ KỈ XX: ..35 1.3. ĐẶC ĐIỂM CỦA DỊCH HỌC VIỆT NAM TRƯỚC THẾ KỈ XX: ..........50 2.NHỮNG ĐIỂM ĐỘC ĐÁO CỦA CHU DỊCH CỨU NGUYÊN:...............61 2.1.HÌNH THỨC, QUAN ĐIỂM VÀ PHƯƠNG PHÁP CHÚ GIẢI CHU DỊCH..65 2.2.THỜI TRUNG – HẠT NHÂN CỦA CHU DỊCH VÀ CŨNG LÀ ĐẠO THỐNG:..................................................................................................................78 2.3.VẬN DỤNG DỊCH GIẢI THÍCH CÁC NHO ĐIỂN KHÁC VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ CỦA VĂN HÓA - XÃ HỘI HIỆN ĐẠI:...............................................81 KẾT LUẬN............................................................................................86 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................91
  • 4. Mai Thu Quỳnh. Chu Dịch cứu nguyên – Phong cách kinh học và tư tưởng của Lê Văn Ngữ 1 MỞ ĐẦU 1- LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Đạo Nho – hệ tư tưởng giữ vai trò chủ đạo trong đời sống chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hóa Trung Hoa nói riêng và phương Đông truyền thống nói chung – có một đặc điểm nổi bật là rất coi trọng sách vở. Các nhà Nho trứ thư để lập thuyết và mọi hiểu biết của họ đều có xu hướng được viết thành sách để lưu truyền cho kẻ hậu học. Do có đặc điểm đó nên khi nghiên cứu về Nho giáo nghiên cứu viên không thể thoát ly khỏi những kinh tịch của học thuyết này. Trong bộ kinh tịch cơ bản và cô đọng nhất của Nho gia là Tứ thư (四書) và Ngũ kinh (五經), kinh Dịch(易) nổi lên như là một tác phẩm huyền bí nhất và có nhiều cách hiểu nhất. Bởi thế nên cho dù đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về Dịch học ra đời từ sau khi kinh Dịch xuất hiện nhưng Dịch học vẫn là vấn đề cần nhiều công sức nghiên cứu hơn nữa. Tuy không có cách đánh giá và nhìn nhận thống nhất về mặt tư tưởng (như đã nói ở trên) nhưng kinh Dịch lại chứa trong nó những lớp trầm tích quý của nền văn hóa Trung Hoa cổ đại. Vì thế mà dù rất khó khăn nhưng những người nghiên cứu văn hóa cổ truyền của phương Đông nói chung không thể không bước qua cây cầu Chu Dịch (周易) đầy bí ẩn và kỳ thú này. Ở Việt Nam, kinh Dịch được coi là cuốn sách có rất nhiều ứng dụng và cũng là cuốn sách thể hiện tư duy ở trình độ cao. Trong khi các học giả, các nhà nghiên cứu thường thận trọng và dè dặt mỗi lần nhắc đến Dịch thì trong dân gian, các thầy cúng thầy bói lại thả sức mượn Dịch để bói toán, điều này đã khiến cho Chu Dịch tồn tại trong đời sống người Việt với tư cách là cuốn sách bói nhiều hơn là tư cách một kiệt tác văn hóa cổ truyền. Người Việt Nam đang rất chú ý đến Chu Dịch tuy không phải ai đọc Dịch cũng đều hiểu đúng và vận
  • 5. Mai Thu Quỳnh. Chu Dịch cứu nguyên – Phong cách kinh học và tư tưởng của Lê Văn Ngữ 2 dụng Dịch thành công. Do đó, chúng tôi cho rằng việc tìm hiểu Chu Dịch một cách tổng quan dưới con mắt khoa học là điều rất cần thiết. Đặc biệt, trong tình hình tìm hiểu Chu Dịch ở Việt Nam như đã nói ở trên, có một dòng nghiên cứu Dịch tuy không tạo được nhiều tiếng vang nhưng không phải là không đáng kể, đó là dòng nghiên cứu Chu Dịch của các học giả Việt Nam trung cận đại. Khi nhắc đến Dịch học ở Việt Nam, những người đã từng tìm hiểu về Dịch thường cho rằng các tác phẩm viết về Chu Dịch của người Việt chủ yếu là tóm tắt nội dung và dịch các quẻ ra tiếng Việt, hoặc nếu có khảo cứu thì phần lớn lại chịu ảnh hưởng bởi Chu Dịch lược lệ (周易略例) của Vương Bật đời Ngụy (Trung Quốc) hay Chu Dịch bản nghĩa (周易本義) của Chu Hy đời Nam Tống (Trung Quốc). Thế nhưng trên thực tế đã có một người Việt Nam khảo cứu Chu Dịch bằng cách áp dụng những thành tựu khoa học và tư tưởng của phương Tây nói chung và phương Tây thời cận đại nói riêng. Đó chính là trường hợp của Lê Văn Ngữ (黎文敔) với cuốn Chu Dịch cứu nguyên (周易究原). Đây là cuốn sách có phương pháp tiếp cận Dịch học rất riêng mà chúng ta cần xem xét. Vì những lí do cơ bản đó, chúng tôi đã quyết định chọn đề tài cho luận văn này là Chu Dịch cứu nguyên – phong cách kinh học và tư tưởng của Lê Văn Ngữ. 2- TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ ĐỀ TÀI: Chu Dịch là nguồn đề tài nghiên cứu vô tận cho các học giả. Mà không chỉ có những người theo đuổi lĩnh vực văn hóa truyền thống phương Đông, các nhà khoa học tự nhiên, các nhà khoa học kĩ thuật công nghệ hiện đại cũng đã có một số công trình nghiên cứu đáng trân trọng về Chu Dịch. Theo kết quả sưu tầm thống kê sơ bộ của hai tác giả là Dương Ngọc Dũng và Lê Anh Minh trong
  • 6. Mai Thu Quỳnh. Chu Dịch cứu nguyên – Phong cách kinh học và tư tưởng của Lê Văn Ngữ 3 cuốn Chu Dịch và cấu hình tư tưởng Trung Quốc (NXB. Khoa học Xã hội, 2006), tính đến năm 1993 đã có 4863 quyển thuộc 1379 bộ sách của người Trung Quốc viết về Chu Dịch. Đó là các sách lấy đề tài và triển khai nội dung nghiên cứu Chu Dịch trên quê hương của Dịch tính đến năm 1993. Còn các tác phẩm nghiên cứu Dịch của những người không thuộc dân tộc Hoa Hạ vào thời gian sau đó, các tác phẩm nghiên cứu Dịch của các nước và đặc biệt là các tác phẩm vận dụng quan điểm của Dịch thì nhiều đến mức khó mà thống kê được. Chu Dịch cứu nguyên của Lê Văn Ngữ cũng chính là một công trình của người Việt thời cận hiện đại nghiên cứu về Dịch. Với tư cách là một sản phẩm của Dịch học Việt Nam, tác phẩm Chu Dịch cứu nguyên, cho đến nay mới có hai bài tham luận đề cập đến: 1. Bài tham luận của Benjamin Wai-ming Ng (Ngô Vĩ Minh) 吳偉明 (Chinese University of Hong Kong) trong Hội nghị lần 3 về Nho Giáo tại Việt Nam, tổ chức tại Tp Hồ Chí Minh từ 19 đến 21 tháng 7, 2001. Nguyên tựa bài tham luận: Yijing Scholarship in Late-Nguyen Vietnam: A Study of Le Van Ngu's 黎文敔 Chu Dich Cuu Nguyen 周易究原 (An Investigation of the Origins of the Yijing, 1916), tạm dịch là “Dịch học ở Việt Nam cuối thời Nguyễn: Chu Dịch cứu nguyên – một nghiên cứu của Lê Văn Ngữ”. Ở đây Ngô Vĩ Minh đã có một số nhận xét sắc sảo về Dịch học Việt Nam và tư tưởng của Lê Văn Ngữ thể hiện trong Chu Dịch cứu nguyên. Tuy nhiên, còn một vài tổng kết về thái độ của Lê Văn Ngữ đối với Thập dực (十翼), đặc biệt là đối với Văn ngôn (文言), còn chưa thật thoả đáng. Ví dụ, Ngô Vĩ Minh đã cho rằng: Trong Thập dực, ông chỉ thích Văn ngôn và ca tụng rằng đó là nguồn tham khảo tốt nhất về ý nghĩa của các thuật ngữ dùng trong kinh Dịch rồi ông chú thích rằng xem văn bản Chu Dịch cứu nguyên trang 37. Nhưng theo thực tế khảo sát của chúng tôi thì trang 37 nói riêng và cả tác phẩm
  • 7. Mai Thu Quỳnh. Chu Dịch cứu nguyên – Phong cách kinh học và tư tưởng của Lê Văn Ngữ 4 Chu Dịch cứu nguyên nói chung không có chỗ nào nhận xét về Văn ngôn như vậy. 2. Bài tham luận của Hướng Thế Lăng (向 世 陵) – giáo sư trường Đại học Nhân dân Trung Quốc (中 國 人 民 大 學 教 授) trong hội thảo Nho học ở Việt Nam tổ chức tại Hà Nội năm 2007, bài tham luận mang tên: Nghiên cứu Dịch học Lý học của Lê Ngữ (黎 敔 理 學 易 學 研 究 ). Bài tham luận này ca ngợi Lê Văn Ngữ đã vượt ra khỏi những ảnh hưởng trong đánh giá Chu Dịch của Lý học để có những nhận định riêng. Nói chung, hai bài tham luận trên bước đầu đã nêu lên những điểm đặc sắc về cách nghiên cứu, giải thích Chu Dịch của tác giả Lê Văn Ngữ. Tuy nhiên, vì là bài tham luận của hội thảo nên những tổng kết và phát hiện của hai tác giả trên mới dừng ở mức độ sơ khởi. Ngoài ra, về tác giả Lê Văn Ngữ và tác phẩm khác của ông thì còn có một bài tham luận của Lý Chước/Trác Nhiên (李 焯 然) ở Hội thảo nghiên cứu học thuật phương pháp diễn giải văn hiến truyền thế Đông Á (東 亞 傳 世 文 獻 譯 解 方 法 學 術 研 討 會) diễn ra ở Đại học Quốc lập Đài Loan vào tháng 12 năm 2003 mang tên Sự giải thích Đại học của Cuồng Sĩ Lê Văn Ngữ Việt Nam qua Đại học tích nghĩa (越 南 狂 士 黎 文 敔 《大 學 晰 義》 对 《 大 學》 的 詮 釋). Như vậy, vấn đề tác phẩm Chu Dịch cứu nguyên và tác giả Lê Văn Ngữ cho đến nay còn là một vấn đề mở khuyến khích các nghiên cứu chuyên sâu. 3- MỤC TIÊU VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU: Khi bắt tay xử lý vấn đề này, chúng tôi hướng đến những mục tiêu sau:
  • 8. Mai Thu Quỳnh. Chu Dịch cứu nguyên – Phong cách kinh học và tư tưởng của Lê Văn Ngữ 5 Một là khái quát quá trình phát triển và đặc điểm của Dịch học Việt Nam từ thế kỉ XX trở về trước. Hai là, bước đầu tìm hiểu giá trị của tác phẩm Chu Dịch cứu nguyên và tư tưởng của tác giả Lê Văn Ngữ thể hiện qua tác phẩm này, từ đó hướng tới làm rõ những đóng góp của Lê Văn Ngữ đối với Dịch học của Việt Nam nói riêng và Dịch học nói chung. Ba là, chúng tôi mong muốn luận văn này sẽ góp tiếng nói khẳng định một thành tựu khảo cứu Chu Dịch theo lối nghi cổ, mong giúp chúng ta có cái nhìn đầy đủ hơn về bản chất của Chu Dịch cũng như Dịch học ở Việt Nam. Bốn là, cung cấp cho người đọc một tài liệu mới được phát hiện về Dịch học Việt Nam, góp phần vào sự nghiệp khảo và luận tư tưởng Nho gia ở Việt Nam thể hiện qua các tác phẩm. Để thực hiện các mục tiêu đó, nhiệm vụ của luận văn này là: Thứ nhất, làm công tác văn bản để xác định tác phẩm, đồng thời tập hợp tư liệu sách vở và đi thực tế, khai thác các thông tin liên quan đến tác giả Lê Văn Ngữ. Thứ hai, phiên âm và dịch nghĩa tác phẩm sang chữ quốc ngữ. Thứ ba, tổng kết con đường du nhập, phát triển của Dịch học ở Việt Nam trước thế kỉ XX. Thứ tư, đọc, phân tích tác phẩm Chu Dịch cứu nguyên của Lê Văn Ngữ để tìm ra những giá trị riêng có của tác phẩm này. 4- PHẠM VI VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI: Ban đầu, khi được tiếp xúc với một tác phẩm Hán Nôm còn chưa mấy ai biết đến, chúng tôi đã rất hào hứng, những muốn sẽ thông qua tác phẩm này để xâu chuỗi cả 6 tác phẩm của Lê Văn Ngữ đến nay cũng chưa nhiều người biết và rút ra phong cách kinh học của Lê Văn Ngữ. Tuy nhiên, với khuôn khổ và những yêu cầu cụ thể của luận văn này, ý tưởng đó đã không thể thực hiện
  • 9. Mai Thu Quỳnh. Chu Dịch cứu nguyên – Phong cách kinh học và tư tưởng của Lê Văn Ngữ 6 được. Hiện trong bản luận văn này, chúng tôi chỉ làm rõ vấn đề tác giả của tác phẩm và một vài giá trị nổi bật nhất của Chu Dịch cứu nguyên. Những hướng khảo cứu ban đầu và một số vấn đề khác xin được thực hiện sau – khi có nhiều thời gian và dụng công hơn. Với giới hạn nghiên cứu nói trên, chúng tôi sẽ chủ yếu sử dụng các phương pháp cơ bản của Văn bản học và các phương pháp cụ thể khác như: đi điền dã, tổng hợp – phân tích, so sánh đối chiếu, hệ thống,... 5- Ý NGHĨA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA LUẬN VĂN: Những kết quả của luận văn này sẽ góp tiếng nói giới thiệu một tác giả Hán Nôm mà chúng ta đang lưu giữ khá đầy đủ, trọn vẹn các tác phẩm của ông nhưng lại chưa biết nhiều về ông. Đồng thời, luận văn này cũng góp phần giới thiệu diện mạo Dịch học Việt Nam trước thế kỉ XX. Luận văn còn cung cấp một nguồn tài liệu phục vụ công tác giảng dạy và học tập kinh Dịch trong nhà trường cũng như cung cấp tài liệu để các nghiên cứu viên tham khảo. 6- KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN: Luận văn này gồm 3 phần: phần mở đầu, phần nội dung và phần kết luận; trong đó phần nội dung có 2 chương chính: chương I xác định văn bản, chương II phân tích một số giá trị của tác phẩm. 7- QUY CÁCH TRÌNH BÀY: - Tên tác phẩm: viết hoa chữ cái đầu, in nghiêng. Tên tác phẩm nằm trong đoạn trích: in nghiêng đậm để phân biệt. - Phiên âm Hán Việt: in nghiêng. - Trích chính xác (dẫn chứng): in nghiêng.
