SlideShare a Scribd company logo
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Đỗ Thị Vân Oanh
TINH THẦN NHÂN VĂN TRONG
THƠ THIỀN TUỆ TRUNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
Thành phố Hồ Chí Minh - 2013
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Đỗ Thị Vân Oanh
TINH THẦN NHÂN VĂN TRONG
THƠ THIỀN TUỆ TRUNG
Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số: 60 22 01 21
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS ĐOÀN THỊ THU VÂN
Thành phố Hồ Chí Minh - 2013
1
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của bản thân, chưa từng được công bố từ
trước đến nay. Tất cả số liệu sử dụng đều do người viết tự thông kê, tổng hợp, không sao
chép lại từ thành quả của người đi trước.
Người viết luận văn
Đỗ Thị Vân Oanh
2
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................ 1
MỤC LỤC .................................................................................................................... 2
MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 4
1. Lí do chọn đề tài..............................................................................................................4
2. Lịch sử vấn đề .................................................................................................................5
3. Phương pháp nghiên cứu.............................................................................................13
4. Đối tượng, mục đích nghiên cứu .................................................................................13
5. Đóng góp của đề tài ......................................................................................................13
6. Kết cấu đề tài.................................................................................................................14
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG.............................................................. 15
1.1. Khái niệm nhân văn và những biểu hiện của tinh thần nhân văn trong văn học
............................................................................................................................................15
1.1.1. Khái niệm nhân văn ..............................................................................................15
1.1.2. Những biểu hiện của tinh thần nhân văn trong văn học .......................................19
1.2. Thời đại Lý – Trần và thơ Thiền Tuệ Trung..........................................................25
1.2.1. Thời đại Lý – Trần và Phật giáo Thiền tông thời Lý Trần ...................................25
1.2.2. Tuệ Trung và thơ Thiền Tuệ Trung trong văn học Lý – Trần..............................30
CHƯƠNG 2: NỘI DUNG TINH THẦN NHÂN VĂN TRONG THƠ THIỀN
TUỆ TRUNG ............................................................................................................. 35
2.1. Nhân văn trong quan niệm về cuộc đời và con người............................................35
2.1.1. Thấu suốt lẽ “vô thường”......................................................................................35
2.1.2. Thấu thị tinh thần “vong nhị kiến” .......................................................................40
2.1.3. Tự tin, tự lực để “kiến tánh thành Phật”...............................................................44
2.2. Nhân văn trong cách ứng xử và hành động ............................................................49
2.2.1. Phá chấp để đạt đến tự do, an lạc cho tâm hồn.....................................................49
2.2.2. Hòa quang đồng trần để đem đạo đến cho đời .....................................................56
2.2.3. Tùy duyên, linh hoạt để sống hợp lẽ và hành động có ích, có hiệu quả...............62
2.2.4. Tận tâm trong sự dẫn dắt, khai ngộ cho mọi người..............................................67
CHƯƠNG 3: NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN TINH THẦN NHÂN VĂN TRONG
THƠ THIỀN TUỆ TRUNG...................................................................................... 75
3.1. Ngôn ngữ.....................................................................................................................75
3.1.1. Ngôn ngữ có sức biểu cảm mạnh:.........................................................................75
3.1.2. Ngôn ngữ tượng trưng, ẩn dụ................................................................................79
3
3.1.3. Ngôn ngữ phi logic : .............................................................................................84
3.2. Thể thơ........................................................................................................................88
3.2.1. Thể Đường luật.....................................................................................................88
3.2.2. Thể cổ phong ........................................................................................................93
3.3. Giọng điệu...................................................................................................................98
3.3.1. Giọng thuyết giảng hùng biện, sắc sảo .................................................................98
3.3.2. Giọng tự tình tự do, phóng khoáng.....................................................................102
3.3.3. Giọng trào lộng hóm hỉnh, ý nhị.........................................................................105
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 111
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 113
PHỤ LỤC ................................................................................................................. 117
4
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong giới Thiền học Việt Nam, Tuệ Trung Thượng Sĩ không phải là một cái tên quá
xa lạ. Ở các thiền viện, những bài thơ thiền và ngữ lục của Tuệ Trung được giảng dạy như
một giáo lý, một phương pháp thực hành thiền tập đem lại lợi ích thiết thực cho người học
đạo. Với các nhà nghiên cứu văn học, nhất là văn học Phật giáo Việt Nam, tác phẩm thơ
Tuệ Trung mở ra cả một thế giới vừa mênh mông phóng khoáng, vừa thâm sâu vi diệu. Các
tác phẩm của Tuệ Trung, bất luận được lý giải ở phương diện nào, đều có những điểm thú vị
và giá trị đặc biệt riêng. Xem Tuệ Trung là một tác giả văn học trung đại cũng đúng, mà
xem Tuệ Trung là một nhà Thiền học cũng không sai. Do vậy, vấn đề đặt ra là, cần nghiên
cứu tác phẩm thơ Thiền Tuệ Trung từ góc nhìn nào cho thật sự toàn vẹn và đầy đủ? Nếu chỉ
nhìn ở góc độ văn chương thuần túy, vô tình chúng ta sẽ làm giảm đi một phần không nhỏ
chiều sâu triết lý của tác phẩm – điều mà chỉ có thể dùng đến quan điểm Phật giáo để giải
thích. Ngược lại, nếu chỉ đặt thơ Thiền Tuệ Trung trong cái nhìn của Thiền tông thuần túy
sẽ làm cho tác phẩm mang nặng yếu tố triết thuyết, kinh viện – trong khi thơ Thiền Tuệ
Trung vốn rất thiết thực, rất đời.
Xuất phát từ vấn đề trên, luận văn mong muốn đưa ra một cách nhìn nhận mới về thơ
Thiền Tuệ Trung: đánh giá thơ Thiền Tuệ Trung trong sự giao thoa giữa “đạo” và “đời”,
giữa triết lý Thiền học và văn chương. Cách nghiên cứu này có thể cung cấp cho người đọc
một cái nhìn toàn vẹn hơn về Tuệ Trung - một tác giả khá đặc biệt của văn học trung đại
Việt Nam và thiền phong Tuệ Trung – đạo thiền của những con người “biết sống” đúng
nghĩa nhất. Nó sẽ giúp chúng ta lý giải phần nào về con người và thời đại Lý – Trần, một
thời đại hoàng kim “có một không hai” trong lịch sử Việt Nam.
Văn học Việt Nam đã đi qua nhiều chặng đường dài. Mỗi một chặng đường văn học
có một diện mạo riêng. Tuy nhiên, có những chuẩn giá trị tương đối thống nhất, là yêu cầu
chung của mọi thời đại: Tinh thần nhân văn, nhân đạo và khả năng bao quát, phản ánh hiện
thực đời sống. Một tác phẩm văn học chỉ thật sự “sống” được khi nó chứa đựng được các
giá trị ấy – giá trị căn bản và cần thiết nhất của văn chương. Vì vậy, chúng tôi chọn đề tài:
TINH THẦN NHÂN VĂN TRONG THƠ THIỀN TUỆ TRUNG. Nói đến TINH THẦN
NHÂN VĂN là nói đến điểm nhìn của văn chương, của cuộc đời. Còn nói đến THƠ THIỀN
là nói đến quan điểm của giáo lý Thiền tông. Theo chúng tôi, giá trị của thơ Thiền Tuệ
5
Trung không chỉ dừng lại trong giới hạn của văn chương trung đại hay thiền học Phật giáo,
mà trước hết và trên tất cả, đó là một “cách sống đúng chuẩn”, là “cảnh giới tâm linh” mà
con người mong muốn đạt tới. Như vậy, đi vào đề tài này, chúng tôi sẽ đưa ra một cách lý
giải dựa trên điểm nhìn “giao thoa” giữa văn học của đời sống và triết lý của Thiền tông; để
từ đó khẳng định giá trị của thơ Thiền Tuệ Trung về mặt lý thuyết nghiên cứu văn học Phật
giáo và cả thực tiễn thiền tập để đem lại cho con người một đời sống thật sự bình an và hỷ
lạc.
2. Lịch sử vấn đề
Bàn về thơ Thiền Tuệ Trung Thượng Sĩ, từ trước đến nay từng có không ít các bài
viết, công trình nghiên cứu. Trong đó, các tác giả thường đi vào lý giải về một khía cạnh,
một vấn đề nào đó trong tác phẩm của Tuệ Trung. Có thể thấy thiên hướng rõ rệt khi tìm
hiểu về thơ Thiền Tuệ Trung ở các công trình này là đi vào nghiên cứu và lý giải thơ Thiền
Tuệ Trung gắn liền với giáo lý Thiền tông thuần túy. Điều này đã góp phần không nhỏ trong
việc khẳng định vị trí của Tuệ Trung trong giới Thiền tông Việt Nam như một bậc thiền sư
đã qua trải nghiệm và thực chứng tâm linh. Tuy nhiên, nghiên cứu thơ Thiền Tuệ Trung một
cách tập trung, độc lập và có hệ thống thì đến nay hầu như vẫn chưa có một công trình cụ
thể nào.
Để thuận tiện trong việc theo dõi, chúng tôi thống nhất cách sắp xếp các công trình,
bài nghiên cứu về thơ Thiền Tuệ Trung hoặc có liên quan đến thơ Thiền Tuệ Trung theo hai
hướng: Hướng thứ nhất là các công trình, bài nghiên cứu mang tính khái quát về thơ Thiền
Tuệ Trung. Hướng thứ hai là các công trình trực tiếp, tập trung nghiên cứu về một tác
phẩm hoặc một vấn đề cụ thể trong thơ Thiền Tuệ Trung.
* Ở định hướng nghiên cứu thứ nhất, có thể kể đến các công trình sau:
- Thơ Thiền Việt Nam – Những vấn đề lịch sử và tư tưởng nghệ thuật của
tác giả Nguyễn Phạm Hùng (1998). Chuyên luận chia thành 2 phần: Phần 1 - Thơ ca Phật
giáo Việt Nam, những vấn đề lịch sử và tư tưởng nghệ thuật; Phần 2 – Tuyển tập thơ Thiền
Việt Nam. Trong phần 1, chương V, khi đề cập đến Thơ Thiền đời Trần, tác giả chọn Tuệ
Trung Thượng Sĩ Trần Tung là một trong các tác giả tiêu biểu của thơ Thiền đời Trần. Nhà
nghiên cứu Nguyễn Phạm Hùng đã đưa ra những nhận xét khá xác đáng và thú vị về thơ
Thiền Tuệ Trung:
6
+ “Cái độc đáo của nội dung thơ Thiền Trần Tung là ở tư tưởng “phóng cuồng” hết
sức mãnh liệt. Cái độc đáo của hình thức thơ Thiền Trần Tung là sự mở rộng các biện pháp
biểu hiện, từ thơ tới ca. Ca từ bằng chữ Hán của Trần Tung khó có tác gia Thiền nào sánh
kịp” [11; tr152]
+ “Thơ ông diễn tả tâm trạng phóng túng và say sưa của con người học đạo và hành
đạo đã đạt tới sự giác ngộ, giải thoát, tự do, tự tại, khi con người vượt lên trên sự sống chết,
mất còn, khi đạt tới sự “vô phân biệt” giữa phàm thánh, tăng tục, khi con người không còn
nệ vào trì giới, nhẫn nhục” [11; tr156].
- Tuệ Trung – Thượng sĩ, Nhân sĩ, Thi sĩ của Nguyễn Duy Hinh (1998). Công trình
chia thành 3 chương:
Chương 1: Tuệ Trung - nhân sĩ, nhằm xác định vị trí nhân vật trong lịch sử đất
nước và lịch sử Thiền tông
Chương 2: Tuệ Trung – thượng sĩ, tập trung minh họa, lý giải một số vấn đề
Thiền học mà Tuệ Trung đã đưa ra.
Chương 3: Tuệ Trung – thi sĩ, nghiên cứu về tâm hồn và nghệ thuật thơ ca Tuệ
Trung.
Ở đây, chúng tôi chủ yếu quan tâm đến nội dung chương 2 và chương 3. Trong
chương 2, sau khi đưa ra những luận giải, tác giả cho rằng Tuệ Trung đến với đạo Thiền là
vì: “Đời không mãn nguyện quay sang Đạo” [8;tr162]. Theo tác giả, cái cơ sở của Tâm Tuệ
Trung là: “Xuất phát từ thất bại không thỏa mãn được lòng ham muốn vinh hoa phú quý
theo như tự đánh giá, Tuệ Trung nhận thấy đời như mộng, phú quý như phù vân và thoát thế
tiêu dao. Đó là tư tưởng Vô Vi và Tiêu Dao của Lão Tử và Trang Tử diễn đạt trong Đạo
Đức Kinh và Trang Tử (tức Nam Hoa Kinh) (….) Nếu Phật Tâm là cơ sở thì Tuệ Trung đã
xuất gia. Nhưng vì Vô Vi và Tiêu Dao là cơ tầng Tâm Tuệ Trung cho nên ông thả chiếc
thuyền con trên mặt nước mênh mông ngắm hoa nở, nghe chim hót” [10; tr163]
Ở chương 3, khi nghiên cứu về thơ Thiền Tuệ Trung, tác giả chia 49 bài thơ của Tuệ
Trung thành 2 nhóm: Thơ Thiền lý (20 bài) và thơ Thiền ý (29 bài). Theo Nguyễn Duy Hinh:
“Con đường thơ ca của Tuệ Trung xuất phát tự tâm sự bất đắc chí của một quý tộc tự đánh
giá mình cao hơn triều đình đánh giá (…) Tuệ Trung là một nhân sĩ quý tộc, một thượng sĩ
hạng trí giả, một nhà thơ thiền mà chất Lão Trang đậm đà trong hình tượng thơ ca. Tuệ
7
Trung không phải thi tăng, là nhà thơ thiền duy nhất của nước Việt Nam. Không một nhà
thơ thiền nào kể cả thi tăng có nhiều bài thơ thiền như ông (….) Thơ Thiền Tuệ Trung thoát
tục mà không xuất thế. Cuồng mà không say” [8; tr 250 – 254]
- Luận án Tiến sĩ Ngữ Văn của tác giả Trần Lý Trai với đề tài Giá trị văn học trong
tác phẩm của Thiền phái Trúc Lâm (2008): Trong công trình này, tác giả tập trung làm rõ
những giá trị về nội dung tư tưởng và hình thức biểu hiện của các tác phẩm trong thiền phái
Trúc Lâm, trong đó có Tuệ Trung Thượng Sĩ.
- Bài viết Cảm hứng giải thoát trong thơ Vương Duy và Tuệ Trung Thượng Sĩ
của tác giả Lê Thị Thanh Tâm với có đề cập đến cảm hứng giải thoát của thơ Thiền Tuệ
Trung trong khi so sánh thơ Vương Duy và Tuệ Trung. Tác giả cho rằng thơ Thiền Tuệ
Trung mang đậm thiền lực, còn thơ Thiền Vương Duy mang mang đậm thiền vị. Sau khi
phân tích, khảo sát một số bài thơ tiêu biểu của Vương Duy và Tuệ Trung, tác giả kết luận
rằng: “Thế giới thơ ca Vương Duy phản ánh rõ nét cốt cách và tầm vóc của ông. Nhìn từ
góc độ cảm hứng giải thoát, chúng tôi nhận thấy: thơ ông chứa đựng không gian thiên
nhiên có màu sắc nội tâm u huyền, cảm thức vũ trụ mang nội dung mỹ cảm thiền tông, yếu
tố “nhàn tĩnh” trong con người nhàn và thơ có giọng than. Đây là những yếu tố rất tương
hợp và thống nhất với cốt cách tài hoa, tài tử của ông, mang rõ những ảnh hưởng văn hóa
mỹ học của thời thịnh Đường mà ông là một trong những đại diện tiêu biểu nhất. Thế giới
thơ ca Tuệ Trung lại mang âm hưởng “học phong Đông A” – nền học phong đặc thù của
một giai đoạn lịch sử rực rỡ nhất thời trung đại. Đó là khuynh hướng duy tình trong triết
luận, nhưng lại đặt trọng tâm vào sự thể hiện đạo học, trí tuệ giải thoát vào thơ. Sáng tác
của ông mang nội dung thiền lực cao sâu, đi kèm với giọng thuyết giáo, làm nên một chân
dung đặc sắc của một nhân cách lớn về đạo lẫn ở đời”[tài liệu trên internet].
- Quyển Những sáng tác văn học của các thiền sư thời Lý – Trần (2010) của tác
giả Thích Giác Toàn trong chương 2 – Những sáng tác văn học của các thiền sư thời Lý –
Trần đã đi vào luận giải , chứng minh tinh thần nhân bản trong sáng tác của các thiền sư qua
bốn mối liên hệ chính: 1. Sự hiện hữu của con người và sự cảm nhận về thân phận con
người trong cuộc sống; 2. Những bài ca về sự sống và cái chết của con người; 3. Sự cảm
nhận của con người trước cảnh sắc thiên nhiên; 4. Con người quay về với chính mình hay
một định hướng sống hiền đẹp. Trong quá trình phân tích, lý giải các vấn đề đặt ra, tác giả
đã sử dụng một số bài thơ Thiền của Tuệ Trung Thượng Sĩ để làm dẫn chứng minh họa cho
8
luận điểm thứ 2, đồng thời đưa ra nhận định về Tuệ Trung: “Mỗi hành động của Tuệ Trung
Thượng Sĩ là một phong cách hiển lộ nhằm khai thị cho học nhơn một cái nhìn mới liễu ngộ
cảnh trí Phật pháp. Mỗi bài thơ, bài kệ của Tuệ Trung Thượng Sĩ là những ngôn ngữ thơ ca
mang tính đặc thù của Thiền tông là nhằm chỉ thẳng tâm người, làm cho người bừng tỉnh
trước những vọng duyên sở chấp, tự chứng, tự mãn trên đường tu tập” [42; tr120]. Công
trình này đã khẳng định cho chúng ta thấy phần nào những đóng góp của mảng văn học Phật
giáo, nhất là Phật giáo Thiền tông đối với nền văn học nước nhà và thực tiễn đời sống của
con người. Tuy nhiên, có lẽ, vì là một tu sĩ, nên điểm nhìn trọng tâm của tác giả trước sau
vẫn thiên về giáo lý nhà Phật hơn là văn chương trần thế. Do vậy, công trình không chú
trọng đi sâu nghiên cứu về hình thức biểu hiện trong các tác phẩm thơ Thiền. Tức là, tác giả
chỉ dừng lại ở khía cạnh nội dung những sáng tác thiền học của các thiền sư thời Lý – Trần
mà chưa quan tâm nhiều đến phương diện nghệ thuật thể hiện nội dung ấy.
- Quyển Về con người cá nhân trong văn học cổ Việt Nam của các tác giả Nguyễn
Hữu Sơn – Trần Đình Sử - Huyền Giang – Trần Ngọc Vương – Trần Nho Thìn – Đoàn Thị
Thu Vân (NXB Giáo dục, 2010), ở chương 3 – Vấn đề con người trong văn học thời đại Lý
Trần có đề cập đến hình tượng con người trong thơ Thiền Tuệ Trung: “Đó là con người “dĩ
bất biến ứng vạn biến”, làm chủ trong mọi biến ảo. Có thể nói đó là con người tự do nhưng
tự do hướng nội, tự do vứt bỏ tất cả để tạo lập một thế giới riêng” [29; tr 163]
* Ở định hướng nghiên cứu thứ hai, trước tiên phải kể đến bài viết của tác giả
Nguyễn Huệ Chi: Trần Tung – Một gương mặt lạ trong làng thơ Thiền thời Lý – Trần
đăng trên Tạp chí Văn học số 4 năm 1977, tr 116. Trong bài viết này, ngoài việc minh định
lại thân thế của Tuệ Trung Thượng Sĩ, tác giả tập trung phân tích, lý giải những nét “lạ”
trong sáng tác thơ ca của Thượng Sĩ: “Vả chăng, Trần Tung lại là nhà Thiền học vào hàng
đặc biệt, người không chịu rời bỏ cuộc sống thế tục lấy một ngày nào. Vì thế, việc trộn lẫn
giữa Thiền và tục và Thiền trong tục trong thơ ông biết đâu lại chẳng là điều kiện của sự
thăng hoa, giúp ông đạt đến những sáng tạo đặc sắc, đánh dấu một cấp độ thẩm mĩ mới của
thơ ca thời đại này”
Bên cạnh đó, có thể kể đến các bài nghiên cứu trong quyển Tuệ Trung Thượng Sĩ
với Thiền tông Việt Nam do Viện Khoa học xã hội – Trung tâm nghiên cứu Hán Nôm biên
soạn (Nhà xuất bản Đà Nẵng xuất bản năm 2000 và tái bản năm 2011). Trong số 33 bài
9
nghiên cứu, có 10 bài trực tiếp đề cập đến thơ Thiền Tuệ Trung, 01 bài đề cập đến tính nhân
văn trong trong thơ Thiền.
- Trong bài “Tính nhân văn nơi các thiền sư tiêu biểu của Phật giáo Trúc Lâm đời
Trần”, tác giả Thích Giác Toàn chỉ ra tính nhân văn nơi các thiền sư biểu hiện chủ yếu qua
cách sống, cách hành xử đối với con người và cuộc đời. Với Tuệ Trung, tính nhân văn ấy
gắn với tư tưởng “hòa quang đồng trần”, tư tưởng “bất nhị” hay “quay về chính mình”.
- Trong bài viết “Tuệ Trung Thượng Sĩ – con mắt thông tuệ rừng thiền ba phía”,
tác giả Nguyễn Văn Hồng nhận xét về triết thuyết và con người Tuệ Trung Thượng Sĩ:
“Không xa lánh cuộc sống, nhập thế để xuất thế, sống để hiểu cuộc sống. Tuệ Trung
Thượng Sĩ tham gia vào việc giữ gìn sáng tạo và nhận biết giải thích cuộc sống. Toàn bộ
triết thuyết của ông xuất phát từ Tâm muốn tìm một con đường để con người sống tốt hơn
đẹp hơn, và như vậy quả thực ông đã như một nhà tư tưởng triết học mang đậm màu sắc
riêng” [23;tr 100]
- Với bài viết Tuệ Trung Thượng Sĩ và Phật giáo thiền tông, tác giả Lê Văn Sáu tập
trung tìm hiểu về những nét đặc sắc, độc đáo trong tư tưởng Thiền của Tuệ Trung về mặt
bản thể luận. Ông cho rằng: “Quan niệm Thiền của cư sĩ rất độc đáo, sống hết mình theo
quy luật, theo Tâm, không cần ai, không cầu cạnh ai, đó là Thiền rồi (…). Tiếp cận với
những tác phẩm của Tuệ Trung, chúng ta có thể cho rằng nhà cư sĩ uyên thâm này đã sớm
đi từ những luận điểm của Thiền tông đặt ra và giải đáp những vấn đề cơ bản của triết học
trên cơ sở bản thể luận và nhận thức luận dưới dạng độc đáo của môn phái Thiền tông”.
[23; tr112]
- Với Tuệ Trung Thượng Sĩ – Một khuôn mặt đặc biệt của thiền tông đời Trần,
ngay từ những dòng đầu tiên, tác giả Huỳnh Công Bá đã đánh giá rất cao vị trí, vai trò của
Tuệ Trung Thượng Sĩ: “Trong giới Thiền học đời Trần, Tuệ Trung Thượng Sĩ là một
khuôn mặt khá đặc biệt. Đạo học của Thượng Sĩ rất uyên thâm và hành trạng của Thượng
Sĩ có nhiều độc đáo. Thượng Sĩ là ngọn đuốc sáng nhất của Thiền học đời Trần.” [23;
tr57]. Trong bài nghiên cứu này, tác giả tập trung tìm hiểu về Thượng Sĩ trên hai bình diện
là tư tưởng và hành động với những lí giải khá thú vị và sâu sắc.
- Cùng đi vào tìm hiểu về Thiền phong của Thượng Sĩ, tác giả Tống Hồ Cầm với
Thiền lực của Tuệ Trung Thượng Sĩ là sức sống tâm linh rất mãnh liệt lại chú ý đến
“tinh thần phá chấp triệt để” của Tuệ Trung, xem đây là nét đặc biệt của tư tưởng Thiền
10
Tuệ Trung. Trong bài viết, tác giả đã phân tích, lí giải những biểu hiện của “tinh thần phá
chấp triệt để” trong thơ Thượng Sĩ, đó là: đập phá thái độ bám víu vào khái niệm và đập
phá về quan niệm lưỡng nguyên giữa thiện ác, mê ngộ, sanh tử, có không, thánh phàm…
Cuối cùng, tác giả đi đến kết luận: “Tinh thần phá chấp của Tuệ Trung có thể nói giống như
tinh thần phá chấp của Lục Tổ Huệ Năng là chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật, lột
bỏ những kiến chấp, khái niệm mơ hồ qua ngôn ngữ văn tự (…). Tuệ Trung sống hòa quang
đồng trần là để đưa đạo vào đời, nên đối với ông hình thức tại gia, xuất gia không quan
trọng. Vì vậy, tư tưởng Thiền của ông toát ra một sức sống tâm linh có mãnh lực khai mở
cửa tự ngộ cho người khác” [23; tr 105-106]
- Trong bài Pháp môn bất nhị - tư tưởng thiền trong Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ
Lục tác giả Thích Thanh Kiểm đi vào phân tích, luận giải về “pháp môn bất nhị” của Thiền
tông thông qua một số “công án” Thiền trong Kinh Phật, một vài đoạn trong phần “Tụng
cổ” của Tuệ Trung Thượng Sĩ ngữ lục” và 2 bài thơ của Thượng Sĩ. Từ đây, tác giả giúp
cho chúng ta hiểu thêm một phần quan trọng trong tư tưởng Thiền Tuệ Trung: quan niệm về
sự bình đẳng, vô sai biệt.
- Với Tư tưởng Thiền học của Tuệ Trung Thượng Sĩ tác giả Thích Phước Sơn đã
chỉ ra 5 điểm then chốt trong tư tưởng Thiền học của Tuệ Trung Thượng Sĩ là: 1. Quán triệt
lẽ vô thường của môn pháp; 2. Vạn pháp do tâm tạo; 3. Cổ vũ tinh thần tự lực; 4. Phá bỏ
quan niệm lưỡng cực; 5. Tự tại giải thoát. Và, tác giả kết luận rằng: “Tuy nhiên, con người
của ông rất đa dạng, ngoài phong thái siêu quần, hành vi thoát tục, Tuệ Trung lại có tài văn
chương, diễn tả tư tưởng rất độc đáo, sắc sảo, mạnh mẽ và trực tiếp. Ông không những là
một nhà tư tưởng lớn mà còn là một thi sĩ tài hoa, hình như đây là một hiện tượng đặc thù
và hi hữu trong thiền sử Phật giáo.” [23; tr175]
- Khác với phần lớn những bài nghiên cứu về Tuệ Trung Thượng Sĩ, trong Tuệ
Trung Thượng Sĩ – kẻ rong chơi giữa sống và chết tác giả Thích Phước An không đi vào
luận giải về tư tưởng Thiền học của Tuệ Trung mà chỉ điểm qua và bình luận về 11 bài thơ
khá tiêu biểu của Thượng Sĩ là: Dưỡng chân, Giang hồ tự thích, Chiếu thân, Thị học, Ngẫu
tác, Thoát thế, Đề tịnh xá, Trụ trượng tử, Thị đồ, Tự đề, An định thời tiết. Bên cạnh đó, tác
giả còn điểm qua hành tung đặc biệt của Thượng Sĩ trong lịch sử, từ đó cho thấy tâm thế của
một bậc xuất trần thượng sĩ, an nhiên rong chơi giữa sống chết, thành bại, được mất của
cuộc đời. Theo Thích Phước An, hành trình rong chơi của Thượng Sĩ là hành trình đi tìm và
11
thưởng ngoạn cái đẹp của đời, và: “Tuệ Trung Thượng sĩ khuyên ta nên trở về tìm kiếm cái
đẹp ngay bên trong, chứ đừng tìm bên ngoài. Nếu ngày nào đó ta vẫn cứ tiếp tục lang thang
tìm kiếm bên ngoài, thì ngày đó ta vẫn chỉ gặp toàn thất vọng và đau khổ mà thôi” [23;
tr181]
- Trong Chất thiền Đại Việt trong thơ Tuệ Trung Thượng Sĩ, Nguyễn Thị Thanh
Xuân đưa người đọc vào thế giới thơ Thiền Tuệ Trung với những cảm xúc, suy tư của Tuệ
Trung đối với hiện thực cuộc sống trong đó có giáo lý Thiền. Theo tác giả, “thơ Tuệ Trung
bay bổng cùng đất trời và hòa cùng tâm hồn Đại Việt đang phơi phới vươn lên tự khẳng
định mình” [23; tr220]. Cuối cùng, Nguyễn Thị Thanh Xuân kết luận: “Chất Thiền Đại Việt
trong thơ Tuệ Trung là tâm hồn ông, trí tuệ ông và hành động của ông. Thơ ấy chính là
Thiền. Thiền ấy chính là Tuệ Trung, chính là Đại Việt” [23; tr229]
- Với Thiền ngữ trong thi ca của Tuệ Trung Thượng Sĩ, tác giả Thích Tuệ Đăng
đưa ra kết luận: “Tuệ Trung đã sống với chính thực tại nhiệm màu, sống đời tự tại vượt
ngoài động tĩnh, vượt ngoài đối đãi phân biệt, bóp nát ý thức, phá vỡ danh tướng… Bởi vậy,
ngôn ngữ của Tuệ Trung là một thứ ngôn ngữ giác ngộ, tự nó vốn viên thành chẳng tìm
ngoài mà được, cốt quay về tự tính làm hiển lộ cái “mười phương thế giới hiện toàn chân”.
Đó chính là tinh thần nhân bản của đạo Phật vậy.”[23; tr246]. Nhận định này đã góp phần
gợi mở cho chúng tôi thấy thêm được điểm “giao thoa” giữa tính nhân văn trong văn
chương và tinh thần nhân bản của đạo Phật, cụ thể là Phật giáo Thiền tông.
- Với Tuệ Trung Thượng Sĩ và Thiền phong đời Trần tác giả Đoàn Thị Thu Vân
khẳng định giá trị đặc biệt, thiết thực của Thiền phong Tuệ Trung: “Đối với Tuệ Trung,
Thiền không chỉ là một tôn giáo mà là một cách sống, một đạo sống đẹp giúp con người đạt
đến một hạnh phúc đích thực nơi trần thế với sự tự do tự tại và hài hòa cùng vạn vật vũ trụ”
[23; tr 14-15]
Nhìn chung, ở các công trình nghiên cứu trong quyển Tuệ Trung Thượng Sĩ với
Thiền tông Việt Nam, các tác giả đều tập trung lý giải về thiền phong đặc biệt của Tuệ
Trung Thượng Sĩ. Hầu như các tác giả đều đồng nhất trong quan niệm về tư tưởng và lối
sống Thiền của Tuệ Trung, đó là lối sống “siêu thoát nhưng không xa rời thực tại, tâm hồn
bồng bềnh với trăng gió nước mây, nhưng hai chân vẫn trụ chắc trên mảnh đất quê hương”
[23; tr228]
12
- Trong Những đóng góp của Tuệ Trung Thượng Sĩ cho thơ Thiền Việt Nam
(luận văn thạc sĩ Ngữ Văn năm 2009), Trần Thị Thu Hiền đi vào tìm hiểu và chỉ ra những
đóng góp về nội dung, tư tưởng và nghệ thuật của Tuệ Trung cho thơ Thiền Việt Nam. Ở
đây, tác giả luận văn đã nắm bắt được những nội dung tư tưởng cốt lõi của Tuệ Trung
Thượng Sĩ: tư tưởng tùy duyên, tinh thần phá chấp triệt để, tinh thần tự tin vào bản thân,
