SlideShare a Scribd company logo
1 of 45
Download to read offline
1
VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
VIỆN TRIẾT HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI
VÀ NHÂN VĂN
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC
TRONG TRIẾT HỌC KHAI SÁNG PHÁP
Mã số: 60 22 80
Người thực hiện: Lương Mỹ Vân
Người hướng dẫn: TS. Đỗ Minh Hợp
Hà Nội 07/2006
2
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có xuất xứ
rõ ràng, các kết luận chưa được công bố trong bất cứ một
công trình nào khác.
Tác giả luận văn
Lương Mỹ Vân
3
MỤC LỤC
Mở đầu ............................................................................................................. 2
CHƯƠNG 1. NHỮNG ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ CỦA TƯ TƯỞNG
ĐẠO ĐỨC TRONG TRIẾT HỌC KHAI SÁNG PHÁP........................... 12
1.1. Điều kiện kinh tế – xã hội................................................................ 13
1.2. Tiền đề khoa học và văn hóa............................................................ 19
1.2.1. Sự phát triển của khoa học tự nhiên và khoa học
thực nghiệm, sự đề cao lý tính.............................................. 20
1.2.2. Thái độ đối với Nhà thờ và tôn giáo..................................... 23
1.3. Tiền đề tư tưởng – lý luận................................................................ 27
1.3.1. Tư tưởng đạo đức thời kỳ Cổ đại.......................................... 28
1.3.2. Tư tưởng đạo đức thời kỳ Phục hưng................................... 32
1.3.3. Tư tưởng đạo đức thời kỳ Cận đại........................................ 35
CHƯƠNG 2. TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC TRONG TRIẾT HỌC
KHAI SÁNG PHÁP QUA NHỮNG CHỦ ĐỀ CƠ BẢN........................... 40
2.1. Tự do................................................................................................ 44
2.2. Tinh thần duy lý, “khai sáng” .......................................................... 52
2.3. Khoan dung...................................................................................... 67
2.4. Mấy nhận xét bước đầu về tư tưởng đạo đức trong triết học Khai
sáng Pháp......................................................................................... 75
Kết luận ........................................................................................................... 80
Danh mục tài liệu tham khảo .......................................................................... 82
4
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ xưa đến nay, vấn đề đạo đức, một trong những lĩnh vực hoạt động
người quan trọng và rộng nhất, luôn được quan tâm sâu sắc ở mọi cấp độ – từ
trong ý thức thông thường của nhân dân, đến tư tưởng của các nhà khoa học.
Có thể nói, đạo đức thuộc về số ít những lĩnh vực luôn mang tính cấp thiết và
luôn đặt ra những vấn đề mới.
Tuy nhiên, đó là đạo đức theo nghĩa đạo đức học chuẩn tắc và đạo đức
học ứng dụng. Còn đối với lịch sử tư tưởng đạo đức, vấn đề là tại sao việc
nghiên cứu những tư tưởng đạo đức đã qua rất lâu trong lịch sử (cụ thể như
việc nghiên cứu lịch sử tư tưởng đạo đức của triết học Khai sáng Pháp) lại có
thể có ý nghĩa – tức là có tính cấp thiết? Vì như Ăngghen1
đã nói, “từ thời đại
này đến thời đại khác, những quan niệm về thiện và ác đã biến đổi đến mức
chúng thường trái ngược hẳn nhau” [26, tr.135].
Lý do thứ nhất, theo chúng tôi, là việc cần thiết phải nghiên cứu lịch sử
tư tưởng – tư tưởng nói chung và tư tưởng đạo đức nói riêng – của mỗi một
giai đoạn đã qua. Ăngghen từng viết: “tư duy lý luận chỉ là một đặc tính bẩm
sinh dưới dạng năng lực của người ta mà có thôi. Năng lực ấy cần phải được
phát triển hoàn thiện, và muốn hoàn thiện nó thì cho tới nay, không có cách
nào khác hơn là nghiên cứu toàn bộ triết học thời trước” [26, tr.487]. Như
vậy, ở một khía cạnh nào đó, có thể thấy mọi nghiên cứu về lịch sử tư tưởng
đều là cần thiết. Đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam hiện nay, đứng trước
những thách thức ngày càng lớn của công cuộc hội nhập và phát triển, việc
phát triển năng lực tư duy lý luận, khả năng giải quyết “những cái chung” mà
1
Việc trình bày tên riêng và địa danh trong luận văn được thực hiện như sau: đối với tên các nhà kinh điển
của chủ nghĩa Mác, chúng tôi sử dụng phiên âm tiếng Việt; đối với tên các tác giả nước ngoài, chúng tôi để
nguyên văn; đối với địa danh, chúng tôi phiên âm sang tiếng Việt.
5
Lênin đã nói tới, sẽ tạo cho chúng ta những thuận lợi to lớn. Mà muốn làm
được như vậy, chúng tôi xin nhắc lại tư tưởng của Ăngghen: không có cách
nào khác là nghiên cứu toàn bộ lịch sử triết học [tư tưởng] thời trước.
Lý do thứ hai để chúng tôi tập trung nghiên cứu đề tài về tư tưởng đạo
đức của triết học Khai sáng Pháp xuất phát trực tiếp từ bản thân giai đoạn lịch
sử này. Thời kỳ “Khai sáng” là thời kỳ chuẩn bị về mặt tư tưởng cho Đại cách
mạng tư sản Pháp 1789. Cùng với cuộc cách mạng này, hàng loạt các cuộc
cách mạng tư sản khác đã diễn ra trên khắp lãnh thổ châu Âu và thế giới, tạo
điều kiện cho chủ nghĩa tư bản lớn mạnh, trở thành một hệ thống thế giới.
Cho đến ngày nay, chủ nghĩa tư bản vẫn là một lực lượng mạnh, thống trị ở
hầu như toàn bộ các nước giàu và có thế lực nhất. Thực tế này là nguyên nhân
để chúng ta đi tìm nguồn gốc sức mạnh của nó. Và một trong những đích mà
ta đạt đến trong quá trình tìm kiếm ấy là nền tảng tư tưởng của chủ nghĩa tư
bản vào thời kỳ đầu phát triển của nó. Nền tảng ấy chính là tư tưởng Khai
sáng, trong đó triết học Khai sáng Pháp đóng góp một phần đặc biệt quan
trọng: quan điểm về chính trị và đạo đức. Ngày nay, rất nhiều tư tưởng của
triết học Khai sáng Pháp đã hòa chung vào cấu trúc tư tưởng đặc trưng của
chủ nghĩa tư bản: quan điểm tự do, bình đẳng, lối sống thị dân, vấn đề giáo
dục, vấn đề quyền con người, v.v.. Có thể thấy chủ nghĩa tư bản hiện đại đã
kế thừa khá nhiều tư tưởng chính trị và đạo đức của thời kỳ Khai sáng Pháp.
Để hiểu biết sâu sắc về chủ nghĩa tư bản ấy, ngoài việc phân tích tình hình
kinh tế – xã hội của nó, còn cần xem xét cả những lĩnh vực tư tưởng của nó từ
gốc rễ. Đề tài của chúng tôi nhằm giải quyết một phần nhiệm vụ này.
Trong bối cảnh cụ thể của Việt Nam hiện tại, việc nghiên cứu đạo đức và
lịch sử các tư tưởng đạo đức còn có một ý nghĩa đặc biệt cấp thiết. Sự đảo lộn
của các thang bậc giá trị, sự thay đổi và xuống cấp về mặt đạo đức trong một
bộ phận không nhỏ người dân, là những lý do để các vấn đề đạo đức ngày
6
càng được quan tâm ở nhiều cấp độ. Với việc nghiên cứu những giai đoạn đã
qua trong lịch sử đạo đức, cụ thể ở đây là lịch sử tư tưởng đạo đức trong triết
học Khai sáng Pháp, trên cơ sở kế thừa có phê phán, ta có thể tìm được những
hạt nhân hợp lý góp phần xây dựng và phát triển ý thức đạo đức trong đời
sống tinh thần nước ta hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở Việt Nam, lịch sử nghiên cứu về tư tưởng của các nhà Khai sáng Pháp
đã bắt đầu từ những năm cuối thế kỷ XIX, khi thực dân Pháp chính thức đặt
ách đô hộ lên đất nước ta. Mặc dù bị thực dân ngăn chặn bằng nhiều cách,
nhưng những luồng tư tưởng tiến bộ của chính nước Pháp vẫn đến được Việt
Nam và đã lay thức một thế hệ những nhà Nho yêu nước kháng Pháp đương
thời. Thông qua Tân thư, Tân văn của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu, các
nhà Nho tiến bộ Việt Nam đã được biết đến tư tưởng dân chủ, tự do, bình
đẳng của Lư Thoa (Rousseau), Mạnh Đức Tư Cưu (Montesquieu), v.v..
Sau Cách mạng Tháng Tám 1945, việc nghiên cứu một cách bài bản và
khoa học các trào lưu tư tưởng nói chung và tư tưởng của các nhà Khai sáng
Pháp nói riêng bắt đầu được thật sự chú ý. Mặc dù vậy, cho đến tận ngày nay,
những công trình nghiên cứu chuyên sâu về lịch sử tư tưởng Khai sáng vẫn
hầu như vắng bóng. Khi bắt tay triển khai đề tài này, chúng tôi chỉ có được
những tài liệu hết sức khái quát – trong đó tư tưởng Khai sáng Pháp chỉ được
đề cập với tư cách một giai đoạn trong tiến trình lịch sử tư tưởng nhân loại.
Tuy nhiên, đó thật sự là những công trình hết sức có ý nghĩa đối với chúng
tôi. Có thể kể đến những tác phẩm sau:
Lịch sử triết học – Triết học thời kỳ tiền Tư bản chủ nghĩa. Triết học
Khai sáng từ thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XIX của Viện Hàn lâm khoa học Liên
Xô do Nhà xuất bản Sự thật dịch và xuất bản năm 1962. Tác phẩm này đem
7
lại cái nhìn tổng quát về các trào lưu tư tưởng và các nhà tư tưởng tiêu biểu
của Nga, Pháp và Bắc Mĩ trong thời gian khoảng hai thế kỷ, XVII và XVIII.
Riêng đối với triết học Pháp, các tác giả đặc biệt đề cao triết học Khai sáng
của thế kỷ XVIII, coi đó là “sự chuẩn bị về tư tưởng cho cuộc Cách mạng tư
sản ở Pháp”. Các nhà triết học cùng với những quan điểm cơ bản của họ cũng
được xem xét và đánh giá khá đầy đủ. Mặc dù vậy, do mục đích chính của các
tác giả là nghiên cứu tổng quát về triết học Pháp thế kỷ XVIII, với nội dung
bao trùm là cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật chiến đấu của phái Bách
khoa và những khuynh hướng dân chủ tiến bộ với chủ nghĩa duy tâm, những
quan điểm bảo hoàng phong kiến, nên các tư tưởng đạo đức hầu như ít được
đề cập đến.
Lịch sử văn học phương Tây, tập 1, Đỗ Đức Hiểu (chủ biên), nhà xuất
bản Giáo dục xuất bản năm 1963. Trong lời nói đầu, các tác giả cũng đã nói
rõ phần văn học Pháp được quan tâm nghiên cứu nhiều hơn các trào lưu văn
học khác, do chỗ các tác phẩm văn học Pháp đã được dịch và giới thiệu ở Việt
Nam nhiều hơn. Mặc dù viết về lịch sử văn học, nhưng bởi trong thời kỳ Khai
sáng Pháp, nhà văn và nhà triết học là một, nên các nhà nghiên cứu Việt Nam
cũng đã làm rõ những tư tưởng chủ đạo chi phối thời kỳ văn chương đó và tư
tưởng riêng biệt của các đại biểu văn chương Pháp – tất cả đều là triết gia tiêu
biểu (Voltaire, Diderot và Rousseau). Khi xem xét các tác phẩm cụ thể của
họ, các nhà nghiên cứu Việt Nam đã xem xét cả khía cạnh đạo đức (bởi trong
văn chương, cái đẹp đích thực bao giờ cũng gắn liền với cái chân và cái
thiện). Công trình này do đó rất có ích đối với chúng tôi.
Về trước tác của chính các nhà tư tưởng Khai sáng Pháp, cho đến nay chỉ
có thể kể đến Candide, chàng ngây thơ của Voltaire do dịch giả Tế Xuyên
dịch, xuất bản tại Sài Gòn năm 1974 và hai tác phẩm mới được phát hành gần
đây Bàn về khế ước xã hội của Rousseau và Bàn về tinh thần pháp luật của
8
Montesquieu, cả hai đều do dịch giả Hoàng Thanh Đạm dịch, Nhà xuất bản
Lý luận chính trị phát hành năm 2004. Trong Lời giới thiệu, Hoàng Thanh
Đạm có nhắc tới các bản dịch hoặc trích dịch trước đó của hai tác phẩm trên.
Để phục vụ cho luận văn này, chúng tôi cho rằng sử dụng hai bản dịch mới là
đủ, bởi chúng đã kế thừa được những thành công của các bản dịch trước đó.
Trên lĩnh vực nghiên cứu đạo đức học và các tư tưởng đạo đức, tình hình
cũng tương tự: từ Cách mạng Tháng Tám trở về trước, rất ít tác phẩm nghiên
cứu theo những phương pháp và cách thức của khoa học “phương Tây”. Ngay
từ thời phong kiến đã có nhiều tác giả viết về đạo đức, ví dụ như những tập
“gia huấn” mà các nhà Nho viết ra để dạy cho con cháu trong nhà hoặc học
trò của mình. Phần lớn các tác phẩm này là những lời khuyên phải sống cho
hợp với tam cương ngũ thường – tức là đạo đức thực tiễn, chứ không phải là
đạo đức học với tư cách một khoa học, hay nghiên cứu về những tư tưởng đạo
đức. Đến đầu thế kỷ XX, lác đác xuất hiện những tác phẩm có tính chất khảo
cứu sâu hơn. Có thể tìm thấy trong đó tác phẩm Nhơn đạo, dịch theo nguyên
văn của Lư Tín – một học giả Trung Hoa, xuất bản năm 1929. Tác phẩm này
bàn về những vấn đề đời người, chính trị, pháp luật, nhân quyền, giáo dục,
đạo đức, tôn giáo, v.v.. Dù đã có những tác phẩm có tính nghiên cứu như vậy,
nhưng tài liệu trong đó những vấn đề luân lý đạo đức được xem xét như đối
tượng của khoa học vẫn thật sự hiếm hoi.
Sau Cách mạng Tháng Tám, số lượng tài liệu nghiên cứu về đạo đức dần
dần tăng lên. Nhưng trong số đó phần lớn là các giáo trình đạo đức học – tính
chất phổ thông còn rõ hơn tính chất chuyên sâu. Tuy vậy, chúng ta vẫn có
được nhiều tác phẩm có chất lượng rất tốt. Có thể kể đến tác phẩm dịch của
học giả Hoàng Ngọc Hiến – Đạo đức học, của tác giả G.Bandeladze - một nhà
đạo đức học nổi tiếng của Liên Xô, do Nhà xuất bản Giáo dục ấn hành năm
1985. Trong các phân tích của tác giả, “quan điểm xã hội học được kết hợp
9
với quan điểm tâm lý học” và do vậy, “những nguyên tắc đạo đức mang ý
nghĩa quy luật và được giới thiệu với một căn cứ toàn diện” [2, tr.3]. Tác giả
có sự phân tích sâu sắc về mối quan hệ giữa đạo đức với các hình thái khác
của ý thức xã hội như chính trị, pháp lý, nghệ thuật và qua đó xác định
“những đặc trưng khái quát của đạo đức trên bình diện triết học” [2, tr.9]. Đây
là một trong những sách tham khảo có giá trị, mặc dù do mục đích của nó –
“thử trình bày một hệ thống đạo đức học mácxít”, – tác giả đã không đề cập
đến lịch sử những tư tưởng đạo đức của nhân loại.
Ngoài ra, viện Triết học đã từng tổ chức tập hợp, biên soạn và xuất bản
(trong năm 1972) tác phẩm Bàn về đạo đức của các nhà kinh điển của chủ
nghĩa Mác. Tư tưởng của Hồ Chí Minh về đạo đức cũng được quan tâm
nghiên cứu và năm 1993 Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia đã phát hành tác
phẩm Về đạo đức, tập hợp những bài viết và bài nói của Hồ Chí Minh về vấn
đề này. Đó là những tác phẩm tra cứu hữu dụng, góp phần đưa chúng ta tiếp
cận những tư tưởng của Mác, Ăngghen, Lênin và Hồ Chí Minh về đạo đức
thông qua tác phẩm gốc của các ông.
Như vậy, có thể thấy mặc dù hiện nay số lượng tài liệu về đạo đức học
không phải ít, nhưng những công trình nghiên cứu chuyên sâu về lịch sử tư
tưởng đạo đức của mỗi thời kỳ trong lịch sử nhân loại vẫn hầu như vắng bóng
ở Việt Nam.
Trên thế giới, việc nghiên cứu tư tưởng đạo đức đã được bắt đầu từ rất
sớm. Do những hạn chế của tác giả, luận văn chỉ xin tập trung vào mảng tài
liệu tiếng Pháp về đề tài này.
Ngay từ thế kỷ XIX, ở Pháp đã xuất hiện tác phẩm viết về lịch sử đạo
đức của thời kỳ Khai sáng – tác phẩm Những bài giảng về lịch sử triết học
đạo đức thế kỷ XVIII – của Victor Cousin, nhà duy linh luận nổi tiếng. Tuy
nhiên, theo Lucien Sève, trong Triết học hiện đại Pháp và nguồn gốc của nó
10
từ năm 1789 đến nay, thì triết học của thế kỷ XVIII, triết học Khai sáng, đã bị
những nhà duy linh luận (như V.Cousin) và những tác giả của trào lưu “triết
học của giáo hội Thiên chúa” gạt bỏ không thương tiếc, vì những lý do chính
trị sâu xa. Đến thế kỷ XX, triết học Pháp tập trung phát triển những trường
phái hoàn toàn khác so với những tư tưởng của trào lưu Khai sáng: triết học
cuộc sống của Bergson, triết học hiện sinh, hiện tượng học, chủ nghĩa cấu
trúc, chú giải học, v.v.. Dường như những tư tưởng Khai sáng chỉ còn được
nghiên cứu với tư cách “đã qua trong lịch sử”. Nhưng, cũng theo Lucien Sève,
tư tưởng Khai sáng, tư tưởng duy vật tuy không được kế thừa ở những tác
phẩm lớn hay những tác giả lớn, nhưng vẫn sống và bắt rễ vững chắc trong
quan điểm của khoa học tự nhiên và trong đời sống nhân dân đông đảo.
Như vậy, ta có thể tìm thấy những tư tưởng đạo đức của các nhà Khai
sáng trong các tác phẩm nghiên cứu về lịch sử của trào lưu này hay về bản
thân các tác giả cụ thể, thậm chí trong những tác phẩm nghiên cứu về Cách
mạng 1789. Trong số những tác phẩm này, có nhiều công trình thuộc về các
tác giả ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây. Ví dụ như tác phẩm nghiên cứu
về tư tưởng của Helvétius của Kh.Momdjian, do Nhà xuất bản Ngoại văn
Mátxcơva ấn hành năm 1959, hay tác phẩm viết về Diderot “một gương mặt
lớn của chủ nghĩa duy vật chiến đấu trong thế kỷ XVIII” của József Szigeti,
thuộc Viện Hàn lâm khoa học Hungary, in tại Buđapét năm 1962. Đương
nhiên đối với những nhà nghiên cứu Pháp, trào lưu tư tưởng của chính dân tộc
họ luôn luôn là đề tài vô tận cho những trang viết của họ. Ngoài những trước
tác của chính các nhà tư tưởng Khai sáng, những tác phẩm viết về họ luôn
luôn mỗi năm một nhiều thêm. Ở đây chúng tôi chỉ xin nêu ra một vài tác
phẩm mới được xuất bản gần đây.
Những nhà Khai sáng ở Pháp và châu Âu của Dominique Bouquet, Nhà
xuất bản Pocket, Paris 2004. Một cuốn sách nhỏ tổng hợp và khái quát những
11
tư tưởng của các nhà Khai sáng. Không những thế, nó còn chứa đựng một
danh mục rất thuận tiện các sách viết về trào lưu này, mà như tác giả đã viết,
đó mới chỉ là một sự tuyển chọn chứ không phải là toàn bộ, vì “đối với một
đề tài rộng lớn như đề tài về các nhà Khai sáng, cảm hứng luôn luôn là vô
tận” [58, tr.165].
Những nhà Khai sáng, tập trích tư tưởng của những nhà Khai sáng của
François Icher, Nhà xuất bản Martinière, Paris 2004, gần như một sự phổ biến
thêm một lần nữa những tư tưởng Khai sáng cho các thế hệ hiện nay.
Trào lưu Khai sáng là gì? – Jean-Michel Muglioni dịch và phân tích tác
phẩm nổi tiếng của Kant về trào lưu Khai sáng, xuất bản năm 2005.
Riêng về tư tưởng đạo đức của trào lưu Khai sáng, người ta có thể tìm
thấy trong công trình đồ sộ của một tập thể rộng lớn các nhà nghiên cứu nổi
tiếng của Pháp: Từ điển đạo đức học và triết học đạo đức, do Monique Canto-
Sperber chủ biên, xuất bản năm 1996, tái bản năm 2001 ở Paris. Với hơn
1700 trang in và hơn 400 mục từ – mỗi mục từ giống như một bài nghiên cứu
hoàn chỉnh, nội dung phong phú của nó đã đem lại rất nhiều thuận lợi cho
chúng tôi khi triển khai đề tài này.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên, ở những phương diện khác
nhau, đều có những đóng góp đáng kể vào việc nghiên cứu trào lưu tư tưởng
Khai sáng. Nhưng không có công trình nào trong số đó đề cập đến tư tưởng
đạo đức của trào lưu đó như một đối tượng nghiên cứu chủ đạo. Mặt khác, do
những điều kiện hạn chế, chúng tôi không có được những tư liệu tiếng nước
ngoài bàn trực tiếp về vấn đề kể trên. Trong tình hình đó, chúng tôi mong
muốn luận văn của mình có thể đem lại một cái nhìn cụ thể và bao quát, góp
phần làm sáng tỏ một lĩnh vực của giai đoạn tư tưởng quan trọng này.
12
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích: làm rõ nội dung tư tưởng đạo đức của triết học Khai sáng
Pháp, qua đó rút ra những kết luận khái quát về tư tưởng đạo đức trong thời
kỳ đầu hình thành và phát triển của chủ nghĩa tư bản.
Nhiệm vụ:
- Phân tích bối cảnh lịch sử – xã hội của thời kỳ Khai sáng Pháp và
những tư tưởng đạo đức của các thời kỳ trước đó với tư cách tiền đề của tư
tưởng đạo đức trong triết học Khai sáng Pháp.
- Phân tích những chủ đề cơ bản trong tư tưởng đạo đức của các nhà
Khai sáng Pháp.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tư tưởng đạo đức của các nhà triết
học tiêu biểu của trào lưu Khai sáng Pháp thế kỷ XVIII. Trong số các nhà
Khai sáng, chúng tôi tập trung chú ý vào bộ tứ tiêu biểu: Montesquieu,
Voltaire, Rousseau và Diderot, cùng với những nhà tư tưởng thuộc phái Bách
khoa. Trong quá trình luận chứng, chúng tôi cũng đề cập đến những nhà triết
học khác mà ở những khía cạnh cụ thể, tư tưởng của họ mang tính tiêu biểu
cho thời đại.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên nền tảng chủ nghĩa duy vật về lịch sử, những quan
điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin trong việc nghiên cứu lịch sử tư tưởng, từ đó
xem xét những tiền đề phát sinh và tiến trình phát triển của tư tưởng đạo đức
của các nhà triết học Pháp thời kỳ Khai sáng, cũng như những hạn chế mang
tính lịch sử của tư tưởng của họ.
13
Phương pháp nghiên cứu: luận văn sử dụng các phương pháp như phân
tích, tổng hợp, so sánh, khái quát hóa, đặc biệt là phương pháp logic – lịch sử.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn góp phần làm sáng tỏ những nội dung cơ bản của tư tưởng đạo
đức của một giai đoạn quan trọng trong lịch sử tư tưởng nhân loại – một giai
đoạn mà ở Việt Nam chưa có được những nghiên cứu quy mô. Ngoài ra, luận
văn cũng hy vọng góp phần vào việc nghiên cứu lịch sử tư tưởng đạo đức –
một mảng đề tài đang còn mỏng ở Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 2 chương, 7 tiết.
14
CHƯƠNG 1
NHỮNG ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ CỦA TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC
TRONG TRIẾT HỌC KHAI SÁNG PHÁP
Nghiên cứu về lịch sử tư tưởng đạo đức tất yếu phải xuất phát từ luận
điểm coi đạo đức là một trong những hình thái của ý thức xã hội. Nhưng nếu
chỉ nói như vậy thì chưa đủ. Cần phải xem xét vấn đề một cách biện chứng:
đạo đức là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt. Tính chất đặc biệt của nó nằm
ở chỗ nó là lĩnh vực hoạt động người có tính độc lập tương đối ở mức độ rất
cao đối với tồn tại xã hội. M.Michalich đã nhận xét: “Đạo đức như là một yếu
tố của ý thức xã hội, hoạt động tương đối độc lập đối với những điều kiện vật
chất đến mức nó chịu ảnh hưởng đáng kể của các hình thái ý thức còn lại, đặc
biệt là sự ảnh hưởng của triết học, khoa học, tín ngưỡng, hoặc nói rộng hơn -
ảnh hưởng của hệ tư tưởng. Bởi vì bản thân cái hình thức này cũng là sự phản
ánh các điều kiện vật chất nên chúng cùng nhau quyết định hình thức đạo đức,
đưa vào đó những yếu tố mới so với các điều kiện hiện có và dẫn đến sự gián
đoạn giữa đạo đức và những điều kiện đó cũng như tính chất không phù hợp
của chúng” [31, tr.34]. Có thể nói, với một dữ kiện lịch sử thông thường, đạo
đức có một “sức ỳ” nào đó – nó không đổi thay nhanh chóng theo sự thay đổi
của các điều kiện vật chất. Chỉ trong những trường hợp đặc biệt, những đổi
thay mang tính bước ngoặt và căn bản, mới có được tác động “nhìn thấy
được” đối với những tư tưởng đạo đức đang hiện diện ở thời điểm đó. Xem
xét tư tưởng đạo đức trong triết học Khai sáng Pháp, ta có thể có được một ví
dụ điển hình cho nhận định trên.
Triết học Khai sáng Pháp nảy nở và phát triển trọn vẹn trong thế kỷ
XVIII. Ở châu Âu, xét về mặt chính trị, có thể nói không quá rằng thế kỷ
XVIII chính là thế kỷ của nước Pháp. Nếu như trong các thế kỷ XV, XVI và
15
XVII, khi chủ nghĩa tư bản đã đi từ những giai đoạn tích lũy nguyên thủy đầu
tiên đến sự dần dần hình thành và bước hẳn lên vũ đài lịch sử với Hà Lan (đất
nước của cuộc Cách mạng tư sản đầu tiên trong lịch sử, diễn ra vào năm
1579) và Anh quốc (đất nước của Cách mạng tư sản 1642-1688), thì đến thế
kỷ XVIII, trung tâm của những cuộc đấu tranh của giai cấp tư sản chống lại
những giai cấp và tầng lớp đặc quyền đặc lợi đã chuyển sang nước Pháp. Đây
chính là thời kỳ mà Ăngghen đã nhắc tới, thời kỳ “nước Pháp đã đập tan chế
độ phong kiến và thiết lập nền thống trị thuần túy của giai cấp tư sản dưới một
dạng cổ điển mà không một nước nào khác ở châu Âu đạt được” [28, tr.384].
Sự kiện nổi bật nhất diễn ra trên nước Pháp trong thế kỷ XVIII, có ý
nghĩa không chỉ trong phạm vi châu Âu mà còn mang tính chất một chuyển
biến lịch sử căn bản, là cuộc Cách mạng tư sản 1789. Để cuộc đại cách mạng
này bùng nổ, trong suốt thế kỷ XVIII đã diễn ra những thay đổi làm lung lay
tận gốc tất cả những nền tảng xã hội cũ ở Pháp. Và tất cả những chuyển biến
dữ dội đó đã ghi những dấu ấn sắc nét lên đời sống tư tưởng, trong đó có lĩnh
vực tư tưởng đạo đức.
1.1. Điều kiện kinh tế – xã hội
Trong suốt thế kỷ XVIII, nước Pháp là nước phát triển thứ hai ở châu
Âu, chỉ sau nước Anh, nhưng vẫn là một nước nông nghiệp với 90% dân số
(trên tổng số 25 triệu người) là nông dân. Hơn nữa, Pháp lại là nước có nền
nông nghiệp lạc hậu hơn nhiều so với Anh quốc. Các phương thức canh tác cũ
kỹ, công cụ sản xuất cổ xưa, năng suất đặc biệt thấp, nạn mất mùa xảy ra
thường xuyên. Thế kỷ XVIII ở Pháp đã xảy ra 16 nạn đói trên phạm vi toàn
quốc, mà theo như lời tác giả Những cấu trúc sinh hoạt thường ngày thì
“những số liệu này lập vào thế kỷ XVIII, tất nhiên là đã được nêu lên với tất
cả sự dè dặt, chỉ có nguy cơ là hơi lạc quan vì đã bỏ qua hàng trăm và hàng
16
trăm trận đói từng vùng” [3, tr.54]. Chúng ta biết rằng nước Pháp ở vào khu
vực mà khí hậu và đất đai thuộc loại thuận lợi nhất ở Tây Âu cho sự phát triển
nông nghiệp.
Tình trạng đó một phần lớn là hậu quả của phương thức sở hữu và canh
tác phong kiến lạc hậu. Đất đai hầu như hoàn toàn nằm trong tay các lãnh
chúa phong kiến, người nông dân nhận đất và trồng cấy trên đó bằng những
phương thức được lưu truyền từ đời này qua đời khác. Đất đai do đó bị chia
cắt, manh mún, không sinh lợi. Trong thế kỷ XVIII, đã có một vài địa chủ tổ
chức sản xuất theo phương thức tư bản chủ nghĩa trên đất đai của mình. Họ
tập trung đất đai lại, xua đuổi người nông dân từng canh tác nhiều đời trên
mảnh đất đó đi nơi khác, ứng dụng những cải tiến kỹ thuật du nhập từ nước
Anh. Nhưng số những người thực hiện công việc đó còn rất ít, và “ở Pháp,
trước Cách mạng tư sản, sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở nông thôn nói
chung còn khá yếu” [30, tr.10].
Tình hình công nghiệp và thương nghiệp có khả quan hơn. Chịu ảnh
hưởng của cuộc cách mạng công nghiệp đang diễn ra rất sôi nổi ở bên kia eo
biển Măngsơ, công nghiệp Pháp đến cuối thế kỷ XVIII đã khá phát triển, với
nhiều công trường thủ công tập trung và bán tập trung, máy móc được cải
tiến, số lượng công nhân tăng nhanh và có sự chuyên môn hóa cao. Tuy
nhiên, công nghiệp bị kìm hãm bởi phương thức sản xuất phong kiến, bởi
chính quyền chuyên chế với những quy định ngặt nghèo và vô lý về thuế, về
quy mô sản xuất, về sản phẩm, v.v.. Tình trạng tự cung tự cấp do không có
sức mua của nông dân, những thuế khóa nặng nề và chồng chất, sự không