  • 10. Mai Thu Quỳnh. Chu Dịch cứu nguyên – Phong cách kinh học và tư tưởng của Lê Văn Ngữ 7 - Quy cách viết hoa: tên người, tên địa danh viết hoa toàn bộ; tên tước vị viết hoa chữ đầu tiên. - Quy ước viết tắt: Viết tắt Viết đầy đủ Nxb Nhà xuất bản Tr hoặc tr. Trang, trang q. quyển TVVNCHN Thư viện viện Nghiên cứu Hán Nôm GS.TS, PGS.TS Giáo sư. tiến sĩ, phó giáo sư. tiến sĩ
  • 11. Mai Thu Quỳnh. Chu Dịch cứu nguyên – Phong cách kinh học và tư tưởng của Lê Văn Ngữ 8 PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG I: VĂN BẢN CHU DỊCH CỨU NGUYÊN VÀ TÁC GIẢ LÊ VĂN NGỮ I. VĂN BẢN CHU DỊCH CỨU NGUYÊN: Bộ sách chúng tôi khảo sát ở đây là một văn bản gồm hai tập, theo chỉ dẫn trong các bức thư riêng của tác giả thì sách này có ít nhất là 04 bản nhưng hiện chúng tôi chỉ có thông tin và văn bản (ở dạng tài liệu sao chụp) của một bản1 . Bản phục vụ độc giả là bản được photo từ bản gốc mang kí hiệu A.2592/1 (tập 1) và A.2592/2 (tập 2) của thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Chúng tôi đã được tiếp xúc với bản gốc và thấy: hai quyển sách có hình chữ nhật, bìa được hồ cứng màu đỏ tía, gáy sách quét sơn ta, đốc sách quét màu đỏ tía và có ghi hai chữ 易 上 (Dịch thượng) ở quyển thứ nhất và 易 下 (Dịch hạ) ở cuốn thứ hai. Mấy trang đầu của cả hai cuốn đều có 4 con dấu kiểm kê của thư viện. Hình dạng của 4 con dấu này đều là hình vuông, trong đó có 2 dấu bằng nhau và nhỏ hơn 2 dấu còn lại, 1 trong 2 dấu nhỏ đã bị mờ không đọc được, dấu kia ghi năm kiểm kê là 1967; 2 dấu lớn hơn ghi năm kiểm kê thư viện là 1986 và 1991. Vậy là sách này đã có mặt trong thư viện muộn nhất là vào năm 1967. Đây là cuốn sách chép tay được làm cẩn thận và còn khá mới. Đặc điểm hình thức của từng quyển như sau: Quyển thứ nhất (quyển thượng, tức tập 1): bìa màu đỏ tía; khổ 5,7cm x 28cm; giấy dó gồm 70 tờ đã được đánh số tờ cùng 02 tờ đầu và 02 tờ cuối quyển không đánh số tờ; lề trên của trang giấy: 4cm; lề dưới: 1cm; lề phải: 0,5cm; lề trái: từ tờ 1 đến tờ 5: 1cm, từ tờ 6 đến hết: 0,5cm; khoảng cách giữa các dòng là 01cm; cỡ chữ là 01x01cm; về số dòng chữ trong một trang giấy, từ 1 Bản này là bản được tác giả gửi Tòa Viễn đông bác cổ; ngoài ra còn có bản gửi cho quan Phụ chính họ Tôn Thất, bản gửi Thống sứ Bắc kỳ và bản gửi Thượng Hải Quảng học hội. Xin xem thêm phần sau.
  • 12. Mai Thu Quỳnh. Chu Dịch cứu nguyên – Phong cách kinh học và tư tưởng của Lê Văn Ngữ 9 tờ 1 đến hết tờ 5 mỗi trang 7 dòng, từ tờ 6 đến hết quyển mỗi trang gồm 8 dòng; dòng nhiều nhất là 24 chữ và dòng ít nhất là 01 chữ. Trong số 04 tờ không được đánh số, 02 tờ cuối quyển không có chữ, 02 tờ đầu quyển ghi những điều như sau:tờ thứ nhất, trên đầu của trang đầu tiên có mấy chữ quốc ngữ: Chu Dịch cứu nguyên, và số I ở ngay dưới chân bốn chữ Chu Dịch cứu nguyên đó; tờ thứ hai bắt đầu bằng trang chữ Pháp, trang sau là trang tiếng Việt có đầu đề là Dịch nhời quan Thống Sứ. Nét chữ ở tờ đầu tiên và tờ thứ hai rất giống nhau. Quyển thứ hai (quyển hạ, tức tập 2): bìa màu đỏ tía; khổ giấy 6cm x 27,3cm; giấy dó gồm 71 tờ đã được đánh số tờ cùng 03 tờ đầu và 01 tờ cuối không được đánh số; lề trái bằng lề phải và bằng 0,5cm; lề trên 5cm; lề dưới 1cm; khoảng cách giữa các dòng là 01cm; cỡ chữ là 01x01cm; mỗi trang có 8 dòng và mỗi dòng khoảng 24 chữ. Trong số 04 tờ không được đánh số thứ tự, 03 tờ đứng đầu và 01 tờ đứng cuối quyển; tờ cuối quyển không có chữ; tờ đầu tiên ghi mấy chữ: Chu Dịch cứu nguyên và số II với nét chữ, vị trí và bố cục như ở quyển 1; sau tờ đầu tiên này là 02 tờ không có chữ. Về kiểu chữ và cỡ chữ: phần chữ quốc ngữ ở cả hai cuốn đều được viết bằng bút sắt và cùng một nét bút, chứng tỏ là do một người viết ra; còn phần chữ Hán được viết theo thể chân và cả hai cuốn cũng thống nhất về nét bút, tức là cũng do một người viết ra. Như vậy, hai cuốn A.2592/1 và A.2592/2 có hình thức thống nhất, cách trình bày thống nhất: bìa sách của cả hai quyển là màu đỏ tía, khổ giấy khoảng 6cm x 27,5cm, cả hai đều là sách chép tay theo thể chữ chân trên nền giấy dó; cỡ chữ Hán ở hai cuốn đồng đều nhau, nét chữ quốc ngữ ở đầu hai cuốn cũng như nét chữ Pháp ở đầu cuốn thứ nhất là giống nhau. Từ đó suy ra phần chữ quốc ngữ và chữ Pháp trong sách do một người viết và phần chữ Hán trong sách cũng do một người viết. Sách còn khá mới, lại có cả chữ Pháp được viết bằng bút sắt nên nhận định ban đầu của chúng tôi là thời điểm làm ra (hoặc
  • 13. Mai Thu Quỳnh. Chu Dịch cứu nguyên – Phong cách kinh học và tư tưởng của Lê Văn Ngữ 10 chép lại) của sách này sớm nhất là khoảng thế kỉ XVIII hoặc XIX và muộn nhất là khoảng trước năm 1967 (vì có dấu kiểm kê của thư viện vào năm 1967). Như đã mô tả ở trên, phần chữ quốc ngữ ở đầu hai cuốn và chữ Pháp ở đầu cuốn thứ nhất đều do một người viết. Điều này có nghĩa là người đặt tên Chu Dịch cứu nguyên cho bộ sách này rồi chia chúng thành tập I và tập II cũng chính là người chép trang tiếng Pháp và tiếng Việt ở tờ thứ hai của tập I. Đọc hai trang đó thì thấy đây là một bức thư của quan Thống sứ Bắc kỳ gửi cho ông Lê Văn Ngữ ở xã Vạn Lộc phủ Xuân Trường, Nam Định để trả lời bức thư gửi quan Thống Sứ của ông này viết vào ngày 15 tháng giêng năm 1928; trang tiếng Việt phía sau là bản dịch của trang tiếng Pháp mặt trước. Nguyên văn bản dịch như sau1 : Dịch nhời quan Thống Sứ Tôi giả nhời cái thơ ông ngày mười rằm tháng giêng năm một nghìn chín trăm hai mươi tám, tôi tỏ lòng chung mà giả nhời để ông biết rằng: công trình ông làm những sách nho như thế này, mà chưa có thể in để rùng chung được, tôi thực tiếc lắm, vì sách ông cũng bổ ích nhiều mà chưa hợp thời, và chưa tiện rụng cho các trường học. Vậy tôi gửi lại ông hoặc ông muốn xuất bản thạch ấn, xin tùy ý ông. Tôi đổi lòng chung thực mà coi ông cách đặc biệt sâu sắc lắm. Đoạn dịch trên so với bản tiếng Pháp ở trang trước thì còn thiếu phần đầu thư ghi: của quan Thống Sứ Bắc kỳ gửi ông Lê Văn Ngu (Ngữ) xã Vạn Lộc phủ Xuân Trường, Nam Định. Bức thư của ông Lê Văn Ngữ tại sao lại có mặt ở đầu sách này? Những bức thư riêng thì chỉ có người được gửi hoặc người thân cận nhất của người được gửi mới giữ nó, vậy phải chăng bức thư và cuốn sách đều là vật sở hữu của một người là ông Lê Văn Ngữ? 1 Chúng tôi chép và giữ nguyên cách dùng từ, cách hạ dấu câu và cách viết hoa của văn bản.
  • 14. Mai Thu Quỳnh. Chu Dịch cứu nguyên – Phong cách kinh học và tư tưởng của Lê Văn Ngữ 11 Thống Sứ Bắc kỳ nhận được một bức thư của ông Lê Văn Ngữ viết vào ngày 15 tháng giêng năm 1928, điều này chứng tỏ rằng ông Lê Văn Ngữ là người sống vào khoảng cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Câu nói của Thống sứ Bắc kỳ: công trình ông làm những sách nho như thế này,... mách bảo chúng ta rằng ông Lê Văn Ngữ đã làm hơn một cuốn sách “nho” (tức là sách viết về những nội dung liên quan đến Nho giáo hoặc sách viết bằng văn tự Hán hoặc là sách gồm cả hai phương diện trên). Lời lẽ của bức thư còn giúp chúng ta có thể đưa ra giả thuyết: Sau khi làm một số sách liên quan đến Nho giáo và Hán tự, ông Lê Văn Ngữ đã gửi chúng cùng một bức thư cho quan Thống sứ Bắc kỳ thời đó đề nghị đem những cuốn sách ấy ra in để sử dụng trong các trường học đương thời. Bức thư đã đến tay người cần nhận, nhưng quan Thống sứ Bắc kỳ hồi đó đã viết bức thư bằng tiếng Pháp kể trên để từ chối đề nghị của Lê Văn Ngữ. Vậy bức thư của Lê Văn Ngữ đã gửi cho quan Thống sứ Bắc kỳ trước đó đâu; sách “nho” đã được Lê Văn Ngữ làm và gửi cho Thống sứ Bắc kỳ là những cuốn sách nào, cuốn sách chúng ta đang khảo sát có nằm trong số sách đó không; người chép và dịch bức thư trên là ai và thư ấy cùng người chép ấy có liên quan như thế nào với văn bản chúng ta đang tìm hiểu? Trước khi trả lời những câu hỏi trên để xác minh giả thuyết chúng tôi đưa ra, xin quay lại với văn bản A.2592/1 – 2. Văn bản này không có mục lục, chúng tôi đã thống kê thành một mục lục như sau: Tên mục Trang bắt đầu Trang kết thúc Chu Dịch đồ thuyết (周 易 圖 說) 1 10 Chu Dịch cứu nguyên tự (周 周 周 周 易 易 易 易 究 究 究 究 原 原 原 原 序 序 序 序) 11 13 化 原 考 論 (Hóa nguyên khảo luận) 13 19 圖 書 前 論 (Đồ thư tiền luận) 19 28 易 道 合 論 (Dịch đạo hợp luận) 28 34
  • 15. Mai Thu Quỳnh. Chu Dịch cứu nguyên – Phong cách kinh học và tư tưởng của Lê Văn Ngữ 12 卜 筮 問 答 (Bốc phệ vấn đáp) 35 38 圖 書 後 論 (Đồ thư hậu luận) 38 43 天 地 難 論 (Thiên địa nan luận) 43 61 龜 馬 考 論 (Quy mã khảo luận) 61 66 說 文 小 引 (Thuyết văn tiểu dẫn) 66 67 易 爻 鎖 說 (Dịch hào tỏa thuyết) 67 69 存 疑 并 序 (Tồn nghi tính tự) 69 81 解 疑 略 論 (Giải nghi lược luận) 81 85 卜 筮 改 法 (Bốc phệ cải pháp) 85 86 辨 惑 淺 論 (Biện hoặc thiển luận) 86 94 水 朝 新 演 (Thủy triều tân diễn) 94 104 附 錄 續 釋 文 王 彖 文 序 (Phụ lục tục thích Văn Vương Thoán văn tự) 105 107 附 錄 上 下 卦 名 詩 (Phụ lục thượng hạ quái danh thi) 108 108 周 周 周 周 易 易 易 易 究 究 究 究 原 原 原 原 上 上 上 上 經 經 經 經 (Chu Dịch cứu nguyên thượng kinh) 108 139 (hết tập thượng) 周 周 周 周 易 易 易 易 究 究 究 究 原 原 原 原 卷 卷 卷 卷 下 下 下 下 (Chu Dịch cứu nguyên quyển hạ) 01 138 (tập hạ) 附 錄 干 支 演 義 (Phụ lục can chi diễn nghĩa) 138 141 * Chú thích: số trang trên được căn cứ theo cách đánh số tờ bằng chữ Hán có sẵn ở văn bản, trong đó mỗi tờ gồm 2 trang.