tinh thần dung hợp Tam giáo.
- Tác giả Thích Đức Thắng trong bài Con trâu đất – Một biểu tượng độc đáo của
Tuệ Trung đã đi sâu phân tích và chỉ rõ cái hay, cái độc đáo của biểu tượng “con trâu đất”
trong thơ Thiền Tuệ Trung. Theo tác giả, “con trâu đất” chính là một “công án thiền” mà
Thượng Sĩ Tuệ Trung muốn đưa ra để khai ngộ cho người học Phật: “Tóm lại, ai muốn thấy
được cái độc đáo trong con trâu đất của Tuệ Trung thì phải tham thấu lọt qua công án này
mới mong thấy được BẢN LAI DIỆN MỤC của chính mình” [tài liệu trên internet]
- Gần đây nhất, trong bài Tư tưởng nhập thế của Tuệ Trung qua bài “Phật Tâm
ca” của tác giả Phước Tâm in trong quyển VĂN HỌC PHẬT GIÁO VỚI 1000 NĂM
THĂNG LONG HÀ NỘI (do HT. Thích Giác Toàn và PGS.TS Trần Hữu Tá chủ biên, Nhà
xuất bản Văn hóa Thông tin, 2010) một lần nữa khẳng định giá trị đích thực và tích cực của
Thiền phong Tuệ Trung: “Chủ trương của cả bài thơ Phật tâm ca chính là đem việc tu thiền
dung nhập vào đời sống hằng ngày. Ông cho rằng Phật pháp không thể tách rời thế gian.
Sự tu tập pháp môn đốn ngộ mà ông khởi xướng không phải dùng các hình thức tu tập cố
định như tọa thiền, tụng kinh, bái Phật… Giác ngộ với ông, phải là đạt được từ trong cuộc
sống hiện thực này. Từ công việc, các thao tác, hành vi, cử chỉ, ánh mắt, nụ cười… trong
cuộc sống mà đạt được trí tuệ” [40;tr 489]
Qua các bài viết, các công trình nghiên cứu về Tuệ Trung và thơ Thiền Tuệ Trung,
có thể thấy thiền học không phải là vấn đề thuần túy tôn giáo mà luôn gắn liền với thực tế
đời sống. Thiền là một cách sống, một phương pháp sống đem lại lợi ích lớn lao cho người
thực hành thiền tập. Do vậy, cần đặt giáo lý thiền vào dòng chảy của đời sống nói chung,
văn chương nói riêng để thấy được giá trị tích cực và đích thực của nó.
Dù chưa đi vào khai thác cụ thể vấn đề TINH THẦN NHÂN VĂN TRONG THƠ
THIỀN TUỆ TRUNG, các công trình nghiên cứu trên đã cung cấp thêm cho chúng tôi một
cái nhìn về giá trị của thơ Thiền nói chung, thơ Thiền Tuệ Trung nói riêng. Trên cơ sở ban
đầu này, chúng tôi sẽ bắt tay tìm hiểu, luận giải thêm về thơ Thiền Tuệ Trung với mong
13
muốn góp thêm tiếng nói mới trong cách nhìn nhận, đánh giá về mảng văn học đặc biệt của
dân tộc – văn học Phật giáo Thiền tông.
3. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp phân tích – tổng hợp được sử dụng trong quá trình nghiên cứu các đơn
vị tác phẩm riêng rẽ, làm dẫn chứng minh họa cho các luận điểm trong bài nghiên cứu.
Phương pháp này áp dụng tập trung ở chương 2 và 3 và là phương pháp chủ đạo, xuyên suốt
trong luận văn của chúng tôi.
Phương pháp hệ thống: Chúng tôi sử dụng phương pháp này để tổng hợp, khái quát
vấn đề, đưa ra các luận điểm, định hướng triển khai vấn đề.
Phương pháp so sánh: Nhằm mục đích làm nổi bật giá trị đặc biệt của thơ Thiền Tuệ
Trung, chúng tôi sẽ tiến hành so sánh, đối chiếu thơ Thiền Tuệ Trung với một số bài thơ,
nhà thơ trung đại khác. Phương pháp này cũng sẽ được sử dụng chủ yếu ở chương 2 và 3
Phương pháp liên ngành: Với mong muốn đi vào nghiên cứu thơ Thiền Tuệ Trung ở
góc nhìn giao thoa giữa Thiền học và thơ ca, chúng tôi sẽ đặt các bài thơ Thiền, ngữ lục của
Tuệ Trung trong nhiều mối quan hệ khác nhau (văn hóa, xã hội, tôn giáo) để xem xét, lý
giải. Phương pháp này sẽ được áp dụng chủ yếu trong chương 2.
4. Đối tượng, mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Tinh thần nhân văn thể hiện trong thơ Thiền Tuệ Trung
Ngữ liệu sử dụng nghiên cứu:
- Các bài thơ của Tuệ Trung - 49 bài
- “Tuệ Trung Thượng Sĩ ngữ lục”
Mục đích nghiên cứu: Chỉ ra nội dung nhân văn trong thơ Thiền Tuệ Trung và nghệ
thuật thể hiện tinh thần nhân văn của thơ Thiền Tuệ Trung, qua đó khẳng định giá trị của
thơ Thiền Tuệ Trung trong nền văn học trung đại nói chung, văn học Phật giáo nói riêng.
5. Đóng góp của đề tài
Như trên đã nói, khi lựa chọn đề tài, chúng tôi dựa trên cơ sở kết hợp nghiên cứu văn
học và nghiên cứu giáo lý thiền học trong tác phẩm Tuệ Trung để đưa ra những đánh giá,
luận giải và đi đến khẳng định giá trị đặc trưng của thơ thiền Tuệ Trung. Qua đó cho thấy
14
tác dụng tích cực, thiết thực của văn học và Thiền học đối với cuộc sống con người. Đó
không phải là lý thuyết sách vở thuần túy, mà trước hết và trên tất cả đó là “phương pháp
sống”, “phương pháp hành xử” cần có của con người trước cuộc đời - một xã hội hiện đại,
đầy đủ đến dư thừa những nhu cầu hưởng thụ về vật chất hiện nay.
Nghiên cứu vấn đề dựa trên điểm nhìn giao thoa “đạo – đời” chính là đóng góp mới
mà luận văn hy vọng có thể đem đến cho người đọc. Chúng tôi mong muốn thông qua
những kết quả khảo sát thuộc về “lý thuyết” của văn học và Thiền học có thể cung cấp cho
người đọc một phần nhỏ phương pháp “thực hành” trên con đường trải nghiệm và kiếm tìm
hạnh phúc đích thực và bền vững nhất giữa đời sống còn lắm bộn bề, xáo động hiện nay.
Chúng tôi cho rằng giữa văn học và Thiền học luôn có những “điểm chung” nhất
định. Và, “điểm chung” đầu tiên chính là con người cùng với thực tế đời sống xung quanh
ta. Nó làm nên sự gặp gỡ thú vị giữa tinh thần nhân văn của văn học và quan niệm về từ bi,
bình đẳng, bác ái của Phật giáo Thiền tông. Văn học trao cho con người sự cảm thông, chia
sẻ giữa bộn bề cuộc sống trần gian, còn Thiền học đưa con người trở về với chân nguyên giá
trị của bản thân và đồng loại trong mênh mông vũ trụ này. Nhờ vậy mà con người chúng ta
sống tốt hơn, ý nghĩa hơn và bình an hơn.
6. Kết cấu đề tài
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG. Trong chương này, chúng tôi tập trung làm
rõ những vấn đề mang tính lý luận cơ bản, làm nền tảng để triển khai và giải quyết những
nội dung trọng tâm ở chương 2 và 3.
Chương 2: NỘI DUNG TINH THẦN NHÂN VĂN TRONG THƠ THIỀN TUỆ
TRUNG. Trong chương này, chúng tôi đi vào phân tích, lý giải những biểu hiện cụ thể của
tinh thần nhân văn trong thơ Thiền Tuệ Trung trên cơ sở kết hợp hai điểm nhìn: tinh thần
nhân văn trong văn học và quan điểm Phật giáo Thiền tông.
Chương 3: NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN TINH THẦN NHÂN VĂN TRONG THƠ
THIỀN TUỆ TRUNG. Với chương này, chúng tôi sẽ đi vào tìm hiểu các hình thức thể hiện
nội dung nhân văn của thơ Thiền Tuệ Trung để thấy được nét đặc sắc, đặc trưng riêng của
Tuệ Trung so với các tác giả cùng thời.
15
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Khái niệm nhân văn và những biểu hiện của tinh thần nhân văn trong văn
học
1.1.1. Khái niệm nhân văn
Trong nghiên cứu văn học, chúng ta thường bắt gặp không ít những cụm từ như chủ
nghĩa nhân văn, tư tưởng nhân văn, chất nhân văn, tinh thần nhân văn…. Nhân văn là từ
được sử dụng khá phổ biến trong chuyên ngành nghiên cứu văn học. Tuy nhiên, chúng ta lại
ít khi quan tâm đến ý nghĩa đầy đủ của khái niệm “nhân văn”. Trong nhà trường phổ thông,
đôi lúc chúng ta dùng “nhân văn” để thay thế cho khái niệm “nhân đạo” hay “nhân bản”.
Xét về tổng thể, ba từ này có những tương đồng nhất định về nghĩa. Song, xét về ý nghĩa và
phạm vi sử dụng, giữa chúng vẫn có sự khác biệt.
Nhân văn vốn là một từ Hán – Việt. “Nhân” là người. “Văn” tức là vẻ đẹp. Vẻ đẹp ở
đây được hiểu bao hàm cả vẻ đẹp bên trong lẫn bên ngoài. Do vậy, khái niệm “nhân văn”
thường dùng để nói đến sự khẳng định, đề cao cái đẹp hay những giá trị đẹp đẽ của con
người từ hình thể đến tâm hồn, nhân cách, tinh thần, ý chí, khát vọng, hoài bão,…
Nói tới nhân văn là nói tới con người, khái niệm “nhân văn” xuất hiện khi xã hội
loài người đã phát triển ở trình độ cao, gắn liền với thái độ, tư tưởng, tình cảm của con
người đối với cuộc sống. Chính ý thức về giá trị của hạnh phúc, khát vọng hạnh phúc, mong
muốn giải thoát khỏi mọi khổ đau, ước mơ về một xã hội tốt đẹp của con người là những
nhân tố đầu tiên cho sự hình thành tinh thần nhân văn, tư tưởng nhân văn. Như vậy, khái
niệm “nhân văn” được dùng để chỉ chung cho những giá trị tinh thần của nhân loại, xuất
phát từ sự tôn trọng giá trị, nhân phẩm con người, lòng thương yêu con người, niềm tin vào
năng lực và sức sáng tạo không cùng của con người. Từ đó, thuật ngữ “chủ nghĩa nhân
văn” có thể hiểu theo nhiều cấp độ, khía cạnh khác nhau.
Nhắc đến khái niệm “nhân văn”, không thể bỏ qua thuật ngữ “chủ nghĩa nhân văn”
trong văn học. Từ điển thuật ngữ văn học (Lê Bá Hán – Trần Đình Sử chủ biên, NXBGD
Hà Nội) định nghĩa “chủ nghĩa nhân văn” như sau:
“Ở cấp độ thế giới quan, chủ nghĩa nhân văn là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm,
tình cảm quý trọng các giá trị của con người như trí tuệ, tình cảm, phẩm giá, sức mạnh, vẻ
đẹp. Chủ nghĩa nhân văn không phải là một khái niệm đạo đức đơn thuần mà còn bao hàm
16
cả cách nhìn nhận, đánh giá con người về nhiều mặt (vị trí, vai trò, khả năng, bản chất,…)
trong các quan hệ với tự nhiên, xã hội và đồng loại.
Ở cấp độ lịch sử, chủ nghĩa nhân văn là một trào lưu văn hóa – tư tưởng nảy sinh ở
I-ta-li-a và một số nước khác ở Châu Âu thời Phục hưng (thế kỉ XIV – XVI). Những người
khởi xướng trào lưu này chủ trương giải phóng văn học nghệ thuật nói riêng và văn hóa nói
chung khỏi sự bảo trợ của nhà thờ Cơ Đốc giáo và giải phóng cá nhân con người. Họ quan
niệm không phải thần linh mà là con người tự định đoạt lấy số phận của mình. Con người
có khả năng vô tận để hoàn thiện môi trường của mình. Trong hoạt động văn hóa nghệ
thuật, họ chủ trương đi sâu nghiên cứu những thành tựu rực rỡ giàu sức sống và vẻ đẹp hồn
nhiên của văn hóa cổ đại Hy Lạp – La Mã đã bị quên lãng trong suốt thời Trung cổ, nhằm
khôi phục những giá trị nhân văn của chúng. Họ hướng văn học nghệ thuật vào sự sáng tạo
và ca ngợi cái đẹp trần thế, lành mạnh, tự nhiên, đề cao những khát vọng cao đẹp và niềm
tin vào sức mạnh toàn năng của con người.”[7; tr 88 - 89]
Từ đây, chúng ta có thể thấy khái niệm “nhân văn” được sử dụng ở phạm vi khá
rộng, bao gồm tất cả các lĩnh vực, vấn đề có liên quan đến con người: văn hóa, xã hội, chính
trị, văn học, nghệ thuật, mỹ học… Do vậy, không khó để lí giải vì sao khái niệm này lại
được sử dụng phổ biến, thậm chí có khi bị lạm dụng. Theo đó, thuật ngữ “chủ nghĩa nhân
văn” cũng trở nên thông dụng không kém: Chủ nghĩa nhân văn trong văn học, chủ nghĩa
nhân văn trong lĩnh vực nghiên cứu văn hóa, xã hội, mỹ thuật, hội họa, âm nhạc… Bởi lẽ,
trong đời sống, không có lĩnh vực nào không liên quan hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp đến con
người. Mà, con người lại là trung tâm hướng đến của tinh thần nhân văn, chủ nghĩa nhân
văn.
Để có cái nhìn đầy đủ hơn, chúng ta cần đi vào làm rõ hai khái niệm thường được sử
dụng song hành, thậm chí có khi dùng để thay thế cho khái niệm “nhân văn”, đó là khái
niệm “nhân đạo” và “nhân bản”.
Cũng giống như “nhân văn”, thuật ngữ “nhân đạo” vốn là từ Hán – Việt. “Đạo” là
đường lối, phương pháp, cách thức; “đạo” còn được hiểu rộng ra là lí lẽ, đạo đức, đạo lí. Từ
đây, chúng ta có thể hiểu khái niệm “nhân đạo” theo 3 nghĩa: 1. Đường lối, đường đi của
con người (con đường của đạo lí, đạo đức); 2. Chỉ lòng yêu thương giữa loài người với
nhau; 3. Đạo đức, đạo làm người giữa cuộc đời. Khái niệm “nhân đạo” gắn liền với đạo
đức, đạo lí của con người, cách hành động, cư xử của con người đối với nhau, thường được
17
sử dụng trong lĩnh vực văn học đối với những vấn đề có liên quan đến đạo đức của con
người (Chủ nghĩa nhân đạo, tư tưởng nhân đạo, tinh thần nhân đạo, tình cảm nhân đạo…).
Nói đến “nhân đạo” là nói đến lòng thương người, đến sự đồng cảm trước nỗi khổ đau bất
hạnh của con người; mong muốn những điều tốt lành, niềm hạnh phúc đến với con người.
“Tư tưởng nhân đạo” gắn liền với thái độ đạo đức với con người, xem con người là đối
tượng chính của tình yêu thương. “Chủ nghĩa nhân đạo” không chỉ đòi hỏi sự thương yêu
hay đồng cảm với con người mà còn là tích cực hành động, lên tiếng đòi quyền sống, quyền
được hưởng hạnh phúc cho con người, đấu tranh, bênh vực cho những con người chịu áp
bức, bất hạnh.
Về khái niệm “nhân bản”, “bản” có nghĩa là: gốc, nguồn gốc, cội rễ. “Nhân bản” là
cái gốc làm người, là lấy con người làm gốc. “Nhân bản” thường gắn liền với cái thuộc về
bản chất, cái vốn có, sẵn có bên trong của con người. “Chủ nghĩa nhân bản” nhấn mạnh
đến khía cạnh bản thể của con người, xem con người không phải là thần thánh mà là một
thực thể sinh vật, có nhu cầu của cuộc sống, chịu sự chi phối của quy luật tự nhiên. Chính vì
quan niệm trên, “chủ nghĩa nhân bản” nhắc nhở đừng nên tuyệt đối hóa, lý tưởng hóa, coi
con người là siêu phàm, công nhận và tôn trọng những nhu cầu chính đáng, hợp quy luật
khách quan của con người về vật chất và tinh thần, không áp chế con người theo những
khuôn mẫu, định ước có sẵn nào đó mà phải có sự thấu hiểu, cảm thông, “thể tất nhân tình”
bởi “thịt da ai cũng là người”. “Chủ nghĩa nhân bản” mang lại một cái nhìn khách quan,
đầy tinh thần khoa học hiện đại đối với con người. So với hai khái niệm “nhân văn”
và“nhân đạo”, khái niệm “nhân bản” có phạm vi sử dụng hẹp hơn. “Nhân bản” thường
được sử dụng trong lĩnh vực nghiên cứu triết học, tâm lý xã hội.
Như vậy, có thể tạm sắp xếp 3 khái niệm trên theo thứ tự giảm dần về phạm vi sử
dụng như sau: NHÂN VĂN – NHÂN ĐẠO – NHÂN BẢN. Từ đây, chúng ta có thể thấy
được điểm khác nhau cơ bản giữa 3 khái niệm:
+ Nhân bản: Thường được sử dụng trong lĩnh vực triết học, nhấn mạnh giá trị gốc
vốn có của con người, đối lập con người với thần thánh, đòi hỏi xã hội phải đáp ứng những
nhu cầu trần thế của con người. Nó xem con người là một thực thể sinh vật, có nhu cầu cuộc
sống, chịu sự chi phối của quy luật tự nhiên. Khi nói đến “nhân bản”, “chủ nghĩa nhân bản”,
“tính nhân bản”, “tinh thần nhân bản” cũng tức là chúng ta đang muốn nói đến phần “con”
trong một con người. Đã có một thời chúng ta từng lên án, phê phán, thậm chí cố tâm chối
18
bỏ phần “con” ấy. Tuy nhiên, nếu không có nó, sẽ không có một sinh vật cao cấp được gọi
là “con người”. Nhìn nhận lại và chấp nhận những nhu cầu chính đáng trong đời sống con
người sẽ giúp chúng ta có cách hành xử đúng đắn hơn, khoan dung hơn về chính mình và
đồng loại. Đây là một thái độ khoa học đối với con người, là sự nhận thức về cái CHÂN của
con người. CHÂN ở đây được hiểu là cái chân thực, vốn có, tự nhiên, như nhiên. CHÂN
cũng có nghĩa là chân tính, bản tính gốc của mỗi con người, cái không thể thay đổi.
+ Nhân đạo: Thường sử dụng trong lĩnh vực đạo đức, luân lý, nhấn mạnh lòng yêu
thương con người, thái độ bênh vực, bảo vệ con người. Nói cách khác, khái niệm nhân đạo
thiên về sự thông cảm, thấu hiểu, chia sẻ với con người về mặt tinh thần. Khái niệm “nhân
đạo”, “chủ nghĩa nhân đạo”, “tinh thần nhân đạo” thường liên quan trực tiếp đến phần
“người” trong con người. Đương nhiên, phần “người” này chủ yếu được nhìn nhận ở góc độ
tích cực, ở mặt tốt, mặt thiện hay còn gọi là “thiên tính” của con người. Đó là sự nhận thức
về cái THIỆN của con người. Cái THIỆN thường gắn với cái tốt, cái cao cả. Cái THIỆN sẽ
giúp nâng cao giá trị của con người trong cuộc sống.
+ Nhân văn: Được sử dụng trong nhiều lĩnh vực như văn hóa, xã hội, chính trị, văn
học, nghệ thuật, mỹ học…, nhấn mạnh thái độ thương yêu, trân trọng, đề cao, bảo vệ những
giá trị đẹp đẽ của con người ở mọi mối quan hệ xã hội. Khái niệm “nhân văn”, “chủ nghĩa
nhân văn”, “tinh thần nhân văn”, “tư tưởng nhân văn”.... quan tâm đến cả hai mặt vật chất
và tinh thần của con người. Nó mang lại cho chúng ta cách nhìn nhận, đánh giá và hành xử
đúng mực hơn đối với bản thân và đồng loại. Bởi lẽ, con người chúng ta sống trong đời
không chỉ hướng đến cái CHÂN, cái THIỆN mà còn cả cái ĐẸP được. Ban đầu, con người
ta cần sống chân thật, cần nhìn nhận, tìm hiểu về bản thân mình nên yêu cầu phải có cái
CHÂN. Về sau, khi đã được “tồn tại” như một thực thể đúng nghĩa, con người ta muốn
“sống”, muốn hướng thiện, muốn có cái THIỆN. Song, khát vọng sống của con người là vô
tận. Con người không chỉ muốn muốn sống hướng thiện, sống đúng với thực thể của chính
mình mà còn muốn sống đẹp. Đó chính là cái MĨ. Suốt hàng ngàn thậm chí hàng vạn vạn
năm tồn tại trên cõi đời, con người không ngừng tìm kiếm, không ngừng hướng đến CHÂN
– THIỆN – MỸ. Đó cũng chính là hướng đến của tinh thần “nhân văn”. Do vậy, có thể nói,
nhận thức chủ đạo và định hướng hành động chủ đạo của tinh thần nhân văn, tư tưởng nhân
văn hay chủ nghĩa nhân văn xét cho cùng chính là sự nhận thức về cả ba mặt CHÂN-
THIỆN – MỸ nơi con người.
19
Tuy nhiên, nhìn trên tổng thể, 3 khái niệm “nhân bản”, “nhân đạo”, “nhân văn”
vẫn có những nét tương đồng nhất định. Các khái niệm này đều có liên quan đến thái độ ứng
xử, quan niệm triết học, văn hóa của con người. Nó tập trung xây dựng, khẳng định giá trị,
vai trò, ý nghĩa của con người trong đời sống cộng đồng. Do vậy, trong một chừng mực nào
đó, sự phân biệt và giới hạn về phạm vi sử dụng của 3 khái niệm trên chỉ mang tính tương
đối, tùy theo dụng ý, mục đích nghiên cứu, đánh giá vấn đề.
1.1.2. Những biểu hiện của tinh thần nhân văn trong văn học
Nói đến nhân văn là nói đến con người, đến tất cả những gì liên quan đến con người.
Hơn bất cứ lĩnh vực nào trong đời sống, văn chương nghệ thuật luôn dành sự ưu ái đặc biệt
cho con người, lấy con người làm trung tâm để hướng đến. Tùy vào từng điều kiện, đặc
điểm địa lý, văn hóa, thể chế xã hội khác nhau mà tinh thần nhân văn có những biểu hiện
khác nhau ở mỗi quốc gia, mỗi thời đại, mỗi giai đoạn văn học. Song, nhìn chung, tất cả các
tác phẩm văn học chứa đựng tinh thần nhân văn đều có chung một số nội dung như: bộc lộ
thái độ yêu thương con người; thể hiện khả năng cảm thông, chia sẻ với những đau khổ, mất
mát của con người; ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn con người, khẳng định những giá trị của con
người; đề cao cuộc sống trần thế, chủ trương sống trọn vẹn với thực tại; lên án, tố cáo các
thế lực chà đạp con người….“Một tác phẩm văn học có tính nhân văn là tác phẩm văn học
thể hiện con người với những nét đẹp của nó, đặc biệt là những giá trị tinh thần như trí tuệ,
tâm hồn, tình cảm, phẩm cách… Tác phẩm đó hướng đến khẳng định, đề cao vẻ đẹp của con
người” [51; tr5]
Nhìn lại một cách tổng thể về những giai đoạn, những chặng đường đã qua của văn
học Việt Nam, chúng ta dễ dàng nhận ra một điều: dù thời đại có đổi thay; xã hội có thịnh
suy, biến cải; tư duy, quan niệm của con người trước - sau, cổ - kim có khác biệt nhưng
điểm nhìn nhân văn trong văn chương là bất biến. Chỉ có biểu hiện cụ thể của tinh thần nhân
văn là thay đổi tùy theo thời đại, lịch sử, xã hội, giai đoạn văn học.
Ở giai đoạn sơ khai của văn học, khi chữ viết chưa có mặt, văn học dân gian mang
đến cho người đọc vẻ đẹp hồn nhiên, dung dị của tinh thần nhân văn. Đó là tiếng nói chân
thật, như nhiên, không rào đón, chẳng che đậy của tình yêu thương lẫn nỗi oán hờn, hận tủi
trong ca dao – dân ca một thời đã qua. Đó là kiểu tư duy “rất người”, rất trần gian của các vị
thần và cả con người trong thần thoại, truyền thuyết, cổ tích xưa. Đó là ước mơ vá trời lấp
biển, kiến công lập nghiệp, bảo vệ cộng đồng của những anh hùng sử thi từ thuở hồng
20
hoang của dân tộc…. Như vậy, với văn học dân gian, tinh thần nhân văn chính là nơi chứa
đựng những khát vọng, ước mơ, tâm tư tình cảm của con người.
Về sau, khi xã hội phát triển hơn, những thể chế xã hội bắt đầu được thiết lập, các
vương triều phong kiến hình thành, hưng thịnh rồi suy tàn, tinh thần nhân văn trong tác
phẩm văn học lại có thêm những diện mạo mới. Trong buổi đầu dựng nước và giữ nước,
tinh thần nhân văn là tiếng nói ngợi ca, trân trọng đối với con người và thời đại mới. Khi đất
nước bị ngoại xâm, tinh thần nhân văn của văn chương trở thành khúc hát lẫm liệt, hào
hùng, đầy tự tin vào ngày chiến thắng của những trái tim yêu nước. Lúc các vương triều sắp
suy tàn, nhà nước phong kiến rơi vào khủng hoảng, hơn lúc nào hết, tinh thần nhân văn
trong văn học trở thành điểm tựa cho tâm hồn, tình cảm của con người và thời đại. Lúc này,
nhân văn không còn giản đơn là ngợi ca, yêu thương mà còn đòi hỏi cả sự cảm thông, chia
sẻ trước nỗi đau con người, thậm chí, đó còn là lời tố cáo, lên án, phê phán những gì chà đạp
lên quyền sống, nhân phẩm của con người.
Khi thể chế xã hội thay đổi, nhà nước phong kiến kết thúc nhiệm vụ lịch sử, dân tộc
Việt Nam bước vào giai đoạn hiện đại, tiếp nhận ảnh hưởng của văn hóa phương Tây, tinh
thần nhân văn lại bổ sung thêm những yếu tố mới. Không dừng lại ở tiếng nói cảm thông;
tình yêu thương; sức mạnh cổ vũ, phê phán đối với con người, tinh thần nhân văn mang đến
tấm gương phản chiếu để con người có cơ hội nhận thức chính mình, thành thật và nghiêm
túc nhìn nhận lại “bản ngã” của nhân sinh giữa những chuyến du hành phiêu bạt của cõi
người. Ở đó, chúng ta không chỉ có gương mặt của thiên thần mà còn cả tâm địa của quỷ dữ.
Ở đó, đôi khi đau khổ cũng có giá trị như niềm hạnh phúc. Ở đó, ranh giới giữa phải – trái,
tốt – xấu không bao giờ thuần túy là bức tường thành vững chắc, mà trái lại, nó hết sức
mong manh, khó lòng phân định rạch ròi…
Tóm lại, biểu hiện của tinh thần nhân văn nhìn từ tác phẩm văn học luôn biến hiện
với muôn hình vạn trạng, tùy theo từng thời đại lịch sử, từng giai đoạn văn văn học nhất
định. Trong giới hạn của đề tài nghiên cứu, ở đây, chúng tôi chỉ điểm qua những nét cơ bản
nhất về biểu hiện của tinh thần nhân văn trong các tác phẩm văn học Việt Nam thời phong
kiến với mong muốn đem đến cho người đọc một cái nhìn bao quát nhất về tinh thần nhân
văn của văn học trung đại.
Lịch sử phong kiến Việt Nam đã được duy trì trong một thời gian khá dài, trải qua
nhiều triều đại với không ít thăng trầm, biến cải. Tuy nhiên, có một điểm chung là tất cả các
21
triều đại ấy đều in dấu trong những tác phẩm văn chương. Ở giai đoạn đầu của các vương
triều phong kiến, những ngày mới “lập quốc”, văn học tập trung khắc họa vẻ đẹp của con
người. Đó là tư thế uy dũng, hiên ngang của vị chiến tướng trong ngày khải hoàn:
Đoạt sóc Chương Dương độ
Cầm Hồ Hàm Tử quan
Thái bình tu trí lực
Vạn cổ thử giang san
(Trần Quang Khải - Tụng giá hoàn kinh sư) [22; tr568]
(Bến Chương Dương cướp giáo giặc
Cửa Hàm Tử bắt quân Hồ
Buổi thái bình nên dốc toàn sức lực
Thì non sông này muôn đời dài lâu)
(Phò giá về kinh)
Hay những phút trăn trở, suy tư về vận nước của người anh hùng thời loạn:
Trí chúa hữu hoài phù địa trục
Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà
Quốc thù vị báo đầu tiên bạch
Kỷ độ Long Tuyền đới nguyệt ma
(Đặng Dung - Cảm hoài) [22; tr719]
(Giúp vua, có lòng định đỡ trục đất,
Rửa gươm, tiếc không đường kéo nổi sông Ngân
Nợ nước chưa đền đầu đã sớm bạc
Luống tiếc bao phen mài gươm Long Tuyền dưới bóng trăng)
có khi đấy là phút giây “vô ngôn” đầy thi vị sau những ngày binh lửa:
Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên
Bán vô bán hữu tịch dương biên
22
Mục đồng địch lý quy ngưu tận
Bạch lộ song song phi hạ điền
(Trần Nhân Tông - Thiên Trường vãn vọng) [22; tr582]
(Trước thôn, sau thôn đều mờ mờ như khói phủ
Bóng chiều nửa như có, nửa như không
Trong tiếng sáo, mục đồng lùa trâu về hết
Từng đôi cò trắng hạ cánh xuống đồng)
(Ngắm cảnh chiều ở Thiên Trường)
hay đơn giản chỉ là một “khoảng lặng” tâm linh của con người đã “đạt ngộ” trần gian:
Đường trung đoan tọa tịch vô nghiên (ngôn)
Nhàn khán Côn Luân nhất lũ yên
Tự thị quyện thời tâm tự túc
Bất quan nhiếp niệm bất quan thiền
(Tuệ Trung – Ngẫu tác) [22; tr550]
(Ngồi ngay ngắn giữa nhà lặng lẽ không nói
Thảnh thơi nhìn một tia khói trên núi Côn Luân
Khi nào mỏi mệt thì tâm tự tắt
Chẳng cần niệm Phật, chẳng cần Thiền)
(Chợt hứng làm thơ)
Như vậy, có thể nói, biểu hiện của tinh thần nhân văn trong văn học thời kì này khá
đa dạng, phong phú. Tiếng nói chủ đạo của tinh thần nhân văn lúc bấy giờ gắn liền với cảm
hứng ngợi ca hào sảng, phóng khoáng, tràn đầy nhiệt huyết đối với con người và thời đại.
Tuy nhiên, cần chú ý rằng, cảm hứng ngợi ca ở đây không hoàn toàn đồng nghĩa với cái
nhìn mang tính “lý tưởng hóa” về con người theo kiểu văn chương ước lệ truyền thống về
sau này. Và, cái phóng khoáng trong cách suy nghĩ, hành xử của con người giai đoạn này
cũng không mang hơi hướm của sự “phá cách”, “nổi loạn” kiểu nhà Nho như Nguyễn Công
Trứ. Vẻ đẹp đặc trưng của tinh thần nhân văn trong các tác phẩm này chính là sự hồn nhiên,
23
chân thành của tác giả khi chưa có quá nhiều “khuôn phép” và sự ràng buộc của lễ giáo
phong kiến.
Về sau, khi xã hội phong kiến bắt đầu thiết lập hệ thống những thể chế, kỷ cương
nghiêm ngặt hơn, tinh thần nhân văn cũng theo đó mà thay đổi cách biểu hiện. Không còn
chiến tranh giữ nước, hình ảnh người anh hùng không còn được tập trung ngợi ca. Quá bận
bịu với vô vàn gánh nặng cuộc đời, con người mất dần cốt cách ưu du, nhàn tản. Mải lo
danh lợi, uy quyền, con người “quên” đi hành trình tìm kiếm và gìn giữ sự bình an cho
chính tâm hồn mình. Thay vào đó, tình cảm nhân văn được hướng đến những đối tượng
khác trong xã hội: người tài hoa tài tử mà bạc mệnh, người phụ nữ tài sắc mà truân chuyên,
người dân nghèo một đời lầm than cơ cực…. Tinh thần nhân văn thời kì này có thay đổi đôi
chút: bên cạnh thái độ ngợi ca, trân trọng đối với con người, văn học tập trung nhiều hơn,
sâu sắc hơn vào việc tố cáo, phê phán các thế lực chà đạp lên nhân phẩm và quyền sống của
con người. Vì vậy, tinh thần chủ đạo của văn chương bấy giờ trở thành tiếng nói đấu tranh,
phản kháng vì con người và bảo vệ con người khỏi những tổn hại, khổ đau trong xã hội.
Khi các vương triều phong kiến dần “lao dốc”, đi vào con đường khủng hoảng và suy
vong, tinh thần nhân văn lại tập trung nhiều hơn vào việc đấu tranh cho khát vọng sống
chính đáng của con người. “Không khí nhân văn” trong văn học lúc này càng trở nên “đậm
đặc” hơn bao giờ hết. Tinh thần nhân văn trong các tác phẩm biểu hiện qua cách “giải tỏa”
nỗi lòng, “gửi gắm tâm huyết” của mình đối với con người và thời đại. Đó là “nỗi đau đứt