thống nhất của thị trường trong nước đều góp phần hạn chế sự tăng trưởng
của công nghiệp và thương nghiệp.
Có thể nói, đến thế kỷ XVIII, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đã hình
thành và phát triển trong lòng chế độ chuyên chế Pháp. Dù chịu rất nhiều kìm
17
nén và sau này, ngay trước cách mạng tư sản, là sự chống đối quyết liệt, thì
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa cùng với lực lượng đại diện của nó –
giai cấp tư sản – đã thật sự có được vị trí không thể thay thế trong nền kinh tế
Pháp và do đó trong đời sống xã hội Pháp thế kỷ XVIII.
Xã hội Pháp thế kỷ XVIII chia thành ba đẳng cấp. Đó là những đẳng cấp
tăng lữ, quý tộc và “đẳng cấp thứ ba”. Tăng lữ và quý tộc là những đẳng cấp
đặc quyền đặc lợi. Tăng lữ - giáo hội, giáo sĩ, người nắm quyền về đời sống
tinh thần, “nắm phần hồn”, của xã hội. Quý tộc - giới quyền chức tập hợp
quanh nhà vua và địa chủ quý tộc ở các vùng, nắm quyền chính trị thực tế.
Đẳng cấp thứ ba bao gồm toàn bộ thành phần dân cư còn lại: tư sản, nông
dân, người bình dân (plèbe), là đẳng cấp thấp nhất, không có một chút quyền
lực nào, không có được tiếng nói nào trong việc định đoạt đường hướng phát
triển của xã hội - xã hội mà trong đó họ chiếm đa số (khoảng 99% dân cư).
Trong nội bộ các đẳng cấp không có tính đồng nhất. Điều này thể hiện
ngay ở các đẳng cấp đặc quyền. Trong giới tăng lữ, có sự phân biệt giữa tăng
lữ cấp cao – hồng y, các giám mục, những chức sắc tôn giáo xuất thân đại quý
tộc – và tăng lữ “cấp thấp” – các cha xứ, những thầy trợ tế ở các giáo khu
nông thôn. Tầng lớp “cấp thấp” này gần gũi với nhân dân, đặc biệt là với
nông dân, và cũng bị tầng lớp “cấp cao” chèn ép, nên trong những cuộc đấu
tranh vì dân chủ do giai cấp tư sản khởi xướng, người ta cũng thấy những
giáo sĩ “cấp thấp” trong hàng ngũ đấu tranh, ở những hình thức trực tiếp hoặc
gián tiếp. Điển hình của tầng lớp tăng lữ “cấp thấp” trong việc phản kháng lại
chính đẳng cấp tăng lữ, là mục sư Jean Meslier (1664-1729)2
. Trong giới quý
tộc, sự không đồng nhất thể hiện rõ ràng hơn. Quý tộc cung đình và quý tộc
nông thôn, quý tộc cung kiếm (dòng dõi kỳ cựu) và quý tộc áo dài (xuất thân
2
Jean Meslier là mục sư giáo xứ Êtrêpinhi, vùng Ácđen, sống trong thầm lặng và chết không tên tuổi, nhưng
để lại một tác phẩm - Di chúc - trong đó thể hiện phản ứng dữ dội đối với giáo hội và mang tính duy vật, vô
thần rõ nét.
18
tư sản, dùng tiền mua tước vị quý tộc), giữa họ có những bất đồng về quyền
lợi và cả về địa vị. Tuy nhiên, “giữa những nhóm của hai đẳng cấp trên đều
không có những mâu thuẫn đối kháng. Họ đều có một nét chung (có lẽ chỉ trừ
tăng lữ cấp thấp) là họ thuộc về những đẳng cấp có đặc quyền và thống trị,
bóc lột, bóp nặn và áp bức phần dân cư còn lại trước hết là nông dân” [30,
tr.24-25].
Trong đẳng cấp thứ ba, nổi trội nhất là giai cấp tư sản, đại diện cho
phương thức sản xuất mới hình thành và đang chiếm ưu thế trong xã hội. Giai
cấp tư sản Pháp thế kỷ XVIII, về phương diện kinh tế, là giai cấp nắm hầu
như toàn bộ nguồn của cải của xã hội. Họ có trong tay những công xưởng lớn,
lượng nhân công lớn, sản xuất và kinh doanh những sản phẩm quan trọng
đem lại cho nước Pháp vị thế thứ hai ở châu Âu. Họ đưa về nước những cải
tiến kỹ thuật từ nước Anh, làm cho khoa học và kỹ thuật có điều kiện để phát
triển. Họ không nắm ruộng đất, nhưng toàn bộ ngân hàng và hoạt động tài
chính do họ kiểm soát. Những địa chủ ít ỏi có thể đem lại lợi nhuận từ sản
xuất nông nghiệp cũng chính là những người áp dụng phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa vào trong nông nghiệp và dần dần trở thành những nhà tư bản.
Những địa chủ này tuy có gốc gác quý tộc, nhưng cũng tham gia vào cuộc đấu
tranh của giai cấp tư sản chống lại những đẳng cấp đặc quyền. Các thành phần
thuộc hai đẳng cấp “bên trên”, cho đến trước Cách mạng 1789, hầu như đều
phải phụ thuộc về mặt kinh tế vào giai cấp tư sản. Quý tộc, tăng lữ vốn chỉ
biết thụ hưởng cuộc sống xa hoa và không tham gia vào quá trình sản xuất
của xã hội, dần dần trở thành con nợ của giai cấp tư sản.
Là giai cấp có thế lực lớn nhất về kinh tế, nhưng giai cấp tư sản cũng chỉ
được xếp vào đẳng cấp thứ ba, tức là đẳng cấp thấp nhất, không có một chút
quyền lực nào về mặt chính trị. Tăng lữ, quý tộc phụ thuộc vào họ, nhưng trên
danh nghĩa vẫn “ở phía trên”. Hai đẳng cấp này tìm mọi cách lợi dụng những
19
đặc quyền của mình để bóc lột giai cấp tư sản - hoặc là vay nợ họ với số
lượng lớn, hoặc là tìm ra đủ thứ thuế khóa để trói buộc họ. Mâu thuẫn giữa
giai cấp tư sản và các đẳng cấp đặc quyền lúc đó đã trở thành thứ mâu thuẫn
đối kháng không thể không giải quyết, và nó đã bùng nổ thành Cách mạng tư
sản 1789. Hơn nữa, do các đẳng cấp đặc quyền không chỉ bóc lột giai cấp tư
sản, mà ách thống trị của chúng còn buộc lên cổ tất cả mọi giai cấp và tầng
lớp thuộc đẳng cấp thứ ba, nên lẽ tất nhiên là khi giai cấp tư sản đứng lên
chống lại giai cấp địa chủ phong kiến và đẳng cấp tăng lữ, những giai cấp và
tầng lớp khác của đẳng cấp thứ ba đã tập hợp lại dưới sự lãnh đạo của họ.
Giai cấp tư sản được nhận thức – và tự nhận thức – với tư cách người đại diện
cho quyền lợi của toàn bộ đẳng cấp thứ ba, cũng có nghĩa là người đại diện
cho quyền lợi của đại đa số quần chúng nhân dân trong xã hội. Về vấn đề này,
Mác đã nhận xét rất xác đáng rằng: “Tính chất tiêu cực phổ biến của giới quý
tộc Pháp và của giới thầy tu Pháp đã là điều kiện của tính chất tích cực phổ
biến của giai cấp gần chúng nhất và đối lập với chúng nhất: giai cấp tư sản”
[27, tr.31].
“Tính chất tích cực phổ biến” của giai cấp tư sản Pháp thế kỷ XVIII
được nhận thức rộng rãi không chỉ trong giới trí thức tư sản mà ở cả những
người có xuất thân ngoài tư sản. Trong những nhà tư tưởng tiêu biểu và được
xếp vào trào lưu Khai sáng, chỉ có một số ít là trí thức tư sản, và người vừa là
nhà tư tưởng kiệt xuất vừa là một tư sản thành đạt và giàu có thì chỉ có một –
Voltaire. Các nhà tư tưởng tiêu biểu của trào lưu Khai sáng phần nhiều là quý
tộc và có quan hệ mật thiết với giới tăng lữ (Montesquieu, Holbach là quý tộc
dòng dõi, d’Alembert là con của quý tộc nhưng được nhà thờ nuôi dưỡng,
Bayle, Condillac, La Mettrie đều xuất thân từ giới chức tôn giáo). Trong số
những nhà Khai sáng nổi tiếng, chỉ có một người xuất thân đẳng cấp thứ ba và
không phải là tư sản: Rousseau. Điều này nói lên rằng chiều hướng phát triển
20
của lịch sử đã được giới trí thức nắm bắt rất nhanh chóng, cho dù họ có nguồn
gốc xuất thân khác nhau. Mặc dù tất cả các nhà Khai sáng tiêu biểu đều ra đi
trước khi Cách mạng tư sản 1789 bùng nổ, nhưng những tư tưởng của họ đã
trở thành lý luận chỉ đạo cho cách mạng, cho quá trình lật đổ cái cũ và thiết
lập cái mới, và cả cho quá trình xây dựng chủ nghĩa tư bản ở Pháp cũng như
trên thế giới trong thời gian sau đó.
Còn lại trong đẳng cấp thứ ba là giai cấp nông dân và những tầng lớp
được gọi là “bình dân”. Giai cấp nông dân chiếm 90% dân số của cả nước
Pháp lúc bấy giờ, đa phần là nghèo khổ khốn cùng. La Bruyère, nhà văn cuối
thế kỷ XVII, đã miêu tả về thân phận của người nông dân trong đoạn văn nổi
tiếng của ông như sau: “Người ta thấy một số thú vật dữ tợn, đực và cái, rải
khắp các làng xóm, sạm đen, hốc hác và rám nắng, gắn chặt vào mảnh đất mà
chúng đào xới một cách cực kỳ nhẫn nại; hình như chúng cũng có một giọng
nói, và khi chúng đứng lên, người ta thấy chúng có bộ mặt người; và quả thực
chúng là người. Đêm đến chúng rúc vào hang, sống bằng bánh mì đen, nước
lã và rễ cây; nhờ chúng, những người khác khỏi phải gieo, cày và gặt để
sống” [30, tr.30-31]. Đoạn văn này trong tác phẩm Những tính cách và thói
đời của thế kỷ, được xuất bản lần đầu năm 1688, nhưng từ lúc đó cho đến
trước Cách mạng 1789, tức là trong suốt thế kỷ XVIII, những gì mà La
Bruyère viết về người nông dân vẫn còn nguyên giá trị vạch trần. Còn về
những người bình dân, họ là tầng lớp đặc biệt, kết quả của quá trình đô thị hóa
và sự tích lũy tư bản chủ nghĩa, kết quả của sự phát triển của phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa trong lòng xã hội phong kiến. Họ bao gồm công nhân,
thợ thủ công, những người không có công ăn việc làm ổn định, những người
bần cùng sống chui rúc trong các khu ổ chuột ở các thành phố lớn. Bình dân
là lớp người ở thang bậc thấp nhất trong xã hội Pháp thế kỷ XVIII. Thời kỳ
này, công nhân chưa trở thành một giai cấp có ý thức giác ngộ riêng biệt. Họ
21
gồm những người xuất thân từ dân nghèo thành thị và nông dân phá sản. Cuộc
sống cực khổ bần cùng của họ cũng như số phận của đại đa số dân cư Pháp
thời đó. Và vì chưa trở thành một giai cấp thật sự, họ tham gia vào các cuộc
đấu tranh chung chống lại phong kiến mà giai cấp tư sản phát động.
Như vậy, trong suốt thế kỷ XVIII, ở Pháp đã diễn ra những chuyển biến
to lớn trong đời sống xã hội. Những phương thức sản xuất cũ và mới đan xen
nhau, những tầng lớp xã hội ngày càng cố kết và phân tách rõ nét, những mâu
thuẫn xã hội ngày một gay gắt cho đến lúc bùng nổ. Cách mạng 1789 diễn ra
như là kết cục không tránh khỏi của những mâu thuẫn ấy, như là đòi hỏi “giải
quyết mâu thuẫn” của sự phát triển lịch sử. Tất cả những đảo lộn trong đời
sống được phản ánh vào các trào lưu tư tưởng, trong đó có tư tưởng đạo đức -
vốn là một hình thái ý thức xã hội ít chịu tác động trực tiếp của các sự kiện
lịch sử. Nhìn nhận một cách tổng quát, có thể thấy những biến động mạnh mẽ
trong suốt thế kỷ XVIII của xã hội Pháp đã tạo ra những hệ quả về mặt đạo
đức: lý tưởng đạo đức phong kiến được gây dựng bền vững trong nhiều thế kỷ
dần dần bị hạ thấp và hoài nghi; ở các nhà Khai sáng, lý tưởng ấy còn bị phê
phán mạnh mẽ. Trong khi đó, cùng với đà phát triển của chủ nghĩa tư bản,
chuẩn mực đạo đức tư sản dần dần trở thành phổ biến. Quan điểm về tự do,
dân chủ, bình đẳng, v.v., hoàn toàn đối lập với những chuẩn mực phong kiến,
được thừa nhận và ngày càng có được sự đồng tình rộng rãi.
1.2. Tiền đề khoa học và văn hóa
Chúng tôi muốn đề cập đến đời sống tinh thần của thế kỷ XVIII ở Pháp.
Bối cảnh đó đóng vai trò nền tảng tinh thần trên đó các nhà Khai sáng xây
dựng những quan điểm về đạo đức của họ. Có thể thấy, về mặt này, thế kỷ
XVIII được khắc họa bởi hai đặc trưng nổi bật: 1) sự phát triển của khoa học
22
tự nhiên, khoa học thực nghiệm và cùng với nó là sự đề cao lý tính; 2) những
đổi thay trong thái độ đối với Nhà thờ và tôn giáo.
1.2.1. Sự phát triển của khoa học tự nhiên và khoa học thực nghiệm,
sự đề cao lý tính
Đây là di sản thật sự mà các thế kỷ XVI, XVII – mà đặc biệt là thế kỷ
XVII – để lại cho thế kỷ XVIII. Nói một cách hình ảnh như các tác giả của
Văn minh phương Tây, thì “cội rễ của những thay đổi này [những thay đổi
mau chóng về khoa học và kỹ thuật] ăn mãi về thời Phục hưng và cải cách và
trước nữa, nhưng mãi vào khoảng năm 1650 cái cây này mới đâm chồi nảy
lộc” [4, tr.424]. Và khi đã đâm chồi, nó lớn rất nhanh. Thế kỷ XVII ở phương
Tây được gọi là “thời đại của lý tính”, vì các khoa học đã phát triển một cách
đặc biệt phi thường. Các hoạt động nghiên cứu khoa học và khoa học thực
nghiệm được khuyến khích, tri thức khoa học được phổ thông hóa (một phần
là do sự phát triển của nghề in từ thời Phục hưng và sự xuất hiện và phát triển
của báo chí từ năm 1609), các viện Hàn lâm khoa học lớn được thành lập, mối
quan hệ giữa các nhà khoa học trên toàn châu Âu được đẩy mạnh, hình thành
một cộng đồng khoa học có tính quốc tế. Trong “thời đại của lý tính” này, các
phát minh khoa học quan trọng liên tiếp ra đời, đặc biệt là ở các ngành toán
học, thiên văn học và cơ học. Những tác phẩm khoa học và triết học đánh dấu
sự chuyển đổi mang tính bước ngoặt sang khuynh hướng duy lý, đặc trưng
của triết học và khoa học cận đại châu Âu – đã lần lượt được xuất bản. Đó là
Organon mới (1626) của Francis Bacon, Phương pháp luận (1637) và Những
suy niệm siêu hình học (1641) của René Descartes, Những nguyên lý toán học
của triết học tự nhiên (1686) của Newton. Tác phẩm của Newton được coi là
cơ sở của khoa học cổ điển, còn Organon mới cùng với Phương pháp luận và
Những suy niệm siêu hình học đã xây dựng nền tảng cho toàn bộ chủ nghĩa
23
duy lý (nghĩa rộng) sau này. Như vậy, cùng với sự phát triển của khoa học tự
nhiên là sự phát triển của quan điểm coi lý tính là phương tiện quan trọng nhất
của con người trong việc cải tạo thế giới và hoàn thiện bản thân. Khuynh
hướng phát triển của khoa học tự nhiên và sự đề cao lý tính đều được thế kỷ
XVIII tiếp nhận.
Trong thế kỷ XVIII, các khoa học tự nhiên và khoa học thực nghiệm tiếp
tục có những phát triển mới. Cùng với sự tiến triển tiếp theo của toán học và
cơ học, sinh học và hóa học đã có những phát hiện lớn đầu tiên. Những khoa
học khác như địa chất học, tâm lý học bắt đầu hình thành.
Ở thế kỷ XVIII, không thể nói đến “khoa học cơ bản” và “khoa học ứng
dụng” với nghĩa hiện đại. Nhưng rõ ràng là những khoa học thực nghiệm và
những nghiên cứu khoa học tự nhiên trong rất nhiều trường hợp chịu sự thúc
đẩy của nhu cầu thực tế và được gợi ý từ những hoạt động thực tiễn, để rồi
sau đó tiếp tục phục vụ cho sự tiến bộ của những hoạt động khai thác tự
nhiên. Các tác giả của Văn minh phương Tây đã nêu ra hàng loạt dẫn chứng:
“Các thợ thủy tinh đã chế ra những kính giúp khoa học thiên văn và sinh vật
học tiến rất xa; những thợ mỏ cuối thời Trung cổ khởi đầu tiến trình đưa đến
địa chất học, khoáng chất học và nhiều môn “địa học” khác; và cũng chính
những người này, vì cần bơm nước từ hầm mỏ ra, đã khởi đầu những suy luận
đưa đến việc phát minh máy hơi nước; những người Hà Lan tiên phong trong
nghề bảo hiểm, là một nghề đặc biệt của thời hiện đại, bắt đầu nghiên cứu hy
vọng sống lâu của con người và đã giúp nhiều cho khoa thống kê ngày nay”
[4, tr.430]. Không thể phủ nhận việc cách mạng công nghiệp Anh diễn ra vào
thế kỷ này đã được thúc đẩy hết sức mạnh mẽ do những cải tiến kỹ thuật xuất
phát từ những nguyên lý khoa học đã được phổ biến và trở thành nền tảng của
phong cách tư duy của thời đại.
24
Như vậy, không chỉ ở Pháp mà trên toàn châu Âu, vai trò của khoa học
tự nhiên và khoa học thực nghiệm ngày càng được đề cao. Từ đó dẫn đến tính
chất duy lý, duy khoa học trong phong cách tư duy của các nhà khoa học và
các nhà triết học. Ở đây chúng ta nên nhìn nhận vấn đề một cách lịch sử – cụ
thể: khuynh hướng duy khoa học trong các nhà khoa học của thời kỳ Khai
sáng không thể coi một cách đơn giản là một hạn chế, là sự bỏ qua hay lãng
quên những thành tố khác của tồn tại người, mà phải được nhìn nhận như đặc
điểm của thời đại đó – nghĩa là bất kỳ nhà khoa học, nhà triết học nào ở vào
thời đại đó tất đều mang đặc điểm đó trong lối tư duy của mình. Lối tư duy
duy lý trở thành đặc trưng của thời đại. Chúng ta hiểu duy lý ở đây theo nghĩa
rộng: không phải là sự đối trọng với duy cảm hay “kinh nghiệm” trong nhận
thức luận, mà là đối trọng với phi duy lý – với tư cách thế giới quan, nhân
sinh quan. Các nhà khoa học và triết học thế kỷ XVIII, chịu ảnh hưởng của
Bacon và Descartes, đặt tất cả những kiến thức đã có dưới “ánh sáng nghiêm
khắc của lý trí”. Sử dụng lý tính khoa học để giải đáp mọi câu hỏi, mọi vấn đề
của tự nhiên và xã hội, các nhà khoa học và triết học thời kỳ này đã thật sự tin
tưởng rằng khoa học, lý tính là khí giới sắc bén nhất, nếu không muốn nói là
duy nhất, của con người trong quá trình chinh phục tự nhiên và hoàn thiện bản
thân.
Các nhà Khai sáng Pháp chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ tinh thần duy lý
của thời đại, đặc biệt là từ những tác giả Descartes và Newton. Trong cái nhìn
của họ, thế giới hiện ra đã hoàn toàn khác bức tranh mà thần học phong kiến
xây dựng nên: lúc này thế giới là tập hợp những sự vật - hiện tượng - quá
trình diễn ra theo những quy luật bất biến mà về nguyên tắc con người có thể
nhận thức được, và đó là xuất phát điểm để khẳng định khả năng của con
người chinh phục thiên nhiên. Trong lĩnh vực nghiên cứu con người cũng vậy,
con người không còn là sự sáng tạo của Chúa theo hình ảnh của Chúa nữa, mà
25
– dường như quay trở về tư tưởng của thời kỳ cổ đại – con người là một bộ
phận của tự nhiên. Nhưng khác với thời Cổ đại, các nhà Khai sáng khẳng định
con người có thể vượt lên trên tự nhiên, do chỗ con người có lý tính, có khả
năng tư duy, khả năng mà không một sinh thể nào khác có được. Thế giới
quan có tính cơ giới đã chi phối các nhà Khai sáng trong quan niệm về con
người (xem tác phẩm Người-máy – có nghĩa là “con người-cỗ máy” – của La
Mettrie). Nhưng các nhà Khai sáng cũng quán triệt cái tinh thần được biểu
hiện trong câu nói của Pascal “con người là cây sậy biết tư duy”3
. Nền tảng tư
tưởng, thế giới quan mang tính cơ giới luận, tự nhiên chủ nghĩa và duy lý chủ
nghĩa đã có ảnh hưởng rất mạnh đến quan điểm về đạo đức của các nhà Khai
sáng Pháp thế kỷ XVIII. Những luận điểm về nhu cầu tự nhiên, những lời kêu
gọi quay trở lại bản tính tự nhiên sẵn có của con người, sự đề cao giáo dục,
khai sáng, v.v., đều hình thành dưới tầm ảnh hưởng của thế giới quan này. Xét
đến cùng, đó chính là kết quả của sự phát triển khoa học tự nhiên và khoa học
thực nghiệm và của chủ nghĩa duy lý (nghĩa rộng) trong lịch sử.
1.2.2. Thái độ đối với Nhà thờ và tôn giáo
Đây là một trong những tiền đề quan trọng của sự hình thành và phát
triển quan niệm đạo đức của các nhà Khai sáng Pháp. Thái độ đối với Nhà thờ
và tôn giáo, hay nói đúng hơn là sự thay đổi trong thái độ đối với Nhà thờ và
tôn giáo, được chúng tôi xem xét với tư cách một tinh thần chung của thời đại
mà các nhà Khai sáng là đại biểu. Thái độ ấy không chỉ có vai trò như một
nền tảng trên đó nảy sinh những quan niệm đạo đức, mà trong thực tế nó còn
có tác động lớn đến những lĩnh vực khác của đời sống tinh thần của thời đại.
3
Nguyên văn:
“Con người chỉ là một cây sậy, vật yếu nhất của tự nhiên. Nhưng đó lại là cây sậy có tư duy. Toàn bộ vũ
trụ chẳng cần phải cầm vũ khí để nghiền nát nó. Một làn hơi, một giọt nước đủ để giết chết con người. Nhưng
ngay khi vũ trụ đã nghiền nát nó rồi, con người vẫn còn cao quý hơn cái đã giết chết nó, bởi lẽ nó biết là nó
chết và thắng lợi mà vũ trụ có được đối với nó thì vũ trụ chẳng hay biết gì.
Vậy là toàn bộ phẩm giá của chúng ta là nằm ở tư duy” [35, tr.421].
26
Khi xem xét vấn đề thái độ đối với nhà thờ và tôn giáo trong khuôn khổ
những tiền đề văn hóa và khoa học của tư tưởng đạo đức Khai sáng, chúng tôi
muốn đề cập đến thái độ này với tư cách một chiều hướng của văn hóa trong
thế kỷ XVIII, chứ không phải ở khía cạnh những phong trào xã hội. Đương
nhiên những thay đổi mà chúng tôi đề cập sau đây trong thái độ này, có chịu
ảnh hưởng một phần của những phong trào cải cách tôn giáo (những phong
trào xã hội) của thế kỷ trước, nhưng trong thế kỷ XVIII ở nước Pháp đã
không diễn ra một phong trào mang tính xã hội nào tác động lớn đến nền tảng
đức tin tôn giáo. Xét trên bình diện rộng lớn, trong đời sống thường nhật của
nhân dân đông đảo, đức tin tôn giáo nói chung là không có những thay đổi
mang tính bước ngoặt. Còn những phong trào mang tính xã hội liên quan đến
việc chống đối sự lộng hành của Nhà thờ, thứ nhất, đến cuối thế kỷ XVIII mới
diễn ra và, thứ hai, những phong trào này ảnh hưởng đến Giáo hội và Nhà thờ,
những tổ chức tôn giáo, hơn là những giáo lý tôn giáo. Chúng có sự khác biệt
rất lớn với những phong trào cải cách tôn giáo mà Luther, Calvin hay Zwingli
đã phát động ở thế kỷ trước.
Tuy nhiên, việc phải đặt ra vấn đề về tinh thần chung của thời kỳ Khai
sáng Pháp đối với Nhà thờ và tôn giáo đã là một điều đặc biệt, riêng có của
trào lưu Khai sáng Pháp so với các trào lưu Khai sáng khác ở châu Âu. Trong
các trào lưu Khai sáng Anh và Đức, người ta không thấy mối quan hệ phức
tạp giữa tôn giáo và triết học hay giữa lập trường của Nhà thờ và lập trường
của các nhà triết học. Chính từ sự so sánh này – về thái độ đối với Nhà thờ và
tôn giáo của Khai sáng Pháp và các trào lưu Khai sáng khác –, ta có được một
điển hình của sự tác động của đời sống hiện thực lên đời sống tinh thần: tồn
tại xã hội Pháp lúc đó đã quy định sự quan tâm lớn lao và sự phong phú trong
các quan điểm của các nhà triết học khác nhau đối với Nhà thờ và tôn giáo.
27
Trước đây, trong các sách báo viết về triết học Khai sáng Pháp, các nhà
nghiên cứu thường nhấn mạnh đến tính chất duy vật và vô thần triệt để trong
tư tưởng của các nhà Khai sáng, đối lập một cách tuyệt đối và kiên quyết với
giáo lý tôn giáo, mà cụ thể là giáo lý của Thiên Chúa giáo. Từ đó cho rằng
triết học Khai sáng Pháp có điểm đặc trưng là duy vật và vô thần. Viết về vấn
đề thái độ đối với tôn giáo của các nhà triết học thế kỷ XVIII, Tsebenko cho
rằng: “Sự công kích của chủ nghĩa duy vật triết học của những nhà tư tưởng
Pháp trước tiên hướng vào việc chống lại tôn giáo và Nhà thờ (…). Nhà thờ bị
tấn công bởi mọi nhà triết học “Khai sáng” và không trừ một ai; về phía trận
chiến chống lại tôn giáo, những người dẫn dắt là Holbach, La Mettrie,
Helvétius và Diderot. Sự mạnh mẽ của cuộc chiến chống lại tôn giáo và chủ
nghĩa thầy tu, một chủ nghĩa vô thần chiến đấu là những nét đặc trưng cho
chủ nghĩa duy vật Pháp thế kỷ XVIII” [68, tr.48].
Đến đây, chúng ta chạm đến một khía cạnh khá phức tạp của vấn đề.
Trên thực tế, trong khoảng mười tác giả tiêu biểu của trào lưu Khai sáng Pháp
thế kỷ XVIII, chỉ có bốn người có lập trường vô thần (Diderot, Holbach,
Helvétius và La Mettrie), một người ủng hộ sự khoan dung trong tôn giáo và
thừa nhận những người vô thần (D’Alembert), năm người còn lại đều theo
quan điểm tự nhiên thần luận và cổ vũ cho sự dung hòa tín ngưỡng (Bayle,
Montesquieu, Voltaire, Rousseau và Condillac). Nếu ta dựa vào việc tư tưởng
nào thắng thế trong sự phát triển về sau của lịch sử để xét đoán đặc điểm tư
tưởng của thời đại, thì nói như tác giả Tsebenko là xác đáng. Nhưng ở đây,
chúng tôi muốn đề cập đến triết học Khai sáng Pháp, hẹp hơn là đến tư tưởng
đạo đức trong triết học Khai sáng Pháp, với tư cách một hiện tượng văn hóa
tư tưởng trong tính tổng thể của nó. Vả lại, chính các tác giả trên cũng có
nhận xét rằng thế kỷ XVIII ở Pháp có vô số những trào lưu tư tưởng khác
nhau. Chúng tôi cho rằng có lẽ sẽ hợp lý hơn nếu nhận định như sau về thái
28
độ của các nhà Khai sáng đối với tôn giáo: những nhà Khai sáng Pháp thế kỷ
XVIII đặt trọng tâm vào việc phản đối giáo hội và có những thay đổi trong
cách quan niệm về tôn giáo. Việc công kích và phản ứng đối với giáo hội là
đặc điểm chung của tất cả các tác giả Khai sáng. Còn trong bản thân quan
niệm về tôn giáo thì có sự phân biệt giữa những người vô thần và những
người theo tự nhiên thần luận.
Sự phản ứng gay gắt của các nhà Khai sáng thế kỷ XVIII đối với giáo
hội có nguyên nhân xã hội rất rõ ràng. Như chúng tôi đã đề cập ở trên, trong
thế kỷ XVIII, đẳng cấp tăng lữ là đẳng cấp đặc quyền đặc lợi thứ nhất trong
xã hội Pháp. Nắm giữ “phần hồn” của đời sống xã hội, đẳng cấp này còn
chính là một đại địa chủ, có trong tay ruộng đất, nông dân và một khối lượng
của cải không nhỏ. Sự áp bức bóc lột của đẳng cấp này, nhất là của tầng lớp
giáo sĩ “cấp cao”, đối với đẳng cấp thứ ba, nặng nề không kém gì sự áp bức
bóc lột của đẳng cấp phong kiến. Không hoạt động trong các lĩnh vực sản
xuất, tuyên truyền những quan điểm bảo vệ phong kiến và kìm nén sự phát
triển của giai cấp tư sản cũng như của xã hội, đẳng cấp này trở thành kẻ thù
của đẳng cấp thứ ba và vì thế trở thành đối tượng công kích của những đại
biểu tư tưởng của giai cấp tư sản – những nhà Khai sáng. Như vậy, giai cấp tư
sản chống lại Nhà thờ chủ yếu với tư cách một đẳng cấp xã hội.
Về bản thân các giáo lý và đức tin tôn giáo, có hai khuynh hướng khác
biệt dù không hoàn toàn đối lập nhau. Khuynh hướng thứ nhất là của những
nhà vô thần, phủ định tôn giáo (ở đây là Thiên chúa giáo). Họ dựa vào những
thành tựu của khoa học tự nhiên thời kỳ đó, những bức tranh mới về vũ trụ
được khoa học tự nhiên xây dựng, để phản đối lại những quan điểm thế giới
quan của tôn giáo, những quan điểm thần thánh về sự hình thành vũ trụ và
hình thành con người. Họ dựa vào tác hại nhìn thấy được của việc truyền bá
tư tưởng tôn giáo trong nhân dân (kìm nén người dân trong sự sợ hãi sùng
29
kính, trong sự tối tăm “không khai sáng”) để luận chứng cho cho sự hợp lý
của một xã hội không tôn giáo. Khuynh hướng thứ hai của những nhà tự
nhiên thần luận. Họ chống lại những giáo điều tôn giáo có hại cho sự phát
triển của giai cấp tư sản – những tín điều bảo vệ phong kiến và Nhà thờ. Ở
đây có điểm chung giữa họ với những người vô thần, bởi vì xét đến nguồn
gốc sâu xa, các nhà vô thần và tự nhiên thần luận trong thời đại Khai sáng đều
đứng trên, hay ít ra là ủng hộ, lập trường của giai cấp tư sản trong cuộc chiến
chống lại các đẳng cấp đặc quyền đặc lợi. Nhưng không đi xa như những nhà
vô thần, họ vẫn chủ trương tồn tại tôn giáo và coi tôn giáo là cần thiết. Từ đó
mà dẫn đến những quan điểm đặc sắc của triết học Khai sáng Pháp: tư tưởng
về tôn giáo tự nhiên, lòng khoan dung trong tôn giáo (chấp nhận nhiều hình
thức đức tin khác nhau, không phản đối những người vô thần, v.v…).
Thái độ đối với nhà thờ và tôn giáo có ảnh hưởng mạnh mẽ đến những
đổi thay trong quan điểm về đạo đức của các nhà triết học Pháp thế kỷ XVIII.
Bởi trong những thế kỷ trước, khi tôn giáo ở địa vị thống trị tinh thần, đạo
đức gắn liền với đức tin. Khi quan điểm về tôn giáo và về giáo hội thay đổi,