  • 16. Mai Thu Quỳnh. Chu Dịch cứu nguyên – Phong cách kinh học và tư tưởng của Lê Văn Ngữ 13 Nhìn vào bảng kê mục lục trên đây chúng ta sẽ dễ dàng nhận thấy bố cục của cuốn sách như sau: mở đầu sách là mấy trang giải thích về những sơ đồ, biểu đồ của Chu Dịch; rồi đến bài tựa cho sách Chu Dịch cứu nguyên (周 易 究 原); sau bài tựa là 16 mục luận bàn về nguồn gốc vạn vật, Hà đồ Lạc thư, đạo Dịch, Dịch hào, bốc phệ,...; tiếp đó là phần chính văn của cuốn sách gồm phần một và phần hai của kinh1 Chu Dịch cứu nguyên. Bố cục sách và tên các mục trong sách như vậy đã cho chúng ta thấy rằng phần chính của cuốn sách này là kinh Chu Dịch cứu nguyên (gồm thượng kinh và hạ kinh, tổng cộng dung lượng là 85 tờ), còn 16 mục trước thượng và hạ kinh là các phần luận bàn, phát triển, tìm về nguyên nhân và nguồn gốc các chủ đề liên quan đến Chu Dịch; những bài đó cũng được viết với mục đích “cứu nguyên” và như vậy thì có thể nói rằng: 16 mục kia là phần phụ trợ cho Chu Dịch cứu nguyên thượng kinh và Chu Dịch cứu nguyên hạ kinh. Điều này đồng nghĩa với kết luận: cấu trúc và tên các đề mục trong sách đã chứng tỏ rằng cuốn sách này mang tên Chu Dịch cứu nguyên. Hơn nữa, nét chữ, giọng văn, cách tư duy, quan điểm về Dịch học và các vấn đề liên quan ở các bài luận và ở phần chính văn đều giống nhau nên bước đầu chúng tôi cũng khẳng định rằng tất cả các mục viết bằng chữ Hán trong sách này đều do một người làm ra. (Để đi sâu tìm dẫn chứng và chứng minh cho sự giống nhau này là một việc làm phức tạp mà một luận văn Cao học không cho phép, vì thế nên ở đây chúng tôi xin tạm khẳng định mà chưa đưa ra dẫn chứng và lập luận cụ thể). Tiếp tục đi vào nghiên cứu nội tại văn bản tác phẩm, chúng tôi thấy: Thứ nhất, mục Chu Dịch cứu nguyên tự (周 易 究 原 序 – lời tựa sách Chu Dịch cứu nguyên) có ghi: ...Sự mờ tối chìm đắm ấy kéo dài đến nay và kinh Dịch không được thuyết giảng nữa. Thật đáng buồn và đáng tiếc thay! Kẻ sĩ này sinh ra sau hàng ngàn năm nên chứng kiến sự tăm tối đã bao lâu của 1 Ở đây chúng tôi gọi theo tác giả, bởi tên của hai mục chính trong sách là Chu Dịch cứu nguyên thượng kinh và Chu Dịch cứu nguyên hạ kinh.
  • 17. Mai Thu Quỳnh. Chu Dịch cứu nguyên – Phong cách kinh học và tư tưởng của Lê Văn Ngữ 14 đạo Dịch, lo sợ những mầm mống tà thuyết ngày càng mọc lên mạnh, nên đã lắng lòng, chú tâm vào Dịch học... Do đó mà tôi viết lời tựa này và trình bày thành sách để thức tỉnh những người có tâm với việc học Dịch ở đời sau1 . “Kẻ sĩ này” tức là người viết bài tựa. Người ấy đã dốc sức học Dịch và viết ra cuốn sách này, chứng tỏ rằng tác giả viết sách cũng đồng thời là người viết bài tựa này và bài tựa này là viết cho văn bản có đính kèm nó. Mà bài tựa lại tên là Chu Dịch cứu nguyên tự nên từ đây có thể khẳng định: tên của sách này là Chu Dịch cứu nguyên. Thứ hai, ở cuối mục Chu Dịch cứu nguyên tự này còn ghi: 啟 定 元 年 歲 次 丙 辰 拾 月 上 浣 越 南 國 春 長 府 萬 祿 社 狂士 姓 黎 名 敔 字 應 和 謹 序 (Khải Định nguyên niên tuế thứ Bính Thìn thập nguyệt thượng hoán Việt Nam quốc Xuân Trường phủ Vạn Lộc xã cuồng sĩ tính Lê danh Ngữ tự Ứng Hòa cẩn tự - Cuồng sĩ họ Lê tên Ngữ tự là Ứng Hòa người xã Vạn Lộc phủ Xuân Trường nước Việt Nam kính cẩn ghi lời tựa). Đến đây thì chúng ta đã thấy rõ ràng rằng: Cuồng sĩ Lê Văn Ngữ tự là Ứng Hòa người xã Vạn Lộc phủ Xuân Trường (Nam Định) đã viết bài tựa trên cho cuốn sách của chính mình và cuốn sách mang tên Chu Dịch cứu nguyên (như đầu đề bài tựa đã cho thấy) chính là cuốn sách chúng ta đang khảo sát; tức là cuốn sách chúng tôi đang khảo sát - sách Chu Dịch cứu nguyên - chính là tác phẩm của người được nhận bức thư tiếng Pháp nói trên. Mà tên gọi của cuốn sách này đã nói lên rằng nó là sách Nho học. Vậy sách này rất có thể là một trong những sách đã được tác giả gửi cho Thống sứ Bắc kỳ. Nhận định trên còn được củng cố bởi những dẫn chứng như: Kẻ sĩ tôi... từ lúc tuổi 30 đến nay đã dốc hết tinh lực vào nghiên cứu (Dịch),... đến nay đã 57 tuổi mới bắt đầu có thể luộm thuộm làm thành sách này. (Chu Dịch cứu nguyên mục Tồn nghi tịnh tự, trang 71, 72) 1 Xin xem chữ Hán trong phần phụ lục đặt cuối luận văn.
  • 18. Mai Thu Quỳnh. Chu Dịch cứu nguyên – Phong cách kinh học và tư tưởng của Lê Văn Ngữ 15 “...từ năm 30 tuổi đến nay luôn lắng lòng khảo cứu, đến khi ngoài 50 tuổi thì việc trước tiên là giải thích kinh Dịch nên làm sách Cứu nguyên,...” (Chu Dịch cứu nguyên mục Phụ lục tục thích Văn Vương Thoán văn tự, trang 107) Cuốn Chu Dịch cứu nguyên này được Lê Văn Ngữ viết khi ông 57 tuổi, đó là năm nào? Theo số liệu chúng tôi thu thập được từ hậu duệ của Lê Văn Ngữ thì ông sinh năm 18601 . Từ đó suy ra, cuốn sách Chu Dịch cứu nguyên chúng ta đang xét đã chào đời năm 1917. Điều này hoàn toàn phù hợp với giới hạn về thời điểm sống của tác giả và thời điểm ra đời của tác phẩm mà chúng tôi đã ước lượng ở trên. Quay trở lại vấn đề Chu Dịch cứu nguyên có nằm trong số sách tác giả Lê Văn Ngữ đã gửi Thống sứ Bắc kỳ không. Đến đây chúng ta đã biết rằng Chu Dịch cứu nguyên ra đời năm 1917, mà Lê Văn Ngữ gửi thư và sách “nho” cho Thống sứ Bắc kỳ năm 1928. Vậy chắc hẳn Chu Dịch cứu nguyên phải có mặt trong số sách Lê Văn Ngữ gửi Thống sứ Bắc kỳ. Theo tác giả gợi ý ở mục Phụ lục tục thích Văn Vương Thoán văn tự, trang 107 của văn bản rằng: “đến khi ngoài 50 tuổi thì việc trước tiên là giải thích kinh Dịch nên làm sách Cứu nguyên, tiếp đó là giải thích Trung dung nên làm sách Thuyết ước. Khảo sát trong đó thì những điểm then chốt trong sự hòa hợp giữa trời và người không gì không được tiếp nối từ tính sáng rõ của Dịch tượng, thế nên tôi bèn lấy Dịch để khảo sát y học rồi lại làm thành sách Y học toản yếu để làm sáng tỏ sự thống nhất về lý của trời và người. Tiếp đó tôi lại đọc kĩ hai sách là Luận ngữ và Đại học rồi viết nên hai sách Tiết yếu và Tích nghĩa” thì ngoài Chu Dịch cứu nguyên ông còn lần lượt viết các sách: Trung dung thuyết ước (中 庸 說 約), Y học toản yếu (醫 學 纘 要), Luận ngữ tiết yếu (論 語 節 要), Đại học tích nghĩa (大 學 晰 義 ). Chúng tôi đã tìm trong thư viện của viện Nghiên cứu Hán Nôm và rất may là đã thấy và đọc được cả 5 cuốn sách đó cùng 02 cuốn khác cũng là của tác giả Lê Văn Ngữ mang tên Lễ kinh chủ nhân (禮 經 主 仁) và Phụ tra tiểu thuyết (附 槎 小 說). Đầu sách 1 Xem thêm ở mục 2. Tác giả Lê Văn Ngữ. ở sau mục này.
  • 19. Mai Thu Quỳnh. Chu Dịch cứu nguyên – Phong cách kinh học và tư tưởng của Lê Văn Ngữ 16 Trung dung thuyết ước có chép 03 bức thư, một bức gửi Phụ chính đại thần họ Tôn Thất, một bức gửi quan Thống sứ Bắc kì và một bức gửi Thượng Hải quảng học hội (上 海 廣 學 會), 03 bức thư này cũng được chép lại ở sách “Đại học tích nghĩa”. Bức thứ nhất (gửi quan Phụ chính họ Tôn Thất) đề tháng 12 năm Bảo Đại thứ hai (tức tháng 12 năm 1927), người viết là Cuồng Sĩ Lê Văn Ngữ ở xã Vạn Lộc huyện Giao Thủy phủ Xuân Trường tỉnh Nam Định; bức thư thứ hai và thứ ba không đề ngày tháng. Đọc bức thư thứ hai trong Trung dung thuyết ước và Đại học tích nghĩa, tức là bức thư gửi quan Thống sứ Bắc kỳ, chúng tôi thấy: thứ nhất, thư mở đầu với dòng chữ: Tôi Lê Văn Ngữ, tên bộ là Trí, ở làng Vạn Lộc tổng Trà Lũ phủ Xuân Trường làm thư này kính tiến lên quan Bắc kỳ Thống sứ đại thần đại nhân các hạ xin... chứng tỏ tác giả bức thư này là Lê Văn Ngữ; thứ hai, nó đặt ra những yêu cầu mà bức thư của Thống sứ Bắc kỳ gửi Lê Văn Ngữ (chép ở đầu sách Chu Dịch cứu nguyên) đã nhắc đến và giải đáp. Từ bằng chứng về tên người viết cùng người nhận và từ tính chất liền mạch trong hỏi đáp như vậy chúng tôi khẳng định rằng bức thư chép ở đầu sách Chu Dịch cứu nguyên chính là hồi âm của bức thư mà người viết là Lê Văn Ngữ đã chép lại nó trong tác phẩm của mình là Trung dung thuyết ước và Đại học tích nghĩa. Ngoài ra ở sách Luận ngữ tiết yếu cũng chép 01 bức thư gửi Tòa Bác cổ (tức viện Viễn Đông bác cổ hồi đó). Bức thư này cũng không đề ngày tháng, nhưng căn cứ vào nội dung thư chúng tôi biết rằng nó ra đời sau 03 bức thư kể trên và sau cả bức thư mà Thống Sứ Bắc kỳ gửi tác giả được chép ở đầu sách Chu Dịch cứu nguyên1 ; và những tập sách đang có mặt ở Thư viện của Viện nghiên cứu Hán Nôm có lẽ chính là số sách do chính tác giả Lê Văn Ngữ đã gửi kèm theo bức thư cho Tòa Bác cổ được chép ở sách Luận ngữ tiết yếu. Như vậy là hầu hết các tác phẩm của Lê Văn Ngữ đều có chép những bức thư của ông gửi đi nhằm thuyết phục chính quyền đương thời chấn hưng 1 Xin xem nội dung các bức thư ở phần phụ lục II.