ruột”, là “tiếng khóc lớn” suốt một đời Nguyễn Du:
“Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”
(Nguyễn Du – Truyện Kiều) [58; tr13]
Đó là cách suy nghĩ đầy chất “nổi loạn” của Hồ Xuân Hương:
“Ví đây đổi phận làm trai được
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu”
(Hồ Xuân Hương – Đề đền Sầm Nghi Đống) [54; tr62 ]
Đó là lời tâm tình đầy bế tắc của Uy Viễn tướng công:
Kiếp sau xin chớ làm người
24
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo
(Nguyễn Công Trứ - Vịnh cây thông) [52; tr142 ]
Đấy là những “kiểu” nhân văn được tạo nên từ những phẫn uất, bất bình; từ sự “đè
nén” của thời cuộc. Ở đây tràn ngập nỗi khổ niềm đau, tâm sự buồn thương day dứt, những
ẩn tình chưa nói…Do vậy, không lạ gì khi cảm hứng nhân văn thời này gần như thiếu hẳn
“không gian” – một không gian đủ đầy cho tâm hồn thỏa chí.
Như vậy, có thể bước đầu hình dung về những biểu hiện của tinh thần nhân văn trong
văn học trung đại Việt Nam: đó là con đường đi từ chiều sâu đến chiều rộng của tâm hồn
con người. Ở giai đoạn đầu, khi nhà nước phong kiến còn sơ khai, con người chưa bị ràng
buộc bởi quá nhiều định lệ, định chế xã hội, họ có nhiều thời gian hơn dành riêng để “trải
nghiệm” chính mình và “nhìn ngắm” cuộc đời xung quanh. Nhờ vậy, có cơ hội đi sâu, hiểu
rõ hơn về mình, về người, về đời. Điểm đặc biệt hơn nữa là ở thời đại này, khi Nho giáo
chưa giành được quyền thống trị đời sống tinh thần và xã hội, con người Việt Nam vẫn
mang còn vẻ đẹp phóng khoáng, hồn nhiên được tạo nên từ sự giao thoa hòa hợp giữa tư
tưởng đạo đức, quan niệm sống của Phật giáo Thiền tông được du nhập vào nước ta từ rất
sớm và nền văn hóa dân gian truyền thống người Việt. Cho nên, lúc bấy giờ, tinh thần nhân
văn quan tâm đặc biệt đến việc “đo” chiều sâu minh triết, trình độ chứng đắc tâm linh,
phong thái an nhiên tự tại của con người trước cuộc đời. Về sau, thể chế nhà nước phong
kiến được thiết lập hoàn chỉnh, thêm vào đó là sự “xâm lấn” ngày càng mạnh mẽ của văn
hóa và kiểu tư duy Trung Hoa – nhất là đạo Nho, cuộc sống của con người ngày càng “ngột
ngạt” hơn, tù túng hơn, họ thậm chí còn không có tâm tư cũng như thời gian để “sống riêng”
với chính mình huống nữa là “nhìn ngắm” cuộc đời xung quanh. Khi xã hội phong kiến lâm
vào khủng hoảng và diệt vong, xã hội trở nên phức tạp hơn, cuộc sống của con người càng
lâm vào bế tắc, những nổi khổ niềm đau ngày càng “mở rộng” phạm vi, đối tượng. Do vậy,
dễ thấy rằng tinh thần nhân văn của các tác phẩm lúc này hết sức phong phú, đối tượng
được hướng đến cũng nhiều hơn, rộng rãi hơn: từ tầng lớp sĩ phu trí thức, văn nhân tài tử
đến những người bình dân vô danh vô tánh; từ nam nhân đến nữ giới; từ người sống đến
người chết … Song, đó lại là tinh thần nhân văn theo kiểu “thương vay”, hay “trông người
lại ngẫm đến ta”. Cho nên, chúng tôi gọi đó là tinh thần nhân văn có chiều rộng nhân thế
nhưng thiếu chiều sâu nhân tâm.
25
Từ điểm nhìn khái quát về những biểu hiện của tinh thần nhân văn trên, chúng ta có
thể bước đầu hình dung về đặc trưng của tinh thần nhân văn trong văn học thời Lý – Trần.
Nằm trong giai đoạn sơ khai, cùng với đặc điểm riêng về lịch sử - xã hội (sẽ đề cập kỹ hơn ở
phần tiếp theo), văn học Lý – Trần luôn được đánh giá là một nền văn học “đặc biệt” của
văn học trung đại Việt Nam: “Văn học Lý – Trần là thời kì văn học chính thức mở đầu, có
nhiệm vụ khai phá, mở đường cho văn học viết Việt Nam kể từ sau khi nước nhà giành lại
độc lập ở thế kỉ X” [21; tr70] Một trong những nét đặc biệt ấy chính là biểu hiện của tinh
thần nhân văn của các tác phẩm văn chương thời kì này. Ở đây, tinh thần nhân văn – cách
nhìn nhận và đánh giá về con người – có sự “giao thoa” thú vị giữa Thiền đạo và Văn học.
Nó cho phép văn chương nhìn nhận con người đúng với bản chất vốn có của họ: đó là
những con người mang vẻ đẹp của tinh thần tự do – tự chủ - tự tin – tự lực. Con người luôn
bình an, thanh thản đến thoát tục để đi giữa nhân gian, để sống hết một kiếp người với trọn
vẹn giá trị và ý nghĩa của mình. Do vậy, con người nhân văn thời Lý – Trần là con người
luôn linh hoạt, lạc quan, bao dung và rộng mở với đời, với người, với chính mình. Đặc điểm
của kiểu tinh thần nhân văn này đã góp phần tạo nên vẻ đẹp rất riêng cho con người trong
thơ Lý – Trần nói chung, thơ Thiền Tuệ Trung nói riêng: Mỗi con người là một bản thể, vừa
rất riêng mà lại rất chung, rất trần thế nhưng đồng thời cũng rất thoát tục.
1.2. Thời đại Lý – Trần và thơ Thiền Tuệ Trung
1.2.1. Thời đại Lý – Trần và Phật giáo Thiền tông thời Lý Trần
Từ trước đến nay, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về thời đại Lý – Trần và Phật
giáo Thiền tông thời Lý – Trần. Đây là một lĩnh vực nghiên cứu có phạm vi khá rộng. Ở
đây, chúng tôi đặt lại vấn đề này không nhằm mục đích tập hợp thành quả nghiên cứu của
người đi trước. Để phục vụ cho đề tài nghiên cứu của mình, chúng tôi chỉ đi vào tìm hiểu
một số đặc điểm thời đại và Phật giáo Thiền tông thời Lý – Trần nhất định để có thể lý giải,
đánh giá một cách đầy đủ nhất về những biểu hiện và đặc trưng của tinh thần nhân văn trong
thơ Thiền Lý – Trần nói chung, thơ Thiền Tuệ Trung (đối tượng chính của luận văn) nói
riêng.
Trong lịch sử phong kiến Việt Nam, có thể nói Lý – Trần là hai vương triều thịnh đạt
nhất về mọi mặt. Xã hội và con người thời Lý – Trần đã tạo nên một dấu ấn vàng son “vô
tiền khoáng hậu”. Theo Nguyễn Công Lý “thời đại Lý – Trần là thời đại hào hùng, oanh
liệt, rực rỡ và đẹp đẽ của lịch sử Việt Nam” [21; tr62]. Đã có không ít cách lý giải về thời
26
đại “đặc biệt” này của dân tộc. Với chuyên luận VĂN HỌC PHẬT GIÁO THỜI LÝ TRẦN
– DIỆN MẠO VÀ ĐẶC ĐIỂM, trong Chương 1, mục 2.2.1. Đặc điểm thời đại Lý Trần,
Nguyễn Công Lý đã khái quát và nêu lên ba đặc trưng lớn của thời đại này. Đó là: 1. Thời
đại Lý – Trần là thời đại độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, thống nhất cộng đồng; 2.
Thời đại Lý – Trần là thời đại phục hưng dân tộc và phát triển đất nước; 3. Thời đại Lý –
Trần là thời đại khoan giản, an lạc, nhân thứ, rộng mở và dân chủ. Theo chúng tôi, đây là
những nhận định rất xác đáng. Nhà Lý (1010 – 1225) đã chiếm giữ vũ đại chính trị liên tục
suốt 215 năm với 9 đời Hoàng Đế. Nhà Trần (1226 – 1400) tồn tại trong 175 năm với 13 đời
Hoàng Đế nối tiếp nhau trị vì. Cả hai vương triều đều ghi lại trong lịch sử những chiến công
hiển hách chống ngoại xâm. Đặc biệt, dưới thời nhà Trần, quân và dân Đại Việt đã trải qua
3 cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại đánh thắng quân Nguyên Mông vào các năm 1258, 1285,
1288 đưa nước Đại Việt lên hàng một trong những cường quốc ở Đông Nam Á thời bấy giờ.
Nói như nhà nghiên cứu sử học Nguyễn Khắc Thuần: “Thắng lợi vĩ đại của cả ba cuộc
chiến tranh vệ quốc đã tác động mạnh mẽ và sâu sắc đến tư tưởng cũng như tình cảm của
đội ngũ những người cầm bút, đến toàn bộ sự phát triển của văn học dân tộc trong giai
đoạn này” [39; tr235]. Có thể nói, chính hào khí của thời đại đã góp phần tạo nên hào khí
văn chương thời Lý – Trần. Không thể có tư thế oai phong lẫm liệt của người anh hùng
Phạm Ngũ Lão:
“Hoành sóc giang cáp kỉ thu
Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu”
(Phạm Ngũ Lão - Thuật hoài ) [22; tr593]
(Cắp ngang ngọn giáo gìn giữ non sông đã mấy thu
Ba quân như gấu hổ, át cả sao ngưu)
càng không thể có cái nhìn đầy trải nghiệm, nhẹ nhàng mà xác quyết, đầy tin tưởng của
Trần Nhân Tông:
Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã
Sơn hà thiên cổ điện kim âu
(Trần Nhân Tông - Tức sự ) [22; tr590]
(Xã tắc hai lần ngựa đá phải mệt nhọc
27
Nhưng núi non nghìn đời được đặt vững như âu vàng)
nếu không có những chiến công lừng lẫy ấy, thời đại ấy.
Như vậy, từ không khí thời đại đến không khí văn chương thời Lý – Trần luôn có
mối tương quan hòa hợp, khắng khít nhau. Không khí hào hùng của lịch sử Đại Việt đã tạo
nên vẻ đẹp phóng khoáng, tràn đầy tinh thần tự do tự tin cho con người Đại Việt. Do đó,
không khó để hiểu vì sao các tác phẩm văn học, nhất là thơ ca thời Lý – Trần luôn thấm
đẫm tinh thần nhân văn. Khi đi vào địa phận của thơ Thiền, nó lại được nâng lên một tầm
cao mới – tinh thần nhân văn của những con người tự do, lạc quan, tràn đầy nhiệt huyết và
tin yêu, bao dung vô hạn với đời, với người, với chính mình. Có thể nói, đây là biểu hiện độc
đáo, đầy đủ và duy - nhất – không – lặp – lại của tinh thần nhân văn trong văn học Việt
Nam. Chưa bao giờ các tác phẩm văn chương của chúng ta có được một “khẩu khí” lớn đến
vậy, hào sảng đến vậy!
Nhìn ở góc độ văn hóa, tư tưởng và văn học, thời Lý – Trần là thời đại phục hưng và
phát triển các giá trị văn hóa tinh thần của dân tộc. “Thời ấy, văn hóa văn nghệ dân gian với
những lễ hội truyền thống đã chấn hưng và được mọi giai tầng xã hội từ vua chúa đến thứ
dân đều yêu chuộng” [21; tr67]. Vào thời nhà Trần, “văn học dân gian phát triển rất mạnh
mẽ với nhiều thể loại phong phú khác nhau, trong đó, có vị trí đặc hơn cả vẫn là ca dao, tục
ngữ, thần thoại và truyền thuyết lịch sử” [39; tr233-234]. Điều này cho thấy, xã hội, con
người và hệ tư tưởng, quan niệm thẩm mĩ thời Lý – Trần vẫn rất gần gũi với nền văn hóa
dân gian thời trước. Mà, một trong những vẻ đẹp đặc trưng, độc đáo của nền văn hóa này
chính là kiểu tư duy hết sức cởi mở, phóng khoáng, không gò bó, khuôn sáo. Đây cũng
chính là điểm cốt lõi trong tư tưởng Phật giáo Thiền tông nước ta thời bấy giờ. Chính vì
vậy, khi đọc các tác phẩm văn học Lý – Trần, chúng ta dễ dàng nhận ra một cái “phông cảm
xúc” chung: hào phóng, tự do, tự tại, ung dung, khoáng đạt. Đó là mảnh đất màu mỡ cho sự
phát triển của hoa trái thơ ca Thiền tông thời Lý – Trần. Tuy nhiên, cũng cần phân định rõ
ràng về sự hồn nhiên, vô tư trong cách tư duy của văn học dân gian và thơ Thiền. Sự hồn
nhiên của văn học dân gian là sự hồn nhiên của con người chưa quan tâm tìm tòi và thấu
hiểu. Sự hồn nhiên của thơ Thiền là sự hồn nhiên của chiều sâu tâm linh, là kết quả của quá
trình trải nghiệm và thấu hiểu trọn vẹn vấn đề. Điều này góp phần tạo nên vẻ đẹp riêng của
tinh thần nhân văn trong văn học Lý – Trần nói chung, trong thơ Thiền – đặc biệt là thơ
Thiền Tuệ Trung - nói riêng.
28
Bên cạnh những yếu tố khách quan của lịch sử, phải xét đến đóng góp không nhỏ của
Phật giáo đối với việc hình thành vẻ đẹp nhân văn cho con người và thơ ca. Kết quả nghiên
cứu về lịch sử Phật giáo ở nước ta cho thấy Phật giáo đã có mặt ở Việt Nam từ rất sớm.
Theo tác giả Nguyễn Lang trong VIỆT NAM PHẬT GIÁO SỬ LUẬN tập 1, chương 1 thì
“Đạo Phật truyền vào Việt Nam khoảng đầu kỉ nguyên Tây lịch. Tài liệu chắc chắn cho biết
rằng vào hạ bán thế kỉ thứ hai, tại nước ta đã có một trung tâm Phật giáo phồn vinh và
quan trọng rồi, nhưng có thể đạo Phật đã du nhập vào nước ta trong thế kỉ đầu của kỉ
nguyên” [17; tr 23]. Do có những điều kiện thuận lợi về vị trí địa lý, Phật giáo đã được
truyền vào nước ta từ nhiều nguồn khác nhau: Từ Ấn Độ trực tiếp truyền sang, từ Trung
Quốc truyền sang. Tính đến thời Lý – Trần, Phật giáo ở nước ta đã được kế thừa và phát
triển trên cơ sở của ba mối giao lưu – tiếp biến:
“Một là, Phật giáo Đại thừa với khuynh hướng Thiền học từ Nam Ấn trực tiếp truyền
sang bằng đường biển vào cuối thế kỉ thứ I trước công nguyên, cũng có thể là vào những
năm đầu sau công nguyên với kinh văn hệ Bát Nhã;
Hai là, Thiền tông Ấn Độ truyền sang Trung Quốc rồi đến Việt Nam bởi vai trò của
ngài Tỳ Ni Đa Lưu Chi vào thế kỉ thứ VI với tư tưởng vô trụ, siêu việt hữu vô;
Ba là, Thiền tông Trung Quốc truyền vào Việt Nam bởi vai trò của ngài Vô Ngôn
Thông vào thế kỉ thứ IX với pháp môn Đốn ngộ và tư tưởng Phật tại tâm” [Nguyễn Công
Lý; 40; tr150]
Trong ba nguồn truyền thừa trên, Phật giáo – nhất là Phật giáo Thiền tông thời Lý –
Trần chịu ảnh hưởng nhiều nhất là hai dòng thiền của ngài Tỳ Ni Đa Lưu Chi và ngài Vô
Ngôn Thông. Về sau Phật giáo Đại Việt xuất hiện hai dòng Thiền mới, mang đậm bản sắc
dân tộc là: Thiền phái Thảo Đường và Trúc Lâm Yên Tử. Thiền phái Thảo Đường do vua
Lý Thánh Tông và Thiền sư Thảo Đường lập nên tại chùa Khai Quốc (Trấn Quốc) ở kinh đô
Thăng Long. Tuy nhiên, do chưa có sự truyền thừa phổ biến nên Thiền phái Thảo Đường
dần bị mai một cùng với sự suy vong của triều Lý. Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử do Trúc
Lâm Đại đầu đà Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông sáng lập. Hệ thống Thiền học Trúc
Lâm liên quan trực tiếp đến giáo chỉ của ba vị tổ: Nhân Tông – Pháp Loa – Huyền Quang.
Bên cạnh đó, còn có sự đóng góp về tư tưởng của Quốc sư Viên Chứng, vua Trần Thái
Tông và Tuệ Trung Thượng sĩ Trần Tung. Có lẽ chính nhờ có quá trình truyền thừa rộng rãi
và hệ thống tư tưởng, giáo chỉ rõ ràng nên dòng Thiền này phát triển khá mạnh mẽ và lâu
29
bền. Bên cạnh những chủ trương căn bản của Phật giáo về việc tu hành như trì giới, tọa
thiền, niệm Phật, Thiền phái Trúc Lâm đã tiếp thu quan niệm nhân sinh tích cực của Phật
giáo Đại thừa: xem việc sống chết (sinh tử) là thường tình và chấp nhận cuộc sống một cách
khách quan, thuận theo nhân duyên sinh – diệt của vạn pháp mà hành sự. Quan niệm này đã
tạo nên những “hình mẫu” Thiền gia có phong thái an nhiên, tự tại, sẵn sàng “tùy duyên”
mà “nhập thế” và bình thản “xuất thế”. Nhìn ở góc độ văn chương nghệ thuật, đó chính là vẻ
đẹp của tinh thần nhân văn thấm đẫm màu sắc minh triết của con người và thơ Thiền Lý –
Trần.
Xét ở chiều sâu, nơi khởi nguồn của tư tưởng Phật giáo, giữa hệ thống kinh văn hệ
Bát Nhã với tư tưởng vô trụ, siêu việt hữu vô và pháp môn Đốn ngộ, tư tưởng Phật tại tâm
của ba nguồn truyền thừa Phật giáo vào nước ta vốn không có gì khác biệt. Chính người
khai sáng ra Phật giáo – đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn tại thế đã từng dạy đệ tử rằng
nước trong biển chỉ có một vị là vị mặn, giáo pháp của Ngài tuy nhiều nhưng cũng như
nước biển kia, chỉ có duy nhất một vị là vị giải thoát. Có nghĩa là, bất luận Phật giáo có chia
ra bao nhiêu tông phái, bao nhiêu pháp môn, tất cả đều có chung một đích đến, đó là mang
lại cuộc sống an lạc, hạnh phúc đích thực và bền vững cho con người. Do vậy, nói đến Phật
giáo là nói đến tinh thần từ bi, hỷ xả, vị tha, vô ngã. Điều này rất đúng với trường hợp các
Thiền gia thời Lý – Trần. Họ là những con người sẵn sàng cầm gươm xông trận, giữ vững
biên cương khi đất nước bị ngoại xâm. Khi thái bình thịnh trị, họ có thể buông bỏ tất cả lợi
danh quyền thế để toàn tâm toàn ý cầu đạo giải thoát. Lúc đã đạt ngộ, họ không ngại khó
khổ, luôn kiên nhẫn, từ ái để dẫn dắt hàng hậu học. Đọc thơ Thiền Lý – Trần, nhất là thơ
Tuệ Trung Thượng sĩ, chúng ta sẽ cảm nhận một cách đầy đủ, rõ ràng hơn về tấm lòng của
những bậc thượng thủ trong làng Thiền. Đối với chúng tôi, đây chính là một nét đẹp nhân
văn của con người Thiền thời Lý – Trần.
Với tinh thần “giáo hóa” chung là: Đốn ngộ - Phá chấp – Tâm truyền, Phật giáo
Thiền tông thời Lý – Trần đã hoàn thành xuất sắc sứ mệnh lịch sử của mình: Đưa Phật giáo
trở lại giữa lòng cuộc đời, phụng sự nhân sinh, phụng sự xã hội chứ không biến giáo lý nhà
Phật thành một hệ thống triết thuyết mang nặng tính kinh viện, xa rời thực tại. Tuy trong
quá trình truyền thừa Phật giáo, do nhu cầu và đặc điểm của thời đại, Thiền học Phật giáo có
chấp nhận sự dung hợp với tư tưởng khác như Nho – Lão, tín ngưỡng dân gian bản địa
người Việt; có sự kết hợp linh hoạt giữa Thiền – Tịnh – Mật; song, cần hiểu đó là quá trình
30
tiếp thu và tiếp biến có chọn lọc của Phật giáo Thiền tông. Nền tảng cơ sở của những quan
niệm cũng như phương thức thực hành tu học cuối cùng vẫn luôn được trụ vững trên mảnh
đất Thiền tông nguyên bản – mảnh đất với hoa trái chân lý của đời sống hiện thực. Đó là lý
do vì sao Thiền học trở thành một trong những nguồn cảm hứng của văn chương thời trung
đại, đặc biệt là văn học thời Lý – Trần. Đọc thơ Thiền, cảm nhận vẻ đẹp Thiền để tâm hồn
con người được nâng cao hơn, trong sáng hơn, để chúng ta được một lần “trở về” với chân
nguyên giá trị của chính mình, với vẻ đẹp nhân văn hồn nhiên, thuần khiết.
1.2.2. Tuệ Trung và thơ Thiền Tuệ Trung trong văn học Lý – Trần
Tuệ Trung Thượng Sĩ (1230 – 1291) là một Thiền sư đạt đạo đời Trần. Căn cứ vào
bài viết của vua Trần Nhân Tông, “Thượng sĩ là con trai đầu lòng của Khâm Minh Từ
Thiện Thái vương và là anh cả của Nguyên Thánh Thiên Cảm Hoàng Thái Hậu. Khi Thái
vương mất, Hoàng đế Trần Thái Tông cảm nghĩ phong cho Thượng sĩ tước Hưng Ninh
Vương” [22; tr 221]. Thời gian trước đây, thân thế của Thượng sĩ vẫn còn là một “ẩn số”
bởi có quá ít ghi chép của sử sách. Thậm chí, có ghi chép cũng không được nhất quán. Về
sau, thân thế và tên thật của Thượng sĩ mới được nhìn nhận rõ ràng hơn. Về tên thật của Tuệ
Trung Thượng sĩ trong một thời gian rất dài, từ thế kỉ XVII – XVIII sang nửa cuối thế kỉ
XX, các nhà nghiên cứu đều cho Tuệ Trung là Trần Quốc Tảng. Đến năm 1972, tác giả
Nguyễn Lang lần đầu tiên đã xác định tên thật của Tuệ Trung là Trần Tung trong sách VIỆT
NAM PHẬT GIÁO SỬ LUẬN – tập 1, NXB Lá Bối, Sài Gòn. Năm 1977, lần thứ hai, trên
Tạp chí Văn học số 4, trang 116 - 135, tác giả Nguyễn Huệ Chi tiếp tục khẳng định điều này
trong bài TRẦN TUNG – MỘT GƯƠNG MẶT LẠ TRONG LÀNG THƠ THIỀN THỜI
LÝ – TRẦN. “Thuở nhỏ, Thượng sĩ bẩm tính thanh cao, nổi tiếng thuần hậu. Được cử trấn
giữ quân dân ở lộ Hồng. Hai lần giặc Bắc xâm lăng, có công với nước, lần hồi được thăng
chuyển giữ chức Tiết độ sứ vùng biển trại Thái Bình” [Trần Nhân Tông; 22; tr 221].
Thượng sĩ từng xông pha trận mạc, cùng các tướng lĩnh nhà Trần lập nên không ít chiến
công. Trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ nhất, Thượng sĩ tham gia với tư
cách là người chỉ huy cùng với Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Trong cuộc kháng chiến
chống quân Nguyên Mông lần thứ hai, Tuệ Trung Thượng sĩ lại cùng tôn thất nhà Trần
chung vai sát cánh trên trận mạc: “Đầu tháng 5, Thái Thượng Hoàng nhà Trần là Trần
Thánh Tông cùng Hoàng đế Trần Nhân Tông đem quân từ vùng Thanh Hóa ra đánh cấp tập
vào khu vực Trường Yên và quét sạch quân Nguyên ra khỏi khu vực này vào ngày 7-6-1285
31
(nhằm ngày 3 tháng 5 năm Ất Dậu). Ngày 10-6-1285, quân Thoát Hoan bắt buộc phải rút
khỏi bờ bắc sông Hồng. Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn và Hưng Ninh Vương Trần
Tung cho quân đón đánh. Một trận kịch chiến đã diễn ra tại Như Nguyệt (sông Cầu, Bắc
Ninh ngày nay)” [Nguyễn Khắc Thuần; 39; tr 197]. Đến cuộc kháng chiến chống Nguyên
Mông lần ba, Tuệ Trung Thượng sĩ nhận thêm một nhiệm vụ mới: đi vào doanh trại giặc là
Thoát Hoan để điều đình, làm cho kẻ thù càng hoang mang, hoảng loạn hơn. Lê Mạnh Thát
đã có ghi nhận về việc này trong LỊCH SỬ PHẬT GIÁO VIỆT NAM – tập 3, chương XIII:
“… An Nam chí lược 4 tờ 56 của tên Việt gian Lê Thực, khi viết về sự kiện Thoát Hoan đã
cho rút quân về đồn trú tại Vạn Kiếp, đã ghi nhận: Tháng 2, Thế tử sai người anh họ là
Hưng Ninh Vương Trần Tung nhiều lần đến ước hàng, để cố tình làm mệt quân ta, rồi ban
đêm sai quân cảm tử đến cướp doanh trại…” [34; tr 547-548]. Từ đây, có thể thấy, Tuệ
Trung Thượng sĩ không chỉ xuất hiện như một nhà chỉ huy quân sự, mà còn với tư cách một
nhà ngoại giao đi điều đình với giặc, tạo thời cơ để quân ta tiến công. Và, Hưng Ninh
Vương Trần Tung đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, tạo tiền đề cho chiến thắng
Bạch Đằng (9-4-1288) vang dội sau đó.
Như vậy, với lịch sử dân tộc, Tuệ Trung Thượng sĩ là một tướng lĩnh có công, có
đóng góp quan trọng cho nền hòa bình của đất nước. Tuy nhiên, không như các tướng lĩnh
nhà Trần khác, hành tung và công trạng của Tuệ Trung không được sử sách ghi chép đầy
đủ. Có thể đây là một thiếu sót của lịch sử do nhiều lý do mà người thời nay chưa lý giải
được. Song, theo chúng tôi, có khi đây lại là điều thú vị về một bậc “xuất trần thượng sĩ”.
Đó là con người đến và đi hết sức tự tại giữa cuộc đời này. Khi cuộc đời cần, người đến.
Lúc xong việc, người ra đi. Không cần lưu dấu, chẳng màng tiếng tăm. Nói như tác giả
Thích Phước An, Tuệ Trung Thượng sĩ thuộc hàng ngũ của “những con người đi và muốn
xóa sạch vết chân của chính mình” [23; tr178]. Vô tình, chính những thiếu sót của lịch sử
đã giúp cho bức chân dung Tuệ Trung Thượng sĩ được hoàn chỉnh và hoàn hảo hơn.
Bên cạnh những đóng góp cho cuộc đời, không thể không kể đến vai trò quan trọng
của Tuệ Trung Thượng Sĩ Trần Tung trong Thiền học Việt Nam. Tư tưởng Thiền học của
Tuệ Trung Thượng sĩ có ảnh hưởng lớn đối với Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử sau này.
Trong bài TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ HÀNH TRẠNG, vua Trần Nhân Tông đã hết lời
khen ngợi ngài: “Về cốt cách, Thượng sĩ là người khí tượng thâm trầm, phong thần nhàn
nhã. (…) Thượng sĩ trộn lẫn cùng thế tục, hòa cùng ánh sáng, chứ không trái hẳn với người
32
đời. Nhờ đó mà nối theo được hạt giống pháp và dìu dắt được kẻ sơ cơ. Người nào tìm đến
hỏi han, người cũng chỉ bảo cho biết điều cương yếu khiến họ trụ được cái tâm, mặc tính
hành tàng, không rơi vào danh hư thực” [22; tr 221]. Tuy không phải là người xuất gia,
không sống đời phạm hạnh như các bậc tu hành đương thời, song, phải nói rằng, Thượng sĩ
đích thực là của một chân sư đạt đạo. “Thượng sĩ là người thần thái nghiêm trang, cử chỉ
đĩnh đạc. Khi người đàm luận về cái lẽ cao siêu huyền diệu thì như gió mát trăng thanh.
Đương thời các bậc đạo cao đức trọng đâu đâu cũng đều tôn trọng, cho Thượng sĩ là người
“tin sâu biết rõ”, ngược xuôi thật khó mà lường được” [22; tr 224].
Đối với người học theo pháp Thiền, cả một đời hành đạo chỉ có duy nhất một mục
tiêu, đó là được giải thoát sinh tử luân hồi, ra vào tự tại trong Tam giới. Thông thường, biểu
hiện rõ nhất để chúng ta “đo” độ giác ngộ của một hành giả tu Phật chính là phút giây cuối
đời của họ. Một người muốn tự tại trong sinh tử, trước hết phải tự tại, tự chủ được việc sống
chết của bản thân. Hãy xem lại những phút cuối đời của Thượng sĩ: “Sau, người nhuốm
bệnh ở trang Dưỡng Chân, không nằm ở phòng riêng mà cho kê một chiếc giường gỗ giữa
ngôi nhà bỏ trống, và nằm theo phép “cát tường”, nhắm mắt là tịch. Người hầu hạ và thê
thiếp trong nhà khóc rống lên. Thượng sĩ mở mắt ngồi dậy, gọi người lấy nước rửa tay súc
miệng, đoạn quở nhẹ rằng: Sống chết là lẽ thường, làm gì phải xót thương quyến luyến làm
rối chân tính của ta?. Dứt lời, người êm thấm mà tịch” [22; tr224]. Ở đây, chúng tôi đặc
biệt quan tâm đến chi tiết Thượng sĩ đã “nhắm mắt là tịch”, nhưng khi nghe tiếng khóc
thương của người xung quanh thì lại “sống dậy”, trách nhẹ rồi mới tịch hẳn. Xưa nay chúng
ta nghe một người biết trước ngày giờ chết, hay những bậc thiền sư muốn thị tịch lúc nào có
thể thị tịch lúc ấy là đã rất đặc biệt. Với trường hợp Tuệ Trung, lại càng là một minh chứng
sống động cho việc tự tại giữa sống chết. Muốn đến – đi như thế thì đạo lực, bản lĩnh của
Thượng Sĩ phải ở vào hàng siêu xuất của Thiền học. Nếu Thiền học Trung Hoa từng tự hào
với những cư sĩ ngộ đạo như ngài Bàng Long Uẩn thì Thiền học Việt Nam hoàn toàn có
quyền kiêu hãnh với Tuệ Trung Thượng sĩ Trần Tung.
Không chỉ là một Thiền gia đạt đạo, Tuệ Trung Thượng sĩ còn là một nhà thơ “có
phong cách”. Tìm hiểu thơ Thiền không thể bỏ qua thơ Thiền Trần Tung – một “gương mặt
lạ” của làng thơ Thiền Việt Nam nói chung, thơ Thiền Lý – Trần nói riêng. Thơ Thiền Tuệ
Trung đa số tập trung thể hiện những trải nghiệm Thiền, những sở đắc của bản thân tác giả.
Đó vừa là cách “tỏ lòng”, “trình kiến giải”; vừa là một lối “khai thị” cho người học đạo. Cái
33
hay, cái độc đáo của thơ Thiền Tuệ Trung nằm ở chỗ tuy nói chuyện Thiền nhưng ông rất ít
khi sử dụng ngôn ngữ “chuyên môn” của Thiền mà sử dụng ngôn ngữ của thơ ca trữ tình,
đầy thi vị. Tức là, Tuệ Trung đã dùng ngôn ngữ của trần gian để nói chuyện giải thoát. Thơ
Thiền Tuệ Trung, do đó, vừa là thơ vừa thấm đẫm tinh thần đạo vị. Điều này đã khiến cho
thơ Thiền Tuệ Trung mang vẻ đẹp đặc biệt: nói chuyện “xuất thế” nhưng không “thoát thế”.
Ở ông có phong thái của một bậc chân nhân giác ngộ luôn lạc quan, an nhiên đi giữa trần
gian. Phong thái này mang đến cho thơ ông vẻ đẹp phóng khoáng, tự do; hồn nhiên mà thâm
trầm, sâu sắc như chính con người ông trong cuộc sống đời thường.Theo chúng tôi, đây là
những nhân tố quan trọng tạo nên nét độc đáo của tinh thần nhân văn trong thơ Thiền Tuệ
Trung.
Tiểu kết chương 1
1. Khái niệm “nhân văn” được sử dụng khá phổ biến trong nhiều lĩnh vực của đời
sống như: văn hóa, xã hội, chính trị, văn học, nghệ thuật, mỹ học….Hiểu theo nghĩa bao
quát nhất, khái niệm “nhân văn” được dùng để chỉ chung cho những giá trị tinh thần của
nhân loại, xuất phát từ sự tôn trọng giá trị, nhân phẩm con người, lòng thương yêu con
người, niềm tin vào năng lực và sức sáng tạo không cùng của con người.
Xét về mặt ý nghĩa, 3 khái niệm “nhân văn”, “nhân đạo” và “nhân bản” đều có ý
nghĩa tương đương nhau. Tuy nhiên, cần phân biệt phạm vi sử dụng của 3 từ này. “Nhân
đạo” thường được sử dụng trong lĩnh vực đạo đức, luân lý; “nhân bản” chủ yếu được sử
dụng trong lĩnh vực triết học, tâm lý; trong khi đó “nhân văn” là khái niệm có phạm vi sử
dụng khá rộng rãi, hầu như ở tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Xét về mặt thái độ, nhận thức, khái niệm “nhân văn” biểu hiện sự nhận thức toàn
diện về cả ba khía cạnh: CHÂN – THIỆN – MỸ của con người. Riêng khái niệm “nhân
đạo” thể hiện nhận thức về cái THIỆN của con người. Trong khi đó, khái niệm “nhân bản”
là quan tâm đến cái CHÂN, bản tính gốc của con người.
Dù có những điểm khác biệt nhất định, song, sự phân biệt giữa ba khái niệm “nhân
văn”, “nhân đạo”, “nhân bản” chỉ mang tính tương đối, tùy thuộc vào mục đích của người
sử dụng.
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf
Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf

More Related Content

What's hot

Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đLuận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ nữ Việt Nam đầu thế kỉ XXI
Luận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ nữ Việt Nam đầu thế kỉ XXILuận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ nữ Việt Nam đầu thế kỉ XXI
Luận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ nữ Việt Nam đầu thế kỉ XXI
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Luận văn: Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từ góc nhìn thi pháp
Luận văn: Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từ góc nhìn thi phápLuận văn: Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từ góc nhìn thi pháp
Luận văn: Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từ góc nhìn thi pháp
Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Thi Hào Nguyễn Khuyến Đời Và Thơ.pdf
Thi Hào Nguyễn Khuyến Đời Và Thơ.pdfThi Hào Nguyễn Khuyến Đời Và Thơ.pdf
Thi Hào Nguyễn Khuyến Đời Và Thơ.pdf
NuioKila
 
Luận văn: Truyện ngắn Nguyễn Dậu dưới góc nhìn văn hóa, HAY
Luận văn: Truyện ngắn Nguyễn Dậu dưới góc nhìn văn hóa, HAYLuận văn: Truyện ngắn Nguyễn Dậu dưới góc nhìn văn hóa, HAY
Luận văn: Truyện ngắn Nguyễn Dậu dưới góc nhìn văn hóa, HAY
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Cảm thức hiện sinh trong truyện ngắn Việt Nam (1986 - 2010), HOT
Cảm thức hiện sinh trong truyện ngắn Việt Nam (1986 - 2010), HOTCảm thức hiện sinh trong truyện ngắn Việt Nam (1986 - 2010), HOT
Cảm thức hiện sinh trong truyện ngắn Việt Nam (1986 - 2010), HOT
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận án: Ngôn ngữ thơ Nguyễn Bính (dựa trên cứ liệu trước 1945)
Luận án: Ngôn ngữ thơ Nguyễn Bính (dựa trên cứ liệu trước 1945)Luận án: Ngôn ngữ thơ Nguyễn Bính (dựa trên cứ liệu trước 1945)
Luận án: Ngôn ngữ thơ Nguyễn Bính (dựa trên cứ liệu trước 1945)
Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN ...
HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN ...HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN ...
HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN ...
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Phong cách nghệ thuật thơ Ý Nhi, HAY, 9đ
Luận văn: Phong cách nghệ thuật thơ Ý Nhi, HAY, 9đLuận văn: Phong cách nghệ thuật thơ Ý Nhi, HAY, 9đ
Luận văn: Phong cách nghệ thuật thơ Ý Nhi, HAY, 9đ
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
LUẬN VĂN THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN LÊ MINH KHUÊ SAU NĂM 1975_102537...
LUẬN VĂN THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN LÊ MINH KHUÊ SAU NĂM 1975_102537...LUẬN VĂN THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN LÊ MINH KHUÊ SAU NĂM 1975_102537...
LUẬN VĂN THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN LÊ MINH KHUÊ SAU NĂM 1975_102537...
KhoTi1
 
Luận văn: Truyện Nôm trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu, 9đ
Luận văn: Truyện Nôm trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu, 9đLuận văn: Truyện Nôm trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu, 9đ
Luận văn: Truyện Nôm trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu, 9đ
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Sự chuyển biến trong văn học nửa cuối thế kỉ XIX, HAY
Luận văn: Sự chuyển biến trong văn học nửa cuối thế kỉ XIX, HAYLuận văn: Sự chuyển biến trong văn học nửa cuối thế kỉ XIX, HAY
Luận văn: Sự chuyển biến trong văn học nửa cuối thế kỉ XIX, HAY
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Diễn ngôn lịch sử trong tiểu thuyết sương mù tháng giêng của uông triều (2017...
Diễn ngôn lịch sử trong tiểu thuyết sương mù tháng giêng của uông triều (2017...Diễn ngôn lịch sử trong tiểu thuyết sương mù tháng giêng của uông triều (2017...
Diễn ngôn lịch sử trong tiểu thuyết sương mù tháng giêng của uông triều (2017...
Man_Ebook
 
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAYLuận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Đề tài: Hệ thống biểu tượng trong thơ Hồ Xuân Hương, HAY
Đề tài: Hệ thống biểu tượng trong thơ Hồ Xuân Hương, HAYĐề tài: Hệ thống biểu tượng trong thơ Hồ Xuân Hương, HAY
Đề tài: Hệ thống biểu tượng trong thơ Hồ Xuân Hương, HAY
Viết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 
TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX
TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX
TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX
nataliej4
 
Luận văn: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự, HOT
Luận văn: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự, HOTLuận văn: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự, HOT
Luận văn: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự, HOT
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận văn: Quá trình tiếp nhận tác phẩm của Tô Hoài, 9đ
Luận văn: Quá trình tiếp nhận tác phẩm của Tô Hoài, 9đLuận văn: Quá trình tiếp nhận tác phẩm của Tô Hoài, 9đ
Luận văn: Quá trình tiếp nhận tác phẩm của Tô Hoài, 9đ
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận án: Xây dựng hệ thống câu hỏi phát triển năng lực đọc hiểu
Luận án: Xây dựng hệ thống câu hỏi phát triển năng lực đọc hiểuLuận án: Xây dựng hệ thống câu hỏi phát triển năng lực đọc hiểu
Luận án: Xây dựng hệ thống câu hỏi phát triển năng lực đọc hiểu
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận văn: Yếu tố phong tục trong truyện cổ tích người Việt từ góc nhìn văn hoá
Luận văn: Yếu tố phong tục trong truyện cổ tích người Việt từ góc nhìn văn hoáLuận văn: Yếu tố phong tục trong truyện cổ tích người Việt từ góc nhìn văn hoá
Luận văn: Yếu tố phong tục trong truyện cổ tích người Việt từ góc nhìn văn hoá
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 

What's hot (20)

Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đLuận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
 
Luận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ nữ Việt Nam đầu thế kỉ XXI
Luận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ nữ Việt Nam đầu thế kỉ XXILuận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ nữ Việt Nam đầu thế kỉ XXI
Luận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ nữ Việt Nam đầu thế kỉ XXI
 
Luận văn: Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từ góc nhìn thi pháp
Luận văn: Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từ góc nhìn thi phápLuận văn: Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từ góc nhìn thi pháp
Luận văn: Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từ góc nhìn thi pháp
 
Thi Hào Nguyễn Khuyến Đời Và Thơ.pdf
Thi Hào Nguyễn Khuyến Đời Và Thơ.pdfThi Hào Nguyễn Khuyến Đời Và Thơ.pdf
Thi Hào Nguyễn Khuyến Đời Và Thơ.pdf
 
Luận văn: Truyện ngắn Nguyễn Dậu dưới góc nhìn văn hóa, HAY
Luận văn: Truyện ngắn Nguyễn Dậu dưới góc nhìn văn hóa, HAYLuận văn: Truyện ngắn Nguyễn Dậu dưới góc nhìn văn hóa, HAY
Luận văn: Truyện ngắn Nguyễn Dậu dưới góc nhìn văn hóa, HAY
 
Cảm thức hiện sinh trong truyện ngắn Việt Nam (1986 - 2010), HOT
Cảm thức hiện sinh trong truyện ngắn Việt Nam (1986 - 2010), HOTCảm thức hiện sinh trong truyện ngắn Việt Nam (1986 - 2010), HOT
Cảm thức hiện sinh trong truyện ngắn Việt Nam (1986 - 2010), HOT
 
Luận án: Ngôn ngữ thơ Nguyễn Bính (dựa trên cứ liệu trước 1945)
Luận án: Ngôn ngữ thơ Nguyễn Bính (dựa trên cứ liệu trước 1945)Luận án: Ngôn ngữ thơ Nguyễn Bính (dựa trên cứ liệu trước 1945)
Luận án: Ngôn ngữ thơ Nguyễn Bính (dựa trên cứ liệu trước 1945)
 
HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN ...
HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN ...HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN ...
HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN ...
 
Luận văn: Phong cách nghệ thuật thơ Ý Nhi, HAY, 9đ
Luận văn: Phong cách nghệ thuật thơ Ý Nhi, HAY, 9đLuận văn: Phong cách nghệ thuật thơ Ý Nhi, HAY, 9đ
Luận văn: Phong cách nghệ thuật thơ Ý Nhi, HAY, 9đ
 
LUẬN VĂN THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN LÊ MINH KHUÊ SAU NĂM 1975_102537...
LUẬN VĂN THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN LÊ MINH KHUÊ SAU NĂM 1975_102537...LUẬN VĂN THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN LÊ MINH KHUÊ SAU NĂM 1975_102537...
LUẬN VĂN THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN LÊ MINH KHUÊ SAU NĂM 1975_102537...
 
Luận văn: Truyện Nôm trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu, 9đ
Luận văn: Truyện Nôm trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu, 9đLuận văn: Truyện Nôm trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu, 9đ
Luận văn: Truyện Nôm trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu, 9đ
 
Luận văn: Sự chuyển biến trong văn học nửa cuối thế kỉ XIX, HAY
Luận văn: Sự chuyển biến trong văn học nửa cuối thế kỉ XIX, HAYLuận văn: Sự chuyển biến trong văn học nửa cuối thế kỉ XIX, HAY
Luận văn: Sự chuyển biến trong văn học nửa cuối thế kỉ XIX, HAY
 
Diễn ngôn lịch sử trong tiểu thuyết sương mù tháng giêng của uông triều (2017...
Diễn ngôn lịch sử trong tiểu thuyết sương mù tháng giêng của uông triều (2017...Diễn ngôn lịch sử trong tiểu thuyết sương mù tháng giêng của uông triều (2017...
Diễn ngôn lịch sử trong tiểu thuyết sương mù tháng giêng của uông triều (2017...
 
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAYLuận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại, HAY
 
Đề tài: Hệ thống biểu tượng trong thơ Hồ Xuân Hương, HAY
Đề tài: Hệ thống biểu tượng trong thơ Hồ Xuân Hương, HAYĐề tài: Hệ thống biểu tượng trong thơ Hồ Xuân Hương, HAY
Đề tài: Hệ thống biểu tượng trong thơ Hồ Xuân Hương, HAY
 
TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX
TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX
TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX
 
Luận văn: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự, HOT
Luận văn: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự, HOTLuận văn: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự, HOT
Luận văn: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự, HOT
 
Luận văn: Quá trình tiếp nhận tác phẩm của Tô Hoài, 9đ
Luận văn: Quá trình tiếp nhận tác phẩm của Tô Hoài, 9đLuận văn: Quá trình tiếp nhận tác phẩm của Tô Hoài, 9đ
Luận văn: Quá trình tiếp nhận tác phẩm của Tô Hoài, 9đ
 
Luận án: Xây dựng hệ thống câu hỏi phát triển năng lực đọc hiểu
Luận án: Xây dựng hệ thống câu hỏi phát triển năng lực đọc hiểuLuận án: Xây dựng hệ thống câu hỏi phát triển năng lực đọc hiểu
Luận án: Xây dựng hệ thống câu hỏi phát triển năng lực đọc hiểu
 
Luận văn: Yếu tố phong tục trong truyện cổ tích người Việt từ góc nhìn văn hoá
Luận văn: Yếu tố phong tục trong truyện cổ tích người Việt từ góc nhìn văn hoáLuận văn: Yếu tố phong tục trong truyện cổ tích người Việt từ góc nhìn văn hoá
Luận văn: Yếu tố phong tục trong truyện cổ tích người Việt từ góc nhìn văn hoá
 

Similar to Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf

Tho thien Viet Nam thoi Ly - Tran trong so sanh voi tho thien Nhat Ban.pdf
Tho thien Viet Nam thoi Ly - Tran trong so sanh voi tho thien Nhat Ban.pdfTho thien Viet Nam thoi Ly - Tran trong so sanh voi tho thien Nhat Ban.pdf
Tho thien Viet Nam thoi Ly - Tran trong so sanh voi tho thien Nhat Ban.pdf
Man_Ebook
 
Tiểu Luận Vai Trò Của Báo Chí Với Phản Ánh Tiêu Cực Của Xã Hội Hiện Nay 42728...
Tiểu Luận Vai Trò Của Báo Chí Với Phản Ánh Tiêu Cực Của Xã Hội Hiện Nay 42728...Tiểu Luận Vai Trò Của Báo Chí Với Phản Ánh Tiêu Cực Của Xã Hội Hiện Nay 42728...
Tiểu Luận Vai Trò Của Báo Chí Với Phản Ánh Tiêu Cực Của Xã Hội Hiện Nay 42728...
NuioKila
 
Mấy Vấn Đề Thi Pháp Văn Học Trung Đại Việt Nam
Mấy Vấn Đề Thi Pháp Văn Học Trung Đại Việt Nam Mấy Vấn Đề Thi Pháp Văn Học Trung Đại Việt Nam
Mấy Vấn Đề Thi Pháp Văn Học Trung Đại Việt Nam
nataliej4
 
Dạy học các tác phẩm thơ Nguyễn Khuyến, Tú Xương ở trung học phổ thông theo h...
Dạy học các tác phẩm thơ Nguyễn Khuyến, Tú Xương ở trung học phổ thông theo h...Dạy học các tác phẩm thơ Nguyễn Khuyến, Tú Xương ở trung học phổ thông theo h...
Dạy học các tác phẩm thơ Nguyễn Khuyến, Tú Xương ở trung học phổ thông theo h...
nataliej4
 
Dạy học thơ đường ở trường phổ thông theo hướng tích cực, 9đ
Dạy học thơ đường ở trường phổ thông theo hướng tích cực, 9đDạy học thơ đường ở trường phổ thông theo hướng tích cực, 9đ
Dạy học thơ đường ở trường phổ thông theo hướng tích cực, 9đ
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Phong cách kinh học và tư tưởng của Lê Văn Ngữ 6795510.pdf
Phong cách kinh học và tư tưởng của Lê Văn Ngữ 6795510.pdfPhong cách kinh học và tư tưởng của Lê Văn Ngữ 6795510.pdf
Phong cách kinh học và tư tưởng của Lê Văn Ngữ 6795510.pdf
jackjohn45
 
Luận án: Nhân sinh quan phật giáo trong truyện kiều của Nguyễn Du
Luận án: Nhân sinh quan phật giáo trong truyện kiều của Nguyễn DuLuận án: Nhân sinh quan phật giáo trong truyện kiều của Nguyễn Du
Luận án: Nhân sinh quan phật giáo trong truyện kiều của Nguyễn Du
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Cái Tôi cô đơn trong thơ mới và thơ đương đại, HAY
Luận văn: Cái Tôi cô đơn trong thơ mới và thơ đương đại, HAYLuận văn: Cái Tôi cô đơn trong thơ mới và thơ đương đại, HAY
Luận văn: Cái Tôi cô đơn trong thơ mới và thơ đương đại, HAY
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đLuận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Tóm Tắt Luận Văn Thạc Sĩ Triết Nhân sinh quan phật giáo trong kinh Trung Bộ.doc
Tóm Tắt Luận Văn Thạc Sĩ Triết Nhân sinh quan phật giáo trong kinh Trung Bộ.docTóm Tắt Luận Văn Thạc Sĩ Triết Nhân sinh quan phật giáo trong kinh Trung Bộ.doc
Tóm Tắt Luận Văn Thạc Sĩ Triết Nhân sinh quan phật giáo trong kinh Trung Bộ.doc
dịch vụ viết đề tài trọn gói 0973287149
 
Luận án: Tư tưởng triết học của Tôn Trung Sơn và ý nghĩa, HAY
Luận án: Tư tưởng triết học của Tôn Trung Sơn và ý nghĩa, HAYLuận án: Tư tưởng triết học của Tôn Trung Sơn và ý nghĩa, HAY
Luận án: Tư tưởng triết học của Tôn Trung Sơn và ý nghĩa, HAY
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Vai trò cùa nhân viên công tác xã hội chuyên nghiệp trong bệnh viện...
Luận văn: Vai trò cùa nhân viên công tác xã hội chuyên nghiệp trong bệnh viện...Luận văn: Vai trò cùa nhân viên công tác xã hội chuyên nghiệp trong bệnh viện...
Luận văn: Vai trò cùa nhân viên công tác xã hội chuyên nghiệp trong bệnh viện...
Dịch vụ viết thuê Khóa Luận - ZALO 0932091562
 
Th s33.012 tìm hiểu chú giải văn học trung đại việt nam trong sách giáo khoa ...
Th s33.012 tìm hiểu chú giải văn học trung đại việt nam trong sách giáo khoa ...Th s33.012 tìm hiểu chú giải văn học trung đại việt nam trong sách giáo khoa ...
Th s33.012 tìm hiểu chú giải văn học trung đại việt nam trong sách giáo khoa ...
https://www.facebook.com/garmentspace
 
Thiền và pháp môn vô niệm luận giải về pháp bảo đàn kinh của lục tổ huệ năng
Thiền và pháp môn vô niệm luận giải về pháp bảo đàn kinh của lục tổ huệ năngThiền và pháp môn vô niệm luận giải về pháp bảo đàn kinh của lục tổ huệ năng
Thiền và pháp môn vô niệm luận giải về pháp bảo đàn kinh của lục tổ huệ năng
jackjohn45
 
Luận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Hoàng Hưng và Inrasara
Luận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Hoàng Hưng và InrasaraLuận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Hoàng Hưng và Inrasara
Luận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Hoàng Hưng và Inrasara
Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Luận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Hoàng Hưng và Inrasara, HAY
Luận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Hoàng Hưng và Inrasara, HAYLuận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Hoàng Hưng và Inrasara, HAY
Luận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Hoàng Hưng và Inrasara, HAY
Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Luận án: Vai trò xã hội của Nho giáo ở Việt Nam từ XV đến XIX
Luận án: Vai trò xã hội của Nho giáo ở Việt Nam từ XV đến XIXLuận án: Vai trò xã hội của Nho giáo ở Việt Nam từ XV đến XIX
Luận án: Vai trò xã hội của Nho giáo ở Việt Nam từ XV đến XIX
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Vai trò xã hội của Nho giáo ở Việt Nam từ Thế Kỷ XV đến nửa đầu Thế Kỷ XIX
Vai trò xã hội của Nho giáo ở Việt Nam từ Thế Kỷ XV đến nửa đầu Thế Kỷ XIXVai trò xã hội của Nho giáo ở Việt Nam từ Thế Kỷ XV đến nửa đầu Thế Kỷ XIX
Vai trò xã hội của Nho giáo ở Việt Nam từ Thế Kỷ XV đến nửa đầu Thế Kỷ XIX
Dịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Tư tưởng đạo đức trong triết học khai sáng Pháp
Tư tưởng đạo đức trong triết học khai sáng Pháp Tư tưởng đạo đức trong triết học khai sáng Pháp
Tư tưởng đạo đức trong triết học khai sáng Pháp
nataliej4
 

Similar to Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf (20)

Tho thien Viet Nam thoi Ly - Tran trong so sanh voi tho thien Nhat Ban.pdf
Tho thien Viet Nam thoi Ly - Tran trong so sanh voi tho thien Nhat Ban.pdfTho thien Viet Nam thoi Ly - Tran trong so sanh voi tho thien Nhat Ban.pdf
Tho thien Viet Nam thoi Ly - Tran trong so sanh voi tho thien Nhat Ban.pdf
 
Tiểu Luận Vai Trò Của Báo Chí Với Phản Ánh Tiêu Cực Của Xã Hội Hiện Nay 42728...
Tiểu Luận Vai Trò Của Báo Chí Với Phản Ánh Tiêu Cực Của Xã Hội Hiện Nay 42728...Tiểu Luận Vai Trò Của Báo Chí Với Phản Ánh Tiêu Cực Của Xã Hội Hiện Nay 42728...
Tiểu Luận Vai Trò Của Báo Chí Với Phản Ánh Tiêu Cực Của Xã Hội Hiện Nay 42728...
 
Mấy Vấn Đề Thi Pháp Văn Học Trung Đại Việt Nam
Mấy Vấn Đề Thi Pháp Văn Học Trung Đại Việt Nam Mấy Vấn Đề Thi Pháp Văn Học Trung Đại Việt Nam
Mấy Vấn Đề Thi Pháp Văn Học Trung Đại Việt Nam
 
Dạy học các tác phẩm thơ Nguyễn Khuyến, Tú Xương ở trung học phổ thông theo h...
Dạy học các tác phẩm thơ Nguyễn Khuyến, Tú Xương ở trung học phổ thông theo h...Dạy học các tác phẩm thơ Nguyễn Khuyến, Tú Xương ở trung học phổ thông theo h...
Dạy học các tác phẩm thơ Nguyễn Khuyến, Tú Xương ở trung học phổ thông theo h...
 
Dạy học thơ đường ở trường phổ thông theo hướng tích cực, 9đ
Dạy học thơ đường ở trường phổ thông theo hướng tích cực, 9đDạy học thơ đường ở trường phổ thông theo hướng tích cực, 9đ
Dạy học thơ đường ở trường phổ thông theo hướng tích cực, 9đ
 
Phong cách kinh học và tư tưởng của Lê Văn Ngữ 6795510.pdf
Phong cách kinh học và tư tưởng của Lê Văn Ngữ 6795510.pdfPhong cách kinh học và tư tưởng của Lê Văn Ngữ 6795510.pdf
Phong cách kinh học và tư tưởng của Lê Văn Ngữ 6795510.pdf
 
Luận án: Nhân sinh quan phật giáo trong truyện kiều của Nguyễn Du
Luận án: Nhân sinh quan phật giáo trong truyện kiều của Nguyễn DuLuận án: Nhân sinh quan phật giáo trong truyện kiều của Nguyễn Du
Luận án: Nhân sinh quan phật giáo trong truyện kiều của Nguyễn Du
 
Luận văn: Cái Tôi cô đơn trong thơ mới và thơ đương đại, HAY
Luận văn: Cái Tôi cô đơn trong thơ mới và thơ đương đại, HAYLuận văn: Cái Tôi cô đơn trong thơ mới và thơ đương đại, HAY
Luận văn: Cái Tôi cô đơn trong thơ mới và thơ đương đại, HAY
 
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đLuận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
 
Tóm Tắt Luận Văn Thạc Sĩ Triết Nhân sinh quan phật giáo trong kinh Trung Bộ.doc
Tóm Tắt Luận Văn Thạc Sĩ Triết Nhân sinh quan phật giáo trong kinh Trung Bộ.docTóm Tắt Luận Văn Thạc Sĩ Triết Nhân sinh quan phật giáo trong kinh Trung Bộ.doc
Tóm Tắt Luận Văn Thạc Sĩ Triết Nhân sinh quan phật giáo trong kinh Trung Bộ.doc
 
Luận án: Tư tưởng triết học của Tôn Trung Sơn và ý nghĩa, HAY
Luận án: Tư tưởng triết học của Tôn Trung Sơn và ý nghĩa, HAYLuận án: Tư tưởng triết học của Tôn Trung Sơn và ý nghĩa, HAY
Luận án: Tư tưởng triết học của Tôn Trung Sơn và ý nghĩa, HAY
 
Luận văn: Vai trò cùa nhân viên công tác xã hội chuyên nghiệp trong bệnh viện...
Luận văn: Vai trò cùa nhân viên công tác xã hội chuyên nghiệp trong bệnh viện...Luận văn: Vai trò cùa nhân viên công tác xã hội chuyên nghiệp trong bệnh viện...
Luận văn: Vai trò cùa nhân viên công tác xã hội chuyên nghiệp trong bệnh viện...
 
Th s33.012 tìm hiểu chú giải văn học trung đại việt nam trong sách giáo khoa ...
Th s33.012 tìm hiểu chú giải văn học trung đại việt nam trong sách giáo khoa ...Th s33.012 tìm hiểu chú giải văn học trung đại việt nam trong sách giáo khoa ...
Th s33.012 tìm hiểu chú giải văn học trung đại việt nam trong sách giáo khoa ...
 