tất yếu nó sẽ phản ánh vào những đổi thay trong đạo đức. Những chủ đề chính
của tư tưởng đạo đức trong triết học Khai sáng Pháp, như sự khoan dung, tinh
thần nhân đạo, sự khai sáng, v.v… đều ghi rõ dấu ấn của đảo lộn về mặt đức
tin mà chúng ta vừa đề cập.
1.3. Tiền đề tư tưởng – lý luận
Chúng tôi muốn nói đến lịch sử phát triển của tư tưởng đạo đức của
những thời đại trước, những thời đại đã có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp
đến tư tưởng đạo đức của các nhà Khai sáng Pháp. Bởi vì không thể chỉ xuất
phát trực tiếp từ đời sống xã hội, đời sống văn hóa – khoa học, các tư tưởng
30
đạo đức cũng như mọi lĩnh vực tinh thần khác đều được xây dựng trên nền
tảng kế thừa.
Mỗi thời đại có một cách quan niệm khác nhau về vai trò, vị trí và tầm
ảnh hưởng của các bậc tiền bối, điều này phụ thuộc vào điều kiện xã hội – văn
hóa và đặc điểm của tư duy thời đại. Những nhà tư tưởng tiền bối tác động
trong thời kỳ này, rồi không được đánh giá cao trong thời kỳ sau, rồi lại được
“phát hiện lại” ở thời kỳ sau nữa, v.v., điều đó đã trở nên bình thường trong
lịch sử tư tưởng. Thời kỳ Khai sáng ở Pháp không phải là ngoại lệ. Đối lập
với hệ tư tưởng phong kiến và giáo hội, những nhà Khai sáng Pháp tiếp nhận
ảnh hưởng từ những người mà giáo hội phủ nhận và rời bỏ những nhà tư
tưởng được giáo hội kế thừa. Chính vì vậy, ở đây, khi xem xét tiền đề lý luận
của tư tưởng đạo đức trong triết học Khai sáng Pháp, chúng tôi không đề cập
đến tất cả các nhân vật tiêu biểu của lịch sử tư tưởng, mà chỉ quan tâm tới
những người tác động mạnh, trong lĩnh vực đạo đức, đến các nhà Khai sáng;
ở mỗi tác giả đó chúng tôi cũng chỉ đưa ra những quan niệm đã được các nhà
Khai sáng tiếp nhận và phát triển.
1.3.1. Tư tưởng đạo đức thời kỳ Cổ đại
Không phải quá xa khi nói tới thời kỳ Cổ đại, vì triết học Khai sáng,
trong khi từ bỏ di sản Thiên Chúa giáo, đã tìm đến những di sản xa xưa hơn –
đến thời kỳ mở đầu của lịch sử tư tưởng châu Âu. Rõ ràng là triết học Khai
sáng đã chịu ảnh hưởng của trào lưu nhân văn Phục hưng ở lời kêu gọi quay
trở về với những giá trị cổ đại. D.Bouquet, trong tác phẩm Những nhà Khai
sáng ở Pháp và châu Âu đã viết: “Triết học thời kỳ Khai sáng thực chất thừa
hưởng rất nhiều từ tác phẩm của những nhà triết học cổ đại, và những đại biểu
nổi tiếng nhất của nó đều là những người có học vấn cao, có thể đọc những
31
sách tiếng Hy Lạp và tiếng Latinh (…). Thời đại đó cho rằng những người Hy
Lạp đã phát minh ra Lý tính” [58, tr.15].
Lịch sử phát triển của văn hóa châu Âu cho thấy ảnh hưởng rõ rệt và
xuyên suốt của văn hóa và tư tưởng Hy Lạp cổ đại. Ăngghen viết: “từ các
hình thức muôn hình muôn vẻ của triết học Hy Lạp, đã có mầm mống và đang
nảy nở hầu hết tất cả các loại thế giới quan sau này” [26, tr.491]. Quả thực
triết học Hy Lạp “muôn hình muôn vẻ”, với một số lượng không nhỏ các triết
gia vĩ đại và sự phong phú đến kinh ngạc của các chiều hướng tư tưởng. Mọi
thời kỳ sau này của lịch sử tư tưởng phương Tây đều kế thừa và phát triển
một hoặc những khía cạnh nào đó trong di sản đặc sắc ấy, trong đó, “một hoặc
những khía cạnh” thường được thể hiện ra ở những triết gia hoặc những
trường phái cụ thể.
Thời kỳ Khai sáng hay hẹp hơn là tư tưởng đạo đức Khai sáng đã nhận
những tác động gì từ tư tưởng đạo đức Cổ đại? Ta có thể nói đến ảnh hưởng
của Socrate và Épicure, mỗi tác giả này tác động theo những cách riêng biệt
đến tư tưởng đạo đức Khai sáng Pháp.
Socrate (469-399 tr.CN)
Được thừa nhận rộng rãi là ông tổ của triết học phương Tây, triết gia
thực sự đầu tiên của triết học Hy Lạp Cổ đại, Socrate luôn luôn là nhân vật có
sức thu hút lớn lao đối với những nhà tư tưởng hậu bối. Các nhà Khai sáng
Pháp, trong thời kỳ căng thẳng của cuộc đấu tranh chống tư tưởng phong kiến
và nói chung là mọi tư tưởng “tối tăm, không khai sáng”, chịu đựng những
đàn áp của phía đối lập, đều đã tìm đến Socrate như một người dẫn đường.
Socrate là triết gia đầu tiên trong triết học Hy Lạp hướng nhận thức – tư
duy vào việc nghiên cứu con người, nghiên cứu thế giới nội tâm của con
người. Mặc dù “giữ nguyên phương thức khảo cứu con người như là cái đứng
cùng hàng với những thực thể khác” [16, tr.191], nhưng chỉ riêng việc chuyển
32
đối tượng của tư duy triết học từ thế giới tự nhiên sang thế giới nội tâm con
người đã đánh dấu một bước ngoặt trong lịch sử tư tưởng. Nếu chúng ta thừa
nhận rằng việc nghiên cứu bản tính con người là cốt lõi của việc tìm hiểu các
vấn đề đạo đức, thì ta có thể thấy ảnh hưởng của bước chuyển mà Socrate đã
thực hiện đối với tư tưởng của các nhà triết học sau ông lớn đến mức nào.
Khi nghiên cứu bản tính con người, Socrate đã nhấn mạnh đặc điểm
quan trọng nhất phân biệt con người với con vật là linh hồn (tâm hồn) của con
người. Trong tâm hồn con người, theo Socrate, có dục vọng (phần dưới) và lý
tính (phần trên). Con người chỉ có thể trở thành thiện khi lý tính chiến thắng
được dục vọng. Chính từ luận điểm này mà các nhà nghiên cứu cho rằng
Socrate là người khởi đầu cho đạo đức học duy lý chủ nghĩa. Ta nhớ rằng hầu
như toàn bộ các nhà Khai sáng Pháp đều đứng trên lập trường duy lý. Tư
tưởng đạo đức của họ tương đồng với tư tưởng đạo đức của Socrate, chính là
ở đặc điểm này.
Công thức nổi tiếng của Socrate “Hãy tự biết mình!” – kết tinh của cả
chủ nghĩa duy lý và quan điểm hướng nhận thức về thế giới nội tâm con
người, – đã được lý giải theo cách Khai sáng: “cần thiết phải thay đổi từ bên
trong, phải nhận thức lại mọi ý kiến, mọi cái bề ngoài của nhận thức, và mọi
cái trên thực tế đã làm tê liệt nhận thức của chúng ta” [58, tr.16].
Épicure (341-270 tr.CN)
Épicure là nhà triết học hậu kỳ của thời kỳ Cổ đại. Ông theo quan điểm
duy vật chủ nghĩa, tán thành và phát triển học thuyết của Démocrite về
nguyên tử. Hệ thống triết học của ông gồm ba thành phần: triết học tự nhiên
(vật lý học), học thuyết về nhận thức và đạo đức học (“etika”), trong đó đạo
đức học là thành phần quan trọng nhất. Mác gọi Épicure là “nhà Khai sáng
chân chính, nhất quán của thời Cổ đại” [47, tr.39]. Thế mà tư tưởng của
Épicure từng bị hiểu lầm ngay từ khi ông còn sống. Người ta cho rằng ông là
33
người khởi xướng chủ nghĩa khoái lạc, chỉ ca ngợi sự thỏa mãn các nhu cầu tự
nhiên. Thậm chí danh từ “chủ nghĩa khoái lạc” theo ngôn ngữ phương Tây
cũng bắt nguồn từ tên của ông (épicurisme). Trên thực tế, tư tưởng chủ đạo
của đạo đức học của Épicure là tư tưởng tự do với tư cách sự độc lập đối với
cái bên ngoài. Hạnh phúc (mục đích của đạo đức học và của toàn bộ sự suy tư
triết học) là sự hài lòng hợp lý – tức là sự thỏa mãn những nhu cầu mang tính
tự nhiên và cần thiết (như đói thì được ăn, khát thì được uống) chứ không
phải là sự thỏa mãn mọi nhu cầu. Épicure quan niệm có ba loại nhu cầu: tự
nhiên và cần thiết, tự nhiên và không cần thiết, không tự nhiên và không cần
thiết, và việc thỏa mãn hai loại nhu cầu sau chỉ dẫn đến bất hạnh chứ không
phải là hạnh phúc. Như vậy, quan điểm đạo đức học của Épicure không phải
là khoái lạc theo nghĩa thỏa mãn mọi dục vọng, mà ngược lại, lý tưởng đạo
đức của ông là sự “kiềm chế thông thái”, thỏa mãn những nhu cầu tinh thần
hơn là vật chất, sống thanh thản và có được sự tự do nội tâm.
Tư tưởng của Épicure, sau thời kỳ Trung cổ, đã được các nhà nhân văn
Phục hưng tìm lại và đề cao. Rất nhiều đại biểu Phục hưng quan tâm và phát
triển những tư tưởng của Épicure, đặc biệt là những tư tưởng về đạo đức.
Chính dưới ảnh hưởng của những sự kiện như vậy mà triết học Khai sáng
Pháp – vốn chịu tác động rất mạnh từ tư tưởng Phục hưng và phong trào nhân
văn thời Phục hưng – đã tiếp thu di sản tư tưởng của Épicure.
Các nhà Khai sáng Pháp thế kỷ XVIII bị thu hút bởi Épicure do những
tương đồng rất lớn về tư tưởng. Họ cùng đề cao sự giáo dục (khai sáng), cùng
coi giáo dục phải dựa trên cơ sở hiểu biết về tự nhiên – một tự nhiên không
chịu tác động của cái siêu nhiên (quan điểm vô thần hoặc tự nhiên thần luận),
và cùng đứng trên lập trường tự nhiên chủ nghĩa về mặt đạo đức cho dù cách
diễn đạt dường như khác biệt. Và điểm giao thoa quan trọng giữa Épicure và
các nhà Khai sáng Pháp là quan niệm của họ về tự do. Trong triết học của
34
Épicure, quan niệm về tự do bắt nguồn từ trong lĩnh vực triết học tự nhiên (từ
vật lý học, nguyên tử luận của ông), nhưng nó đã được áp dụng để luận chứng
cho sự tự do của cá nhân trong học thuyết về hạnh phúc. Đối với các nhà Khai
sáng, tự do là một chủ đề bao trùm không chỉ trong tư tưởng đạo đức mà còn
trong rất nhiều vấn đề lý luận quan trọng khác. Bảo vệ tự do cá nhân (ở đây là
cá nhân tư sản) trước tư tưởng ràng buộc của thần quyền và thế quyền phong
kiến, các nhà Khai sáng đã tìm kiếm trong lịch sử những tư tưởng tương đồng
và họ đã tìm thấy Épicure. Có thể thấy trong tư tưởng của Épicure có nhiều
yếu tố được các nhà Khai sáng rất đề cao. Vì vậy mà Épicure trở thành một
trong những nhà tư tưởng Cổ đại được xếp vào địa vị tiền bối của các nhà
Khai sáng Pháp thế kỷ XVIII.
1.3.2. Tư tưởng đạo đức thời kỳ Phục hưng
Chúng tôi không đưa thời kỳ Trung cổ vào tiền đề về lý luận của đạo đức
Khai sáng Pháp thế kỷ XVIII, vì nguyên nhân đơn giản là giữa chúng có
những khác biệt. Đạo đức Khai sáng xây dựng một mẫu hình về đạo đức mới
so với tư tưởng đạo đức Trung cổ – đạo đức gắn với niềm tin. Những nhà
Khai sáng có quan niệm về cái thiện - cái ác, về hạnh phúc - bất hạnh khác so
với quan niệm của các nhà triết học Trung cổ (tuyệt đại đa số là người Thiên
Chúa giáo). Tư tưởng Khai sáng tiếp nhận và giải quyết theo cách của mình
những vấn đề mà triết học Phục hưng đặt ra khi tìm cách tách ra khỏi truyền
thống Thiên Chúa giáo. Chính vì thế, quan điểm của các nhà Khai sáng về
đạo đức không chịu ảnh hưởng hoặc thậm chí là đối lập lại với những tư
tưởng đạo đức của các nhà triết học tiêu biểu thời kỳ Trung cổ.
Thời kỳ Phục hưng, về mặt tư tưởng, là thời kỳ bắt đầu đặt vấn đề nghi
ngờ sự thống trị tuyệt đối của Nhà thờ và đức tin tôn giáo trong đời sống xã
hội. Thời kỳ này được đặc trưng bởi xu hướng thế tục hóa tôn giáo và sự phát
35
triển vượt bậc của nghệ thuật và thẩm mỹ. Danh từ “chủ nghĩa nhân văn”
dành cho các nhà tư tưởng và nghệ sĩ thời Phục hưng cũng được xét ở phương
diện thẩm mỹ nhiều hơn là ở phương diện đạo đức. Nhưng điều đó cũng
không cản trở việc thời kỳ Phục hưng đã có những bước tiến mới trong quan
niệm đạo đức so với thời kỳ Trung cổ, những bước tiến này sẽ được các nhà
Khai sáng lĩnh hội và phát triển.
Những đại biểu tiêu biểu về mặt tư tưởng đạo đức của thời kỳ Phục hưng
có ảnh hưởng trực tiếp đến các nhà Khai sáng Pháp thế kỷ XVIII, có thể kể
đến More, Rabelais và Montaigne, cả ba đều là những tác giả cuối Phục hưng.
Thomas More (1477-1535) người Anh, nhà nhân văn chủ nghĩa lớn.
Ông có một cuộc đời sóng gió: là người thuộc tầng lớp bình dân đầu tiên
trong lịch sử được bầu vào Thượng viện Anh, làm đến chức Thượng thư (thủ
tướng), bị xử trảm do chống lại việc vua Henri VIII thực hiện cải cách tôn
giáo ở Anh; 400 năm sau khi mất, ông được giáo hội Cơ Đốc phong thánh.
Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là Utopia, cái tên đã đi vào ngôn ngữ
phương Tây như một danh từ để chỉ xứ sở mơ ước của con người. Trong
Utopia có thể thấy những đặc điểm tư tưởng của More, những đặc điểm khiến
ông trở thành nhà nhân văn vĩ đại và một trong những tiền đề quan trọng của
tư tưởng đạo đức Khai sáng Pháp thế kỷ XVIII.
Những điểm nào tương đồng giữa More và các nhà Khai sáng Pháp thế
kỷ XVIII? Thứ nhất, chắc chắn đó là một chủ nghĩa nhân đạo cao cả. Họ đều
thể hiện sự đồng cảm và bênh vực người nghèo, những người lao động bị vô
sản hóa (xem Utopia, đoạn văn nổi tiếng về hiện tượng “cừu ăn thịt người”
[34, tr.46]). Thứ hai, họ đều có tinh thần duy lý trong phong cách tư duy. Thứ
ba, họ đều chịu ảnh hưởng của Épicure ở quan niệm về hạnh phúc. Và thứ tư,
cả More và các nhà Khai sáng đều có tinh thần “khoan dung tín ngưỡng” và
đều ủng hộ cho “tôn giáo tự nhiên”. Những điểm giao thoa này đều là những
36
vấn đề quan trọng của tư tưởng đạo đức Khai sáng. Chính vì thế, cho dù trong
tư tưởng của ông cũng có những điểm mà các nhà Khai sáng không đồng tình
(như sự phủ nhận triệt để đối với những người vô thần), thì khi nói tới tiền đề
của tư tưởng đạo đức Khai sáng, không thể không nói tới More như một bậc
tiền bối quan trọng.
Rabelais (1494-1553)
Là một nhà nhân văn chủ nghĩa đặc biệt, một gương mặt đặc biệt trong
nền văn hóa Tây Âu cuối Phục hưng, lại là một người Pháp, Rabelais đã để lại
những dấu ấn rõ nét trong những đồng bào mình ở hai thế kỷ sau.
Các tác giả của mục từ Rabelais trong trang web http://atheisme.free.fr
đã nhận xét về ông: “phê phán của ông đối với truyền thống Trung cổ và sự
khát khao hiểu biết của những nhân vật của ông đã làm cho Rabelais trở thành
một trong những tác giả lớn nhất của thời kỳ Phục hưng (…). Là nhà nhân
văn chủ nghĩa sâu sắc, Rabelais tin tưởng vào con người và vào sự giải phóng
con người khỏi quyết định luận [tôn giáo] đang khiến họ trở nên trì trệ. Ông
bảo vệ tự do bằng tiếng cười và bằng cách xóa bỏ những phức cảm tội lỗi về
thể xác (…). Nền giáo dục mà ông bảo vệ phải phát triển thứ tri thức phổ biến
và ưu tiên cho thực hành cũng như kinh nghiệm. Rabelais ủng hộ một lập
trường đạo đức, chống lại mọi niềm tin tôn giáo, hòa hợp với những đòi hỏi
của tự nhiên” [69].
Rabelais phá bỏ những rào cản phong kiến và tôn giáo trên nhiều khía
cạnh. Tinh thần khát khao hiểu biết của ông rất phù hợp với lý tưởng Khai
sáng.
Montaigne (1533-1592)
Là một nhà quý tộc, hoạt động chính trị, thị trưởng thành phố Boócđô,
Montaigne dường như khác với Rabelais người làm cho hậu thế khó phân biệt
được bản tính thật của mình, nhưng Montaigne giống với Rabelais ở khá
37
nhiều điểm, và đó lại chính là những điểm mà triết học Khai sáng thế kỷ
XVIII kế thừa.
Xuất phát từ chủ nghĩa hoài nghi, Montaigne theo lập trường kinh
nghiệm chủ nghĩa khi cho rằng tất cả đều bắt đầu từ kinh nghiệm, và kinh
nghiệm cần được thường xuyên nghi ngờ và phê phán. Trong quan điểm về
đạo đức, ông tìm cách xây dựng một thứ “đạo đức thực tiễn có lý trí” [57,
tr.93]. Ông chịu ảnh hưởng của Épicure trong quan niệm về hạnh phúc, về
cuộc sống theo bản tính tự nhiên và tính chất cá nhân chủ nghĩa trong tư
tưởng đạo đức học. Cùng với Rabelais, Montaigne được coi là nhà nhân văn
chủ nghĩa lớn của Pháp cuối Phục hưng. Thông qua các tác phẩm của ông,
trong đó có tác phẩm Các kinh nghiệm, được viết bằng tiếng Pháp (chứ không
phải bằng tiếng Latinh như kiểu mẫu đương thời), Montaigne đã để lại nhiều
dấu ấn trong lịch sử tư tưởng đạo đức của Pháp sau này.
1.3.3. Tư tưởng đạo đức thời kỳ Cận đại
Thời kỳ Cận đại trong quan niệm của chúng tôi là trong khoảng thế kỷ
XVII, XVIII và đầu XIX, mà do phạm vi vấn đề, chúng tôi chỉ giới hạn sự
xem xét trong thế kỷ XVII và các tác giả của nó.
Có thể thấy, về mặt lịch sử, trào lưu Khai sáng nằm trong cùng thời đại
với “triết học Cận đại”. Chúng cùng thời đại, do chúng cùng có một đặc điểm
bao trùm: chủ nghĩa duy lý (theo nghĩa rộng nhất của từ). Thế kỷ XVII có cơ
sở cho sự đề cao đặc biệt đối với lý tính khoa học. Sự xuất hiện của hàng loạt
những phát minh mới, sự phát triển mạnh mẽ “chưa từng thấy” của các khoa
học, sự ngạc nhiên đối với những bức tranh mới về thế giới mà khoa học mở
ra trước mắt con người – mới so với những bức tranh của tôn giáo. Các tác
phẩm kiệt xuất luận chứng cho khoa học cũng xuất hiện vào thế kỷ XVII. Sự
đề cao lý tính khoa học đã được tiếp tục đến thế kỷ XVIII, và triết học Khai
38
sáng – nằm trong cùng dòng chảy đó – đã tiếp nhận ảnh hưởng đó của thời
đại.
Trong triết học thế kỷ XVII, các nhà tư tưởng tiêu biểu đã có những tác
động đối với tư tưởng đạo đức Khai sáng là Descartes, Pascal và một điển
hình của trào lưu Khai sáng Anh quốc – Locke.
Descartes (1596-1650)
Trong lịch sử triết học, Descartes có một vai trò rất đặc biệt. Được coi là
người mở đầu cả một thời đại triết học, và còn hơn thế, một lối tư duy sẽ trở
thành một trong những bộ phận quan trọng nhất của văn minh phương Tây,
“Descartes hiện ra với tư cách là người sáng lập chủ nghĩa duy lý của châu
Âu, tức cái nhãn quan mà theo đó thì toàn bộ tồn tại có thể được nhận thức
triệt để bằng những phương tiện duy lý của khoa học cổ điển” [16, tr.340].
Ảnh hưởng của Descartes đến triết học Khai sáng thế kỷ XVIII ở Pháp là
quá rõ ràng. Cùng nằm trong khuôn khổ của chủ nghĩa duy lý (nghĩa rộng),
các nhà Khai sáng đã tiếp nhận hầu như tất cả những nét đặc trưng của tư
tưởng Descartes, tất nhiên trừ cái mà Mác gọi là “siêu hình học” của
Descartes – bản thân thế giới quan của ông. Sự kế thừa của triết học Khai
sáng đối với Descartes chủ yếu ở tinh thần duy lý trong triết học tự nhiên của
ông: chủ nghĩa duy lý, tinh thần hoài nghi tất cả, tinh thần truy cầu đến cùng
chân lý của lý trí, quan điểm về tri thức có tính công truyền. Trong triết học
nói chung cũng như trong tư tưởng đạo đức nói riêng của các nhà Khai sáng
Pháp, ta nhận thấy tất cả những đặc trưng này.
Pascal (1623-1662)
Nhận xét về Pascal, D.Bouquet viết: “Không phải tình cờ mà người ta
thường có khuynh hướng xếp tác giả này vào thế kỷ XVIII, chứ không phải
vào thế kỷ XVII” [58, tr.20]. Điều này cho thấy sự tương đồng rất lớn giữa
Pascal và các nhà tư tưởng thế kỷ XVIII. Tuy nhiên, ảnh hưởng của Pascal
39
đối với họ lại có những mâu thuẫn. Vì bản thân tư tưởng của Pascal cũng là
sự kết hợp kỳ lạ giữa tinh thần duy lý và tinh thần chống duy lý. Viết về “sự
cao quý của con người”, Pascal cho rằng “toàn bộ phẩm giá của chúng ta là
nằm ở tư duy” [35, tr.421], nhưng khi phát biểu tư tưởng về “hai vô cực”,
Pascal lại “chống những ai có ảo tưởng tin vào cái quyền vạn năng của tư
duy, tư tưởng, đặc biệt là chống Descartes” [35, tr.417]. Thừa nhận tính ưu
việt của con người trong thế giới, Pascal cũng là người phân tích rất sâu sắc
sự bất lực của lý trí con người trước tự nhiên và cho rằng chính vì vậy mà con
người cần đến Chúa. Trong tư tưởng đạo đức của các nhà Khai sáng Pháp,
Pascal để lại một dấu ấn mâu thuẫn: các nhà Khai sáng tiếp nhận tinh thần đề
cao con người của ông, nhưng lại phản đối xu hướng phủ nhận lý tính và đề
cao niềm tin tôn giáo ở ông. Đặc biệt, khi coi “hạnh phúc là sự thỏa mãn
những nhu cầu tự nhiên”, các nhà Khai sáng đã “công kích mãnh liệt Pascal
và tác phẩm [Những suy nghĩ] vì "đã làm cho con người phải khủng khiếp vì
sự hiện hữu của mình" và "làm cho con người quay lưng với hạnh phúc trần
thế"” [35, tr.415]. Như vậy, tư tưởng của Pascal dù được tiếp nhận hay bị
phản đối, cũng đã thu hút được sự chú ý rất lớn của các nhà triết học Khai
sáng, và ảnh hưởng của ông đối với họ dù ở phương diện nào cũng là không
thể chối bỏ.
Locke (1632-1704)
Locke là đại diện tiêu biểu của trào lưu Khai sáng Anh quốc. Những tư
tưởng ông được truyền bá sang Pháp qua Những bức thư triết học của
Voltaire.
Ảnh hưởng của Locke đối với tư tưởng đạo đức của các triết gia Khai
sáng mang tính chất gián tiếp – theo nghĩa là thông qua những quan điểm của
ông về vai trò của lý tính (trong triết học tự nhiên) và đặc biệt là về các vấn đề
chính trị xã hội (trong triết học chính trị xã hội). Chủ nghĩa tự do của Locke là
40
xuất phát điểm của chủ nghĩa tự do trong lịch sử tư tưởng phương Tây và
cũng là nền tảng quan trọng cho sự luận chứng về tự do trong tư tưởng đạo
đức của các nhà Khai sáng Pháp. Những tư tưởng về quyền bình đẳng tự
nhiên giữa người với người và về khế ước xã hội của ông cũng đặt nền móng
cho những quan điểm tương tự ở các nhà Khai sáng Pháp. Tư tưởng đạo đức
thế kỷ XVIII ở Pháp còn tiếp nhận ở Locke quan điểm “chủ nghĩa cá nhân” –
“Locke đã kiên quyết đặt con người riêng biệt, cá nhân vào trung tâm không
những của nghiên cứu nhân học mà còn cả của nghiên cứu chính trị - xã hội”
[16, tr.400]. Trong vấn đề thái độ đối với tôn giáo, tư tưởng của Locke về sự
khoan dung với tư cách “đặc trưng cơ bản của giáo hội chân chính” cũng đã
được các nhà Khai sáng Pháp tiếp nhận và cải biến. Nói chung, là triết gia gần
gũi nhất về mặt lịch sử với các nhà Khai sáng Pháp, Locke đã có một ảnh
hưởng rất rõ nét ở mọi vấn đề cụ thể trong tư tưởng đạo đức. Mặc dù Locke
không bàn đến đạo đức một cách trực tiếp (ông chia hệ thống suy tư triết học
của mình thành ba phần: học thuyết triết học về thế giới, lý luận nhận thức và
quan điểm về xã hội), nhưng điều đó cũng không cản trở việc các tác giả Khai
sáng Pháp luôn luôn tìm đến ông như một nền tảng tư tưởng. Điều này có
nguyên nhân hợp lý của nó: nếu nhìn rộng ra, ta sẽ nhận thấy tư tưởng triết
học xã hội của Locke đã đặt nền móng cho toàn bộ quan điểm về chính trị xã
hội của chủ nghĩa tư bản cho đến ngày nay.
***
Chúng ta đã xem xét bối cảnh của sự hình thành và phát triển tư tưởng
đạo đức trong triết học Khai sáng Pháp ở cả hai góc độ đồng đại và lịch đại. Ở
góc độ đồng đại, đó là những vấn đề của đời sống xã hội và văn hóa Pháp thế
kỷ XVIII. Ở góc độ lịch đại, đó là tư tưởng đạo đức của các thời kỳ trước mà
chúng tôi chỉ xem xét trong phạm vi những tác giả có ảnh hưởng trực tiếp đến
41
các nhà Khai sáng khi họ bàn về những vấn đề đạo đức. Tổng thể những điều
kiện và tiền đề trên cho phép chúng ta có được một cái nhìn tương đối đầy đủ
và bao quát về bối cảnh xã hội và tinh thần của thời đại với những đặc trưng
riêng có của nó. Bối cảnh ấy đóng vai trò cái nền, cái phông trên đó các tác
giả Khai sáng triển khai những suy tư của mình về những vấn đề triết học,
trong đó có những vấn đề đạo đức.
42
CHƯƠNG 2
TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC TRONG TRIẾT HỌC KHAI SÁNG PHÁP
QUA NHỮNG CHỦ ĐỀ CƠ BẢN
Trước khi đi vào những chủ đề cụ thể, chúng tôi xin lược qua vài định
nghĩa về đạo đức. Điều đó sẽ làm rõ một số vấn đề mà chúng tôi tiếp cận
trong chương này.
Tác giả Bandeladze coi “đạo đức là hệ thống những chuẩn mực biểu hiện
sự quan tâm tự nguyện tự giác của những con người trong quan hệ với nhau
và trong quan hệ với xã hội nói chung” [2, tr.104].
Trong Từ điển triết học do Rôzentan và P.Iuđin chủ biên, đạo đức được
định nghĩa như là “quy tắc của sinh hoạt chung trong xã hội và của hành vi
của con người, quy định những nghĩa vụ của người này đối với người khác và
đạo đức xã hội; đạo đức là một trong những hình thái ý thức xã hội” [37,
tr.285].
Zolotukhina-Abolina khi nói về định nghĩa luân lý (đạo đức) đã cho rằng
việc định nghĩa một hiện tượng phức tạp như luân lý là rất khó khăn, để hiểu
được thực chất luân lý thì đơn giản hơn cả là liệt kê ra những đặc điểm hàng
đầu của nó. Và bà đã liệt kê: “luân lý là một trong các dạng điều chỉnh của đời
sống xã hội (…). Về phương thức tồn tại, luân lý là hệ thống các chuẩn mực,
các nguyên tắc, các giá trị, chỉ đạo cho con người trong hành vi hiện thực của
mình (…). Tâm điểm của luân lý là mối tương quan giữa nghĩa vụ và hành vi
quen thuộc” [57, tr.10-11].
Từ điển bách khoa mở Wikipedia định nghĩa về đạo đức như sau: “đạo
đức là tập hợp những quy tắc hướng dẫn, tập hợp những quan hệ xã hội mà
một xã hội có được, chúng thay đổi tùy theo văn hóa, đức tin, hoàn cảnh sống
và những nhu cầu của xã hội” [71.8]. Ngoài ra, người ta còn đọc thấy “đạo
Tải bản FULL (89 trang): https://bit.ly/2UoW2a6
Dự phòng: fb.com/TaiHo123doc.net
43
đức học và đạo đức thường có nghĩa gần gũi và hay bị dùng lẫn với nhau. Đạo
đức học là những nghiên cứu về đạo đức”. Ở đây có một điểm mà chúng tôi
muốn lưu ý: dường như có sự sử dụng không được mạch lạc giữa hai thuật
ngữ đạo đức và đạo đức học. Khi triển khai chương này, vấn đề của chúng tôi
là phân biệt hai thuật ngữ đó, để có thể làm rõ logic kết cấu của chúng tôi.
Trong số các tài liệu mà chúng tôi có được, Từ điển thuật ngữ và phê
bình triết học của André Lalande là cuốn từ điển phân biệt rõ ràng nhất các
nghĩa phong phú của thuật ngữ “đạo đức”, tất nhiên là theo cách dùng của
người Pháp. Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể tìm thấy những thông tin cần
thiết ở đó. Các tác giả của Từ điển đã đưa ra bốn cách hiểu về đạo đức
(morale – với nghĩa thực thể): “A. Tập hợp những quy tắc hướng dẫn được
tuân thủ trong một thời đại hoặc bởi một nhóm người” [63, tr.637]; “B. Tập
hợp những quy tắc hướng dẫn được coi là có hiệu lực không điều kiện” [63,
tr.638]; “C. Học thuyết lý luận về cái thiện và cái ác, Éthique. Thuật ngữ, theo
nghĩa này, luôn luôn bao hàm ý là học thuyết đó nhằm đến những hệ quả
chuẩn tắc. Nó không nói lên một khoa học khách quan và có tính mô tả về
phong tục, hay những phán đoán về đạo đức” [63, tr.638]; “D. Sự hướng dẫn
hợp với đạo đức, ví dụ như khi ta nói về “sự tiến bộ đạo đức”, hiểu theo nghĩa
đó, không phải là một sự phát triển những tư tưởng đạo đức, mà là sự hiện
thực hóa một cuộc sống nhân văn hơn, một sự công bằng lớn hơn trong những
quan hệ xã hội, v.v.” [63, tr.638].
Từ những định nghĩa trên, chúng ta rút ra được những điểm chung trong
quan niệm của các nhà nghiên cứu về đạo đức. Theo nghĩa được đa số chấp
nhận, đạo đức là tập hợp những quy tắc ứng xử, tức là những chuẩn mực, và
tập hợp này thay đổi tùy theo xã hội, văn hóa, theo những thời kỳ phát triển
khác nhau của lịch sử. Như vậy, vấn đề quan trọng, cơ bản, trung tâm của mọi
suy ngẫm đạo đức là vấn đề quan hệ thiện – ác. Vấn đề này được giải quyết
Tải bản FULL (89 trang): https://bit.ly/2UoW2a6
Dự phòng: fb.com/TaiHo123doc.net
Tư tưởng đạo đức trong triết học khai sáng Pháp
Tư tưởng đạo đức trong triết học khai sáng Pháp