  • 20. Mai Thu Quỳnh. Chu Dịch cứu nguyên – Phong cách kinh học và tư tưởng của Lê Văn Ngữ 17 Nho học. Trong đó bức thư nọ liên quan đến bức thư kia và tác phẩm này lại có đề cập đến tác phẩm khác. Vả lại, những bức thư được viết bằng chữ Hán và chữ Nôm với nét chữ rất giống phần chính văn của các sách. Đặc điểm này khiến chúng tôi thêm một lần nữa khẳng định chắc chắn rằng chúng cùng do một người viết. Vậy thì bức thư chữ Pháp và bản dịch của nó sang chữ quốc ngữ ở đầu sách Chu Dịch cứu nguyên cũng do người viết Chu Dịch cứu nguyên và 6 tác phẩm cùng 4 bức thư của Lê Văn Ngữ viết lại. Trong bức thư gửi tòa Bác cổ tác giả nói: đã làm được 05 bộ sách gồm 07 quyển và ông đã gửi 05 bộ sách ấy cho quan Phụ chính họ Tôn Thất, cho hội Quảng học ở Thượng Hải, cho Thống sứ Bắc kỳ. Mà 05 bộ sách được kể đến trong thư gửi quan Phụ chính họ Tôn Thất cũng là 05 bộ đã được nhắc đến ở mục Phụ lục tục thích Văn Vương Thoán văn tự của Chu Dịch cứu nguyên (gồm Chu Dịch cứu nguyên, Trung dung thuyết ước, Y học toản yếu, Luận ngữ tiết yếu, Đại học tích nghĩa). Còn hai sách khác là Lễ kinh chủ nhân và Phụ tra tiểu thuyết thì không thấy đả động gì. Tại sao thế? Phụ tra tiểu thuyết là tập hợp các bài viết về chuyến Lê Văn Ngữ phụ tá Từ Đạm1 đi sứ sang Pháp, lịch trình chuyến đi, những điều tác giả thấy, những điều tác giả muốn luận bàn, thư của tác giả thay mặt Từ Đạm viết gửi triều đình,... Trong sách này tác giả đã kể rằng mình cùng sứ đoàn đi Pháp từ ngày 12 tháng 4 năm Thành Thái 12 (1900)2 đến ngày 07 tháng 8 năm Thành Thái 12 (1900) thì về đến Hải Phòng. Cuối sách này còn chép bài Phụ lục tại hành vấn đáp (附 錄 在 行 問 答) viết năm Thành Thái 17 (1905). Từ đó suy ra sách này ra đời trong khoảng từ 1900 đến 1905, tức là được viết trước các cuốn Chu Dịch cứu nguyên, Trung dung thuyết ước, Y học toản yếu, Luận ngữ tiết yếu, 1 Từ Đạm: hiệu Cúc Nhân, người làng Khê Hồi, huyện Thường Tín, nay thuộc Hà Tây. Năm Thành Thái Ất Mùi (1895)được 34 tuổi, Từ Đạm đậu tiến sĩ, sau làm quan đến Tổng đốc. Khi làm quan đã có lần đi phái bộ sang Pháp. Tác phẩm có: Lãm Tây kỉ lược (sử), A.272. 2 Nếu tính năm Thành Thái thứ nhất là 1889 như các bảng tra niên hiệu các triều đại đang lưu hành thì năm Thành Thái 12 phải là năm 1901, nhưng trong văn bản tác giả lại chú thích là Tây lịch năm 1900. Ở đây chúng tôi ghi theo tác giả.
  • 21. Mai Thu Quỳnh. Chu Dịch cứu nguyên – Phong cách kinh học và tư tưởng của Lê Văn Ngữ 18 Đại học tích nghĩa (Điều này cũng có nghĩa là các tác phẩm chú giải Nho điển và Đông y kia được viết sau khi tác giả đã đi Pháp, đã tận mắt nhìn ngắm và tiếp xúc với đời sống văn minh Tây phương đương thời). Có lẽ bởi tính chất là cuốn nhật kí của một chuyến đi nên tác phẩm Phụ tra tiểu thuyết đã không được kể đến trong danh mục các tác phẩm được tác giả viết và gửi đi nhằm khẳng định tên tuổi của mình và trấn hưng Nho học. Ở đây xin chỉnh lý một chút về những ghi chép trong phụ lục cuối sách Phụ tra tiểu thuyết. Trong Phụ lục tại hành vấn đáp tác giả Lê Văn Ngữ viết: 不 才 於 一 千 九 百 年 曾 從 泰 省 督 學 徐 尊 官 (Bất tài ư nhất thiên cửu bách niên tằng tòng Thái tỉnh Đốc học Từ tôn quan – Kẻ bất tài tôi từng theo quan Đốc học Thái Nguyên [đi sang Pháp] vào năm 1900). Nhưng theo ghi chép của chính Từ Đạm trong cuốn Lãm Tây kỉ lược (覽 西 紀 略) mục Lãm Tây kỉ trình (覽 西 紀 程) (nằm ở cuối sách) thì khi đó ông giữ chức Tri phủ Xuân Trường (淡 辰 奉 職 春 長 府 知 府 – Đạm thời phụng chức Xuân Trường phủ Tri phủ: Đạm tôi lúc đó vâng nhận chức Tri phủ Xuân Trường). Chúng ta nên theo Từ Đạm để đính chính lại thông tin rằng: khi Lê Văn Ngữ phụ tá Từ Đạm đi sứ sang Pháp thì Từ Đạm đang giữ chức Tri phủ Xuân Trương chứ không phải là giữ chức Đốc học tỉnh Thái Nguyên như Lê Văn Ngữ đã kể ở sách Phụ tra tiểu thuyết mục Phụ lục tại hành vấn đáp. Còn về sách Lễ kinh chủ nhân, giở lại những trang đầu của bộ Lễ kinh chủ nhân chúng tôi thấy có một bài tựa dài 3 trang mang tên “禮 經 主 仁 序” (Lễ kinh chủ nhân tự - bài tựa sách Lễ kinh chủ nhân) được viết vào trung tuần tháng 11 năm Bảo Đại thứ 3 Mậu Thìn (1928) bởi Cuồng Sĩ Lê Ngữ tên tự là Ứng Hòa người ở Vạn Lộc, Xuân Trường, Nam Định nước Đại Nam. Sau khi đọc bài tựa này chúng tôi thấy cần phải nói hai điều: thứ nhất là tên đầy đủ của cuốn sách này là Lễ kinh chủ nhân (禮經主仁) chứ không phải là Lễ kinh (禮經) như sách Tên tự tên hiệu các tác gia Hán Nôm Việt Nam của tác giả Trịnh Khắc
  • 22. Mai Thu Quỳnh. Chu Dịch cứu nguyên – Phong cách kinh học và tư tưởng của Lê Văn Ngữ 19 Mạnh hoặc danh mục sách phục vụ độc giả của viện Nghiên cứu Hán Nôm đã viết; thứ hai là sách được làm gần một năm sau ngày ông Lê Văn Ngữ gửi thư và sách cho quan Phụ chính họ Tôn Thất, Thống sứ Bắc kỳ cũng như sau khi ông Lê Văn Ngữ gửi thư và sách cho Tòa Bác cổ. Bởi được hoàn thành sau khi tác giả Lê Văn Ngữ viết thư gửi Tòa Bác cổ nên đương nhiên là tác phẩm này không được nhắc đến trong bức thư đó. Nhưng bằng một cơ duyên nào đó, Lễ kinh chủ nhân cùng Phụ tra tiểu thuyết của tác giả Lê Văn Ngữ cũng đã có mặt ở Thư viện viện Nghiên cứu Hán Nôm. Đến đây chúng ta có thể hình dung ra quá trình Lê Văn Ngữ làm sách như sau: 40 tuổi (1900) Lê Văn Ngữ đi sứ Pháp rồi về viết cuốn Phụ tra tiểu thuyết, 17 năm sau ( 1917) ông viết Chu Dịch cứu nguyên, sau đó mới viết Luận ngữ tiết yếu, Đại học tích nghĩa, Trung dung thuyết ước và Y học toản yếu, bốn sách này được làm xong trước tháng 12 năm 1927, trong vòng một năm sau đó (từ tháng 12 năm 1927 đến tháng 11 năm 1928) ông Lê Văn Ngữ gửi thư kèm các sách này tới triều đình Huế, Thượng Hải quảng học hội, Thống sứ Bắc kì. Trong số đó, thư gửi Thống sứ Bắc kì đã được trả lời, nhưng chưa hài lòng với câu trả lời của Thống sứ Bắc kỳ, tác giả lại gửi thư và các sách đó cho Tòa Bác cổ. Cùng trong năm đó (1928) ông viết thêm sách Lễ kinh chủ nhân. Như vậy, văn bản chúng tôi đang khảo cứu đã được khẳng định là tác phẩm Chu Dịch cứu nguyên của tác giả Lê Văn Ngữ hay Lê Ngữ - người tự gọi mình là Cuồng sĩ, lấy tên tự là Ứng Hòa, ở làng Vạn Lộc tổng Trà Lũ phủ Xuân Trường Nam Định. Ngoài tác phẩm Chu Dịch cứu nguyên mà chúng tôi đang khảo cứu, Lê Văn Ngữ còn viết 06 cuốn sách đã nói trên. Nhưng Lê Văn Ngữ là ai? 2. TÁC GIẢ LÊ VĂN NGỮ (1860 – 1934):
  • 23. Mai Thu Quỳnh. Chu Dịch cứu nguyên – Phong cách kinh học và tư tưởng của Lê Văn Ngữ 20 Ở sách Tên tự tên hiệu các tác gia Hán Nôm Việt Nam của tác giả Trịnh Khắc Mạnh thấy ghi nguyên văn như sau: 120. Cuồng Sĩ (狂 士 ): Tên hiệu của Lê Văn Ngữ, ông tự là Ứng Hòa, người xã Vạn Lộc huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định. Về thân thế và sự nghiệp của Lê Văn Ngữ hiện chưa rõ, được biết ông sống vào khoảng cuối thế kỉ XIX và đầu thế kỉ XX. Tác phẩm: Chu Dịch cứu nguyên. Đại học tích nghĩa. Lễ kinh. Luận ngữ tiết yếu. Phụ tra tiểu thuyết. Trung dung thuyết ước. Y học toản yếu. ... 960. Ứng Hòa(應和): Tên tự của Lê Văn Ngữ (? - ?), ông hiệu là Cuồng Sĩ, người xã Vạn Lộc huyện Giao Thủy tỉnh Nam Định. Xem Cuồng Sĩ, số 120. 961. Ứng Hòa: Tên tự của Lê Ngữ (? - ?) quê ở đâu chưa rõ. Về thân thế và sự nghiệp của Lê Ngữ hiện chưa rõ. Tác phẩm: biên tập sách Lễ kinh (禮 禮 禮 禮 經 經 經 經) Như vậy, cuốn sách trên cho rằng: Thứ nhất: Cuồng Sĩ là tên hiệu và Ứng Hòa là tên tự của Lê Văn Ngữ người xã Vạn Lộc huyện Giao Thủy, Nam Định, thân thế và sự nghiệp của ông này chưa rõ, chỉ biết ông có 07 tác phẩm là Chu Dịch cứu nguyên, Đại học tích
  • 24. Mai Thu Quỳnh. Chu Dịch cứu nguyên – Phong cách kinh học và tư tưởng của Lê Văn Ngữ 21 nghĩa, Lễ kinh, Luận ngữ tiết yếu, Phụ tra tiểu thuyết, Trung dung thuyết ước, Y học toản yếu. Thứ hai: có một ông Lê Ngữ khác cũng có tên tự là Ứng Hòa mà thân thế, sự nghiệp và cả quê quán ở đâu cũng chưa rõ, chỉ biết ông có biên tập sách Lễ kinh. Còn sách Lược truyện các tác gia Việt Nam (NXB. Khoa học xã hội – 1972) của Nguyễn Văn Phú và Tạ Phong Châu thì không thấy nhắc đến tác gia nào có tên là Ứng Hòa, Cuồng Sĩ hay Lê Văn Ngữ hoặc Lê Ngữ. Có một điều xin lưu ý ngay ở đây là vì tác giả đã lấy hai tên để ghi trong các sách của mình nên Tên tự tên hiệu các tác gia Hán Nôm Việt Nam đã nhầm lẫn. Tình hình cụ thể như sau: Sách Phụ tra tiểu thuyết có bài Tự tự (自序) ở đầu, trong bài tự đó tác giả viết: 南 春 萬 亭 懶 士 黎 子 文 敔 字 應 和 謹 序 (Nam Xuân Vạn Đình Lãn Sĩ Lê tử Văn Ngữ tự Ứng Hòa cẩn tự - Lãn Sĩ Lê Văn Ngữ tự là Ứng Hòa người Đình ... xã Vạn Lộc phủ Xuân Trường tỉnh Nam Định). Ở cuối mục Chu Dịch cứu nguyên tự của sách Chu Dịch cứu nguyên tác giả ghi: 越 南 國 春 長 府 萬 祿 社 狂 士 姓 黎 名 敔 字 應 和 謹 序(Việt Nam quốc Xuân Trường phủ Vạn Lộc xã Cuồng Sĩ tính Lê danh Ngữ tự Ứng Hòa cẩn tự - Cuồng Sĩ Lê Ngữ tự là Ứng Hòa người xã Vạn Lộc phủ Xuân Trường nước Việt Nam viết tự). Tức là ở đây tác giả lại lấy tên mình là Lê Ngữ và hiệu là Cuồng Sĩ chứ không phải là tên Lê Văn Ngữ và hiệu là Lãn Sĩ như ở sách Phụ tra tiểu thuyết được viết trước đó nữa. Bài tựa đầu sách Trung dung thuyết ước thì viết rằng: ...(... – Cuồng Sĩ Lê Văn Ngữ tự Ứng Hòa người làng Vạn Lộc tổng Trà Lũ phủ Xuân Trường tỉnh Nam Định nước Việt Nam viết). Như vậy là ở sách này tác giả lại viết tên mình giống như ở sách Phụ tra tiểu thuyết nhưng tự của mình lại giống như ở sách Chu Dịch cứu nguyên.
