SlideShare a Scribd company logo
1 of 127
1
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI : QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BÌNH
ĐẲNG GIỚI Ở VIỆT NAM
NHẬN VIẾT THUÊ KHOÁ LUẬN
ZALO/TELEGRAM HỖ TRỢ : 0917.193.864
WEBSITE: VIETKHOALUAN.COM
2
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trải qua một thế kỷ, dân tộc ta chìm trong chế độ nô lệ. Nhân dân ta
sống trong cuộc đời lầm than khổ nhục bởi áp bức, đè nén và bóc lột của thực
dân và nữa phong kiến. Bác Hồ đã ra đi tìm đường cứu nước, giải phóng dân
tộc. Con đường cách mạng mà Bác Hồ và nhân dân ta đã chọn dẫn đến Đảng
Cộng sản Việt Nam ra đời và Đảng đã lãnh đạo nhân dân giành chính quyền
lập nên Nhà nước dân chủ kiểu mới. Ngay những ngày đầu khó khăn ấy, bản
luận cương chính trị của Đảng đã nêu khẩu hiệu: “Người cày có ruộng” cùng
với “ nam nữ bình đẳng”. Người phụ nữ Việt Nam đổi đời toàn diện cả về vật
chất và tinh thần. Vị thế xã hội và chính trị của người phụ nữ từng bước được
nâng lên. Tài năng và nhân phẩm được tôn trọng và phát huy.
Ở thời kỳ hòa bình, xây dựng và bảo vệ tổ quốc theo di huấn của Bác
Hồ, Đảng ta khởi xướng chủ trương đổi mới toàn diện đất nước và hội nhập
quốc tế. Phụ nữ Việt Nam đã đóng góp quan trọng vào lực lượng sản xuất nói
chung và nền kinh tế tri thức nói riêng, góp phần làm tăng trưởng kinh tế và
thay đổi diện mạo đất nước.
Từ đó đến nay, Đảng ta luôn nhất quán quan điểm trong các văn kiện
qua các kỳ Đại hội. Nghị quyết đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng
chỉ rõ:
Đối với phụ nữ, nâng cao trình độ mọi mặt và đời sống vật
chất, tinh thần, thực hiện bình đẳng giới. Tạo điều kiện để phụ nữ
thực hiện tốt vai trò người công dân, người lao động, người mẹ,
người thầy đầu tiên của con người. Bồi dưỡng, đào tạo để phụ nữ
tham gia ngày càng nhiều vào các hoạt động xã hội, các cơ quan
lãnh đạo và quản lý ở các cấp. Chăm sóc và bảo vệ sức khỏe bà mẹ,
trẻ em. Bổ sung và hoàn chỉnh các chính sách về bảo hộ lao động, bảo
hiểm xã hội, thai sản, chế độ đối với lao động nữ. Kiên quyết đấu tranh
3
chống các tệ nạn xã hội, các hành vi bạo lực, xâm hại và xúc phạm nhân
phẩm phụ nữ [16, tr.120].
Nam nữ bình đẳng là một trong những quyền cơ bản của con người.
Trong xã hội dân chủ, quyền này luôn đựơc coi trọng. Ở Việt Nam, chủ
trương bình đẳng giới được đề ra ngay từ khi Đảng Cộng sản ra đời. Chính
sách bình đẳng giới thật sự là sợi chỉ đỏ xuyên suốt của chính sách phụ vận
qua các thời kỳ phát triển của nhà nước ta. Quyền bình đẳng giới đã được
Hiến định ngay từ Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước (1946). Vị trí, vai trò của
nữ giới được xã hội tôn trọng và pháp luật đã tạo điều kiện thuận lợi để nữ
giới phát triển tài năng và tham gia hoạt động chính trị, hoạt động xã hội.
Tuy nhiên, việc thực hiện và bảo vệ quyền bình đẳng giới bằng pháp
luật bên cạnh những ưu điểm và tiến bộ còn bộc lộ những tồn tại cần được
khắc phục nhằm xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng và văn minh. Nhà
nước với vai trò quản lý và nắm quyền lực chung, Nhà nước có nhiệm vụ ban
hành, bổ sung nhằm hoàn chỉnh và đồng bộ hóa hệ thống pháp luật bảo vệ
quyền bình đẳng giới của phụ nữ đối với nam giới về kinh tế, chính trị, văn
hóa xã hội trong gia đình và ngoài cộng đồng.
Hiện nay, Nhà nước đã ban hành nhiều qui định trong các văn bản qui
phạm pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ, phòng chống
hành vi xâm phạm đến quyền bình đẳng giới như Bộ luật Dân sự, Bộ luật
Hình sự, Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Bảo vệ bà mẹ và trẻ em, Luật Bình
đẳng giới, một số luật khác và các văn bản dưới luật có liên quan. Tuy vậy,
việc hoàn thiện pháp luật đòi hỏi cần bổ sung một số điều luật mới đáp ứng
yêu cầu điều chỉnh các quan hệ xã hội đã phát sinh như: vấn đề quấy rối tình
dục, ngược đãi, ức hiếp vợ, lạm dụng tình dục trẻ em, bạo lực gia đình…Đồng
thời rà soát lại các văn bản dưới luật về chống văn hóa phẩm đồi trụy, về việc
sử dụng công nghệ cao nhằm trục lợi bất chính như games online đưa trẻ em
vào thế giới ảo. Tình hình bạo lực gia đình gia tăng và rất nghiêm trọng, mỗi
năm nạn nhân chết do bạo hành gia đình lên đến hàng trăm. Ngoài ra, còn có
4
cả những qui phạm pháp luật được ban hành với mục đích ban đầu nhằm bảo
vệ quyền và lợi ích chính đáng của phụ nữ nhưng thực tế tác động của nó
mang lại cho phụ nữ không ít bất công, thiệt thòi như chế độ học phí, chế độ
nghỉ thai sản… Bên cạnh đó, một số chế tài pháp luật chưa nghiêm đối với
những hành vi vi phạm quyền, nhân phẩm phụ nữ, quyền trẻ em… Do đó,
việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bình đẳng giới là rất cần thiết.
Vì vậy, nghiên cứu đề tài này là rất quan trọng, nhằm đưa ra những
quan điểm, giải pháp về vấn đề này góp phần giúp các cơ quan, tổ chức cá
nhân trong và ngoài nước quan tâm hơn đối với việc hoàn thiện pháp luật về
bình đẳng giới, khắc phục những bất cập, tồn tại trong việc xây dựng và hoàn
thiện pháp luật về bình đẳng giới trong thời gian tới.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Bình đẳng giới là một trong những nội dung quan trọng nhất của mục
tiêu tiến bộ, công bằng xã hội. Bởi đây không chỉ là vấn đề nhận được sự
quan tâm chung của cộng đồng thế giới mà còn xuất phát từ đặc điểm Việt
Nam là một nước Châu Á, những hậu quả nặng nề của “trọng nam khinh nữ”
của chế độ phong kiến vẫn còn ảnh hưởng nhiều trong cuộc sống xã hội.
Ngày nay, phụ nữ chiếm hơn một nữa dân số cả nước, đang ngày càng
khẳng định vị trí, vai trò của mình trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước. Vì vậy, bình đẳng giới luôn là nguyên tắc Hiến định trong pháp
luật nước ta: Điều 63 Hiến pháp 1992 qui định “công dân nữ và nam có quyền
ngang nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình",
“nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ. Xúc phạm nhân phẩm
phụ nữ…”. Vấn đề bình đẳng giới càng có ý nghĩa quan trọng khi nước ta
đang bước vào giai đoạn mới của tiến trình đổi mới, khi chúng ta thực hiện
mục tiêu mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế trên nhiều lĩnh vực. Vì vậy, việc
nghiên cứu về bình đẳng giới tiếp tục là đề taì được nhiều nhà khoa học quan
tâm, đi sâu nghiên cứu nhằm khẳng định địa vị của người phụ nữ và tạo cơ
hội cho phụ nữ trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đóng góp cho sự nghiệp
5
đổi mới đất nước. Nhiều công trình, đề tài được công bố là cơ sở cho việc xây
dựng và hoàn thiện pháp lụât, chính sách dành cho phụ nữ, vì sự tiến bộ của
phụ nữ, phòng, chống phân biệt đối xử đối với phụ nữ…
Một số công trình, đề tài nghiên cứu tiêu biểu là: Lê Ngọc Hùng: “Xã
hội học về giới và phát triển”, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, năm 2000; TS
Ngô Bá Thành: “Sự bình đẳng về cơ hội kinh tế của phụ nữ trong pháp luật
và thực tiễn thi hành pháp luật ở Việt Nam”, xuất bản năm 2001; “Đưa vấn
đề giới vào phát triển: thông qua sự bình đẳng giới về quyền, nguồn lực và
tiếng nói”, Nxb Văn hóa - Thông tin, năm 2001; Lương Phan Cừ: “Bình đẳng
giới- hiện trạng chính sách và pháp luật về bình đẳng giới”, xuất bản năm
2004; GS Lê Thi - Viện khoa học xã hội Việt Nam: “Gia đình, phụ nữ Việt
Nam với dân số, văn hóa và sự phát triển bền vững”, Nxb Khoa học xã hội,
năm 2004; TS Đỗ Thị Thạch: “Phát huy nguồn lực trí thức nữ Việt Nam trong
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Nxb Chính trị quốc gia, năm 2005;
Lê Ngọc Văn (chủ biên) - Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Gia đình và
giới: “Nghiên cứu gia đình lý thuyết nữ quyền, quan điểm giới”, Nxb Khoa
học xã hội, năm 2006; Viện Khoa học xã hội Việt Nam,Viện Khoa học xã hội
vùng Nam Bộ, Trung tâm Nghiên cứu giới và gia đình: “Giới, việc làm và đời
sống gia đình”, Nxb Khoa học xã hội, năm 2007; LS Trịnh Đình Thể: “Suy
nghĩ về bình đẳng giới dưới góc nhìn pháp luật”, Nxb Tư pháp, năm 2007;
Dương Thị Ngọc Lan: “Hoàn thiện pháp luật về quyền lao động nữ ở Việt
Nam hiện nay”, Chuyên ngành Lý luận và lịch sử Nhà nước và pháp luật, mã
số: 60.38.01, năm 2000; Chu Thị Thoa: “Bình đẳng giới trong gia đình ở
nông thôn đồng bằng sông Hồng hiện nay”, chuyên ngành Chủ nghĩa cộng
sản khoa học, mã số: 5.01.03, năm 2002; Đổ Thị Thơm: “Hoàn thiện pháp
luật về quyền trẻ em ở Việt Nam hiện nay”, chuyên ngành Lý luận và lịch sử
Nhà nước và pháp luật, mã số: 60.38.01, năm 2004; Đặng Thị Ánh Tuyết:
“Bình đẳng giới ở nông thôn miền núi phía Bắc hiện nay”, Chuyên ngành Xã
hội học, mã số: 60.31.30; Hoàng Mai Hương: “Hoàn thiện pháp luật về quyền
6
chính trị của phụ nữ ở Việt Nam hiện nay”, Chuyên ngành Lý luận và lịch sử
Nhà nước và pháp luật, mã số: 60.38.01; Cao Quốc Việt: “Hoàn thiện pháp
luật phòng chống mua, bán phụ nữ, trẻ em ở Việt Nam hiện nay”, Chuyên
ngành Lý luận và lịch sử Nhà nước và pháp luật, mã số: 60.38.01, năm 2006;
Nguyễn Thanh Sơn: “Hoàn thiện pháp luật về phòng chống tệ nạn xã hội ở Việt
Nam hiện nay”, chuyên ngành Lý luận và lịch sử Nhà nước và pháp luật, mã số:
60.38.01, năm 2006; và nhiều bài viết đăng trên các tạp chí có liên quan.
Những công trình nêu trên chỉ mới đề cập một số khía cạnh này hoặc
khía cạnh khác liên quan đến bình đẳng giới và pháp luật về quyền của phụ
nữ. Trong đó đáng chú ý là công trình của Lương Phan Cừ mới chỉ nghiên
cứu chủ yếu về hiện trạng chính sách và pháp luật về bình đẳng giới. Công
trình này xuất bản năm 2004, đến nay thực trạng pháp luật về bình đẳng
giới đã có nhiều thay đổi. Vì vậy, đây là công trình mới nghiên cứu có hệ
thống về thực trạng và đề xuất phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về
bình đẳng giới.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Mục đích nghiên cứu của luận văn là đề xuất quan điểm và giải pháp
nhằm hoàn thiện pháp luật về bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về bình đẳng giới, hoàn thiện pháp luật về
bình đẳng giới.
- Phân tích thực trạng pháp luật Việt Nam về bình đẳng giới; vì sự tiến
bộ của phụ nữ; nhận xét, đánh giá những thành tựu; những hạn chế trong xây
dựng và hoàn thiện pháp luật về bình đẳng giới và nguyên nhân của những hạn
chế đó.
- Đề xuất các quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật về bình
đẳng giới ở Việt Nam hiện nay.
7
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu cơ sở lý luận hoàn thiện pháp luật về bình đẳng
giới, một số khái niệm về bình đẳng giới, pháp luật về bình đẳng giới, nghiên
cứu thực trạng của quyền bình đẳng nam, nữ trong pháp luật Việt Nam qua
các giai đoạn lịch sử và quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật về bình
đẳng giới.
4.2. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Luận văn tập trung nghiên cứu pháp luật về bình đẳng giới ở Việt Nam
qua các giai đoạn và thực trạng pháp luật về bình đẳng giới hiện nay nhằm đề
xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật về bình đẳng giới theo tư tưởng Hồ Chí
Minh và quan điểm của Đảng ta.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, các Công ứơc
quốc tế Việt Nam tham gia, ký kết về quyền bình đẳng nam, nữ; bình đẳng
giới; vì sự tiến bộ của phụ nữ.
5.2. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng của triết học
Mác-Lênin;
Đồng thời sử dụng các phương pháp cụ thể như: thống kê, so sánh,
phân tích, tổng hợp;
Phương pháp kết hợp lý luận và thực tiễn.
6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
Từ trước đến nay đã có một số tác giả bước bước đầu đã nghiên cứu
về pháp luật về bình đẳng giới, song những tác giả này chỉ mới đề cập một số
khía cạnh này hoặc khía cạnh khác. Vì vậy, đây là công trình mới nghiên cứu
8
có hệ thống lý luận thực trạng và đề xuất phương hướng, giải pháp hoàn thiện
pháp luật về bình đẳng giới. Những đóng góp của luận văn thể hiện tập trung
ở các nội dung sau đây:
- Trên cơ sở phân tích, tổng hợp các quan điểm, tác giả đưa ra quan
điểm của mình về khái niệm giới, bình đẳng giới, khái niệm pháp luật về bình
đẳng giới, tiêu chí hoàn thiện pháp luật về bình đẳng giới.
- Phân tích, nhận xét, đánh gía khái quát thực trạng pháp lụât về bình
đẳng giới.
- Đề xuất quan điểm, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về bình đẳng
giới ở Việt Nam hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn hoàn thành có thể làm tài liệu tham khảo, vận dụng trong quá
trình xây dựng và hòan thiện pháp luật về bình đẳng giới ở Việt Nam hiện
nay. Ngoài ra, những kết quả của luận văn có thể được vận dụng làm tài liệu
nghiên cứu về bình đẳng giới và xây dựng pháp luật về bình đẳng giới trong
giai đoạn hội nhập quốc tế. Đồng thời luận văn góp phần hệ thống hóa pháp
lụât về bình đẳng giới.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn được kết cấu làm 3 chương, 7 tiết.
9
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, NỘI DUNG VÀ VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT
VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI
1.1.1. Khái niệm pháp luật về bình đẳng giới
Bất bình đẳng giới, có nghĩa là muốn nói đến địa vị thấp kém của phụ
nữ so với nam giới đã xuất hiện từ lâu trong lịch sử xã hội loài người. Do đó,
cuộc đấu tranh của phụ nữ giành quyền bình đẳng đối với nam giới, phong trào
vận động ủng hộ phụ nữ trong cuộc đấu tranh đó đã xuất hiện và phát triển cũng
đã rất lâu. Thực tiễn đó làm nảy sinh các lý thuyết nữ quyền và lý thuyết giới.
Các lý thuyết đó đã phát triển qua nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau.
Ở Việt Nam, việc nghiên cứu lý thuyết nữ quyền, lý thuyết giới chỉ
mới xuất hiện những năm gần đây. Khoa học về phụ nữ và giới chính là sản
phẩm của phong trào đấu tranh của phụ nữ. Nó ra đời từ chính phong trào,
thừa kế những di sản văn hoá, tinh thần tiến bộ của loài người và đến lượt
mình nó lại tạo cơ sở lý lụân, làm phong phú thêm cho chính phong trào phụ
nữ cũng như cho chính kho tàng kiến thức của nhân loại. Nó đã gây được ảnh
hưởng lớn, thậm chí làm đảo lộn nhiều nhận thức và quan niệm của một số
ngành khoa học. Ngành khoa học nghiên cứu về phụ nữ mới được hình thành
từ những năm 80. Mặc dù là một ngành khoa học còn rất non trẻ nhưng nó đã
trưởng thành nhanh chống, đạt được nhiếu thành tựu trong lĩnh vực nghiên
cứu phụ nữ học và triển khai các đề tài nghiên cứu ứng dụng về người phụ nữ
ở Việt Nam cũng như vấn đề về bình đẳng nam nữ, góp phần quan trọng vào
công việc quản lý xã hội trong thời kỳ đổi mới đất nước ta. Thời gian gần đây,
vấn đề giới đã thu hút được sự quan tâm của nhiều người thuộc các cấp, các
ngành và các lĩnh vực khác nhau. Nhu cầu tìm hiểu, nghiên cứu lý thuyết về
giới cũng như việc vận dụng lý thuyết giới vào thực tiễn đang tăng lên không
10
chỉ ở những nơi triển khai các dự án về giới, xây dựng luận chứng, lập kế
hoạch và soạn thảo chính sách kinh tế - xã hội liên quan tới giới mà còn cả
những cơ sở nghiên cứu khoa học và đào tạo về giới trên toàn quốc.
Khái niệm giới, tuy mới được nói tới từ những năm 80 của thế kỷ XX,
nhưng bản chất vấn đề giới và nội dung các quan điểm về giới thực ra đã
được nói đến từ lâu trong lịch sử thế giới mà chủ yếu liên quan tới vấn đề phụ
nữ và sự bình đẳng nam - nữ. Mối quan hệ giữa nam giới và phụ nữ, sự giống
nhau và khác nhau giữa hai giới, sự bình đẳng giữa hai giới… là vấn đề có từ
xưa, từ khi loài người bắt đầu xuất hiện trên trái đất. Tuy nhiên, cho đến ngày
nay đó vẫn còn là vấn đề thời sự đang được bàn luận sôi nổi và nghiêm túc.
1.1.1.1. Khái niệm giới
Theo quan niệm của nhiều nhà khoa học, Giới và giới tính là hai khái
niệm cặp đôi, liên quan chặt chẽ nhau. Trong đó tiếng Anh giới là GENDER
và giới tính là SEX. Do đó, để hiểu khái niệm giới, trước hết cần hiểu khái
niệm giới tính.
Giới tính là một khaí niệm khoa học ra đời từ môn sinh vật học chỉ sự
khác biệt giữa nam và nữ về mặt sinh học. sự khác biệt này chủ yếu liên quan
đến quá trình tái sản xuất con người, di truyền nòi giống. Con người sinh ra
đã có những đặc điểm về giới tính. Ví dụ: chỉ phụ nữ mới có khả năng mang
thai và sinh con, hoặc chỉ nam giới mới có khả năng sản xuất tinh trùng cho
quá trình thụ thai.
Giới là khái niệm ra đời từ môn xã hội học, chỉ sự khác biệt giữa nam
và nữ về mặt xã hội. Nói về giới là nói về vai trò, trách nhiệm và quyền lợi
mà xã hội quan niệm hay qui định cho nam giới và phụ nữ. Vai trò, trách
nhiệm và quyền lợi đó thể hiện trước hết ở sự phân công lao động, phân chia
các nguồn của cải vật chất, tinh thần, tức là cách đáp ứng nhu cầu của nam và nữ
trong xã hội. Ví dụ: Theo quan niệm và thói quen đã có từ lâu đời ở nhiều nước,
nhiều khu vực thì phụ nữ thì phải làm hầu hết các công việc trong nhà như chăm
sóc con, nấu ăn, phục vụ chồng… Còn nam giới thì có trách nhiệm lao động sản
11
xuất để nuôi gia đình và làm các công việc xã hội. Khi sinh ra, con người chưa
có trong bản thân sự phân biệt giới mà họ dần dần tiếp thu và chấp nhận từ nề
nếp của gia đình, qui ước của xã hội và chuẩn mực của nền văn hoá.
Như vậy, khi nói giới tính là nói đặc điểm của con người do tự nhiên
qui định. Nó ổn định, thậm chí, hầu như bất biến đối với cả nam và nữ, xét cả về
mặt không gian và thời gian. Chẳng hạn phụ nữ trong mọi thời đại, mọi chế độ
chính trị, mọi nền văn hoá đều giống nhau ở khả năng mang thai và sinh con;
nam giới ở mọi nơi, mọi thời đại đều giống nhau ở chức năng sinh sản là làm
cho phụ nữ mang thai. Còn nói đến giới là nói đến địa vị xã hội, thái độ và hành
vi ứng xử giữa nam giới và phụ nữ do hoàn cảnh, điều kiện xã hội, văn hoá…
tạo nên. Địa vị thái độ và hành vi đó không bất biến mà thay đổi do sự thay đổi
của hoàn cảnh, điều kiện xã hội, văn hoá. Ví dụ: so với cách đây 50 năm về
trước, đặc điểm về giới tính của phụ nữ nước ta hiện nay không có sự thay đổi,
thế nhưng đặc điểm về giới-tức là địa vị xã hội, tương quan về mặt xã hội so với
nam giới-đã có sự thay đổi căn bản, bởi vì kể từ cách mạng tháng tám 1945,
hoàn cảnh, điều kiện xã hội, văn hoá nước ta đã thay đổi toàn diện và sâu sắc.
Từ những phân tích trên đây ta có khái niệm: giới là thuật ngữ dùng để
chỉ vai trò và mối quan hệ xã hội giữa nam giới và nữ giới, mối quan hệ này
được quyết định và có thể thay đổi tuỳ thuộc vào bối cảnh xã hội và văn hoá.
1.1.1.2. Vai trò giới
Vai trò giới là những hành vi ứng xử được dạy dỗ về mặt xã hội mà xã
hội mong đợi ở nữ giới và nam giới trong xã hội hay một nền văn hoá cụ thể.
Đó là mối quan hệ giữa phụ nữ và nam giới: ai làm gì, ai là người ra quyết
định, tiếp cận nguồn lực và các lợi ích.
Vai trò giới được chia làm ba nhóm cơ bản: vai trò sản xuất; vai trò tái
sản xuất và vai trò cộng đồng.
Vai trò sản xuất, thực hiện những hoạt động bao gồm sản xuất hàng
hoá và dịch vụ để tiêu dùng và trao đổi thương mại như làm ruộng, đánh cá,
thuê mướng hoặc tự sử dụng lao động. những hoạt động này được trả công và
12
tạo ra thu nhập, cả nam và nữ có thể tham gia vào các hoạt động sản xuất,
nhưng nhìn chung các chức năng và trách nhiệm của họ cũng khác nhau do sự
phân công lao động theo giới truyền thống. Những việc do phụ nữ làm thường
được đánh giá thấp hơn nam giới.
Vai trò tái sản xuất, là thực hiện các hoạt động tái sản xuất ra con
người và sức lao động bao gồm sinh con, các công việc chăm sóc gia đình
như nuôi dạy và chăm sóc trẻ con, chuẩn bị thức ăn, giữ gìn nhà cửa, dọn dẹp,
giặt giũ, chăm sóc sức khoẻ gia đình… những công việc này được gọi là công
việc tái sản xuất là thiết yếu đối với đời sống con người, đảm bảo sự bền vững
của dân số và lực lượng lao động. Công việc này tiêu tốn nhiều thời gian
nhưng không tạo ra thu nhập, vì vậy ít khi được coi là công việc thật sự, được
làm miễn phí, không được các nhà kinh tế đưa vào các con tính. Đại đa số,
công việc tái sản xuất là trách nhiệm của phụ nữ và trẻ em gái.
Vai trò cộng đồng, thực hiện những hoạt động bao gồm một tổ hợp các
sự kiện xã hội và dịch vụ như hoà giải mâu thuẩn, các nghi lễ (đám tang, đám
cuới, liên hoan, cúng đình …), các hoạt động thúc đẩy cộng đồng, các hoạt
động chính trị ở địa phương… Công việc cộng đồng có ý nghĩa quan trọng
trong việc phát triển văn hoá tinh thần của cộng đồng. Có lúc nó đòi hỏi sự
tham gia tình nguyện, tiêu tốn thời gian và không nhìn thấy ngay được. Có lúc
nó lại được trả công và có thể nhìn thấy được như làm trưởng ban của một
ban nào đó. Công việc này thường do nam giới nắm giữ.
Ở Việt Nam, phụ nữ chiếm 50,8% dân số và chiếm khoản 50,6% lực
lượng lao động xã hội [1].
Trong suốt chiều dài lịch sử, phụ nữ Việt Nam có vai trò và những
đóng góp to lớn vào công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước, trong công cuộc
kháng chiến chống ngoại xâm cũng như trong công cuộc phát triển của đất
nước, đặc biệt từ sau quá trình đổi mới. Ngày nay phụ nữ tham gia vào các
hoạt động sản xuất, trong các ngành như nông nghiệp, công nghiệp nhẹ (may
mặt, giầy dép và chế biến thuỷ sản…), giáo dục, y tế, thương mại… và đã đạt
13
được những thành tựu to lớn trong tất cả các lĩnh vực, đóng góp đáng kể vào
tổng sản phẩm quốc dân (GDP) của Việt Nam. Bên cạnh đó, vai trò quan
trọng của phụ nữ đã được ghi nhận trong gia đình, công việc và ngoài xã hội.
Như trong Nghị quyết 04-NQ/TW ngày 12/7/1993 của Bộ Chính trị về đổi
mới và tăng cường công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới, đã xác
định: “ Phụ nữ Việt Nam có truyền thống vẻ vang, có những tiềm năng to lớn,
là một động lực quan trọng của công cuộc đổi mới và phát triển, kinh tế, xã
hội. Phụ nữ vừa là người lao động, người công dân, vừa là người mẹ, người
thầy đầu tiên của con người. Mục tiêu giải phóng phụ nữ hiện nay là thiết
thực cải thiện đời sống vật chất tinh thần của chị em, nâng cao vị trí xã hội
của phụ nữ, thực hiện tốt nam nữ bình đẳng… Sự nghiệp giải phóng phụ nữ là
công tác của phụ nữ, là trách nhiệm của Đảng, nhà nước, các đoàn thể nhân
dân, của toàn xã hội và của từng gia đình”.
Tuy nhiên, do ảnh hưởng của những định kiến từ chế độ phong kiến
cùng với phong tục tập quán lạc hậu lâu đời còn tồn tại, cũng như nhiều quốc
gia khác, ở Việt Nam vẫn còn tồn taị những bất bình giới, phụ nữ và trẻ em có vị
thế thấp hơn nam giới; ở nhiều nơi phụ nữ và trẻ em phải đối mặt với nhiều vấn đề
bất bình đẳng giới, phân biệt đối xử liên quan đến giới và bạo hành về giới…Trên
thực tế, phụ nữ Việt Nam vẫn phải đối mặt với rất nhiều khó khăn sau:
Về mặt xã hội, quan niệm “trọng nam khinh nữ” tồn tại ở nhiều nơi trên
cả nước, đặc biệt là vùng nông thôn, tác động mạnh đến chất lượng cuộc sống
bởi tình trạng đói nghèo và phát triển kinh tế chậm ở nông thôn. Đây là những
định kiến về giới và sự phân biệt đối xử đối với phụ nữ và phần nào dẫn đến
tình trạng thiếu cơ hội cho phụ nữ, địa vị thấp kém của phụ nữ và thậm chí cả
bạo lực đối với phụ nữ. Đây là sự thách thức trong cuộc chiến của toàn xã hội
để cải thiện mối quan hệ về giới, đảm bảo công bằng giới và thực hiện việc
trao quyền cho phụ nữ.
Trong lĩnh vực giáo dục, theo Luật Giáo dục Việt Nam, phụ nữ và trẻ
em gái được tiếp cận công bằng với các cơ hội học tập và thực tế là hiện nay
14
số lượng trẻ em gái theo học bậc tiểu học, trung học cơ sở đã bằng và gần
bằng số trẻ em trai. Tuy nhiên, vẫn còn có sự cách biệt về sồ lượng học sinh
nữ và nam ở bậc học đại học. Bậc học càng cao, càng có ít học sinh nữ. Trẻ
em gái và phụ nữ thường có ít thời gian cho việc học hơn là trẻ em trai và
nam giới, vì họ phải dành nhiều thời gian cho việc nội trợ và một phần vì các
quan niệm truyền thống, họ có ít cơ hội đi học hơn các anh em trai của mình.
Đặc biệt, nếu gia đình phải đối mặt với những khó khăn về tài chính, trẻ em
gái và phụ nữ phải bỏ học trước để kiếm tiền hổ trợ gia đình. Trong các hoạt
động kinh tế, hiện nay phụ nữ Việt Nam phải đối mặt với những thách thức
mới như khả năng cạnh tranh thấp kém của lao động nữ, ít sơ hội việc làm
hơn (đặc biệt là những công việc có thu nhập cao), nguy cơ mất việc cao hơn
so với nam giới.
Trong lĩnh vực gia đình, nam giới thường đưa ra quyết định cuối cùng
về sản xuất, đầu tư, kinh doanh, phân bổ nguồn lực gia đình, hướng phát triển
của gia đình và định hướng cho con cái…Vai trò của phụ nữ trong việc đưa ra
quyết định là rất thấp, đặc biệt là ở nông thôn, vùng sâu vùng xa. Phụ nữ,
trong khi vừa phải cáng đáng việc ở cơ quan vừa phải tiếp tục gánh vác công
việc nội trợ nặng nhọc mà không nhận được đồng thù lao nào. Phụ nữ nông
thôn Việt Nam làm việc trung bình 12,5 đến 14 giờ/ngày [37]. Nói cách khác,
phụ nữ phải dành nhiều thời gian làm việc nhà hơn nam giới. Họ có xu hướng
gánh vác cả ba vai trò cùng một lúc: công việc gia đình (nội trợ và chăm sóc
con cái) công việc sản xuất và công việc ngoài xã hội. Đây là sự phân công
lao động thiếu công bằng điển hình đang tồn tại ở Việt Nam. Kết quả họ có
rất ít thời gian dành cho nghỉ ngơi, học tập và đào tạo, các hoạt động xã hội,
văn hoá và vui chơi giải trí.
Vì vậy, như phân tích trên vai trò giới là những hành vi ứng xử mà xã
hội mong đợi ở phụ nữ và nam giới, vai trò giới đa dạng giữa cộng đồng và
các nơi trên thế giới, các vai trò giới thay đổi theo thời gian tương ứng với các
điều kiện, hoàn cảnh thay đổi của cộng đồng và các vai trò giới cũng thay đổi
15
tương ứng với quan niệm luôn thay đổi với việc chấp nhận hành vi ứng xử.
Các vai trò và đặc điểm giới có ảnh hưởng đến mối quan hệ quyền lực giữa
phụ nữ và nam giới ở mọi cấp độ, có thể dẫn đến tình trạng bất bình đẳng về
cơ hội và hưởng thụ thành quả đối với một số nhóm người.
Khi phân tích mối quan hệ giữa vai trò giới với tình trạng bất bình đẳng
giới và công cuộc phát triển thấy rằng: vai trò giới và những mong đợi xã hội
đã ăn sâu vào tiềm thức và trong nhiều trường hợp, còn được gia đình, nhà
trường và các tổ chức tôn giáo, đoàn thể xã hội và các cơ quan nhà nước khắc
sâu thêm. Trong khi đó vai trò giới và những mong đợi về mặt xã hội có thể
mang lại những cơ hội, địa vị và chất luợng cuộc sống khác nhau cho trẻ em
trai và trẻ em gái, phụ nữ và nam giới. Nhìn chung, bất bình đẳng giới làm
cho trẻ em gái và phụ nữ có địa vị bất bình đẳng, phụ thuộc hoặc yếu thế so
với trẻ em trai và nam giới, cản trở họ được hưởng thụ đầy đủ các quyền con
người cơ bản của mình và bất bình đẳng giới cũng là nguyên nhân của nạn đói
nghèo, cản trở công cuộc giảm nghèo cũng như quá trình tăng trưởng và phát
triển kinh tế-xã hội bền vững.
1.1.1.3. Bình đẳng giới
Bình đẳng giới là sự thừa nhận và coi trọng như nhau các đặc điểm
giống và khác nhau giữa nam giới và nữ giới, biểu đạt sự đối xử như nhau
của xã hội đối với nam giới và nữ giới, là trạng thái xã hội trong đó nam giới
và nữ giới có vị trí như nhau, có các cơ hội như nhau để phát triển đầy đủ
tiềm năng của mình, sử dụng nó cho sự phát triển của xã hội và được hưởng
lợi từ kết quả của sự phát triển đó.
Thực chất bình đẳng giới chính là nữ giới và nam giới cùng có điều
kiện bình đẳng để phát huy hết khả năng và thực hiện các mong muốn của
mình; có cơ hội bình đẳng để tham gia, đóng góp và thụ hưởng từ các nguồn
lực của xã hội và quá trình phát triển; được hưởng tự do và chất lượng cuộc sống
bình đẳng; được hưởng thành quả bình đẳng trong mọi lĩnh vực của xã hội.
16
Bình đẳng giới không chỉ đơn giản là nam giới và phụ nữ hay em trai
và em gái có số lượng tham gia như nhau trong mọi hoạt động mà bình đẳng
giới có nghĩa là nam giới và nữ giới được hưởng các vị thế xã hội ngang nhau.
Bình đẳng giới không có nghĩa là nam giới và nữ giới là giống nhau mà có
nghĩa là sự tương đồng và khác biệt của họ được thừa nhận và được coi trọng
như nhau; có nghĩa là nam giới và nữ giới được tạo những điều kiện ngang nhau