More Related Content

What's hot

Tiểu luận ý nghĩa lịch sử ra đời đảng cộng sản việt nam
Tiểu luận ý nghĩa lịch sử ra đời đảng cộng sản việt namTiểu luận ý nghĩa lịch sử ra đời đảng cộng sản việt nam
Tiểu luận ý nghĩa lịch sử ra đời đảng cộng sản việt namHeli Sama
 
MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH
MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH
MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH nataliej4
 
Tâm Lí Học Lứa Tuổi Và Tâm Lí Học Sư Phạm.pdf
Tâm Lí Học Lứa Tuổi Và Tâm Lí Học Sư Phạm.pdfTâm Lí Học Lứa Tuổi Và Tâm Lí Học Sư Phạm.pdf
Tâm Lí Học Lứa Tuổi Và Tâm Lí Học Sư Phạm.pdfHanaTiti
 
Nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng : Luận á...
Nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng : Luận á...Nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng : Luận á...
Nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng : Luận á...nataliej4
 

What's hot (20)

Luận văn: Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm không khí, HOT
Luận văn: Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm không khí, HOTLuận văn: Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm không khí, HOT
Luận văn: Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm không khí, HOT
 
Đề tài: Nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế, HOT
Đề tài: Nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế, HOTĐề tài: Nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế, HOT
Đề tài: Nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế, HOT
 
Luận án: Tư tưởng tự do tinh thần của F.M.Dostoievski và giá trị
Luận án: Tư tưởng tự do tinh thần của F.M.Dostoievski và giá trịLuận án: Tư tưởng tự do tinh thần của F.M.Dostoievski và giá trị
Luận án: Tư tưởng tự do tinh thần của F.M.Dostoievski và giá trị
 
Luận Văn Thạc Sĩ Tâm Lý Học Mức Độ Stress Của Sinh Viên
Luận Văn Thạc Sĩ Tâm Lý Học Mức Độ Stress Của Sinh ViênLuận Văn Thạc Sĩ Tâm Lý Học Mức Độ Stress Của Sinh Viên
Luận Văn Thạc Sĩ Tâm Lý Học Mức Độ Stress Của Sinh Viên
 
Luận văn: Quản lý dự án xây dựng thành phố Bắc Ninh, HAY
Luận văn: Quản lý dự án xây dựng thành phố Bắc Ninh, HAYLuận văn: Quản lý dự án xây dựng thành phố Bắc Ninh, HAY
Luận văn: Quản lý dự án xây dựng thành phố Bắc Ninh, HAY
 
Tiểu luận ý nghĩa lịch sử ra đời đảng cộng sản việt nam
Tiểu luận ý nghĩa lịch sử ra đời đảng cộng sản việt namTiểu luận ý nghĩa lịch sử ra đời đảng cộng sản việt nam
Tiểu luận ý nghĩa lịch sử ra đời đảng cộng sản việt nam
 
Đề tài: Mô hình giáo dục Kỹ năng mềm cho sinh viên ĐH, HAY
Đề tài: Mô hình giáo dục Kỹ năng mềm cho sinh viên ĐH, HAYĐề tài: Mô hình giáo dục Kỹ năng mềm cho sinh viên ĐH, HAY
Đề tài: Mô hình giáo dục Kỹ năng mềm cho sinh viên ĐH, HAY
 
Luận văn: Tạo động lực làm việc cho giảng viên ở trường Đại học
Luận văn: Tạo động lực làm việc cho giảng viên ở trường Đại họcLuận văn: Tạo động lực làm việc cho giảng viên ở trường Đại học
Luận văn: Tạo động lực làm việc cho giảng viên ở trường Đại học
 
Luận văn: Pháp luật về xử lý rác thải sinh hoạt tại Quảng Trị, HOT
Luận văn: Pháp luật về xử lý rác thải sinh hoạt tại Quảng Trị, HOTLuận văn: Pháp luật về xử lý rác thải sinh hoạt tại Quảng Trị, HOT
Luận văn: Pháp luật về xử lý rác thải sinh hoạt tại Quảng Trị, HOT
 
Đề tài: Thực trạng ô nhiễm môi trường nước tại TPHCM, HAY
Đề tài: Thực trạng ô nhiễm môi trường nước tại TPHCM, HAYĐề tài: Thực trạng ô nhiễm môi trường nước tại TPHCM, HAY
Đề tài: Thực trạng ô nhiễm môi trường nước tại TPHCM, HAY
 
Luận văn:Quản lý Nhà nước về môi trường tại tỉnh Quảng Ngãi
Luận văn:Quản lý Nhà nước về môi trường tại tỉnh Quảng NgãiLuận văn:Quản lý Nhà nước về môi trường tại tỉnh Quảng Ngãi
Luận văn:Quản lý Nhà nước về môi trường tại tỉnh Quảng Ngãi
 
MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH
MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH
MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH
 
Luận văn: Quản lý nhà nước về trật tự, an toàn xã hội, HOT
Luận văn: Quản lý nhà nước về trật tự, an toàn xã hội, HOTLuận văn: Quản lý nhà nước về trật tự, an toàn xã hội, HOT
Luận văn: Quản lý nhà nước về trật tự, an toàn xã hội, HOT
 
Luận văn: Pháp luật phát triển năng lượng xanh ở Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật phát triển năng lượng xanh ở Việt Nam, HAYLuận văn: Pháp luật phát triển năng lượng xanh ở Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật phát triển năng lượng xanh ở Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Pháp luật về bảo tồn đa dạng sinh học, HAY
Luận văn: Pháp luật về bảo tồn đa dạng sinh học, HAYLuận văn: Pháp luật về bảo tồn đa dạng sinh học, HAY
Luận văn: Pháp luật về bảo tồn đa dạng sinh học, HAY
 
Tâm Lí Học Lứa Tuổi Và Tâm Lí Học Sư Phạm.pdf
Tâm Lí Học Lứa Tuổi Và Tâm Lí Học Sư Phạm.pdfTâm Lí Học Lứa Tuổi Và Tâm Lí Học Sư Phạm.pdf
Tâm Lí Học Lứa Tuổi Và Tâm Lí Học Sư Phạm.pdf
 
đúNg sai-1 (1)
đúNg sai-1 (1)đúNg sai-1 (1)
đúNg sai-1 (1)
 
Nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng : Luận á...
Nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng : Luận á...Nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng : Luận á...
Nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng : Luận á...
 
Luận văn: Giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải, 9đ
Luận văn: Giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải, 9đLuận văn: Giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải, 9đ
Luận văn: Giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải, 9đ
 
Luận văn: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp tỉnh Vĩnh Long
Luận văn: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp tỉnh Vĩnh LongLuận văn: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp tỉnh Vĩnh Long
Luận văn: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp tỉnh Vĩnh Long
 

Similar to Tư tưởng đạo đức trong triết học khai sáng Pháp

Triết học mác – lênin (hệ thống câu hỏi dáp an gợi mở & hướng dẫn viết ...
Triết học mác – lênin (hệ thống câu hỏi   dáp an gợi mở & hướng dẫn viết ...Triết học mác – lênin (hệ thống câu hỏi   dáp an gợi mở & hướng dẫn viết ...
Triết học mác – lênin (hệ thống câu hỏi dáp an gợi mở & hướng dẫn viết ...nataliej4
 
Giáo trình triết học
Giáo trình triết họcGiáo trình triết học
Giáo trình triết họcnataliej4
 
Khoá Luận Tốt Nghiệp Vấn Đề Chủ Nghĩa Hiện Thực Trong Lý Khoá Luận Học Ở Việt...
Khoá Luận Tốt Nghiệp Vấn Đề Chủ Nghĩa Hiện Thực Trong Lý Khoá Luận Học Ở Việt...Khoá Luận Tốt Nghiệp Vấn Đề Chủ Nghĩa Hiện Thực Trong Lý Khoá Luận Học Ở Việt...
Khoá Luận Tốt Nghiệp Vấn Đề Chủ Nghĩa Hiện Thực Trong Lý Khoá Luận Học Ở Việt...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Van de Con Nguoi Trong Triet Hoc Friedrich Nietzsche
Van de Con Nguoi Trong Triet Hoc Friedrich NietzscheVan de Con Nguoi Trong Triet Hoc Friedrich Nietzsche
Van de Con Nguoi Trong Triet Hoc Friedrich NietzscheMan_Ebook
 
Tâm lý học kỹ sư.pdf
Tâm lý học kỹ sư.pdfTâm lý học kỹ sư.pdf
Tâm lý học kỹ sư.pdfMan_Ebook
 
75770b9b cdbf-4038-90e2-f25e1f4426fe triethocmaclenin
75770b9b cdbf-4038-90e2-f25e1f4426fe triethocmaclenin75770b9b cdbf-4038-90e2-f25e1f4426fe triethocmaclenin
75770b9b cdbf-4038-90e2-f25e1f4426fe triethocmacleninPhi Phi
 
Giao trinh triet hoc chuyen nganh
Giao trinh triet hoc chuyen nganhGiao trinh triet hoc chuyen nganh
Giao trinh triet hoc chuyen nganhTrung Huynh
 
Luận Văn Vấn đề đạo đức trong triết học của I. Kant và ý nghĩa thời đại.doc
Luận Văn Vấn đề đạo đức trong triết học của I. Kant và ý nghĩa thời đại.docLuận Văn Vấn đề đạo đức trong triết học của I. Kant và ý nghĩa thời đại.doc
Luận Văn Vấn đề đạo đức trong triết học của I. Kant và ý nghĩa thời đại.docsividocz
 
TÂM LÝ HỌC VƯ–GỐT–XKI
TÂM LÝ HỌC VƯ–GỐT–XKI TÂM LÝ HỌC VƯ–GỐT–XKI
TÂM LÝ HỌC VƯ–GỐT–XKI nataliej4
 
Tư tưởng triết học của lê hữu trác trong tác phẩm hải thượng y tông tâm lĩnh
Tư tưởng triết học của lê hữu trác trong tác phẩm hải thượng y tông tâm lĩnhTư tưởng triết học của lê hữu trác trong tác phẩm hải thượng y tông tâm lĩnh
Tư tưởng triết học của lê hữu trác trong tác phẩm hải thượng y tông tâm lĩnhMan_Ebook
 
Tư tưởng chính trị - xã hội của nho sĩ duy tân cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX
Tư tưởng chính trị - xã hội của nho sĩ duy tân cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX Tư tưởng chính trị - xã hội của nho sĩ duy tân cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX
Tư tưởng chính trị - xã hội của nho sĩ duy tân cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX nataliej4
 
Giáo trình tư tưởng hcm bộ giáo dục và đào tạo, lần 10
Giáo trình tư tưởng hcm  bộ giáo dục và đào tạo, lần 10Giáo trình tư tưởng hcm  bộ giáo dục và đào tạo, lần 10
Giáo trình tư tưởng hcm bộ giáo dục và đào tạo, lần 10Nam Cengroup
 
Tư tưởng Hồ Chí Minh - www.tailieubachkhoa.vn
Tư tưởng Hồ Chí Minh - www.tailieubachkhoa.vnTư tưởng Hồ Chí Minh - www.tailieubachkhoa.vn
Tư tưởng Hồ Chí Minh - www.tailieubachkhoa.vnNam Xuyen
 

Similar to Tư tưởng đạo đức trong triết học khai sáng Pháp (20)

Quan niệm của Immanuel Kant về tự do
Quan niệm của Immanuel Kant về tự doQuan niệm của Immanuel Kant về tự do
Quan niệm của Immanuel Kant về tự do
 
Triết học mác – lênin (hệ thống câu hỏi dáp an gợi mở & hướng dẫn viết ...
Triết học mác – lênin (hệ thống câu hỏi   dáp an gợi mở & hướng dẫn viết ...Triết học mác – lênin (hệ thống câu hỏi   dáp an gợi mở & hướng dẫn viết ...
Triết học mác – lênin (hệ thống câu hỏi dáp an gợi mở & hướng dẫn viết ...
 
Giáo trình triết học
Giáo trình triết họcGiáo trình triết học
Giáo trình triết học
 
Khoá Luận Tốt Nghiệp Vấn Đề Chủ Nghĩa Hiện Thực Trong Lý Khoá Luận Học Ở Việt...
Khoá Luận Tốt Nghiệp Vấn Đề Chủ Nghĩa Hiện Thực Trong Lý Khoá Luận Học Ở Việt...Khoá Luận Tốt Nghiệp Vấn Đề Chủ Nghĩa Hiện Thực Trong Lý Khoá Luận Học Ở Việt...
Khoá Luận Tốt Nghiệp Vấn Đề Chủ Nghĩa Hiện Thực Trong Lý Khoá Luận Học Ở Việt...
 