Thiền và pháp môn vô niệm luận giải về pháp bảo đàn kinh của lục tổ huệ năng
Thiền và pháp môn vô niệm luận giải về pháp bảo đàn kinh của lục tổ huệ năngThiền và pháp môn vô niệm luận giải về pháp bảo đàn kinh của lục tổ huệ năng
Thiền và pháp môn vô niệm luận giải về pháp bảo đàn kinh của lục tổ huệ năng
 
Phat giao
Phat giaoPhat giao
Phat giao
 
Luận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Hoàng Hưng và Inrasara
Luận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Hoàng Hưng và InrasaraLuận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Hoàng Hưng và Inrasara
Luận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Hoàng Hưng và Inrasara
 
Luận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Hoàng Hưng và Inrasara, HAY
Luận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Hoàng Hưng và Inrasara, HAYLuận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Hoàng Hưng và Inrasara, HAY
Luận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Hoàng Hưng và Inrasara, HAY
 
Luận án: Vai trò xã hội của Nho giáo ở Việt Nam từ XV đến XIX
Luận án: Vai trò xã hội của Nho giáo ở Việt Nam từ XV đến XIXLuận án: Vai trò xã hội của Nho giáo ở Việt Nam từ XV đến XIX
Luận án: Vai trò xã hội của Nho giáo ở Việt Nam từ XV đến XIX
 
Vai trò xã hội của Nho giáo ở Việt Nam từ Thế Kỷ XV đến nửa đầu Thế Kỷ XIX
Vai trò xã hội của Nho giáo ở Việt Nam từ Thế Kỷ XV đến nửa đầu Thế Kỷ XIXVai trò xã hội của Nho giáo ở Việt Nam từ Thế Kỷ XV đến nửa đầu Thế Kỷ XIX
Vai trò xã hội của Nho giáo ở Việt Nam từ Thế Kỷ XV đến nửa đầu Thế Kỷ XIX
 
Tư tưởng đạo đức trong triết học khai sáng Pháp
Tư tưởng đạo đức trong triết học khai sáng Pháp Tư tưởng đạo đức trong triết học khai sáng Pháp
Tư tưởng đạo đức trong triết học khai sáng Pháp
 

More from Man_Ebook

TL NỘI SAN KHOA CƠ KHÍ ĐỘNG LỰC 2023 - UTE
TL NỘI SAN KHOA CƠ KHÍ ĐỘNG LỰC 2023 - UTETL NỘI SAN KHOA CƠ KHÍ ĐỘNG LỰC 2023 - UTE
TL NỘI SAN KHOA CƠ KHÍ ĐỘNG LỰC 2023 - UTE
Man_Ebook
 
Từ ngữ về con người và chiến tranh trong Nhật ký Đặng Thùy Trâm.pdf
Từ ngữ về con người và chiến tranh trong Nhật ký Đặng Thùy Trâm.pdfTừ ngữ về con người và chiến tranh trong Nhật ký Đặng Thùy Trâm.pdf
Từ ngữ về con người và chiến tranh trong Nhật ký Đặng Thùy Trâm.pdf
Man_Ebook
 
TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ CỦA CÁN BỘ, CÔNG CHỨC TRONG HOẠT ĐỘNG CÔNG VỤ.pdf
TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ CỦA CÁN BỘ, CÔNG CHỨC TRONG HOẠT ĐỘNG CÔNG VỤ.pdfTRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ CỦA CÁN BỘ, CÔNG CHỨC TRONG HOẠT ĐỘNG CÔNG VỤ.pdf
TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ CỦA CÁN BỘ, CÔNG CHỨC TRONG HOẠT ĐỘNG CÔNG VỤ.pdf
Man_Ebook
 
Addressing Transport Issues in Non-Aqueous Li–air Batteries to Achieving High...
Addressing Transport Issues in Non-Aqueous Li–air Batteries to Achieving High...Addressing Transport Issues in Non-Aqueous Li–air Batteries to Achieving High...
Addressing Transport Issues in Non-Aqueous Li–air Batteries to Achieving High...
Man_Ebook
 
An Analysis of International Tourist Motivations Towards Phuket Food Attracti...
An Analysis of International Tourist Motivations Towards Phuket Food Attracti...An Analysis of International Tourist Motivations Towards Phuket Food Attracti...
An Analysis of International Tourist Motivations Towards Phuket Food Attracti...
Man_Ebook
 
BÀI GIẢNG MÔN HỌC CƠ SỞ NGÔN NGỮ, Dùng cho hệ Cao đẳng chuyên nghiệp.pdf
BÀI GIẢNG MÔN HỌC CƠ SỞ NGÔN NGỮ, Dùng cho hệ Cao đẳng chuyên nghiệp.pdfBÀI GIẢNG MÔN HỌC CƠ SỞ NGÔN NGỮ, Dùng cho hệ Cao đẳng chuyên nghiệp.pdf
BÀI GIẢNG MÔN HỌC CƠ SỞ NGÔN NGỮ, Dùng cho hệ Cao đẳng chuyên nghiệp.pdf
Man_Ebook
 
TL Báo cáo Thực tập tại Nissan Đà Nẵng.doc
TL Báo cáo Thực tập tại Nissan Đà Nẵng.docTL Báo cáo Thực tập tại Nissan Đà Nẵng.doc
TL Báo cáo Thực tập tại Nissan Đà Nẵng.doc
Man_Ebook
 
Giáo trình thực vật học 2 - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình thực vật học 2 - Trường ĐH Cần Thơ.pdfGiáo trình thực vật học 2 - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình thực vật học 2 - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Man_Ebook
 
Giáo trình mô động vật - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình mô động vật - Trường ĐH Cần Thơ.pdfGiáo trình mô động vật - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình mô động vật - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Man_Ebook
 
Giáo trình ngôn ngữ hệ thống A - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình ngôn ngữ hệ thống A - Trường ĐH Cần Thơ.pdfGiáo trình ngôn ngữ hệ thống A - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình ngôn ngữ hệ thống A - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Man_Ebook
 
Giáo trình ngôn ngữ mô hình hóa UML - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình ngôn ngữ mô hình hóa UML - Trường ĐH Cần Thơ.pdfGiáo trình ngôn ngữ mô hình hóa UML - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình ngôn ngữ mô hình hóa UML - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Man_Ebook
 
Giáo trình nguyên lý máy học - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình nguyên lý máy học - Trường ĐH Cần Thơ.pdfGiáo trình nguyên lý máy học - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình nguyên lý máy học - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Man_Ebook
 
Giáo trình mô hình hóa quyết định - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình mô hình hóa quyết định - Trường ĐH Cần Thơ.pdfGiáo trình mô hình hóa quyết định - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình mô hình hóa quyết định - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Man_Ebook
 
Giáo trình Linux và phần mềm nguồn mở.pdf
Giáo trình Linux và phần mềm nguồn mở.pdfGiáo trình Linux và phần mềm nguồn mở.pdf
Giáo trình Linux và phần mềm nguồn mở.pdf
Man_Ebook
 
Giáo trình logic học đại cương - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình logic học đại cương - Trường ĐH Cần Thơ.pdfGiáo trình logic học đại cương - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình logic học đại cương - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Man_Ebook
 
Giáo trình lý thuyết điều khiển tự động.pdf
Giáo trình lý thuyết điều khiển tự động.pdfGiáo trình lý thuyết điều khiển tự động.pdf
Giáo trình lý thuyết điều khiển tự động.pdf
Man_Ebook
 
Giáo trình mạng máy tính - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình mạng máy tính - Trường ĐH Cần Thơ.pdfGiáo trình mạng máy tính - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình mạng máy tính - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Man_Ebook
 
Giáo trình lý thuyết xếp hàng và ứng dụng đánh giá hệ thống.pdf
Giáo trình lý thuyết xếp hàng và ứng dụng đánh giá hệ thống.pdfGiáo trình lý thuyết xếp hàng và ứng dụng đánh giá hệ thống.pdf
Giáo trình lý thuyết xếp hàng và ứng dụng đánh giá hệ thống.pdf
Man_Ebook
 
Giáo trình lập trình cho thiết bị di động.pdf
Giáo trình lập trình cho thiết bị di động.pdfGiáo trình lập trình cho thiết bị di động.pdf
Giáo trình lập trình cho thiết bị di động.pdf
Man_Ebook
 
Giáo trình lập trình web - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình lập trình web  - Trường ĐH Cần Thơ.pdfGiáo trình lập trình web  - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình lập trình web - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Man_Ebook
 

More from Man_Ebook (20)

TL NỘI SAN KHOA CƠ KHÍ ĐỘNG LỰC 2023 - UTE
TL NỘI SAN KHOA CƠ KHÍ ĐỘNG LỰC 2023 - UTETL NỘI SAN KHOA CƠ KHÍ ĐỘNG LỰC 2023 - UTE
TL NỘI SAN KHOA CƠ KHÍ ĐỘNG LỰC 2023 - UTE
 
Từ ngữ về con người và chiến tranh trong Nhật ký Đặng Thùy Trâm.pdf
Từ ngữ về con người và chiến tranh trong Nhật ký Đặng Thùy Trâm.pdfTừ ngữ về con người và chiến tranh trong Nhật ký Đặng Thùy Trâm.pdf
Từ ngữ về con người và chiến tranh trong Nhật ký Đặng Thùy Trâm.pdf
 
TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ CỦA CÁN BỘ, CÔNG CHỨC TRONG HOẠT ĐỘNG CÔNG VỤ.pdf
TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ CỦA CÁN BỘ, CÔNG CHỨC TRONG HOẠT ĐỘNG CÔNG VỤ.pdfTRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ CỦA CÁN BỘ, CÔNG CHỨC TRONG HOẠT ĐỘNG CÔNG VỤ.pdf
TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ CỦA CÁN BỘ, CÔNG CHỨC TRONG HOẠT ĐỘNG CÔNG VỤ.pdf
 
Addressing Transport Issues in Non-Aqueous Li–air Batteries to Achieving High...
Addressing Transport Issues in Non-Aqueous Li–air Batteries to Achieving High...Addressing Transport Issues in Non-Aqueous Li–air Batteries to Achieving High...
Addressing Transport Issues in Non-Aqueous Li–air Batteries to Achieving High...
 
An Analysis of International Tourist Motivations Towards Phuket Food Attracti...
An Analysis of International Tourist Motivations Towards Phuket Food Attracti...An Analysis of International Tourist Motivations Towards Phuket Food Attracti...
An Analysis of International Tourist Motivations Towards Phuket Food Attracti...
 
BÀI GIẢNG MÔN HỌC CƠ SỞ NGÔN NGỮ, Dùng cho hệ Cao đẳng chuyên nghiệp.pdf
BÀI GIẢNG MÔN HỌC CƠ SỞ NGÔN NGỮ, Dùng cho hệ Cao đẳng chuyên nghiệp.pdfBÀI GIẢNG MÔN HỌC CƠ SỞ NGÔN NGỮ, Dùng cho hệ Cao đẳng chuyên nghiệp.pdf
BÀI GIẢNG MÔN HỌC CƠ SỞ NGÔN NGỮ, Dùng cho hệ Cao đẳng chuyên nghiệp.pdf
 
TL Báo cáo Thực tập tại Nissan Đà Nẵng.doc
TL Báo cáo Thực tập tại Nissan Đà Nẵng.docTL Báo cáo Thực tập tại Nissan Đà Nẵng.doc
TL Báo cáo Thực tập tại Nissan Đà Nẵng.doc
 
Giáo trình thực vật học 2 - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình thực vật học 2 - Trường ĐH Cần Thơ.pdfGiáo trình thực vật học 2 - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình thực vật học 2 - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
 
Giáo trình mô động vật - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình mô động vật - Trường ĐH Cần Thơ.pdfGiáo trình mô động vật - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình mô động vật - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
 
Giáo trình ngôn ngữ hệ thống A - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình ngôn ngữ hệ thống A - Trường ĐH Cần Thơ.pdfGiáo trình ngôn ngữ hệ thống A - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình ngôn ngữ hệ thống A - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
 
Giáo trình ngôn ngữ mô hình hóa UML - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình ngôn ngữ mô hình hóa UML - Trường ĐH Cần Thơ.pdfGiáo trình ngôn ngữ mô hình hóa UML - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình ngôn ngữ mô hình hóa UML - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
 
Giáo trình nguyên lý máy học - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình nguyên lý máy học - Trường ĐH Cần Thơ.pdfGiáo trình nguyên lý máy học - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình nguyên lý máy học - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
 
Giáo trình mô hình hóa quyết định - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình mô hình hóa quyết định - Trường ĐH Cần Thơ.pdfGiáo trình mô hình hóa quyết định - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình mô hình hóa quyết định - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
 
Giáo trình Linux và phần mềm nguồn mở.pdf
Giáo trình Linux và phần mềm nguồn mở.pdfGiáo trình Linux và phần mềm nguồn mở.pdf
Giáo trình Linux và phần mềm nguồn mở.pdf
 
Giáo trình logic học đại cương - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình logic học đại cương - Trường ĐH Cần Thơ.pdfGiáo trình logic học đại cương - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình logic học đại cương - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
 
Giáo trình lý thuyết điều khiển tự động.pdf
Giáo trình lý thuyết điều khiển tự động.pdfGiáo trình lý thuyết điều khiển tự động.pdf
Giáo trình lý thuyết điều khiển tự động.pdf
 
Giáo trình mạng máy tính - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình mạng máy tính - Trường ĐH Cần Thơ.pdfGiáo trình mạng máy tính - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình mạng máy tính - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
 
Giáo trình lý thuyết xếp hàng và ứng dụng đánh giá hệ thống.pdf
Giáo trình lý thuyết xếp hàng và ứng dụng đánh giá hệ thống.pdfGiáo trình lý thuyết xếp hàng và ứng dụng đánh giá hệ thống.pdf
Giáo trình lý thuyết xếp hàng và ứng dụng đánh giá hệ thống.pdf
 
Giáo trình lập trình cho thiết bị di động.pdf
Giáo trình lập trình cho thiết bị di động.pdfGiáo trình lập trình cho thiết bị di động.pdf
Giáo trình lập trình cho thiết bị di động.pdf
 
Giáo trình lập trình web - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình lập trình web  - Trường ĐH Cần Thơ.pdfGiáo trình lập trình web  - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình lập trình web - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
 

Recently uploaded

insulin cho benh nhan nam vien co tang duong huyet
insulin cho benh nhan nam vien co tang duong huyetinsulin cho benh nhan nam vien co tang duong huyet
insulin cho benh nhan nam vien co tang duong huyet
lmhong80
 
THONG BAO nop ho so xet tuyen TS6 24-25.pdf
THONG BAO nop ho so xet tuyen TS6 24-25.pdfTHONG BAO nop ho so xet tuyen TS6 24-25.pdf
THONG BAO nop ho so xet tuyen TS6 24-25.pdf
QucHHunhnh
 
Cau-Trắc-Nghiệm-TTHCM-Tham-Khảo-THI-CUỐI-KI.pdf
Cau-Trắc-Nghiệm-TTHCM-Tham-Khảo-THI-CUỐI-KI.pdfCau-Trắc-Nghiệm-TTHCM-Tham-Khảo-THI-CUỐI-KI.pdf
Cau-Trắc-Nghiệm-TTHCM-Tham-Khảo-THI-CUỐI-KI.pdf
HngMLTh
 
FSSC 22000 version 6_Seminar_FINAL end.pptx
FSSC 22000 version 6_Seminar_FINAL end.pptxFSSC 22000 version 6_Seminar_FINAL end.pptx
FSSC 22000 version 6_Seminar_FINAL end.pptx
deviv80273
 
CHUYÊN ĐỀ DẠY THÊM HÓA HỌC LỚP 10 - SÁCH MỚI - FORM BÀI TẬP 2025 (DÙNG CHUNG ...
CHUYÊN ĐỀ DẠY THÊM HÓA HỌC LỚP 10 - SÁCH MỚI - FORM BÀI TẬP 2025 (DÙNG CHUNG ...CHUYÊN ĐỀ DẠY THÊM HÓA HỌC LỚP 10 - SÁCH MỚI - FORM BÀI TẬP 2025 (DÙNG CHUNG ...
CHUYÊN ĐỀ DẠY THÊM HÓA HỌC LỚP 10 - SÁCH MỚI - FORM BÀI TẬP 2025 (DÙNG CHUNG ...
Nguyen Thanh Tu Collection
 
40 câu hỏi - đáp Bộ luật dân sự năm 2015 (1).doc
40 câu hỏi - đáp Bộ  luật dân sự năm  2015 (1).doc40 câu hỏi - đáp Bộ  luật dân sự năm  2015 (1).doc
40 câu hỏi - đáp Bộ luật dân sự năm 2015 (1).doc
NguynDimQunh33
 
100 DẪN CHỨNG NGHỊ LUẬN XÃ HỘiI HAY.docx
100 DẪN CHỨNG NGHỊ LUẬN XÃ HỘiI HAY.docx100 DẪN CHỨNG NGHỊ LUẬN XÃ HỘiI HAY.docx
100 DẪN CHỨNG NGHỊ LUẬN XÃ HỘiI HAY.docx
khanhthy3000
 
PLĐC-chương 1 (1).ppt của trường ĐH Ngoại thương
PLĐC-chương 1 (1).ppt của trường  ĐH Ngoại thươngPLĐC-chương 1 (1).ppt của trường  ĐH Ngoại thương
PLĐC-chương 1 (1).ppt của trường ĐH Ngoại thương
hieutrinhvan27052005
 
BÁO CÁO CUỐI KỲ PHÂN TÍCH THIẾT KẾ HƯỚNG ĐỐI TƯỢNG - NHÓM 7.docx
BÁO CÁO CUỐI KỲ PHÂN TÍCH THIẾT KẾ HƯỚNG ĐỐI TƯỢNG - NHÓM 7.docxBÁO CÁO CUỐI KỲ PHÂN TÍCH THIẾT KẾ HƯỚNG ĐỐI TƯỢNG - NHÓM 7.docx
BÁO CÁO CUỐI KỲ PHÂN TÍCH THIẾT KẾ HƯỚNG ĐỐI TƯỢNG - NHÓM 7.docx
HngL891608
 
SLIDE BÀI GIẢNG MÔN THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ.pdf
SLIDE BÀI GIẢNG MÔN THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ.pdfSLIDE BÀI GIẢNG MÔN THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ.pdf
SLIDE BÀI GIẢNG MÔN THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ.pdf
UyenDang34
 
Biểu tượng trăng và bầu trời trong tác phẩm của Nguyễn Quang Thiều
Biểu tượng trăng và bầu trời trong tác phẩm của Nguyễn Quang ThiềuBiểu tượng trăng và bầu trời trong tác phẩm của Nguyễn Quang Thiều
Biểu tượng trăng và bầu trời trong tác phẩm của Nguyễn Quang Thiều
lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Halloween vocabulary for kids in primary school
Halloween vocabulary for kids in primary schoolHalloween vocabulary for kids in primary school
Halloween vocabulary for kids in primary school
AnhPhm265031
 
Văn 7. Truyện ngụ ngôn Rùa và thỏ+ Viết PT nhân vật.docx
Văn 7. Truyện ngụ ngôn Rùa và thỏ+ Viết PT nhân vật.docxVăn 7. Truyện ngụ ngôn Rùa và thỏ+ Viết PT nhân vật.docx
Văn 7. Truyện ngụ ngôn Rùa và thỏ+ Viết PT nhân vật.docx
metamngoc123
 
Giải phẫu tim sau đại học- LÊ QUANG TUYỀN
Giải phẫu tim sau đại học- LÊ QUANG TUYỀNGiải phẫu tim sau đại học- LÊ QUANG TUYỀN
Giải phẫu tim sau đại học- LÊ QUANG TUYỀN
linh miu
 
trắc nhiệm ký sinh.docxddddddddddddddddd
trắc nhiệm ký sinh.docxdddddddddddddddddtrắc nhiệm ký sinh.docxddddddddddddddddd
trắc nhiệm ký sinh.docxddddddddddddddddd
my21xn0084
 
LỊCH SỬ 12 - CHUYÊN ĐỀ 10 - TRẮC NGHIỆM.pptx
LỊCH SỬ 12 - CHUYÊN ĐỀ 10 - TRẮC NGHIỆM.pptxLỊCH SỬ 12 - CHUYÊN ĐỀ 10 - TRẮC NGHIỆM.pptx
LỊCH SỬ 12 - CHUYÊN ĐỀ 10 - TRẮC NGHIỆM.pptx
12D241NguynPhmMaiTra
 
Smartbiz_He thong MES nganh may mac_2024june
Smartbiz_He thong MES nganh may mac_2024juneSmartbiz_He thong MES nganh may mac_2024june
Smartbiz_He thong MES nganh may mac_2024june
SmartBiz
 
BÀI TẬP BỔ TRỢ TIẾNG ANH I-LEARN SMART WORLD 9 CẢ NĂM CÓ TEST THEO UNIT NĂM H...
BÀI TẬP BỔ TRỢ TIẾNG ANH I-LEARN SMART WORLD 9 CẢ NĂM CÓ TEST THEO UNIT NĂM H...BÀI TẬP BỔ TRỢ TIẾNG ANH I-LEARN SMART WORLD 9 CẢ NĂM CÓ TEST THEO UNIT NĂM H...
BÀI TẬP BỔ TRỢ TIẾNG ANH I-LEARN SMART WORLD 9 CẢ NĂM CÓ TEST THEO UNIT NĂM H...
Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (18)

insulin cho benh nhan nam vien co tang duong huyet
insulin cho benh nhan nam vien co tang duong huyetinsulin cho benh nhan nam vien co tang duong huyet
insulin cho benh nhan nam vien co tang duong huyet
 
THONG BAO nop ho so xet tuyen TS6 24-25.pdf
THONG BAO nop ho so xet tuyen TS6 24-25.pdfTHONG BAO nop ho so xet tuyen TS6 24-25.pdf
THONG BAO nop ho so xet tuyen TS6 24-25.pdf
 
Cau-Trắc-Nghiệm-TTHCM-Tham-Khảo-THI-CUỐI-KI.pdf
Cau-Trắc-Nghiệm-TTHCM-Tham-Khảo-THI-CUỐI-KI.pdfCau-Trắc-Nghiệm-TTHCM-Tham-Khảo-THI-CUỐI-KI.pdf
Cau-Trắc-Nghiệm-TTHCM-Tham-Khảo-THI-CUỐI-KI.pdf
 
FSSC 22000 version 6_Seminar_FINAL end.pptx
FSSC 22000 version 6_Seminar_FINAL end.pptxFSSC 22000 version 6_Seminar_FINAL end.pptx
FSSC 22000 version 6_Seminar_FINAL end.pptx
 
CHUYÊN ĐỀ DẠY THÊM HÓA HỌC LỚP 10 - SÁCH MỚI - FORM BÀI TẬP 2025 (DÙNG CHUNG ...
CHUYÊN ĐỀ DẠY THÊM HÓA HỌC LỚP 10 - SÁCH MỚI - FORM BÀI TẬP 2025 (DÙNG CHUNG ...CHUYÊN ĐỀ DẠY THÊM HÓA HỌC LỚP 10 - SÁCH MỚI - FORM BÀI TẬP 2025 (DÙNG CHUNG ...
CHUYÊN ĐỀ DẠY THÊM HÓA HỌC LỚP 10 - SÁCH MỚI - FORM BÀI TẬP 2025 (DÙNG CHUNG ...
 
40 câu hỏi - đáp Bộ luật dân sự năm 2015 (1).doc
40 câu hỏi - đáp Bộ  luật dân sự năm  2015 (1).doc40 câu hỏi - đáp Bộ  luật dân sự năm  2015 (1).doc
40 câu hỏi - đáp Bộ luật dân sự năm 2015 (1).doc
 
100 DẪN CHỨNG NGHỊ LUẬN XÃ HỘiI HAY.docx
100 DẪN CHỨNG NGHỊ LUẬN XÃ HỘiI HAY.docx100 DẪN CHỨNG NGHỊ LUẬN XÃ HỘiI HAY.docx
100 DẪN CHỨNG NGHỊ LUẬN XÃ HỘiI HAY.docx
 
PLĐC-chương 1 (1).ppt của trường ĐH Ngoại thương
PLĐC-chương 1 (1).ppt của trường  ĐH Ngoại thươngPLĐC-chương 1 (1).ppt của trường  ĐH Ngoại thương
PLĐC-chương 1 (1).ppt của trường ĐH Ngoại thương
 
BÁO CÁO CUỐI KỲ PHÂN TÍCH THIẾT KẾ HƯỚNG ĐỐI TƯỢNG - NHÓM 7.docx
BÁO CÁO CUỐI KỲ PHÂN TÍCH THIẾT KẾ HƯỚNG ĐỐI TƯỢNG - NHÓM 7.docxBÁO CÁO CUỐI KỲ PHÂN TÍCH THIẾT KẾ HƯỚNG ĐỐI TƯỢNG - NHÓM 7.docx
BÁO CÁO CUỐI KỲ PHÂN TÍCH THIẾT KẾ HƯỚNG ĐỐI TƯỢNG - NHÓM 7.docx
 
SLIDE BÀI GIẢNG MÔN THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ.pdf
SLIDE BÀI GIẢNG MÔN THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ.pdfSLIDE BÀI GIẢNG MÔN THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ.pdf
SLIDE BÀI GIẢNG MÔN THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ.pdf
 
Biểu tượng trăng và bầu trời trong tác phẩm của Nguyễn Quang Thiều
Biểu tượng trăng và bầu trời trong tác phẩm của Nguyễn Quang ThiềuBiểu tượng trăng và bầu trời trong tác phẩm của Nguyễn Quang Thiều
Biểu tượng trăng và bầu trời trong tác phẩm của Nguyễn Quang Thiều
 
Halloween vocabulary for kids in primary school
Halloween vocabulary for kids in primary schoolHalloween vocabulary for kids in primary school
Halloween vocabulary for kids in primary school
 
Văn 7. Truyện ngụ ngôn Rùa và thỏ+ Viết PT nhân vật.docx
Văn 7. Truyện ngụ ngôn Rùa và thỏ+ Viết PT nhân vật.docxVăn 7. Truyện ngụ ngôn Rùa và thỏ+ Viết PT nhân vật.docx
Văn 7. Truyện ngụ ngôn Rùa và thỏ+ Viết PT nhân vật.docx
 
Giải phẫu tim sau đại học- LÊ QUANG TUYỀN
Giải phẫu tim sau đại học- LÊ QUANG TUYỀNGiải phẫu tim sau đại học- LÊ QUANG TUYỀN
Giải phẫu tim sau đại học- LÊ QUANG TUYỀN
 
trắc nhiệm ký sinh.docxddddddddddddddddd
trắc nhiệm ký sinh.docxdddddddddddddddddtrắc nhiệm ký sinh.docxddddddddddddddddd
trắc nhiệm ký sinh.docxddddddddddddddddd
 
LỊCH SỬ 12 - CHUYÊN ĐỀ 10 - TRẮC NGHIỆM.pptx
LỊCH SỬ 12 - CHUYÊN ĐỀ 10 - TRẮC NGHIỆM.pptxLỊCH SỬ 12 - CHUYÊN ĐỀ 10 - TRẮC NGHIỆM.pptx
LỊCH SỬ 12 - CHUYÊN ĐỀ 10 - TRẮC NGHIỆM.pptx
 
Smartbiz_He thong MES nganh may mac_2024june
Smartbiz_He thong MES nganh may mac_2024juneSmartbiz_He thong MES nganh may mac_2024june
Smartbiz_He thong MES nganh may mac_2024june
 
BÀI TẬP BỔ TRỢ TIẾNG ANH I-LEARN SMART WORLD 9 CẢ NĂM CÓ TEST THEO UNIT NĂM H...
BÀI TẬP BỔ TRỢ TIẾNG ANH I-LEARN SMART WORLD 9 CẢ NĂM CÓ TEST THEO UNIT NĂM H...BÀI TẬP BỔ TRỢ TIẾNG ANH I-LEARN SMART WORLD 9 CẢ NĂM CÓ TEST THEO UNIT NĂM H...
BÀI TẬP BỔ TRỢ TIẾNG ANH I-LEARN SMART WORLD 9 CẢ NĂM CÓ TEST THEO UNIT NĂM H...
 