để phát huy đầy đủ các tiềm năng của bản thân và có cơ hội để tham gia đóng
góp và hưởng lợi như nhau từ các hoạt động phát triển của cộng đồng trên mọi
mặt kinh tế, chính trị, văn hoá và xã hội; điều quan trọng, bình đẳng giới có
nghĩa là nam giới và nữ giới được thụ hưởng các thành quả một cách bình đẳng.
Cần phân tích rõ vị trí, vai trò và tác dụng của bình đẳng giới trong xây
dựng con người và phát triển kinh tế-xã hội, để ngày càng quan tâm hơn, nhận
thức rõ hơn những nội dung về bình đẳng giới, mọi người dù là nam giới hay
phụ nữ, với tư cách cá nhân đều có quyền bình đẳng và cần được tạo cơ hội
để phát huy tiềm năng sẳn có của mình, có quyền thụ hưởng bình đẳng trong
quá trình phát triển chung như:
- Tiếp cận và sử dụng các nguồn lực (tài chính, đất đai, thời gian, cơ hội…)
- Tham gia quyết định những vấn đề liên quan đến việc sử dụng nguồn lực
- Tham gia vào các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội…
- Thụ hưởng những thành tựu của sự phát triển.
Vấn đề đặt ra là gỡ bỏ những rào cản về pháp lý, chính trị, kinh tế, văn
hoá và xã hội, khiến cho một trong hai giới (nam hoặc nữ) không được thực
hiện quyền, hưởng lợi ích nói trên, trong đó các định kiến truyền thống về vai
trò, trách nhiệm và nghĩa vụ của nam giới và phụ nữ là nguyên nhân cội rễ
dẫn đến những rào cản này [59].
1.1.1.4. Khái niệm pháp luật về bình đẳng giới
Bình đẳng nói chung là nhu cầu của mọi thành viên trong đời sồng xã
hội. Song nhu cầu không phải là một “cái” luôn luôn được đáp ứng và con
17
người có thể đạt được mà chỉ có những nhu cầu nào được nâng lên thành
“quyền” thì con người mới có thể yêu cầu đáp ứng và đạt được điều mình mong
muốn. Công cụ, phương tiện để biến nhu cầu thành quyền chính là pháp luật do
nhà nước ban hành và đảm bảo thực hiện theo một trình tự luật định nhằm điều
chỉnh các quan hệ xã hội nói chung và quan hệ bình đẳng giới nói riêng. Nói
cách khác, quyền bình đẳng của nam giới và nữ giới sẽ được hiện thực hoá khi
chúng được thể chế hoá trong pháp luật và bảo đảm cho các qui định của pháp
luật về quyền bình đẳng của nam giới và nữ giới được thực hiện trong thực tế.
Bình đẳng giới là một dạng của bình đẳng xã hội nói chung, nó cũng
cần có sự điều chỉnh của pháp luật, nhằm thiết lập quyền bình đẳng giữa nam
giới và phụ nữ, cũng như điều chỉnh những những lĩnh vực, những nơi mà
phụ nữ đang thiệt thòi, đang có vị trí thấp kém so với nam giới do nhiều
nguyên nhân khác nhau bắt nguồn từ đời sống xã hội, nhằm đáp ứng yêu cầu
của công cuộc đấu tranh cho bình đẳng giới ở Việt Nam và góp phần thúc đẩy
công cuộc đầu tranh cho bình đẳng giới trên thế giới.
Phụ nữ với tư cách là công dân cũng có đầy đủ những quyền như công
dân. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân lịch sử, xã hội và văn hoá, trên thực tế,
những định kiến coi thường phụ nữ vẫn còn ảnh hưởng nặng nề trong đời
sống xã hội. Hiến pháp và pháp luật ghi nhận quyền bình đẳng nam nữ và phụ
nữ cũng có những quyền như nam giới, nhưng do những định kiến của xã hội
nên phụ nữ còn gặp nhiều trở ngại, khó khăn khi tham gia vào các hoạt động
chính trị, hoạt động quản lý nhà nước và hoạt động xã hội. Chính vì vậy,
ngoài những qui định chung về quyền con người, quyền công dân, pháp luật
còn có quy định riêng dành cho phụ nữ, đảm bảo cho phụ nữ có đủ điều kiện
phát triển bắt kịp nam giới (xuất phát điểm của phụ nữ rất thấp so với nam giới)
Như vậy, phụ nữ hoàn toàn có quyền tự do thực hiện quyền bình đẳng
của mình cùng với nam giới. Nhưng việc thực hiện quyền đó chỉ có hiệu lực
và hiệu quả khi nó được đặt dưới sự bảo vệ của pháp luật và phù hợp với pháp
luật. Do định kiến coi thường phụ nữ còn nặng nề nên để bảo đảm cho phụ nữ
18
thực hiện được quyền bình đẳng của mình trong thực tế, Nhà nước phải ban
hành nhiều qui định trong pháp luật, trong đó có cả những chế tài nghiêm
khắc xử lý những hành vi vi phạm quyền bình đẳng của phụ nữ. Như vậy,
pháp luật không chỉ ghi nhận, cụ thể hoá quyền bình đẳng của phụ nữ mà còn
qui định những thiết chế bảo đảm thực hiện những quyền đó trên thực tế.
Từ những phân tích trên, có thể khái niệm pháp luật về bình đẳng giới
như sau:
Pháp luật về bình đẳng giới là hệ thống các qui phạm pháp luật do nhà
nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội về quyền bình đẳng của
phụ nữ và nam giới trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
1.1.2. Đặc điểm của pháp luật về bình đẳng giới
Bình đẳng giới hiện nay đang trở thành một trong những vấn đề toàn
cầu và được mọi cộng đồng quốc gia trên thế giới quan tâm. Thực tiễn cho
thấy, phụ nữ được bình đẳng cùng với nam giới tham gia vào mọi hoạt động
của đời sống, đồng thời cùng được thừa hưởng mọi thành quả của tiến bộ xã
hội, đó chính là biểu hiện sinh động năng lực làm chủ xã hội của một lực
lượng lao động quan trọng, chiếm hơn nữa nhân loại toàn cầu. Chỉ trên cơ sở
bình đẳng mới đảm bảo cho mục tiêu tiến bộ và công bằng xã hội được thực
hiện. Trên thực tế, thực hiện mục tiêu bình đẳng giới là một nhiệm vụ khó
khăn và phức tạp không chỉ riêng một lĩnh vực nào mà nó đi liền với nhiều
bức xúc của xã hội.
Xem xét vấn đề bình đẳng giới giữa nam và nữ trong mối tương quan
với các vấn đề chính trị-xã hội khác, chúng ta có thể rút ra các đặc điểm của
pháp luật về bình đẳng giới như sau:
- Thứ nhất, pháp luật bình đẳng giới bao gồm các qui định của pháp
luật về quyền công dân nói chung và các qui định trực tiếp quyền bình đẳng
của phụ nữ và nam giới.
Ở Việt Nam, quyền bình đẳng của phụ nữ được pháp luật ghi nhận và
bảo vệ với tư cách là quyền công dân, phụ nữ cũng là công dân và phụ nữ có
19
những quyền của một công dân, được thừa nhận và tham gia vào mọi hoạt
động trong đời sống cộng đồng xã hội. Bên cạnh đó, để khẳng định quyền
bình đẳng của phụ nữ, Hiến pháp và những văn bản qui phạm pháp luật liên
quan đến quyền bình đẳng của phụ nữ còn có những qui định riêng về quyền
bình đẳng của phụ nữ. Hiến pháp 1959 qui định:
Phụ nữ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà có quyền bình đẳng
với nam giới về các mặt sinh hoạt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội,
gia đình.
Cùng làm việc như nhau, phụ nữ được hưởng lương ngang với
nam giới. Nhà nước bảo đảm cho phụ nữ công nhân và phụ nữ viên
chức được nghỉ trước và sau khi đẻ mà vẫn hưởng nguyên lương [39].
Những qui định như vậy, đã hình thành nên một hệ thống các qui phạm pháp
luật qui định trực tiếp quyền bình đẳng nói chung và các quyền khác của phụ nữ.
- Thứ hai, pháp luật về quyền bình đẳng của phụ nữ và nam giới là
tổng hợp nhiều qui phạm pháp luật thuộc các lĩnh vực khác nhau.
Nhiệm vụ của pháp luật là xác lập cơ sở pháp lý và tạo cơ sở để bảo vệ
quyền bình đẳng của phụ nữ với nam giới. Vịêc xác lập và bảo vệ quyền bình
đẳng của phụ nữ không chỉ được qui định tại Hiến pháp mà còn được qui định
trong nhiều văn bản qui phạm pháp luật khác nhau như: Luật Bầu cử đại biểu
Quốc hội, Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, Bộ luật Dân sự, Bộ luật
Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Khiếu nại tố cáo, Bộ luật Lao động, Luật
Bình đẳng giới…Đặc biệt, trong những văn bản pháp luật này đều có những qui
định riêng về quyền của phụ nữ nhằm mục đích bảo vệ và bảo đảm việc thực
hiện quyền bình đẳng của phụ nữ. Ngoài hệ thống quyền con người thống nhất,
việc thực hiện quyền này là cơ sở là tiền đề cho việc bảo đảm thực hiện các
quyền khác. Chính vì vậy, việc bảo đảm thực hiện quyền bình đẳng của phụ nữ
không chỉ căn cứ vào những qui phạm pháp luật riêng qui định về quyền bình
đẳng của phụ nữ, mà còn liên quan đến nhiều qui phạm pháp luật thuộc các lĩnh
vực khác nhau. Nói cách khác, pháp luật về bình đẳng giới là tổng hợp của nhiều
20
qui phạm pháp luật thuộc các lĩnh vực khác nhau nhằm bảo vệ và bảo đảm quyền
bình đẳng của phụ nữ với nam giới được thực hiện có hiệu quả trên thực tế.
- Thứ ba, pháp luật về bình đẳng giới là sự kết hợp hài hoà giữa các
qui phạm pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia.
Thúc đẫy và bảo vệ quyền bình đẳng của phụ nữ với nam giới không
chỉ là mối quan tâm và trách nhiệm của riêng một quốc gia nào, mà nó đã trở
thành nghĩa vụ và trách nhiệm chung của cả cộng đồng quốc tế. Cộng đồng
quốc tế đã thông qua nhiều văn kiện pháp lý qui định về quyền bình đẳng của
phụ nữ. Những văn kiện đó thể hiện tư tưởng tiến bộ của nhân loại về giải
phóng phụ nữ, bảo đảm sự bình đẳng và nâng cao địa vị của người phụ nữ.
Trong các văn kiện pháp lý quốc tế qui định trực tiếp hoặc gián tiếp về
quyền bình đẳng của phụ nữ, Việt Nam đã gia nhập và phê chuẩn hai công
ước quan trọng nhất có liên quan là: Tuyên ngôn thế giới về quyền con người
(UDHR) năm 1948 và Công ước Liên hợp quốc về xoá bỏ mọi hình thức phân
biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW) năm 1979. Trong quá trình xây dựng pháp
luật, Nhà nước luôn xem xét khả năng thể chế hoá những qui định tiến bộ của
pháp luật quốc tế vào hệ thống pháp luật quốc gia. Đây cũng là một phần
trong trách nhiệm lập pháp của quốc gia khi gia nhập và phê chuẩn các công
ước này. Bên cạnh đó, Khi xây dựng pháp luật, chúng ta cũng dựa trên truyền
thống văn hoá và hoàn cảnh đặc thù của Việt Nam để điều chỉnh và thông qua
những qui phạm pháp luật phù hợp. Chính vì thế, pháp luật Việt Nam thể hiện
tư tưởng tiến bộ, có tính thuyết phục, phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam và
mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Các qui phạm pháp luật về bình đẳng giới
trong hệ thống pháp luật Việt Nam thể hiện rõ tư tưởng trên, trong đó đặc biệt
nhấn mạnh đến nguyên tắc bình đẳng không phân biệt đối xử.
1.1.3. Nội dung của pháp luật về bình đẳng giới
Bình đẳng giới là một trong những nội dung quan trọng nhất của mục
tiêu tiến bộ, công bằng xã hội. Bởi đây không chỉ là vấn đề nhận đươc sự
21
quan tâm chung của cộng đồng thế giới mà còn xuất phát từ đặc điểm Việt
Nam là một nước châu Á, những hậu quả nặng nề của tư tưởng “trọng nam
khinh nữ” của chế độ phong kiến vẫn còn ảnh hưởng nhiều trong đời sống xã
hội. Ngày nay, phụ nữ chiếm phân nữa dân số cả nước, đang ngày càng khẳng
định vị trí và vai trò của mình trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa
đất nước. Vì vậy, bình đẳng giới ở Việt nam hiện nay đã trở thành một chế
định quan trọng và là nguyên tắc Hiến định trong hệ thống pháp luật nước ta,
là cơ sở để thể chế hoá trong các văn bản pháp luật, từ cao nhất là Hiến pháp,
đến các luật chuyên ngành. Trong các bản Hiến pháp nước ta qua các thời kỳ
lịch sử, nội dung bình đẳng giới đã được mở rộng một cách toàn diện hơn
đồng thời nhiều nội dung được cụ thể hoá trong các văn bản qui phạm pháp
luật dưới Hiến pháp như: Bộ luật Dân sự năm 2005; Bộ luật Lao động năm
1994 sửa đổi, bổ sung 2002; Luật bầu cử đại biểu Quốc hội năm 1997; Luật
giáo dục năm 1998; Bộ luật Hình sự năm 1999; Luật hôn nhân và gia đình
năm 2000 và hàng trăm văn bản khác. Vấn đề bình đẳng giới, càng có ý nghĩa
quan trọng khi nước ta đang bước vào giai đoạn mới của tiến trình đổi mới,
khi chúng ta thực hiện mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế trên nhiều lĩnh vực.
Nói đến nội dung của pháp luật về bình đẳng giới là đề cập đến các qui
phạm pháp luật cụ thể hướng đến mục tiêu xác lập và bảo vệ năng lực và tư
cách pháp lý bình đẳng giữa nam giới và phụ nữ trong các lĩnh vực của đời
sống xã hội cụ thể gồm những lĩnh vực cơ bản sau:
- Bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị
- Bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế
- Bình đẳng giới trong lĩnh vực lao động
- Bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo
- Bình đẳng giới trong lĩnh vực khoa học và công nghệ
- Bình đẳng giới trong lĩnh vực văn hoá, thông tin, thể dục, thể thao và
y tế
- Bình đẳng giới trong gia đình [21].
22
Nhìn từ hệ thống pháp luật quốc tế, những nội dung liên quan trực tiếp,
gián tiếp đến bình đẳng giới có thể thấy trong nhiều văn bản, trong đó tiêu
biểu là Tuyên ngôn thế giới về quyền con người (UDHR) năm 1948, Công
ước Liên hợp quốc về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ
(CEDAW) năm 1979. Công ước CEDAW có ý nghĩa quan trọng đối với việc
hiện thực hoá các quyền con người của phụ nữ, công ước này xác định cách
thức, biện pháp nhằm loại trừ những sự phân biệt đối xử với phụ nữ trong
hưởng thụ các quyền con người. Mục đích của công ước CEDAW là trao cho
phụ nữ những quyền con người đã được thừa nhận nhưng trên thực tế họ chưa
được hưởng bởi những phân biệt đối xử trong thực tế [63].
Ở Việt Nam, quyền bình đẳng của phụ nữ với tính cách là quyền công
dân sớm được xác lập bằng pháp luật cùng với sự ra đời của Hiến pháp đầu
tiên, Hiến pháp 1946, ngay từ lần đầu tiên đó, phụ nữ đã được công nhận có
địa vị công dân bình đẳng so với đàn ông:
“Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hoà.
Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam,
không phân biệt giống nòi, trai gái, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”(Điều 1)
“Tất cả công dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện chính trị,
kinh tế, văn hoá” (Điều 6).
“Tất cả công dân Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật, đều được
tham gia chính quyền và công cuộc kiến quốc tuỳ theo tài năng và đức hạnh
của mình” (Điều 7).
“Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện” (Điều 9).
Quyền bình đẳng nam nữ trong bầu cử, ứng cử đã trở thành qui tắc
xuyên suốt trong các bản Hiến pháp Việt Nam từ 1946 đến nay: Công dân,
không phân biệt dân tộc, nam, nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo,
trình độ văn hoá, thời hạn cư trú, từ 18 tuổi trở lên đều có quyền bầu cử và từ
21 tuổi trở lên đều có thể được bầu vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp,
trừ những người bị pháp luật hoặc Toà án nhân dân tuớc các quyền đó.
23
Phù hợp với tinh thần chung của các Công ước quốc tế Việt Nam tham
gia ký kết, Hiến pháp và pháp luật Việt Nam có những qui định xác lập quyền
bình đẳng của phụ nữ và nam giới trong việc tham gia xây dựng và thực hiện
các chính sách của Nhà nước, tham gia các chức vụ của nhà nước và thực
hiện chức năng công cộng ở mọi cấp. Cụ thể, Hiến pháp 1992 sửa đổi nêu rõ:
“ công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận
các vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với cơ quan nhà
nước…” (Điều 53).
Như vậy, quyền bình đẳng của phụ nữ và nam giới có một cơ sở pháp
lý khá đầy đủ và toàn diện, từ việc xác lập đến bảo vệ bằng pháp luật. Pháp
luật Việt Nam có những qui định riêng, nhưng đồng thời cũng rất hài hòa với
pháp luật quốc tế trong việc khẳng định quyền bình đẳng của phụ nữ, đây là
quyền quan trọng cần được bảo vệ trên cơ sở bình đẳng, không phân biệt đối
xử cùng với trách nhiệm quốc gia và cả cộng đồng quốc tế, vì dân chủ và sự
tiến bộ của phụ nữ.
Nhìn tổng thể, nhiều nội dung bình đẳng giới đã được qui định khá chi
tiết, phong phú trong các văn bản qui phạm pháp luật ở nước ta, đồng thời
Việt Nam được đánh gía là một trong những quốc gia có chính sách bình đẳng
giới tiến bộ so với nhiều quốc gia trên thế giới. Chính sách của Đảng và pháp
luật của Nhà nước vừa tạo điều kiện thuận lợi để phụ nữ vươn lên, vừa đòi hỏi
phụ nữ phải năng động, linh hoạt hơn trong việc nâng cao trình độ chuyên
môn, làm chủ kỹ thuật hiện đại tham gia tích cực vào hoạt động sản xuất và
xây dựng xã hội, đổi mới đất nước. Tuy nhiên, các nội dung của pháp luật về
bình đẳng giới đưa ra chủ yếu còn mang tính cục bộ, rải rác thiếu tính hệ
thống theo một nguyên tắc chung. Nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra
chưa được rà soát kỹ, như việc đánh giá lại các văn bản pháp luật hiện hành,
trên cơ sở phân tích một cách đầy đủ những chính sách liên quan về giới để có
những dự báo có tính khoa học và thực tiễn cho việc hoàn thiện pháp luật về
bình đẳng giới.
24
1.1.4. Vai trò của pháp luật về bình đẳng giới
Vai trò của pháp luật về bình đẳng giới thể hiện ở những điểm cơ bản sau:
- Thứ nhất, pháp lụât bình đẳng giới ở Việt Nam là phương tiện thể chế
hoá chính sách bình đẳng giới của Đảng Cộng sản Việt Nam
Trong lịch sử xã hội loài người từ khi nhà nước xuất hiện, pháp luật
chính là công cụ thể chế hoá đường lối, chủ trương và chính sách của giai cấp
cầm quyền. Ở Việt Nam, nền tảng của giai cấp cầm quyền xã hội là liên minh
giai cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức đặt dưới sự lãnh đạo của
Đảng cộng sản Việt Nam. Từ khi ra đời đến nay, Đảng luôn dành sự quan tâm
cho phụ nữ, bảo vệ các lợi ích chính đáng của phụ nữ trên tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội. Trong luận cương chính trị đầu tiên của Đảng, tư tưởng
giải phóng phụ nữ và tôn trọng quyền của phụ nữ đã được ghi nhận, trở thành
tuyên ngôn đầu tiên về quyền bình đẳng nam nữ, phụ nữ được công nhận
ngang quyền với nam giới. Tiếp đó, Đảng còn ban hành nhiều chỉ thị và nghị
quyết có tính chất định hướng và chỉ đạo nhằm bảo đảm cho phụ nữ ngang
quyền với nam giới như: Nghị quyết số 153/NQ-TW, 10/01/1967 về “công
tác cán bộ nữ”; Chỉ thị số 44/CT-TW, 07/6/1984, về “ một số vấn đề cấp
bách trong công tác cán bộ nữ”; Nghị quyết 04/NQ-TW của bộ chính trị về “
tăng cường và đổi mới công tác vận động nữ trong tình hình mới”; Nghị
quyết 04-NQ/TW ngày 12/7/1993 của Bộ Chính trị về “ đổi mới và tăng
cường công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới”; Chỉ thị số 28-CT/TW
ngày 29/9/1993 củ Ban Bí thư Trung ương Đảng về “thực hiện nghị quyết của
Bộ Chính trị về đổi mới, tăng cườngcông tác vận động phụ nữ trong tình hình
mới”; Chỉ thỉ 37/CT-TW16/5/1994 của Ban Bí thư Trung ương về “một số
vấn đề công tác cán bộ nữ trong tình hình mới”; tiếp theo là nghị quyết Đại
hội IX của Đảng công sản Việt Nam v.v…Mọi văn bản đều nhất quán một
quan điểm “thực hiện tốt chính sách, pháp luật về bình đẳng giới, bồi dưỡng
đào tạo nghề nghiệp, nâng cao trình độ học vấn, có cơ chế chính sách để phụ
25
nữ tham gia ngày càng nhiều vào các cơ quan lãnh đạo và quản lý ở các
cấp…” [15, tr.126].
Tư tưởng trên đã trở thành nguyên tắc chung và được thể chế hoá trong
Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước. Hay nói cách khác, pháp luật làm cho
các chính sách có hiệu lực thực thi và bắt buộc chung trên qui mô toàn xã hội.
Pháp luật bình đẳng giới còn là phương tiện để Đảng kiểm tra đường lối chính
sách của mình về bình đẳng giới và về quyền của phụ nữ trong thực tiễn đời
sống xã hội. Ngay từ khi ra đời, Nhà nước dân chủ đầu tiên ở Đông Nam
Châu Á đã ghi nhận trong pháp luật quyền của phụ nữ và nam giới. Tuy
nhiên, một thực tế không thể không thừa nhận là pháp luật của chúng ta chưa
thể chế đầy đủ, cụ thể và thiếu những thiết chế đảm bảo thực hiện trên thực tế
đường lối chủ trương chính sách của Đảng về bình đẳng giới nói chung về
quyền phụ nữ nói riêng. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình thực
hiện bình đẳng giới trên thực tế.
- Thứ hai, pháp lụât bình đẳng giới ở Việt Nam tạo cơ sở pháp lý đấu
tranh thực hiện bình đẳng giới giữa phụ nữ và nam giới trên các lĩnh vực của
đời sống xã hội.
Với chức năng là công cụ để nhà nước quản lý, bảo vệ các gía trị xã hội
và bảo đảm công bằng xã hội, pháp luật có vai trò đặt biệt quan trọng trong
việc xác lập và bảo vệ các quyền bình đẳng của phụ nữ với nam giới. Pháp
luật là hệ thống các qui định trong đó nêu ra các qui tắc xử sự chung cho phép
hoặc bắt buộc tất cả các chủ thể pháp luật. Hay nói cách khác, tất cả các chủ
thể pháp luật gồm các cơ quan nhà nước; mọi cán bộ, công chức, viên chức;
các tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị-xã hội; các tổ chức xã hội; các tổ
chức xã hội-nghề nghiệp; các tổ chức kinh tế; đơn vị lực lượng vũ trang nhân
dân và mọi công dân có trách nhiệm thực hiện các qui định của pháp luật.
Hiến pháp 1992 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam nêu rõ: “
Công dân nam, nữ có quyền ngang nhau về mọi mặt, không ngừng phát huy
vai trò của mình trong xã hội”. Luật Dân sự Việt Nam 2005 tại điều 5 qui
26
định: “Trong quan hệ dân sự, các bên đều bình đẳng, không được lấy lý do
khác biệt về dân tộc, giới tính, thành phần xã hội, hoàn cảnh kinh tế,…Để đối
xử không bình đẳng nhau” và đây chính là nguyên tắc có giá trị áp dụng đối
với tất cả các chế định, các qui phạm pháp luật dân sự, các quan hệ pháp luật
dân sự. Luật Bình đẳng giới qui định tại điều 4: “Mục tiêu bình đẳng giới là
xoá bỏ phân biệt đối xử về giới, tạo cơ hội như nhau cho nam và nữ trong
phát triển kinh tế-xã hội và phát triển nguồn lực, tiến tới bình đẳng giới thực
chất giữa nam và nữ thiết lập, củng cố quan hệ hợp tác hổ trợ giữa nam và nữ
trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình”
Ngoài ra, pháp luật còn có những qui định về hình thức, biện pháp xử
lý hành vi phạm bình đẳng giới như: Bộ luật Hình sự năm 1999 qui định các
biện pháp chế tài đối với các tội xâm phạm quyền bầu cử, ứng cử nói chung
và tội xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ tại điều 126 và 130. Điều 130
qui định: “…phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù
từ ba tháng đến một năm đối với những người dùng vũ lực hoặc có hành vi
nghiêm trọng xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ, trong đó có quyền
tham gia vào hoạt động chính trị”. Điều 119 qui định: “Người nào mua bán
phụ nữ thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm…”
- Thứ ba là, pháp lụât bình đẳng giới ở Việt Nam là cơ sở pháp lý để
nâng cao địa vị thấp kém hiện thời của phụ nữ
Có thể nói, nhờ pháp luật có những qui định xác lập và bảo vệ quyền
bình đẳng của phụ nữ mà phụ nữ có những cơ sở pháp lý cần thiết để đấu
tranh cho việc cải thiện và nâng cao vị thế thấp kém hiện thời của mình.
Pháp luật về bình đẳng giới không chỉ xác lập địa vị bình đẳng của phụ
nữ trong đời sống xã hội mà còn là những qui tắc xử sự được sử dụng như
thước đo chuẩn mực chung, đồng thời có tính chất bắt buộc đối với mọi thành
viên trong xã hội nhằm thực hiện bảo vệ quyền bình đẳng của phụ nữ với nam
giới. Chính vì lẽ đó, pháp luật về bình đẳng giới được sử dụng như cơ sở dẫn
chiếu đối với những hành vi trái pháp luật vi phạm quyền bình đẳng giới, bên
27
cạnh đó, những qui định của pháp luật bình đẳng giới có vai trò quan trọng
tạo tiền đề cho phụ nữ thực hiện các quyền chính đáng của họ mà pháp luật đã
ghi nhận. Hơn nữa, pháp luật bình đẳng giới còn là cơ sở pháp lý chắc chắn
để phụ nữ đấu tranh với những hành vi sai trái, phân biệt đối xử với phụ nữ,
những định kiến lạc hậu cản trở việc thực hiện quyền bình đẳng của phụ nữ so
với nam giới. Nếu không có những qui định của pháp luật về bình đẳng nam
nữ thì những định kiến “hẹp hòi”, “trọng nam khinh nữ” đang còn ảnh hưởng
nặng nề trong xã hội, phụ nữ sẽ gặp nhiều trở ngại, khó khăn trong việc tham
gia vào các hoạt chung của công động đồng xã hội đặc biệt là tham gia quản
lý nhà nước, quản lý xã hội, tham gia ứng cử vào các chức danh lãnh đạo và
vào quá trình hoạch định chính sách trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Vì
vậy, pháp luật về bình đẳng giới có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm, bảo
vệ và thực hiện quyền bình đẳng của phụ nữ với nam giới nhằm cải thiện và
nâng cao vị thế thấp kém hiện thời của phụ nữ so với nam giới.
- Thứ tư, pháp lụât bình đẳng giới ở Việt Nam bảo đảm việc thực hiện
có hiệu quả quá trình phát triển kinh tế- xã hội của đất nước
Bảo đảm quyền bình đẳng giới giữa nam và nữ chính là bảo đảm quyền
con người đã được pháp luật qui định và bảo vệ. Trong hệ thống quyền con
người, về cơ bản, phụ nữ cũng được hưởng các cơ hội bình đẳng như nam
giới nhưng để có sự bình đẳng thực chất, phụ nữ phải được bảo đảm thực hiện
các quyền đó. Nói cách khác, họ phải được tham gia trực tiếp và gián tiếp vào
quản lý nhà nước, quản lý xã hội; tham gia vào quá trình kinh tế, xã hội của
đất nước. Do đó, quyền bình đẳng của phụ nữ đối với nam giới là nền tảng, có
tính quyết định việc thực hiện quyền kinh tế xã hội và văn hoá.
Trong khoa học nghiên cứu về bình đẳng giới, những nguyên tắc về
bình đẳng giới được thừa nhận là:
Bình đẳng giới tỷ lệ thuận với phát triển kinh tế, xã hội trong
nông nghiệp và nông thôn; bình đẳng giới nhất quán với quan điểm
phát triển trên cơ sở tạo quyền; bình đẳng giới là biểu hiện của công
28
bằng trong phát triển kinh tế, xã hội và phát triển con người; phụ nữ
và nam giới, trẻ em gái và trẻ em trai là những đối tác bình đẳng
trong quá trình phát triển của quốc gia [10].
Quá trình phát triển kinh tế Việt Nam những năm vừa qua, là một thực
tiễn sinh động khẳng định vai trò của pháp luật, các văn bản pháp luật của nhà
nước Việt Nam trên các lĩnh vực của đời sống xã hội đã và đang từng bước
tuân thủ và thể hiện rõ nguyên tắc bình đẳng nam nữ và tôn trọng quyền của
phụ nữ. Từ đó, có sự nhìn nhận, đánh giá đúng vai trò và sự đóng góp của phụ
nữ trong nền kinh tế-xã hội. Đổi mới kinh tế đã tạo cơ hội cho phụ nữ tham
gia vào các hoạt động có năng suất cao hơn và tăng thu nhập, giảm bớt gánh
nặng gia đình cho phụ nữ, phụ nữ có nhiều điều kiện tham gia hoạt động kinh
tế, chính trị, văn hoá, xã hội. Ngoài ra, phụ nữ đuợc tiếp thêm động lực vượt
lên những khó khăn, thử thách của cơ chế thị trường, nữ công nhân, viên chức
nổ lực lao động, tích cực học tập nâng cao trình độ văn hoá tay nghề dưới
nhiều hình thức đáp ứng yêu cầu của công nghệ mới và cơ chế mới. Trong
một số lĩnh vực khác, nhiều phụ nữ được phong hàm giáo sư, phó giao sư, có
học vị tiến sĩ, nhiều đề tài nghiên cứu khoa học cấp nhà nước do phụ nữ làm
chủ nhiệm, tỷ lệ phụ nữ giữa các chức vụ lãnh đạo cũng có xu hướng tăng
dần. Tuy vậy, tỷ lệ cán bộ nữ giữ các chức vụ lãnh đạo tại các khu vực ra
quyết định, hoạch định chính sách, giữ các chức vụ quản lý ở các cấp, các
ngành còn thấp.
- Thứ năm, pháp luật bình đẳng giới ở Việt Nam bảo đảm thực hiện nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy tối đa quyền dân chủ của phụ nữ và nam
giới, bảo đảm công bằng xã hội
Khi nghiên cứu vấn đề bình đẳng giới, không thể không nhìn từ gốc độ
pháp luật. Việc bảo đảm bình đẳng giới bằng pháp luật chính là cơ sở pháp lý
để xác lập địa vị pháp lý bình đẳng cho nam giới và nữ giới, bởi thông qua đó,
phụ nữ và nam giới mới được tham gia vào các quá trình ra quyết định một
cách bình đẳng đối với những vấn đề gắn liền với những lợi ích thiết thân của
29
họ trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, từ đó hạn chế và tiến tới xoá bỏ
hoàn toàn những phân biệt đối xử về giới mà phụ nữ thường là những nạn
nhân. Tuy nhiên, bình đẳng ở đây phải là bình đẳng về thực chất và chỉ có
bình đẳng về thực chất mới là cơ sở để bảo đảm bền vững địa vị pháp lý bình
đẳng của nữ giới so với nam giới. Đây là, mối quan hệ biện chứng giữa bình
đẳng và pháp luật. Biểu hiện của bình đẳng giới về thực chất là, phụ nữ và
nam giới xác lập được địa vị pháp lý của mình, được tham gia một cách dân
chủ vào mọi hoạt động của đời sống chính trị-xã hội. Ngược lại, pháp luật là
công cụ để đảm bảo và bảo vệ quyền bình đẳng của nam giới và nữ giới.
Trong mối quan hệ biện chứng này, nữ giới và nam giới là những người
hưởng thụ quyền, nhưng đồng thời cũng là chủ thể trực tiếp đấu tranh xoá bỏ
định kiến “trọng nam khinh nữ”, phân biệt đối xử đối với phụ nữ, tham gia
xây dựng pháp luật về quyền bình đẳng giới. Trong thực tế quyền bình đẳng
của nam giới hầu như mặc nhiên đuợc thừa nhận thì quyền của nữ giới phải
qua quá trình đấu tranh gian khó mới có được, mới được ghi nhận trong pháp