Luận văn: Vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong lý luận văn học, 9 ĐIỂM
Luận văn: Vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong lý luận văn học, 9 ĐIỂMLuận văn: Vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong lý luận văn học, 9 ĐIỂM
Luận văn: Vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong lý luận văn học, 9 ĐIỂM
 
Luận án: Tư tưởng triết học của Tôn Trung Sơn và ý nghĩa, HAY
Luận án: Tư tưởng triết học của Tôn Trung Sơn và ý nghĩa, HAYLuận án: Tư tưởng triết học của Tôn Trung Sơn và ý nghĩa, HAY
Luận án: Tư tưởng triết học của Tôn Trung Sơn và ý nghĩa, HAY
 
Van de Con Nguoi Trong Triet Hoc Friedrich Nietzsche
Van de Con Nguoi Trong Triet Hoc Friedrich NietzscheVan de Con Nguoi Trong Triet Hoc Friedrich Nietzsche
Van de Con Nguoi Trong Triet Hoc Friedrich Nietzsche
 
Tâm lý học kỹ sư.pdf
Tâm lý học kỹ sư.pdfTâm lý học kỹ sư.pdf
Tâm lý học kỹ sư.pdf
 
75770b9b cdbf-4038-90e2-f25e1f4426fe triethocmaclenin
75770b9b cdbf-4038-90e2-f25e1f4426fe triethocmaclenin75770b9b cdbf-4038-90e2-f25e1f4426fe triethocmaclenin
75770b9b cdbf-4038-90e2-f25e1f4426fe triethocmaclenin
 
Giao trinh triet hoc chuyen nganh
Giao trinh triet hoc chuyen nganhGiao trinh triet hoc chuyen nganh
Giao trinh triet hoc chuyen nganh
 
Luận Văn Vấn đề đạo đức trong triết học của I. Kant và ý nghĩa thời đại.doc
Luận Văn Vấn đề đạo đức trong triết học của I. Kant và ý nghĩa thời đại.docLuận Văn Vấn đề đạo đức trong triết học của I. Kant và ý nghĩa thời đại.doc
Luận Văn Vấn đề đạo đức trong triết học của I. Kant và ý nghĩa thời đại.doc
 
TÂM LÝ HỌC VƯ–GỐT–XKI
TÂM LÝ HỌC VƯ–GỐT–XKI TÂM LÝ HỌC VƯ–GỐT–XKI
TÂM LÝ HỌC VƯ–GỐT–XKI
 
Tiểu Luận Tư Tưởng Triết Học Của Phơrăngxít Bêcơn
Tiểu Luận Tư Tưởng Triết Học Của Phơrăngxít BêcơnTiểu Luận Tư Tưởng Triết Học Của Phơrăngxít Bêcơn
Tiểu Luận Tư Tưởng Triết Học Của Phơrăngxít Bêcơn
 
Luận văn: Tư tưởng nhân bản trong lịch sử tư tưởng Hàn Quốc, HOT
Luận văn: Tư tưởng nhân bản trong lịch sử tư tưởng Hàn Quốc, HOTLuận văn: Tư tưởng nhân bản trong lịch sử tư tưởng Hàn Quốc, HOT
Luận văn: Tư tưởng nhân bản trong lịch sử tư tưởng Hàn Quốc, HOT
 
Luận án: Tư tưởng nhân bản trong lịch sử tư tưởng Hàn Quốc, HAY
Luận án: Tư tưởng nhân bản trong lịch sử tư tưởng Hàn Quốc, HAYLuận án: Tư tưởng nhân bản trong lịch sử tư tưởng Hàn Quốc, HAY
Luận án: Tư tưởng nhân bản trong lịch sử tư tưởng Hàn Quốc, HAY
 
Tư tưởng triết học của lê hữu trác trong tác phẩm hải thượng y tông tâm lĩnh
Tư tưởng triết học của lê hữu trác trong tác phẩm hải thượng y tông tâm lĩnhTư tưởng triết học của lê hữu trác trong tác phẩm hải thượng y tông tâm lĩnh
Tư tưởng triết học của lê hữu trác trong tác phẩm hải thượng y tông tâm lĩnh
 
Tư tưởng chính trị - xã hội của nho sĩ duy tân cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX
Tư tưởng chính trị - xã hội của nho sĩ duy tân cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX Tư tưởng chính trị - xã hội của nho sĩ duy tân cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX
Tư tưởng chính trị - xã hội của nho sĩ duy tân cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX
 
Giáo trình tư tưởng hcm bộ giáo dục và đào tạo, lần 10
Giáo trình tư tưởng hcm  bộ giáo dục và đào tạo, lần 10Giáo trình tư tưởng hcm  bộ giáo dục và đào tạo, lần 10
Giáo trình tư tưởng hcm bộ giáo dục và đào tạo, lần 10
 
Luận văn: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự, HOT
Luận văn: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự, HOTLuận văn: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự, HOT
Luận văn: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự, HOT
 
Tư tưởng Hồ Chí Minh - www.tailieubachkhoa.vn
Tư tưởng Hồ Chí Minh - www.tailieubachkhoa.vnTư tưởng Hồ Chí Minh - www.tailieubachkhoa.vn
Tư tưởng Hồ Chí Minh - www.tailieubachkhoa.vn
 

More from nataliej4

đồ áN xây dựng website bán laptop 1129155
đồ áN xây dựng website bán laptop 1129155đồ áN xây dựng website bán laptop 1129155
đồ áN xây dựng website bán laptop 1129155nataliej4
 
Nghệ thuật chiến tranh nhân dân việt nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ t...
Nghệ thuật chiến tranh nhân dân việt nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ t...Nghệ thuật chiến tranh nhân dân việt nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ t...
Nghệ thuật chiến tranh nhân dân việt nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ t...nataliej4
 
Quản lý dịch vụ ô tô toyota 724279
Quản lý dịch vụ ô tô toyota 724279Quản lý dịch vụ ô tô toyota 724279
Quản lý dịch vụ ô tô toyota 724279nataliej4
 
Từ vựng tiếng anh luyện thi thpt quốc gia
Từ vựng tiếng anh luyện thi thpt quốc giaTừ vựng tiếng anh luyện thi thpt quốc gia
Từ vựng tiếng anh luyện thi thpt quốc gianataliej4
 
Công tác dược lâm sàng tại bv cấp cứu trưng vương
Công tác dược lâm sàng tại bv cấp cứu trưng vươngCông tác dược lâm sàng tại bv cấp cứu trưng vương
Công tác dược lâm sàng tại bv cấp cứu trưng vươngnataliej4
 
Bài giảng nghề giám đốc
Bài giảng nghề giám đốcBài giảng nghề giám đốc
Bài giảng nghề giám đốcnataliej4
 
đề Cương chương trình đào tạo trình độ trung cấp kế toán tin học
đề Cương chương trình đào tạo trình độ trung cấp kế toán   tin họcđề Cương chương trình đào tạo trình độ trung cấp kế toán   tin học
đề Cương chương trình đào tạo trình độ trung cấp kế toán tin họcnataliej4
 
Giáo trình kỹ thuật an toàn và bảo hộ lao động
Giáo trình kỹ thuật an toàn và bảo hộ lao độngGiáo trình kỹ thuật an toàn và bảo hộ lao động
Giáo trình kỹ thuật an toàn và bảo hộ lao độngnataliej4
 
Lựa chọn trong điều kiện không chắc chắn
Lựa chọn trong điều kiện không chắc chắnLựa chọn trong điều kiện không chắc chắn
Lựa chọn trong điều kiện không chắc chắnnataliej4
 
Thực trạng phân bố và khai thác khoáng sét ở đồng bằng sông cửu long 4857877
Thực trạng phân bố và khai thác khoáng sét ở đồng bằng sông cửu long 4857877Thực trạng phân bố và khai thác khoáng sét ở đồng bằng sông cửu long 4857877
Thực trạng phân bố và khai thác khoáng sét ở đồng bằng sông cửu long 4857877nataliej4
 
Sổ tay hướng dẫn khách thuê tòa nhà ree tower
Sổ tay hướng dẫn khách thuê   tòa nhà ree towerSổ tay hướng dẫn khách thuê   tòa nhà ree tower
Sổ tay hướng dẫn khách thuê tòa nhà ree towernataliej4
 
Phân tích tác động của thiên lệch hành vi đến quyết định của nhà đầu tư cá nh...
Phân tích tác động của thiên lệch hành vi đến quyết định của nhà đầu tư cá nh...Phân tích tác động của thiên lệch hành vi đến quyết định của nhà đầu tư cá nh...
Phân tích tác động của thiên lệch hành vi đến quyết định của nhà đầu tư cá nh...nataliej4
 
Bài giảng giáo dục hoà nhập trẻ khuyết tật
Bài giảng giáo dục hoà nhập trẻ khuyết tậtBài giảng giáo dục hoà nhập trẻ khuyết tật
Bài giảng giáo dục hoà nhập trẻ khuyết tậtnataliej4
 
đồ áN thiết kế quần âu nam 6838864
đồ áN thiết kế quần âu nam 6838864đồ áN thiết kế quần âu nam 6838864
đồ áN thiết kế quần âu nam 6838864nataliej4
 
Tài liệu hội thảo chuyên đề công tác tuyển sinh – thực trạng và giải pháp 717...
Tài liệu hội thảo chuyên đề công tác tuyển sinh – thực trạng và giải pháp 717...Tài liệu hội thảo chuyên đề công tác tuyển sinh – thực trạng và giải pháp 717...
Tài liệu hội thảo chuyên đề công tác tuyển sinh – thực trạng và giải pháp 717...nataliej4
 
Bài giảng dịch tễ học bệnh nhiễm trùng
Bài giảng dịch tễ học bệnh nhiễm trùngBài giảng dịch tễ học bệnh nhiễm trùng
Bài giảng dịch tễ học bệnh nhiễm trùngnataliej4
 
Bài giảng môn khởi sự kinh doanh
Bài giảng môn khởi sự kinh doanhBài giảng môn khởi sự kinh doanh
Bài giảng môn khởi sự kinh doanhnataliej4
 
Giới thiệu học máy – mô hình naïve bayes learning intro
Giới thiệu học máy – mô hình naïve bayes   learning introGiới thiệu học máy – mô hình naïve bayes   learning intro
Giới thiệu học máy – mô hình naïve bayes learning intronataliej4
 
Lý thuyết thuế chuẩn tắc
Lý thuyết thuế chuẩn tắcLý thuyết thuế chuẩn tắc
Lý thuyết thuế chuẩn tắcnataliej4
 
Bài giảng thuế thu nhập (cá nhân, doanh nghiệp)
Bài giảng thuế thu nhập (cá nhân, doanh nghiệp)Bài giảng thuế thu nhập (cá nhân, doanh nghiệp)
Bài giảng thuế thu nhập (cá nhân, doanh nghiệp)nataliej4
 

More from nataliej4 (20)

đồ áN xây dựng website bán laptop 1129155
đồ áN xây dựng website bán laptop 1129155đồ áN xây dựng website bán laptop 1129155
đồ áN xây dựng website bán laptop 1129155
 
Nghệ thuật chiến tranh nhân dân việt nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ t...
Nghệ thuật chiến tranh nhân dân việt nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ t...Nghệ thuật chiến tranh nhân dân việt nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ t...
Nghệ thuật chiến tranh nhân dân việt nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ t...
 
Quản lý dịch vụ ô tô toyota 724279
Quản lý dịch vụ ô tô toyota 724279Quản lý dịch vụ ô tô toyota 724279
Quản lý dịch vụ ô tô toyota 724279
 
Từ vựng tiếng anh luyện thi thpt quốc gia
Từ vựng tiếng anh luyện thi thpt quốc giaTừ vựng tiếng anh luyện thi thpt quốc gia
Từ vựng tiếng anh luyện thi thpt quốc gia
 
Công tác dược lâm sàng tại bv cấp cứu trưng vương
Công tác dược lâm sàng tại bv cấp cứu trưng vươngCông tác dược lâm sàng tại bv cấp cứu trưng vương
Công tác dược lâm sàng tại bv cấp cứu trưng vương
 
Bài giảng nghề giám đốc
Bài giảng nghề giám đốcBài giảng nghề giám đốc
Bài giảng nghề giám đốc
 
đề Cương chương trình đào tạo trình độ trung cấp kế toán tin học
đề Cương chương trình đào tạo trình độ trung cấp kế toán   tin họcđề Cương chương trình đào tạo trình độ trung cấp kế toán   tin học
đề Cương chương trình đào tạo trình độ trung cấp kế toán tin học
 
Giáo trình kỹ thuật an toàn và bảo hộ lao động
Giáo trình kỹ thuật an toàn và bảo hộ lao độngGiáo trình kỹ thuật an toàn và bảo hộ lao động
Giáo trình kỹ thuật an toàn và bảo hộ lao động
 
Lựa chọn trong điều kiện không chắc chắn
Lựa chọn trong điều kiện không chắc chắnLựa chọn trong điều kiện không chắc chắn
Lựa chọn trong điều kiện không chắc chắn
 
Thực trạng phân bố và khai thác khoáng sét ở đồng bằng sông cửu long 4857877
Thực trạng phân bố và khai thác khoáng sét ở đồng bằng sông cửu long 4857877Thực trạng phân bố và khai thác khoáng sét ở đồng bằng sông cửu long 4857877
Thực trạng phân bố và khai thác khoáng sét ở đồng bằng sông cửu long 4857877
 
Sổ tay hướng dẫn khách thuê tòa nhà ree tower
Sổ tay hướng dẫn khách thuê   tòa nhà ree towerSổ tay hướng dẫn khách thuê   tòa nhà ree tower
Sổ tay hướng dẫn khách thuê tòa nhà ree tower
 
Phân tích tác động của thiên lệch hành vi đến quyết định của nhà đầu tư cá nh...
Phân tích tác động của thiên lệch hành vi đến quyết định của nhà đầu tư cá nh...Phân tích tác động của thiên lệch hành vi đến quyết định của nhà đầu tư cá nh...
Phân tích tác động của thiên lệch hành vi đến quyết định của nhà đầu tư cá nh...
 
Bài giảng giáo dục hoà nhập trẻ khuyết tật
Bài giảng giáo dục hoà nhập trẻ khuyết tậtBài giảng giáo dục hoà nhập trẻ khuyết tật
Bài giảng giáo dục hoà nhập trẻ khuyết tật
 
đồ áN thiết kế quần âu nam 6838864
đồ áN thiết kế quần âu nam 6838864đồ áN thiết kế quần âu nam 6838864
đồ áN thiết kế quần âu nam 6838864
 
Tài liệu hội thảo chuyên đề công tác tuyển sinh – thực trạng và giải pháp 717...
Tài liệu hội thảo chuyên đề công tác tuyển sinh – thực trạng và giải pháp 717...Tài liệu hội thảo chuyên đề công tác tuyển sinh – thực trạng và giải pháp 717...
Tài liệu hội thảo chuyên đề công tác tuyển sinh – thực trạng và giải pháp 717...
 
Bài giảng dịch tễ học bệnh nhiễm trùng
Bài giảng dịch tễ học bệnh nhiễm trùngBài giảng dịch tễ học bệnh nhiễm trùng
Bài giảng dịch tễ học bệnh nhiễm trùng
 
Bài giảng môn khởi sự kinh doanh
Bài giảng môn khởi sự kinh doanhBài giảng môn khởi sự kinh doanh
Bài giảng môn khởi sự kinh doanh
 
Giới thiệu học máy – mô hình naïve bayes learning intro
Giới thiệu học máy – mô hình naïve bayes   learning introGiới thiệu học máy – mô hình naïve bayes   learning intro
Giới thiệu học máy – mô hình naïve bayes learning intro
 
Lý thuyết thuế chuẩn tắc
Lý thuyết thuế chuẩn tắcLý thuyết thuế chuẩn tắc
Lý thuyết thuế chuẩn tắc
 
Bài giảng thuế thu nhập (cá nhân, doanh nghiệp)
Bài giảng thuế thu nhập (cá nhân, doanh nghiệp)Bài giảng thuế thu nhập (cá nhân, doanh nghiệp)
Bài giảng thuế thu nhập (cá nhân, doanh nghiệp)
 

Recently uploaded

30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoámyvh40253
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdfTrnHoa46
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfTrnHoa46
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...Nguyen Thanh Tu Collection
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfVyTng986513
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 

Recently uploaded (20)