Tinh than nhan van trong tho Thien Tue Trung.pdf

  • 1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Đỗ Thị Vân Oanh TINH THẦN NHÂN VĂN TRONG THƠ THIỀN TUỆ TRUNG LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN Thành phố Hồ Chí Minh - 2013
  • 2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Đỗ Thị Vân Oanh TINH THẦN NHÂN VĂN TRONG THƠ THIỀN TUỆ TRUNG Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM Mã số: 60 22 01 21 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS ĐOÀN THỊ THU VÂN Thành phố Hồ Chí Minh - 2013
  • 3. 1 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của bản thân, chưa từng được công bố từ trước đến nay. Tất cả số liệu sử dụng đều do người viết tự thông kê, tổng hợp, không sao chép lại từ thành quả của người đi trước. Người viết luận văn Đỗ Thị Vân Oanh
  • 4. 2 MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................ 1 MỤC LỤC .................................................................................................................... 2 MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 4 1. Lí do chọn đề tài..............................................................................................................4 2. Lịch sử vấn đề .................................................................................................................5 3. Phương pháp nghiên cứu.............................................................................................13 4. Đối tượng, mục đích nghiên cứu .................................................................................13 5. Đóng góp của đề tài ......................................................................................................13 6. Kết cấu đề tài.................................................................................................................14 CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG.............................................................. 15 1.1. Khái niệm nhân văn và những biểu hiện của tinh thần nhân văn trong văn học ............................................................................................................................................15 1.1.1. Khái niệm nhân văn ..............................................................................................15 1.1.2. Những biểu hiện của tinh thần nhân văn trong văn học .......................................19 1.2. Thời đại Lý – Trần và thơ Thiền Tuệ Trung..........................................................25 1.2.1. Thời đại Lý – Trần và Phật giáo Thiền tông thời Lý Trần ...................................25 1.2.2. Tuệ Trung và thơ Thiền Tuệ Trung trong văn học Lý – Trần..............................30 CHƯƠNG 2: NỘI DUNG TINH THẦN NHÂN VĂN TRONG THƠ THIỀN TUỆ TRUNG ............................................................................................................. 35 2.1. Nhân văn trong quan niệm về cuộc đời và con người............................................35 2.1.1. Thấu suốt lẽ “vô thường”......................................................................................35 2.1.2. Thấu thị tinh thần “vong nhị kiến” .......................................................................40 2.1.3. Tự tin, tự lực để “kiến tánh thành Phật”...............................................................44 2.2. Nhân văn trong cách ứng xử và hành động ............................................................49 2.2.1. Phá chấp để đạt đến tự do, an lạc cho tâm hồn.....................................................49 2.2.2. Hòa quang đồng trần để đem đạo đến cho đời .....................................................56 2.2.3. Tùy duyên, linh hoạt để sống hợp lẽ và hành động có ích, có hiệu quả...............62 2.2.4. Tận tâm trong sự dẫn dắt, khai ngộ cho mọi người..............................................67 CHƯƠNG 3: NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN TINH THẦN NHÂN VĂN TRONG THƠ THIỀN TUỆ TRUNG...................................................................................... 75 3.1. Ngôn ngữ.....................................................................................................................75 3.1.1. Ngôn ngữ có sức biểu cảm mạnh:.........................................................................75 3.1.2. Ngôn ngữ tượng trưng, ẩn dụ................................................................................79
  • 5. 3 3.1.3. Ngôn ngữ phi logic : .............................................................................................84 3.2. Thể thơ........................................................................................................................88 3.2.1. Thể Đường luật.....................................................................................................88 3.2.2. Thể cổ phong ........................................................................................................93 3.3. Giọng điệu...................................................................................................................98 3.3.1. Giọng thuyết giảng hùng biện, sắc sảo .................................................................98 3.3.2. Giọng tự tình tự do, phóng khoáng.....................................................................102 3.3.3. Giọng trào lộng hóm hỉnh, ý nhị.........................................................................105 KẾT LUẬN .............................................................................................................. 111 TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 113 PHỤ LỤC ................................................................................................................. 117
  • 6. 4 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Trong giới Thiền học Việt Nam, Tuệ Trung Thượng Sĩ không phải là một cái tên quá xa lạ. Ở các thiền viện, những bài thơ thiền và ngữ lục của Tuệ Trung được giảng dạy như một giáo lý, một phương pháp thực hành thiền tập đem lại lợi ích thiết thực cho người học đạo. Với các nhà nghiên cứu văn học, nhất là văn học Phật giáo Việt Nam, tác phẩm thơ Tuệ Trung mở ra cả một thế giới vừa mênh mông phóng khoáng, vừa thâm sâu vi diệu. Các tác phẩm của Tuệ Trung, bất luận được lý giải ở phương diện nào, đều có những điểm thú vị và giá trị đặc biệt riêng. Xem Tuệ Trung là một tác giả văn học trung đại cũng đúng, mà xem Tuệ Trung là một nhà Thiền học cũng không sai. Do vậy, vấn đề đặt ra là, cần nghiên cứu tác phẩm thơ Thiền Tuệ Trung từ góc nhìn nào cho thật sự toàn vẹn và đầy đủ? Nếu chỉ nhìn ở góc độ văn chương thuần túy, vô tình chúng ta sẽ làm giảm đi một phần không nhỏ chiều sâu triết lý của tác phẩm – điều mà chỉ có thể dùng đến quan điểm Phật giáo để giải thích. Ngược lại, nếu chỉ đặt thơ Thiền Tuệ Trung trong cái nhìn của Thiền tông thuần túy sẽ làm cho tác phẩm mang nặng yếu tố triết thuyết, kinh viện – trong khi thơ Thiền Tuệ Trung vốn rất thiết thực, rất đời. Xuất phát từ vấn đề trên, luận văn mong muốn đưa ra một cách nhìn nhận mới về thơ Thiền Tuệ Trung: đánh giá thơ Thiền Tuệ Trung trong sự giao thoa giữa “đạo” và “đời”, giữa triết lý Thiền học và văn chương. Cách nghiên cứu này có thể cung cấp cho người đọc một cái nhìn toàn vẹn hơn về Tuệ Trung - một tác giả khá đặc biệt của văn học trung đại Việt Nam và thiền phong Tuệ Trung – đạo thiền của những con người “biết sống” đúng nghĩa nhất. Nó sẽ giúp chúng ta lý giải phần nào về con người và thời đại Lý – Trần, một thời đại hoàng kim “có một không hai” trong lịch sử Việt Nam. Văn học Việt Nam đã đi qua nhiều chặng đường dài. Mỗi một chặng đường văn học có một diện mạo riêng. Tuy nhiên, có những chuẩn giá trị tương đối thống nhất, là yêu cầu chung của mọi thời đại: Tinh thần nhân văn, nhân đạo và khả năng bao quát, phản ánh hiện thực đời sống. Một tác phẩm văn học chỉ thật sự “sống” được khi nó chứa đựng được các giá trị ấy – giá trị căn bản và cần thiết nhất của văn chương. Vì vậy, chúng tôi chọn đề tài: TINH THẦN NHÂN VĂN TRONG THƠ THIỀN TUỆ TRUNG. Nói đến TINH THẦN NHÂN VĂN là nói đến điểm nhìn của văn chương, của cuộc đời. Còn nói đến THƠ THIỀN là nói đến quan điểm của giáo lý Thiền tông. Theo chúng tôi, giá trị của thơ Thiền Tuệ
  • 7. 5 Trung không chỉ dừng lại trong giới hạn của văn chương trung đại hay thiền học Phật giáo, mà trước hết và trên tất cả, đó là một “cách sống đúng chuẩn”, là “cảnh giới tâm linh” mà con người mong muốn đạt tới. Như vậy, đi vào đề tài này, chúng tôi sẽ đưa ra một cách lý giải dựa trên điểm nhìn “giao thoa” giữa văn học của đời sống và triết lý của Thiền tông; để từ đó khẳng định giá trị của thơ Thiền Tuệ Trung về mặt lý thuyết nghiên cứu văn học Phật giáo và cả thực tiễn thiền tập để đem lại cho con người một đời sống thật sự bình an và hỷ lạc. 2. Lịch sử vấn đề Bàn về thơ Thiền Tuệ Trung Thượng Sĩ, từ trước đến nay từng có không ít các bài viết, công trình nghiên cứu. Trong đó, các tác giả thường đi vào lý giải về một khía cạnh, một vấn đề nào đó trong tác phẩm của Tuệ Trung. Có thể thấy thiên hướng rõ rệt khi tìm hiểu về thơ Thiền Tuệ Trung ở các công trình này là đi vào nghiên cứu và lý giải thơ Thiền Tuệ Trung gắn liền với giáo lý Thiền tông thuần túy. Điều này đã góp phần không nhỏ trong việc khẳng định vị trí của Tuệ Trung trong giới Thiền tông Việt Nam như một bậc thiền sư đã qua trải nghiệm và thực chứng tâm linh. Tuy nhiên, nghiên cứu thơ Thiền Tuệ Trung một cách tập trung, độc lập và có hệ thống thì đến nay hầu như vẫn chưa có một công trình cụ thể nào. Để thuận tiện trong việc theo dõi, chúng tôi thống nhất cách sắp xếp các công trình, bài nghiên cứu về thơ Thiền Tuệ Trung hoặc có liên quan đến thơ Thiền Tuệ Trung theo hai hướng: Hướng thứ nhất là các công trình, bài nghiên cứu mang tính khái quát về thơ Thiền Tuệ Trung. Hướng thứ hai là các công trình trực tiếp, tập trung nghiên cứu về một tác phẩm hoặc một vấn đề cụ thể trong thơ Thiền Tuệ Trung. * Ở định hướng nghiên cứu thứ nhất, có thể kể đến các công trình sau: - Thơ Thiền Việt Nam – Những vấn đề lịch sử và tư tưởng nghệ thuật của tác giả Nguyễn Phạm Hùng (1998). Chuyên luận chia thành 2 phần: Phần 1 - Thơ ca Phật giáo Việt Nam, những vấn đề lịch sử và tư tưởng nghệ thuật; Phần 2 – Tuyển tập thơ Thiền Việt Nam. Trong phần 1, chương V, khi đề cập đến Thơ Thiền đời Trần, tác giả chọn Tuệ Trung Thượng Sĩ Trần Tung là một trong các tác giả tiêu biểu của thơ Thiền đời Trần. Nhà nghiên cứu Nguyễn Phạm Hùng đã đưa ra những nhận xét khá xác đáng và thú vị về thơ Thiền Tuệ Trung:
  • 8. 6 + “Cái độc đáo của nội dung thơ Thiền Trần Tung là ở tư tưởng “phóng cuồng” hết sức mãnh liệt. Cái độc đáo của hình thức thơ Thiền Trần Tung là sự mở rộng các biện pháp biểu hiện, từ thơ tới ca. Ca từ bằng chữ Hán của Trần Tung khó có tác gia Thiền nào sánh kịp” [11; tr152] + “Thơ ông diễn tả tâm trạng phóng túng và say sưa của con người học đạo và hành đạo đã đạt tới sự giác ngộ, giải thoát, tự do, tự tại, khi con người vượt lên trên sự sống chết, mất còn, khi đạt tới sự “vô phân biệt” giữa phàm thánh, tăng tục, khi con người không còn nệ vào trì giới, nhẫn nhục” [11; tr156]. - Tuệ Trung – Thượng sĩ, Nhân sĩ, Thi sĩ của Nguyễn Duy Hinh (1998). Công trình chia thành 3 chương: Chương 1: Tuệ Trung - nhân sĩ, nhằm xác định vị trí nhân vật trong lịch sử đất nước và lịch sử Thiền tông Chương 2: Tuệ Trung – thượng sĩ, tập trung minh họa, lý giải một số vấn đề Thiền học mà Tuệ Trung đã đưa ra. Chương 3: Tuệ Trung – thi sĩ, nghiên cứu về tâm hồn và nghệ thuật thơ ca Tuệ Trung. Ở đây, chúng tôi chủ yếu quan tâm đến nội dung chương 2 và chương 3. Trong chương 2, sau khi đưa ra những luận giải, tác giả cho rằng Tuệ Trung đến với đạo Thiền là vì: “Đời không mãn nguyện quay sang Đạo” [8;tr162]. Theo tác giả, cái cơ sở của Tâm Tuệ Trung là: “Xuất phát từ thất bại không thỏa mãn được lòng ham muốn vinh hoa phú quý theo như tự đánh giá, Tuệ Trung nhận thấy đời như mộng, phú quý như phù vân và thoát thế tiêu dao. Đó là tư tưởng Vô Vi và Tiêu Dao của Lão Tử và Trang Tử diễn đạt trong Đạo Đức Kinh và Trang Tử (tức Nam Hoa Kinh) (….) Nếu Phật Tâm là cơ sở thì Tuệ Trung đã xuất gia. Nhưng vì Vô Vi và Tiêu Dao là cơ tầng Tâm Tuệ Trung cho nên ông thả chiếc thuyền con trên mặt nước mênh mông ngắm hoa nở, nghe chim hót” [10; tr163] Ở chương 3, khi nghiên cứu về thơ Thiền Tuệ Trung, tác giả chia 49 bài thơ của Tuệ Trung thành 2 nhóm: Thơ Thiền lý (20 bài) và thơ Thiền ý (29 bài). Theo Nguyễn Duy Hinh: “Con đường thơ ca của Tuệ Trung xuất phát tự tâm sự bất đắc chí của một quý tộc tự đánh giá mình cao hơn triều đình đánh giá (…) Tuệ Trung là một nhân sĩ quý tộc, một thượng sĩ hạng trí giả, một nhà thơ thiền mà chất Lão Trang đậm đà trong hình tượng thơ ca. Tuệ
  • 9. 7 Trung không phải thi tăng, là nhà thơ thiền duy nhất của nước Việt Nam. Không một nhà thơ thiền nào kể cả thi tăng có nhiều bài thơ thiền như ông (….) Thơ Thiền Tuệ Trung thoát tục mà không xuất thế. Cuồng mà không say” [8; tr 250 – 254] - Luận án Tiến sĩ Ngữ Văn của tác giả Trần Lý Trai với đề tài Giá trị văn học trong tác phẩm của Thiền phái Trúc Lâm (2008): Trong công trình này, tác giả tập trung làm rõ những giá trị về nội dung tư tưởng và hình thức biểu hiện của các tác phẩm trong thiền phái Trúc Lâm, trong đó có Tuệ Trung Thượng Sĩ. - Bài viết Cảm hứng giải thoát trong thơ Vương Duy và Tuệ Trung Thượng Sĩ của tác giả Lê Thị Thanh Tâm với có đề cập đến cảm hứng giải thoát của thơ Thiền Tuệ Trung trong khi so sánh thơ Vương Duy và Tuệ Trung. Tác giả cho rằng thơ Thiền Tuệ Trung mang đậm thiền lực, còn thơ Thiền Vương Duy mang mang đậm thiền vị. Sau khi phân tích, khảo sát một số bài thơ tiêu biểu của Vương Duy và Tuệ Trung, tác giả kết luận rằng: “Thế giới thơ ca Vương Duy phản ánh rõ nét cốt cách và tầm vóc của ông. Nhìn từ góc độ cảm hứng giải thoát, chúng tôi nhận thấy: thơ ông chứa đựng không gian thiên nhiên có màu sắc nội tâm u huyền, cảm thức vũ trụ mang nội dung mỹ cảm thiền tông, yếu tố “nhàn tĩnh” trong con người nhàn và thơ có giọng than. Đây là những yếu tố rất tương hợp và thống nhất với cốt cách tài hoa, tài tử của ông, mang rõ những ảnh hưởng văn hóa mỹ học của thời thịnh Đường mà ông là một trong những đại diện tiêu biểu nhất. Thế giới thơ ca Tuệ Trung lại mang âm hưởng “học phong Đông A” – nền học phong đặc thù của một giai đoạn lịch sử rực rỡ nhất thời trung đại. Đó là khuynh hướng duy tình trong triết luận, nhưng lại đặt trọng tâm vào sự thể hiện đạo học, trí tuệ giải thoát vào thơ. Sáng tác của ông mang nội dung thiền lực cao sâu, đi kèm với giọng thuyết giáo, làm nên một chân dung đặc sắc của một nhân cách lớn về đạo lẫn ở đời”[tài liệu trên internet]. - Quyển Những sáng tác văn học của các thiền sư thời Lý – Trần (2010) của tác giả Thích Giác Toàn trong chương 2 – Những sáng tác văn học của các thiền sư thời Lý – Trần đã đi vào luận giải , chứng minh tinh thần nhân bản trong sáng tác của các thiền sư qua bốn mối liên hệ chính: 1. Sự hiện hữu của con người và sự cảm nhận về thân phận con người trong cuộc sống; 2. Những bài ca về sự sống và cái chết của con người; 3. Sự cảm nhận của con người trước cảnh sắc thiên nhiên; 4. Con người quay về với chính mình hay một định hướng sống hiền đẹp. Trong quá trình phân tích, lý giải các vấn đề đặt ra, tác giả đã sử dụng một số bài thơ Thiền của Tuệ Trung Thượng Sĩ để làm dẫn chứng minh họa cho
  • 10. 8 luận điểm thứ 2, đồng thời đưa ra nhận định về Tuệ Trung: “Mỗi hành động của Tuệ Trung Thượng Sĩ là một phong cách hiển lộ nhằm khai thị cho học nhơn một cái nhìn mới liễu ngộ cảnh trí Phật pháp. Mỗi bài thơ, bài kệ của Tuệ Trung Thượng Sĩ là những ngôn ngữ thơ ca mang tính đặc thù của Thiền tông là nhằm chỉ thẳng tâm người, làm cho người bừng tỉnh trước những vọng duyên sở chấp, tự chứng, tự mãn trên đường tu tập” [42; tr120]. Công trình này đã khẳng định cho chúng ta thấy phần nào những đóng góp của mảng văn học Phật giáo, nhất là Phật giáo Thiền tông đối với nền văn học nước nhà và thực tiễn đời sống của con người. Tuy nhiên, có lẽ, vì là một tu sĩ, nên điểm nhìn trọng tâm của tác giả trước sau vẫn thiên về giáo lý nhà Phật hơn là văn chương trần thế. Do vậy, công trình không chú trọng đi sâu nghiên cứu về hình thức biểu hiện trong các tác phẩm thơ Thiền. Tức là, tác giả chỉ dừng lại ở khía cạnh nội dung những sáng tác thiền học của các thiền sư thời Lý – Trần mà chưa quan tâm nhiều đến phương diện nghệ thuật thể hiện nội dung ấy. - Quyển Về con người cá nhân trong văn học cổ Việt Nam của các tác giả Nguyễn Hữu Sơn – Trần Đình Sử - Huyền Giang – Trần Ngọc Vương – Trần Nho Thìn – Đoàn Thị Thu Vân (NXB Giáo dục, 2010), ở chương 3 – Vấn đề con người trong văn học thời đại Lý Trần có đề cập đến hình tượng con người trong thơ Thiền Tuệ Trung: “Đó là con người “dĩ bất biến ứng vạn biến”, làm chủ trong mọi biến ảo. Có thể nói đó là con người tự do nhưng tự do hướng nội, tự do vứt bỏ tất cả để tạo lập một thế giới riêng” [29; tr 163] * Ở định hướng nghiên cứu thứ hai, trước tiên phải kể đến bài viết của tác giả Nguyễn Huệ Chi: Trần Tung – Một gương mặt lạ trong làng thơ Thiền thời Lý – Trần đăng trên Tạp chí Văn học số 4 năm 1977, tr 116. Trong bài viết này, ngoài việc minh định lại thân thế của Tuệ Trung Thượng Sĩ, tác giả tập trung phân tích, lý giải những nét “lạ” trong sáng tác thơ ca của Thượng Sĩ: “Vả chăng, Trần Tung lại là nhà Thiền học vào hàng đặc biệt, người không chịu rời bỏ cuộc sống thế tục lấy một ngày nào. Vì thế, việc trộn lẫn giữa Thiền và tục và Thiền trong tục trong thơ ông biết đâu lại chẳng là điều kiện của sự thăng hoa, giúp ông đạt đến những sáng tạo đặc sắc, đánh dấu một cấp độ thẩm mĩ mới của thơ ca thời đại này” Bên cạnh đó, có thể kể đến các bài nghiên cứu trong quyển Tuệ Trung Thượng Sĩ với Thiền tông Việt Nam do Viện Khoa học xã hội – Trung tâm nghiên cứu Hán Nôm biên soạn (Nhà xuất bản Đà Nẵng xuất bản năm 2000 và tái bản năm 2011). Trong số 33 bài
  • 11. 9 nghiên cứu, có 10 bài trực tiếp đề cập đến thơ Thiền Tuệ Trung, 01 bài đề cập đến tính nhân văn trong trong thơ Thiền. - Trong bài “Tính nhân văn nơi các thiền sư tiêu biểu của Phật giáo Trúc Lâm đời Trần”, tác giả Thích Giác Toàn chỉ ra tính nhân văn nơi các thiền sư biểu hiện chủ yếu qua cách sống, cách hành xử đối với con người và cuộc đời. Với Tuệ Trung, tính nhân văn ấy gắn với tư tưởng “hòa quang đồng trần”, tư tưởng “bất nhị” hay “quay về chính mình”. - Trong bài viết “Tuệ Trung Thượng Sĩ – con mắt thông tuệ rừng thiền ba phía”, tác giả Nguyễn Văn Hồng nhận xét về triết thuyết và con người Tuệ Trung Thượng Sĩ: “Không xa lánh cuộc sống, nhập thế để xuất thế, sống để hiểu cuộc sống. Tuệ Trung Thượng Sĩ tham gia vào việc giữ gìn sáng tạo và nhận biết giải thích cuộc sống. Toàn bộ triết thuyết của ông xuất phát từ Tâm muốn tìm một con đường để con người sống tốt hơn đẹp hơn, và như vậy quả thực ông đã như một nhà tư tưởng triết học mang đậm màu sắc riêng” [23;tr 100] - Với bài viết Tuệ Trung Thượng Sĩ và Phật giáo thiền tông, tác giả Lê Văn Sáu tập trung tìm hiểu về những nét đặc sắc, độc đáo trong tư tưởng Thiền của Tuệ Trung về mặt bản thể luận. Ông cho rằng: “Quan niệm Thiền của cư sĩ rất độc đáo, sống hết mình theo quy luật, theo Tâm, không cần ai, không cầu cạnh ai, đó là Thiền rồi (…). Tiếp cận với những tác phẩm của Tuệ Trung, chúng ta có thể cho rằng nhà cư sĩ uyên thâm này đã sớm đi từ những luận điểm của Thiền tông đặt ra và giải đáp những vấn đề cơ bản của triết học trên cơ sở bản thể luận và nhận thức luận dưới dạng độc đáo của môn phái Thiền tông”. [23; tr112] - Với Tuệ Trung Thượng Sĩ – Một khuôn mặt đặc biệt của thiền tông đời Trần, ngay từ những dòng đầu tiên, tác giả Huỳnh Công Bá đã đánh giá rất cao vị trí, vai trò của Tuệ Trung Thượng Sĩ: “Trong giới Thiền học đời Trần, Tuệ Trung Thượng Sĩ là một khuôn mặt khá đặc biệt. Đạo học của Thượng Sĩ rất uyên thâm và hành trạng của Thượng Sĩ có nhiều độc đáo. Thượng Sĩ là ngọn đuốc sáng nhất của Thiền học đời Trần.” [23; tr57]. Trong bài nghiên cứu này, tác giả tập trung tìm hiểu về Thượng Sĩ trên hai bình diện là tư tưởng và hành động với những lí giải khá thú vị và sâu sắc. - Cùng đi vào tìm hiểu về Thiền phong của Thượng Sĩ, tác giả Tống Hồ Cầm với Thiền lực của Tuệ Trung Thượng Sĩ là sức sống tâm linh rất mãnh liệt lại chú ý đến “tinh thần phá chấp triệt để” của Tuệ Trung, xem đây là nét đặc biệt của tư tưởng Thiền
  • 12. 10 Tuệ Trung. Trong bài viết, tác giả đã phân tích, lí giải những biểu hiện của “tinh thần phá chấp triệt để” trong thơ Thượng Sĩ, đó là: đập phá thái độ bám víu vào khái niệm và đập phá về quan niệm lưỡng nguyên giữa thiện ác, mê ngộ, sanh tử, có không, thánh phàm… Cuối cùng, tác giả đi đến kết luận: “Tinh thần phá chấp của Tuệ Trung có thể nói giống như tinh thần phá chấp của Lục Tổ Huệ Năng là chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật, lột bỏ những kiến chấp, khái niệm mơ hồ qua ngôn ngữ văn tự (…). Tuệ Trung sống hòa quang đồng trần là để đưa đạo vào đời, nên đối với ông hình thức tại gia, xuất gia không quan trọng. Vì vậy, tư tưởng Thiền của ông toát ra một sức sống tâm linh có mãnh lực khai mở cửa tự ngộ cho người khác” [23; tr 105-106] - Trong bài Pháp môn bất nhị - tư tưởng thiền trong Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục tác giả Thích Thanh Kiểm đi vào phân tích, luận giải về “pháp môn bất nhị” của Thiền tông thông qua một số “công án” Thiền trong Kinh Phật, một vài đoạn trong phần “Tụng cổ” của Tuệ Trung Thượng Sĩ ngữ lục” và 2 bài thơ của Thượng Sĩ. Từ đây, tác giả giúp cho chúng ta hiểu thêm một phần quan trọng trong tư tưởng Thiền Tuệ Trung: quan niệm về sự bình đẳng, vô sai biệt. - Với Tư tưởng Thiền học của Tuệ Trung Thượng Sĩ tác giả Thích Phước Sơn đã chỉ ra 5 điểm then chốt trong tư tưởng Thiền học của Tuệ Trung Thượng Sĩ là: 1. Quán triệt lẽ vô thường của môn pháp; 2. Vạn pháp do tâm tạo; 3. Cổ vũ tinh thần tự lực; 4. Phá bỏ quan niệm lưỡng cực; 5. Tự tại giải thoát. Và, tác giả kết luận rằng: “Tuy nhiên, con người của ông rất đa dạng, ngoài phong thái siêu quần, hành vi thoát tục, Tuệ Trung lại có tài văn chương, diễn tả tư tưởng rất độc đáo, sắc sảo, mạnh mẽ và trực tiếp. Ông không những là một nhà tư tưởng lớn mà còn là một thi sĩ tài hoa, hình như đây là một hiện tượng đặc thù và hi hữu trong thiền sử Phật giáo.” [23; tr175] - Khác với phần lớn những bài nghiên cứu về Tuệ Trung Thượng Sĩ, trong Tuệ Trung Thượng Sĩ – kẻ rong chơi giữa sống và chết tác giả Thích Phước An không đi vào luận giải về tư tưởng Thiền học của Tuệ Trung mà chỉ điểm qua và bình luận về 11 bài thơ khá tiêu biểu của Thượng Sĩ là: Dưỡng chân, Giang hồ tự thích, Chiếu thân, Thị học, Ngẫu tác, Thoát thế, Đề tịnh xá, Trụ trượng tử, Thị đồ, Tự đề, An định thời tiết. Bên cạnh đó, tác giả còn điểm qua hành tung đặc biệt của Thượng Sĩ trong lịch sử, từ đó cho thấy tâm thế của một bậc xuất trần thượng sĩ, an nhiên rong chơi giữa sống chết, thành bại, được mất của cuộc đời. Theo Thích Phước An, hành trình rong chơi của Thượng Sĩ là hành trình đi tìm và
  • 13. 11 thưởng ngoạn cái đẹp của đời, và: “Tuệ Trung Thượng sĩ khuyên ta nên trở về tìm kiếm cái đẹp ngay bên trong, chứ đừng tìm bên ngoài. Nếu ngày nào đó ta vẫn cứ tiếp tục lang thang tìm kiếm bên ngoài, thì ngày đó ta vẫn chỉ gặp toàn thất vọng và đau khổ mà thôi” [23; tr181] - Trong Chất thiền Đại Việt trong thơ Tuệ Trung Thượng Sĩ, Nguyễn Thị Thanh Xuân đưa người đọc vào thế giới thơ Thiền Tuệ Trung với những cảm xúc, suy tư của Tuệ Trung đối với hiện thực cuộc sống trong đó có giáo lý Thiền. Theo tác giả, “thơ Tuệ Trung bay bổng cùng đất trời và hòa cùng tâm hồn Đại Việt đang phơi phới vươn lên tự khẳng định mình” [23; tr220]. Cuối cùng, Nguyễn Thị Thanh Xuân kết luận: “Chất Thiền Đại Việt trong thơ Tuệ Trung là tâm hồn ông, trí tuệ ông và hành động của ông. Thơ ấy chính là Thiền. Thiền ấy chính là Tuệ Trung, chính là Đại Việt” [23; tr229] - Với Thiền ngữ trong thi ca của Tuệ Trung Thượng Sĩ, tác giả Thích Tuệ Đăng đưa ra kết luận: “Tuệ Trung đã sống với chính thực tại nhiệm màu, sống đời tự tại vượt ngoài động tĩnh, vượt ngoài đối đãi phân biệt, bóp nát ý thức, phá vỡ danh tướng… Bởi vậy, ngôn ngữ của Tuệ Trung là một thứ ngôn ngữ giác ngộ, tự nó vốn viên thành chẳng tìm ngoài mà được, cốt quay về tự tính làm hiển lộ cái “mười phương thế giới hiện toàn chân”. Đó chính là tinh thần nhân bản của đạo Phật vậy.”[23; tr246]. Nhận định này đã góp phần gợi mở cho chúng tôi thấy thêm được điểm “giao thoa” giữa tính nhân văn trong văn chương và tinh thần nhân bản của đạo Phật, cụ thể là Phật giáo Thiền tông. - Với Tuệ Trung Thượng Sĩ và Thiền phong đời Trần tác giả Đoàn Thị Thu Vân khẳng định giá trị đặc biệt, thiết thực của Thiền phong Tuệ Trung: “Đối với Tuệ Trung, Thiền không chỉ là một tôn giáo mà là một cách sống, một đạo sống đẹp giúp con người đạt đến một hạnh phúc đích thực nơi trần thế với sự tự do tự tại và hài hòa cùng vạn vật vũ trụ” [23; tr 14-15] Nhìn chung, ở các công trình nghiên cứu trong quyển Tuệ Trung Thượng Sĩ với Thiền tông Việt Nam, các tác giả đều tập trung lý giải về thiền phong đặc biệt của Tuệ Trung Thượng Sĩ. Hầu như các tác giả đều đồng nhất trong quan niệm về tư tưởng và lối sống Thiền của Tuệ Trung, đó là lối sống “siêu thoát nhưng không xa rời thực tại, tâm hồn bồng bềnh với trăng gió nước mây, nhưng hai chân vẫn trụ chắc trên mảnh đất quê hương” [23; tr228]