luật và mới được thực hiện trong thực tế. Xác lập và thực hiện quyền bình
đẳng của nam giới và nữ giới là yếu tố quyết định để xác lập và đảm bảo cho
phụ nữ được thực sự bình đẳng với nam giới.
Quyền bình đẳng giới, được thực thi trên cơ sở không phân biệt đối xử
và bình đẳng, thực chất là bảo đảm cho phụ nữ và nam giới tham gia vào xây
dựng, quản lý nhà nước, quản lý xã hội và tham gia vào mọi hoạt động của
đời sống xã hội. Sự tham gia bình đẳng của nam giới và nữ giới vào các cấp
ra quyết định chắc chắn sẽ giúp cho những chính sách của nhà nước, đặc biệt
là những chính sách có liên quan đến phúc lợi xã hội mang tính cân bằng về
giới hơn. Bên cạnh đó, nó còn là biểu hiện của việc tăng cường dân chủ trong
xã hội.
Quyền bình đẳng giới đảm bảo dân chủ xã hội chủ nghĩa gồm: quyền
công dân, quyền con người; quyền bầu cử, ứng cử; quyền tham gia quản lý
nhà nước; quyền được giáo dục-đào tạo; quyền được chọn nghề thích hợp và
30
quyền tham gia các hoạt động xã hội khác. Theo công ước Liên Hợp quốc về
xoá mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW), việc bảo đảm thực
thi các quyền của phụ nữ và nam giới phải thực hiện trên các điểm sau: bình
đẳng, không phân biệt đối xử và trách nhiệm quốc gia. Bình đẳng và không
phân biệt đối xử là yêu cầu khách quan, trong khi trách nhiệm quốc gia bao hàm
cả việc bảo đảm dân chủ xã hội. Xét về mặt lịch sử, dân chủ và bình đẳng không
chỉ là nhu cầu của con người mà còn là yêu cầu khach quan. Hai phạm trù này
không tách biệt, mà ngược lại, chúng hổ trợ và bổ sung cho nhau. Như vậy, thực
thi dân chủ bao hàm cả yêu cầu thực thi quyền bình đẳng giữa nam giới và nữ
giới. Nói cách khác, xã hội nào xác lập và thực thi được quyền bình đẳng giới
giữa nam vừa nữ mới là xã hội dân chủ và bình đẳng thực sự.
- Thứ sáu, pháp luật bình đẳng giới ở Việt Nam tạo ra môi trường ổn
định cho việc tham gia vào hoạt động đấu tranh cho bình đẳng giới nói chung
của thế giới.
Sự hợp tác và các mối quan hệ ban giao giữa các quốc gia chỉ có thể
phát triển trong môi trường kinh tế, chính trị, xã hội ổn định và có đủ độ tin
cậy lẫn nhau. Pháp luật là phương tiện có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo
lập môi trường ổn định đó. Chính nhờ những đặc điểm đặc thù của mình mà
pháp luật có khả năng thiết lập một trật tự mà ở đó mọi chủ thể khi tham gia vào
các quan hệ phải tôn trọng những cam kết và phải chịu trách nhiệm về những
hậu quả có thể xảy ra. Pháp luật bình đẳng giới cùng với hệ thống pháp luật nói
chung có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo lập môi trường ổn định đó.
Trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay, việc một quốc gia muốn tạo lập
được môi trường kinh tế, chính trị, xã hội ổn định phải có sự gắn kết chặt chẽ
với các quốc gia khác trong khu vực và trên thế giới nhằm bảo vệ những lợi
ích cơ bản lâu dài của quốc gia, dân tộc là điều rất cần thiết. Với phương
châm Việt Nam muốn là bạn của các nước trên thế giới, những năm qua hệ
thống pháp luật Việt Nam nói chung, pháp luật bình đẳng giới Việt Nam nói
riêng đã có nhiều bước phát triển mới ngày càng toàn diện hơn, phù hợp hơn
31
vừa thể hiện tính dân tộc vừa mang tính thời đại. Sự phù hợp đó thể hiện ở vai
trò của pháp luật bình đẳng giới nhằm tôn trọng, bảo vệ phụ nữ nói chung và
xoá mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ. Ở Việt Nam, môi trường pháp
lý đáng tin cậy đã được hình thành, ngày càng được củng cố vững chắc, tạo ra
cơ sở cho sự phát triển và mở rộng các quan hệ hợp tác và mang lại nhiều
hiệu quả quan trọng. Trong đó việc pháp luật ghi nhận những giá trị mà người
phụ nữ có, cần và ủng hộ là điều cực kỳ quan trọng tạo tiền đề cần thiết để
nâng cao vị thế của ngưới phụ nữ so với nam giới ở Việt Nam cũng như trong
quan hệ quốc tế.
Thực tiễn cho thấy, muốn thực hiện tốt sự quản lý nhà nứơc, đẩy nhanh
sự phát triển xã hội mở rộng quan hệ và hợp tác với các nước thì phải chú
trọng phát huy vai trò của pháp luật nói chung và pháp luật bình đẳng giới nói
riêng, nhanh chống xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật và pháp luật
bình đẳng giới phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh trong nước, đồng thời phù
hợp với xu hướng phát triển chung của tình hình quốc tế và khu vực.
1.2. TIÊU CHÍ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI Ở VIỆT NAM
Hoàn thiện pháp luật là một quá trình liên tục, có nhiều khó khăn phức
tạp, đòi hỏi có sự quan tâm, nỗ lực của từng cơ quan, tổ chức và cá nhân có
nhiệm vụ soạn thảo, ban hành, hướng dẫn các văn bản qui phạm pháp luật
có liên quan trong lĩnh vực bình đẳng giới. Do vậy, việc tiếp tục xây dựng
và hoàn thiện hệ thống pháp luật về bình đẳng giới ở Việt Nam trong
những năm tới cần định hướng tập trung mọi nguồn lực, đề cao trách nhiệm
của các ngành các cấp, phấn đầu xây dựng hệ thống pháp luật về bình đẳng
giới đủ về số lượng, nâng cao về chất lượng, phấn đấu năm 2020 hệ thống
pháp luật về bình đẳng giới đạt đến trình độ tương đối thống nhất, đồng bộ,
toàn diện, bảo đảm kỹ thuật văn bản; phù hợp với pháp luật quốc tế. Đây
chính là các tiêu chí, các yêu cầu của chương trình đổi mới công tác xây
dựng, ban hành và nâng cao chất lượng văn bản qui phạm pháp luật trong
đó có pháp luật về bình đẳng giới.
32
1.2.1. Tính thống nhất
Các quan hệ xã hội về bình đẳng và bình đẳng giới là một chỉnh thể
thống nhất, do đó các qui phạm pháp luật về bình đẳng giới, dùng để điều
chỉnh các quan hệ xã hội đó cũng phải được xây dựng phù hợp với chỉnh thể
thống nhất đó. Tính thống nhất của pháp luật nói chung và pháp luật bình
đẳng giới nói riêng thể hiện ở chổ các qui phạm pháp luật phù hợp với nhau,
không mâu thuẩn, xung đột lẫn nhau trong một ngành luật cụ thể, tuy việc xác
định ranh giới này là rất khó. Trong lĩnh vực bình đẳng giới, sự tham gia của
hệ thống cơ quan quản lý nhà nước, hệ thống cơ quan thực thi bảo vệ pháp
luật và hoạt động bình đẳng giới còn đuợc bảo vệ bằng nhiều biện pháp khác
nữa, thì việc bảo đảm tính thống nhất là điều quan trọng.
Tính thống nhất của pháp luật về bình đẳng giới đòi hỏi các qui định
của pháp luật phải có sự liên kết, phối hợp tác động điều chỉnh theo một chiều
hướng nhất định; phải có sự thống nhất nội tại giữa các qui phạm pháp luật về
bình đẳng giới với điều kiện kinh tế, chính trị, văn hoá xã hội, sự thống nhất
không chỉ trong phạm vi quốc gia mà còn ở phạm vi quốc tế; tuân thủ các
nguyên tắc pháp chế trong việc xây dựng và bảo đảm qui phạm pháp luật về
bình đẳng giới thống nhất với các qui phạm pháp luật tương ứng nói chung;
thống nhất giữa các qui phạm pháp luật trong các văn bản có hiệu lực pháp lý
cao với các văn bản có hiệu lực pháp lý thấp hơn, cụ thể là sự thống nhất giữa
các qui định của Bộ Luật dân sự, Bộ Luật hình sự, Luật Lao động, Luật Hôn
nhân và gia đình… với Luật Bình đẳng giới, Luật Phòng, chống bạo lực gia
đình, Luật Khiếu nại tố cáo, Luật Tố tụng hình sự, Luật Tố tụng dân sự…;
tính thống nhất của pháp luật còn thể hiện ở sự thống nhất của qui phạm pháp
luật với tập quán, truyền thống đạo đức, văn hoá của dân tộc.
Tính thống nhất là yêu cầu khách quan, là tiêu chí đánh giá mức độ
hoàn thiện và chất lượng của hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật bình
đẳng giới nói riêng. Điều này có nghĩa là, khi xem xét mức độ hoàn thiện của
hệ thống pháp luật thì cần phải xem xét giữa các bộ phận qui phạm pháp luật
33
của nó có trùng lặp, chồng chéo hay mâu thuẫn và xung đột với nhau không. Tính
thống nhất của pháp luật bình đẳng giới được thực hiện trên những điểm sau:
Một là, thể hiện sự đồng bộ giữa Hiến pháp với Luật Bình đẳng giới và
phải xây dựng được một hệ thống qui phạm pháp luật căn bản trong Hiến
pháp, hoàn thiện Hiến pháp nhằm tạo cơ sở củng cố tính thống nhất của toàn
bộ hệ thống pháp luật.
Hai là, thể hiện sự thống nhất, không mâu thuẫn, không xung đột,
không trùng lặp, chồng chéo trong luật bình đẳng giới, mỗi chế định pháp luật
và giữa các qui phạm pháp luật trong Luật Bình đẳng giới.
Ba là, thống nhất của hệ thống pháp luật bình đẳng giới thể hiện ở sự
đồng bộ, thống nhất giữa luật Bình đẳng giới với các văn bản dưới luật.
Bốn là, trong điều kiện Đảng cầm quyền, cần phái đảm bảo tính đồng
bộ, thống nhất giữa các qui định trong luật bình đẳng giới với đường lối chính
sách của Đảng.
Thống nhất là tiêu chí vô cùng quan trọng trong việc hoàn thiện pháp
luật bình đẳng giới. Pháp luật bình đẳng giới có được áp dụng hiệu quả trong
thực tế hay không phụ thuộc vào việc có tuân thủ tính thống nhất hay không.
Thực tế nước ta nhiều văn bản đã được ban hành nhưng rất khó đi vào cuộc
sống vì sự mâu thuẫn chồng chéo giữa các văn bản đó.
1.2.2. Tính toàn diện, cụ thể
Tính toàn diện, cụ thể là tiêu chí thể hiện mức độ hoàn thiện luật Bình
đẳng giới hoặc của cả hệ thống pháp luật bình đẳng giới. Tiêu chí này có ý
nghĩa trong việc "định lượng" một văn bản qui phạm pháp luật cũng như cả
hệ thống pháp luật. Do đó, nó có ý nghĩa rất quan trọng, vì chỉ trên cơ sở
"định lượng" mới có thể tiếp tục nghiên cứu để "định tính" trong xây dựng
pháp luật nói chung.
Tính toàn diện, cụ thể của pháp luật bình đẳng giới thể hiện khả năng
đáp ứng cao nhất nhu cầu điều chỉnh các quan hệ xã hội về bình đẳng giới
34
bằng pháp luật. Nhà nước, với chức năng quản lý xã hội thông qua bộ máy
các cơ quan quản lý nhà nước, cần thiết chế một hệ thống pháp luật bình đẳng
giới có tính toàn diện, cụ thể để điều chỉnh các quan hệ xã hội về bình đẳng
giới. Trong lĩnh vực này, tính toàn diện, cụ thể của pháp luật cần được xem
xét, đánh giá các bình diện: các qui phạm pháp luật đã thể chế hoá đầy đủ
những quan điểm, đường lối, chính sách của nhà nước về bình đẳng giới; các
qui phạm pháp luật thực định đã có đầy đủ, để điều chỉnh mọi quan hệ xã hội
giữa nhà nước với các chủ thể khác trong công cuộc đấu tranh cho bình đẳng
giới; các qui phạm pháp luật có đủ để xử lý các hành vi xâm phạm bình đẳng
giới; các qui phạm pháp luật đó đã tạo ra cơ sở pháp lý để phòng, chống, đấu
tranh có hiệu quả đối với các tội phạm xâm phạm bình đẳng giới và các qui
phạm pháp luật thực định đó đã được thực thi trong thực tế.
Tính toàn diện, cụ thể của hệ thống pháp luật thể hiện ở hai cấp độ:
Ở cấp độ chung đòi hỏi hệ thống pháp luật bình đẳng giới phải có đủ
các qui phạm pháp luật theo cơ cấu nội dung lôgic và thể hiện thống nhất
trong hệ thống văn bản qui phạm pháp luật tương ứng.
Ở cấp độ cụ thể đòi hỏi luật bình đẳng giới phải có đủ các chế định
pháp luật và các qui phạm pháp luật điều chỉnh những loại hành vi cụ thể, giải
quyết những vấn đề cụ thể như luật bình đẳng giới với những điều kiện cộng
thêm cho phụ nữ để khắc phục sự chênh lệch về xuất phát điểm của phụ nữ so
với nam giới hiện thời.
1.2.3. Tính đồng bộ
Tính đồng bộ của pháp luật bình dẳng giới, thể hiện ở khía cạnh các
yếu tố tạo nên pháp luật bình đẳng giới phải được xây dựng và phát triển
trong một qui trình với một tốc độ, một thời gian chung; tính đồng bộ đó tạo
ra sự phù hợp, mềm dẻo, linh hoạt trong một chỉnh thể. Trong giai đoạn hiện
nay, việc bảo đảm tính đồng bộ đối với hệ thống pháp luật về bình đẳng giới
là điều vô cùng cần thiết, đó là sự đồng bộ giữa: các chủ trương, chính sách
35
và thực thi bình đẳng giới; tổng thể hệ thống văn bản qui phạm pháp luật về
bình đẳng giới phải chứa đựng đầy đủ các qui phạm pháp luật về nội dung và
hình thức như ban hành kịp thời các văn bản hướng dẫn áp dụng, đảm bảo cho
các qui phạm pháp luật về bình đẳng giới sớm được áp dụng và thực thi trong
đời sống xã hội.
1.2.4. Bảo đảm kỹ thuật văn bản
Kỹ thuật lập pháp là một vấn đề rộng lớn, phức tạp, trong đó có ba
điểm quan trọng, cần thiết phải chú ý khi xây dựng và hoàn thiện pháp luật:
- Kỹ thụât lập pháp thể hiện ở những nguyên tắc tối ưu được vạch ra để
áp dụng trong quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp lụât về bình đẳng giới.
- Trình độ kỹ thuật pháp lý thể hiện ở việc xác định chính xác cơ cấu
của pháp luật bình đẳng giới.
- Các biểu đạt bằng ngôn ngữ pháp lý phải đảm bảo tính cô động, logic,
chính xác và một nghĩa.
Trình độ, kỹ thuật xây dựng pháp luật bình đẳng giới thể hiện ở: hoạt
động xây dựng pháp luật bình đẳng giới phải mang tính chuyên nghịêp, các
chủ thể tham gia vào hoạt động xây dựng pháp luật bình đẳng giới phải có
hiểu biết sâu sắc về giới, bình đẳng giới. Đặc biệt, tính chuyên nghịêp ở đây là
yêu cầu đối với đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân hiện nay. Bên
cạnh đó, đội ngũ chuyên gia giỏi giúp việc cho Quốc hội, Hội đồng nhân dân
trong hoạt động xây dựng pháp luật bình đẳng giới cũng là một yếu tố hết sức
quan trọng nhằm đảm bảo yêu cầu chất luợng của luật bình đẳng giới khi ban
hành. Ngoài ra, kỹ thuật xây dựng văn bản qui phạm pháp luật còn đuợc thể
hiện ở trình độ sử dụng ngôn ngữ và cách hành văn. Ngôn ngữ pháp lý phải
đảm bào tính cô động, logic, chính xác và một nghĩa, hành văn phải ngắn gọn,
rõ ràng, khách quan và dễ hiểu.
Xây dựng hệ thống qui phạm pháp luật bình đẳng giới có chất lượng
tốt, có sức sống lâu bền, có tính phổ thông đại chúng, mọi người dễ tiếp cận
36
và thực hiện trong cuộc sống, ít phải sửa đổi phụ thuộc rất nhiều vào trình độ,
kỹ thuật xây dựng pháp luật nói chung.
1.2.5. Tính phù hợp với pháp luật quốc tế
Kể từ khi đổi mới, cải cách và mở cửa, nước ta đã đạt được những
thành tựu to lớn trên tất cả các mặt của đời sống chính trị, xã hội. Sự phát
triển của đất nước cũng đặt ra yêu cầu phải hoàn thiện hệ thống pháp luật nói
chung và pháp luật bình đẳng giới nói riêng để một mặt có đầy đủ khung pháp
lý điều chỉnh các hoạt động của đời sống xã hội trong đó có hoạt động bình
đẳng giới, mặt khác, để phù hợp với pháp luật quốc tế về bình đẳng giới trong
bối cảnh hội nhập.
Trong thời gian dài, trình độ xây dựng pháp luật và chất lượng pháp luật
bình đẳng giới của chúng ta chưa theo kịp trình độ phát triển của đất nước và
thời đại. Điều này, một mặt do chúng ta chịu hậu quả của các cuộc chiến tranh
chống xâm lược, của chính sách bao vây và cấm vận, không có nhiều điều kiện
tiếp xúc với bên ngoài, hạn chế sự tiếp thu những tinh hoa pháp luật quốc tế và
cả sự phát triển của hệ thống pháp luật quốc tế. Mặt khác, về chủ quan, chúng ta
chưa quan tâm đúng mức đến công tác lập pháp nói chung và xây dựng pháp luật
bình đẳng giới nói riêng; phát triển và hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung
và chuyển hoá pháp luật quốc tế vào nội dung pháp luật trong nước nói riêng.
Để hoàn thiện pháp luật bình đẳng giới ở nước ta không thể không
tham khảo quá trình xây dựng và phát triển pháp luật bình đẳng giới ở các
nước có nền lập pháp phát triển, các điều ước liên quan mà Việt Nam tham
gia, ký kết.
Ngày nay, các quan hệ giới, bình đẳng giới có vai trò rất quan trọng cho
các chủ thể là nam giới, phụ nữ và đồng thời là nhà nước vì nó gắn liền với
từng hoạt động của các chủ thể trong phạm vi đất nước và phạm vi quốc tế.
Trong quá trình triển khai, thực hiện pháp luật bình đẳng giới chúng ta sẽ có
nhiều thuận lợi vì chúng ta đi sau nên sẽ tham khảo học hỏi kinh nghiệm của
37
các tổ chức quốc tế, cũng như các nước đã áp dụng pháp luật bình đẳng giới
bước đầu đã có những thành công nhất định. Việc tham khảo, không chỉ là sự
kế thừa các thành tựu và tiến bộ của nhân loại mà còn là sự kết hợp và tiếp
cận có kế thừa các qui định pháp luật trong nước với pháp luật quốc tế. Như
vậy, pháp luật của chúng ta sẽ hoàn thiện hơn trong bối cảnh quốc gia trong
mối tương quan với pháp luật quốc tế về bình đẳng giới.
1.3. PHÁP LUẬT CỦA MỘT SỐ NƯỚC VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI VÀ NHỮNG
ĐIỂM CẦN TIẾP THU VẬN DỤNG Ở VIỆT NAM
Ngày nay quyền của nam giới và nữ giới tham gia hoạt động trên các
lĩnh vực của đời sống xã hội đã được tôn trọng và thực hiện ở nhiều quốc gia
trên thế giới. Sự tham gia của họ vào đời sống xã hội xuất phát từ gia trị phổ
quát của quyền con người. Cũng như nam giới, nữ giới với tư cách là con
người, có quyền hưởng tất cả các quyền mà “tạo hoá đã ban cho họ” và
quyền tham gia mọi hoạt động của đời sống xã hội.
Đến nay, đã có nhiều nước ban hành luật bình đẳng giới. Luật bình
đẳng giới đã có tác dụng thúc đẩy sự tiến bộ của phụ nữ. Hai nước Phần Lan
và Thụy Sỹ đã có luật bình đẳng giới cách đây từ 10 đến 20 năm. Phụ nữ hai
nước có sự tiến bộ rõ nét, cả hai nước đều có nhiều phụ nữ đảm nhiệm các
chức vụ quan trọng trong Quốc hội, trong Chính phủ. Phần Lan là nước phát
triển nhất Bắc Âu và Thụy Sỹ là nước phát triển nhất Trung Âu. Cả hai nước
đều theo chế độ cộng hoà, quyền lập pháp thuộc về Quốc Hội và Tổng thống.
Luật bình đẳng giới ở Phần Lan, Thụy Sỹ đã thực sự đi vào cuộc sống vừa chi
phối vừa thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội đất nước. Các luật, chính sách ban
hành sau Luật Bình đẳng giới đều đều được Quốc hội xem xét rất kỹ nếu có
những qui định nào đó thể hiện sự bất bình đẳng giới đều không được quốc
hội thông qua. Luật Bình đẳng giới đã đề cập đến vấn đề bình đẳng nam nữ
trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội nhất là vấn đề tiền
lương, thu nhập, vấn đề lao động việc làm, quyền thừa kế tài sản, trong đào
38
tạo tuyển dụng lao động…Chẳng hạn, trong tất cả các thông báo tuyển dụng
lao động hay tuyển sinh đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn ở các cơ
quan đơn vị từ Trung ương đến địa phương, kể cả các cơ sở sản xuất kinh
doanh đều không được trái với lụât bình đẳng giới, không có sự phân biệt đối
xử nam, nữ như cấm thông báo tuyển dụng có sự phân biệt đối xử và không
một thông báo tuyển dụng lao động, tuyển sinh đào tạo nào được phép áp
dụng riêng cho nam hoặc nữ, thậm chí còn cấm cả những thói quen bất hợp
pháp. Ở Phần Lan còn qui định ở các cơ quan hoạch định, ban hành chính
sách, các cơ quan công quyền phải đảm bảo tỷ lệ nam- nữ là 50-50. Người
chủ sử dụng lao động có nghĩa vụ thức đẩy bình đẳng giới, các doanh nghiệp
có từ 30 lao động trở lên phải có kế hoạch thực hiện bình đẳng giới, các cơ quan
chức năng của chính phủ thông qua thanh tra, kiểm tra nếu phát hiện đơn vị nào
vi phạm thì bị phạt và người chủ doanh nghiệp, người đứng đầu đơn vị buộc
phải có kế hoạch thực hiện đúng qui định của Luật Bình đẳng giới.
Đối với quyền thừa kế tài sản, trước kia Phần Lan, chỉ có con trai
trưởng mới có quyền thừa kế tài sản của bố mẹ. Nhưng sau khi Luật Bình đẳng
giới ra đời thì quyền thừa kế tài sản trong gia đình cho cả nam và nữ, đây là vấn
đề gay go nhất, tranh luận trong nhiều năm ở các cấp, các ngành, tồn tại hàng
trăm năm ở Phần Lan đã có sự thay đổi và được nhân dân đồng tình hoan
nghênh. Luật Bình đẳng giới của Thụy Sỹ cấm không được phân biệt đối xử với
người lao động trên cơ sở giới tính của họ, tình trạng hôn nhân, hoàn cảnh gia
đình, kể cả trường hợp đó là người lao động nữ hoặc người đang mang thai, sinh
đẻ dù dưới hình thức trực tiếp hay gián tiếp. Điều cấm phân biệt này đặc biệt áp
dụng đối với việc thuê mướn nhân công, phân công nhiệm vụ, điều kiện lao
động, đào tạo cơ bản hoặc nâng cao, đề bạt hoặc đuổi việc. Các biện pháp thích
hợp để thực hiện bình đẳng thực sự không được coi là phân biệt đối xử. Đối với
luật binh đẳng giới, hai nước, tuổi về hưu thực hiện bình đẳng nam, nữ thậm chí
ở tuổi 64, 65 tuổi, một số nước đang dự kiến nâng lên 68 tuổi. Tuy nhiên các
nước này tỷ lệ sinh đẻ thấp thiếu lao động [17].
39
Từ pháp luật về bình đẳng giới của một số nước nêu trên có thể nghiên
cứu và vận dụng vào Việt Nam trên những điểm sau đây:
- Khi ban hành các văn bản qui phạm pháp luật phải đối chiếu, bảo đảm
phù hợp với Luật bình đẳng giới coi đây là một thủ tục bắt buộc đối với các cơ
quan chủ trì soạn thảo, thẩm định dự thảo văn bản, là yêu cầu đối với Hội đồng và
các Ủy ban của Quốc hội, Hội đồng nhân dân trước khi thông qua dự thảo văn
bản. Trước khi tổ chức thực hiện văn bản trong tờ trình của Chính phủ phải đề cập
đến vấn đề bình đẳng giới nếu văn bản ban hành có liên quan đến vấn đề giới.
- Để bảo đảm bình đẳng giới cần thiết phải qui định tỷ lệ nam nữ cụ
thể, nhất là đối với việc tham gia tổ chức bộ máy. Tỷ lệ nữ cán bộ, công chức
trong các cơ quan thuộc hệ thống chính trị như tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội, nữ
đại biểu Hội đồng nhân dân, cán bộ nữ ở các cấp, ngành Trung ương và địa
phương. Trong tổ chức thực hiện các cơ quan Đảng, Nhà nước phải quan tâm
đào tạo bồi dưỡng cán bộ nữ bảo đảm tỷ lệ cán bộ nữ đã qua đào tạo nhằm cung
cấp một lực lượng cán bộ nữ bảo đảm cả về số lượng và chất lượng cho yêu cầu
bình đẳng giới trong giai đoạn hiện nay và tương lai phát triển của đất nước.
- Các cơ quan, tổ chức sử dụng lao động nữ phải có kế hoạch thực hiện
bình đẳng giới.
- Nghiêm cấm mọi hình thức tuyển dụng lao động có phân biệt giới.
Nếu trong tuyển dụng có ưu tiên giới nào, tiêu chuẩn nào thì phải giải thích.
- Nghiên cứu qui định tuổi hưu, bình đẳng về độ tuổi đối với những
ngành nghề, lĩnh vực phù hợp.
Nhìn ra các nước khu vực và thế giới, đặc biệt trong hội nhập Quốc tế
để thực hiện Công ước Quốc tế về “xoá mọi hình thức phân biệt đối xử với
phụ nữ” (CEDAW) mà Chính phủ Việt Nam đã cam kết thực hiện, thì nhiều
vấn đề liên quan đến cán bộ nữ, lao động nữ cần được nhận thức lại để trong
quá trình xây dựng pháp luật bình đẳng giới ở nước ta cần có sự đổi mới theo
hướng phát triển, thực hiện bình đẳng nam, nữ trên mọi phương diện. Tất nhiên,
không nôn nóng, không vội vã và cần được xem xét, nghiên cứu thoả đáng
Quan Điểm Và Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam
Quan Điểm Và Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam
Quan Điểm Và Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam
Quan Điểm Và Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam
Quan Điểm Và Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam
Quan Điểm Và Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam
Quan Điểm Và Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam
Quan Điểm Và Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam
Quan Điểm Và Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam
Quan Điểm Và Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam
Quan Điểm Và Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam
Quan Điểm Và Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam
Quan Điểm Và Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam
Quan Điểm Và Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam
Quan Điểm Và Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam
Quan Điểm Và Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam
Quan Điểm Và Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam
Quan Điểm Và Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam
Quan Điểm Và Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam
Quan Điểm Và Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam
Quan Điểm Và Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam
Quan Điểm Và Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam
Quan Điểm Và Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam
Quan Điểm Và Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam
Quan Điểm Và Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam
Quan Điểm Và Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam
Quan Điểm Và Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam
Quan Điểm Và Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam
Quan Điểm Và Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam
Quan Điểm Và Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam
Quan Điểm Và Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam
Quan Điểm Và Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam
Quan Điểm Và Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam
Quan Điểm Và Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam
Quan Điểm Và Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam
Quan Điểm Và Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam
Quan Điểm Và Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam
Quan Điểm Và Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam
Quan Điểm Và Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam
Quan Điểm Và Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam
Quan Điểm Và Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam
Quan Điểm Và Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam
Quan Điểm Và Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam
Quan Điểm Và Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam
Quan Điểm Và Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam
Quan Điểm Và Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam
Quan Điểm Và Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam
Quan Điểm Và Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam
Quan Điểm Và Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam
Quan Điểm Và Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam
Quan Điểm Và Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam
Quan Điểm Và Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam
Quan Điểm Và Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam
Quan Điểm Và Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam
Quan Điểm Và Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam
Quan Điểm Và Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam
Quan Điểm Và Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam
Quan Điểm Và Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam
Quan Điểm Và Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam
Quan Điểm Và Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam
Quan Điểm Và Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam
Quan Điểm Và Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam
Quan Điểm Và Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam
Quan Điểm Và Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam
Quan Điểm Và Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam
Quan Điểm Và Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam
Quan Điểm Và Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam
Quan Điểm Và Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam
Quan Điểm Và Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam
Quan Điểm Và Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam
Quan Điểm Và Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam
Quan Điểm Và Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam
Quan Điểm Và Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam
Quan Điểm Và Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam
Quan Điểm Và Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam
Quan Điểm Và Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam
Quan Điểm Và Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam
Quan Điểm Và Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam
Quan Điểm Và Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam
Quan Điểm Và Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam
Quan Điểm Và Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam
Quan Điểm Và Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam
Quan Điểm Và Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam
Quan Điểm Và Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam
Quan Điểm Và Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam
Quan Điểm Và Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam
Quan Điểm Và Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam
Quan Điểm Và Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam

More Related Content

What's hot

Thi hành án dân sự
Thi hành án dân sựThi hành án dân sự
Thi hành án dân sựTé Lầu
 
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 

What's hot (20)

Luận văn: Quyền của lao động nữ theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Quyền của lao động nữ theo pháp luật Việt Nam, HOTLuận văn: Quyền của lao động nữ theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Quyền của lao động nữ theo pháp luật Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Mối quan hệ giữa dân chủ và pháp luật, HOT
Luận văn: Mối quan hệ giữa dân chủ và pháp luật, HOTLuận văn: Mối quan hệ giữa dân chủ và pháp luật, HOT
Luận văn: Mối quan hệ giữa dân chủ và pháp luật, HOT
 
Giải quyết tranh chấp lao động cá nhân Theo pháp luật việt nam.doc
Giải quyết tranh chấp lao động cá nhân Theo pháp luật việt nam.docGiải quyết tranh chấp lao động cá nhân Theo pháp luật việt nam.doc
Giải quyết tranh chấp lao động cá nhân Theo pháp luật việt nam.doc
 
Luận văn: Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật, HOT
Luận văn: Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật, HOTLuận văn: Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật, HOT
Luận văn: Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật, HOT
 
Luận văn: Pháp lý về quyền tiếp cận thông tin ở tỉnh Phú Yên, HOT!
Luận văn: Pháp lý về quyền tiếp cận thông tin ở tỉnh Phú Yên, HOT!Luận văn: Pháp lý về quyền tiếp cận thông tin ở tỉnh Phú Yên, HOT!
Luận văn: Pháp lý về quyền tiếp cận thông tin ở tỉnh Phú Yên, HOT!
 
Luận văn: Chế độ bầu cử ở nước ta - vấn đề lý luận và thực tiễn
Luận văn: Chế độ bầu cử ở nước ta - vấn đề lý luận và thực tiễnLuận văn: Chế độ bầu cử ở nước ta - vấn đề lý luận và thực tiễn
Luận văn: Chế độ bầu cử ở nước ta - vấn đề lý luận và thực tiễn
 
Đề tài: Bảo vệ quyền của lao động nữ trong pháp luật lao động, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền của lao động nữ trong pháp luật lao động, HAYĐề tài: Bảo vệ quyền của lao động nữ trong pháp luật lao động, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền của lao động nữ trong pháp luật lao động, HAY
 
Tiểu luận Pháp luật về khuyến mại thực tiễn và giải pháp.doc
Tiểu luận Pháp luật về khuyến mại  thực tiễn và giải pháp.docTiểu luận Pháp luật về khuyến mại  thực tiễn và giải pháp.doc
Tiểu luận Pháp luật về khuyến mại thực tiễn và giải pháp.doc
 
Luận văn: Pháp luật về lao động là người khuyết tật ở Việt Nam
Luận văn: Pháp luật về lao động là người khuyết tật ở Việt NamLuận văn: Pháp luật về lao động là người khuyết tật ở Việt Nam
Luận văn: Pháp luật về lao động là người khuyết tật ở Việt Nam
 
Báo Cáo Thực Tập Tại Tư Pháp - Hộ Tịch Tại Ubnd PhườngXã.docx
Báo Cáo Thực Tập Tại Tư Pháp - Hộ Tịch Tại Ubnd PhườngXã.docxBáo Cáo Thực Tập Tại Tư Pháp - Hộ Tịch Tại Ubnd PhườngXã.docx
Báo Cáo Thực Tập Tại Tư Pháp - Hộ Tịch Tại Ubnd PhườngXã.docx
 
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sựLuận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự
 
Luận văn: Pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động tập thể
Luận văn: Pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động tập thểLuận văn: Pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động tập thể
Luận văn: Pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động tập thể
 
Đề tài: Đặc điểm của pháp luật trong nhà nước pháp quyền, HAY
Đề tài: Đặc điểm của pháp luật trong nhà nước pháp quyền, HAYĐề tài: Đặc điểm của pháp luật trong nhà nước pháp quyền, HAY
Đề tài: Đặc điểm của pháp luật trong nhà nước pháp quyền, HAY
 
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sựLuận văn: Tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự
 
Luận văn: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền
Luận văn: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyềnLuận văn: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền
Luận văn: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền
 
Thi hành án dân sự
Thi hành án dân sựThi hành án dân sự
Thi hành án dân sự
 
Đề tài: Pháp luật về thuế thu nhập cá nhân tại Quảng Ngãi, HAY
Đề tài: Pháp luật về thuế thu nhập cá nhân tại Quảng Ngãi, HAYĐề tài: Pháp luật về thuế thu nhập cá nhân tại Quảng Ngãi, HAY
Đề tài: Pháp luật về thuế thu nhập cá nhân tại Quảng Ngãi, HAY
 
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...
 