30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 

Tư tưởng đạo đức trong triết học khai sáng Pháp

  • 1. 1 VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI VIỆN TRIẾT HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC TRONG TRIẾT HỌC KHAI SÁNG PHÁP Mã số: 60 22 80 Người thực hiện: Lương Mỹ Vân Người hướng dẫn: TS. Đỗ Minh Hợp Hà Nội 07/2006
  • 2. 2 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có xuất xứ rõ ràng, các kết luận chưa được công bố trong bất cứ một công trình nào khác. Tác giả luận văn Lương Mỹ Vân
  • 3. 3 MỤC LỤC Mở đầu ............................................................................................................. 2 CHƯƠNG 1. NHỮNG ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ CỦA TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC TRONG TRIẾT HỌC KHAI SÁNG PHÁP........................... 12 1.1. Điều kiện kinh tế – xã hội................................................................ 13 1.2. Tiền đề khoa học và văn hóa............................................................ 19 1.2.1. Sự phát triển của khoa học tự nhiên và khoa học thực nghiệm, sự đề cao lý tính.............................................. 20 1.2.2. Thái độ đối với Nhà thờ và tôn giáo..................................... 23 1.3. Tiền đề tư tưởng – lý luận................................................................ 27 1.3.1. Tư tưởng đạo đức thời kỳ Cổ đại.......................................... 28 1.3.2. Tư tưởng đạo đức thời kỳ Phục hưng................................... 32 1.3.3. Tư tưởng đạo đức thời kỳ Cận đại........................................ 35 CHƯƠNG 2. TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC TRONG TRIẾT HỌC KHAI SÁNG PHÁP QUA NHỮNG CHỦ ĐỀ CƠ BẢN........................... 40 2.1. Tự do................................................................................................ 44 2.2. Tinh thần duy lý, “khai sáng” .......................................................... 52 2.3. Khoan dung...................................................................................... 67 2.4. Mấy nhận xét bước đầu về tư tưởng đạo đức trong triết học Khai sáng Pháp......................................................................................... 75 Kết luận ........................................................................................................... 80 Danh mục tài liệu tham khảo .......................................................................... 82
  • 4. 4 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Từ xưa đến nay, vấn đề đạo đức, một trong những lĩnh vực hoạt động người quan trọng và rộng nhất, luôn được quan tâm sâu sắc ở mọi cấp độ – từ trong ý thức thông thường của nhân dân, đến tư tưởng của các nhà khoa học. Có thể nói, đạo đức thuộc về số ít những lĩnh vực luôn mang tính cấp thiết và luôn đặt ra những vấn đề mới. Tuy nhiên, đó là đạo đức theo nghĩa đạo đức học chuẩn tắc và đạo đức học ứng dụng. Còn đối với lịch sử tư tưởng đạo đức, vấn đề là tại sao việc nghiên cứu những tư tưởng đạo đức đã qua rất lâu trong lịch sử (cụ thể như việc nghiên cứu lịch sử tư tưởng đạo đức của triết học Khai sáng Pháp) lại có thể có ý nghĩa – tức là có tính cấp thiết? Vì như Ăngghen1 đã nói, “từ thời đại này đến thời đại khác, những quan niệm về thiện và ác đã biến đổi đến mức chúng thường trái ngược hẳn nhau” [26, tr.135]. Lý do thứ nhất, theo chúng tôi, là việc cần thiết phải nghiên cứu lịch sử tư tưởng – tư tưởng nói chung và tư tưởng đạo đức nói riêng – của mỗi một giai đoạn đã qua. Ăngghen từng viết: “tư duy lý luận chỉ là một đặc tính bẩm sinh dưới dạng năng lực của người ta mà có thôi. Năng lực ấy cần phải được phát triển hoàn thiện, và muốn hoàn thiện nó thì cho tới nay, không có cách nào khác hơn là nghiên cứu toàn bộ triết học thời trước” [26, tr.487]. Như vậy, ở một khía cạnh nào đó, có thể thấy mọi nghiên cứu về lịch sử tư tưởng đều là cần thiết. Đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam hiện nay, đứng trước những thách thức ngày càng lớn của công cuộc hội nhập và phát triển, việc phát triển năng lực tư duy lý luận, khả năng giải quyết “những cái chung” mà 1 Việc trình bày tên riêng và địa danh trong luận văn được thực hiện như sau: đối với tên các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác, chúng tôi sử dụng phiên âm tiếng Việt; đối với tên các tác giả nước ngoài, chúng tôi để nguyên văn; đối với địa danh, chúng tôi phiên âm sang tiếng Việt.
  • 5. 5 Lênin đã nói tới, sẽ tạo cho chúng ta những thuận lợi to lớn. Mà muốn làm được như vậy, chúng tôi xin nhắc lại tư tưởng của Ăngghen: không có cách nào khác là nghiên cứu toàn bộ lịch sử triết học [tư tưởng] thời trước. Lý do thứ hai để chúng tôi tập trung nghiên cứu đề tài về tư tưởng đạo đức của triết học Khai sáng Pháp xuất phát trực tiếp từ bản thân giai đoạn lịch sử này. Thời kỳ “Khai sáng” là thời kỳ chuẩn bị về mặt tư tưởng cho Đại cách mạng tư sản Pháp 1789. Cùng với cuộc cách mạng này, hàng loạt các cuộc cách mạng tư sản khác đã diễn ra trên khắp lãnh thổ châu Âu và thế giới, tạo điều kiện cho chủ nghĩa tư bản lớn mạnh, trở thành một hệ thống thế giới. Cho đến ngày nay, chủ nghĩa tư bản vẫn là một lực lượng mạnh, thống trị ở hầu như toàn bộ các nước giàu và có thế lực nhất. Thực tế này là nguyên nhân để chúng ta đi tìm nguồn gốc sức mạnh của nó. Và một trong những đích mà ta đạt đến trong quá trình tìm kiếm ấy là nền tảng tư tưởng của chủ nghĩa tư bản vào thời kỳ đầu phát triển của nó. Nền tảng ấy chính là tư tưởng Khai sáng, trong đó triết học Khai sáng Pháp đóng góp một phần đặc biệt quan trọng: quan điểm về chính trị và đạo đức. Ngày nay, rất nhiều tư tưởng của triết học Khai sáng Pháp đã hòa chung vào cấu trúc tư tưởng đặc trưng của chủ nghĩa tư bản: quan điểm tự do, bình đẳng, lối sống thị dân, vấn đề giáo dục, vấn đề quyền con người, v.v.. Có thể thấy chủ nghĩa tư bản hiện đại đã kế thừa khá nhiều tư tưởng chính trị và đạo đức của thời kỳ Khai sáng Pháp. Để hiểu biết sâu sắc về chủ nghĩa tư bản ấy, ngoài việc phân tích tình hình kinh tế – xã hội của nó, còn cần xem xét cả những lĩnh vực tư tưởng của nó từ gốc rễ. Đề tài của chúng tôi nhằm giải quyết một phần nhiệm vụ này. Trong bối cảnh cụ thể của Việt Nam hiện tại, việc nghiên cứu đạo đức và lịch sử các tư tưởng đạo đức còn có một ý nghĩa đặc biệt cấp thiết. Sự đảo lộn của các thang bậc giá trị, sự thay đổi và xuống cấp về mặt đạo đức trong một bộ phận không nhỏ người dân, là những lý do để các vấn đề đạo đức ngày
  • 6. 6 càng được quan tâm ở nhiều cấp độ. Với việc nghiên cứu những giai đoạn đã qua trong lịch sử đạo đức, cụ thể ở đây là lịch sử tư tưởng đạo đức trong triết học Khai sáng Pháp, trên cơ sở kế thừa có phê phán, ta có thể tìm được những hạt nhân hợp lý góp phần xây dựng và phát triển ý thức đạo đức trong đời sống tinh thần nước ta hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Ở Việt Nam, lịch sử nghiên cứu về tư tưởng của các nhà Khai sáng Pháp đã bắt đầu từ những năm cuối thế kỷ XIX, khi thực dân Pháp chính thức đặt ách đô hộ lên đất nước ta. Mặc dù bị thực dân ngăn chặn bằng nhiều cách, nhưng những luồng tư tưởng tiến bộ của chính nước Pháp vẫn đến được Việt Nam và đã lay thức một thế hệ những nhà Nho yêu nước kháng Pháp đương thời. Thông qua Tân thư, Tân văn của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu, các nhà Nho tiến bộ Việt Nam đã được biết đến tư tưởng dân chủ, tự do, bình đẳng của Lư Thoa (Rousseau), Mạnh Đức Tư Cưu (Montesquieu), v.v.. Sau Cách mạng Tháng Tám 1945, việc nghiên cứu một cách bài bản và khoa học các trào lưu tư tưởng nói chung và tư tưởng của các nhà Khai sáng Pháp nói riêng bắt đầu được thật sự chú ý. Mặc dù vậy, cho đến tận ngày nay, những công trình nghiên cứu chuyên sâu về lịch sử tư tưởng Khai sáng vẫn hầu như vắng bóng. Khi bắt tay triển khai đề tài này, chúng tôi chỉ có được những tài liệu hết sức khái quát – trong đó tư tưởng Khai sáng Pháp chỉ được đề cập với tư cách một giai đoạn trong tiến trình lịch sử tư tưởng nhân loại. Tuy nhiên, đó thật sự là những công trình hết sức có ý nghĩa đối với chúng tôi. Có thể kể đến những tác phẩm sau: Lịch sử triết học – Triết học thời kỳ tiền Tư bản chủ nghĩa. Triết học Khai sáng từ thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XIX của Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô do Nhà xuất bản Sự thật dịch và xuất bản năm 1962. Tác phẩm này đem
  • 7. 7 lại cái nhìn tổng quát về các trào lưu tư tưởng và các nhà tư tưởng tiêu biểu của Nga, Pháp và Bắc Mĩ trong thời gian khoảng hai thế kỷ, XVII và XVIII. Riêng đối với triết học Pháp, các tác giả đặc biệt đề cao triết học Khai sáng của thế kỷ XVIII, coi đó là “sự chuẩn bị về tư tưởng cho cuộc Cách mạng tư sản ở Pháp”. Các nhà triết học cùng với những quan điểm cơ bản của họ cũng được xem xét và đánh giá khá đầy đủ. Mặc dù vậy, do mục đích chính của các tác giả là nghiên cứu tổng quát về triết học Pháp thế kỷ XVIII, với nội dung bao trùm là cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật chiến đấu của phái Bách khoa và những khuynh hướng dân chủ tiến bộ với chủ nghĩa duy tâm, những quan điểm bảo hoàng phong kiến, nên các tư tưởng đạo đức hầu như ít được đề cập đến. Lịch sử văn học phương Tây, tập 1, Đỗ Đức Hiểu (chủ biên), nhà xuất bản Giáo dục xuất bản năm 1963. Trong lời nói đầu, các tác giả cũng đã nói rõ phần văn học Pháp được quan tâm nghiên cứu nhiều hơn các trào lưu văn học khác, do chỗ các tác phẩm văn học Pháp đã được dịch và giới thiệu ở Việt Nam nhiều hơn. Mặc dù viết về lịch sử văn học, nhưng bởi trong thời kỳ Khai sáng Pháp, nhà văn và nhà triết học là một, nên các nhà nghiên cứu Việt Nam cũng đã làm rõ những tư tưởng chủ đạo chi phối thời kỳ văn chương đó và tư tưởng riêng biệt của các đại biểu văn chương Pháp – tất cả đều là triết gia tiêu biểu (Voltaire, Diderot và Rousseau). Khi xem xét các tác phẩm cụ thể của họ, các nhà nghiên cứu Việt Nam đã xem xét cả khía cạnh đạo đức (bởi trong văn chương, cái đẹp đích thực bao giờ cũng gắn liền với cái chân và cái thiện). Công trình này do đó rất có ích đối với chúng tôi. Về trước tác của chính các nhà tư tưởng Khai sáng Pháp, cho đến nay chỉ có thể kể đến Candide, chàng ngây thơ của Voltaire do dịch giả Tế Xuyên dịch, xuất bản tại Sài Gòn năm 1974 và hai tác phẩm mới được phát hành gần đây Bàn về khế ước xã hội của Rousseau và Bàn về tinh thần pháp luật của
  • 8. 8 Montesquieu, cả hai đều do dịch giả Hoàng Thanh Đạm dịch, Nhà xuất bản Lý luận chính trị phát hành năm 2004. Trong Lời giới thiệu, Hoàng Thanh Đạm có nhắc tới các bản dịch hoặc trích dịch trước đó của hai tác phẩm trên. Để phục vụ cho luận văn này, chúng tôi cho rằng sử dụng hai bản dịch mới là đủ, bởi chúng đã kế thừa được những thành công của các bản dịch trước đó. Trên lĩnh vực nghiên cứu đạo đức học và các tư tưởng đạo đức, tình hình cũng tương tự: từ Cách mạng Tháng Tám trở về trước, rất ít tác phẩm nghiên cứu theo những phương pháp và cách thức của khoa học “phương Tây”. Ngay từ thời phong kiến đã có nhiều tác giả viết về đạo đức, ví dụ như những tập “gia huấn” mà các nhà Nho viết ra để dạy cho con cháu trong nhà hoặc học trò của mình. Phần lớn các tác phẩm này là những lời khuyên phải sống cho hợp với tam cương ngũ thường – tức là đạo đức thực tiễn, chứ không phải là đạo đức học với tư cách một khoa học, hay nghiên cứu về những tư tưởng đạo đức. Đến đầu thế kỷ XX, lác đác xuất hiện những tác phẩm có tính chất khảo cứu sâu hơn. Có thể tìm thấy trong đó tác phẩm Nhơn đạo, dịch theo nguyên văn của Lư Tín – một học giả Trung Hoa, xuất bản năm 1929. Tác phẩm này bàn về những vấn đề đời người, chính trị, pháp luật, nhân quyền, giáo dục, đạo đức, tôn giáo, v.v.. Dù đã có những tác phẩm có tính nghiên cứu như vậy, nhưng tài liệu trong đó những vấn đề luân lý đạo đức được xem xét như đối tượng của khoa học vẫn thật sự hiếm hoi. Sau Cách mạng Tháng Tám, số lượng tài liệu nghiên cứu về đạo đức dần dần tăng lên. Nhưng trong số đó phần lớn là các giáo trình đạo đức học – tính chất phổ thông còn rõ hơn tính chất chuyên sâu. Tuy vậy, chúng ta vẫn có được nhiều tác phẩm có chất lượng rất tốt. Có thể kể đến tác phẩm dịch của học giả Hoàng Ngọc Hiến – Đạo đức học, của tác giả G.Bandeladze - một nhà đạo đức học nổi tiếng của Liên Xô, do Nhà xuất bản Giáo dục ấn hành năm 1985. Trong các phân tích của tác giả, “quan điểm xã hội học được kết hợp
  • 9. 9 với quan điểm tâm lý học” và do vậy, “những nguyên tắc đạo đức mang ý nghĩa quy luật và được giới thiệu với một căn cứ toàn diện” [2, tr.3]. Tác giả có sự phân tích sâu sắc về mối quan hệ giữa đạo đức với các hình thái khác của ý thức xã hội như chính trị, pháp lý, nghệ thuật và qua đó xác định “những đặc trưng khái quát của đạo đức trên bình diện triết học” [2, tr.9]. Đây là một trong những sách tham khảo có giá trị, mặc dù do mục đích của nó – “thử trình bày một hệ thống đạo đức học mácxít”, – tác giả đã không đề cập đến lịch sử những tư tưởng đạo đức của nhân loại. Ngoài ra, viện Triết học đã từng tổ chức tập hợp, biên soạn và xuất bản (trong năm 1972) tác phẩm Bàn về đạo đức của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác. Tư tưởng của Hồ Chí Minh về đạo đức cũng được quan tâm nghiên cứu và năm 1993 Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia đã phát hành tác phẩm Về đạo đức, tập hợp những bài viết và bài nói của Hồ Chí Minh về vấn đề này. Đó là những tác phẩm tra cứu hữu dụng, góp phần đưa chúng ta tiếp cận những tư tưởng của Mác, Ăngghen, Lênin và Hồ Chí Minh về đạo đức thông qua tác phẩm gốc của các ông. Như vậy, có thể thấy mặc dù hiện nay số lượng tài liệu về đạo đức học không phải ít, nhưng những công trình nghiên cứu chuyên sâu về lịch sử tư tưởng đạo đức của mỗi thời kỳ trong lịch sử nhân loại vẫn hầu như vắng bóng ở Việt Nam. Trên thế giới, việc nghiên cứu tư tưởng đạo đức đã được bắt đầu từ rất sớm. Do những hạn chế của tác giả, luận văn chỉ xin tập trung vào mảng tài liệu tiếng Pháp về đề tài này. Ngay từ thế kỷ XIX, ở Pháp đã xuất hiện tác phẩm viết về lịch sử đạo đức của thời kỳ Khai sáng – tác phẩm Những bài giảng về lịch sử triết học đạo đức thế kỷ XVIII – của Victor Cousin, nhà duy linh luận nổi tiếng. Tuy nhiên, theo Lucien Sève, trong Triết học hiện đại Pháp và nguồn gốc của nó
  • 10. 10 từ năm 1789 đến nay, thì triết học của thế kỷ XVIII, triết học Khai sáng, đã bị những nhà duy linh luận (như V.Cousin) và những tác giả của trào lưu “triết học của giáo hội Thiên chúa” gạt bỏ không thương tiếc, vì những lý do chính trị sâu xa. Đến thế kỷ XX, triết học Pháp tập trung phát triển những trường phái hoàn toàn khác so với những tư tưởng của trào lưu Khai sáng: triết học cuộc sống của Bergson, triết học hiện sinh, hiện tượng học, chủ nghĩa cấu trúc, chú giải học, v.v.. Dường như những tư tưởng Khai sáng chỉ còn được nghiên cứu với tư cách “đã qua trong lịch sử”. Nhưng, cũng theo Lucien Sève, tư tưởng Khai sáng, tư tưởng duy vật tuy không được kế thừa ở những tác phẩm lớn hay những tác giả lớn, nhưng vẫn sống và bắt rễ vững chắc trong quan điểm của khoa học tự nhiên và trong đời sống nhân dân đông đảo. Như vậy, ta có thể tìm thấy những tư tưởng đạo đức của các nhà Khai sáng trong các tác phẩm nghiên cứu về lịch sử của trào lưu này hay về bản thân các tác giả cụ thể, thậm chí trong những tác phẩm nghiên cứu về Cách mạng 1789. Trong số những tác phẩm này, có nhiều công trình thuộc về các tác giả ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây. Ví dụ như tác phẩm nghiên cứu về tư tưởng của Helvétius của Kh.Momdjian, do Nhà xuất bản Ngoại văn Mátxcơva ấn hành năm 1959, hay tác phẩm viết về Diderot “một gương mặt lớn của chủ nghĩa duy vật chiến đấu trong thế kỷ XVIII” của József Szigeti, thuộc Viện Hàn lâm khoa học Hungary, in tại Buđapét năm 1962. Đương nhiên đối với những nhà nghiên cứu Pháp, trào lưu tư tưởng của chính dân tộc họ luôn luôn là đề tài vô tận cho những trang viết của họ. Ngoài những trước tác của chính các nhà tư tưởng Khai sáng, những tác phẩm viết về họ luôn luôn mỗi năm một nhiều thêm. Ở đây chúng tôi chỉ xin nêu ra một vài tác phẩm mới được xuất bản gần đây. Những nhà Khai sáng ở Pháp và châu Âu của Dominique Bouquet, Nhà xuất bản Pocket, Paris 2004. Một cuốn sách nhỏ tổng hợp và khái quát những
  • 11. 11 tư tưởng của các nhà Khai sáng. Không những thế, nó còn chứa đựng một danh mục rất thuận tiện các sách viết về trào lưu này, mà như tác giả đã viết, đó mới chỉ là một sự tuyển chọn chứ không phải là toàn bộ, vì “đối với một đề tài rộng lớn như đề tài về các nhà Khai sáng, cảm hứng luôn luôn là vô tận” [58, tr.165]. Những nhà Khai sáng, tập trích tư tưởng của những nhà Khai sáng của François Icher, Nhà xuất bản Martinière, Paris 2004, gần như một sự phổ biến thêm một lần nữa những tư tưởng Khai sáng cho các thế hệ hiện nay. Trào lưu Khai sáng là gì? – Jean-Michel Muglioni dịch và phân tích tác phẩm nổi tiếng của Kant về trào lưu Khai sáng, xuất bản năm 2005. Riêng về tư tưởng đạo đức của trào lưu Khai sáng, người ta có thể tìm thấy trong công trình đồ sộ của một tập thể rộng lớn các nhà nghiên cứu nổi tiếng của Pháp: Từ điển đạo đức học và triết học đạo đức, do Monique Canto- Sperber chủ biên, xuất bản năm 1996, tái bản năm 2001 ở Paris. Với hơn 1700 trang in và hơn 400 mục từ – mỗi mục từ giống như một bài nghiên cứu hoàn chỉnh, nội dung phong phú của nó đã đem lại rất nhiều thuận lợi cho chúng tôi khi triển khai đề tài này. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên, ở những phương diện khác nhau, đều có những đóng góp đáng kể vào việc nghiên cứu trào lưu tư tưởng Khai sáng. Nhưng không có công trình nào trong số đó đề cập đến tư tưởng đạo đức của trào lưu đó như một đối tượng nghiên cứu chủ đạo. Mặt khác, do những điều kiện hạn chế, chúng tôi không có được những tư liệu tiếng nước ngoài bàn trực tiếp về vấn đề kể trên. Trong tình hình đó, chúng tôi mong muốn luận văn của mình có thể đem lại một cái nhìn cụ thể và bao quát, góp phần làm sáng tỏ một lĩnh vực của giai đoạn tư tưởng quan trọng này.
  • 12. 12 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích: làm rõ nội dung tư tưởng đạo đức của triết học Khai sáng Pháp, qua đó rút ra những kết luận khái quát về tư tưởng đạo đức trong thời kỳ đầu hình thành và phát triển của chủ nghĩa tư bản. Nhiệm vụ: - Phân tích bối cảnh lịch sử – xã hội của thời kỳ Khai sáng Pháp và những tư tưởng đạo đức của các thời kỳ trước đó với tư cách tiền đề của tư tưởng đạo đức trong triết học Khai sáng Pháp. - Phân tích những chủ đề cơ bản trong tư tưởng đạo đức của các nhà Khai sáng Pháp. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tư tưởng đạo đức của các nhà triết học tiêu biểu của trào lưu Khai sáng Pháp thế kỷ XVIII. Trong số các nhà Khai sáng, chúng tôi tập trung chú ý vào bộ tứ tiêu biểu: Montesquieu, Voltaire, Rousseau và Diderot, cùng với những nhà tư tưởng thuộc phái Bách khoa. Trong quá trình luận chứng, chúng tôi cũng đề cập đến những nhà triết học khác mà ở những khía cạnh cụ thể, tư tưởng của họ mang tính tiêu biểu cho thời đại. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn dựa trên nền tảng chủ nghĩa duy vật về lịch sử, những quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin trong việc nghiên cứu lịch sử tư tưởng, từ đó xem xét những tiền đề phát sinh và tiến trình phát triển của tư tưởng đạo đức của các nhà triết học Pháp thời kỳ Khai sáng, cũng như những hạn chế mang tính lịch sử của tư tưởng của họ.
  • 13. 13 Phương pháp nghiên cứu: luận văn sử dụng các phương pháp như phân tích, tổng hợp, so sánh, khái quát hóa, đặc biệt là phương pháp logic – lịch sử. 6. Đóng góp của luận văn Luận văn góp phần làm sáng tỏ những nội dung cơ bản của tư tưởng đạo đức của một giai đoạn quan trọng trong lịch sử tư tưởng nhân loại – một giai đoạn mà ở Việt Nam chưa có được những nghiên cứu quy mô. Ngoài ra, luận văn cũng hy vọng góp phần vào việc nghiên cứu lịch sử tư tưởng đạo đức – một mảng đề tài đang còn mỏng ở Việt Nam. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2 chương, 7 tiết.
  • 14. 14 CHƯƠNG 1 NHỮNG ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ CỦA TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC TRONG TRIẾT HỌC KHAI SÁNG PHÁP Nghiên cứu về lịch sử tư tưởng đạo đức tất yếu phải xuất phát từ luận điểm coi đạo đức là một trong những hình thái của ý thức xã hội. Nhưng nếu chỉ nói như vậy thì chưa đủ. Cần phải xem xét vấn đề một cách biện chứng: đạo đức là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt. Tính chất đặc biệt của nó nằm ở chỗ nó là lĩnh vực hoạt động người có tính độc lập tương đối ở mức độ rất cao đối với tồn tại xã hội. M.Michalich đã nhận xét: “Đạo đức như là một yếu tố của ý thức xã hội, hoạt động tương đối độc lập đối với những điều kiện vật chất đến mức nó chịu ảnh hưởng đáng kể của các hình thái ý thức còn lại, đặc biệt là sự ảnh hưởng của triết học, khoa học, tín ngưỡng, hoặc nói rộng hơn - ảnh hưởng của hệ tư tưởng. Bởi vì bản thân cái hình thức này cũng là sự phản ánh các điều kiện vật chất nên chúng cùng nhau quyết định hình thức đạo đức, đưa vào đó những yếu tố mới so với các điều kiện hiện có và dẫn đến sự gián đoạn giữa đạo đức và những điều kiện đó cũng như tính chất không phù hợp của chúng” [31, tr.34]. Có thể nói, với một dữ kiện lịch sử thông thường, đạo đức có một “sức ỳ” nào đó – nó không đổi thay nhanh chóng theo sự thay đổi của các điều kiện vật chất. Chỉ trong những trường hợp đặc biệt, những đổi thay mang tính bước ngoặt và căn bản, mới có được tác động “nhìn thấy được” đối với những tư tưởng đạo đức đang hiện diện ở thời điểm đó. Xem xét tư tưởng đạo đức trong triết học Khai sáng Pháp, ta có thể có được một ví dụ điển hình cho nhận định trên. Triết học Khai sáng Pháp nảy nở và phát triển trọn vẹn trong thế kỷ XVIII. Ở châu Âu, xét về mặt chính trị, có thể nói không quá rằng thế kỷ XVIII chính là thế kỷ của nước Pháp. Nếu như trong các thế kỷ XV, XVI và
  • 15. 15 XVII, khi chủ nghĩa tư bản đã đi từ những giai đoạn tích lũy nguyên thủy đầu tiên đến sự dần dần hình thành và bước hẳn lên vũ đài lịch sử với Hà Lan (đất nước của cuộc Cách mạng tư sản đầu tiên trong lịch sử, diễn ra vào năm 1579) và Anh quốc (đất nước của Cách mạng tư sản 1642-1688), thì đến thế kỷ XVIII, trung tâm của những cuộc đấu tranh của giai cấp tư sản chống lại những giai cấp và tầng lớp đặc quyền đặc lợi đã chuyển sang nước Pháp. Đây chính là thời kỳ mà Ăngghen đã nhắc tới, thời kỳ “nước Pháp đã đập tan chế độ phong kiến và thiết lập nền thống trị thuần túy của giai cấp tư sản dưới một dạng cổ điển mà không một nước nào khác ở châu Âu đạt được” [28, tr.384]. Sự kiện nổi bật nhất diễn ra trên nước Pháp trong thế kỷ XVIII, có ý nghĩa không chỉ trong phạm vi châu Âu mà còn mang tính chất một chuyển biến lịch sử căn bản, là cuộc Cách mạng tư sản 1789. Để cuộc đại cách mạng này bùng nổ, trong suốt thế kỷ XVIII đã diễn ra những thay đổi làm lung lay tận gốc tất cả những nền tảng xã hội cũ ở Pháp. Và tất cả những chuyển biến dữ dội đó đã ghi những dấu ấn sắc nét lên đời sống tư tưởng, trong đó có lĩnh vực tư tưởng đạo đức. 1.1. Điều kiện kinh tế – xã hội Trong suốt thế kỷ XVIII, nước Pháp là nước phát triển thứ hai ở châu Âu, chỉ sau nước Anh, nhưng vẫn là một nước nông nghiệp với 90% dân số (trên tổng số 25 triệu người) là nông dân. Hơn nữa, Pháp lại là nước có nền nông nghiệp lạc hậu hơn nhiều so với Anh quốc. Các phương thức canh tác cũ kỹ, công cụ sản xuất cổ xưa, năng suất đặc biệt thấp, nạn mất mùa xảy ra thường xuyên. Thế kỷ XVIII ở Pháp đã xảy ra 16 nạn đói trên phạm vi toàn quốc, mà theo như lời tác giả Những cấu trúc sinh hoạt thường ngày thì “những số liệu này lập vào thế kỷ XVIII, tất nhiên là đã được nêu lên với tất cả sự dè dặt, chỉ có nguy cơ là hơi lạc quan vì đã bỏ qua hàng trăm và hàng
  • 16. 16 trăm trận đói từng vùng” [3, tr.54]. Chúng ta biết rằng nước Pháp ở vào khu vực mà khí hậu và đất đai thuộc loại thuận lợi nhất ở Tây Âu cho sự phát triển nông nghiệp. Tình trạng đó một phần lớn là hậu quả của phương thức sở hữu và canh tác phong kiến lạc hậu. Đất đai hầu như hoàn toàn nằm trong tay các lãnh chúa phong kiến, người nông dân nhận đất và trồng cấy trên đó bằng những phương thức được lưu truyền từ đời này qua đời khác. Đất đai do đó bị chia cắt, manh mún, không sinh lợi. Trong thế kỷ XVIII, đã có một vài địa chủ tổ chức sản xuất theo phương thức tư bản chủ nghĩa trên đất đai của mình. Họ tập trung đất đai lại, xua đuổi người nông dân từng canh tác nhiều đời trên mảnh đất đó đi nơi khác, ứng dụng những cải tiến kỹ thuật du nhập từ nước Anh. Nhưng số những người thực hiện công việc đó còn rất ít, và “ở Pháp, trước Cách mạng tư sản, sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở nông thôn nói chung còn khá yếu” [30, tr.10]. Tình hình công nghiệp và thương nghiệp có khả quan hơn. Chịu ảnh hưởng của cuộc cách mạng công nghiệp đang diễn ra rất sôi nổi ở bên kia eo biển Măngsơ, công nghiệp Pháp đến cuối thế kỷ XVIII đã khá phát triển, với nhiều công trường thủ công tập trung và bán tập trung, máy móc được cải tiến, số lượng công nhân tăng nhanh và có sự chuyên môn hóa cao. Tuy nhiên, công nghiệp bị kìm hãm bởi phương thức sản xuất phong kiến, bởi chính quyền chuyên chế với những quy định ngặt nghèo và vô lý về thuế, về quy mô sản xuất, về sản phẩm, v.v.. Tình trạng tự cung tự cấp do không có sức mua của nông dân, những thuế khóa nặng nề và chồng chất, sự không thống nhất của thị trường trong nước đều góp phần hạn chế sự tăng trưởng của công nghiệp và thương nghiệp. Có thể nói, đến thế kỷ XVIII, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đã hình thành và phát triển trong lòng chế độ chuyên chế Pháp. Dù chịu rất nhiều kìm