  • 14. 12 - Trong Những đóng góp của Tuệ Trung Thượng Sĩ cho thơ Thiền Việt Nam (luận văn thạc sĩ Ngữ Văn năm 2009), Trần Thị Thu Hiền đi vào tìm hiểu và chỉ ra những đóng góp về nội dung, tư tưởng và nghệ thuật của Tuệ Trung cho thơ Thiền Việt Nam. Ở đây, tác giả luận văn đã nắm bắt được những nội dung tư tưởng cốt lõi của Tuệ Trung Thượng Sĩ: tư tưởng tùy duyên, tinh thần phá chấp triệt để, tinh thần tự tin vào bản thân, tinh thần dung hợp Tam giáo. - Tác giả Thích Đức Thắng trong bài Con trâu đất – Một biểu tượng độc đáo của Tuệ Trung đã đi sâu phân tích và chỉ rõ cái hay, cái độc đáo của biểu tượng “con trâu đất” trong thơ Thiền Tuệ Trung. Theo tác giả, “con trâu đất” chính là một “công án thiền” mà Thượng Sĩ Tuệ Trung muốn đưa ra để khai ngộ cho người học Phật: “Tóm lại, ai muốn thấy được cái độc đáo trong con trâu đất của Tuệ Trung thì phải tham thấu lọt qua công án này mới mong thấy được BẢN LAI DIỆN MỤC của chính mình” [tài liệu trên internet] - Gần đây nhất, trong bài Tư tưởng nhập thế của Tuệ Trung qua bài “Phật Tâm ca” của tác giả Phước Tâm in trong quyển VĂN HỌC PHẬT GIÁO VỚI 1000 NĂM THĂNG LONG HÀ NỘI (do HT. Thích Giác Toàn và PGS.TS Trần Hữu Tá chủ biên, Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, 2010) một lần nữa khẳng định giá trị đích thực và tích cực của Thiền phong Tuệ Trung: “Chủ trương của cả bài thơ Phật tâm ca chính là đem việc tu thiền dung nhập vào đời sống hằng ngày. Ông cho rằng Phật pháp không thể tách rời thế gian. Sự tu tập pháp môn đốn ngộ mà ông khởi xướng không phải dùng các hình thức tu tập cố định như tọa thiền, tụng kinh, bái Phật… Giác ngộ với ông, phải là đạt được từ trong cuộc sống hiện thực này. Từ công việc, các thao tác, hành vi, cử chỉ, ánh mắt, nụ cười… trong cuộc sống mà đạt được trí tuệ” [40;tr 489] Qua các bài viết, các công trình nghiên cứu về Tuệ Trung và thơ Thiền Tuệ Trung, có thể thấy thiền học không phải là vấn đề thuần túy tôn giáo mà luôn gắn liền với thực tế đời sống. Thiền là một cách sống, một phương pháp sống đem lại lợi ích lớn lao cho người thực hành thiền tập. Do vậy, cần đặt giáo lý thiền vào dòng chảy của đời sống nói chung, văn chương nói riêng để thấy được giá trị tích cực và đích thực của nó. Dù chưa đi vào khai thác cụ thể vấn đề TINH THẦN NHÂN VĂN TRONG THƠ THIỀN TUỆ TRUNG, các công trình nghiên cứu trên đã cung cấp thêm cho chúng tôi một cái nhìn về giá trị của thơ Thiền nói chung, thơ Thiền Tuệ Trung nói riêng. Trên cơ sở ban đầu này, chúng tôi sẽ bắt tay tìm hiểu, luận giải thêm về thơ Thiền Tuệ Trung với mong
  • 15. 13 muốn góp thêm tiếng nói mới trong cách nhìn nhận, đánh giá về mảng văn học đặc biệt của dân tộc – văn học Phật giáo Thiền tông. 3. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp phân tích – tổng hợp được sử dụng trong quá trình nghiên cứu các đơn vị tác phẩm riêng rẽ, làm dẫn chứng minh họa cho các luận điểm trong bài nghiên cứu. Phương pháp này áp dụng tập trung ở chương 2 và 3 và là phương pháp chủ đạo, xuyên suốt trong luận văn của chúng tôi. Phương pháp hệ thống: Chúng tôi sử dụng phương pháp này để tổng hợp, khái quát vấn đề, đưa ra các luận điểm, định hướng triển khai vấn đề. Phương pháp so sánh: Nhằm mục đích làm nổi bật giá trị đặc biệt của thơ Thiền Tuệ Trung, chúng tôi sẽ tiến hành so sánh, đối chiếu thơ Thiền Tuệ Trung với một số bài thơ, nhà thơ trung đại khác. Phương pháp này cũng sẽ được sử dụng chủ yếu ở chương 2 và 3 Phương pháp liên ngành: Với mong muốn đi vào nghiên cứu thơ Thiền Tuệ Trung ở góc nhìn giao thoa giữa Thiền học và thơ ca, chúng tôi sẽ đặt các bài thơ Thiền, ngữ lục của Tuệ Trung trong nhiều mối quan hệ khác nhau (văn hóa, xã hội, tôn giáo) để xem xét, lý giải. Phương pháp này sẽ được áp dụng chủ yếu trong chương 2. 4. Đối tượng, mục đích nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Tinh thần nhân văn thể hiện trong thơ Thiền Tuệ Trung Ngữ liệu sử dụng nghiên cứu: - Các bài thơ của Tuệ Trung - 49 bài - “Tuệ Trung Thượng Sĩ ngữ lục” Mục đích nghiên cứu: Chỉ ra nội dung nhân văn trong thơ Thiền Tuệ Trung và nghệ thuật thể hiện tinh thần nhân văn của thơ Thiền Tuệ Trung, qua đó khẳng định giá trị của thơ Thiền Tuệ Trung trong nền văn học trung đại nói chung, văn học Phật giáo nói riêng. 5. Đóng góp của đề tài Như trên đã nói, khi lựa chọn đề tài, chúng tôi dựa trên cơ sở kết hợp nghiên cứu văn học và nghiên cứu giáo lý thiền học trong tác phẩm Tuệ Trung để đưa ra những đánh giá, luận giải và đi đến khẳng định giá trị đặc trưng của thơ thiền Tuệ Trung. Qua đó cho thấy
  • 16. 14 tác dụng tích cực, thiết thực của văn học và Thiền học đối với cuộc sống con người. Đó không phải là lý thuyết sách vở thuần túy, mà trước hết và trên tất cả đó là “phương pháp sống”, “phương pháp hành xử” cần có của con người trước cuộc đời - một xã hội hiện đại, đầy đủ đến dư thừa những nhu cầu hưởng thụ về vật chất hiện nay. Nghiên cứu vấn đề dựa trên điểm nhìn giao thoa “đạo – đời” chính là đóng góp mới mà luận văn hy vọng có thể đem đến cho người đọc. Chúng tôi mong muốn thông qua những kết quả khảo sát thuộc về “lý thuyết” của văn học và Thiền học có thể cung cấp cho người đọc một phần nhỏ phương pháp “thực hành” trên con đường trải nghiệm và kiếm tìm hạnh phúc đích thực và bền vững nhất giữa đời sống còn lắm bộn bề, xáo động hiện nay. Chúng tôi cho rằng giữa văn học và Thiền học luôn có những “điểm chung” nhất định. Và, “điểm chung” đầu tiên chính là con người cùng với thực tế đời sống xung quanh ta. Nó làm nên sự gặp gỡ thú vị giữa tinh thần nhân văn của văn học và quan niệm về từ bi, bình đẳng, bác ái của Phật giáo Thiền tông. Văn học trao cho con người sự cảm thông, chia sẻ giữa bộn bề cuộc sống trần gian, còn Thiền học đưa con người trở về với chân nguyên giá trị của bản thân và đồng loại trong mênh mông vũ trụ này. Nhờ vậy mà con người chúng ta sống tốt hơn, ý nghĩa hơn và bình an hơn. 6. Kết cấu đề tài Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG. Trong chương này, chúng tôi tập trung làm rõ những vấn đề mang tính lý luận cơ bản, làm nền tảng để triển khai và giải quyết những nội dung trọng tâm ở chương 2 và 3. Chương 2: NỘI DUNG TINH THẦN NHÂN VĂN TRONG THƠ THIỀN TUỆ TRUNG. Trong chương này, chúng tôi đi vào phân tích, lý giải những biểu hiện cụ thể của tinh thần nhân văn trong thơ Thiền Tuệ Trung trên cơ sở kết hợp hai điểm nhìn: tinh thần nhân văn trong văn học và quan điểm Phật giáo Thiền tông. Chương 3: NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN TINH THẦN NHÂN VĂN TRONG THƠ THIỀN TUỆ TRUNG. Với chương này, chúng tôi sẽ đi vào tìm hiểu các hình thức thể hiện nội dung nhân văn của thơ Thiền Tuệ Trung để thấy được nét đặc sắc, đặc trưng riêng của Tuệ Trung so với các tác giả cùng thời.
  • 17. 15 CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 1.1. Khái niệm nhân văn và những biểu hiện của tinh thần nhân văn trong văn học 1.1.1. Khái niệm nhân văn Trong nghiên cứu văn học, chúng ta thường bắt gặp không ít những cụm từ như chủ nghĩa nhân văn, tư tưởng nhân văn, chất nhân văn, tinh thần nhân văn…. Nhân văn là từ được sử dụng khá phổ biến trong chuyên ngành nghiên cứu văn học. Tuy nhiên, chúng ta lại ít khi quan tâm đến ý nghĩa đầy đủ của khái niệm “nhân văn”. Trong nhà trường phổ thông, đôi lúc chúng ta dùng “nhân văn” để thay thế cho khái niệm “nhân đạo” hay “nhân bản”. Xét về tổng thể, ba từ này có những tương đồng nhất định về nghĩa. Song, xét về ý nghĩa và phạm vi sử dụng, giữa chúng vẫn có sự khác biệt. Nhân văn vốn là một từ Hán – Việt. “Nhân” là người. “Văn” tức là vẻ đẹp. Vẻ đẹp ở đây được hiểu bao hàm cả vẻ đẹp bên trong lẫn bên ngoài. Do vậy, khái niệm “nhân văn” thường dùng để nói đến sự khẳng định, đề cao cái đẹp hay những giá trị đẹp đẽ của con người từ hình thể đến tâm hồn, nhân cách, tinh thần, ý chí, khát vọng, hoài bão,… Nói tới nhân văn là nói tới con người, khái niệm “nhân văn” xuất hiện khi xã hội loài người đã phát triển ở trình độ cao, gắn liền với thái độ, tư tưởng, tình cảm của con người đối với cuộc sống. Chính ý thức về giá trị của hạnh phúc, khát vọng hạnh phúc, mong muốn giải thoát khỏi mọi khổ đau, ước mơ về một xã hội tốt đẹp của con người là những nhân tố đầu tiên cho sự hình thành tinh thần nhân văn, tư tưởng nhân văn. Như vậy, khái niệm “nhân văn” được dùng để chỉ chung cho những giá trị tinh thần của nhân loại, xuất phát từ sự tôn trọng giá trị, nhân phẩm con người, lòng thương yêu con người, niềm tin vào năng lực và sức sáng tạo không cùng của con người. Từ đó, thuật ngữ “chủ nghĩa nhân văn” có thể hiểu theo nhiều cấp độ, khía cạnh khác nhau. Nhắc đến khái niệm “nhân văn”, không thể bỏ qua thuật ngữ “chủ nghĩa nhân văn” trong văn học. Từ điển thuật ngữ văn học (Lê Bá Hán – Trần Đình Sử chủ biên, NXBGD Hà Nội) định nghĩa “chủ nghĩa nhân văn” như sau: “Ở cấp độ thế giới quan, chủ nghĩa nhân văn là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm, tình cảm quý trọng các giá trị của con người như trí tuệ, tình cảm, phẩm giá, sức mạnh, vẻ đẹp. Chủ nghĩa nhân văn không phải là một khái niệm đạo đức đơn thuần mà còn bao hàm
  • 18. 16 cả cách nhìn nhận, đánh giá con người về nhiều mặt (vị trí, vai trò, khả năng, bản chất,…) trong các quan hệ với tự nhiên, xã hội và đồng loại. Ở cấp độ lịch sử, chủ nghĩa nhân văn là một trào lưu văn hóa – tư tưởng nảy sinh ở I-ta-li-a và một số nước khác ở Châu Âu thời Phục hưng (thế kỉ XIV – XVI). Những người khởi xướng trào lưu này chủ trương giải phóng văn học nghệ thuật nói riêng và văn hóa nói chung khỏi sự bảo trợ của nhà thờ Cơ Đốc giáo và giải phóng cá nhân con người. Họ quan niệm không phải thần linh mà là con người tự định đoạt lấy số phận của mình. Con người có khả năng vô tận để hoàn thiện môi trường của mình. Trong hoạt động văn hóa nghệ thuật, họ chủ trương đi sâu nghiên cứu những thành tựu rực rỡ giàu sức sống và vẻ đẹp hồn nhiên của văn hóa cổ đại Hy Lạp – La Mã đã bị quên lãng trong suốt thời Trung cổ, nhằm khôi phục những giá trị nhân văn của chúng. Họ hướng văn học nghệ thuật vào sự sáng tạo và ca ngợi cái đẹp trần thế, lành mạnh, tự nhiên, đề cao những khát vọng cao đẹp và niềm tin vào sức mạnh toàn năng của con người.”[7; tr 88 - 89] Từ đây, chúng ta có thể thấy khái niệm “nhân văn” được sử dụng ở phạm vi khá rộng, bao gồm tất cả các lĩnh vực, vấn đề có liên quan đến con người: văn hóa, xã hội, chính trị, văn học, nghệ thuật, mỹ học… Do vậy, không khó để lí giải vì sao khái niệm này lại được sử dụng phổ biến, thậm chí có khi bị lạm dụng. Theo đó, thuật ngữ “chủ nghĩa nhân văn” cũng trở nên thông dụng không kém: Chủ nghĩa nhân văn trong văn học, chủ nghĩa nhân văn trong lĩnh vực nghiên cứu văn hóa, xã hội, mỹ thuật, hội họa, âm nhạc… Bởi lẽ, trong đời sống, không có lĩnh vực nào không liên quan hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp đến con người. Mà, con người lại là trung tâm hướng đến của tinh thần nhân văn, chủ nghĩa nhân văn. Để có cái nhìn đầy đủ hơn, chúng ta cần đi vào làm rõ hai khái niệm thường được sử dụng song hành, thậm chí có khi dùng để thay thế cho khái niệm “nhân văn”, đó là khái niệm “nhân đạo” và “nhân bản”. Cũng giống như “nhân văn”, thuật ngữ “nhân đạo” vốn là từ Hán – Việt. “Đạo” là đường lối, phương pháp, cách thức; “đạo” còn được hiểu rộng ra là lí lẽ, đạo đức, đạo lí. Từ đây, chúng ta có thể hiểu khái niệm “nhân đạo” theo 3 nghĩa: 1. Đường lối, đường đi của con người (con đường của đạo lí, đạo đức); 2. Chỉ lòng yêu thương giữa loài người với nhau; 3. Đạo đức, đạo làm người giữa cuộc đời. Khái niệm “nhân đạo” gắn liền với đạo đức, đạo lí của con người, cách hành động, cư xử của con người đối với nhau, thường được
  • 19. 17 sử dụng trong lĩnh vực văn học đối với những vấn đề có liên quan đến đạo đức của con người (Chủ nghĩa nhân đạo, tư tưởng nhân đạo, tinh thần nhân đạo, tình cảm nhân đạo…). Nói đến “nhân đạo” là nói đến lòng thương người, đến sự đồng cảm trước nỗi khổ đau bất hạnh của con người; mong muốn những điều tốt lành, niềm hạnh phúc đến với con người. “Tư tưởng nhân đạo” gắn liền với thái độ đạo đức với con người, xem con người là đối tượng chính của tình yêu thương. “Chủ nghĩa nhân đạo” không chỉ đòi hỏi sự thương yêu hay đồng cảm với con người mà còn là tích cực hành động, lên tiếng đòi quyền sống, quyền được hưởng hạnh phúc cho con người, đấu tranh, bênh vực cho những con người chịu áp bức, bất hạnh. Về khái niệm “nhân bản”, “bản” có nghĩa là: gốc, nguồn gốc, cội rễ. “Nhân bản” là cái gốc làm người, là lấy con người làm gốc. “Nhân bản” thường gắn liền với cái thuộc về bản chất, cái vốn có, sẵn có bên trong của con người. “Chủ nghĩa nhân bản” nhấn mạnh đến khía cạnh bản thể của con người, xem con người không phải là thần thánh mà là một thực thể sinh vật, có nhu cầu của cuộc sống, chịu sự chi phối của quy luật tự nhiên. Chính vì quan niệm trên, “chủ nghĩa nhân bản” nhắc nhở đừng nên tuyệt đối hóa, lý tưởng hóa, coi con người là siêu phàm, công nhận và tôn trọng những nhu cầu chính đáng, hợp quy luật khách quan của con người về vật chất và tinh thần, không áp chế con người theo những khuôn mẫu, định ước có sẵn nào đó mà phải có sự thấu hiểu, cảm thông, “thể tất nhân tình” bởi “thịt da ai cũng là người”. “Chủ nghĩa nhân bản” mang lại một cái nhìn khách quan, đầy tinh thần khoa học hiện đại đối với con người. So với hai khái niệm “nhân văn” và“nhân đạo”, khái niệm “nhân bản” có phạm vi sử dụng hẹp hơn. “Nhân bản” thường được sử dụng trong lĩnh vực nghiên cứu triết học, tâm lý xã hội. Như vậy, có thể tạm sắp xếp 3 khái niệm trên theo thứ tự giảm dần về phạm vi sử dụng như sau: NHÂN VĂN – NHÂN ĐẠO – NHÂN BẢN. Từ đây, chúng ta có thể thấy được điểm khác nhau cơ bản giữa 3 khái niệm: + Nhân bản: Thường được sử dụng trong lĩnh vực triết học, nhấn mạnh giá trị gốc vốn có của con người, đối lập con người với thần thánh, đòi hỏi xã hội phải đáp ứng những nhu cầu trần thế của con người. Nó xem con người là một thực thể sinh vật, có nhu cầu cuộc sống, chịu sự chi phối của quy luật tự nhiên. Khi nói đến “nhân bản”, “chủ nghĩa nhân bản”, “tính nhân bản”, “tinh thần nhân bản” cũng tức là chúng ta đang muốn nói đến phần “con” trong một con người. Đã có một thời chúng ta từng lên án, phê phán, thậm chí cố tâm chối
  • 20. 18 bỏ phần “con” ấy. Tuy nhiên, nếu không có nó, sẽ không có một sinh vật cao cấp được gọi là “con người”. Nhìn nhận lại và chấp nhận những nhu cầu chính đáng trong đời sống con người sẽ giúp chúng ta có cách hành xử đúng đắn hơn, khoan dung hơn về chính mình và đồng loại. Đây là một thái độ khoa học đối với con người, là sự nhận thức về cái CHÂN của con người. CHÂN ở đây được hiểu là cái chân thực, vốn có, tự nhiên, như nhiên. CHÂN cũng có nghĩa là chân tính, bản tính gốc của mỗi con người, cái không thể thay đổi. + Nhân đạo: Thường sử dụng trong lĩnh vực đạo đức, luân lý, nhấn mạnh lòng yêu thương con người, thái độ bênh vực, bảo vệ con người. Nói cách khác, khái niệm nhân đạo thiên về sự thông cảm, thấu hiểu, chia sẻ với con người về mặt tinh thần. Khái niệm “nhân đạo”, “chủ nghĩa nhân đạo”, “tinh thần nhân đạo” thường liên quan trực tiếp đến phần “người” trong con người. Đương nhiên, phần “người” này chủ yếu được nhìn nhận ở góc độ tích cực, ở mặt tốt, mặt thiện hay còn gọi là “thiên tính” của con người. Đó là sự nhận thức về cái THIỆN của con người. Cái THIỆN thường gắn với cái tốt, cái cao cả. Cái THIỆN sẽ giúp nâng cao giá trị của con người trong cuộc sống. + Nhân văn: Được sử dụng trong nhiều lĩnh vực như văn hóa, xã hội, chính trị, văn học, nghệ thuật, mỹ học…, nhấn mạnh thái độ thương yêu, trân trọng, đề cao, bảo vệ những giá trị đẹp đẽ của con người ở mọi mối quan hệ xã hội. Khái niệm “nhân văn”, “chủ nghĩa nhân văn”, “tinh thần nhân văn”, “tư tưởng nhân văn”.... quan tâm đến cả hai mặt vật chất và tinh thần của con người. Nó mang lại cho chúng ta cách nhìn nhận, đánh giá và hành xử đúng mực hơn đối với bản thân và đồng loại. Bởi lẽ, con người chúng ta sống trong đời không chỉ hướng đến cái CHÂN, cái THIỆN mà còn cả cái ĐẸP được. Ban đầu, con người ta cần sống chân thật, cần nhìn nhận, tìm hiểu về bản thân mình nên yêu cầu phải có cái CHÂN. Về sau, khi đã được “tồn tại” như một thực thể đúng nghĩa, con người ta muốn “sống”, muốn hướng thiện, muốn có cái THIỆN. Song, khát vọng sống của con người là vô tận. Con người không chỉ muốn muốn sống hướng thiện, sống đúng với thực thể của chính mình mà còn muốn sống đẹp. Đó chính là cái MĨ. Suốt hàng ngàn thậm chí hàng vạn vạn năm tồn tại trên cõi đời, con người không ngừng tìm kiếm, không ngừng hướng đến CHÂN – THIỆN – MỸ. Đó cũng chính là hướng đến của tinh thần “nhân văn”. Do vậy, có thể nói, nhận thức chủ đạo và định hướng hành động chủ đạo của tinh thần nhân văn, tư tưởng nhân văn hay chủ nghĩa nhân văn xét cho cùng chính là sự nhận thức về cả ba mặt CHÂN- THIỆN – MỸ nơi con người.
  • 21. 19 Tuy nhiên, nhìn trên tổng thể, 3 khái niệm “nhân bản”, “nhân đạo”, “nhân văn” vẫn có những nét tương đồng nhất định. Các khái niệm này đều có liên quan đến thái độ ứng xử, quan niệm triết học, văn hóa của con người. Nó tập trung xây dựng, khẳng định giá trị, vai trò, ý nghĩa của con người trong đời sống cộng đồng. Do vậy, trong một chừng mực nào đó, sự phân biệt và giới hạn về phạm vi sử dụng của 3 khái niệm trên chỉ mang tính tương đối, tùy theo dụng ý, mục đích nghiên cứu, đánh giá vấn đề. 1.1.2. Những biểu hiện của tinh thần nhân văn trong văn học Nói đến nhân văn là nói đến con người, đến tất cả những gì liên quan đến con người. Hơn bất cứ lĩnh vực nào trong đời sống, văn chương nghệ thuật luôn dành sự ưu ái đặc biệt cho con người, lấy con người làm trung tâm để hướng đến. Tùy vào từng điều kiện, đặc điểm địa lý, văn hóa, thể chế xã hội khác nhau mà tinh thần nhân văn có những biểu hiện khác nhau ở mỗi quốc gia, mỗi thời đại, mỗi giai đoạn văn học. Song, nhìn chung, tất cả các tác phẩm văn học chứa đựng tinh thần nhân văn đều có chung một số nội dung như: bộc lộ thái độ yêu thương con người; thể hiện khả năng cảm thông, chia sẻ với những đau khổ, mất mát của con người; ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn con người, khẳng định những giá trị của con người; đề cao cuộc sống trần thế, chủ trương sống trọn vẹn với thực tại; lên án, tố cáo các thế lực chà đạp con người….“Một tác phẩm văn học có tính nhân văn là tác phẩm văn học thể hiện con người với những nét đẹp của nó, đặc biệt là những giá trị tinh thần như trí tuệ, tâm hồn, tình cảm, phẩm cách… Tác phẩm đó hướng đến khẳng định, đề cao vẻ đẹp của con người” [51; tr5] Nhìn lại một cách tổng thể về những giai đoạn, những chặng đường đã qua của văn học Việt Nam, chúng ta dễ dàng nhận ra một điều: dù thời đại có đổi thay; xã hội có thịnh suy, biến cải; tư duy, quan niệm của con người trước - sau, cổ - kim có khác biệt nhưng điểm nhìn nhân văn trong văn chương là bất biến. Chỉ có biểu hiện cụ thể của tinh thần nhân văn là thay đổi tùy theo thời đại, lịch sử, xã hội, giai đoạn văn học. Ở giai đoạn sơ khai của văn học, khi chữ viết chưa có mặt, văn học dân gian mang đến cho người đọc vẻ đẹp hồn nhiên, dung dị của tinh thần nhân văn. Đó là tiếng nói chân thật, như nhiên, không rào đón, chẳng che đậy của tình yêu thương lẫn nỗi oán hờn, hận tủi trong ca dao – dân ca một thời đã qua. Đó là kiểu tư duy “rất người”, rất trần gian của các vị thần và cả con người trong thần thoại, truyền thuyết, cổ tích xưa. Đó là ước mơ vá trời lấp biển, kiến công lập nghiệp, bảo vệ cộng đồng của những anh hùng sử thi từ thuở hồng
  • 22. 20 hoang của dân tộc…. Như vậy, với văn học dân gian, tinh thần nhân văn chính là nơi chứa đựng những khát vọng, ước mơ, tâm tư tình cảm của con người. Về sau, khi xã hội phát triển hơn, những thể chế xã hội bắt đầu được thiết lập, các vương triều phong kiến hình thành, hưng thịnh rồi suy tàn, tinh thần nhân văn trong tác phẩm văn học lại có thêm những diện mạo mới. Trong buổi đầu dựng nước và giữ nước, tinh thần nhân văn là tiếng nói ngợi ca, trân trọng đối với con người và thời đại mới. Khi đất nước bị ngoại xâm, tinh thần nhân văn của văn chương trở thành khúc hát lẫm liệt, hào hùng, đầy tự tin vào ngày chiến thắng của những trái tim yêu nước. Lúc các vương triều sắp suy tàn, nhà nước phong kiến rơi vào khủng hoảng, hơn lúc nào hết, tinh thần nhân văn trong văn học trở thành điểm tựa cho tâm hồn, tình cảm của con người và thời đại. Lúc này, nhân văn không còn giản đơn là ngợi ca, yêu thương mà còn đòi hỏi cả sự cảm thông, chia sẻ trước nỗi đau con người, thậm chí, đó còn là lời tố cáo, lên án, phê phán những gì chà đạp lên quyền sống, nhân phẩm của con người. Khi thể chế xã hội thay đổi, nhà nước phong kiến kết thúc nhiệm vụ lịch sử, dân tộc Việt Nam bước vào giai đoạn hiện đại, tiếp nhận ảnh hưởng của văn hóa phương Tây, tinh thần nhân văn lại bổ sung thêm những yếu tố mới. Không dừng lại ở tiếng nói cảm thông; tình yêu thương; sức mạnh cổ vũ, phê phán đối với con người, tinh thần nhân văn mang đến tấm gương phản chiếu để con người có cơ hội nhận thức chính mình, thành thật và nghiêm túc nhìn nhận lại “bản ngã” của nhân sinh giữa những chuyến du hành phiêu bạt của cõi người. Ở đó, chúng ta không chỉ có gương mặt của thiên thần mà còn cả tâm địa của quỷ dữ. Ở đó, đôi khi đau khổ cũng có giá trị như niềm hạnh phúc. Ở đó, ranh giới giữa phải – trái, tốt – xấu không bao giờ thuần túy là bức tường thành vững chắc, mà trái lại, nó hết sức mong manh, khó lòng phân định rạch ròi… Tóm lại, biểu hiện của tinh thần nhân văn nhìn từ tác phẩm văn học luôn biến hiện với muôn hình vạn trạng, tùy theo từng thời đại lịch sử, từng giai đoạn văn văn học nhất định. Trong giới hạn của đề tài nghiên cứu, ở đây, chúng tôi chỉ điểm qua những nét cơ bản nhất về biểu hiện của tinh thần nhân văn trong các tác phẩm văn học Việt Nam thời phong kiến với mong muốn đem đến cho người đọc một cái nhìn bao quát nhất về tinh thần nhân văn của văn học trung đại. Lịch sử phong kiến Việt Nam đã được duy trì trong một thời gian khá dài, trải qua nhiều triều đại với không ít thăng trầm, biến cải. Tuy nhiên, có một điểm chung là tất cả các
  • 23. 21 triều đại ấy đều in dấu trong những tác phẩm văn chương. Ở giai đoạn đầu của các vương triều phong kiến, những ngày mới “lập quốc”, văn học tập trung khắc họa vẻ đẹp của con người. Đó là tư thế uy dũng, hiên ngang của vị chiến tướng trong ngày khải hoàn: Đoạt sóc Chương Dương độ Cầm Hồ Hàm Tử quan Thái bình tu trí lực Vạn cổ thử giang san (Trần Quang Khải - Tụng giá hoàn kinh sư) [22; tr568] (Bến Chương Dương cướp giáo giặc Cửa Hàm Tử bắt quân Hồ Buổi thái bình nên dốc toàn sức lực Thì non sông này muôn đời dài lâu) (Phò giá về kinh) Hay những phút trăn trở, suy tư về vận nước của người anh hùng thời loạn: Trí chúa hữu hoài phù địa trục Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà Quốc thù vị báo đầu tiên bạch Kỷ độ Long Tuyền đới nguyệt ma (Đặng Dung - Cảm hoài) [22; tr719] (Giúp vua, có lòng định đỡ trục đất, Rửa gươm, tiếc không đường kéo nổi sông Ngân Nợ nước chưa đền đầu đã sớm bạc Luống tiếc bao phen mài gươm Long Tuyền dưới bóng trăng) có khi đấy là phút giây “vô ngôn” đầy thi vị sau những ngày binh lửa: Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên Bán vô bán hữu tịch dương biên
  • 24. 22 Mục đồng địch lý quy ngưu tận Bạch lộ song song phi hạ điền (Trần Nhân Tông - Thiên Trường vãn vọng) [22; tr582] (Trước thôn, sau thôn đều mờ mờ như khói phủ Bóng chiều nửa như có, nửa như không Trong tiếng sáo, mục đồng lùa trâu về hết Từng đôi cò trắng hạ cánh xuống đồng) (Ngắm cảnh chiều ở Thiên Trường) hay đơn giản chỉ là một “khoảng lặng” tâm linh của con người đã “đạt ngộ” trần gian: Đường trung đoan tọa tịch vô nghiên (ngôn) Nhàn khán Côn Luân nhất lũ yên Tự thị quyện thời tâm tự túc Bất quan nhiếp niệm bất quan thiền (Tuệ Trung – Ngẫu tác) [22; tr550] (Ngồi ngay ngắn giữa nhà lặng lẽ không nói Thảnh thơi nhìn một tia khói trên núi Côn Luân Khi nào mỏi mệt thì tâm tự tắt Chẳng cần niệm Phật, chẳng cần Thiền) (Chợt hứng làm thơ) Như vậy, có thể nói, biểu hiện của tinh thần nhân văn trong văn học thời kì này khá đa dạng, phong phú. Tiếng nói chủ đạo của tinh thần nhân văn lúc bấy giờ gắn liền với cảm hứng ngợi ca hào sảng, phóng khoáng, tràn đầy nhiệt huyết đối với con người và thời đại. Tuy nhiên, cần chú ý rằng, cảm hứng ngợi ca ở đây không hoàn toàn đồng nghĩa với cái nhìn mang tính “lý tưởng hóa” về con người theo kiểu văn chương ước lệ truyền thống về sau này. Và, cái phóng khoáng trong cách suy nghĩ, hành xử của con người giai đoạn này cũng không mang hơi hướm của sự “phá cách”, “nổi loạn” kiểu nhà Nho như Nguyễn Công Trứ. Vẻ đẹp đặc trưng của tinh thần nhân văn trong các tác phẩm này chính là sự hồn nhiên,
  • 25. 23 chân thành của tác giả khi chưa có quá nhiều “khuôn phép” và sự ràng buộc của lễ giáo phong kiến. Về sau, khi xã hội phong kiến bắt đầu thiết lập hệ thống những thể chế, kỷ cương nghiêm ngặt hơn, tinh thần nhân văn cũng theo đó mà thay đổi cách biểu hiện. Không còn chiến tranh giữ nước, hình ảnh người anh hùng không còn được tập trung ngợi ca. Quá bận bịu với vô vàn gánh nặng cuộc đời, con người mất dần cốt cách ưu du, nhàn tản. Mải lo danh lợi, uy quyền, con người “quên” đi hành trình tìm kiếm và gìn giữ sự bình an cho chính tâm hồn mình. Thay vào đó, tình cảm nhân văn được hướng đến những đối tượng khác trong xã hội: người tài hoa tài tử mà bạc mệnh, người phụ nữ tài sắc mà truân chuyên, người dân nghèo một đời lầm than cơ cực…. Tinh thần nhân văn thời kì này có thay đổi đôi chút: bên cạnh thái độ ngợi ca, trân trọng đối với con người, văn học tập trung nhiều hơn, sâu sắc hơn vào việc tố cáo, phê phán các thế lực chà đạp lên nhân phẩm và quyền sống của con người. Vì vậy, tinh thần chủ đạo của văn chương bấy giờ trở thành tiếng nói đấu tranh, phản kháng vì con người và bảo vệ con người khỏi những tổn hại, khổ đau trong xã hội. Khi các vương triều phong kiến dần “lao dốc”, đi vào con đường khủng hoảng và suy vong, tinh thần nhân văn lại tập trung nhiều hơn vào việc đấu tranh cho khát vọng sống chính đáng của con người. “Không khí nhân văn” trong văn học lúc này càng trở nên “đậm đặc” hơn bao giờ hết. Tinh thần nhân văn trong các tác phẩm biểu hiện qua cách “giải tỏa” nỗi lòng, “gửi gắm tâm huyết” của mình đối với con người và thời đại. Đó là “nỗi đau đứt ruột”, là “tiếng khóc lớn” suốt một đời Nguyễn Du: “Trải qua một cuộc bể dâu Những điều trông thấy mà đau đớn lòng” (Nguyễn Du – Truyện Kiều) [58; tr13] Đó là cách suy nghĩ đầy chất “nổi loạn” của Hồ Xuân Hương: “Ví đây đổi phận làm trai được Thì sự anh hùng há bấy nhiêu” (Hồ Xuân Hương – Đề đền Sầm Nghi Đống) [54; tr62 ] Đó là lời tâm tình đầy bế tắc của Uy Viễn tướng công: Kiếp sau xin chớ làm người