  • 25. Mai Thu Quỳnh. Chu Dịch cứu nguyên – Phong cách kinh học và tư tưởng của Lê Văn Ngữ 22 Trong sách Y học toản yếu, mục Y học toản yếu tự (醫學纘要序), tác giả viết tên mình là: 大 南 國 南 定 省 春 長 府 萬 祿 社 狂 士 黎 氏 文 敔 字 應 和 謹 序(Đại Nam quốc Nam Định tỉnh Xuân Trường phủ Vạn Lộc xã Cuồng Sĩ Lê thị Văn Ngữ tự Ứng Hòa cẩn tự - Cuồng Sĩ Lê Văn Ngữ tự là Ứng Hòa người xã Vạn Lộc phủ Xuân Trường tỉnh Nam Định nước Đại Nam viết tựa). Cách ghi tên này giống cách ghi ở sách Trung dung thuyết ước. Ở sách Luận ngữ tiết yếu, mục Luận ngữ tiết yếu tự ghi: 大 南 國 南 定 省 春 長 府 膠 水 縣 萬 祿 社 狂 士 姓 黎 名 文 敔 字 應 和 謹 序(Đại Nam quốc Nam Định tỉnh Xuân Trường phủ Giao Thủy huyện Vạn Lộc xã Cuồng Sĩ tính Lê danh Văn Ngữ tự Ứng Hòa cẩn tự - Cuồng Sĩ Lê Văn Ngữ tự Ứng Hòa người xã Vạn Lộc huyện Giao Thủy phủ Xuân Trường tỉnh Nam Định nước Đại Nam viết tựa). Cách xưng danh này giống như cách xưng danh ở sách Trung dung thuyết ước và Y học toản yếu. Tên tác giả ở cuối mục Đại học tích nghĩa tự (大學晰義序) của sách Đại học tích nghĩa thì được ghi là: 大 南 國 南 定 省 春 長 府 膠 水 縣 萬 祿 社 狂 士 姓 黎 名 文 敔 字 應 和 謹 序(Đại Nam quốc Nam Định tỉnh Xuân Trường phủ Giao Thủy huyện Vạn Lộc xã Cuồng Sĩ tính Lê danh Văn Ngữ tự Ứng Hòa cẩn tự - Cuồng Sĩ Lê Văn Ngữ tự là Ứng Hòa người xã Vạn Lộc huyện Giao Thủy phủ Xuân Trường tỉnh Nam Định nước Đại Nam viết tựa). Tác giả ghi tên mình ở đây giống như ở sách Trung dung thuyết ước nhưng quê quán lại có bổ sung thêm. Trong bức thư gửi quan Phụ chính họ Tôn Thất, tên tác giả được ghi là: 南 定 省 春 長 府 膠 水 縣 萬 祿 社 狂 士 黎 文 敔(Nam Định tỉnh Xuân Trường phủ Giao Thủy huyện Vạn Lộc xã Cuồng Sĩ Lê Văn Ngữ - Cuồng Sĩ Lê Văn Ngữ người xã Vạn Lộc huyện Giao Thủy phủ Xuân Trường tỉnh Nam Định). Tác giả đã ghi tên mình giống như trong Trung dung thuyết ước và Đại học tích nghĩa nhưng thiếu tên tự.
  • 26. Mai Thu Quỳnh. Chu Dịch cứu nguyên – Phong cách kinh học và tư tưởng của Lê Văn Ngữ 23 Trong bức thư gửi Thống sứ Bắc kỳ tác giả lại xưng danh bằng chữ Nôm như sau: Tôi Lê Văn Ngữ tên bộ là Trí ở làng Vạn Lộc tổng Trà Lũ phủ Xuân Trường. Ở đây tác giả chỉ viết tên là Lê Văn Ngữ mà không viết tự và hiệu. Như vậy, trong hầu hết các tác phẩm đã kể trên tác giả đều ghi tên mình là Lê Văn Ngữ (黎文敔) với tự là Ứng Hòa (應和) và hiệu là Cuồng Sĩ (狂士), riêng ở Chu Dịch cứu nguyên tác giả ghi tên mình là Lê Ngữ (黎 敔) và ở Phụ tra tiểu thuyết tác giả lấy hiệu là Lãn Sĩ (懶 士). Điều này có nghĩa là Lê Văn Ngữ hay Lê Ngữ thì cũng là một người mà thôi. Vả lại, để có thêm căn cứ giúp khẳng định Lê Văn Ngữ và Lê Ngữ cùng là một người, chúng tôi đã tìm trong danh mục các sách của Thư viện viện Nghiên cứu Hán Nôm và thấy chỉ có một sách có tên trong danh mục phục vụ là Lễ kinh, kí hiệu thư viện là A.2606. Ở cuối mục Lễ kinh chủ nhân tự của cuốn sách Lễ kinh1 này có ghi: 大 南 國 南 定 春 長 萬 溪 狂 士 黎 敔 字 應 和 謹 序(Đại Nam quốc Nam Định Xuân Trường Vạn Khê Cuồng Sĩ Lê Ngữ tự Ứng Hòa cẩn tự - Cuồng Sĩ Lê Ngữ tự là Ứng Hòa người ở Vạn Khê, Xuân Trường, Nam Định viết tựa). Như vậy, tác giả của cuốn sách này tên là Lê Ngữ, mà tên này cũng đã được Lê Văn Ngữ tự xưng trong sách Chu Dịch cứu nguyên. Vậy nếu thực có hai người là Lê Ngữ và Lê Văn Ngữ như sách Tên tự tên hiệu các tác gia Hán Nôm Việt Nam nhận định thì tác phẩm Lễ kinh chủ nhân này là của Lê Ngữ - người chỉ có một tác phẩm biên tập sách Lễ kinh - chứ không phải là của tác giả Lê Văn Ngữ đã có Chu Dịch cứu nguyên và 06 tác phẩm khác mà chúng tôi đang tìm hiểu. Vậy sách Lễ kinh của tác giả Lê Văn Ngữ đâu? Trong thư viện hiện không có cuốn Lễ kinh nào khác nữa, có lẽ nào nó đã bị mất? Nếu so sánh các thông tin về Lê Ngữ và Lê Văn Ngữ chúng ta sẽ thấy: chỉ có hai điểm khác giữa hai người này, đó là một người tên Lê Ngữ và một 1 Căn cứ theo đầu đề bài tựa thì tên sách này phải là Lễ kinh chủ nhân.
  • 27. Mai Thu Quỳnh. Chu Dịch cứu nguyên – Phong cách kinh học và tư tưởng của Lê Văn Ngữ 24 người tên Lê Văn Ngữ, một người ở Vạn Lộc còn một người ở Vạn Khê. Nhưng như trên đã khẳng định, Lê Văn Ngữ cũng đã có lúc lấy tên mình là Lê Ngữ. Còn quê Vạn Khê thì có lẽ là cách gọi khác của Trà Lũ mà thôi, vì theo người dân địa phương, Trà Lũ là tổng gồm 04 làng: Vạn Lộc, Thọ Vực, Thanh Trà và Trà Khê, Vạn Khê tức là Vạn Lộc (làng đầu tiên và cũng là làng lớn nhất) và Trà Khê (làng cuối cùng). Tiến hành tìm hiểu kĩ hơn về cuốn Lễ kinh chủ nhân chúng tôi thấy: Đây là một cuốn sách dày 79 tờ, tờ cuối cùng chỉ có một mặt, tổng cộng có 157 trang. Về hình thức, sách được chép tay bằng thể chữ chân, bìa sách, khổ giấy, cỡ giấy, loại giấy, cách trình bày trang viết và cả nét chữ đều giống như sách Chu Dịch cứu nguyên chúng tôi đang khảo sát. Về nội dung, sách gồm các mục: Lễ kinh chủ nhân tự, Khúc lễ thượng, Khúc lễ hạ, Nhạc kí trích lược, Học kí trích lược, Tu thư, Văn thức, Học pháp, Hôn lễ trích lược, Tang lễ bổ vong, Tế nghi trích lược, Tang phục trích lược, Thiên quan trích lược, Hương ẩm tửu trích lược, Quan nghĩa trích lược, Nguyệt lệnh trích lược, Xạ nghĩa trích lục, Vương chế trích lược, Nho hạnh trích lược, Tạp kí, Xuân thu chủ tín tự, Phụ lục Bắc sử. Nét chữ và giọng văn của tác phẩm này rất giống với nét chữ và giọng văn của Chu Dịch cứu nguyên. Xin xem hai trang văn bản dưới đây của hai tác phẩm để rõ hơn về nhận định của chúng tôi:
  • 28. Mai Thu Quỳnh. Chu Dịch cứu nguyên – Phong cách kinh học và tư tưởng của Lê Văn Ngữ 25 Văn bản Lễ kinh chủ nhân, trang 1.
  • 29. Mai Thu Quỳnh. Chu Dịch cứu nguyên – Phong cách kinh học và tư tưởng của Lê Văn Ngữ 26 Văn bản Chu Dịch cứu nguyên, trang 17.
  • 30. Mai Thu Quỳnh. Chu Dịch cứu nguyên – Phong cách kinh học và tư tưởng của Lê Văn Ngữ 27 Chúng tôi cũng đã tiến hành phân tích những quan điểm thể hiện trong hai tác phẩm và thấy rất nhiều quan điểm về đạo, về lẽ quyền biến,... của Chu Dịch cứu nguyên được vận dụng trong Lễ kinh chủ nhân, ví dụ như: Sách Lễ kinh chủ nhân, mục Lễ kinh chủ nhân tự ghi: Gốc của Lễ là tòng nghi, mà cái quý của đạo là tùy thời, nên quyền nắm lễ nếu muốn lễ ấy đạt đến chỗ không có tranh chấp nhưng lại không thể tùy thời để mà thay đổi và không thể tùy địa để thi nghi thì sao có thể hợp với đạo tối cao là cha con chủ nhân từ đây? Quan điểm tùy thời để mà thay đổi đã được Lê Văn Ngữ nhắc đến trong mục Bốc phệ vấn đáp, sách Chu Dịch cứu nguyên: Nguyên nhân của việc thánh nhân làm ra Dịch chắc là có gốc ở tứ tượng trong hai nghi, dùng thái cực để suy ra khí số và đặt ra âm dương, rồi dạy con người tùy thời để mà thay đổi. Còn có nhiều dẫn chứng tương tự như trên nhưng vì giới hạn của luận văn và vì mục đích chính của luân văn này không nằm ở đó, nên chúng tôi xin dừng lại ở đây. Tuy nhiên, dù không thể trình bày chi tiết hơn nữa, những chứng cứ liên quan đến hình thức cũng như nội dung của tác phẩm đã nói ở trên cũng đủ điều kiện để chúng tôi nhận định rằng Lễ kinh chủ nhân và Chu Dịch cứu nguyên cùng do một người viết ra và người đó chính là Lê Văn Ngữ hoặc Lê Ngữ. Và do đó, chỉ có một tác phẩm Lễ kinh chủ nhân này cùng một tác giả Lê Văn Ngữ (hoặc Lê Ngữ) người xã Vạn Lộc tổng Trà Lũ phủ Xuân Trường tỉnh Nam Định thời cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX mà thôi. Do đó, tác giả thứ 960 và tác giả thứ 961 trong sách Tên tự tên hiệu các tác gia Hán Nôm Việt Nam thực ra chỉ là một. Chúng tôi cũng đã lần theo địa chỉ mà Lê Văn Ngữ ghi trong các sách của mình để tìm về tận quê ông. Làng Vạn Lộc của ông nay thuộc xã Xuân Phong huyện Xuân Trường tỉnh Nam Định, đất đai của gia đình ông hiện đang nằm ở xóm 12 của xã Xuân Phong. Trước khi tìm được làng Vạn Lộc chúng tôi đã gặp ông Mai Văn Lý (ở xóm 1 xã Xuân Bắc huyện Xuân Trường) là một
  • 31. Mai Thu Quỳnh. Chu Dịch cứu nguyên – Phong cách kinh học và tư tưởng của Lê Văn Ngữ 28 trong những người nhiều tuổi và có học nổi tiếng trong vùng, ông Lý kể rằng gia đình Lê Văn Ngữ có truyền thống 5 đời dạy học, bản thân Lê Văn Ngữ là một nhà hào phú, thông gia với Cử nhân - Tri phủ Vân Đình - tên là Trần Trác, Lê Văn Ngữ thường hay làm phúc và khi các quan trong chính phủ đương thời về Xuân Trường đều rất nể ông… Nhờ sự chỉ dẫn của ông Mai Văn Lý cuối cùng chúng tôi cũng tìm được nhà bác Lê Văn Vượng là cháu đời thứ 3 của Lê Văn Ngữ. Theo lời kể của bác Lê Văn Vượng (cháu nội đời thứ 3 của Lê Văn Ngữ, tức là gọi Lê Văn Ngữ là cụ nội) thì Lê Văn Ngữ sinh năm 1860 và mất năm 1934, họ Lê của ông vốn xuất phát từ họ Phạm ở Kiến Xương – Thái Bình, cụ tổ 4 đời của Lê Văn Ngữ lấy con gái họ Lê ở Vạn Lộc và sinh sống ở Vạn Lộc nên đã đổi sang họ Lê và họ Lê này ở Vạn Lộc đến nay đã được 13 đời. Mẹ Lê Văn Ngữ là một người Công giáo sống thọ đến 94 tuổi, đến cuối đời Lê Văn Ngữ cũng theo Kitô giáo. Ông đã từng được theo đoàn đi sứ của triều đình nhà Nguyễn sang Pháp, cũng từng tiếp đón các văn thân của phong trào Duy Tân ở nhà của mình và giúp đỡ tiền của nhưng không theo. Về sau, ông có gửi sách cho triều đình Huế, triều đình nhận và tặng ông tước Cửu phẩm văn giai cùng một đồng tiền vàng, từ đó mọi người thường gọi ông là cụ Cửu Ngữ. Ông đã cưới 3 người vợ, sinh được 8 con trai và 5 con gái1 . Như vậy, có thể tạm thời kết luận rằng: Lê Văn Ngữ (1860 – 1934)2 là một trí thức Nho học nổi tiếng trong vùng, ông sinh ra, lớn lên và sống gần như trọn cuộc đời mình ở làng Vạn Lộc tổng Trà Lũ phủ Xuân Trường tỉnh Nam Định (nay là xóm 12 xã Xuân Phong huyện Xuân Trường tỉnh Nam Định). Năm 40 tuổi ông được phụ tá Đệ tam giáp tiến sĩ Từ Đạm đi sứ sang Pháp và đến cuối đời thì trở thành một người Công giáo. Ông vốn là một Nho sĩ có tấm 1 Xin mời xem thêm ảnh về hậu duệ và làng quê ông ở phần ảnh tư liệu. 2 Theo Ngô Vĩ Minh (bài đã dẫn) thì Lê Văn Ngữ sinh năm 1859; và theo Lí Chước (Trác) Nhiên, Việt Nam Cuồng Sĩ Lê Văn Ngữ Đại học tích nghĩa đối Đại học đích thuyên thích, Hội nghị Nho học Đông Á năm 2005, tại Đài Loan thì Lê Văn Ngữ mất năm 1935. Ở đây chúng tôi theo ý kiến của hậu duệ Lê Văn Ngữ.