  • 17. 17 nén và sau này, ngay trước cách mạng tư sản, là sự chống đối quyết liệt, thì phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa cùng với lực lượng đại diện của nó – giai cấp tư sản – đã thật sự có được vị trí không thể thay thế trong nền kinh tế Pháp và do đó trong đời sống xã hội Pháp thế kỷ XVIII. Xã hội Pháp thế kỷ XVIII chia thành ba đẳng cấp. Đó là những đẳng cấp tăng lữ, quý tộc và “đẳng cấp thứ ba”. Tăng lữ và quý tộc là những đẳng cấp đặc quyền đặc lợi. Tăng lữ - giáo hội, giáo sĩ, người nắm quyền về đời sống tinh thần, “nắm phần hồn”, của xã hội. Quý tộc - giới quyền chức tập hợp quanh nhà vua và địa chủ quý tộc ở các vùng, nắm quyền chính trị thực tế. Đẳng cấp thứ ba bao gồm toàn bộ thành phần dân cư còn lại: tư sản, nông dân, người bình dân (plèbe), là đẳng cấp thấp nhất, không có một chút quyền lực nào, không có được tiếng nói nào trong việc định đoạt đường hướng phát triển của xã hội - xã hội mà trong đó họ chiếm đa số (khoảng 99% dân cư). Trong nội bộ các đẳng cấp không có tính đồng nhất. Điều này thể hiện ngay ở các đẳng cấp đặc quyền. Trong giới tăng lữ, có sự phân biệt giữa tăng lữ cấp cao – hồng y, các giám mục, những chức sắc tôn giáo xuất thân đại quý tộc – và tăng lữ “cấp thấp” – các cha xứ, những thầy trợ tế ở các giáo khu nông thôn. Tầng lớp “cấp thấp” này gần gũi với nhân dân, đặc biệt là với nông dân, và cũng bị tầng lớp “cấp cao” chèn ép, nên trong những cuộc đấu tranh vì dân chủ do giai cấp tư sản khởi xướng, người ta cũng thấy những giáo sĩ “cấp thấp” trong hàng ngũ đấu tranh, ở những hình thức trực tiếp hoặc gián tiếp. Điển hình của tầng lớp tăng lữ “cấp thấp” trong việc phản kháng lại chính đẳng cấp tăng lữ, là mục sư Jean Meslier (1664-1729)2 . Trong giới quý tộc, sự không đồng nhất thể hiện rõ ràng hơn. Quý tộc cung đình và quý tộc nông thôn, quý tộc cung kiếm (dòng dõi kỳ cựu) và quý tộc áo dài (xuất thân 2 Jean Meslier là mục sư giáo xứ Êtrêpinhi, vùng Ácđen, sống trong thầm lặng và chết không tên tuổi, nhưng để lại một tác phẩm - Di chúc - trong đó thể hiện phản ứng dữ dội đối với giáo hội và mang tính duy vật, vô thần rõ nét.
  • 18. 18 tư sản, dùng tiền mua tước vị quý tộc), giữa họ có những bất đồng về quyền lợi và cả về địa vị. Tuy nhiên, “giữa những nhóm của hai đẳng cấp trên đều không có những mâu thuẫn đối kháng. Họ đều có một nét chung (có lẽ chỉ trừ tăng lữ cấp thấp) là họ thuộc về những đẳng cấp có đặc quyền và thống trị, bóc lột, bóp nặn và áp bức phần dân cư còn lại trước hết là nông dân” [30, tr.24-25]. Trong đẳng cấp thứ ba, nổi trội nhất là giai cấp tư sản, đại diện cho phương thức sản xuất mới hình thành và đang chiếm ưu thế trong xã hội. Giai cấp tư sản Pháp thế kỷ XVIII, về phương diện kinh tế, là giai cấp nắm hầu như toàn bộ nguồn của cải của xã hội. Họ có trong tay những công xưởng lớn, lượng nhân công lớn, sản xuất và kinh doanh những sản phẩm quan trọng đem lại cho nước Pháp vị thế thứ hai ở châu Âu. Họ đưa về nước những cải tiến kỹ thuật từ nước Anh, làm cho khoa học và kỹ thuật có điều kiện để phát triển. Họ không nắm ruộng đất, nhưng toàn bộ ngân hàng và hoạt động tài chính do họ kiểm soát. Những địa chủ ít ỏi có thể đem lại lợi nhuận từ sản xuất nông nghiệp cũng chính là những người áp dụng phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa vào trong nông nghiệp và dần dần trở thành những nhà tư bản. Những địa chủ này tuy có gốc gác quý tộc, nhưng cũng tham gia vào cuộc đấu tranh của giai cấp tư sản chống lại những đẳng cấp đặc quyền. Các thành phần thuộc hai đẳng cấp “bên trên”, cho đến trước Cách mạng 1789, hầu như đều phải phụ thuộc về mặt kinh tế vào giai cấp tư sản. Quý tộc, tăng lữ vốn chỉ biết thụ hưởng cuộc sống xa hoa và không tham gia vào quá trình sản xuất của xã hội, dần dần trở thành con nợ của giai cấp tư sản. Là giai cấp có thế lực lớn nhất về kinh tế, nhưng giai cấp tư sản cũng chỉ được xếp vào đẳng cấp thứ ba, tức là đẳng cấp thấp nhất, không có một chút quyền lực nào về mặt chính trị. Tăng lữ, quý tộc phụ thuộc vào họ, nhưng trên danh nghĩa vẫn “ở phía trên”. Hai đẳng cấp này tìm mọi cách lợi dụng những
  • 19. 19 đặc quyền của mình để bóc lột giai cấp tư sản - hoặc là vay nợ họ với số lượng lớn, hoặc là tìm ra đủ thứ thuế khóa để trói buộc họ. Mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và các đẳng cấp đặc quyền lúc đó đã trở thành thứ mâu thuẫn đối kháng không thể không giải quyết, và nó đã bùng nổ thành Cách mạng tư sản 1789. Hơn nữa, do các đẳng cấp đặc quyền không chỉ bóc lột giai cấp tư sản, mà ách thống trị của chúng còn buộc lên cổ tất cả mọi giai cấp và tầng lớp thuộc đẳng cấp thứ ba, nên lẽ tất nhiên là khi giai cấp tư sản đứng lên chống lại giai cấp địa chủ phong kiến và đẳng cấp tăng lữ, những giai cấp và tầng lớp khác của đẳng cấp thứ ba đã tập hợp lại dưới sự lãnh đạo của họ. Giai cấp tư sản được nhận thức – và tự nhận thức – với tư cách người đại diện cho quyền lợi của toàn bộ đẳng cấp thứ ba, cũng có nghĩa là người đại diện cho quyền lợi của đại đa số quần chúng nhân dân trong xã hội. Về vấn đề này, Mác đã nhận xét rất xác đáng rằng: “Tính chất tiêu cực phổ biến của giới quý tộc Pháp và của giới thầy tu Pháp đã là điều kiện của tính chất tích cực phổ biến của giai cấp gần chúng nhất và đối lập với chúng nhất: giai cấp tư sản” [27, tr.31]. “Tính chất tích cực phổ biến” của giai cấp tư sản Pháp thế kỷ XVIII được nhận thức rộng rãi không chỉ trong giới trí thức tư sản mà ở cả những người có xuất thân ngoài tư sản. Trong những nhà tư tưởng tiêu biểu và được xếp vào trào lưu Khai sáng, chỉ có một số ít là trí thức tư sản, và người vừa là nhà tư tưởng kiệt xuất vừa là một tư sản thành đạt và giàu có thì chỉ có một – Voltaire. Các nhà tư tưởng tiêu biểu của trào lưu Khai sáng phần nhiều là quý tộc và có quan hệ mật thiết với giới tăng lữ (Montesquieu, Holbach là quý tộc dòng dõi, d’Alembert là con của quý tộc nhưng được nhà thờ nuôi dưỡng, Bayle, Condillac, La Mettrie đều xuất thân từ giới chức tôn giáo). Trong số những nhà Khai sáng nổi tiếng, chỉ có một người xuất thân đẳng cấp thứ ba và không phải là tư sản: Rousseau. Điều này nói lên rằng chiều hướng phát triển
  • 20. 20 của lịch sử đã được giới trí thức nắm bắt rất nhanh chóng, cho dù họ có nguồn gốc xuất thân khác nhau. Mặc dù tất cả các nhà Khai sáng tiêu biểu đều ra đi trước khi Cách mạng tư sản 1789 bùng nổ, nhưng những tư tưởng của họ đã trở thành lý luận chỉ đạo cho cách mạng, cho quá trình lật đổ cái cũ và thiết lập cái mới, và cả cho quá trình xây dựng chủ nghĩa tư bản ở Pháp cũng như trên thế giới trong thời gian sau đó. Còn lại trong đẳng cấp thứ ba là giai cấp nông dân và những tầng lớp được gọi là “bình dân”. Giai cấp nông dân chiếm 90% dân số của cả nước Pháp lúc bấy giờ, đa phần là nghèo khổ khốn cùng. La Bruyère, nhà văn cuối thế kỷ XVII, đã miêu tả về thân phận của người nông dân trong đoạn văn nổi tiếng của ông như sau: “Người ta thấy một số thú vật dữ tợn, đực và cái, rải khắp các làng xóm, sạm đen, hốc hác và rám nắng, gắn chặt vào mảnh đất mà chúng đào xới một cách cực kỳ nhẫn nại; hình như chúng cũng có một giọng nói, và khi chúng đứng lên, người ta thấy chúng có bộ mặt người; và quả thực chúng là người. Đêm đến chúng rúc vào hang, sống bằng bánh mì đen, nước lã và rễ cây; nhờ chúng, những người khác khỏi phải gieo, cày và gặt để sống” [30, tr.30-31]. Đoạn văn này trong tác phẩm Những tính cách và thói đời của thế kỷ, được xuất bản lần đầu năm 1688, nhưng từ lúc đó cho đến trước Cách mạng 1789, tức là trong suốt thế kỷ XVIII, những gì mà La Bruyère viết về người nông dân vẫn còn nguyên giá trị vạch trần. Còn về những người bình dân, họ là tầng lớp đặc biệt, kết quả của quá trình đô thị hóa và sự tích lũy tư bản chủ nghĩa, kết quả của sự phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trong lòng xã hội phong kiến. Họ bao gồm công nhân, thợ thủ công, những người không có công ăn việc làm ổn định, những người bần cùng sống chui rúc trong các khu ổ chuột ở các thành phố lớn. Bình dân là lớp người ở thang bậc thấp nhất trong xã hội Pháp thế kỷ XVIII. Thời kỳ này, công nhân chưa trở thành một giai cấp có ý thức giác ngộ riêng biệt. Họ
  • 21. 21 gồm những người xuất thân từ dân nghèo thành thị và nông dân phá sản. Cuộc sống cực khổ bần cùng của họ cũng như số phận của đại đa số dân cư Pháp thời đó. Và vì chưa trở thành một giai cấp thật sự, họ tham gia vào các cuộc đấu tranh chung chống lại phong kiến mà giai cấp tư sản phát động. Như vậy, trong suốt thế kỷ XVIII, ở Pháp đã diễn ra những chuyển biến to lớn trong đời sống xã hội. Những phương thức sản xuất cũ và mới đan xen nhau, những tầng lớp xã hội ngày càng cố kết và phân tách rõ nét, những mâu thuẫn xã hội ngày một gay gắt cho đến lúc bùng nổ. Cách mạng 1789 diễn ra như là kết cục không tránh khỏi của những mâu thuẫn ấy, như là đòi hỏi “giải quyết mâu thuẫn” của sự phát triển lịch sử. Tất cả những đảo lộn trong đời sống được phản ánh vào các trào lưu tư tưởng, trong đó có tư tưởng đạo đức - vốn là một hình thái ý thức xã hội ít chịu tác động trực tiếp của các sự kiện lịch sử. Nhìn nhận một cách tổng quát, có thể thấy những biến động mạnh mẽ trong suốt thế kỷ XVIII của xã hội Pháp đã tạo ra những hệ quả về mặt đạo đức: lý tưởng đạo đức phong kiến được gây dựng bền vững trong nhiều thế kỷ dần dần bị hạ thấp và hoài nghi; ở các nhà Khai sáng, lý tưởng ấy còn bị phê phán mạnh mẽ. Trong khi đó, cùng với đà phát triển của chủ nghĩa tư bản, chuẩn mực đạo đức tư sản dần dần trở thành phổ biến. Quan điểm về tự do, dân chủ, bình đẳng, v.v., hoàn toàn đối lập với những chuẩn mực phong kiến, được thừa nhận và ngày càng có được sự đồng tình rộng rãi. 1.2. Tiền đề khoa học và văn hóa Chúng tôi muốn đề cập đến đời sống tinh thần của thế kỷ XVIII ở Pháp. Bối cảnh đó đóng vai trò nền tảng tinh thần trên đó các nhà Khai sáng xây dựng những quan điểm về đạo đức của họ. Có thể thấy, về mặt này, thế kỷ XVIII được khắc họa bởi hai đặc trưng nổi bật: 1) sự phát triển của khoa học
  • 22. 22 tự nhiên, khoa học thực nghiệm và cùng với nó là sự đề cao lý tính; 2) những đổi thay trong thái độ đối với Nhà thờ và tôn giáo. 1.2.1. Sự phát triển của khoa học tự nhiên và khoa học thực nghiệm, sự đề cao lý tính Đây là di sản thật sự mà các thế kỷ XVI, XVII – mà đặc biệt là thế kỷ XVII – để lại cho thế kỷ XVIII. Nói một cách hình ảnh như các tác giả của Văn minh phương Tây, thì “cội rễ của những thay đổi này [những thay đổi mau chóng về khoa học và kỹ thuật] ăn mãi về thời Phục hưng và cải cách và trước nữa, nhưng mãi vào khoảng năm 1650 cái cây này mới đâm chồi nảy lộc” [4, tr.424]. Và khi đã đâm chồi, nó lớn rất nhanh. Thế kỷ XVII ở phương Tây được gọi là “thời đại của lý tính”, vì các khoa học đã phát triển một cách đặc biệt phi thường. Các hoạt động nghiên cứu khoa học và khoa học thực nghiệm được khuyến khích, tri thức khoa học được phổ thông hóa (một phần là do sự phát triển của nghề in từ thời Phục hưng và sự xuất hiện và phát triển của báo chí từ năm 1609), các viện Hàn lâm khoa học lớn được thành lập, mối quan hệ giữa các nhà khoa học trên toàn châu Âu được đẩy mạnh, hình thành một cộng đồng khoa học có tính quốc tế. Trong “thời đại của lý tính” này, các phát minh khoa học quan trọng liên tiếp ra đời, đặc biệt là ở các ngành toán học, thiên văn học và cơ học. Những tác phẩm khoa học và triết học đánh dấu sự chuyển đổi mang tính bước ngoặt sang khuynh hướng duy lý, đặc trưng của triết học và khoa học cận đại châu Âu – đã lần lượt được xuất bản. Đó là Organon mới (1626) của Francis Bacon, Phương pháp luận (1637) và Những suy niệm siêu hình học (1641) của René Descartes, Những nguyên lý toán học của triết học tự nhiên (1686) của Newton. Tác phẩm của Newton được coi là cơ sở của khoa học cổ điển, còn Organon mới cùng với Phương pháp luận và Những suy niệm siêu hình học đã xây dựng nền tảng cho toàn bộ chủ nghĩa
  • 23. 23 duy lý (nghĩa rộng) sau này. Như vậy, cùng với sự phát triển của khoa học tự nhiên là sự phát triển của quan điểm coi lý tính là phương tiện quan trọng nhất của con người trong việc cải tạo thế giới và hoàn thiện bản thân. Khuynh hướng phát triển của khoa học tự nhiên và sự đề cao lý tính đều được thế kỷ XVIII tiếp nhận. Trong thế kỷ XVIII, các khoa học tự nhiên và khoa học thực nghiệm tiếp tục có những phát triển mới. Cùng với sự tiến triển tiếp theo của toán học và cơ học, sinh học và hóa học đã có những phát hiện lớn đầu tiên. Những khoa học khác như địa chất học, tâm lý học bắt đầu hình thành. Ở thế kỷ XVIII, không thể nói đến “khoa học cơ bản” và “khoa học ứng dụng” với nghĩa hiện đại. Nhưng rõ ràng là những khoa học thực nghiệm và những nghiên cứu khoa học tự nhiên trong rất nhiều trường hợp chịu sự thúc đẩy của nhu cầu thực tế và được gợi ý từ những hoạt động thực tiễn, để rồi sau đó tiếp tục phục vụ cho sự tiến bộ của những hoạt động khai thác tự nhiên. Các tác giả của Văn minh phương Tây đã nêu ra hàng loạt dẫn chứng: “Các thợ thủy tinh đã chế ra những kính giúp khoa học thiên văn và sinh vật học tiến rất xa; những thợ mỏ cuối thời Trung cổ khởi đầu tiến trình đưa đến địa chất học, khoáng chất học và nhiều môn “địa học” khác; và cũng chính những người này, vì cần bơm nước từ hầm mỏ ra, đã khởi đầu những suy luận đưa đến việc phát minh máy hơi nước; những người Hà Lan tiên phong trong nghề bảo hiểm, là một nghề đặc biệt của thời hiện đại, bắt đầu nghiên cứu hy vọng sống lâu của con người và đã giúp nhiều cho khoa thống kê ngày nay” [4, tr.430]. Không thể phủ nhận việc cách mạng công nghiệp Anh diễn ra vào thế kỷ này đã được thúc đẩy hết sức mạnh mẽ do những cải tiến kỹ thuật xuất phát từ những nguyên lý khoa học đã được phổ biến và trở thành nền tảng của phong cách tư duy của thời đại.
  • 24. 24 Như vậy, không chỉ ở Pháp mà trên toàn châu Âu, vai trò của khoa học tự nhiên và khoa học thực nghiệm ngày càng được đề cao. Từ đó dẫn đến tính chất duy lý, duy khoa học trong phong cách tư duy của các nhà khoa học và các nhà triết học. Ở đây chúng ta nên nhìn nhận vấn đề một cách lịch sử – cụ thể: khuynh hướng duy khoa học trong các nhà khoa học của thời kỳ Khai sáng không thể coi một cách đơn giản là một hạn chế, là sự bỏ qua hay lãng quên những thành tố khác của tồn tại người, mà phải được nhìn nhận như đặc điểm của thời đại đó – nghĩa là bất kỳ nhà khoa học, nhà triết học nào ở vào thời đại đó tất đều mang đặc điểm đó trong lối tư duy của mình. Lối tư duy duy lý trở thành đặc trưng của thời đại. Chúng ta hiểu duy lý ở đây theo nghĩa rộng: không phải là sự đối trọng với duy cảm hay “kinh nghiệm” trong nhận thức luận, mà là đối trọng với phi duy lý – với tư cách thế giới quan, nhân sinh quan. Các nhà khoa học và triết học thế kỷ XVIII, chịu ảnh hưởng của Bacon và Descartes, đặt tất cả những kiến thức đã có dưới “ánh sáng nghiêm khắc của lý trí”. Sử dụng lý tính khoa học để giải đáp mọi câu hỏi, mọi vấn đề của tự nhiên và xã hội, các nhà khoa học và triết học thời kỳ này đã thật sự tin tưởng rằng khoa học, lý tính là khí giới sắc bén nhất, nếu không muốn nói là duy nhất, của con người trong quá trình chinh phục tự nhiên và hoàn thiện bản thân. Các nhà Khai sáng Pháp chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ tinh thần duy lý của thời đại, đặc biệt là từ những tác giả Descartes và Newton. Trong cái nhìn của họ, thế giới hiện ra đã hoàn toàn khác bức tranh mà thần học phong kiến xây dựng nên: lúc này thế giới là tập hợp những sự vật - hiện tượng - quá trình diễn ra theo những quy luật bất biến mà về nguyên tắc con người có thể nhận thức được, và đó là xuất phát điểm để khẳng định khả năng của con người chinh phục thiên nhiên. Trong lĩnh vực nghiên cứu con người cũng vậy, con người không còn là sự sáng tạo của Chúa theo hình ảnh của Chúa nữa, mà
  • 25. 25 – dường như quay trở về tư tưởng của thời kỳ cổ đại – con người là một bộ phận của tự nhiên. Nhưng khác với thời Cổ đại, các nhà Khai sáng khẳng định con người có thể vượt lên trên tự nhiên, do chỗ con người có lý tính, có khả năng tư duy, khả năng mà không một sinh thể nào khác có được. Thế giới quan có tính cơ giới đã chi phối các nhà Khai sáng trong quan niệm về con người (xem tác phẩm Người-máy – có nghĩa là “con người-cỗ máy” – của La Mettrie). Nhưng các nhà Khai sáng cũng quán triệt cái tinh thần được biểu hiện trong câu nói của Pascal “con người là cây sậy biết tư duy”3 . Nền tảng tư tưởng, thế giới quan mang tính cơ giới luận, tự nhiên chủ nghĩa và duy lý chủ nghĩa đã có ảnh hưởng rất mạnh đến quan điểm về đạo đức của các nhà Khai sáng Pháp thế kỷ XVIII. Những luận điểm về nhu cầu tự nhiên, những lời kêu gọi quay trở lại bản tính tự nhiên sẵn có của con người, sự đề cao giáo dục, khai sáng, v.v., đều hình thành dưới tầm ảnh hưởng của thế giới quan này. Xét đến cùng, đó chính là kết quả của sự phát triển khoa học tự nhiên và khoa học thực nghiệm và của chủ nghĩa duy lý (nghĩa rộng) trong lịch sử. 1.2.2. Thái độ đối với Nhà thờ và tôn giáo Đây là một trong những tiền đề quan trọng của sự hình thành và phát triển quan niệm đạo đức của các nhà Khai sáng Pháp. Thái độ đối với Nhà thờ và tôn giáo, hay nói đúng hơn là sự thay đổi trong thái độ đối với Nhà thờ và tôn giáo, được chúng tôi xem xét với tư cách một tinh thần chung của thời đại mà các nhà Khai sáng là đại biểu. Thái độ ấy không chỉ có vai trò như một nền tảng trên đó nảy sinh những quan niệm đạo đức, mà trong thực tế nó còn có tác động lớn đến những lĩnh vực khác của đời sống tinh thần của thời đại. 3 Nguyên văn: “Con người chỉ là một cây sậy, vật yếu nhất của tự nhiên. Nhưng đó lại là cây sậy có tư duy. Toàn bộ vũ trụ chẳng cần phải cầm vũ khí để nghiền nát nó. Một làn hơi, một giọt nước đủ để giết chết con người. Nhưng ngay khi vũ trụ đã nghiền nát nó rồi, con người vẫn còn cao quý hơn cái đã giết chết nó, bởi lẽ nó biết là nó chết và thắng lợi mà vũ trụ có được đối với nó thì vũ trụ chẳng hay biết gì. Vậy là toàn bộ phẩm giá của chúng ta là nằm ở tư duy” [35, tr.421].
  • 26. 26 Khi xem xét vấn đề thái độ đối với nhà thờ và tôn giáo trong khuôn khổ những tiền đề văn hóa và khoa học của tư tưởng đạo đức Khai sáng, chúng tôi muốn đề cập đến thái độ này với tư cách một chiều hướng của văn hóa trong thế kỷ XVIII, chứ không phải ở khía cạnh những phong trào xã hội. Đương nhiên những thay đổi mà chúng tôi đề cập sau đây trong thái độ này, có chịu ảnh hưởng một phần của những phong trào cải cách tôn giáo (những phong trào xã hội) của thế kỷ trước, nhưng trong thế kỷ XVIII ở nước Pháp đã không diễn ra một phong trào mang tính xã hội nào tác động lớn đến nền tảng đức tin tôn giáo. Xét trên bình diện rộng lớn, trong đời sống thường nhật của nhân dân đông đảo, đức tin tôn giáo nói chung là không có những thay đổi mang tính bước ngoặt. Còn những phong trào mang tính xã hội liên quan đến việc chống đối sự lộng hành của Nhà thờ, thứ nhất, đến cuối thế kỷ XVIII mới diễn ra và, thứ hai, những phong trào này ảnh hưởng đến Giáo hội và Nhà thờ, những tổ chức tôn giáo, hơn là những giáo lý tôn giáo. Chúng có sự khác biệt rất lớn với những phong trào cải cách tôn giáo mà Luther, Calvin hay Zwingli đã phát động ở thế kỷ trước. Tuy nhiên, việc phải đặt ra vấn đề về tinh thần chung của thời kỳ Khai sáng Pháp đối với Nhà thờ và tôn giáo đã là một điều đặc biệt, riêng có của trào lưu Khai sáng Pháp so với các trào lưu Khai sáng khác ở châu Âu. Trong các trào lưu Khai sáng Anh và Đức, người ta không thấy mối quan hệ phức tạp giữa tôn giáo và triết học hay giữa lập trường của Nhà thờ và lập trường của các nhà triết học. Chính từ sự so sánh này – về thái độ đối với Nhà thờ và tôn giáo của Khai sáng Pháp và các trào lưu Khai sáng khác –, ta có được một điển hình của sự tác động của đời sống hiện thực lên đời sống tinh thần: tồn tại xã hội Pháp lúc đó đã quy định sự quan tâm lớn lao và sự phong phú trong các quan điểm của các nhà triết học khác nhau đối với Nhà thờ và tôn giáo.
  • 27. 27 Trước đây, trong các sách báo viết về triết học Khai sáng Pháp, các nhà nghiên cứu thường nhấn mạnh đến tính chất duy vật và vô thần triệt để trong tư tưởng của các nhà Khai sáng, đối lập một cách tuyệt đối và kiên quyết với giáo lý tôn giáo, mà cụ thể là giáo lý của Thiên Chúa giáo. Từ đó cho rằng triết học Khai sáng Pháp có điểm đặc trưng là duy vật và vô thần. Viết về vấn đề thái độ đối với tôn giáo của các nhà triết học thế kỷ XVIII, Tsebenko cho rằng: “Sự công kích của chủ nghĩa duy vật triết học của những nhà tư tưởng Pháp trước tiên hướng vào việc chống lại tôn giáo và Nhà thờ (…). Nhà thờ bị tấn công bởi mọi nhà triết học “Khai sáng” và không trừ một ai; về phía trận chiến chống lại tôn giáo, những người dẫn dắt là Holbach, La Mettrie, Helvétius và Diderot. Sự mạnh mẽ của cuộc chiến chống lại tôn giáo và chủ nghĩa thầy tu, một chủ nghĩa vô thần chiến đấu là những nét đặc trưng cho chủ nghĩa duy vật Pháp thế kỷ XVIII” [68, tr.48]. Đến đây, chúng ta chạm đến một khía cạnh khá phức tạp của vấn đề. Trên thực tế, trong khoảng mười tác giả tiêu biểu của trào lưu Khai sáng Pháp thế kỷ XVIII, chỉ có bốn người có lập trường vô thần (Diderot, Holbach, Helvétius và La Mettrie), một người ủng hộ sự khoan dung trong tôn giáo và thừa nhận những người vô thần (D’Alembert), năm người còn lại đều theo quan điểm tự nhiên thần luận và cổ vũ cho sự dung hòa tín ngưỡng (Bayle, Montesquieu, Voltaire, Rousseau và Condillac). Nếu ta dựa vào việc tư tưởng nào thắng thế trong sự phát triển về sau của lịch sử để xét đoán đặc điểm tư tưởng của thời đại, thì nói như tác giả Tsebenko là xác đáng. Nhưng ở đây, chúng tôi muốn đề cập đến triết học Khai sáng Pháp, hẹp hơn là đến tư tưởng đạo đức trong triết học Khai sáng Pháp, với tư cách một hiện tượng văn hóa tư tưởng trong tính tổng thể của nó. Vả lại, chính các tác giả trên cũng có nhận xét rằng thế kỷ XVIII ở Pháp có vô số những trào lưu tư tưởng khác nhau. Chúng tôi cho rằng có lẽ sẽ hợp lý hơn nếu nhận định như sau về thái
  • 28. 28 độ của các nhà Khai sáng đối với tôn giáo: những nhà Khai sáng Pháp thế kỷ XVIII đặt trọng tâm vào việc phản đối giáo hội và có những thay đổi trong cách quan niệm về tôn giáo. Việc công kích và phản ứng đối với giáo hội là đặc điểm chung của tất cả các tác giả Khai sáng. Còn trong bản thân quan niệm về tôn giáo thì có sự phân biệt giữa những người vô thần và những người theo tự nhiên thần luận. Sự phản ứng gay gắt của các nhà Khai sáng thế kỷ XVIII đối với giáo hội có nguyên nhân xã hội rất rõ ràng. Như chúng tôi đã đề cập ở trên, trong thế kỷ XVIII, đẳng cấp tăng lữ là đẳng cấp đặc quyền đặc lợi thứ nhất trong xã hội Pháp. Nắm giữ “phần hồn” của đời sống xã hội, đẳng cấp này còn chính là một đại địa chủ, có trong tay ruộng đất, nông dân và một khối lượng của cải không nhỏ. Sự áp bức bóc lột của đẳng cấp này, nhất là của tầng lớp giáo sĩ “cấp cao”, đối với đẳng cấp thứ ba, nặng nề không kém gì sự áp bức bóc lột của đẳng cấp phong kiến. Không hoạt động trong các lĩnh vực sản xuất, tuyên truyền những quan điểm bảo vệ phong kiến và kìm nén sự phát triển của giai cấp tư sản cũng như của xã hội, đẳng cấp này trở thành kẻ thù của đẳng cấp thứ ba và vì thế trở thành đối tượng công kích của những đại biểu tư tưởng của giai cấp tư sản – những nhà Khai sáng. Như vậy, giai cấp tư sản chống lại Nhà thờ chủ yếu với tư cách một đẳng cấp xã hội. Về bản thân các giáo lý và đức tin tôn giáo, có hai khuynh hướng khác biệt dù không hoàn toàn đối lập nhau. Khuynh hướng thứ nhất là của những nhà vô thần, phủ định tôn giáo (ở đây là Thiên chúa giáo). Họ dựa vào những thành tựu của khoa học tự nhiên thời kỳ đó, những bức tranh mới về vũ trụ được khoa học tự nhiên xây dựng, để phản đối lại những quan điểm thế giới quan của tôn giáo, những quan điểm thần thánh về sự hình thành vũ trụ và hình thành con người. Họ dựa vào tác hại nhìn thấy được của việc truyền bá tư tưởng tôn giáo trong nhân dân (kìm nén người dân trong sự sợ hãi sùng
  • 29. 29 kính, trong sự tối tăm “không khai sáng”) để luận chứng cho cho sự hợp lý của một xã hội không tôn giáo. Khuynh hướng thứ hai của những nhà tự nhiên thần luận. Họ chống lại những giáo điều tôn giáo có hại cho sự phát triển của giai cấp tư sản – những tín điều bảo vệ phong kiến và Nhà thờ. Ở đây có điểm chung giữa họ với những người vô thần, bởi vì xét đến nguồn gốc sâu xa, các nhà vô thần và tự nhiên thần luận trong thời đại Khai sáng đều đứng trên, hay ít ra là ủng hộ, lập trường của giai cấp tư sản trong cuộc chiến chống lại các đẳng cấp đặc quyền đặc lợi. Nhưng không đi xa như những nhà vô thần, họ vẫn chủ trương tồn tại tôn giáo và coi tôn giáo là cần thiết. Từ đó mà dẫn đến những quan điểm đặc sắc của triết học Khai sáng Pháp: tư tưởng về tôn giáo tự nhiên, lòng khoan dung trong tôn giáo (chấp nhận nhiều hình thức đức tin khác nhau, không phản đối những người vô thần, v.v…). Thái độ đối với nhà thờ và tôn giáo có ảnh hưởng mạnh mẽ đến những đổi thay trong quan điểm về đạo đức của các nhà triết học Pháp thế kỷ XVIII. Bởi trong những thế kỷ trước, khi tôn giáo ở địa vị thống trị tinh thần, đạo đức gắn liền với đức tin. Khi quan điểm về tôn giáo và về giáo hội thay đổi, tất yếu nó sẽ phản ánh vào những đổi thay trong đạo đức. Những chủ đề chính của tư tưởng đạo đức trong triết học Khai sáng Pháp, như sự khoan dung, tinh thần nhân đạo, sự khai sáng, v.v… đều ghi rõ dấu ấn của đảo lộn về mặt đức tin mà chúng ta vừa đề cập. 1.3. Tiền đề tư tưởng – lý luận Chúng tôi muốn nói đến lịch sử phát triển của tư tưởng đạo đức của những thời đại trước, những thời đại đã có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến tư tưởng đạo đức của các nhà Khai sáng Pháp. Bởi vì không thể chỉ xuất phát trực tiếp từ đời sống xã hội, đời sống văn hóa – khoa học, các tư tưởng