Luận văn: Pháp luật về hoãn thi hành án hình sự ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Pháp luật về hoãn thi hành án hình sự ở Việt Nam, HOTLuận văn: Pháp luật về hoãn thi hành án hình sự ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Pháp luật về hoãn thi hành án hình sự ở Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Phòng ngừa tội phạm quận Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng
Luận văn: Phòng ngừa tội phạm quận Cẩm Lệ, TP Đà NẵngLuận văn: Phòng ngừa tội phạm quận Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng
Luận văn: Phòng ngừa tội phạm quận Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng
 

Similar to Quan Điểm Và Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam

Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực hiện quyền của phụ nữ từ năm 1986 đến nă...
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực hiện quyền của phụ nữ từ năm 1986 đến nă...Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực hiện quyền của phụ nữ từ năm 1986 đến nă...
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực hiện quyền của phụ nữ từ năm 1986 đến nă...HanaTiti
 
Luận văn thạc sĩ: Bảo đảm quyền tham gia Chính trị của phụ nữ
Luận văn thạc sĩ: Bảo đảm quyền tham gia Chính trị của phụ nữ Luận văn thạc sĩ: Bảo đảm quyền tham gia Chính trị của phụ nữ
Luận văn thạc sĩ: Bảo đảm quyền tham gia Chính trị của phụ nữ Dịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Luận văn: Vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình - Gửi miễn phí q...
Luận văn: Vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình - Gửi miễn phí q...Luận văn: Vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình - Gửi miễn phí q...
Luận văn: Vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình - Gửi miễn phí q...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

Similar to Quan Điểm Và Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam (20)

Luận văn Luật: Bảo đảm quyền tham gia chính trị của phụ nữ, 2022
Luận văn Luật: Bảo đảm quyền tham gia chính trị của phụ nữ, 2022Luận văn Luật: Bảo đảm quyền tham gia chính trị của phụ nữ, 2022
Luận văn Luật: Bảo đảm quyền tham gia chính trị của phụ nữ, 2022
 
Khóa Luận Vai Trò Của Tòa Án Trong Việc Bảo Vệ Quyền Của Phụ Nữ
Khóa Luận Vai Trò Của Tòa Án Trong Việc Bảo Vệ Quyền Của Phụ NữKhóa Luận Vai Trò Của Tòa Án Trong Việc Bảo Vệ Quyền Của Phụ Nữ
Khóa Luận Vai Trò Của Tòa Án Trong Việc Bảo Vệ Quyền Của Phụ Nữ
 
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực hiện quyền của phụ nữ từ năm 1986 đến nă...
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực hiện quyền của phụ nữ từ năm 1986 đến nă...Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực hiện quyền của phụ nữ từ năm 1986 đến nă...
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực hiện quyền của phụ nữ từ năm 1986 đến nă...
 
Đề tài: Vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, HAY
Đề tài: Vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, HAYĐề tài: Vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, HAY
Đề tài: Vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, HAY
 
Luận văn: Vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình
Luận văn: Vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đìnhLuận văn: Vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình
Luận văn: Vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình
 
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền của phụ nữ, HAY
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền của phụ nữ, HAYLuận văn: Hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền của phụ nữ, HAY
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền của phụ nữ, HAY
 
Luận văn thạc sĩ: Bảo đảm quyền tham gia Chính trị của phụ nữ
Luận văn thạc sĩ: Bảo đảm quyền tham gia Chính trị của phụ nữ Luận văn thạc sĩ: Bảo đảm quyền tham gia Chính trị của phụ nữ
Luận văn thạc sĩ: Bảo đảm quyền tham gia Chính trị của phụ nữ
 
Luận văn: Bảo đảm quyền tham gia chính trị của phụ nữ, HAY
Luận văn: Bảo đảm quyền tham gia chính trị của phụ nữ, HAYLuận văn: Bảo đảm quyền tham gia chính trị của phụ nữ, HAY
Luận văn: Bảo đảm quyền tham gia chính trị của phụ nữ, HAY
 
Thực hiện pháp luật về bình đẳng giới từ thực tiễn Thành phố Đà Nẵng.doc
Thực hiện pháp luật về bình đẳng giới từ thực tiễn Thành phố Đà Nẵng.docThực hiện pháp luật về bình đẳng giới từ thực tiễn Thành phố Đà Nẵng.doc
Thực hiện pháp luật về bình đẳng giới từ thực tiễn Thành phố Đà Nẵng.doc
 
Luận văn thạc sĩ Luật học - Quyền của phụ nữ theo pháp luật Việt Nam.doc
Luận văn thạc sĩ Luật học - Quyền của phụ nữ theo pháp luật Việt Nam.docLuận văn thạc sĩ Luật học - Quyền của phụ nữ theo pháp luật Việt Nam.doc
Luận văn thạc sĩ Luật học - Quyền của phụ nữ theo pháp luật Việt Nam.doc
 
Luận văn: Đảm bảo quyền của phụ nữ ở nông thôn Việt Nam
Luận văn: Đảm bảo quyền của phụ nữ ở nông thôn Việt NamLuận văn: Đảm bảo quyền của phụ nữ ở nông thôn Việt Nam
Luận văn: Đảm bảo quyền của phụ nữ ở nông thôn Việt Nam
 
Luận án: Đảm bảo quyền của phụ nữ ở nông thôn Việt Nam, HAY
Luận án: Đảm bảo quyền của phụ nữ ở nông thôn Việt Nam, HAYLuận án: Đảm bảo quyền của phụ nữ ở nông thôn Việt Nam, HAY
Luận án: Đảm bảo quyền của phụ nữ ở nông thôn Việt Nam, HAY
 
Cơ Sở Lý Luận Luận Văn Thạc Sĩ Khoa Học Xã Hội Việt Nam.
Cơ Sở Lý Luận Luận Văn Thạc Sĩ Khoa Học Xã Hội Việt Nam.Cơ Sở Lý Luận Luận Văn Thạc Sĩ Khoa Học Xã Hội Việt Nam.
Cơ Sở Lý Luận Luận Văn Thạc Sĩ Khoa Học Xã Hội Việt Nam.
 
Vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình ở Vĩnh Phúc
Vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình ở Vĩnh PhúcVi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình ở Vĩnh Phúc
Vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình ở Vĩnh Phúc
 
Đề tài: Vi phạm pháp luật về phòng chống bạo lực gia đình, HAY
Đề tài: Vi phạm pháp luật về phòng chống bạo lực gia đình, HAYĐề tài: Vi phạm pháp luật về phòng chống bạo lực gia đình, HAY
Đề tài: Vi phạm pháp luật về phòng chống bạo lực gia đình, HAY
 
Luận văn: Vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, HAY
Luận văn: Vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, HAYLuận văn: Vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, HAY
Luận văn: Vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, HAY
 
Luận văn: Vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình - Gửi miễn phí q...
Luận văn: Vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình - Gửi miễn phí q...Luận văn: Vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình - Gửi miễn phí q...
Luận văn: Vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình - Gửi miễn phí q...
 
Đề tài: Quyền tham gia quản lý Nhà nước của phụ nữ, HOT
Đề tài: Quyền tham gia quản lý Nhà nước của phụ nữ, HOTĐề tài: Quyền tham gia quản lý Nhà nước của phụ nữ, HOT
Đề tài: Quyền tham gia quản lý Nhà nước của phụ nữ, HOT
 
Bảo đảm Quyền của người đồng tính tại thành phố Hải Phòng.docx
Bảo đảm Quyền của người đồng tính tại thành phố Hải Phòng.docxBảo đảm Quyền của người đồng tính tại thành phố Hải Phòng.docx
Bảo đảm Quyền của người đồng tính tại thành phố Hải Phòng.docx
 
Luận văn: Bảo vệ quyền lợi phụ nữ theo Luật Hôn nhân, HOT
Luận văn: Bảo vệ quyền lợi phụ nữ theo Luật Hôn nhân, HOTLuận văn: Bảo vệ quyền lợi phụ nữ theo Luật Hôn nhân, HOT
Luận văn: Bảo vệ quyền lợi phụ nữ theo Luật Hôn nhân, HOT
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877

Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877 (20)

Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...
 
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...
 
Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...
Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...
Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...
 
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...
 
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
 
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y Tế
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y TếHoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y Tế
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y Tế
 
Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...
Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...
Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...
 
Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!
Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!
Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!
 
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!
 
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.
 
Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!
Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!
Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!
 
Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!
Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!
Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!
 
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
 
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!
 
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...
 
Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!
Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!
Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!
 
Quy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện Taf
Quy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện TafQuy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện Taf
Quy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện Taf
 
Thực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng Cáo
Thực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng CáoThực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng Cáo
Thực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng Cáo
 
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
 
Hoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu Tư
Hoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu TưHoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu Tư
Hoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu Tư
 

Recently uploaded

30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxpowerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxAnAn97022
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxendkay31
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxnhungdt08102004
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNguyễn Đăng Quang
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdfTrnHoa46
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfVyTng986513
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (20)

30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxpowerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 

Quan Điểm Và Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bình Đẳng Giới Ở Việt Nam