  • 32. Mai Thu Quỳnh. Chu Dịch cứu nguyên – Phong cách kinh học và tư tưởng của Lê Văn Ngữ 29 lòng nhân bản, sớm tiếp xúc với tri thức và những tư tưởng mới của phương Tây đương thời, có đầu óc cách tân và cũng luôn ấp ủ lí tưởng tiên ưu và trị bình của nhà Nho. Mặc dù về cuối đời ông theo Kitô giáo nhưng những tác phẩm được viết từ thuở trung niên của ông vẫn là những tác phẩm thuộc hệ thống thư tịch của Nho gia và thấm đượm tinh thần của nhà Nho buổi giao thời.
  • 33. Mai Thu Quỳnh. Chu Dịch cứu nguyên – Phong cách kinh học và tư tưởng của Lê Văn Ngữ 30 CHƯƠNG II: LÊ VĂN NGỮ VỚI CHU DỊCH CỨU NGUYÊN 1.DIỆN MẠO DỊCH HỌC VIỆT NAM: Chu Dịch là cuốn sách như thế nào, đã du nhập vào Việt Nam từ bao giờ, diện mạo của nó ra sao? Đây là những câu hỏi không hề đơn giản nhưng cần được chúng ta trả lời để thấy rõ giá trị của tác phẩm Chu Dịch cứu nguyên và để góp phần tìm hiểu kinh điển Nho giáo ở Việt Nam. Bởi là vấn đề hẹp, lại hầu như chưa có thành tựu nghiên cứu nào đáng kể và còn rất ít tư liệu có thể sử dụng để chứng minh, nên trong luận văn này chúng tôi không tham vọng sẽ dựng lại được một chân dung lịch sử về Dịch học ở Việt Nam mà có thể thỏa mãn mọi thắc mắc để đi đến quyết nghi, nhưng hi vọng đây sẽ là một viên gạch góp phần xây dựng nền móng lịch sử Dịch học và Nho học ở Việt Nam. 1.1 TỔNG QUAN VỀ CHU DỊCH: Chu Dịch là bộ sách quan trọng của Nho gia, đã xuất hiện từ lâu nhưng đến đầu đời Hán được xếp cùng hàng với Thi (詩), Thư (書), Lễ (禮), Xuân Thu (春秋) và gọi gộp là Ngũ kinh1 . Kinh là phần sách ghi lời lẽ lập luận quan trọng nhất của một tôn giáo và Ngũ kinh tức là năm bộ sách cơ bản nhất của Nho giáo, cùng với Tứ thư thì Ngũ kinh là những sách thể hiện trọn vẹn quan điểm về nhân sinh, vũ trụ, lí tưởng của đạo Nho. Ở đó người đọc có thể thấy được nội dung của khái niệm “đạo”, mục đích tu đạo, cách thức để đạt đạo. Trong số ngũ kinh, Dịch kinh lại được sách Hán thư.Nghệ văn chí (漢書.藝文誌) suy tôn là quần kinh chi thủ (đứng đầu các kinh). Nói như vậy đủ thấy tầm quan trọng của 1 Chương Đạo cơ trong sách Tân ngữ của Lục Giả là dấu vết văn bản đầu tiên xuất hiện thuật ngữ Ngũ kinh.
  • 34. Mai Thu Quỳnh. Chu Dịch cứu nguyên – Phong cách kinh học và tư tưởng của Lê Văn Ngữ 31 Dịch kinh đối với Nho giáo, cũng tức là không thể bỏ qua tác phẩm này khi nghiên cứu văn hóa truyền thống của Trung Hoa cũng như Việt Nam. Tương truyền ở thời Chu quan Thái bốc dùng ba cuốn Dịch khác nhau: Liên Sơn Dịch (連山易) của Phục Hy là sách bói của người Trung Hoa thời Hạ, Quy Tàng Dịch (歸藏易) của Hoàng Đế là sách bói của người Trung Hoa thời Thương, và Chu Dịch (周易) là sách bói của người Trung Hoa thời Chu. Hiện nay chỉ tồn tại Chu Dịch nên khi nói đến Chu Dịch người ta thường quen gọi là kinh Dịch. Như vậy Dịch trước hết là sách dùng để bói lành dữ, sau này khi tư duy lí luận của người Trung Hoa cổ đại phát triển lên người ta mới nhận ra những ý nghĩa triết lý, những giá trị văn hóa tồn tại trong đó và dùng Dịch để giảng nghĩa lý. Cho đến nay, người ta vẫn đồng thời giảng tượng số và nghĩa lý của Dịch. Vào thời Tần, Tần Thủy Hoàng ra lệnh đốt sách chôn Nho nhưng Chu Dịch không bị đốt vì thời đó Dịch chỉ đơn thuần là sách bói toán, thuyết giải ý nghĩa của Dịch không chỉ là công việc riêng của Nho gia mà còn là của các học phái khác nữa. Song chỉ sau khi nhà Hán cầm quyền, Nho gia mới được đề cao và kinh học được khởi xướng, Chu Dịch được gọi là kinh Dịch. Từ đây, nghiên cứu Chu Dịch mới bắt đầu trở thành một chuyên ngành, chuyên ngành này có tên là Dịch học. Hiện nay Chu Dịch gồm hai phần là kinh và truyện. Truyện là phần giải thích cho kinh, ra đời sau kinh và gồm 10 chương thuộc 7 loại: Thoán truyện (彖傳) hay còn gọi là Thoán từ (彖辭) (thoán – đoán) gồm hai chương thượng và hạ; Tượng truyện (象傳) (tượng – hình dạng, biểu tượng) cũng gồm hai chương là thượng và hạ; Văn ngôn (文 言); Hệ từ truyện (繫 辭傳) (hệ từ - lời buộc vào, đính vào) cũng gồm hai chương thượng và hạ; Thuyết quái truyện (說 卦傳); Tự quái truyện (字 卦 傳) (tự quái – thứ tự các quẻ); Tạp quái truyện (雜 卦 傳). Ban đầu 7 loại truyện này độc lập với nhau. Đến đời Đông
  • 35. Mai Thu Quỳnh. Chu Dịch cứu nguyên – Phong cách kinh học và tư tưởng của Lê Văn Ngữ 32 Hán, Trịnh Huyền sắp xếp chúng lại theo lối: mỗi quẻ đầu tiên có quái danh, quái tượng, quái từ, rồi đến Thoán truyện, Tượng truyện, rồi đến hào đề, hào từ và Tượng truyện giải thích từng hào; riêng quẻ Càn và quẻ Khôn có thêm phần giải thích của Văn ngôn; về sau người ta gọi chung cả phần kinh và phần truyện như vậy là kinh Dịch hay Dịch kinh vì phần truyện đã ra đời từ rất lâu và đó là cách hiểu về Chu Dịch của những người sống gần với thời đại hình thành Chu Dịch hơn chúng ta, và do đó nó cũng là những lời gần bản nghĩa, quan trọng để tìm hiểu Dịch và tìm hiểu Nho gia. Từ sau Trịnh Huyền, cách sắp xếp này thông dụng và trở thành hình thức tồn tại chủ yếu của Dịch kinh. Lê Văn Ngữ trong Chu Dịch cứu nguyên đã phản đối cách sắp xếp này. Sau Dịch kinh mới đến Dịch truyện xuất hiện. Công việc chú giải chỉ cần thiết khi người đời sau bắt đầu đọc sách của đời trước nhưng không hiểu nữa. Theo lẽ dĩ nhiên ấy thì Dịch truyện không thể ra đời cùng thời điểm hoặc ngay sau khi Dịch kinh ra đời. Có học giả cho rằng Khổng Tử làm ra Dịch truyện, có người lại bác bỏ quan điểm này. GS.TS Lê Văn Quán đã thể hiện sự tán đồng ý kiến của một số học giả Trung Quốc cho rằng: Dịch truyện ra đời vào thời Xuân Thu đến khoảng giữa Chiến Quốc. Tác phẩm này không phải do Khổng Tử viết mà là do các sử quan và nhà Nho đương thời sáng tác, có những chương có thể liên hệ với Khổng Tử1 . Còn về thời điểm hình thành 64 quẻ của Dịch, đã có những quan điểm khác nhau, PGS. Phan Văn Các cho rằng buổi giao thời Ân Chu là thời Dịch nổi lên và cũng là thời hoàn thành việc chồng 8 thành 64 quẻ. Về tác giả của quái từ và hào từ, Trịnh Huyền thì cho rằng lời quẻ và lời hào đều do Chu Văn Vương viết ra; Mã Dung và Lục Tích khẳng định Văn Vương làm lời quẻ và Chu Công làm lời hào; còn Bì Tích Thụy đời Thanh lại cho rằng lời quẻ và lời hào đều do Khổng Tử làm ra. GS. Lê Văn Quán khẳng định: “Dịch kinh ra đời trước thời Tây Chu và hoàn thành ở những năm cuối 1 Xem GS. Lê Văn Quán, Khảo luận tư tưởng Chu Dịch, NXB. Văn hóa thông tin, 2006, tr. 227.
  • 36. Mai Thu Quỳnh. Chu Dịch cứu nguyên – Phong cách kinh học và tư tưởng của Lê Văn Ngữ 33 thời Tây Chu, do các quan Thái bốc (quan xem bói) biên soạn”1 , PGS. Phan Văn Các cũng có nhận định tương tự. Những nhận định này cũng thống nhất với ý kiến của Dư Vĩnh Lương, Cố Hiệt Cương chủ trương Chu Dịch ra đời vào những năm đầu đời Tây Chu. Như vậy, Chu Dịch là một kinh điển rất quan trọng của Nho gia tuy ban đầu nó được dùng làm sách bói, là công trình sáng tạo của tập thể, ra đời trong thời đại văn minh Tiên Tần và đến nay vẫn còn là một cuốn sách chứa nhiều điều kì lạ, bí ẩn. Để giải đáp những điều lạ lùng ấy, học giả các thời không ngừng tìm tòi nghiên cứu và không ngừng đưa ra những kiến giải mới. Chính những phủ nhận nối tiếp ấy đã tạo nên một dòng chảy liên tục của chuyên ngành Dịch học và thúc đẩy sự phát triển của tư duy, của khoa học. Điều này có nghĩa là các học giả của mỗi thời nghiên cứu Dịch học theo một lối khác nhau, do đó chúng ta có thể xem xét một số đặc trưng của nền Dịch học Việt Nam mà biết được nó đã chịu ảnh hưởng của Dịch học Trung Quốc thời nào. 1 Xem GS. Lê Văn Quán, Khảo luận tư tưởng Chu Dịch, NXB. Văn hóa thông tin, 2006.