  • 30. 30 đạo đức cũng như mọi lĩnh vực tinh thần khác đều được xây dựng trên nền tảng kế thừa. Mỗi thời đại có một cách quan niệm khác nhau về vai trò, vị trí và tầm ảnh hưởng của các bậc tiền bối, điều này phụ thuộc vào điều kiện xã hội – văn hóa và đặc điểm của tư duy thời đại. Những nhà tư tưởng tiền bối tác động trong thời kỳ này, rồi không được đánh giá cao trong thời kỳ sau, rồi lại được “phát hiện lại” ở thời kỳ sau nữa, v.v., điều đó đã trở nên bình thường trong lịch sử tư tưởng. Thời kỳ Khai sáng ở Pháp không phải là ngoại lệ. Đối lập với hệ tư tưởng phong kiến và giáo hội, những nhà Khai sáng Pháp tiếp nhận ảnh hưởng từ những người mà giáo hội phủ nhận và rời bỏ những nhà tư tưởng được giáo hội kế thừa. Chính vì vậy, ở đây, khi xem xét tiền đề lý luận của tư tưởng đạo đức trong triết học Khai sáng Pháp, chúng tôi không đề cập đến tất cả các nhân vật tiêu biểu của lịch sử tư tưởng, mà chỉ quan tâm tới những người tác động mạnh, trong lĩnh vực đạo đức, đến các nhà Khai sáng; ở mỗi tác giả đó chúng tôi cũng chỉ đưa ra những quan niệm đã được các nhà Khai sáng tiếp nhận và phát triển. 1.3.1. Tư tưởng đạo đức thời kỳ Cổ đại Không phải quá xa khi nói tới thời kỳ Cổ đại, vì triết học Khai sáng, trong khi từ bỏ di sản Thiên Chúa giáo, đã tìm đến những di sản xa xưa hơn – đến thời kỳ mở đầu của lịch sử tư tưởng châu Âu. Rõ ràng là triết học Khai sáng đã chịu ảnh hưởng của trào lưu nhân văn Phục hưng ở lời kêu gọi quay trở về với những giá trị cổ đại. D.Bouquet, trong tác phẩm Những nhà Khai sáng ở Pháp và châu Âu đã viết: “Triết học thời kỳ Khai sáng thực chất thừa hưởng rất nhiều từ tác phẩm của những nhà triết học cổ đại, và những đại biểu nổi tiếng nhất của nó đều là những người có học vấn cao, có thể đọc những
  • 31. 31 sách tiếng Hy Lạp và tiếng Latinh (…). Thời đại đó cho rằng những người Hy Lạp đã phát minh ra Lý tính” [58, tr.15]. Lịch sử phát triển của văn hóa châu Âu cho thấy ảnh hưởng rõ rệt và xuyên suốt của văn hóa và tư tưởng Hy Lạp cổ đại. Ăngghen viết: “từ các hình thức muôn hình muôn vẻ của triết học Hy Lạp, đã có mầm mống và đang nảy nở hầu hết tất cả các loại thế giới quan sau này” [26, tr.491]. Quả thực triết học Hy Lạp “muôn hình muôn vẻ”, với một số lượng không nhỏ các triết gia vĩ đại và sự phong phú đến kinh ngạc của các chiều hướng tư tưởng. Mọi thời kỳ sau này của lịch sử tư tưởng phương Tây đều kế thừa và phát triển một hoặc những khía cạnh nào đó trong di sản đặc sắc ấy, trong đó, “một hoặc những khía cạnh” thường được thể hiện ra ở những triết gia hoặc những trường phái cụ thể. Thời kỳ Khai sáng hay hẹp hơn là tư tưởng đạo đức Khai sáng đã nhận những tác động gì từ tư tưởng đạo đức Cổ đại? Ta có thể nói đến ảnh hưởng của Socrate và Épicure, mỗi tác giả này tác động theo những cách riêng biệt đến tư tưởng đạo đức Khai sáng Pháp. Socrate (469-399 tr.CN) Được thừa nhận rộng rãi là ông tổ của triết học phương Tây, triết gia thực sự đầu tiên của triết học Hy Lạp Cổ đại, Socrate luôn luôn là nhân vật có sức thu hút lớn lao đối với những nhà tư tưởng hậu bối. Các nhà Khai sáng Pháp, trong thời kỳ căng thẳng của cuộc đấu tranh chống tư tưởng phong kiến và nói chung là mọi tư tưởng “tối tăm, không khai sáng”, chịu đựng những đàn áp của phía đối lập, đều đã tìm đến Socrate như một người dẫn đường. Socrate là triết gia đầu tiên trong triết học Hy Lạp hướng nhận thức – tư duy vào việc nghiên cứu con người, nghiên cứu thế giới nội tâm của con người. Mặc dù “giữ nguyên phương thức khảo cứu con người như là cái đứng cùng hàng với những thực thể khác” [16, tr.191], nhưng chỉ riêng việc chuyển
  • 32. 32 đối tượng của tư duy triết học từ thế giới tự nhiên sang thế giới nội tâm con người đã đánh dấu một bước ngoặt trong lịch sử tư tưởng. Nếu chúng ta thừa nhận rằng việc nghiên cứu bản tính con người là cốt lõi của việc tìm hiểu các vấn đề đạo đức, thì ta có thể thấy ảnh hưởng của bước chuyển mà Socrate đã thực hiện đối với tư tưởng của các nhà triết học sau ông lớn đến mức nào. Khi nghiên cứu bản tính con người, Socrate đã nhấn mạnh đặc điểm quan trọng nhất phân biệt con người với con vật là linh hồn (tâm hồn) của con người. Trong tâm hồn con người, theo Socrate, có dục vọng (phần dưới) và lý tính (phần trên). Con người chỉ có thể trở thành thiện khi lý tính chiến thắng được dục vọng. Chính từ luận điểm này mà các nhà nghiên cứu cho rằng Socrate là người khởi đầu cho đạo đức học duy lý chủ nghĩa. Ta nhớ rằng hầu như toàn bộ các nhà Khai sáng Pháp đều đứng trên lập trường duy lý. Tư tưởng đạo đức của họ tương đồng với tư tưởng đạo đức của Socrate, chính là ở đặc điểm này. Công thức nổi tiếng của Socrate “Hãy tự biết mình!” – kết tinh của cả chủ nghĩa duy lý và quan điểm hướng nhận thức về thế giới nội tâm con người, – đã được lý giải theo cách Khai sáng: “cần thiết phải thay đổi từ bên trong, phải nhận thức lại mọi ý kiến, mọi cái bề ngoài của nhận thức, và mọi cái trên thực tế đã làm tê liệt nhận thức của chúng ta” [58, tr.16]. Épicure (341-270 tr.CN) Épicure là nhà triết học hậu kỳ của thời kỳ Cổ đại. Ông theo quan điểm duy vật chủ nghĩa, tán thành và phát triển học thuyết của Démocrite về nguyên tử. Hệ thống triết học của ông gồm ba thành phần: triết học tự nhiên (vật lý học), học thuyết về nhận thức và đạo đức học (“etika”), trong đó đạo đức học là thành phần quan trọng nhất. Mác gọi Épicure là “nhà Khai sáng chân chính, nhất quán của thời Cổ đại” [47, tr.39]. Thế mà tư tưởng của Épicure từng bị hiểu lầm ngay từ khi ông còn sống. Người ta cho rằng ông là
  • 33. 33 người khởi xướng chủ nghĩa khoái lạc, chỉ ca ngợi sự thỏa mãn các nhu cầu tự nhiên. Thậm chí danh từ “chủ nghĩa khoái lạc” theo ngôn ngữ phương Tây cũng bắt nguồn từ tên của ông (épicurisme). Trên thực tế, tư tưởng chủ đạo của đạo đức học của Épicure là tư tưởng tự do với tư cách sự độc lập đối với cái bên ngoài. Hạnh phúc (mục đích của đạo đức học và của toàn bộ sự suy tư triết học) là sự hài lòng hợp lý – tức là sự thỏa mãn những nhu cầu mang tính tự nhiên và cần thiết (như đói thì được ăn, khát thì được uống) chứ không phải là sự thỏa mãn mọi nhu cầu. Épicure quan niệm có ba loại nhu cầu: tự nhiên và cần thiết, tự nhiên và không cần thiết, không tự nhiên và không cần thiết, và việc thỏa mãn hai loại nhu cầu sau chỉ dẫn đến bất hạnh chứ không phải là hạnh phúc. Như vậy, quan điểm đạo đức học của Épicure không phải là khoái lạc theo nghĩa thỏa mãn mọi dục vọng, mà ngược lại, lý tưởng đạo đức của ông là sự “kiềm chế thông thái”, thỏa mãn những nhu cầu tinh thần hơn là vật chất, sống thanh thản và có được sự tự do nội tâm. Tư tưởng của Épicure, sau thời kỳ Trung cổ, đã được các nhà nhân văn Phục hưng tìm lại và đề cao. Rất nhiều đại biểu Phục hưng quan tâm và phát triển những tư tưởng của Épicure, đặc biệt là những tư tưởng về đạo đức. Chính dưới ảnh hưởng của những sự kiện như vậy mà triết học Khai sáng Pháp – vốn chịu tác động rất mạnh từ tư tưởng Phục hưng và phong trào nhân văn thời Phục hưng – đã tiếp thu di sản tư tưởng của Épicure. Các nhà Khai sáng Pháp thế kỷ XVIII bị thu hút bởi Épicure do những tương đồng rất lớn về tư tưởng. Họ cùng đề cao sự giáo dục (khai sáng), cùng coi giáo dục phải dựa trên cơ sở hiểu biết về tự nhiên – một tự nhiên không chịu tác động của cái siêu nhiên (quan điểm vô thần hoặc tự nhiên thần luận), và cùng đứng trên lập trường tự nhiên chủ nghĩa về mặt đạo đức cho dù cách diễn đạt dường như khác biệt. Và điểm giao thoa quan trọng giữa Épicure và các nhà Khai sáng Pháp là quan niệm của họ về tự do. Trong triết học của
  • 34. 34 Épicure, quan niệm về tự do bắt nguồn từ trong lĩnh vực triết học tự nhiên (từ vật lý học, nguyên tử luận của ông), nhưng nó đã được áp dụng để luận chứng cho sự tự do của cá nhân trong học thuyết về hạnh phúc. Đối với các nhà Khai sáng, tự do là một chủ đề bao trùm không chỉ trong tư tưởng đạo đức mà còn trong rất nhiều vấn đề lý luận quan trọng khác. Bảo vệ tự do cá nhân (ở đây là cá nhân tư sản) trước tư tưởng ràng buộc của thần quyền và thế quyền phong kiến, các nhà Khai sáng đã tìm kiếm trong lịch sử những tư tưởng tương đồng và họ đã tìm thấy Épicure. Có thể thấy trong tư tưởng của Épicure có nhiều yếu tố được các nhà Khai sáng rất đề cao. Vì vậy mà Épicure trở thành một trong những nhà tư tưởng Cổ đại được xếp vào địa vị tiền bối của các nhà Khai sáng Pháp thế kỷ XVIII. 1.3.2. Tư tưởng đạo đức thời kỳ Phục hưng Chúng tôi không đưa thời kỳ Trung cổ vào tiền đề về lý luận của đạo đức Khai sáng Pháp thế kỷ XVIII, vì nguyên nhân đơn giản là giữa chúng có những khác biệt. Đạo đức Khai sáng xây dựng một mẫu hình về đạo đức mới so với tư tưởng đạo đức Trung cổ – đạo đức gắn với niềm tin. Những nhà Khai sáng có quan niệm về cái thiện - cái ác, về hạnh phúc - bất hạnh khác so với quan niệm của các nhà triết học Trung cổ (tuyệt đại đa số là người Thiên Chúa giáo). Tư tưởng Khai sáng tiếp nhận và giải quyết theo cách của mình những vấn đề mà triết học Phục hưng đặt ra khi tìm cách tách ra khỏi truyền thống Thiên Chúa giáo. Chính vì thế, quan điểm của các nhà Khai sáng về đạo đức không chịu ảnh hưởng hoặc thậm chí là đối lập lại với những tư tưởng đạo đức của các nhà triết học tiêu biểu thời kỳ Trung cổ. Thời kỳ Phục hưng, về mặt tư tưởng, là thời kỳ bắt đầu đặt vấn đề nghi ngờ sự thống trị tuyệt đối của Nhà thờ và đức tin tôn giáo trong đời sống xã hội. Thời kỳ này được đặc trưng bởi xu hướng thế tục hóa tôn giáo và sự phát
  • 35. 35 triển vượt bậc của nghệ thuật và thẩm mỹ. Danh từ “chủ nghĩa nhân văn” dành cho các nhà tư tưởng và nghệ sĩ thời Phục hưng cũng được xét ở phương diện thẩm mỹ nhiều hơn là ở phương diện đạo đức. Nhưng điều đó cũng không cản trở việc thời kỳ Phục hưng đã có những bước tiến mới trong quan niệm đạo đức so với thời kỳ Trung cổ, những bước tiến này sẽ được các nhà Khai sáng lĩnh hội và phát triển. Những đại biểu tiêu biểu về mặt tư tưởng đạo đức của thời kỳ Phục hưng có ảnh hưởng trực tiếp đến các nhà Khai sáng Pháp thế kỷ XVIII, có thể kể đến More, Rabelais và Montaigne, cả ba đều là những tác giả cuối Phục hưng. Thomas More (1477-1535) người Anh, nhà nhân văn chủ nghĩa lớn. Ông có một cuộc đời sóng gió: là người thuộc tầng lớp bình dân đầu tiên trong lịch sử được bầu vào Thượng viện Anh, làm đến chức Thượng thư (thủ tướng), bị xử trảm do chống lại việc vua Henri VIII thực hiện cải cách tôn giáo ở Anh; 400 năm sau khi mất, ông được giáo hội Cơ Đốc phong thánh. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là Utopia, cái tên đã đi vào ngôn ngữ phương Tây như một danh từ để chỉ xứ sở mơ ước của con người. Trong Utopia có thể thấy những đặc điểm tư tưởng của More, những đặc điểm khiến ông trở thành nhà nhân văn vĩ đại và một trong những tiền đề quan trọng của tư tưởng đạo đức Khai sáng Pháp thế kỷ XVIII. Những điểm nào tương đồng giữa More và các nhà Khai sáng Pháp thế kỷ XVIII? Thứ nhất, chắc chắn đó là một chủ nghĩa nhân đạo cao cả. Họ đều thể hiện sự đồng cảm và bênh vực người nghèo, những người lao động bị vô sản hóa (xem Utopia, đoạn văn nổi tiếng về hiện tượng “cừu ăn thịt người” [34, tr.46]). Thứ hai, họ đều có tinh thần duy lý trong phong cách tư duy. Thứ ba, họ đều chịu ảnh hưởng của Épicure ở quan niệm về hạnh phúc. Và thứ tư, cả More và các nhà Khai sáng đều có tinh thần “khoan dung tín ngưỡng” và đều ủng hộ cho “tôn giáo tự nhiên”. Những điểm giao thoa này đều là những
  • 36. 36 vấn đề quan trọng của tư tưởng đạo đức Khai sáng. Chính vì thế, cho dù trong tư tưởng của ông cũng có những điểm mà các nhà Khai sáng không đồng tình (như sự phủ nhận triệt để đối với những người vô thần), thì khi nói tới tiền đề của tư tưởng đạo đức Khai sáng, không thể không nói tới More như một bậc tiền bối quan trọng. Rabelais (1494-1553) Là một nhà nhân văn chủ nghĩa đặc biệt, một gương mặt đặc biệt trong nền văn hóa Tây Âu cuối Phục hưng, lại là một người Pháp, Rabelais đã để lại những dấu ấn rõ nét trong những đồng bào mình ở hai thế kỷ sau. Các tác giả của mục từ Rabelais trong trang web http://atheisme.free.fr đã nhận xét về ông: “phê phán của ông đối với truyền thống Trung cổ và sự khát khao hiểu biết của những nhân vật của ông đã làm cho Rabelais trở thành một trong những tác giả lớn nhất của thời kỳ Phục hưng (…). Là nhà nhân văn chủ nghĩa sâu sắc, Rabelais tin tưởng vào con người và vào sự giải phóng con người khỏi quyết định luận [tôn giáo] đang khiến họ trở nên trì trệ. Ông bảo vệ tự do bằng tiếng cười và bằng cách xóa bỏ những phức cảm tội lỗi về thể xác (…). Nền giáo dục mà ông bảo vệ phải phát triển thứ tri thức phổ biến và ưu tiên cho thực hành cũng như kinh nghiệm. Rabelais ủng hộ một lập trường đạo đức, chống lại mọi niềm tin tôn giáo, hòa hợp với những đòi hỏi của tự nhiên” [69]. Rabelais phá bỏ những rào cản phong kiến và tôn giáo trên nhiều khía cạnh. Tinh thần khát khao hiểu biết của ông rất phù hợp với lý tưởng Khai sáng. Montaigne (1533-1592) Là một nhà quý tộc, hoạt động chính trị, thị trưởng thành phố Boócđô, Montaigne dường như khác với Rabelais người làm cho hậu thế khó phân biệt được bản tính thật của mình, nhưng Montaigne giống với Rabelais ở khá
  • 37. 37 nhiều điểm, và đó lại chính là những điểm mà triết học Khai sáng thế kỷ XVIII kế thừa. Xuất phát từ chủ nghĩa hoài nghi, Montaigne theo lập trường kinh nghiệm chủ nghĩa khi cho rằng tất cả đều bắt đầu từ kinh nghiệm, và kinh nghiệm cần được thường xuyên nghi ngờ và phê phán. Trong quan điểm về đạo đức, ông tìm cách xây dựng một thứ “đạo đức thực tiễn có lý trí” [57, tr.93]. Ông chịu ảnh hưởng của Épicure trong quan niệm về hạnh phúc, về cuộc sống theo bản tính tự nhiên và tính chất cá nhân chủ nghĩa trong tư tưởng đạo đức học. Cùng với Rabelais, Montaigne được coi là nhà nhân văn chủ nghĩa lớn của Pháp cuối Phục hưng. Thông qua các tác phẩm của ông, trong đó có tác phẩm Các kinh nghiệm, được viết bằng tiếng Pháp (chứ không phải bằng tiếng Latinh như kiểu mẫu đương thời), Montaigne đã để lại nhiều dấu ấn trong lịch sử tư tưởng đạo đức của Pháp sau này. 1.3.3. Tư tưởng đạo đức thời kỳ Cận đại Thời kỳ Cận đại trong quan niệm của chúng tôi là trong khoảng thế kỷ XVII, XVIII và đầu XIX, mà do phạm vi vấn đề, chúng tôi chỉ giới hạn sự xem xét trong thế kỷ XVII và các tác giả của nó. Có thể thấy, về mặt lịch sử, trào lưu Khai sáng nằm trong cùng thời đại với “triết học Cận đại”. Chúng cùng thời đại, do chúng cùng có một đặc điểm bao trùm: chủ nghĩa duy lý (theo nghĩa rộng nhất của từ). Thế kỷ XVII có cơ sở cho sự đề cao đặc biệt đối với lý tính khoa học. Sự xuất hiện của hàng loạt những phát minh mới, sự phát triển mạnh mẽ “chưa từng thấy” của các khoa học, sự ngạc nhiên đối với những bức tranh mới về thế giới mà khoa học mở ra trước mắt con người – mới so với những bức tranh của tôn giáo. Các tác phẩm kiệt xuất luận chứng cho khoa học cũng xuất hiện vào thế kỷ XVII. Sự đề cao lý tính khoa học đã được tiếp tục đến thế kỷ XVIII, và triết học Khai
  • 38. 38 sáng – nằm trong cùng dòng chảy đó – đã tiếp nhận ảnh hưởng đó của thời đại. Trong triết học thế kỷ XVII, các nhà tư tưởng tiêu biểu đã có những tác động đối với tư tưởng đạo đức Khai sáng là Descartes, Pascal và một điển hình của trào lưu Khai sáng Anh quốc – Locke. Descartes (1596-1650) Trong lịch sử triết học, Descartes có một vai trò rất đặc biệt. Được coi là người mở đầu cả một thời đại triết học, và còn hơn thế, một lối tư duy sẽ trở thành một trong những bộ phận quan trọng nhất của văn minh phương Tây, “Descartes hiện ra với tư cách là người sáng lập chủ nghĩa duy lý của châu Âu, tức cái nhãn quan mà theo đó thì toàn bộ tồn tại có thể được nhận thức triệt để bằng những phương tiện duy lý của khoa học cổ điển” [16, tr.340]. Ảnh hưởng của Descartes đến triết học Khai sáng thế kỷ XVIII ở Pháp là quá rõ ràng. Cùng nằm trong khuôn khổ của chủ nghĩa duy lý (nghĩa rộng), các nhà Khai sáng đã tiếp nhận hầu như tất cả những nét đặc trưng của tư tưởng Descartes, tất nhiên trừ cái mà Mác gọi là “siêu hình học” của Descartes – bản thân thế giới quan của ông. Sự kế thừa của triết học Khai sáng đối với Descartes chủ yếu ở tinh thần duy lý trong triết học tự nhiên của ông: chủ nghĩa duy lý, tinh thần hoài nghi tất cả, tinh thần truy cầu đến cùng chân lý của lý trí, quan điểm về tri thức có tính công truyền. Trong triết học nói chung cũng như trong tư tưởng đạo đức nói riêng của các nhà Khai sáng Pháp, ta nhận thấy tất cả những đặc trưng này. Pascal (1623-1662) Nhận xét về Pascal, D.Bouquet viết: “Không phải tình cờ mà người ta thường có khuynh hướng xếp tác giả này vào thế kỷ XVIII, chứ không phải vào thế kỷ XVII” [58, tr.20]. Điều này cho thấy sự tương đồng rất lớn giữa Pascal và các nhà tư tưởng thế kỷ XVIII. Tuy nhiên, ảnh hưởng của Pascal
  • 39. 39 đối với họ lại có những mâu thuẫn. Vì bản thân tư tưởng của Pascal cũng là sự kết hợp kỳ lạ giữa tinh thần duy lý và tinh thần chống duy lý. Viết về “sự cao quý của con người”, Pascal cho rằng “toàn bộ phẩm giá của chúng ta là nằm ở tư duy” [35, tr.421], nhưng khi phát biểu tư tưởng về “hai vô cực”, Pascal lại “chống những ai có ảo tưởng tin vào cái quyền vạn năng của tư duy, tư tưởng, đặc biệt là chống Descartes” [35, tr.417]. Thừa nhận tính ưu việt của con người trong thế giới, Pascal cũng là người phân tích rất sâu sắc sự bất lực của lý trí con người trước tự nhiên và cho rằng chính vì vậy mà con người cần đến Chúa. Trong tư tưởng đạo đức của các nhà Khai sáng Pháp, Pascal để lại một dấu ấn mâu thuẫn: các nhà Khai sáng tiếp nhận tinh thần đề cao con người của ông, nhưng lại phản đối xu hướng phủ nhận lý tính và đề cao niềm tin tôn giáo ở ông. Đặc biệt, khi coi “hạnh phúc là sự thỏa mãn những nhu cầu tự nhiên”, các nhà Khai sáng đã “công kích mãnh liệt Pascal và tác phẩm [Những suy nghĩ] vì "đã làm cho con người phải khủng khiếp vì sự hiện hữu của mình" và "làm cho con người quay lưng với hạnh phúc trần thế"” [35, tr.415]. Như vậy, tư tưởng của Pascal dù được tiếp nhận hay bị phản đối, cũng đã thu hút được sự chú ý rất lớn của các nhà triết học Khai sáng, và ảnh hưởng của ông đối với họ dù ở phương diện nào cũng là không thể chối bỏ. Locke (1632-1704) Locke là đại diện tiêu biểu của trào lưu Khai sáng Anh quốc. Những tư tưởng ông được truyền bá sang Pháp qua Những bức thư triết học của Voltaire. Ảnh hưởng của Locke đối với tư tưởng đạo đức của các triết gia Khai sáng mang tính chất gián tiếp – theo nghĩa là thông qua những quan điểm của ông về vai trò của lý tính (trong triết học tự nhiên) và đặc biệt là về các vấn đề chính trị xã hội (trong triết học chính trị xã hội). Chủ nghĩa tự do của Locke là
  • 40. 40 xuất phát điểm của chủ nghĩa tự do trong lịch sử tư tưởng phương Tây và cũng là nền tảng quan trọng cho sự luận chứng về tự do trong tư tưởng đạo đức của các nhà Khai sáng Pháp. Những tư tưởng về quyền bình đẳng tự nhiên giữa người với người và về khế ước xã hội của ông cũng đặt nền móng cho những quan điểm tương tự ở các nhà Khai sáng Pháp. Tư tưởng đạo đức thế kỷ XVIII ở Pháp còn tiếp nhận ở Locke quan điểm “chủ nghĩa cá nhân” – “Locke đã kiên quyết đặt con người riêng biệt, cá nhân vào trung tâm không những của nghiên cứu nhân học mà còn cả của nghiên cứu chính trị - xã hội” [16, tr.400]. Trong vấn đề thái độ đối với tôn giáo, tư tưởng của Locke về sự khoan dung với tư cách “đặc trưng cơ bản của giáo hội chân chính” cũng đã được các nhà Khai sáng Pháp tiếp nhận và cải biến. Nói chung, là triết gia gần gũi nhất về mặt lịch sử với các nhà Khai sáng Pháp, Locke đã có một ảnh hưởng rất rõ nét ở mọi vấn đề cụ thể trong tư tưởng đạo đức. Mặc dù Locke không bàn đến đạo đức một cách trực tiếp (ông chia hệ thống suy tư triết học của mình thành ba phần: học thuyết triết học về thế giới, lý luận nhận thức và quan điểm về xã hội), nhưng điều đó cũng không cản trở việc các tác giả Khai sáng Pháp luôn luôn tìm đến ông như một nền tảng tư tưởng. Điều này có nguyên nhân hợp lý của nó: nếu nhìn rộng ra, ta sẽ nhận thấy tư tưởng triết học xã hội của Locke đã đặt nền móng cho toàn bộ quan điểm về chính trị xã hội của chủ nghĩa tư bản cho đến ngày nay. *** Chúng ta đã xem xét bối cảnh của sự hình thành và phát triển tư tưởng đạo đức trong triết học Khai sáng Pháp ở cả hai góc độ đồng đại và lịch đại. Ở góc độ đồng đại, đó là những vấn đề của đời sống xã hội và văn hóa Pháp thế kỷ XVIII. Ở góc độ lịch đại, đó là tư tưởng đạo đức của các thời kỳ trước mà chúng tôi chỉ xem xét trong phạm vi những tác giả có ảnh hưởng trực tiếp đến
  • 41. 41 các nhà Khai sáng khi họ bàn về những vấn đề đạo đức. Tổng thể những điều kiện và tiền đề trên cho phép chúng ta có được một cái nhìn tương đối đầy đủ và bao quát về bối cảnh xã hội và tinh thần của thời đại với những đặc trưng riêng có của nó. Bối cảnh ấy đóng vai trò cái nền, cái phông trên đó các tác giả Khai sáng triển khai những suy tư của mình về những vấn đề triết học, trong đó có những vấn đề đạo đức.
  • 42. 42 CHƯƠNG 2 TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC TRONG TRIẾT HỌC KHAI SÁNG PHÁP QUA NHỮNG CHỦ ĐỀ CƠ BẢN Trước khi đi vào những chủ đề cụ thể, chúng tôi xin lược qua vài định nghĩa về đạo đức. Điều đó sẽ làm rõ một số vấn đề mà chúng tôi tiếp cận trong chương này. Tác giả Bandeladze coi “đạo đức là hệ thống những chuẩn mực biểu hiện sự quan tâm tự nguyện tự giác của những con người trong quan hệ với nhau và trong quan hệ với xã hội nói chung” [2, tr.104]. Trong Từ điển triết học do Rôzentan và P.Iuđin chủ biên, đạo đức được định nghĩa như là “quy tắc của sinh hoạt chung trong xã hội và của hành vi của con người, quy định những nghĩa vụ của người này đối với người khác và đạo đức xã hội; đạo đức là một trong những hình thái ý thức xã hội” [37, tr.285]. Zolotukhina-Abolina khi nói về định nghĩa luân lý (đạo đức) đã cho rằng việc định nghĩa một hiện tượng phức tạp như luân lý là rất khó khăn, để hiểu được thực chất luân lý thì đơn giản hơn cả là liệt kê ra những đặc điểm hàng đầu của nó. Và bà đã liệt kê: “luân lý là một trong các dạng điều chỉnh của đời sống xã hội (…). Về phương thức tồn tại, luân lý là hệ thống các chuẩn mực, các nguyên tắc, các giá trị, chỉ đạo cho con người trong hành vi hiện thực của mình (…). Tâm điểm của luân lý là mối tương quan giữa nghĩa vụ và hành vi quen thuộc” [57, tr.10-11]. Từ điển bách khoa mở Wikipedia định nghĩa về đạo đức như sau: “đạo đức là tập hợp những quy tắc hướng dẫn, tập hợp những quan hệ xã hội mà một xã hội có được, chúng thay đổi tùy theo văn hóa, đức tin, hoàn cảnh sống và những nhu cầu của xã hội” [71.8]. Ngoài ra, người ta còn đọc thấy “đạo Tải bản FULL (89 trang): https://bit.ly/2UoW2a6 Dự phòng: fb.com/TaiHo123doc.net
  • 43. 43 đức học và đạo đức thường có nghĩa gần gũi và hay bị dùng lẫn với nhau. Đạo đức học là những nghiên cứu về đạo đức”. Ở đây có một điểm mà chúng tôi muốn lưu ý: dường như có sự sử dụng không được mạch lạc giữa hai thuật ngữ đạo đức và đạo đức học. Khi triển khai chương này, vấn đề của chúng tôi là phân biệt hai thuật ngữ đó, để có thể làm rõ logic kết cấu của chúng tôi. Trong số các tài liệu mà chúng tôi có được, Từ điển thuật ngữ và phê bình triết học của André Lalande là cuốn từ điển phân biệt rõ ràng nhất các nghĩa phong phú của thuật ngữ “đạo đức”, tất nhiên là theo cách dùng của người Pháp. Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể tìm thấy những thông tin cần thiết ở đó. Các tác giả của Từ điển đã đưa ra bốn cách hiểu về đạo đức (morale – với nghĩa thực thể): “A. Tập hợp những quy tắc hướng dẫn được tuân thủ trong một thời đại hoặc bởi một nhóm người” [63, tr.637]; “B. Tập hợp những quy tắc hướng dẫn được coi là có hiệu lực không điều kiện” [63, tr.638]; “C. Học thuyết lý luận về cái thiện và cái ác, Éthique. Thuật ngữ, theo nghĩa này, luôn luôn bao hàm ý là học thuyết đó nhằm đến những hệ quả chuẩn tắc. Nó không nói lên một khoa học khách quan và có tính mô tả về phong tục, hay những phán đoán về đạo đức” [63, tr.638]; “D. Sự hướng dẫn hợp với đạo đức, ví dụ như khi ta nói về “sự tiến bộ đạo đức”, hiểu theo nghĩa đó, không phải là một sự phát triển những tư tưởng đạo đức, mà là sự hiện thực hóa một cuộc sống nhân văn hơn, một sự công bằng lớn hơn trong những quan hệ xã hội, v.v.” [63, tr.638]. Từ những định nghĩa trên, chúng ta rút ra được những điểm chung trong quan niệm của các nhà nghiên cứu về đạo đức. Theo nghĩa được đa số chấp nhận, đạo đức là tập hợp những quy tắc ứng xử, tức là những chuẩn mực, và tập hợp này thay đổi tùy theo xã hội, văn hóa, theo những thời kỳ phát triển khác nhau của lịch sử. Như vậy, vấn đề quan trọng, cơ bản, trung tâm của mọi suy ngẫm đạo đức là vấn đề quan hệ thiện – ác. Vấn đề này được giải quyết Tải bản FULL (89 trang): https://bit.ly/2UoW2a6 Dự phòng: fb.com/TaiHo123doc.net