  • 1. 1 KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐỀ TÀI : QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI Ở VIỆT NAM NHẬN VIẾT THUÊ KHOÁ LUẬN ZALO/TELEGRAM HỖ TRỢ : 0917.193.864 WEBSITE: VIETKHOALUAN.COM
  • 2. 2 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trải qua một thế kỷ, dân tộc ta chìm trong chế độ nô lệ. Nhân dân ta sống trong cuộc đời lầm than khổ nhục bởi áp bức, đè nén và bóc lột của thực dân và nữa phong kiến. Bác Hồ đã ra đi tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Con đường cách mạng mà Bác Hồ và nhân dân ta đã chọn dẫn đến Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và Đảng đã lãnh đạo nhân dân giành chính quyền lập nên Nhà nước dân chủ kiểu mới. Ngay những ngày đầu khó khăn ấy, bản luận cương chính trị của Đảng đã nêu khẩu hiệu: “Người cày có ruộng” cùng với “ nam nữ bình đẳng”. Người phụ nữ Việt Nam đổi đời toàn diện cả về vật chất và tinh thần. Vị thế xã hội và chính trị của người phụ nữ từng bước được nâng lên. Tài năng và nhân phẩm được tôn trọng và phát huy. Ở thời kỳ hòa bình, xây dựng và bảo vệ tổ quốc theo di huấn của Bác Hồ, Đảng ta khởi xướng chủ trương đổi mới toàn diện đất nước và hội nhập quốc tế. Phụ nữ Việt Nam đã đóng góp quan trọng vào lực lượng sản xuất nói chung và nền kinh tế tri thức nói riêng, góp phần làm tăng trưởng kinh tế và thay đổi diện mạo đất nước. Từ đó đến nay, Đảng ta luôn nhất quán quan điểm trong các văn kiện qua các kỳ Đại hội. Nghị quyết đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng chỉ rõ: Đối với phụ nữ, nâng cao trình độ mọi mặt và đời sống vật chất, tinh thần, thực hiện bình đẳng giới. Tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện tốt vai trò người công dân, người lao động, người mẹ, người thầy đầu tiên của con người. Bồi dưỡng, đào tạo để phụ nữ tham gia ngày càng nhiều vào các hoạt động xã hội, các cơ quan lãnh đạo và quản lý ở các cấp. Chăm sóc và bảo vệ sức khỏe bà mẹ, trẻ em. Bổ sung và hoàn chỉnh các chính sách về bảo hộ lao động, bảo hiểm xã hội, thai sản, chế độ đối với lao động nữ. Kiên quyết đấu tranh
  • 3. 3 chống các tệ nạn xã hội, các hành vi bạo lực, xâm hại và xúc phạm nhân phẩm phụ nữ [16, tr.120]. Nam nữ bình đẳng là một trong những quyền cơ bản của con người. Trong xã hội dân chủ, quyền này luôn đựơc coi trọng. Ở Việt Nam, chủ trương bình đẳng giới được đề ra ngay từ khi Đảng Cộng sản ra đời. Chính sách bình đẳng giới thật sự là sợi chỉ đỏ xuyên suốt của chính sách phụ vận qua các thời kỳ phát triển của nhà nước ta. Quyền bình đẳng giới đã được Hiến định ngay từ Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước (1946). Vị trí, vai trò của nữ giới được xã hội tôn trọng và pháp luật đã tạo điều kiện thuận lợi để nữ giới phát triển tài năng và tham gia hoạt động chính trị, hoạt động xã hội. Tuy nhiên, việc thực hiện và bảo vệ quyền bình đẳng giới bằng pháp luật bên cạnh những ưu điểm và tiến bộ còn bộc lộ những tồn tại cần được khắc phục nhằm xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng và văn minh. Nhà nước với vai trò quản lý và nắm quyền lực chung, Nhà nước có nhiệm vụ ban hành, bổ sung nhằm hoàn chỉnh và đồng bộ hóa hệ thống pháp luật bảo vệ quyền bình đẳng giới của phụ nữ đối với nam giới về kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội trong gia đình và ngoài cộng đồng. Hiện nay, Nhà nước đã ban hành nhiều qui định trong các văn bản qui phạm pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ, phòng chống hành vi xâm phạm đến quyền bình đẳng giới như Bộ luật Dân sự, Bộ luật Hình sự, Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Bảo vệ bà mẹ và trẻ em, Luật Bình đẳng giới, một số luật khác và các văn bản dưới luật có liên quan. Tuy vậy, việc hoàn thiện pháp luật đòi hỏi cần bổ sung một số điều luật mới đáp ứng yêu cầu điều chỉnh các quan hệ xã hội đã phát sinh như: vấn đề quấy rối tình dục, ngược đãi, ức hiếp vợ, lạm dụng tình dục trẻ em, bạo lực gia đình…Đồng thời rà soát lại các văn bản dưới luật về chống văn hóa phẩm đồi trụy, về việc sử dụng công nghệ cao nhằm trục lợi bất chính như games online đưa trẻ em vào thế giới ảo. Tình hình bạo lực gia đình gia tăng và rất nghiêm trọng, mỗi năm nạn nhân chết do bạo hành gia đình lên đến hàng trăm. Ngoài ra, còn có
  • 4. 4 cả những qui phạm pháp luật được ban hành với mục đích ban đầu nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của phụ nữ nhưng thực tế tác động của nó mang lại cho phụ nữ không ít bất công, thiệt thòi như chế độ học phí, chế độ nghỉ thai sản… Bên cạnh đó, một số chế tài pháp luật chưa nghiêm đối với những hành vi vi phạm quyền, nhân phẩm phụ nữ, quyền trẻ em… Do đó, việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bình đẳng giới là rất cần thiết. Vì vậy, nghiên cứu đề tài này là rất quan trọng, nhằm đưa ra những quan điểm, giải pháp về vấn đề này góp phần giúp các cơ quan, tổ chức cá nhân trong và ngoài nước quan tâm hơn đối với việc hoàn thiện pháp luật về bình đẳng giới, khắc phục những bất cập, tồn tại trong việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bình đẳng giới trong thời gian tới. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Bình đẳng giới là một trong những nội dung quan trọng nhất của mục tiêu tiến bộ, công bằng xã hội. Bởi đây không chỉ là vấn đề nhận được sự quan tâm chung của cộng đồng thế giới mà còn xuất phát từ đặc điểm Việt Nam là một nước Châu Á, những hậu quả nặng nề của “trọng nam khinh nữ” của chế độ phong kiến vẫn còn ảnh hưởng nhiều trong cuộc sống xã hội. Ngày nay, phụ nữ chiếm hơn một nữa dân số cả nước, đang ngày càng khẳng định vị trí, vai trò của mình trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Vì vậy, bình đẳng giới luôn là nguyên tắc Hiến định trong pháp luật nước ta: Điều 63 Hiến pháp 1992 qui định “công dân nữ và nam có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình", “nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ. Xúc phạm nhân phẩm phụ nữ…”. Vấn đề bình đẳng giới càng có ý nghĩa quan trọng khi nước ta đang bước vào giai đoạn mới của tiến trình đổi mới, khi chúng ta thực hiện mục tiêu mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế trên nhiều lĩnh vực. Vì vậy, việc nghiên cứu về bình đẳng giới tiếp tục là đề taì được nhiều nhà khoa học quan tâm, đi sâu nghiên cứu nhằm khẳng định địa vị của người phụ nữ và tạo cơ hội cho phụ nữ trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đóng góp cho sự nghiệp
  • 5. 5 đổi mới đất nước. Nhiều công trình, đề tài được công bố là cơ sở cho việc xây dựng và hoàn thiện pháp lụât, chính sách dành cho phụ nữ, vì sự tiến bộ của phụ nữ, phòng, chống phân biệt đối xử đối với phụ nữ… Một số công trình, đề tài nghiên cứu tiêu biểu là: Lê Ngọc Hùng: “Xã hội học về giới và phát triển”, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, năm 2000; TS Ngô Bá Thành: “Sự bình đẳng về cơ hội kinh tế của phụ nữ trong pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật ở Việt Nam”, xuất bản năm 2001; “Đưa vấn đề giới vào phát triển: thông qua sự bình đẳng giới về quyền, nguồn lực và tiếng nói”, Nxb Văn hóa - Thông tin, năm 2001; Lương Phan Cừ: “Bình đẳng giới- hiện trạng chính sách và pháp luật về bình đẳng giới”, xuất bản năm 2004; GS Lê Thi - Viện khoa học xã hội Việt Nam: “Gia đình, phụ nữ Việt Nam với dân số, văn hóa và sự phát triển bền vững”, Nxb Khoa học xã hội, năm 2004; TS Đỗ Thị Thạch: “Phát huy nguồn lực trí thức nữ Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Nxb Chính trị quốc gia, năm 2005; Lê Ngọc Văn (chủ biên) - Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Gia đình và giới: “Nghiên cứu gia đình lý thuyết nữ quyền, quan điểm giới”, Nxb Khoa học xã hội, năm 2006; Viện Khoa học xã hội Việt Nam,Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ, Trung tâm Nghiên cứu giới và gia đình: “Giới, việc làm và đời sống gia đình”, Nxb Khoa học xã hội, năm 2007; LS Trịnh Đình Thể: “Suy nghĩ về bình đẳng giới dưới góc nhìn pháp luật”, Nxb Tư pháp, năm 2007; Dương Thị Ngọc Lan: “Hoàn thiện pháp luật về quyền lao động nữ ở Việt Nam hiện nay”, Chuyên ngành Lý luận và lịch sử Nhà nước và pháp luật, mã số: 60.38.01, năm 2000; Chu Thị Thoa: “Bình đẳng giới trong gia đình ở nông thôn đồng bằng sông Hồng hiện nay”, chuyên ngành Chủ nghĩa cộng sản khoa học, mã số: 5.01.03, năm 2002; Đổ Thị Thơm: “Hoàn thiện pháp luật về quyền trẻ em ở Việt Nam hiện nay”, chuyên ngành Lý luận và lịch sử Nhà nước và pháp luật, mã số: 60.38.01, năm 2004; Đặng Thị Ánh Tuyết: “Bình đẳng giới ở nông thôn miền núi phía Bắc hiện nay”, Chuyên ngành Xã hội học, mã số: 60.31.30; Hoàng Mai Hương: “Hoàn thiện pháp luật về quyền
  • 6. 6 chính trị của phụ nữ ở Việt Nam hiện nay”, Chuyên ngành Lý luận và lịch sử Nhà nước và pháp luật, mã số: 60.38.01; Cao Quốc Việt: “Hoàn thiện pháp luật phòng chống mua, bán phụ nữ, trẻ em ở Việt Nam hiện nay”, Chuyên ngành Lý luận và lịch sử Nhà nước và pháp luật, mã số: 60.38.01, năm 2006; Nguyễn Thanh Sơn: “Hoàn thiện pháp luật về phòng chống tệ nạn xã hội ở Việt Nam hiện nay”, chuyên ngành Lý luận và lịch sử Nhà nước và pháp luật, mã số: 60.38.01, năm 2006; và nhiều bài viết đăng trên các tạp chí có liên quan. Những công trình nêu trên chỉ mới đề cập một số khía cạnh này hoặc khía cạnh khác liên quan đến bình đẳng giới và pháp luật về quyền của phụ nữ. Trong đó đáng chú ý là công trình của Lương Phan Cừ mới chỉ nghiên cứu chủ yếu về hiện trạng chính sách và pháp luật về bình đẳng giới. Công trình này xuất bản năm 2004, đến nay thực trạng pháp luật về bình đẳng giới đã có nhiều thay đổi. Vì vậy, đây là công trình mới nghiên cứu có hệ thống về thực trạng và đề xuất phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về bình đẳng giới. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 3.1. Mục đích Mục đích nghiên cứu của luận văn là đề xuất quan điểm và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ - Nghiên cứu cơ sở lý luận về bình đẳng giới, hoàn thiện pháp luật về bình đẳng giới. - Phân tích thực trạng pháp luật Việt Nam về bình đẳng giới; vì sự tiến bộ của phụ nữ; nhận xét, đánh giá những thành tựu; những hạn chế trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bình đẳng giới và nguyên nhân của những hạn chế đó. - Đề xuất các quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật về bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay.
  • 7. 7 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn nghiên cứu cơ sở lý luận hoàn thiện pháp luật về bình đẳng giới, một số khái niệm về bình đẳng giới, pháp luật về bình đẳng giới, nghiên cứu thực trạng của quyền bình đẳng nam, nữ trong pháp luật Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử và quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật về bình đẳng giới. 4.2. Phạm vi nghiên cứu đề tài Luận văn tập trung nghiên cứu pháp luật về bình đẳng giới ở Việt Nam qua các giai đoạn và thực trạng pháp luật về bình đẳng giới hiện nay nhằm đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật về bình đẳng giới theo tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn dựa trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, các Công ứơc quốc tế Việt Nam tham gia, ký kết về quyền bình đẳng nam, nữ; bình đẳng giới; vì sự tiến bộ của phụ nữ. 5.2. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng của triết học Mác-Lênin; Đồng thời sử dụng các phương pháp cụ thể như: thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp; Phương pháp kết hợp lý luận và thực tiễn. 6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn Từ trước đến nay đã có một số tác giả bước bước đầu đã nghiên cứu về pháp luật về bình đẳng giới, song những tác giả này chỉ mới đề cập một số khía cạnh này hoặc khía cạnh khác. Vì vậy, đây là công trình mới nghiên cứu
  • 8. 8 có hệ thống lý luận thực trạng và đề xuất phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về bình đẳng giới. Những đóng góp của luận văn thể hiện tập trung ở các nội dung sau đây: - Trên cơ sở phân tích, tổng hợp các quan điểm, tác giả đưa ra quan điểm của mình về khái niệm giới, bình đẳng giới, khái niệm pháp luật về bình đẳng giới, tiêu chí hoàn thiện pháp luật về bình đẳng giới. - Phân tích, nhận xét, đánh gía khái quát thực trạng pháp lụât về bình đẳng giới. - Đề xuất quan điểm, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay. 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Luận văn hoàn thành có thể làm tài liệu tham khảo, vận dụng trong quá trình xây dựng và hòan thiện pháp luật về bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay. Ngoài ra, những kết quả của luận văn có thể được vận dụng làm tài liệu nghiên cứu về bình đẳng giới và xây dựng pháp luật về bình đẳng giới trong giai đoạn hội nhập quốc tế. Đồng thời luận văn góp phần hệ thống hóa pháp lụât về bình đẳng giới. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn được kết cấu làm 3 chương, 7 tiết.
  • 9. 9 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI 1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, NỘI DUNG VÀ VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI 1.1.1. Khái niệm pháp luật về bình đẳng giới Bất bình đẳng giới, có nghĩa là muốn nói đến địa vị thấp kém của phụ nữ so với nam giới đã xuất hiện từ lâu trong lịch sử xã hội loài người. Do đó, cuộc đấu tranh của phụ nữ giành quyền bình đẳng đối với nam giới, phong trào vận động ủng hộ phụ nữ trong cuộc đấu tranh đó đã xuất hiện và phát triển cũng đã rất lâu. Thực tiễn đó làm nảy sinh các lý thuyết nữ quyền và lý thuyết giới. Các lý thuyết đó đã phát triển qua nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau. Ở Việt Nam, việc nghiên cứu lý thuyết nữ quyền, lý thuyết giới chỉ mới xuất hiện những năm gần đây. Khoa học về phụ nữ và giới chính là sản phẩm của phong trào đấu tranh của phụ nữ. Nó ra đời từ chính phong trào, thừa kế những di sản văn hoá, tinh thần tiến bộ của loài người và đến lượt mình nó lại tạo cơ sở lý lụân, làm phong phú thêm cho chính phong trào phụ nữ cũng như cho chính kho tàng kiến thức của nhân loại. Nó đã gây được ảnh hưởng lớn, thậm chí làm đảo lộn nhiều nhận thức và quan niệm của một số ngành khoa học. Ngành khoa học nghiên cứu về phụ nữ mới được hình thành từ những năm 80. Mặc dù là một ngành khoa học còn rất non trẻ nhưng nó đã trưởng thành nhanh chống, đạt được nhiếu thành tựu trong lĩnh vực nghiên cứu phụ nữ học và triển khai các đề tài nghiên cứu ứng dụng về người phụ nữ ở Việt Nam cũng như vấn đề về bình đẳng nam nữ, góp phần quan trọng vào công việc quản lý xã hội trong thời kỳ đổi mới đất nước ta. Thời gian gần đây, vấn đề giới đã thu hút được sự quan tâm của nhiều người thuộc các cấp, các ngành và các lĩnh vực khác nhau. Nhu cầu tìm hiểu, nghiên cứu lý thuyết về giới cũng như việc vận dụng lý thuyết giới vào thực tiễn đang tăng lên không
  • 10. 10 chỉ ở những nơi triển khai các dự án về giới, xây dựng luận chứng, lập kế hoạch và soạn thảo chính sách kinh tế - xã hội liên quan tới giới mà còn cả những cơ sở nghiên cứu khoa học và đào tạo về giới trên toàn quốc. Khái niệm giới, tuy mới được nói tới từ những năm 80 của thế kỷ XX, nhưng bản chất vấn đề giới và nội dung các quan điểm về giới thực ra đã được nói đến từ lâu trong lịch sử thế giới mà chủ yếu liên quan tới vấn đề phụ nữ và sự bình đẳng nam - nữ. Mối quan hệ giữa nam giới và phụ nữ, sự giống nhau và khác nhau giữa hai giới, sự bình đẳng giữa hai giới… là vấn đề có từ xưa, từ khi loài người bắt đầu xuất hiện trên trái đất. Tuy nhiên, cho đến ngày nay đó vẫn còn là vấn đề thời sự đang được bàn luận sôi nổi và nghiêm túc. 1.1.1.1. Khái niệm giới Theo quan niệm của nhiều nhà khoa học, Giới và giới tính là hai khái niệm cặp đôi, liên quan chặt chẽ nhau. Trong đó tiếng Anh giới là GENDER và giới tính là SEX. Do đó, để hiểu khái niệm giới, trước hết cần hiểu khái niệm giới tính. Giới tính là một khaí niệm khoa học ra đời từ môn sinh vật học chỉ sự khác biệt giữa nam và nữ về mặt sinh học. sự khác biệt này chủ yếu liên quan đến quá trình tái sản xuất con người, di truyền nòi giống. Con người sinh ra đã có những đặc điểm về giới tính. Ví dụ: chỉ phụ nữ mới có khả năng mang thai và sinh con, hoặc chỉ nam giới mới có khả năng sản xuất tinh trùng cho quá trình thụ thai. Giới là khái niệm ra đời từ môn xã hội học, chỉ sự khác biệt giữa nam và nữ về mặt xã hội. Nói về giới là nói về vai trò, trách nhiệm và quyền lợi mà xã hội quan niệm hay qui định cho nam giới và phụ nữ. Vai trò, trách nhiệm và quyền lợi đó thể hiện trước hết ở sự phân công lao động, phân chia các nguồn của cải vật chất, tinh thần, tức là cách đáp ứng nhu cầu của nam và nữ trong xã hội. Ví dụ: Theo quan niệm và thói quen đã có từ lâu đời ở nhiều nước, nhiều khu vực thì phụ nữ thì phải làm hầu hết các công việc trong nhà như chăm sóc con, nấu ăn, phục vụ chồng… Còn nam giới thì có trách nhiệm lao động sản
  • 11. 11 xuất để nuôi gia đình và làm các công việc xã hội. Khi sinh ra, con người chưa có trong bản thân sự phân biệt giới mà họ dần dần tiếp thu và chấp nhận từ nề nếp của gia đình, qui ước của xã hội và chuẩn mực của nền văn hoá. Như vậy, khi nói giới tính là nói đặc điểm của con người do tự nhiên qui định. Nó ổn định, thậm chí, hầu như bất biến đối với cả nam và nữ, xét cả về mặt không gian và thời gian. Chẳng hạn phụ nữ trong mọi thời đại, mọi chế độ chính trị, mọi nền văn hoá đều giống nhau ở khả năng mang thai và sinh con; nam giới ở mọi nơi, mọi thời đại đều giống nhau ở chức năng sinh sản là làm cho phụ nữ mang thai. Còn nói đến giới là nói đến địa vị xã hội, thái độ và hành vi ứng xử giữa nam giới và phụ nữ do hoàn cảnh, điều kiện xã hội, văn hoá… tạo nên. Địa vị thái độ và hành vi đó không bất biến mà thay đổi do sự thay đổi của hoàn cảnh, điều kiện xã hội, văn hoá. Ví dụ: so với cách đây 50 năm về trước, đặc điểm về giới tính của phụ nữ nước ta hiện nay không có sự thay đổi, thế nhưng đặc điểm về giới-tức là địa vị xã hội, tương quan về mặt xã hội so với nam giới-đã có sự thay đổi căn bản, bởi vì kể từ cách mạng tháng tám 1945, hoàn cảnh, điều kiện xã hội, văn hoá nước ta đã thay đổi toàn diện và sâu sắc. Từ những phân tích trên đây ta có khái niệm: giới là thuật ngữ dùng để chỉ vai trò và mối quan hệ xã hội giữa nam giới và nữ giới, mối quan hệ này được quyết định và có thể thay đổi tuỳ thuộc vào bối cảnh xã hội và văn hoá. 1.1.1.2. Vai trò giới Vai trò giới là những hành vi ứng xử được dạy dỗ về mặt xã hội mà xã hội mong đợi ở nữ giới và nam giới trong xã hội hay một nền văn hoá cụ thể. Đó là mối quan hệ giữa phụ nữ và nam giới: ai làm gì, ai là người ra quyết định, tiếp cận nguồn lực và các lợi ích. Vai trò giới được chia làm ba nhóm cơ bản: vai trò sản xuất; vai trò tái sản xuất và vai trò cộng đồng. Vai trò sản xuất, thực hiện những hoạt động bao gồm sản xuất hàng hoá và dịch vụ để tiêu dùng và trao đổi thương mại như làm ruộng, đánh cá, thuê mướng hoặc tự sử dụng lao động. những hoạt động này được trả công và
  • 12. 12 tạo ra thu nhập, cả nam và nữ có thể tham gia vào các hoạt động sản xuất, nhưng nhìn chung các chức năng và trách nhiệm của họ cũng khác nhau do sự phân công lao động theo giới truyền thống. Những việc do phụ nữ làm thường được đánh giá thấp hơn nam giới. Vai trò tái sản xuất, là thực hiện các hoạt động tái sản xuất ra con người và sức lao động bao gồm sinh con, các công việc chăm sóc gia đình như nuôi dạy và chăm sóc trẻ con, chuẩn bị thức ăn, giữ gìn nhà cửa, dọn dẹp, giặt giũ, chăm sóc sức khoẻ gia đình… những công việc này được gọi là công việc tái sản xuất là thiết yếu đối với đời sống con người, đảm bảo sự bền vững của dân số và lực lượng lao động. Công việc này tiêu tốn nhiều thời gian nhưng không tạo ra thu nhập, vì vậy ít khi được coi là công việc thật sự, được làm miễn phí, không được các nhà kinh tế đưa vào các con tính. Đại đa số, công việc tái sản xuất là trách nhiệm của phụ nữ và trẻ em gái. Vai trò cộng đồng, thực hiện những hoạt động bao gồm một tổ hợp các sự kiện xã hội và dịch vụ như hoà giải mâu thuẩn, các nghi lễ (đám tang, đám cuới, liên hoan, cúng đình …), các hoạt động thúc đẩy cộng đồng, các hoạt động chính trị ở địa phương… Công việc cộng đồng có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển văn hoá tinh thần của cộng đồng. Có lúc nó đòi hỏi sự tham gia tình nguyện, tiêu tốn thời gian và không nhìn thấy ngay được. Có lúc nó lại được trả công và có thể nhìn thấy được như làm trưởng ban của một ban nào đó. Công việc này thường do nam giới nắm giữ. Ở Việt Nam, phụ nữ chiếm 50,8% dân số và chiếm khoản 50,6% lực lượng lao động xã hội [1]. Trong suốt chiều dài lịch sử, phụ nữ Việt Nam có vai trò và những đóng góp to lớn vào công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước, trong công cuộc kháng chiến chống ngoại xâm cũng như trong công cuộc phát triển của đất nước, đặc biệt từ sau quá trình đổi mới. Ngày nay phụ nữ tham gia vào các hoạt động sản xuất, trong các ngành như nông nghiệp, công nghiệp nhẹ (may mặt, giầy dép và chế biến thuỷ sản…), giáo dục, y tế, thương mại… và đã đạt
  • 13. 13 được những thành tựu to lớn trong tất cả các lĩnh vực, đóng góp đáng kể vào tổng sản phẩm quốc dân (GDP) của Việt Nam. Bên cạnh đó, vai trò quan trọng của phụ nữ đã được ghi nhận trong gia đình, công việc và ngoài xã hội. Như trong Nghị quyết 04-NQ/TW ngày 12/7/1993 của Bộ Chính trị về đổi mới và tăng cường công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới, đã xác định: “ Phụ nữ Việt Nam có truyền thống vẻ vang, có những tiềm năng to lớn, là một động lực quan trọng của công cuộc đổi mới và phát triển, kinh tế, xã hội. Phụ nữ vừa là người lao động, người công dân, vừa là người mẹ, người thầy đầu tiên của con người. Mục tiêu giải phóng phụ nữ hiện nay là thiết thực cải thiện đời sống vật chất tinh thần của chị em, nâng cao vị trí xã hội của phụ nữ, thực hiện tốt nam nữ bình đẳng… Sự nghiệp giải phóng phụ nữ là công tác của phụ nữ, là trách nhiệm của Đảng, nhà nước, các đoàn thể nhân dân, của toàn xã hội và của từng gia đình”. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của những định kiến từ chế độ phong kiến cùng với phong tục tập quán lạc hậu lâu đời còn tồn tại, cũng như nhiều quốc gia khác, ở Việt Nam vẫn còn tồn taị những bất bình giới, phụ nữ và trẻ em có vị thế thấp hơn nam giới; ở nhiều nơi phụ nữ và trẻ em phải đối mặt với nhiều vấn đề bất bình đẳng giới, phân biệt đối xử liên quan đến giới và bạo hành về giới…Trên thực tế, phụ nữ Việt Nam vẫn phải đối mặt với rất nhiều khó khăn sau: Về mặt xã hội, quan niệm “trọng nam khinh nữ” tồn tại ở nhiều nơi trên cả nước, đặc biệt là vùng nông thôn, tác động mạnh đến chất lượng cuộc sống bởi tình trạng đói nghèo và phát triển kinh tế chậm ở nông thôn. Đây là những định kiến về giới và sự phân biệt đối xử đối với phụ nữ và phần nào dẫn đến tình trạng thiếu cơ hội cho phụ nữ, địa vị thấp kém của phụ nữ và thậm chí cả bạo lực đối với phụ nữ. Đây là sự thách thức trong cuộc chiến của toàn xã hội để cải thiện mối quan hệ về giới, đảm bảo công bằng giới và thực hiện việc trao quyền cho phụ nữ. Trong lĩnh vực giáo dục, theo Luật Giáo dục Việt Nam, phụ nữ và trẻ em gái được tiếp cận công bằng với các cơ hội học tập và thực tế là hiện nay
  • 14. 14 số lượng trẻ em gái theo học bậc tiểu học, trung học cơ sở đã bằng và gần bằng số trẻ em trai. Tuy nhiên, vẫn còn có sự cách biệt về sồ lượng học sinh nữ và nam ở bậc học đại học. Bậc học càng cao, càng có ít học sinh nữ. Trẻ em gái và phụ nữ thường có ít thời gian cho việc học hơn là trẻ em trai và nam giới, vì họ phải dành nhiều thời gian cho việc nội trợ và một phần vì các quan niệm truyền thống, họ có ít cơ hội đi học hơn các anh em trai của mình. Đặc biệt, nếu gia đình phải đối mặt với những khó khăn về tài chính, trẻ em gái và phụ nữ phải bỏ học trước để kiếm tiền hổ trợ gia đình. Trong các hoạt động kinh tế, hiện nay phụ nữ Việt Nam phải đối mặt với những thách thức mới như khả năng cạnh tranh thấp kém của lao động nữ, ít sơ hội việc làm hơn (đặc biệt là những công việc có thu nhập cao), nguy cơ mất việc cao hơn so với nam giới. Trong lĩnh vực gia đình, nam giới thường đưa ra quyết định cuối cùng về sản xuất, đầu tư, kinh doanh, phân bổ nguồn lực gia đình, hướng phát triển của gia đình và định hướng cho con cái…Vai trò của phụ nữ trong việc đưa ra quyết định là rất thấp, đặc biệt là ở nông thôn, vùng sâu vùng xa. Phụ nữ, trong khi vừa phải cáng đáng việc ở cơ quan vừa phải tiếp tục gánh vác công việc nội trợ nặng nhọc mà không nhận được đồng thù lao nào. Phụ nữ nông thôn Việt Nam làm việc trung bình 12,5 đến 14 giờ/ngày [37]. Nói cách khác, phụ nữ phải dành nhiều thời gian làm việc nhà hơn nam giới. Họ có xu hướng gánh vác cả ba vai trò cùng một lúc: công việc gia đình (nội trợ và chăm sóc con cái) công việc sản xuất và công việc ngoài xã hội. Đây là sự phân công lao động thiếu công bằng điển hình đang tồn tại ở Việt Nam. Kết quả họ có rất ít thời gian dành cho nghỉ ngơi, học tập và đào tạo, các hoạt động xã hội, văn hoá và vui chơi giải trí. Vì vậy, như phân tích trên vai trò giới là những hành vi ứng xử mà xã hội mong đợi ở phụ nữ và nam giới, vai trò giới đa dạng giữa cộng đồng và các nơi trên thế giới, các vai trò giới thay đổi theo thời gian tương ứng với các điều kiện, hoàn cảnh thay đổi của cộng đồng và các vai trò giới cũng thay đổi