  • 26. 24 Làm cây thông đứng giữa trời mà reo (Nguyễn Công Trứ - Vịnh cây thông) [52; tr142 ] Đấy là những “kiểu” nhân văn được tạo nên từ những phẫn uất, bất bình; từ sự “đè nén” của thời cuộc. Ở đây tràn ngập nỗi khổ niềm đau, tâm sự buồn thương day dứt, những ẩn tình chưa nói…Do vậy, không lạ gì khi cảm hứng nhân văn thời này gần như thiếu hẳn “không gian” – một không gian đủ đầy cho tâm hồn thỏa chí. Như vậy, có thể bước đầu hình dung về những biểu hiện của tinh thần nhân văn trong văn học trung đại Việt Nam: đó là con đường đi từ chiều sâu đến chiều rộng của tâm hồn con người. Ở giai đoạn đầu, khi nhà nước phong kiến còn sơ khai, con người chưa bị ràng buộc bởi quá nhiều định lệ, định chế xã hội, họ có nhiều thời gian hơn dành riêng để “trải nghiệm” chính mình và “nhìn ngắm” cuộc đời xung quanh. Nhờ vậy, có cơ hội đi sâu, hiểu rõ hơn về mình, về người, về đời. Điểm đặc biệt hơn nữa là ở thời đại này, khi Nho giáo chưa giành được quyền thống trị đời sống tinh thần và xã hội, con người Việt Nam vẫn mang còn vẻ đẹp phóng khoáng, hồn nhiên được tạo nên từ sự giao thoa hòa hợp giữa tư tưởng đạo đức, quan niệm sống của Phật giáo Thiền tông được du nhập vào nước ta từ rất sớm và nền văn hóa dân gian truyền thống người Việt. Cho nên, lúc bấy giờ, tinh thần nhân văn quan tâm đặc biệt đến việc “đo” chiều sâu minh triết, trình độ chứng đắc tâm linh, phong thái an nhiên tự tại của con người trước cuộc đời. Về sau, thể chế nhà nước phong kiến được thiết lập hoàn chỉnh, thêm vào đó là sự “xâm lấn” ngày càng mạnh mẽ của văn hóa và kiểu tư duy Trung Hoa – nhất là đạo Nho, cuộc sống của con người ngày càng “ngột ngạt” hơn, tù túng hơn, họ thậm chí còn không có tâm tư cũng như thời gian để “sống riêng” với chính mình huống nữa là “nhìn ngắm” cuộc đời xung quanh. Khi xã hội phong kiến lâm vào khủng hoảng và diệt vong, xã hội trở nên phức tạp hơn, cuộc sống của con người càng lâm vào bế tắc, những nổi khổ niềm đau ngày càng “mở rộng” phạm vi, đối tượng. Do vậy, dễ thấy rằng tinh thần nhân văn của các tác phẩm lúc này hết sức phong phú, đối tượng được hướng đến cũng nhiều hơn, rộng rãi hơn: từ tầng lớp sĩ phu trí thức, văn nhân tài tử đến những người bình dân vô danh vô tánh; từ nam nhân đến nữ giới; từ người sống đến người chết … Song, đó lại là tinh thần nhân văn theo kiểu “thương vay”, hay “trông người lại ngẫm đến ta”. Cho nên, chúng tôi gọi đó là tinh thần nhân văn có chiều rộng nhân thế nhưng thiếu chiều sâu nhân tâm.
  • 27. 25 Từ điểm nhìn khái quát về những biểu hiện của tinh thần nhân văn trên, chúng ta có thể bước đầu hình dung về đặc trưng của tinh thần nhân văn trong văn học thời Lý – Trần. Nằm trong giai đoạn sơ khai, cùng với đặc điểm riêng về lịch sử - xã hội (sẽ đề cập kỹ hơn ở phần tiếp theo), văn học Lý – Trần luôn được đánh giá là một nền văn học “đặc biệt” của văn học trung đại Việt Nam: “Văn học Lý – Trần là thời kì văn học chính thức mở đầu, có nhiệm vụ khai phá, mở đường cho văn học viết Việt Nam kể từ sau khi nước nhà giành lại độc lập ở thế kỉ X” [21; tr70] Một trong những nét đặc biệt ấy chính là biểu hiện của tinh thần nhân văn của các tác phẩm văn chương thời kì này. Ở đây, tinh thần nhân văn – cách nhìn nhận và đánh giá về con người – có sự “giao thoa” thú vị giữa Thiền đạo và Văn học. Nó cho phép văn chương nhìn nhận con người đúng với bản chất vốn có của họ: đó là những con người mang vẻ đẹp của tinh thần tự do – tự chủ - tự tin – tự lực. Con người luôn bình an, thanh thản đến thoát tục để đi giữa nhân gian, để sống hết một kiếp người với trọn vẹn giá trị và ý nghĩa của mình. Do vậy, con người nhân văn thời Lý – Trần là con người luôn linh hoạt, lạc quan, bao dung và rộng mở với đời, với người, với chính mình. Đặc điểm của kiểu tinh thần nhân văn này đã góp phần tạo nên vẻ đẹp rất riêng cho con người trong thơ Lý – Trần nói chung, thơ Thiền Tuệ Trung nói riêng: Mỗi con người là một bản thể, vừa rất riêng mà lại rất chung, rất trần thế nhưng đồng thời cũng rất thoát tục. 1.2. Thời đại Lý – Trần và thơ Thiền Tuệ Trung 1.2.1. Thời đại Lý – Trần và Phật giáo Thiền tông thời Lý Trần Từ trước đến nay, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về thời đại Lý – Trần và Phật giáo Thiền tông thời Lý – Trần. Đây là một lĩnh vực nghiên cứu có phạm vi khá rộng. Ở đây, chúng tôi đặt lại vấn đề này không nhằm mục đích tập hợp thành quả nghiên cứu của người đi trước. Để phục vụ cho đề tài nghiên cứu của mình, chúng tôi chỉ đi vào tìm hiểu một số đặc điểm thời đại và Phật giáo Thiền tông thời Lý – Trần nhất định để có thể lý giải, đánh giá một cách đầy đủ nhất về những biểu hiện và đặc trưng của tinh thần nhân văn trong thơ Thiền Lý – Trần nói chung, thơ Thiền Tuệ Trung (đối tượng chính của luận văn) nói riêng. Trong lịch sử phong kiến Việt Nam, có thể nói Lý – Trần là hai vương triều thịnh đạt nhất về mọi mặt. Xã hội và con người thời Lý – Trần đã tạo nên một dấu ấn vàng son “vô tiền khoáng hậu”. Theo Nguyễn Công Lý “thời đại Lý – Trần là thời đại hào hùng, oanh liệt, rực rỡ và đẹp đẽ của lịch sử Việt Nam” [21; tr62]. Đã có không ít cách lý giải về thời
  • 28. 26 đại “đặc biệt” này của dân tộc. Với chuyên luận VĂN HỌC PHẬT GIÁO THỜI LÝ TRẦN – DIỆN MẠO VÀ ĐẶC ĐIỂM, trong Chương 1, mục 2.2.1. Đặc điểm thời đại Lý Trần, Nguyễn Công Lý đã khái quát và nêu lên ba đặc trưng lớn của thời đại này. Đó là: 1. Thời đại Lý – Trần là thời đại độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, thống nhất cộng đồng; 2. Thời đại Lý – Trần là thời đại phục hưng dân tộc và phát triển đất nước; 3. Thời đại Lý – Trần là thời đại khoan giản, an lạc, nhân thứ, rộng mở và dân chủ. Theo chúng tôi, đây là những nhận định rất xác đáng. Nhà Lý (1010 – 1225) đã chiếm giữ vũ đại chính trị liên tục suốt 215 năm với 9 đời Hoàng Đế. Nhà Trần (1226 – 1400) tồn tại trong 175 năm với 13 đời Hoàng Đế nối tiếp nhau trị vì. Cả hai vương triều đều ghi lại trong lịch sử những chiến công hiển hách chống ngoại xâm. Đặc biệt, dưới thời nhà Trần, quân và dân Đại Việt đã trải qua 3 cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại đánh thắng quân Nguyên Mông vào các năm 1258, 1285, 1288 đưa nước Đại Việt lên hàng một trong những cường quốc ở Đông Nam Á thời bấy giờ. Nói như nhà nghiên cứu sử học Nguyễn Khắc Thuần: “Thắng lợi vĩ đại của cả ba cuộc chiến tranh vệ quốc đã tác động mạnh mẽ và sâu sắc đến tư tưởng cũng như tình cảm của đội ngũ những người cầm bút, đến toàn bộ sự phát triển của văn học dân tộc trong giai đoạn này” [39; tr235]. Có thể nói, chính hào khí của thời đại đã góp phần tạo nên hào khí văn chương thời Lý – Trần. Không thể có tư thế oai phong lẫm liệt của người anh hùng Phạm Ngũ Lão: “Hoành sóc giang cáp kỉ thu Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu” (Phạm Ngũ Lão - Thuật hoài ) [22; tr593] (Cắp ngang ngọn giáo gìn giữ non sông đã mấy thu Ba quân như gấu hổ, át cả sao ngưu) càng không thể có cái nhìn đầy trải nghiệm, nhẹ nhàng mà xác quyết, đầy tin tưởng của Trần Nhân Tông: Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã Sơn hà thiên cổ điện kim âu (Trần Nhân Tông - Tức sự ) [22; tr590] (Xã tắc hai lần ngựa đá phải mệt nhọc
  • 29. 27 Nhưng núi non nghìn đời được đặt vững như âu vàng) nếu không có những chiến công lừng lẫy ấy, thời đại ấy. Như vậy, từ không khí thời đại đến không khí văn chương thời Lý – Trần luôn có mối tương quan hòa hợp, khắng khít nhau. Không khí hào hùng của lịch sử Đại Việt đã tạo nên vẻ đẹp phóng khoáng, tràn đầy tinh thần tự do tự tin cho con người Đại Việt. Do đó, không khó để hiểu vì sao các tác phẩm văn học, nhất là thơ ca thời Lý – Trần luôn thấm đẫm tinh thần nhân văn. Khi đi vào địa phận của thơ Thiền, nó lại được nâng lên một tầm cao mới – tinh thần nhân văn của những con người tự do, lạc quan, tràn đầy nhiệt huyết và tin yêu, bao dung vô hạn với đời, với người, với chính mình. Có thể nói, đây là biểu hiện độc đáo, đầy đủ và duy - nhất – không – lặp – lại của tinh thần nhân văn trong văn học Việt Nam. Chưa bao giờ các tác phẩm văn chương của chúng ta có được một “khẩu khí” lớn đến vậy, hào sảng đến vậy! Nhìn ở góc độ văn hóa, tư tưởng và văn học, thời Lý – Trần là thời đại phục hưng và phát triển các giá trị văn hóa tinh thần của dân tộc. “Thời ấy, văn hóa văn nghệ dân gian với những lễ hội truyền thống đã chấn hưng và được mọi giai tầng xã hội từ vua chúa đến thứ dân đều yêu chuộng” [21; tr67]. Vào thời nhà Trần, “văn học dân gian phát triển rất mạnh mẽ với nhiều thể loại phong phú khác nhau, trong đó, có vị trí đặc hơn cả vẫn là ca dao, tục ngữ, thần thoại và truyền thuyết lịch sử” [39; tr233-234]. Điều này cho thấy, xã hội, con người và hệ tư tưởng, quan niệm thẩm mĩ thời Lý – Trần vẫn rất gần gũi với nền văn hóa dân gian thời trước. Mà, một trong những vẻ đẹp đặc trưng, độc đáo của nền văn hóa này chính là kiểu tư duy hết sức cởi mở, phóng khoáng, không gò bó, khuôn sáo. Đây cũng chính là điểm cốt lõi trong tư tưởng Phật giáo Thiền tông nước ta thời bấy giờ. Chính vì vậy, khi đọc các tác phẩm văn học Lý – Trần, chúng ta dễ dàng nhận ra một cái “phông cảm xúc” chung: hào phóng, tự do, tự tại, ung dung, khoáng đạt. Đó là mảnh đất màu mỡ cho sự phát triển của hoa trái thơ ca Thiền tông thời Lý – Trần. Tuy nhiên, cũng cần phân định rõ ràng về sự hồn nhiên, vô tư trong cách tư duy của văn học dân gian và thơ Thiền. Sự hồn nhiên của văn học dân gian là sự hồn nhiên của con người chưa quan tâm tìm tòi và thấu hiểu. Sự hồn nhiên của thơ Thiền là sự hồn nhiên của chiều sâu tâm linh, là kết quả của quá trình trải nghiệm và thấu hiểu trọn vẹn vấn đề. Điều này góp phần tạo nên vẻ đẹp riêng của tinh thần nhân văn trong văn học Lý – Trần nói chung, trong thơ Thiền – đặc biệt là thơ Thiền Tuệ Trung - nói riêng.
  • 30. 28 Bên cạnh những yếu tố khách quan của lịch sử, phải xét đến đóng góp không nhỏ của Phật giáo đối với việc hình thành vẻ đẹp nhân văn cho con người và thơ ca. Kết quả nghiên cứu về lịch sử Phật giáo ở nước ta cho thấy Phật giáo đã có mặt ở Việt Nam từ rất sớm. Theo tác giả Nguyễn Lang trong VIỆT NAM PHẬT GIÁO SỬ LUẬN tập 1, chương 1 thì “Đạo Phật truyền vào Việt Nam khoảng đầu kỉ nguyên Tây lịch. Tài liệu chắc chắn cho biết rằng vào hạ bán thế kỉ thứ hai, tại nước ta đã có một trung tâm Phật giáo phồn vinh và quan trọng rồi, nhưng có thể đạo Phật đã du nhập vào nước ta trong thế kỉ đầu của kỉ nguyên” [17; tr 23]. Do có những điều kiện thuận lợi về vị trí địa lý, Phật giáo đã được truyền vào nước ta từ nhiều nguồn khác nhau: Từ Ấn Độ trực tiếp truyền sang, từ Trung Quốc truyền sang. Tính đến thời Lý – Trần, Phật giáo ở nước ta đã được kế thừa và phát triển trên cơ sở của ba mối giao lưu – tiếp biến: “Một là, Phật giáo Đại thừa với khuynh hướng Thiền học từ Nam Ấn trực tiếp truyền sang bằng đường biển vào cuối thế kỉ thứ I trước công nguyên, cũng có thể là vào những năm đầu sau công nguyên với kinh văn hệ Bát Nhã; Hai là, Thiền tông Ấn Độ truyền sang Trung Quốc rồi đến Việt Nam bởi vai trò của ngài Tỳ Ni Đa Lưu Chi vào thế kỉ thứ VI với tư tưởng vô trụ, siêu việt hữu vô; Ba là, Thiền tông Trung Quốc truyền vào Việt Nam bởi vai trò của ngài Vô Ngôn Thông vào thế kỉ thứ IX với pháp môn Đốn ngộ và tư tưởng Phật tại tâm” [Nguyễn Công Lý; 40; tr150] Trong ba nguồn truyền thừa trên, Phật giáo – nhất là Phật giáo Thiền tông thời Lý – Trần chịu ảnh hưởng nhiều nhất là hai dòng thiền của ngài Tỳ Ni Đa Lưu Chi và ngài Vô Ngôn Thông. Về sau Phật giáo Đại Việt xuất hiện hai dòng Thiền mới, mang đậm bản sắc dân tộc là: Thiền phái Thảo Đường và Trúc Lâm Yên Tử. Thiền phái Thảo Đường do vua Lý Thánh Tông và Thiền sư Thảo Đường lập nên tại chùa Khai Quốc (Trấn Quốc) ở kinh đô Thăng Long. Tuy nhiên, do chưa có sự truyền thừa phổ biến nên Thiền phái Thảo Đường dần bị mai một cùng với sự suy vong của triều Lý. Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử do Trúc Lâm Đại đầu đà Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông sáng lập. Hệ thống Thiền học Trúc Lâm liên quan trực tiếp đến giáo chỉ của ba vị tổ: Nhân Tông – Pháp Loa – Huyền Quang. Bên cạnh đó, còn có sự đóng góp về tư tưởng của Quốc sư Viên Chứng, vua Trần Thái Tông và Tuệ Trung Thượng sĩ Trần Tung. Có lẽ chính nhờ có quá trình truyền thừa rộng rãi và hệ thống tư tưởng, giáo chỉ rõ ràng nên dòng Thiền này phát triển khá mạnh mẽ và lâu
  • 31. 29 bền. Bên cạnh những chủ trương căn bản của Phật giáo về việc tu hành như trì giới, tọa thiền, niệm Phật, Thiền phái Trúc Lâm đã tiếp thu quan niệm nhân sinh tích cực của Phật giáo Đại thừa: xem việc sống chết (sinh tử) là thường tình và chấp nhận cuộc sống một cách khách quan, thuận theo nhân duyên sinh – diệt của vạn pháp mà hành sự. Quan niệm này đã tạo nên những “hình mẫu” Thiền gia có phong thái an nhiên, tự tại, sẵn sàng “tùy duyên” mà “nhập thế” và bình thản “xuất thế”. Nhìn ở góc độ văn chương nghệ thuật, đó chính là vẻ đẹp của tinh thần nhân văn thấm đẫm màu sắc minh triết của con người và thơ Thiền Lý – Trần. Xét ở chiều sâu, nơi khởi nguồn của tư tưởng Phật giáo, giữa hệ thống kinh văn hệ Bát Nhã với tư tưởng vô trụ, siêu việt hữu vô và pháp môn Đốn ngộ, tư tưởng Phật tại tâm của ba nguồn truyền thừa Phật giáo vào nước ta vốn không có gì khác biệt. Chính người khai sáng ra Phật giáo – đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn tại thế đã từng dạy đệ tử rằng nước trong biển chỉ có một vị là vị mặn, giáo pháp của Ngài tuy nhiều nhưng cũng như nước biển kia, chỉ có duy nhất một vị là vị giải thoát. Có nghĩa là, bất luận Phật giáo có chia ra bao nhiêu tông phái, bao nhiêu pháp môn, tất cả đều có chung một đích đến, đó là mang lại cuộc sống an lạc, hạnh phúc đích thực và bền vững cho con người. Do vậy, nói đến Phật giáo là nói đến tinh thần từ bi, hỷ xả, vị tha, vô ngã. Điều này rất đúng với trường hợp các Thiền gia thời Lý – Trần. Họ là những con người sẵn sàng cầm gươm xông trận, giữ vững biên cương khi đất nước bị ngoại xâm. Khi thái bình thịnh trị, họ có thể buông bỏ tất cả lợi danh quyền thế để toàn tâm toàn ý cầu đạo giải thoát. Lúc đã đạt ngộ, họ không ngại khó khổ, luôn kiên nhẫn, từ ái để dẫn dắt hàng hậu học. Đọc thơ Thiền Lý – Trần, nhất là thơ Tuệ Trung Thượng sĩ, chúng ta sẽ cảm nhận một cách đầy đủ, rõ ràng hơn về tấm lòng của những bậc thượng thủ trong làng Thiền. Đối với chúng tôi, đây chính là một nét đẹp nhân văn của con người Thiền thời Lý – Trần. Với tinh thần “giáo hóa” chung là: Đốn ngộ - Phá chấp – Tâm truyền, Phật giáo Thiền tông thời Lý – Trần đã hoàn thành xuất sắc sứ mệnh lịch sử của mình: Đưa Phật giáo trở lại giữa lòng cuộc đời, phụng sự nhân sinh, phụng sự xã hội chứ không biến giáo lý nhà Phật thành một hệ thống triết thuyết mang nặng tính kinh viện, xa rời thực tại. Tuy trong quá trình truyền thừa Phật giáo, do nhu cầu và đặc điểm của thời đại, Thiền học Phật giáo có chấp nhận sự dung hợp với tư tưởng khác như Nho – Lão, tín ngưỡng dân gian bản địa người Việt; có sự kết hợp linh hoạt giữa Thiền – Tịnh – Mật; song, cần hiểu đó là quá trình
  • 32. 30 tiếp thu và tiếp biến có chọn lọc của Phật giáo Thiền tông. Nền tảng cơ sở của những quan niệm cũng như phương thức thực hành tu học cuối cùng vẫn luôn được trụ vững trên mảnh đất Thiền tông nguyên bản – mảnh đất với hoa trái chân lý của đời sống hiện thực. Đó là lý do vì sao Thiền học trở thành một trong những nguồn cảm hứng của văn chương thời trung đại, đặc biệt là văn học thời Lý – Trần. Đọc thơ Thiền, cảm nhận vẻ đẹp Thiền để tâm hồn con người được nâng cao hơn, trong sáng hơn, để chúng ta được một lần “trở về” với chân nguyên giá trị của chính mình, với vẻ đẹp nhân văn hồn nhiên, thuần khiết. 1.2.2. Tuệ Trung và thơ Thiền Tuệ Trung trong văn học Lý – Trần Tuệ Trung Thượng Sĩ (1230 – 1291) là một Thiền sư đạt đạo đời Trần. Căn cứ vào bài viết của vua Trần Nhân Tông, “Thượng sĩ là con trai đầu lòng của Khâm Minh Từ Thiện Thái vương và là anh cả của Nguyên Thánh Thiên Cảm Hoàng Thái Hậu. Khi Thái vương mất, Hoàng đế Trần Thái Tông cảm nghĩ phong cho Thượng sĩ tước Hưng Ninh Vương” [22; tr 221]. Thời gian trước đây, thân thế của Thượng sĩ vẫn còn là một “ẩn số” bởi có quá ít ghi chép của sử sách. Thậm chí, có ghi chép cũng không được nhất quán. Về sau, thân thế và tên thật của Thượng sĩ mới được nhìn nhận rõ ràng hơn. Về tên thật của Tuệ Trung Thượng sĩ trong một thời gian rất dài, từ thế kỉ XVII – XVIII sang nửa cuối thế kỉ XX, các nhà nghiên cứu đều cho Tuệ Trung là Trần Quốc Tảng. Đến năm 1972, tác giả Nguyễn Lang lần đầu tiên đã xác định tên thật của Tuệ Trung là Trần Tung trong sách VIỆT NAM PHẬT GIÁO SỬ LUẬN – tập 1, NXB Lá Bối, Sài Gòn. Năm 1977, lần thứ hai, trên Tạp chí Văn học số 4, trang 116 - 135, tác giả Nguyễn Huệ Chi tiếp tục khẳng định điều này trong bài TRẦN TUNG – MỘT GƯƠNG MẶT LẠ TRONG LÀNG THƠ THIỀN THỜI LÝ – TRẦN. “Thuở nhỏ, Thượng sĩ bẩm tính thanh cao, nổi tiếng thuần hậu. Được cử trấn giữ quân dân ở lộ Hồng. Hai lần giặc Bắc xâm lăng, có công với nước, lần hồi được thăng chuyển giữ chức Tiết độ sứ vùng biển trại Thái Bình” [Trần Nhân Tông; 22; tr 221]. Thượng sĩ từng xông pha trận mạc, cùng các tướng lĩnh nhà Trần lập nên không ít chiến công. Trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ nhất, Thượng sĩ tham gia với tư cách là người chỉ huy cùng với Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ hai, Tuệ Trung Thượng sĩ lại cùng tôn thất nhà Trần chung vai sát cánh trên trận mạc: “Đầu tháng 5, Thái Thượng Hoàng nhà Trần là Trần Thánh Tông cùng Hoàng đế Trần Nhân Tông đem quân từ vùng Thanh Hóa ra đánh cấp tập vào khu vực Trường Yên và quét sạch quân Nguyên ra khỏi khu vực này vào ngày 7-6-1285
  • 33. 31 (nhằm ngày 3 tháng 5 năm Ất Dậu). Ngày 10-6-1285, quân Thoát Hoan bắt buộc phải rút khỏi bờ bắc sông Hồng. Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn và Hưng Ninh Vương Trần Tung cho quân đón đánh. Một trận kịch chiến đã diễn ra tại Như Nguyệt (sông Cầu, Bắc Ninh ngày nay)” [Nguyễn Khắc Thuần; 39; tr 197]. Đến cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần ba, Tuệ Trung Thượng sĩ nhận thêm một nhiệm vụ mới: đi vào doanh trại giặc là Thoát Hoan để điều đình, làm cho kẻ thù càng hoang mang, hoảng loạn hơn. Lê Mạnh Thát đã có ghi nhận về việc này trong LỊCH SỬ PHẬT GIÁO VIỆT NAM – tập 3, chương XIII: “… An Nam chí lược 4 tờ 56 của tên Việt gian Lê Thực, khi viết về sự kiện Thoát Hoan đã cho rút quân về đồn trú tại Vạn Kiếp, đã ghi nhận: Tháng 2, Thế tử sai người anh họ là Hưng Ninh Vương Trần Tung nhiều lần đến ước hàng, để cố tình làm mệt quân ta, rồi ban đêm sai quân cảm tử đến cướp doanh trại…” [34; tr 547-548]. Từ đây, có thể thấy, Tuệ Trung Thượng sĩ không chỉ xuất hiện như một nhà chỉ huy quân sự, mà còn với tư cách một nhà ngoại giao đi điều đình với giặc, tạo thời cơ để quân ta tiến công. Và, Hưng Ninh Vương Trần Tung đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, tạo tiền đề cho chiến thắng Bạch Đằng (9-4-1288) vang dội sau đó. Như vậy, với lịch sử dân tộc, Tuệ Trung Thượng sĩ là một tướng lĩnh có công, có đóng góp quan trọng cho nền hòa bình của đất nước. Tuy nhiên, không như các tướng lĩnh nhà Trần khác, hành tung và công trạng của Tuệ Trung không được sử sách ghi chép đầy đủ. Có thể đây là một thiếu sót của lịch sử do nhiều lý do mà người thời nay chưa lý giải được. Song, theo chúng tôi, có khi đây lại là điều thú vị về một bậc “xuất trần thượng sĩ”. Đó là con người đến và đi hết sức tự tại giữa cuộc đời này. Khi cuộc đời cần, người đến. Lúc xong việc, người ra đi. Không cần lưu dấu, chẳng màng tiếng tăm. Nói như tác giả Thích Phước An, Tuệ Trung Thượng sĩ thuộc hàng ngũ của “những con người đi và muốn xóa sạch vết chân của chính mình” [23; tr178]. Vô tình, chính những thiếu sót của lịch sử đã giúp cho bức chân dung Tuệ Trung Thượng sĩ được hoàn chỉnh và hoàn hảo hơn. Bên cạnh những đóng góp cho cuộc đời, không thể không kể đến vai trò quan trọng của Tuệ Trung Thượng Sĩ Trần Tung trong Thiền học Việt Nam. Tư tưởng Thiền học của Tuệ Trung Thượng sĩ có ảnh hưởng lớn đối với Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử sau này. Trong bài TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ HÀNH TRẠNG, vua Trần Nhân Tông đã hết lời khen ngợi ngài: “Về cốt cách, Thượng sĩ là người khí tượng thâm trầm, phong thần nhàn nhã. (…) Thượng sĩ trộn lẫn cùng thế tục, hòa cùng ánh sáng, chứ không trái hẳn với người
  • 34. 32 đời. Nhờ đó mà nối theo được hạt giống pháp và dìu dắt được kẻ sơ cơ. Người nào tìm đến hỏi han, người cũng chỉ bảo cho biết điều cương yếu khiến họ trụ được cái tâm, mặc tính hành tàng, không rơi vào danh hư thực” [22; tr 221]. Tuy không phải là người xuất gia, không sống đời phạm hạnh như các bậc tu hành đương thời, song, phải nói rằng, Thượng sĩ đích thực là của một chân sư đạt đạo. “Thượng sĩ là người thần thái nghiêm trang, cử chỉ đĩnh đạc. Khi người đàm luận về cái lẽ cao siêu huyền diệu thì như gió mát trăng thanh. Đương thời các bậc đạo cao đức trọng đâu đâu cũng đều tôn trọng, cho Thượng sĩ là người “tin sâu biết rõ”, ngược xuôi thật khó mà lường được” [22; tr 224]. Đối với người học theo pháp Thiền, cả một đời hành đạo chỉ có duy nhất một mục tiêu, đó là được giải thoát sinh tử luân hồi, ra vào tự tại trong Tam giới. Thông thường, biểu hiện rõ nhất để chúng ta “đo” độ giác ngộ của một hành giả tu Phật chính là phút giây cuối đời của họ. Một người muốn tự tại trong sinh tử, trước hết phải tự tại, tự chủ được việc sống chết của bản thân. Hãy xem lại những phút cuối đời của Thượng sĩ: “Sau, người nhuốm bệnh ở trang Dưỡng Chân, không nằm ở phòng riêng mà cho kê một chiếc giường gỗ giữa ngôi nhà bỏ trống, và nằm theo phép “cát tường”, nhắm mắt là tịch. Người hầu hạ và thê thiếp trong nhà khóc rống lên. Thượng sĩ mở mắt ngồi dậy, gọi người lấy nước rửa tay súc miệng, đoạn quở nhẹ rằng: Sống chết là lẽ thường, làm gì phải xót thương quyến luyến làm rối chân tính của ta?. Dứt lời, người êm thấm mà tịch” [22; tr224]. Ở đây, chúng tôi đặc biệt quan tâm đến chi tiết Thượng sĩ đã “nhắm mắt là tịch”, nhưng khi nghe tiếng khóc thương của người xung quanh thì lại “sống dậy”, trách nhẹ rồi mới tịch hẳn. Xưa nay chúng ta nghe một người biết trước ngày giờ chết, hay những bậc thiền sư muốn thị tịch lúc nào có thể thị tịch lúc ấy là đã rất đặc biệt. Với trường hợp Tuệ Trung, lại càng là một minh chứng sống động cho việc tự tại giữa sống chết. Muốn đến – đi như thế thì đạo lực, bản lĩnh của Thượng Sĩ phải ở vào hàng siêu xuất của Thiền học. Nếu Thiền học Trung Hoa từng tự hào với những cư sĩ ngộ đạo như ngài Bàng Long Uẩn thì Thiền học Việt Nam hoàn toàn có quyền kiêu hãnh với Tuệ Trung Thượng sĩ Trần Tung. Không chỉ là một Thiền gia đạt đạo, Tuệ Trung Thượng sĩ còn là một nhà thơ “có phong cách”. Tìm hiểu thơ Thiền không thể bỏ qua thơ Thiền Trần Tung – một “gương mặt lạ” của làng thơ Thiền Việt Nam nói chung, thơ Thiền Lý – Trần nói riêng. Thơ Thiền Tuệ Trung đa số tập trung thể hiện những trải nghiệm Thiền, những sở đắc của bản thân tác giả. Đó vừa là cách “tỏ lòng”, “trình kiến giải”; vừa là một lối “khai thị” cho người học đạo. Cái
  • 35. 33 hay, cái độc đáo của thơ Thiền Tuệ Trung nằm ở chỗ tuy nói chuyện Thiền nhưng ông rất ít khi sử dụng ngôn ngữ “chuyên môn” của Thiền mà sử dụng ngôn ngữ của thơ ca trữ tình, đầy thi vị. Tức là, Tuệ Trung đã dùng ngôn ngữ của trần gian để nói chuyện giải thoát. Thơ Thiền Tuệ Trung, do đó, vừa là thơ vừa thấm đẫm tinh thần đạo vị. Điều này đã khiến cho thơ Thiền Tuệ Trung mang vẻ đẹp đặc biệt: nói chuyện “xuất thế” nhưng không “thoát thế”. Ở ông có phong thái của một bậc chân nhân giác ngộ luôn lạc quan, an nhiên đi giữa trần gian. Phong thái này mang đến cho thơ ông vẻ đẹp phóng khoáng, tự do; hồn nhiên mà thâm trầm, sâu sắc như chính con người ông trong cuộc sống đời thường.Theo chúng tôi, đây là những nhân tố quan trọng tạo nên nét độc đáo của tinh thần nhân văn trong thơ Thiền Tuệ Trung. Tiểu kết chương 1 1. Khái niệm “nhân văn” được sử dụng khá phổ biến trong nhiều lĩnh vực của đời sống như: văn hóa, xã hội, chính trị, văn học, nghệ thuật, mỹ học….Hiểu theo nghĩa bao quát nhất, khái niệm “nhân văn” được dùng để chỉ chung cho những giá trị tinh thần của nhân loại, xuất phát từ sự tôn trọng giá trị, nhân phẩm con người, lòng thương yêu con người, niềm tin vào năng lực và sức sáng tạo không cùng của con người. Xét về mặt ý nghĩa, 3 khái niệm “nhân văn”, “nhân đạo” và “nhân bản” đều có ý nghĩa tương đương nhau. Tuy nhiên, cần phân biệt phạm vi sử dụng của 3 từ này. “Nhân đạo” thường được sử dụng trong lĩnh vực đạo đức, luân lý; “nhân bản” chủ yếu được sử dụng trong lĩnh vực triết học, tâm lý; trong khi đó “nhân văn” là khái niệm có phạm vi sử dụng khá rộng rãi, hầu như ở tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Xét về mặt thái độ, nhận thức, khái niệm “nhân văn” biểu hiện sự nhận thức toàn diện về cả ba khía cạnh: CHÂN – THIỆN – MỸ của con người. Riêng khái niệm “nhân đạo” thể hiện nhận thức về cái THIỆN của con người. Trong khi đó, khái niệm “nhân bản” là quan tâm đến cái CHÂN, bản tính gốc của con người. Dù có những điểm khác biệt nhất định, song, sự phân biệt giữa ba khái niệm “nhân văn”, “nhân đạo”, “nhân bản” chỉ mang tính tương đối, tùy thuộc vào mục đích của người sử dụng.