  • 37. Mai Thu Quỳnh. Chu Dịch cứu nguyên – Phong cách kinh học và tư tưởng của Lê Văn Ngữ 34 1.2. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN DỊCH HỌC Ở VIỆT NAM TRƯỚC THẾ KỈ XX: Thông thường, muốn tìm hiểu những vấn đề của xã hội trong quá khứ, người ta thường tìm đến các bộ sử để mượn các sự kiện làm dẫn chứng. Đối với học phái trọng tập cổ, chuộng trứ thư, chủ trương khuyến miễn bằng cách viết sử và dùng sử để thể hiện tư tưởng như Nho gia thì các bộ sử càng trở nên gắn bó với người nghiên cứu. Cũng vì lí do đó nên khi tìm hiểu Dịch học ở Việt Nam, câu hỏi được đặt ra với chúng tôi là Chu Dịch đã được sử dụng như thế nào trong các bộ sử và sử đã ghi lại những sự kiện nào liên quan đến Dịch? Muốn trả lời được câu hỏi này, có nhiều cách khác nhau nhưng con đường của chúng tôi là tiến hành thống kê những trường hợp nhắc đến kinh Dịch trong các bộ sử quan trọng mà chúng ta hiện còn. Chúng tôi đã thống kê những trường hợp nhắc đến tên sách Dịch là kinh Dịch, Chu Dịch, hay Dịch; những trường hợp dẫn giải nội dung của Dịch kinh và Dịch truyện; những trường hợp viện dẫn các hào, các quẻ của Dịch; và những trường hợp nhắc đến từ kinh hoặc ngũ kinh vì rõ ràng là nói đến ngũ kinh chắc chắn sẽ bao gồm kinh Dịch. (Vì thời gian có hạn nên chúng tôi chỉ có thể thực hiện công việc tìm kiếm trên các bản dịch). Các bộ sử mà chúng tôi đã tiến hành xử lý là: 1.An Nam chí lược (安南志略) của Lê Tắc/Trắc, bản dịch của Viện Đại học Huế - ủy ban Phiên dịch sử liệu Việt Nam, NXB. Viện đại học Huế, 1961. 2.Đại Việt sử lược (大越史略) của tác giả khuyết danh (1377 – 1388), Nguyễn Gia Tường dịch năm 1972, NXB Thành phố Hồ Chí Minh và Đại học Tổng Hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 1993. 3.Lam Sơn thực lục (藍山實錄) của Lam Sơn Động Chủ, Bảo Thần dịch năm 1944, nhà sách Tân Việt 1956.
  • 38. Mai Thu Quỳnh. Chu Dịch cứu nguyên – Phong cách kinh học và tư tưởng của Lê Văn Ngữ 35 4.Đại Việt sử kí toàn thư (大越史記全書) của Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên và các nhà Nho khác, viện Khoa học xã hội Việt Nam dịch năm 1992, NXB. Khoa học xã hội, H.1993. 5.Lê triều thông sử (黎朝通史) (hay Đại Việt thông sử) của Lê Quý Đôn do NXB. Khoa học xã hội dịch và xuất bản năm 1978. 6.Khâm định Việt sử thông giám cương mục (欽定越史通鑑綱目) của Quốc sử quán triều Nguyễn, Viện Sử học dịch, NXB. Giáo dục, H.1998. 7.Quốc triều chính biên toát yếu (國朝正編撮要) của Tổng tài Quốc sử quán triều Nguyễn Cao Xuân Dục soạn năm 1908, Quốc sử quán triều Nguyễn dịch năm 1925, xuất bản bởi Nhóm nghiên cứu sử địa Việt Nam, 1972. 8.Việt sử tiêu án (越史標案) của Ngô Thời Sĩ, hội Việt Nam nghiên cứu liên lạc văn hóa Á châu dịch năm 1960, NXB. Văn sử, 1990. 9.Việt Nam sử lược (越南史略) của Trần Trọng Kim, Trung tâm học liệu – bộ Giáo dục (chính quyền Sài Gòn cũ). Sau khi tìm kiếm và thống kê, chúng tôi nhận thấy các bộ sử trên không chỉ nhắc đến người Việt dùng Dịch mà còn nhắc đến người Hán dùng Dịch. Vì thế chúng tôi tạm sắp xếp các dẫn chứng tìm được theo 02 loại lớn là: * A (những trường hợp người Việt dùng Chu Dịch) * B (những trường hợp người Hán dùng Chu Dịch). Trong loại lớn A, chúng tôi lại phân chia thành 02 loại nhỏ hơn là: + A1 (những trường hợp nhắc đến sự kiện liên quan đến việc sử dụng Dịch) + A2 (những trường hợp người Việt trực tiếp dẫn Dịch để bàn luận, bày tỏ quan điểm) Kết quả tìm kiếm cụ thể như sau: 1.Trong sách An Nam chí lược: STT Vị trí xuất hiện Phân loại
  • 39. Mai Thu Quỳnh. Chu Dịch cứu nguyên – Phong cách kinh học và tư tưởng của Lê Văn Ngữ 36 1 Quyển đệ ngũ (tr.48 của bản dịch) B 2 Quyển đệ ngũ (tr.52 của bản dịch) B 3 Quyển đệ thất (tr.66 của bản dịch) B 4 Quyển đệ thập (tr.89 của bản dịch) B 5 Quyển đệ thập nhất (tr.150 của bản dịch) A1 6 Quyển đệ thập thất (tr.140 bản dịch) B Bảng kê 1: Tình hình Chu Dịch xuất hiện trong sách An Nam chí lược. 2.Trong sách Đại Việt sử lược: STT Vị trí xuất hiện Phân loại 1 Quyển 1 (tr.23 của bản dịch) B 2 Quyển 3 (tr.80 của bản dịch) A1 Bảng kê 2: Tình hình Chu Dịch xuất hiện trong sách Đại Việt sử lược. 3.Trong sách Lam Sơn thực lục: Không tìm được dẫn chứng nào. 4.Trong sách Đại Việt sử kí toàn thư: STT Vị trí xuất hiện Phân loại 1 Ngoại kỉ, q.1 (tr.4 bản dịch) A2 2 Ngoại kỉ, q.2 (tr.14 bản dịch) A2 3 Ngoại kỉ, q.5 (tr.51 bản dịch) A2 4 Bản kỉ, q.1 (tr.66 bản dịch) A2 5 Bản kỉ, q.3 (tr.124 bản dịch) A2 6 Bản kỉ, q.3 (tr.128 bản dịch) A2
  • 40. Mai Thu Quỳnh. Chu Dịch cứu nguyên – Phong cách kinh học và tư tưởng của Lê Văn Ngữ 37 7 Bản kỉ, q.5 (tr.183 bản dịch) A2 8 Bản kỉ, q.5 (tr.193 bản dịch) A2 9 Bản kỉ, q.6 (tr.214 bản dịch) A1 10 Bản kỉ, q.6 (tr.237 bản dịch) A2 11 Bản kỉ, q.8 (tr.272 bản dịch) A2 12 Bản kỉ, q.8 (tr.278 bản dịch) A2 13 Bản kỉ, q.8 (tr.285 bản dịch, tờ 21b bản chữ Hán) A2 14 Bản kỉ, q.8 (tr.285 bản dịch, tờ 22a bản chữ Hán) A2 15 Bản kỉ, q.8 (tr.290 bản dịch) B 16 Bản kỉ, q.8 (tr.292 bản dịch) A2 17 Bản kỉ, q.10 (tr.359 bản dịch) A2 18 Bản kỉ, q.11 (tr.419 bản dịch) A2 19 Bản kỉ, q.12 (tr.449 bản dịch) A1 20 Bản kỉ, q.12 (tr.465 bản dịch) A2 21 Bản kỉ, q.13 (tr.487 bản dịch) A2 22 Bản kỉ, q.14 (tr.524 bản dịch) A2 23 Bản kỉ, q.14 (tr.525 bản dịch) A2 24 Bản kỉ, q.14 (tr.528 bản dịch) A2 25 Bản kỉ, q.15 (tr.575 bản dịch) A2 26 Bản kỉ, q.17 (tr.625 bản dịch) A2 27 Bản kỉ,q.18 (tr.665 bản dịch) A2 28 Bản kỉ, q.19 (tr.690 bản dịch) A2
  • 41. Mai Thu Quỳnh. Chu Dịch cứu nguyên – Phong cách kinh học và tư tưởng của Lê Văn Ngữ 38 Bảng kê 3: Tình hình Chu Dịch xuất hiện trong sách Đại Việt sử kí toàn thư 5. Trong sách Đại Việt thông sử: STT Vị trí xuất hiện Phân loại 1 Liệt truyện – Nghịch thần truyện (tr.77 bản dịch) A2 2 Liệt truyện – Nghịch thần truyện (tr.78 bản dịch) A2 Bảng kê 4: Tình hình Chu Dịch xuất hiện trong sách Đại Việt thông sử. 6.Trong sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục: STT Vị trí xuất hiện Phân loại 1 Chính biên, q.1 (tr.101 bản dịch) A1 2 Chính biên, q.2 (tr.103 bản dịch) A1 3 Chính biên, q.2 (tr.105 bản dịch) A1 4 Chính biên, q.6 (tr.206 bản dịch) A1 5 Chính biên, q.6 (tr.211 bản dịch) A2 6 Chính biên, q.8 (tr.241 bản dịch) A1 7 Chính biên, q.8 (tr.250 bản dịch) A1 8 Chính biên, q.8 (tr.255 bản dịch) A1 9 Chính biên, q.11 (tr.313 bản dịch) A2 10 Chính biên, q.11 (tr.322 bản dịch) A2 11 Chính biên, q.11 (tr.325 bản dịch) A2 12 Chính biên, q.13 (tr.353 bản dịch) A1
  • 42. Mai Thu Quỳnh. Chu Dịch cứu nguyên – Phong cách kinh học và tư tưởng của Lê Văn Ngữ 39 13 Chính biên, q.18 (tr.455 bản dịch) A2 14 Chính biên, q.20 (tr.493 bản dịch) A1 15 Chính biên, q.24 (tr.570 bản dịch) A2 16 Chính biên, q.24 (tr.572 bản dịch) A2 17 Chính biên, q.24 (tr.574 bản dịch) A2 18 Chính biên, q.37 (tr.815 bản dịch) A1 19 Chính biên, q.37 (tr.820 bản dịch) A1 Bảng kê 5: Tình hình Chu Dịch xuất hiện trong sách Khâm Định Việt sử thông giám cương mục.. 7.Trong Quốc triều chính biên toát yếu: Không tìm thấy trường hợp nào. 8.Trong Việt sử tiêu án: STT Vị trí xuất hiện Phân loại 1 Tr.22 bản dịch A2 2 Tr.58 bản dịch A2 Bảng kê 6: Tình hình Chu Dịch xuất hiện trong sách Việt sử tiêu án. 9.Trong Việt Nam sử lược: STT Vị trí xuất hiện Phân loại 1 Chương 6, tr. 30 B Bảng kê 7: Tình hình Chu Dịch xuất hiện trong sách Việt Nam sử lược. Từ những thông tin và số liệu trên, chúng ta có các con số tổng kết như sau:
  • 43. Mai Thu Quỳnh. Chu Dịch cứu nguyên – Phong cách kinh học và tư tưởng của Lê Văn Ngữ 40 S T T Tên sách Số T.H loại A1 Số T.H loại A2 Số T.H loại B Tổng số T.H 1 An Nam chí lược 1 0 5 6 2 Đại Việt sử lược 1 0 1 2 3 Lam Sơn thực lục 0 0 0 0 4 Đại Việt sử kí toàn thư 2 25 1 28 5 Đại Việt thông sử 0 2 0 2 6 Khâm định Việt sử thông giám cương mục 11 8 0 19 7 Quốc triều chính biên toát yếu 0 0 0 0 8 Việt sử tiêu án 0 2 0 2 9 Việt Nam sử lược 0 0 1 1 Tổng số 15 37 8 60 Bảng kê 8. Bảng tổng hợp tình hình Chu Dịch xuất hiện trong chín bộ sử. * Chú thích: T.H = trường hợp.