  • 15. 15 tương ứng với quan niệm luôn thay đổi với việc chấp nhận hành vi ứng xử. Các vai trò và đặc điểm giới có ảnh hưởng đến mối quan hệ quyền lực giữa phụ nữ và nam giới ở mọi cấp độ, có thể dẫn đến tình trạng bất bình đẳng về cơ hội và hưởng thụ thành quả đối với một số nhóm người. Khi phân tích mối quan hệ giữa vai trò giới với tình trạng bất bình đẳng giới và công cuộc phát triển thấy rằng: vai trò giới và những mong đợi xã hội đã ăn sâu vào tiềm thức và trong nhiều trường hợp, còn được gia đình, nhà trường và các tổ chức tôn giáo, đoàn thể xã hội và các cơ quan nhà nước khắc sâu thêm. Trong khi đó vai trò giới và những mong đợi về mặt xã hội có thể mang lại những cơ hội, địa vị và chất luợng cuộc sống khác nhau cho trẻ em trai và trẻ em gái, phụ nữ và nam giới. Nhìn chung, bất bình đẳng giới làm cho trẻ em gái và phụ nữ có địa vị bất bình đẳng, phụ thuộc hoặc yếu thế so với trẻ em trai và nam giới, cản trở họ được hưởng thụ đầy đủ các quyền con người cơ bản của mình và bất bình đẳng giới cũng là nguyên nhân của nạn đói nghèo, cản trở công cuộc giảm nghèo cũng như quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế-xã hội bền vững. 1.1.1.3. Bình đẳng giới Bình đẳng giới là sự thừa nhận và coi trọng như nhau các đặc điểm giống và khác nhau giữa nam giới và nữ giới, biểu đạt sự đối xử như nhau của xã hội đối với nam giới và nữ giới, là trạng thái xã hội trong đó nam giới và nữ giới có vị trí như nhau, có các cơ hội như nhau để phát triển đầy đủ tiềm năng của mình, sử dụng nó cho sự phát triển của xã hội và được hưởng lợi từ kết quả của sự phát triển đó. Thực chất bình đẳng giới chính là nữ giới và nam giới cùng có điều kiện bình đẳng để phát huy hết khả năng và thực hiện các mong muốn của mình; có cơ hội bình đẳng để tham gia, đóng góp và thụ hưởng từ các nguồn lực của xã hội và quá trình phát triển; được hưởng tự do và chất lượng cuộc sống bình đẳng; được hưởng thành quả bình đẳng trong mọi lĩnh vực của xã hội.
  • 16. 16 Bình đẳng giới không chỉ đơn giản là nam giới và phụ nữ hay em trai và em gái có số lượng tham gia như nhau trong mọi hoạt động mà bình đẳng giới có nghĩa là nam giới và nữ giới được hưởng các vị thế xã hội ngang nhau. Bình đẳng giới không có nghĩa là nam giới và nữ giới là giống nhau mà có nghĩa là sự tương đồng và khác biệt của họ được thừa nhận và được coi trọng như nhau; có nghĩa là nam giới và nữ giới được tạo những điều kiện ngang nhau để phát huy đầy đủ các tiềm năng của bản thân và có cơ hội để tham gia đóng góp và hưởng lợi như nhau từ các hoạt động phát triển của cộng đồng trên mọi mặt kinh tế, chính trị, văn hoá và xã hội; điều quan trọng, bình đẳng giới có nghĩa là nam giới và nữ giới được thụ hưởng các thành quả một cách bình đẳng. Cần phân tích rõ vị trí, vai trò và tác dụng của bình đẳng giới trong xây dựng con người và phát triển kinh tế-xã hội, để ngày càng quan tâm hơn, nhận thức rõ hơn những nội dung về bình đẳng giới, mọi người dù là nam giới hay phụ nữ, với tư cách cá nhân đều có quyền bình đẳng và cần được tạo cơ hội để phát huy tiềm năng sẳn có của mình, có quyền thụ hưởng bình đẳng trong quá trình phát triển chung như: - Tiếp cận và sử dụng các nguồn lực (tài chính, đất đai, thời gian, cơ hội…) - Tham gia quyết định những vấn đề liên quan đến việc sử dụng nguồn lực - Tham gia vào các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội… - Thụ hưởng những thành tựu của sự phát triển. Vấn đề đặt ra là gỡ bỏ những rào cản về pháp lý, chính trị, kinh tế, văn hoá và xã hội, khiến cho một trong hai giới (nam hoặc nữ) không được thực hiện quyền, hưởng lợi ích nói trên, trong đó các định kiến truyền thống về vai trò, trách nhiệm và nghĩa vụ của nam giới và phụ nữ là nguyên nhân cội rễ dẫn đến những rào cản này [59]. 1.1.1.4. Khái niệm pháp luật về bình đẳng giới Bình đẳng nói chung là nhu cầu của mọi thành viên trong đời sồng xã hội. Song nhu cầu không phải là một “cái” luôn luôn được đáp ứng và con
  • 17. 17 người có thể đạt được mà chỉ có những nhu cầu nào được nâng lên thành “quyền” thì con người mới có thể yêu cầu đáp ứng và đạt được điều mình mong muốn. Công cụ, phương tiện để biến nhu cầu thành quyền chính là pháp luật do nhà nước ban hành và đảm bảo thực hiện theo một trình tự luật định nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội nói chung và quan hệ bình đẳng giới nói riêng. Nói cách khác, quyền bình đẳng của nam giới và nữ giới sẽ được hiện thực hoá khi chúng được thể chế hoá trong pháp luật và bảo đảm cho các qui định của pháp luật về quyền bình đẳng của nam giới và nữ giới được thực hiện trong thực tế. Bình đẳng giới là một dạng của bình đẳng xã hội nói chung, nó cũng cần có sự điều chỉnh của pháp luật, nhằm thiết lập quyền bình đẳng giữa nam giới và phụ nữ, cũng như điều chỉnh những những lĩnh vực, những nơi mà phụ nữ đang thiệt thòi, đang có vị trí thấp kém so với nam giới do nhiều nguyên nhân khác nhau bắt nguồn từ đời sống xã hội, nhằm đáp ứng yêu cầu của công cuộc đấu tranh cho bình đẳng giới ở Việt Nam và góp phần thúc đẩy công cuộc đầu tranh cho bình đẳng giới trên thế giới. Phụ nữ với tư cách là công dân cũng có đầy đủ những quyền như công dân. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân lịch sử, xã hội và văn hoá, trên thực tế, những định kiến coi thường phụ nữ vẫn còn ảnh hưởng nặng nề trong đời sống xã hội. Hiến pháp và pháp luật ghi nhận quyền bình đẳng nam nữ và phụ nữ cũng có những quyền như nam giới, nhưng do những định kiến của xã hội nên phụ nữ còn gặp nhiều trở ngại, khó khăn khi tham gia vào các hoạt động chính trị, hoạt động quản lý nhà nước và hoạt động xã hội. Chính vì vậy, ngoài những qui định chung về quyền con người, quyền công dân, pháp luật còn có quy định riêng dành cho phụ nữ, đảm bảo cho phụ nữ có đủ điều kiện phát triển bắt kịp nam giới (xuất phát điểm của phụ nữ rất thấp so với nam giới) Như vậy, phụ nữ hoàn toàn có quyền tự do thực hiện quyền bình đẳng của mình cùng với nam giới. Nhưng việc thực hiện quyền đó chỉ có hiệu lực và hiệu quả khi nó được đặt dưới sự bảo vệ của pháp luật và phù hợp với pháp luật. Do định kiến coi thường phụ nữ còn nặng nề nên để bảo đảm cho phụ nữ
  • 18. 18 thực hiện được quyền bình đẳng của mình trong thực tế, Nhà nước phải ban hành nhiều qui định trong pháp luật, trong đó có cả những chế tài nghiêm khắc xử lý những hành vi vi phạm quyền bình đẳng của phụ nữ. Như vậy, pháp luật không chỉ ghi nhận, cụ thể hoá quyền bình đẳng của phụ nữ mà còn qui định những thiết chế bảo đảm thực hiện những quyền đó trên thực tế. Từ những phân tích trên, có thể khái niệm pháp luật về bình đẳng giới như sau: Pháp luật về bình đẳng giới là hệ thống các qui phạm pháp luật do nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội về quyền bình đẳng của phụ nữ và nam giới trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. 1.1.2. Đặc điểm của pháp luật về bình đẳng giới Bình đẳng giới hiện nay đang trở thành một trong những vấn đề toàn cầu và được mọi cộng đồng quốc gia trên thế giới quan tâm. Thực tiễn cho thấy, phụ nữ được bình đẳng cùng với nam giới tham gia vào mọi hoạt động của đời sống, đồng thời cùng được thừa hưởng mọi thành quả của tiến bộ xã hội, đó chính là biểu hiện sinh động năng lực làm chủ xã hội của một lực lượng lao động quan trọng, chiếm hơn nữa nhân loại toàn cầu. Chỉ trên cơ sở bình đẳng mới đảm bảo cho mục tiêu tiến bộ và công bằng xã hội được thực hiện. Trên thực tế, thực hiện mục tiêu bình đẳng giới là một nhiệm vụ khó khăn và phức tạp không chỉ riêng một lĩnh vực nào mà nó đi liền với nhiều bức xúc của xã hội. Xem xét vấn đề bình đẳng giới giữa nam và nữ trong mối tương quan với các vấn đề chính trị-xã hội khác, chúng ta có thể rút ra các đặc điểm của pháp luật về bình đẳng giới như sau: - Thứ nhất, pháp luật bình đẳng giới bao gồm các qui định của pháp luật về quyền công dân nói chung và các qui định trực tiếp quyền bình đẳng của phụ nữ và nam giới. Ở Việt Nam, quyền bình đẳng của phụ nữ được pháp luật ghi nhận và bảo vệ với tư cách là quyền công dân, phụ nữ cũng là công dân và phụ nữ có
  • 19. 19 những quyền của một công dân, được thừa nhận và tham gia vào mọi hoạt động trong đời sống cộng đồng xã hội. Bên cạnh đó, để khẳng định quyền bình đẳng của phụ nữ, Hiến pháp và những văn bản qui phạm pháp luật liên quan đến quyền bình đẳng của phụ nữ còn có những qui định riêng về quyền bình đẳng của phụ nữ. Hiến pháp 1959 qui định: Phụ nữ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà có quyền bình đẳng với nam giới về các mặt sinh hoạt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, gia đình. Cùng làm việc như nhau, phụ nữ được hưởng lương ngang với nam giới. Nhà nước bảo đảm cho phụ nữ công nhân và phụ nữ viên chức được nghỉ trước và sau khi đẻ mà vẫn hưởng nguyên lương [39]. Những qui định như vậy, đã hình thành nên một hệ thống các qui phạm pháp luật qui định trực tiếp quyền bình đẳng nói chung và các quyền khác của phụ nữ. - Thứ hai, pháp luật về quyền bình đẳng của phụ nữ và nam giới là tổng hợp nhiều qui phạm pháp luật thuộc các lĩnh vực khác nhau. Nhiệm vụ của pháp luật là xác lập cơ sở pháp lý và tạo cơ sở để bảo vệ quyền bình đẳng của phụ nữ với nam giới. Vịêc xác lập và bảo vệ quyền bình đẳng của phụ nữ không chỉ được qui định tại Hiến pháp mà còn được qui định trong nhiều văn bản qui phạm pháp luật khác nhau như: Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội, Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, Bộ luật Dân sự, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Khiếu nại tố cáo, Bộ luật Lao động, Luật Bình đẳng giới…Đặc biệt, trong những văn bản pháp luật này đều có những qui định riêng về quyền của phụ nữ nhằm mục đích bảo vệ và bảo đảm việc thực hiện quyền bình đẳng của phụ nữ. Ngoài hệ thống quyền con người thống nhất, việc thực hiện quyền này là cơ sở là tiền đề cho việc bảo đảm thực hiện các quyền khác. Chính vì vậy, việc bảo đảm thực hiện quyền bình đẳng của phụ nữ không chỉ căn cứ vào những qui phạm pháp luật riêng qui định về quyền bình đẳng của phụ nữ, mà còn liên quan đến nhiều qui phạm pháp luật thuộc các lĩnh vực khác nhau. Nói cách khác, pháp luật về bình đẳng giới là tổng hợp của nhiều
  • 20. 20 qui phạm pháp luật thuộc các lĩnh vực khác nhau nhằm bảo vệ và bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ với nam giới được thực hiện có hiệu quả trên thực tế. - Thứ ba, pháp luật về bình đẳng giới là sự kết hợp hài hoà giữa các qui phạm pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia. Thúc đẫy và bảo vệ quyền bình đẳng của phụ nữ với nam giới không chỉ là mối quan tâm và trách nhiệm của riêng một quốc gia nào, mà nó đã trở thành nghĩa vụ và trách nhiệm chung của cả cộng đồng quốc tế. Cộng đồng quốc tế đã thông qua nhiều văn kiện pháp lý qui định về quyền bình đẳng của phụ nữ. Những văn kiện đó thể hiện tư tưởng tiến bộ của nhân loại về giải phóng phụ nữ, bảo đảm sự bình đẳng và nâng cao địa vị của người phụ nữ. Trong các văn kiện pháp lý quốc tế qui định trực tiếp hoặc gián tiếp về quyền bình đẳng của phụ nữ, Việt Nam đã gia nhập và phê chuẩn hai công ước quan trọng nhất có liên quan là: Tuyên ngôn thế giới về quyền con người (UDHR) năm 1948 và Công ước Liên hợp quốc về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW) năm 1979. Trong quá trình xây dựng pháp luật, Nhà nước luôn xem xét khả năng thể chế hoá những qui định tiến bộ của pháp luật quốc tế vào hệ thống pháp luật quốc gia. Đây cũng là một phần trong trách nhiệm lập pháp của quốc gia khi gia nhập và phê chuẩn các công ước này. Bên cạnh đó, Khi xây dựng pháp luật, chúng ta cũng dựa trên truyền thống văn hoá và hoàn cảnh đặc thù của Việt Nam để điều chỉnh và thông qua những qui phạm pháp luật phù hợp. Chính vì thế, pháp luật Việt Nam thể hiện tư tưởng tiến bộ, có tính thuyết phục, phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam và mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Các qui phạm pháp luật về bình đẳng giới trong hệ thống pháp luật Việt Nam thể hiện rõ tư tưởng trên, trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến nguyên tắc bình đẳng không phân biệt đối xử. 1.1.3. Nội dung của pháp luật về bình đẳng giới Bình đẳng giới là một trong những nội dung quan trọng nhất của mục tiêu tiến bộ, công bằng xã hội. Bởi đây không chỉ là vấn đề nhận đươc sự
  • 21. 21 quan tâm chung của cộng đồng thế giới mà còn xuất phát từ đặc điểm Việt Nam là một nước châu Á, những hậu quả nặng nề của tư tưởng “trọng nam khinh nữ” của chế độ phong kiến vẫn còn ảnh hưởng nhiều trong đời sống xã hội. Ngày nay, phụ nữ chiếm phân nữa dân số cả nước, đang ngày càng khẳng định vị trí và vai trò của mình trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước. Vì vậy, bình đẳng giới ở Việt nam hiện nay đã trở thành một chế định quan trọng và là nguyên tắc Hiến định trong hệ thống pháp luật nước ta, là cơ sở để thể chế hoá trong các văn bản pháp luật, từ cao nhất là Hiến pháp, đến các luật chuyên ngành. Trong các bản Hiến pháp nước ta qua các thời kỳ lịch sử, nội dung bình đẳng giới đã được mở rộng một cách toàn diện hơn đồng thời nhiều nội dung được cụ thể hoá trong các văn bản qui phạm pháp luật dưới Hiến pháp như: Bộ luật Dân sự năm 2005; Bộ luật Lao động năm 1994 sửa đổi, bổ sung 2002; Luật bầu cử đại biểu Quốc hội năm 1997; Luật giáo dục năm 1998; Bộ luật Hình sự năm 1999; Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 và hàng trăm văn bản khác. Vấn đề bình đẳng giới, càng có ý nghĩa quan trọng khi nước ta đang bước vào giai đoạn mới của tiến trình đổi mới, khi chúng ta thực hiện mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế trên nhiều lĩnh vực. Nói đến nội dung của pháp luật về bình đẳng giới là đề cập đến các qui phạm pháp luật cụ thể hướng đến mục tiêu xác lập và bảo vệ năng lực và tư cách pháp lý bình đẳng giữa nam giới và phụ nữ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội cụ thể gồm những lĩnh vực cơ bản sau: - Bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị - Bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế - Bình đẳng giới trong lĩnh vực lao động - Bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo - Bình đẳng giới trong lĩnh vực khoa học và công nghệ - Bình đẳng giới trong lĩnh vực văn hoá, thông tin, thể dục, thể thao và y tế - Bình đẳng giới trong gia đình [21].
  • 22. 22 Nhìn từ hệ thống pháp luật quốc tế, những nội dung liên quan trực tiếp, gián tiếp đến bình đẳng giới có thể thấy trong nhiều văn bản, trong đó tiêu biểu là Tuyên ngôn thế giới về quyền con người (UDHR) năm 1948, Công ước Liên hợp quốc về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW) năm 1979. Công ước CEDAW có ý nghĩa quan trọng đối với việc hiện thực hoá các quyền con người của phụ nữ, công ước này xác định cách thức, biện pháp nhằm loại trừ những sự phân biệt đối xử với phụ nữ trong hưởng thụ các quyền con người. Mục đích của công ước CEDAW là trao cho phụ nữ những quyền con người đã được thừa nhận nhưng trên thực tế họ chưa được hưởng bởi những phân biệt đối xử trong thực tế [63]. Ở Việt Nam, quyền bình đẳng của phụ nữ với tính cách là quyền công dân sớm được xác lập bằng pháp luật cùng với sự ra đời của Hiến pháp đầu tiên, Hiến pháp 1946, ngay từ lần đầu tiên đó, phụ nữ đã được công nhận có địa vị công dân bình đẳng so với đàn ông: “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hoà. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt giống nòi, trai gái, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”(Điều 1) “Tất cả công dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện chính trị, kinh tế, văn hoá” (Điều 6). “Tất cả công dân Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật, đều được tham gia chính quyền và công cuộc kiến quốc tuỳ theo tài năng và đức hạnh của mình” (Điều 7). “Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện” (Điều 9). Quyền bình đẳng nam nữ trong bầu cử, ứng cử đã trở thành qui tắc xuyên suốt trong các bản Hiến pháp Việt Nam từ 1946 đến nay: Công dân, không phân biệt dân tộc, nam, nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, thời hạn cư trú, từ 18 tuổi trở lên đều có quyền bầu cử và từ 21 tuổi trở lên đều có thể được bầu vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, trừ những người bị pháp luật hoặc Toà án nhân dân tuớc các quyền đó.
  • 23. 23 Phù hợp với tinh thần chung của các Công ước quốc tế Việt Nam tham gia ký kết, Hiến pháp và pháp luật Việt Nam có những qui định xác lập quyền bình đẳng của phụ nữ và nam giới trong việc tham gia xây dựng và thực hiện các chính sách của Nhà nước, tham gia các chức vụ của nhà nước và thực hiện chức năng công cộng ở mọi cấp. Cụ thể, Hiến pháp 1992 sửa đổi nêu rõ: “ công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với cơ quan nhà nước…” (Điều 53). Như vậy, quyền bình đẳng của phụ nữ và nam giới có một cơ sở pháp lý khá đầy đủ và toàn diện, từ việc xác lập đến bảo vệ bằng pháp luật. Pháp luật Việt Nam có những qui định riêng, nhưng đồng thời cũng rất hài hòa với pháp luật quốc tế trong việc khẳng định quyền bình đẳng của phụ nữ, đây là quyền quan trọng cần được bảo vệ trên cơ sở bình đẳng, không phân biệt đối xử cùng với trách nhiệm quốc gia và cả cộng đồng quốc tế, vì dân chủ và sự tiến bộ của phụ nữ. Nhìn tổng thể, nhiều nội dung bình đẳng giới đã được qui định khá chi tiết, phong phú trong các văn bản qui phạm pháp luật ở nước ta, đồng thời Việt Nam được đánh gía là một trong những quốc gia có chính sách bình đẳng giới tiến bộ so với nhiều quốc gia trên thế giới. Chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước vừa tạo điều kiện thuận lợi để phụ nữ vươn lên, vừa đòi hỏi phụ nữ phải năng động, linh hoạt hơn trong việc nâng cao trình độ chuyên môn, làm chủ kỹ thuật hiện đại tham gia tích cực vào hoạt động sản xuất và xây dựng xã hội, đổi mới đất nước. Tuy nhiên, các nội dung của pháp luật về bình đẳng giới đưa ra chủ yếu còn mang tính cục bộ, rải rác thiếu tính hệ thống theo một nguyên tắc chung. Nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra chưa được rà soát kỹ, như việc đánh giá lại các văn bản pháp luật hiện hành, trên cơ sở phân tích một cách đầy đủ những chính sách liên quan về giới để có những dự báo có tính khoa học và thực tiễn cho việc hoàn thiện pháp luật về bình đẳng giới.
  • 24. 24 1.1.4. Vai trò của pháp luật về bình đẳng giới Vai trò của pháp luật về bình đẳng giới thể hiện ở những điểm cơ bản sau: - Thứ nhất, pháp lụât bình đẳng giới ở Việt Nam là phương tiện thể chế hoá chính sách bình đẳng giới của Đảng Cộng sản Việt Nam Trong lịch sử xã hội loài người từ khi nhà nước xuất hiện, pháp luật chính là công cụ thể chế hoá đường lối, chủ trương và chính sách của giai cấp cầm quyền. Ở Việt Nam, nền tảng của giai cấp cầm quyền xã hội là liên minh giai cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Từ khi ra đời đến nay, Đảng luôn dành sự quan tâm cho phụ nữ, bảo vệ các lợi ích chính đáng của phụ nữ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong luận cương chính trị đầu tiên của Đảng, tư tưởng giải phóng phụ nữ và tôn trọng quyền của phụ nữ đã được ghi nhận, trở thành tuyên ngôn đầu tiên về quyền bình đẳng nam nữ, phụ nữ được công nhận ngang quyền với nam giới. Tiếp đó, Đảng còn ban hành nhiều chỉ thị và nghị quyết có tính chất định hướng và chỉ đạo nhằm bảo đảm cho phụ nữ ngang quyền với nam giới như: Nghị quyết số 153/NQ-TW, 10/01/1967 về “công tác cán bộ nữ”; Chỉ thị số 44/CT-TW, 07/6/1984, về “ một số vấn đề cấp bách trong công tác cán bộ nữ”; Nghị quyết 04/NQ-TW của bộ chính trị về “ tăng cường và đổi mới công tác vận động nữ trong tình hình mới”; Nghị quyết 04-NQ/TW ngày 12/7/1993 của Bộ Chính trị về “ đổi mới và tăng cường công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới”; Chỉ thị số 28-CT/TW ngày 29/9/1993 củ Ban Bí thư Trung ương Đảng về “thực hiện nghị quyết của Bộ Chính trị về đổi mới, tăng cườngcông tác vận động phụ nữ trong tình hình mới”; Chỉ thỉ 37/CT-TW16/5/1994 của Ban Bí thư Trung ương về “một số vấn đề công tác cán bộ nữ trong tình hình mới”; tiếp theo là nghị quyết Đại hội IX của Đảng công sản Việt Nam v.v…Mọi văn bản đều nhất quán một quan điểm “thực hiện tốt chính sách, pháp luật về bình đẳng giới, bồi dưỡng đào tạo nghề nghiệp, nâng cao trình độ học vấn, có cơ chế chính sách để phụ
  • 25. 25 nữ tham gia ngày càng nhiều vào các cơ quan lãnh đạo và quản lý ở các cấp…” [15, tr.126]. Tư tưởng trên đã trở thành nguyên tắc chung và được thể chế hoá trong Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước. Hay nói cách khác, pháp luật làm cho các chính sách có hiệu lực thực thi và bắt buộc chung trên qui mô toàn xã hội. Pháp luật bình đẳng giới còn là phương tiện để Đảng kiểm tra đường lối chính sách của mình về bình đẳng giới và về quyền của phụ nữ trong thực tiễn đời sống xã hội. Ngay từ khi ra đời, Nhà nước dân chủ đầu tiên ở Đông Nam Châu Á đã ghi nhận trong pháp luật quyền của phụ nữ và nam giới. Tuy nhiên, một thực tế không thể không thừa nhận là pháp luật của chúng ta chưa thể chế đầy đủ, cụ thể và thiếu những thiết chế đảm bảo thực hiện trên thực tế đường lối chủ trương chính sách của Đảng về bình đẳng giới nói chung về quyền phụ nữ nói riêng. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình thực hiện bình đẳng giới trên thực tế. - Thứ hai, pháp lụât bình đẳng giới ở Việt Nam tạo cơ sở pháp lý đấu tranh thực hiện bình đẳng giới giữa phụ nữ và nam giới trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Với chức năng là công cụ để nhà nước quản lý, bảo vệ các gía trị xã hội và bảo đảm công bằng xã hội, pháp luật có vai trò đặt biệt quan trọng trong việc xác lập và bảo vệ các quyền bình đẳng của phụ nữ với nam giới. Pháp luật là hệ thống các qui định trong đó nêu ra các qui tắc xử sự chung cho phép hoặc bắt buộc tất cả các chủ thể pháp luật. Hay nói cách khác, tất cả các chủ thể pháp luật gồm các cơ quan nhà nước; mọi cán bộ, công chức, viên chức; các tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị-xã hội; các tổ chức xã hội; các tổ chức xã hội-nghề nghiệp; các tổ chức kinh tế; đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân và mọi công dân có trách nhiệm thực hiện các qui định của pháp luật. Hiến pháp 1992 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam nêu rõ: “ Công dân nam, nữ có quyền ngang nhau về mọi mặt, không ngừng phát huy vai trò của mình trong xã hội”. Luật Dân sự Việt Nam 2005 tại điều 5 qui
  • 26. 26 định: “Trong quan hệ dân sự, các bên đều bình đẳng, không được lấy lý do khác biệt về dân tộc, giới tính, thành phần xã hội, hoàn cảnh kinh tế,…Để đối xử không bình đẳng nhau” và đây chính là nguyên tắc có giá trị áp dụng đối với tất cả các chế định, các qui phạm pháp luật dân sự, các quan hệ pháp luật dân sự. Luật Bình đẳng giới qui định tại điều 4: “Mục tiêu bình đẳng giới là xoá bỏ phân biệt đối xử về giới, tạo cơ hội như nhau cho nam và nữ trong phát triển kinh tế-xã hội và phát triển nguồn lực, tiến tới bình đẳng giới thực chất giữa nam và nữ thiết lập, củng cố quan hệ hợp tác hổ trợ giữa nam và nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình” Ngoài ra, pháp luật còn có những qui định về hình thức, biện pháp xử lý hành vi phạm bình đẳng giới như: Bộ luật Hình sự năm 1999 qui định các biện pháp chế tài đối với các tội xâm phạm quyền bầu cử, ứng cử nói chung và tội xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ tại điều 126 và 130. Điều 130 qui định: “…phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến một năm đối với những người dùng vũ lực hoặc có hành vi nghiêm trọng xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ, trong đó có quyền tham gia vào hoạt động chính trị”. Điều 119 qui định: “Người nào mua bán phụ nữ thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm…” - Thứ ba là, pháp lụât bình đẳng giới ở Việt Nam là cơ sở pháp lý để nâng cao địa vị thấp kém hiện thời của phụ nữ Có thể nói, nhờ pháp luật có những qui định xác lập và bảo vệ quyền bình đẳng của phụ nữ mà phụ nữ có những cơ sở pháp lý cần thiết để đấu tranh cho việc cải thiện và nâng cao vị thế thấp kém hiện thời của mình. Pháp luật về bình đẳng giới không chỉ xác lập địa vị bình đẳng của phụ nữ trong đời sống xã hội mà còn là những qui tắc xử sự được sử dụng như thước đo chuẩn mực chung, đồng thời có tính chất bắt buộc đối với mọi thành viên trong xã hội nhằm thực hiện bảo vệ quyền bình đẳng của phụ nữ với nam giới. Chính vì lẽ đó, pháp luật về bình đẳng giới được sử dụng như cơ sở dẫn chiếu đối với những hành vi trái pháp luật vi phạm quyền bình đẳng giới, bên
  • 27. 27 cạnh đó, những qui định của pháp luật bình đẳng giới có vai trò quan trọng tạo tiền đề cho phụ nữ thực hiện các quyền chính đáng của họ mà pháp luật đã ghi nhận. Hơn nữa, pháp luật bình đẳng giới còn là cơ sở pháp lý chắc chắn để phụ nữ đấu tranh với những hành vi sai trái, phân biệt đối xử với phụ nữ, những định kiến lạc hậu cản trở việc thực hiện quyền bình đẳng của phụ nữ so với nam giới. Nếu không có những qui định của pháp luật về bình đẳng nam nữ thì những định kiến “hẹp hòi”, “trọng nam khinh nữ” đang còn ảnh hưởng nặng nề trong xã hội, phụ nữ sẽ gặp nhiều trở ngại, khó khăn trong việc tham gia vào các hoạt chung của công động đồng xã hội đặc biệt là tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội, tham gia ứng cử vào các chức danh lãnh đạo và vào quá trình hoạch định chính sách trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Vì vậy, pháp luật về bình đẳng giới có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm, bảo vệ và thực hiện quyền bình đẳng của phụ nữ với nam giới nhằm cải thiện và nâng cao vị thế thấp kém hiện thời của phụ nữ so với nam giới. - Thứ tư, pháp lụât bình đẳng giới ở Việt Nam bảo đảm việc thực hiện có hiệu quả quá trình phát triển kinh tế- xã hội của đất nước Bảo đảm quyền bình đẳng giới giữa nam và nữ chính là bảo đảm quyền con người đã được pháp luật qui định và bảo vệ. Trong hệ thống quyền con người, về cơ bản, phụ nữ cũng được hưởng các cơ hội bình đẳng như nam giới nhưng để có sự bình đẳng thực chất, phụ nữ phải được bảo đảm thực hiện các quyền đó. Nói cách khác, họ phải được tham gia trực tiếp và gián tiếp vào quản lý nhà nước, quản lý xã hội; tham gia vào quá trình kinh tế, xã hội của đất nước. Do đó, quyền bình đẳng của phụ nữ đối với nam giới là nền tảng, có tính quyết định việc thực hiện quyền kinh tế xã hội và văn hoá. Trong khoa học nghiên cứu về bình đẳng giới, những nguyên tắc về bình đẳng giới được thừa nhận là: Bình đẳng giới tỷ lệ thuận với phát triển kinh tế, xã hội trong nông nghiệp và nông thôn; bình đẳng giới nhất quán với quan điểm phát triển trên cơ sở tạo quyền; bình đẳng giới là biểu hiện của công