  • 44. Mai Thu Quỳnh. Chu Dịch cứu nguyên – Phong cách kinh học và tư tưởng của Lê Văn Ngữ 41 Như vậy, trong 3 loại trường hợp xuất hiện của Chu Dịch ở chín bộ sử, loại A2 chiếm số lượng nhiều nhất, loại B chiếm số lượng ít nhất. Kết quả này nói lên điều gì? Điều đầu tiên, khá hiển nhiên, là các sách sử của người Việt viết về con người, sự kiện của nước Việt nhiều hơn Trung Hoa. Tương quan chênh lệch giữa loại trường hợp B và loại trường hợp A như vậy là rất phù hợp với chân lý: đối tượng chủ yếu của sử sách Việt là người Việt và nước Việt. Khi xét đến vấn đề Chu Dịch theo người Trung Hoa vào Việt Nam, chúng tôi thấy ghi chép sớm nhất trong số chín cuốn sử kể trên là An Nam chí lược quyển 7, mục Các quan Thứ sử, Thái thú ở các quận Giao Châu, Cửu Chân và Nhật Nam, phụ biên các quan Thứ sử, Thái thú đời Tam Quốc, phần viết về Nhậm Diên: Tự là Trường Tồn, mới 12 tuổi đã thông hiểu kinh Thi, kinh Dịch, kinh Xuân Thu, nổi tiếng trong trường Thái Học, người ta gọi là Nhậm Thánh Đồng, nghĩa là ông thánh con nít họ Nhậm. Đầu niên hiệu Kiến Võ (năm 25 sau Công nguyên) làm Thái thú quận Cửu Chân… Như vậy là đã có một ông quan của nhà Hán hiểu biết sâu rộng về Nho học đến Nam Việt ngay từ những năm đầu Công nguyên. Còn những ông quan khác thì sao? Thái thú đương nhiên là những người có học, là trí thức; mà trí thức nhà Hán thì có thể không học Nho đạo chăng khi mà ngay từ những năm đầu tiên triều đình nhà Hán đã chủ trương bãi truất bách gia, độc tôn Nho thuật? Việc Nhậm Diên làm Thái Thú Cửu Chân khoảng năm 25 sau Công nguyên cũng đồng nghĩa với việc kiến thức về Nho học nói chung và Dịch học nói riêng đã theo những con người này vào đất Việt từ buổi đó. Vì thế, có lẽ Nhậm Diên chỉ là trường hợp tiêu biểu chứ không phải là trường hợp duy nhất; tiêu biểu bởi theo người viết An Nam chí lược thì ông thông thạo các kinh điển Nho gia ngay từ khi còn nhỏ (12 tuổi). Về diện mạo Nho học ở Cửu Chân lúc này, chúng tôi đồng ý với quan điểm cho rằng: vì Nho học mới xuất hiện cùng với các quan cai trị nhà Hán nên nó vừa bị người bản địa tẩy chay, vừa chưa đủ thời gian để phát triển
  • 45. Mai Thu Quỳnh. Chu Dịch cứu nguyên – Phong cách kinh học và tư tưởng của Lê Văn Ngữ 42 rộng rãi trong xã hội. Lúc này, Chu Dịch cũng mới chỉ là đối tượng được nhắc đến trong một vài câu chuyện của mấy người làm quan nhà Hán xuất hiện ở Việt Nam thời đó. Sau Nhậm Diên khoảng một thế kỉ, Sĩ Nhiếp cũng là người Hán tích cực truyền bá Nho giáo ở Cửu Chân. Sĩ Nhiếp làm Thái thú Giao Chỉ từ năm 187 đến năm 226, trước đó (khi còn trẻ) đã được cha cho du học ở kinh sư, theo học Lưu Tử Kỳ người Dĩnh Xuyên, chuyên trị sách Tả Thị Xuân Thu (左氏春秋). Sĩ Nhiếp đỗ Hiếu liêm, được bổ làm Thượng thư lang nhưng vì việc công nên bị miễn chức, rồi về chịu tang cha. Sau đó đỗ Mậu tài, được bổ làm Huyện lệnh Vu Dương, rồi lại đổi làm Thái thú ở quận Giao Chỉ, được phong tước Long Độ Đình Hầu, đóng đô ở Luy Lâu1 . Vì không ngừng cố gắng xây dựng nền Nho học ở đất Việt nên Sĩ Nhiếp đã được gọi là “Nam giao học tổ”. Ngoài những trí thức nhà Hán sang cai trị đất Việt còn có những người di cư sang để lánh nạn hoặc di cư theo chủ trương “Hán hóa” dân tộc Việt của nhà Hán. Và trong số hành trang họ đem theo hẳn không thể thiếu sách vở của Nho giáo. Cũng trong An Nam chí lược, quyển 10, mục Những người tôi đời trước sang kí ngụ có viết về Trình Bỉnh như sau: (Trình Bỉnh) tự là Đức Xu, người quận Nhữ Nam, có được học với Trịnh Huyền, tránh loạn qua Giao Chỉ, thường cùng Lưu Hy bàn đại nghĩa, học rộng, thông hiểu ngũ kinh, Sĩ Nhiếp khiến làm chức Trưởng Sử. Sau Tôn Quyền mời về làm chức Thái tử Thái phó. Đến đây, chúng tôi tạm dựng lại quang cảnh Nho học đầu Công nguyên như sau: vì mới được truyền vào theo bước chân của người Hán, Nho học chưa thể phát triển rộng rãi trong cộng đồng người Việt, những nội dung kinh điển như Dịch mới chỉ được một số người Hán ở Việt Nam lúc đó học tập và bàn luận mà thôi. Như vậy, trong số 8 trường hợp nhắc đến Chu Dịch thuộc loại B kể trên có tới 3 trường hợp cho ta thấy Dịch học đã theo người Hán vào nước ta từ đầu 1 Theo ghi chép của Ngô chí.
  • 46. Mai Thu Quỳnh. Chu Dịch cứu nguyên – Phong cách kinh học và tư tưởng của Lê Văn Ngữ 43 Công nguyên. 5 trường hợp còn lại xuất hiện trong lời giới thiệu, đánh giá của người Việt về các nhà Nho Trung Quốc. Trên đây đã xét đến vai trò của người Hán trong việc đưa Nho học nói chung và Dịch học nói riêng vào Việt Nam. Về phía người Việt, họ đã tiếp nhận và sử dụng Chu Dịch như thế nào? Những dẫn chứng thuộc loại A trong bảng thống kê và phân loại trên sẽ cho ta câu trả lời, cụ thể là những dẫn chứng thuộc tiểu loại A1 cho thấy lịch sử phát triển Chu Dịch ở Việt Nam còn tiểu loại A2 nói lên tình hình người Việt vận dụng Chu Dịch. Về tiểu loại A1, trong số các dẫn chứng thống kê trên có hai dẫn chứng thuộc hai sách là An Nam chí lược và Khâm định Việt sử thông giám cương mục cùng nhắc đến một sự kiện: năm 1007 Lê Long Đĩnh sai em trai mình và Hoàng Thành Nhã sang triều cống nhà Tống rồi dâng biểu xin Cửu kinh và một tạng kinh Phật, nhà Tống đồng ý. An Nam chí lược (Quyển đệ thập nhất, mục Long Đĩnh, tr.100 của bản dịch) viết: Tháng 7 năm thứ tư (1007 – nd) quyền An Nam Tịnh Hải Quân Tiết Độ Quan Sát xử Trí Lưu hầu Lê Long Đĩnh khiến em là Lê Minh Vĩnh cùng Chưởng thư kí Hoàng Thành Nhã vào cống, Long Đĩnh dâng biểu xin sách Cửu kinh và một tạng kinh Phật. Còn sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 1, tr.101 của bản dịch) thì viết: Mùa xuân Đinh mùi, năm thứ 14 (1007 – nd) nhà vua sai em là Minh Sưởng và Chưởng thư kí là Hoàng Thành Nhã đem con tê trắng sang biếu nhà Tống, dâng biểu xin Cửu kinh và kinh sách Đại tạng. Nhà Tống ưng thuận cho cả. Chúng ta biết rằng, khái niệm Cửu kinh bắt đầu có từ thời Đường, thời này lấy Thi, Thư, Dịch, Tam lễ (Nghi lễ, Lễ kí và Chu lễ) và Xuân thu tam truyện (Tả truyện, Công Dương truyện, Cốc Lương truyện) làm Cửu kinh, dùng trong khảo thí minh kinh. Từ thời Tống thì Cửu kinh gồm Dịch, Thư, Thi, Tam lễ, Xuân thu, Luận ngữ, Mạnh Tử. Về sau, Cửu kinh lại là 9 kinh bất kì trong số 13 kinh (thập tam kinh – gồm Dịch, Thi, Thư, Tam lễ, Xuân thu tam truyện, Hiếu kinh, Luận ngữ, Nhĩ nhã,
  • 47. Mai Thu Quỳnh. Chu Dịch cứu nguyên – Phong cách kinh học và tư tưởng của Lê Văn Ngữ 44 Mạnh Tử). Như vậy thời điểm năm 1007 mà dùng khái niệm Cửu kinh thì dù theo cách gọi của thời Đường hay thời Tống cũng không thể thiếu Chu Dịch. Sự kiện trên là ghi chép sớm nhất (trong chín bộ sách đang xét) về sự chủ động tiếp nhận Nho học của người Việt. Trong đó người chủ động xin Nho điển lại là một ông vua, điều này chứng tỏ rằng ở phương diện quản lý nhà nước những người đứng đầu nước Việt thời đó đã ý thức được tầm quan trọng của Nho điển, họ đã thực sự muốn đọc, tham khảo và học tập theo quan điểm của Nho gia để lãnh đạo đất nước. Mà một khi một ông vua thấy những sách đó quan trọng thì việc phổ biến những sách đó trong lãnh địa của mình sẽ không phải là một việc quá khó khăn. Tiếp nối sự kiện này, các sự kiện thuộc loại A2 được tìm thấy lần lượt như sau: *Năm Kỉ Hợi (Trinh Phù 4 – 1179 – nd): Đầu mùa đông vua ngự ở điện Sùng Dương coi khoa thi Tam giáo. Các con em thi viết bài thơ xưa và làm các môn: thơ, phú, kinh nghĩa và bói toán. (Đại Việt sử lược, quyển 3, tr.80 bản dịch). Sự kiện này chứng tỏ khi đó Nho học đã được triều đình coi trọng ngang hàng với Phật giáo và Đạo giáo, hơn nữa nội dung của ba tôn giáo này còn trở thành những kiến thức tiêu chuẩn, buộc những con em quý tộc đi học phải thông thạo. *Tháng 9 (năm 1253 – nd) vua hạ chiếu cho học trò trong nước vào viện Quốc Tử để giảng luận nghĩa lý Ngũ kinh và Tứ thư. (Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Chính biên, quyển 6, tr.206 bản dịch). Sự kiện này chứng tỏ rằng đến thời Trần, thế kỉ thứ XIII, Nho học đã được giảng dạy cho dân chúng trong cả nước. Như vậy Nho học đã trở thành hệ tư tưởng tồn tại rộng rãi trong toàn xã hội người Việt. *Năm 1292: Trần Kiến là môn khách của Hưng Đạo Vương, nên Hưng Đạo Vương tiến cử, khi quân Nguyên mới sang xâm lấn, nhà vua sai Trần Kiến
  • 48. Mai Thu Quỳnh. Chu Dịch cứu nguyên – Phong cách kinh học và tư tưởng của Lê Văn Ngữ 45 bói Dịch (bói được quẻ Dự, biến ra quẻ Chấn) hai lần đều đúng... vua khen có tài và đặc cách bổ dụng. (Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Chính biên, quyển 8, tr.241 bản dịch). Lúc này vua Trần đã thường bói Dịch và cần những người biết bói Dịch cho tham gia hàng ngũ bề tôi của mình, nói rộng ra là trong dân chúng nước Đại Việt, người ta đã vận dụng Chu Dịch khá thuần thục. Đặc biệt, mức độ nhuần nhuyễn và thành thạo Chu Dịch của người Việt không chỉ dừng lại ở việc bốc phệ mà đã vận dụng để viết sách khiển binh, giúp đỡ đắc lực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ nền độc lập của dân tộc. Dẫn chứng dưới đây là một minh chứng hùng hồn: *Năm 1300: Quốc Tuấn lại sưu tập binh pháp các nhà, làm thành “Bát quái cửu cung đồ”, đặt tên là “Vạn Kiếp tông bí truyền thư”... Nhân Huệ Vương Khánh Dư viết bài tựa cho sách ấy như sau: “...” (Đại Việt sử kí toàn thư, Bản kỉ, quyển 6, tr.214 bản dịch). Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 8, tr.250 bản dịch) cũng ghi việc này. Tiếp theo là những dẫn chứng giúp ta hình dung ra nền giáo dục, học thuật, tư tưởng, văn hóa và đường lối chỉ đạo của xã hội phong kiến Việt Nam liên quan mật thiết đến Chu Dịch và Nho học: *Mùa hạ năm 1306 vua hạ lệnh cho Thiên chương học sĩ Nguyễn Sĩ Cố giảng dạy năm kinh. (Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Chính biên, quyển 8, tr.255 bản dịch). *Tháng 12 năm Nhâm Tuất (Quang Thái 5 – 1392 – nd) Quý Ly soạn sách “Minh đạo” gồm 14 thiên dâng lên, đại lược cho Chu Công là tiên thánh, Khổng Tử là tiên sư. Văn miếu đặt tượng Chu Công ở chính giữa, nhìn về phương Nam, Khổng Tử ở phía bên, nhìn về phương Tây. Cho sách Luận ngữ có bốn chỗ đáng ngờ như:..., cho Hàn Dũ là “đạo Nho”, cho bọn Chu Mậu Thúc, Trình Di, Dương Thi, La Trọng Tổ, Lý Diên Bình, Chu Tử tuy học rộng
  • 49. Mai Thu Quỳnh. Chu Dịch cứu nguyên – Phong cách kinh học và tư tưởng của Lê Văn Ngữ 46 nhưng ít tài, không sát với sự việc, chỉ thạo cóp nhặt. (Đại Việt sử kí toàn thư, Bản kỉ, quyển 8, tr.278 bản dịch, tờ 10a bản chữ Hán). *Tháng 12 (năm 1419) nhà Minh ban phát sách vở để dùng cho các trường học hàng phủ, hàng châu và hàng huyện. Lai sai thầy chùa truyền bá kinh Phật. Trước kia, vua Minh dưới sự định đoạt của mình, cho in ra các sách Ngũ kinh, Tứ thư, Tính lý đại toàn. Khi sách xong, hạ chiếu cho ban phát khắp trong và ngoài nước. Vua Minh dụ bảo bộ Lễ rằng: “Nghĩa lý tinh túy của thánh hiền ở cả trong sách này. Đó thật là căn bản cho người theo học. Các người khá thể theo ý chỉ của trẫm, hiểu dụ những người theo học hết lòng giảng luận nghiên cứu, chứ đừng nên coi chỉ là lời suông mà thôi. Đến đây vua Minh sai giám sinh Đường Nghĩa sang Nam, ban phát sách vở nói trên cho những người Nho học ở các phủ, các châu, các huyện. Lại sai các thày chùa truyền bá kinh Phật ở các Tăng, Đạo ti. Còn các sự tích và sử sách của nước ta từ đời Trần trở về trước đều tịch thu đưa về Kim Lăng (nay là thành phố Nam Kinh thuộc huyện Giang Kinh, Trung Quốc – nd). (Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Chính biên, quyển 13). * Tháng 3 năm 1467 bắt đầu đặt chức Bác sỹ dạy năm kinh. Lúc ấy giám sinh nhiều người chuyên trị kinh Thi, kinh Thư, ít người học tập sách Lễ ký, Chu Dịch và Xuân thu, cho nên nhà vua đặt chức Bác sỹ năm kinh, mỗi viên Bác sỹ chuyên nghiên cứu một kinh để dạy các học trò. (Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Chính biên, quyển 20, tr.493 bản dịch). Sách Đại Việt sử kí toàn thư (Bản kỉ, quyển 12, tr.449 bản dịch) cũng ghi như thế. * Tháng giêng năm 1734 ban phát sách Ngũ kinh đại toàn cho học quan các xứ. Trước đây, quan sai hiệu đính kiểm duyệt năm kinh theo bản khắc văn của Trung Quốc rồi khắc thành sách, nay sách đã in xong, ban bố cho trong