  • 28. 28 bằng trong phát triển kinh tế, xã hội và phát triển con người; phụ nữ và nam giới, trẻ em gái và trẻ em trai là những đối tác bình đẳng trong quá trình phát triển của quốc gia [10]. Quá trình phát triển kinh tế Việt Nam những năm vừa qua, là một thực tiễn sinh động khẳng định vai trò của pháp luật, các văn bản pháp luật của nhà nước Việt Nam trên các lĩnh vực của đời sống xã hội đã và đang từng bước tuân thủ và thể hiện rõ nguyên tắc bình đẳng nam nữ và tôn trọng quyền của phụ nữ. Từ đó, có sự nhìn nhận, đánh giá đúng vai trò và sự đóng góp của phụ nữ trong nền kinh tế-xã hội. Đổi mới kinh tế đã tạo cơ hội cho phụ nữ tham gia vào các hoạt động có năng suất cao hơn và tăng thu nhập, giảm bớt gánh nặng gia đình cho phụ nữ, phụ nữ có nhiều điều kiện tham gia hoạt động kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội. Ngoài ra, phụ nữ đuợc tiếp thêm động lực vượt lên những khó khăn, thử thách của cơ chế thị trường, nữ công nhân, viên chức nổ lực lao động, tích cực học tập nâng cao trình độ văn hoá tay nghề dưới nhiều hình thức đáp ứng yêu cầu của công nghệ mới và cơ chế mới. Trong một số lĩnh vực khác, nhiều phụ nữ được phong hàm giáo sư, phó giao sư, có học vị tiến sĩ, nhiều đề tài nghiên cứu khoa học cấp nhà nước do phụ nữ làm chủ nhiệm, tỷ lệ phụ nữ giữa các chức vụ lãnh đạo cũng có xu hướng tăng dần. Tuy vậy, tỷ lệ cán bộ nữ giữ các chức vụ lãnh đạo tại các khu vực ra quyết định, hoạch định chính sách, giữ các chức vụ quản lý ở các cấp, các ngành còn thấp. - Thứ năm, pháp luật bình đẳng giới ở Việt Nam bảo đảm thực hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy tối đa quyền dân chủ của phụ nữ và nam giới, bảo đảm công bằng xã hội Khi nghiên cứu vấn đề bình đẳng giới, không thể không nhìn từ gốc độ pháp luật. Việc bảo đảm bình đẳng giới bằng pháp luật chính là cơ sở pháp lý để xác lập địa vị pháp lý bình đẳng cho nam giới và nữ giới, bởi thông qua đó, phụ nữ và nam giới mới được tham gia vào các quá trình ra quyết định một cách bình đẳng đối với những vấn đề gắn liền với những lợi ích thiết thân của
  • 29. 29 họ trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, từ đó hạn chế và tiến tới xoá bỏ hoàn toàn những phân biệt đối xử về giới mà phụ nữ thường là những nạn nhân. Tuy nhiên, bình đẳng ở đây phải là bình đẳng về thực chất và chỉ có bình đẳng về thực chất mới là cơ sở để bảo đảm bền vững địa vị pháp lý bình đẳng của nữ giới so với nam giới. Đây là, mối quan hệ biện chứng giữa bình đẳng và pháp luật. Biểu hiện của bình đẳng giới về thực chất là, phụ nữ và nam giới xác lập được địa vị pháp lý của mình, được tham gia một cách dân chủ vào mọi hoạt động của đời sống chính trị-xã hội. Ngược lại, pháp luật là công cụ để đảm bảo và bảo vệ quyền bình đẳng của nam giới và nữ giới. Trong mối quan hệ biện chứng này, nữ giới và nam giới là những người hưởng thụ quyền, nhưng đồng thời cũng là chủ thể trực tiếp đấu tranh xoá bỏ định kiến “trọng nam khinh nữ”, phân biệt đối xử đối với phụ nữ, tham gia xây dựng pháp luật về quyền bình đẳng giới. Trong thực tế quyền bình đẳng của nam giới hầu như mặc nhiên đuợc thừa nhận thì quyền của nữ giới phải qua quá trình đấu tranh gian khó mới có được, mới được ghi nhận trong pháp luật và mới được thực hiện trong thực tế. Xác lập và thực hiện quyền bình đẳng của nam giới và nữ giới là yếu tố quyết định để xác lập và đảm bảo cho phụ nữ được thực sự bình đẳng với nam giới. Quyền bình đẳng giới, được thực thi trên cơ sở không phân biệt đối xử và bình đẳng, thực chất là bảo đảm cho phụ nữ và nam giới tham gia vào xây dựng, quản lý nhà nước, quản lý xã hội và tham gia vào mọi hoạt động của đời sống xã hội. Sự tham gia bình đẳng của nam giới và nữ giới vào các cấp ra quyết định chắc chắn sẽ giúp cho những chính sách của nhà nước, đặc biệt là những chính sách có liên quan đến phúc lợi xã hội mang tính cân bằng về giới hơn. Bên cạnh đó, nó còn là biểu hiện của việc tăng cường dân chủ trong xã hội. Quyền bình đẳng giới đảm bảo dân chủ xã hội chủ nghĩa gồm: quyền công dân, quyền con người; quyền bầu cử, ứng cử; quyền tham gia quản lý nhà nước; quyền được giáo dục-đào tạo; quyền được chọn nghề thích hợp và
  • 30. 30 quyền tham gia các hoạt động xã hội khác. Theo công ước Liên Hợp quốc về xoá mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW), việc bảo đảm thực thi các quyền của phụ nữ và nam giới phải thực hiện trên các điểm sau: bình đẳng, không phân biệt đối xử và trách nhiệm quốc gia. Bình đẳng và không phân biệt đối xử là yêu cầu khách quan, trong khi trách nhiệm quốc gia bao hàm cả việc bảo đảm dân chủ xã hội. Xét về mặt lịch sử, dân chủ và bình đẳng không chỉ là nhu cầu của con người mà còn là yêu cầu khach quan. Hai phạm trù này không tách biệt, mà ngược lại, chúng hổ trợ và bổ sung cho nhau. Như vậy, thực thi dân chủ bao hàm cả yêu cầu thực thi quyền bình đẳng giữa nam giới và nữ giới. Nói cách khác, xã hội nào xác lập và thực thi được quyền bình đẳng giới giữa nam vừa nữ mới là xã hội dân chủ và bình đẳng thực sự. - Thứ sáu, pháp luật bình đẳng giới ở Việt Nam tạo ra môi trường ổn định cho việc tham gia vào hoạt động đấu tranh cho bình đẳng giới nói chung của thế giới. Sự hợp tác và các mối quan hệ ban giao giữa các quốc gia chỉ có thể phát triển trong môi trường kinh tế, chính trị, xã hội ổn định và có đủ độ tin cậy lẫn nhau. Pháp luật là phương tiện có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo lập môi trường ổn định đó. Chính nhờ những đặc điểm đặc thù của mình mà pháp luật có khả năng thiết lập một trật tự mà ở đó mọi chủ thể khi tham gia vào các quan hệ phải tôn trọng những cam kết và phải chịu trách nhiệm về những hậu quả có thể xảy ra. Pháp luật bình đẳng giới cùng với hệ thống pháp luật nói chung có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo lập môi trường ổn định đó. Trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay, việc một quốc gia muốn tạo lập được môi trường kinh tế, chính trị, xã hội ổn định phải có sự gắn kết chặt chẽ với các quốc gia khác trong khu vực và trên thế giới nhằm bảo vệ những lợi ích cơ bản lâu dài của quốc gia, dân tộc là điều rất cần thiết. Với phương châm Việt Nam muốn là bạn của các nước trên thế giới, những năm qua hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung, pháp luật bình đẳng giới Việt Nam nói riêng đã có nhiều bước phát triển mới ngày càng toàn diện hơn, phù hợp hơn
  • 31. 31 vừa thể hiện tính dân tộc vừa mang tính thời đại. Sự phù hợp đó thể hiện ở vai trò của pháp luật bình đẳng giới nhằm tôn trọng, bảo vệ phụ nữ nói chung và xoá mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ. Ở Việt Nam, môi trường pháp lý đáng tin cậy đã được hình thành, ngày càng được củng cố vững chắc, tạo ra cơ sở cho sự phát triển và mở rộng các quan hệ hợp tác và mang lại nhiều hiệu quả quan trọng. Trong đó việc pháp luật ghi nhận những giá trị mà người phụ nữ có, cần và ủng hộ là điều cực kỳ quan trọng tạo tiền đề cần thiết để nâng cao vị thế của ngưới phụ nữ so với nam giới ở Việt Nam cũng như trong quan hệ quốc tế. Thực tiễn cho thấy, muốn thực hiện tốt sự quản lý nhà nứơc, đẩy nhanh sự phát triển xã hội mở rộng quan hệ và hợp tác với các nước thì phải chú trọng phát huy vai trò của pháp luật nói chung và pháp luật bình đẳng giới nói riêng, nhanh chống xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật và pháp luật bình đẳng giới phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh trong nước, đồng thời phù hợp với xu hướng phát triển chung của tình hình quốc tế và khu vực. 1.2. TIÊU CHÍ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI Ở VIỆT NAM Hoàn thiện pháp luật là một quá trình liên tục, có nhiều khó khăn phức tạp, đòi hỏi có sự quan tâm, nỗ lực của từng cơ quan, tổ chức và cá nhân có nhiệm vụ soạn thảo, ban hành, hướng dẫn các văn bản qui phạm pháp luật có liên quan trong lĩnh vực bình đẳng giới. Do vậy, việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về bình đẳng giới ở Việt Nam trong những năm tới cần định hướng tập trung mọi nguồn lực, đề cao trách nhiệm của các ngành các cấp, phấn đầu xây dựng hệ thống pháp luật về bình đẳng giới đủ về số lượng, nâng cao về chất lượng, phấn đấu năm 2020 hệ thống pháp luật về bình đẳng giới đạt đến trình độ tương đối thống nhất, đồng bộ, toàn diện, bảo đảm kỹ thuật văn bản; phù hợp với pháp luật quốc tế. Đây chính là các tiêu chí, các yêu cầu của chương trình đổi mới công tác xây dựng, ban hành và nâng cao chất lượng văn bản qui phạm pháp luật trong đó có pháp luật về bình đẳng giới.
  • 32. 32 1.2.1. Tính thống nhất Các quan hệ xã hội về bình đẳng và bình đẳng giới là một chỉnh thể thống nhất, do đó các qui phạm pháp luật về bình đẳng giới, dùng để điều chỉnh các quan hệ xã hội đó cũng phải được xây dựng phù hợp với chỉnh thể thống nhất đó. Tính thống nhất của pháp luật nói chung và pháp luật bình đẳng giới nói riêng thể hiện ở chổ các qui phạm pháp luật phù hợp với nhau, không mâu thuẩn, xung đột lẫn nhau trong một ngành luật cụ thể, tuy việc xác định ranh giới này là rất khó. Trong lĩnh vực bình đẳng giới, sự tham gia của hệ thống cơ quan quản lý nhà nước, hệ thống cơ quan thực thi bảo vệ pháp luật và hoạt động bình đẳng giới còn đuợc bảo vệ bằng nhiều biện pháp khác nữa, thì việc bảo đảm tính thống nhất là điều quan trọng. Tính thống nhất của pháp luật về bình đẳng giới đòi hỏi các qui định của pháp luật phải có sự liên kết, phối hợp tác động điều chỉnh theo một chiều hướng nhất định; phải có sự thống nhất nội tại giữa các qui phạm pháp luật về bình đẳng giới với điều kiện kinh tế, chính trị, văn hoá xã hội, sự thống nhất không chỉ trong phạm vi quốc gia mà còn ở phạm vi quốc tế; tuân thủ các nguyên tắc pháp chế trong việc xây dựng và bảo đảm qui phạm pháp luật về bình đẳng giới thống nhất với các qui phạm pháp luật tương ứng nói chung; thống nhất giữa các qui phạm pháp luật trong các văn bản có hiệu lực pháp lý cao với các văn bản có hiệu lực pháp lý thấp hơn, cụ thể là sự thống nhất giữa các qui định của Bộ Luật dân sự, Bộ Luật hình sự, Luật Lao động, Luật Hôn nhân và gia đình… với Luật Bình đẳng giới, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình, Luật Khiếu nại tố cáo, Luật Tố tụng hình sự, Luật Tố tụng dân sự…; tính thống nhất của pháp luật còn thể hiện ở sự thống nhất của qui phạm pháp luật với tập quán, truyền thống đạo đức, văn hoá của dân tộc. Tính thống nhất là yêu cầu khách quan, là tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện và chất lượng của hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật bình đẳng giới nói riêng. Điều này có nghĩa là, khi xem xét mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật thì cần phải xem xét giữa các bộ phận qui phạm pháp luật
  • 33. 33 của nó có trùng lặp, chồng chéo hay mâu thuẫn và xung đột với nhau không. Tính thống nhất của pháp luật bình đẳng giới được thực hiện trên những điểm sau: Một là, thể hiện sự đồng bộ giữa Hiến pháp với Luật Bình đẳng giới và phải xây dựng được một hệ thống qui phạm pháp luật căn bản trong Hiến pháp, hoàn thiện Hiến pháp nhằm tạo cơ sở củng cố tính thống nhất của toàn bộ hệ thống pháp luật. Hai là, thể hiện sự thống nhất, không mâu thuẫn, không xung đột, không trùng lặp, chồng chéo trong luật bình đẳng giới, mỗi chế định pháp luật và giữa các qui phạm pháp luật trong Luật Bình đẳng giới. Ba là, thống nhất của hệ thống pháp luật bình đẳng giới thể hiện ở sự đồng bộ, thống nhất giữa luật Bình đẳng giới với các văn bản dưới luật. Bốn là, trong điều kiện Đảng cầm quyền, cần phái đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất giữa các qui định trong luật bình đẳng giới với đường lối chính sách của Đảng. Thống nhất là tiêu chí vô cùng quan trọng trong việc hoàn thiện pháp luật bình đẳng giới. Pháp luật bình đẳng giới có được áp dụng hiệu quả trong thực tế hay không phụ thuộc vào việc có tuân thủ tính thống nhất hay không. Thực tế nước ta nhiều văn bản đã được ban hành nhưng rất khó đi vào cuộc sống vì sự mâu thuẫn chồng chéo giữa các văn bản đó. 1.2.2. Tính toàn diện, cụ thể Tính toàn diện, cụ thể là tiêu chí thể hiện mức độ hoàn thiện luật Bình đẳng giới hoặc của cả hệ thống pháp luật bình đẳng giới. Tiêu chí này có ý nghĩa trong việc "định lượng" một văn bản qui phạm pháp luật cũng như cả hệ thống pháp luật. Do đó, nó có ý nghĩa rất quan trọng, vì chỉ trên cơ sở "định lượng" mới có thể tiếp tục nghiên cứu để "định tính" trong xây dựng pháp luật nói chung. Tính toàn diện, cụ thể của pháp luật bình đẳng giới thể hiện khả năng đáp ứng cao nhất nhu cầu điều chỉnh các quan hệ xã hội về bình đẳng giới
  • 34. 34 bằng pháp luật. Nhà nước, với chức năng quản lý xã hội thông qua bộ máy các cơ quan quản lý nhà nước, cần thiết chế một hệ thống pháp luật bình đẳng giới có tính toàn diện, cụ thể để điều chỉnh các quan hệ xã hội về bình đẳng giới. Trong lĩnh vực này, tính toàn diện, cụ thể của pháp luật cần được xem xét, đánh giá các bình diện: các qui phạm pháp luật đã thể chế hoá đầy đủ những quan điểm, đường lối, chính sách của nhà nước về bình đẳng giới; các qui phạm pháp luật thực định đã có đầy đủ, để điều chỉnh mọi quan hệ xã hội giữa nhà nước với các chủ thể khác trong công cuộc đấu tranh cho bình đẳng giới; các qui phạm pháp luật có đủ để xử lý các hành vi xâm phạm bình đẳng giới; các qui phạm pháp luật đó đã tạo ra cơ sở pháp lý để phòng, chống, đấu tranh có hiệu quả đối với các tội phạm xâm phạm bình đẳng giới và các qui phạm pháp luật thực định đó đã được thực thi trong thực tế. Tính toàn diện, cụ thể của hệ thống pháp luật thể hiện ở hai cấp độ: Ở cấp độ chung đòi hỏi hệ thống pháp luật bình đẳng giới phải có đủ các qui phạm pháp luật theo cơ cấu nội dung lôgic và thể hiện thống nhất trong hệ thống văn bản qui phạm pháp luật tương ứng. Ở cấp độ cụ thể đòi hỏi luật bình đẳng giới phải có đủ các chế định pháp luật và các qui phạm pháp luật điều chỉnh những loại hành vi cụ thể, giải quyết những vấn đề cụ thể như luật bình đẳng giới với những điều kiện cộng thêm cho phụ nữ để khắc phục sự chênh lệch về xuất phát điểm của phụ nữ so với nam giới hiện thời. 1.2.3. Tính đồng bộ Tính đồng bộ của pháp luật bình dẳng giới, thể hiện ở khía cạnh các yếu tố tạo nên pháp luật bình đẳng giới phải được xây dựng và phát triển trong một qui trình với một tốc độ, một thời gian chung; tính đồng bộ đó tạo ra sự phù hợp, mềm dẻo, linh hoạt trong một chỉnh thể. Trong giai đoạn hiện nay, việc bảo đảm tính đồng bộ đối với hệ thống pháp luật về bình đẳng giới là điều vô cùng cần thiết, đó là sự đồng bộ giữa: các chủ trương, chính sách
  • 35. 35 và thực thi bình đẳng giới; tổng thể hệ thống văn bản qui phạm pháp luật về bình đẳng giới phải chứa đựng đầy đủ các qui phạm pháp luật về nội dung và hình thức như ban hành kịp thời các văn bản hướng dẫn áp dụng, đảm bảo cho các qui phạm pháp luật về bình đẳng giới sớm được áp dụng và thực thi trong đời sống xã hội. 1.2.4. Bảo đảm kỹ thuật văn bản Kỹ thuật lập pháp là một vấn đề rộng lớn, phức tạp, trong đó có ba điểm quan trọng, cần thiết phải chú ý khi xây dựng và hoàn thiện pháp luật: - Kỹ thụât lập pháp thể hiện ở những nguyên tắc tối ưu được vạch ra để áp dụng trong quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp lụât về bình đẳng giới. - Trình độ kỹ thuật pháp lý thể hiện ở việc xác định chính xác cơ cấu của pháp luật bình đẳng giới. - Các biểu đạt bằng ngôn ngữ pháp lý phải đảm bảo tính cô động, logic, chính xác và một nghĩa. Trình độ, kỹ thuật xây dựng pháp luật bình đẳng giới thể hiện ở: hoạt động xây dựng pháp luật bình đẳng giới phải mang tính chuyên nghịêp, các chủ thể tham gia vào hoạt động xây dựng pháp luật bình đẳng giới phải có hiểu biết sâu sắc về giới, bình đẳng giới. Đặc biệt, tính chuyên nghịêp ở đây là yêu cầu đối với đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân hiện nay. Bên cạnh đó, đội ngũ chuyên gia giỏi giúp việc cho Quốc hội, Hội đồng nhân dân trong hoạt động xây dựng pháp luật bình đẳng giới cũng là một yếu tố hết sức quan trọng nhằm đảm bảo yêu cầu chất luợng của luật bình đẳng giới khi ban hành. Ngoài ra, kỹ thuật xây dựng văn bản qui phạm pháp luật còn đuợc thể hiện ở trình độ sử dụng ngôn ngữ và cách hành văn. Ngôn ngữ pháp lý phải đảm bào tính cô động, logic, chính xác và một nghĩa, hành văn phải ngắn gọn, rõ ràng, khách quan và dễ hiểu. Xây dựng hệ thống qui phạm pháp luật bình đẳng giới có chất lượng tốt, có sức sống lâu bền, có tính phổ thông đại chúng, mọi người dễ tiếp cận
  • 36. 36 và thực hiện trong cuộc sống, ít phải sửa đổi phụ thuộc rất nhiều vào trình độ, kỹ thuật xây dựng pháp luật nói chung. 1.2.5. Tính phù hợp với pháp luật quốc tế Kể từ khi đổi mới, cải cách và mở cửa, nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn trên tất cả các mặt của đời sống chính trị, xã hội. Sự phát triển của đất nước cũng đặt ra yêu cầu phải hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật bình đẳng giới nói riêng để một mặt có đầy đủ khung pháp lý điều chỉnh các hoạt động của đời sống xã hội trong đó có hoạt động bình đẳng giới, mặt khác, để phù hợp với pháp luật quốc tế về bình đẳng giới trong bối cảnh hội nhập. Trong thời gian dài, trình độ xây dựng pháp luật và chất lượng pháp luật bình đẳng giới của chúng ta chưa theo kịp trình độ phát triển của đất nước và thời đại. Điều này, một mặt do chúng ta chịu hậu quả của các cuộc chiến tranh chống xâm lược, của chính sách bao vây và cấm vận, không có nhiều điều kiện tiếp xúc với bên ngoài, hạn chế sự tiếp thu những tinh hoa pháp luật quốc tế và cả sự phát triển của hệ thống pháp luật quốc tế. Mặt khác, về chủ quan, chúng ta chưa quan tâm đúng mức đến công tác lập pháp nói chung và xây dựng pháp luật bình đẳng giới nói riêng; phát triển và hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và chuyển hoá pháp luật quốc tế vào nội dung pháp luật trong nước nói riêng. Để hoàn thiện pháp luật bình đẳng giới ở nước ta không thể không tham khảo quá trình xây dựng và phát triển pháp luật bình đẳng giới ở các nước có nền lập pháp phát triển, các điều ước liên quan mà Việt Nam tham gia, ký kết. Ngày nay, các quan hệ giới, bình đẳng giới có vai trò rất quan trọng cho các chủ thể là nam giới, phụ nữ và đồng thời là nhà nước vì nó gắn liền với từng hoạt động của các chủ thể trong phạm vi đất nước và phạm vi quốc tế. Trong quá trình triển khai, thực hiện pháp luật bình đẳng giới chúng ta sẽ có nhiều thuận lợi vì chúng ta đi sau nên sẽ tham khảo học hỏi kinh nghiệm của
  • 37. 37 các tổ chức quốc tế, cũng như các nước đã áp dụng pháp luật bình đẳng giới bước đầu đã có những thành công nhất định. Việc tham khảo, không chỉ là sự kế thừa các thành tựu và tiến bộ của nhân loại mà còn là sự kết hợp và tiếp cận có kế thừa các qui định pháp luật trong nước với pháp luật quốc tế. Như vậy, pháp luật của chúng ta sẽ hoàn thiện hơn trong bối cảnh quốc gia trong mối tương quan với pháp luật quốc tế về bình đẳng giới. 1.3. PHÁP LUẬT CỦA MỘT SỐ NƯỚC VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI VÀ NHỮNG ĐIỂM CẦN TIẾP THU VẬN DỤNG Ở VIỆT NAM Ngày nay quyền của nam giới và nữ giới tham gia hoạt động trên các lĩnh vực của đời sống xã hội đã được tôn trọng và thực hiện ở nhiều quốc gia trên thế giới. Sự tham gia của họ vào đời sống xã hội xuất phát từ gia trị phổ quát của quyền con người. Cũng như nam giới, nữ giới với tư cách là con người, có quyền hưởng tất cả các quyền mà “tạo hoá đã ban cho họ” và quyền tham gia mọi hoạt động của đời sống xã hội. Đến nay, đã có nhiều nước ban hành luật bình đẳng giới. Luật bình đẳng giới đã có tác dụng thúc đẩy sự tiến bộ của phụ nữ. Hai nước Phần Lan và Thụy Sỹ đã có luật bình đẳng giới cách đây từ 10 đến 20 năm. Phụ nữ hai nước có sự tiến bộ rõ nét, cả hai nước đều có nhiều phụ nữ đảm nhiệm các chức vụ quan trọng trong Quốc hội, trong Chính phủ. Phần Lan là nước phát triển nhất Bắc Âu và Thụy Sỹ là nước phát triển nhất Trung Âu. Cả hai nước đều theo chế độ cộng hoà, quyền lập pháp thuộc về Quốc Hội và Tổng thống. Luật bình đẳng giới ở Phần Lan, Thụy Sỹ đã thực sự đi vào cuộc sống vừa chi phối vừa thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội đất nước. Các luật, chính sách ban hành sau Luật Bình đẳng giới đều đều được Quốc hội xem xét rất kỹ nếu có những qui định nào đó thể hiện sự bất bình đẳng giới đều không được quốc hội thông qua. Luật Bình đẳng giới đã đề cập đến vấn đề bình đẳng nam nữ trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội nhất là vấn đề tiền lương, thu nhập, vấn đề lao động việc làm, quyền thừa kế tài sản, trong đào
  • 38. 38 tạo tuyển dụng lao động…Chẳng hạn, trong tất cả các thông báo tuyển dụng lao động hay tuyển sinh đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn ở các cơ quan đơn vị từ Trung ương đến địa phương, kể cả các cơ sở sản xuất kinh doanh đều không được trái với lụât bình đẳng giới, không có sự phân biệt đối xử nam, nữ như cấm thông báo tuyển dụng có sự phân biệt đối xử và không một thông báo tuyển dụng lao động, tuyển sinh đào tạo nào được phép áp dụng riêng cho nam hoặc nữ, thậm chí còn cấm cả những thói quen bất hợp pháp. Ở Phần Lan còn qui định ở các cơ quan hoạch định, ban hành chính sách, các cơ quan công quyền phải đảm bảo tỷ lệ nam- nữ là 50-50. Người chủ sử dụng lao động có nghĩa vụ thức đẩy bình đẳng giới, các doanh nghiệp có từ 30 lao động trở lên phải có kế hoạch thực hiện bình đẳng giới, các cơ quan chức năng của chính phủ thông qua thanh tra, kiểm tra nếu phát hiện đơn vị nào vi phạm thì bị phạt và người chủ doanh nghiệp, người đứng đầu đơn vị buộc phải có kế hoạch thực hiện đúng qui định của Luật Bình đẳng giới. Đối với quyền thừa kế tài sản, trước kia Phần Lan, chỉ có con trai trưởng mới có quyền thừa kế tài sản của bố mẹ. Nhưng sau khi Luật Bình đẳng giới ra đời thì quyền thừa kế tài sản trong gia đình cho cả nam và nữ, đây là vấn đề gay go nhất, tranh luận trong nhiều năm ở các cấp, các ngành, tồn tại hàng trăm năm ở Phần Lan đã có sự thay đổi và được nhân dân đồng tình hoan nghênh. Luật Bình đẳng giới của Thụy Sỹ cấm không được phân biệt đối xử với người lao động trên cơ sở giới tính của họ, tình trạng hôn nhân, hoàn cảnh gia đình, kể cả trường hợp đó là người lao động nữ hoặc người đang mang thai, sinh đẻ dù dưới hình thức trực tiếp hay gián tiếp. Điều cấm phân biệt này đặc biệt áp dụng đối với việc thuê mướn nhân công, phân công nhiệm vụ, điều kiện lao động, đào tạo cơ bản hoặc nâng cao, đề bạt hoặc đuổi việc. Các biện pháp thích hợp để thực hiện bình đẳng thực sự không được coi là phân biệt đối xử. Đối với luật binh đẳng giới, hai nước, tuổi về hưu thực hiện bình đẳng nam, nữ thậm chí ở tuổi 64, 65 tuổi, một số nước đang dự kiến nâng lên 68 tuổi. Tuy nhiên các nước này tỷ lệ sinh đẻ thấp thiếu lao động [17].
  • 39. 39 Từ pháp luật về bình đẳng giới của một số nước nêu trên có thể nghiên cứu và vận dụng vào Việt Nam trên những điểm sau đây: - Khi ban hành các văn bản qui phạm pháp luật phải đối chiếu, bảo đảm phù hợp với Luật bình đẳng giới coi đây là một thủ tục bắt buộc đối với các cơ quan chủ trì soạn thảo, thẩm định dự thảo văn bản, là yêu cầu đối với Hội đồng và các Ủy ban của Quốc hội, Hội đồng nhân dân trước khi thông qua dự thảo văn bản. Trước khi tổ chức thực hiện văn bản trong tờ trình của Chính phủ phải đề cập đến vấn đề bình đẳng giới nếu văn bản ban hành có liên quan đến vấn đề giới. - Để bảo đảm bình đẳng giới cần thiết phải qui định tỷ lệ nam nữ cụ thể, nhất là đối với việc tham gia tổ chức bộ máy. Tỷ lệ nữ cán bộ, công chức trong các cơ quan thuộc hệ thống chính trị như tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội, nữ đại biểu Hội đồng nhân dân, cán bộ nữ ở các cấp, ngành Trung ương và địa phương. Trong tổ chức thực hiện các cơ quan Đảng, Nhà nước phải quan tâm đào tạo bồi dưỡng cán bộ nữ bảo đảm tỷ lệ cán bộ nữ đã qua đào tạo nhằm cung cấp một lực lượng cán bộ nữ bảo đảm cả về số lượng và chất lượng cho yêu cầu bình đẳng giới trong giai đoạn hiện nay và tương lai phát triển của đất nước. - Các cơ quan, tổ chức sử dụng lao động nữ phải có kế hoạch thực hiện bình đẳng giới. - Nghiêm cấm mọi hình thức tuyển dụng lao động có phân biệt giới. Nếu trong tuyển dụng có ưu tiên giới nào, tiêu chuẩn nào thì phải giải thích. - Nghiên cứu qui định tuổi hưu, bình đẳng về độ tuổi đối với những ngành nghề, lĩnh vực phù hợp. Nhìn ra các nước khu vực và thế giới, đặc biệt trong hội nhập Quốc tế để thực hiện Công ước Quốc tế về “xoá mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ” (CEDAW) mà Chính phủ Việt Nam đã cam kết thực hiện, thì nhiều vấn đề liên quan đến cán bộ nữ, lao động nữ cần được nhận thức lại để trong quá trình xây dựng pháp luật bình đẳng giới ở nước ta cần có sự đổi mới theo hướng phát triển, thực hiện bình đẳng nam, nữ trên mọi phương diện. Tất nhiên, không nôn nóng, không vội vã và cần được xem xét, nghiên cứu thoả đáng