Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Download luận văn thạc sĩ ngành luật với đề tài: Thực tiễn thực hiện pháp luật về thuế thu nhập cá nhân trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, cho các bạn làm luận văn tham khảo
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Đề tài: Pháp luật về thuế thu nhập cá nhân tại Quảng Ngãi, HAY
1. 1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ AN
THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
VỀ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NGÃI
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2014
2. 2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ AN
THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
VỀ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NGÃI
Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số : 60 38 50
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Phạm Thị Giang Thu
HÀ NỘI - 2014
4. 4
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
Danh mục các biểu đồ
Danh mục các hình
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THUẾ THU NHẬP CÁ
NHÂN VÀ NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ
THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN
5
1.1. Một số vấn đề lý luận về thuế thu nhập cá nhân 5
1.1.1. Khái niệm thuế thu nhập cá nhân 5
1.1.2. Đặc trưng của thuế thu nhập cá nhân 7
1.1.3. Vai trò của thuế thu nhập cá nhân 8
1.2. Những quy định của pháp luật về thuế thu nhập cá nhân 12
1.2.1. Quan điểm, mục tiêu, yêu cầu ban hành Luật thuế thu nhập cá nhân 12
1.2.2. Nội dung của pháp luật về thuế thu nhập cá nhân 15
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ THUẾ THU NHẬP CÁ
NHÂN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NGÃI
33
2.1. Công tác thực hiện luật thuế thu nhập cá nhân 33
2.1.1. Công tác triển khai 33
2.1.2. Kết quả đạt được 37
2.2. Những khó khăn, vướng mắc trong việc thực hiện luật thuế
thu nhập cá nhân
44
5. 5
2.2.1. Về đội ngũ cán bộ chuyên trách lĩnh vực thuế thu nhập cá nhân 44
2.2.2. Quản lý thu nhập và kê khai người phụ thuộc 45
2.2.3. Tuyên truyền pháp luật thuế thu nhập cá nhân cho nhân dân 46
2.3. Những nguyên nhân của khó khăn, vướng mắc trong quá trình
thực hiện luật thuế thu nhập cá nhân
48
2.3.1. Nhận thức về vai trò, ý nghĩa của việc thực hiện Luật thuế thu
nhập cá nhân
48
2.3.2. Hạn chế của pháp luật về thuế thu nhập cá nhân 49
2.4. Một số đánh giá về kết quả triển khai thực hiện luật thuế thu
nhập cá nhân
53
2.4.1. Về mặt thuận lợi 53
2.4.2. Về mặt khó khăn 55
Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP
LUẬT VỀ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH QUẢNG NGÃI
58
3.1. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về
thuế thu nhập cá nhân
58
3.2. Định hướng nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về thuế thu
nhập cá nhân
60
3.2.1. Nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho người nộp thuế 60
3.2.2. Tăng cường công tác quản lý thu nhập của cá nhân 61
3.3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về
thuế thu nhập cá nhân
62
3.3.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về thuế thu nhập cá nhân 62
3.3.2. Các giải pháp bổ trợ 66
KẾT LUẬN 74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 76
6. 6
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
bảng
Tên bảng Trang
1.1 Biểu thuế lũy tiến từng phần 25
1.2 Biểu thuế toàn phần 26
2.1 Số người có thu nhập từ tiền công tiền lương phải nộp thuế 37
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Số hiệu
biểu đồ
Tên biểu đồ Trang
2.1 Biểu đồ tổng số lao động và mã số thuế đã cấp đến năm 2012 36
2.2 Biểu đồ tỷ lệ số người nộp thuế ở bậc 1, bậc 2 với số thuế
đã nộp
38
2.3 Biểu đồ số thuế thu nhập cá nhân thu được bổ sung điều
tiết đối với các khoản thu nhập
39
2.4 Đồ thị tổng thuế thu nhập cá nhân của tỉnh Quảng Ngãi
huy động nguồn lực cho ngân sách nhà nước trong 3 năm
41
2.5 Đồ thị tổng thuế thu nhập cá nhân của tỉnh Quảng Ngãi
so với tổng thuế thu nhập cá nhân cả nước trong 3 năm
43
DANH MỤC CÁC HÌNH
Số hiệu
hình
Tên hình Trang
1.1 Ảnh hưởng của thuế đến sự công bằng trong phân phối
thu nhập
11
7. 7
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kinh tế - xã hội càng phát triển, hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng
sâu, rộng thì nhu cầu chi tiêu của Nhà nước để giải quyết các vấn đề an ninh,
quốc phòng, an sinh xã hội, phát triển sự nghiệp giáo dục, y tế...cũng ngày
càng gia tăng. Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế dẫn đến cơ cấu thu ngân sách
cũng thay đổi theo hướng nguồn thu từ tích lũy trong nước được tăng dần và
chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng thu ngân sách nhà nước. Thuế nói
chung và thuế thu nhập cá nhân nói riêng là nguồn thu quan trọng và chủ yếu
cho ngân sách nhà nước trong quá trình xây dựng đất nước cũng như hội nhập
kinh tế quốc tế.
Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, số người nước ngoài đến
sinh sống và làm việc tại Việt Nam cũng như công dân Việt Nam làm việc và
sinh sống ở nước ngoài ngày càng tăng. Cùng với sự phát triển nền kinh tế thị
trường, sự đa dạng và gia tăng thu nhập của các cá nhân trong xã hội sẽ làm
cho khoảng cách chênh lệch về thu nhập giữa các tầng lớp dân cư ngày càng
lớn. Việc nhà nước ban hành Luật thuế thu nhập cá nhân đã góp phần đảm
bảo tính hợp lý, công bằng, hiệu quả của hệ thống chính sách thuế và thu hẹp
khoảng cách giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư, đồng thời nhà nước sẽ nắm
bắt được thông tin về thu nhập cá nhân. Thông qua đó, vừa thực hiện động
viên nguồn lực cho ngân sách nhà nước, vừa góp phần phòng chống tham
nhũng, lãng phí. Tuy nhiên, thuế thu nhập cá nhân là sắc thuế mới ở Việt Nam
vì thế trong quá trình ban hành và triển khai thực hiện bất cập và vướng mắc
là điều khó có thể tránh khỏi.
Để thực hiện Luật thuế có hiệu quả, việc nghiên cứu thực tiễn thực
hiện Luật thuế thu nhập cá nhân trên cơ sở phân tích khó khăn, vướng mắc để
8. 8
đưa các ý kiến đề xuất nhằm hoàn thiện hơn các quy định của pháp luật về
thuế thu nhập cá nhân là hết sức cần thiết. Xuất phát từ những yêu cầu lý luận
và thực tiễn, học viên lựa chọn đề tài nghiên cứu "Thực tiễn thực hiện pháp
luật về thuế thu nhập cá nhân trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi" làm luận văn
tốt nghiệp chương trình đào tạo Thạc sĩ luật học, chuyên ngành Luật kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Việt Nam đã có một số công trình khoa học, bài viết nghiên cứu, tìm
hiểu về thuế thu nhập cá nhân như: "Thuế thu nhập cá nhân: Kinh nghiệm
quốc tế và việc thực thi ở Việt Nam", Luận văn thạc sĩ ngành kinh tế chính trị
của Phạm Thị Phương Mai, 2008; "Kiểm soát thuế thu nhập cá nhân đối với
thu nhập từ tiền lương, tiền công tại các tổ chức chi trả thu nhập do cục thuế
Thành phố Đà Nẵng thực hiện", Luận văn thạc sĩ quản trị kinh doanh của Bùi
Công Phương, 2011; "Thực trạng quản lý thuế thu nhập cá nhân tại chi cục
thuế quận 2", Khóa luận tốt nghiệp chuyên ngành luật kinh tế của Lê Phương
Thảo, 2010... Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên hoàn thành từ năm
2011 trở về trước và chủ yếu nghiên cứu, phân tích những quy định của Luật
thuế thu nhập cá nhân chứ không phải thực tiễn thực hiện pháp luật về thuế
thu nhập cá nhân tại địa phương. Bên cạnh đó, từ năm 2011 đến nay pháp luật
về thuế thu nhập cá nhân đã có nhiều thay đổi quan trọng và những yêu cầu
thực tiễn cũng có sự thay đổi. Do đó vấn đề này vẫn cần được tiếp tục nghiên
cứu để hoàn thiện.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích
Việc nghiên cứu thực tiễn thực hiện pháp luật về thuế thu nhập cá
nhân thời gian qua ở Việt Nam và các địa phương là yêu cầu cấp thiết, góp
phần hoàn thiện Luật thuế thu nhập cá nhân . Mục đích của luận văn là tìm
hiểu thực tiễn thực hiện pháp luật về thuế thu nhập cá nhân ở địa phương
9. 9
trên cơ sở đó đề ra những giải pháp, kiến nghị hoàn thiện pháp luật về
thuế thu nhập cá nhân , góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật về thuế tại
Việt Nam.
- Nhiệm vụ
Để thực hiện mục đích nêu trên tác giả luận văn thực hiện một số
nhiệm vụ cơ bản sau:
+ Nghiên cứu một cách có hệ thống những quy định của pháp luật
Việt Nam hiện hành về thuế thu nhập cá nhân .
+ Tìm hiểu quy định pháp luật về thuế thu nhập cá nhân của một số
quốc gia trên thế giới
+ Nghiên cứu thực tiễn thực hiện Luật thuế thu nhập cá nhân trên địa
bàn tỉnh Quảng Ngãi, nêu ra những bất cập của pháp luật Việt Nam về vấn đề
này và đề xuất các định hướng nhằm hoàn thiện pháp luật về thuế thu nhập cá
nhân ở Việt Nam.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những quy định của Luật thuế thu nhập
cá nhân và các văn bản hướng dẫn thi hành. Đây là những quy định chủ yếu
điều chỉnh các vấn đề liên quan đến thuế thu nhập cá nhân . Luận văn cũng
nghiên cứu thực tiễn thực hiện pháp luật về thuế thu nhập cá nhân trên địa bàn
tỉnh Quảng Ngãi, đây là cơ sở để đánh giá tính hiệu quả, sự tác động của Luật
thuế thu nhập cá nhân thời gian qua và kết quả thu được sau quá trình thực
hiện luật thuế trên thực tế.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Cơ sở lý luận của luận văn là học thuyết Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
thuế thu nhập cá nhân .
10. 10
- Phương pháp nghiên cứu đề tài: Trên cơ sở phương pháp luận duy
vật biện chứng, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu: Phân tích,
tổng hợp, so sánh, thống kê. Đồng thời tác giả cũng sử dụng nguồn thông tin
dự liệu từ nhiều nguồn như: từ các khảo sát, nghiên cứu khoa học về thuế thu
nhập cá nhân của các nhà nghiên cứu, các dự liệu từ Bộ Tài chính, Tổng cục
Thuế, Cục thuế Quảng Ngãi, Sở Nội vụ tỉnh Quảng Ngãi, các bài báo, tạp chí,
báo điện tử, tài liệu hội thảo liên quan đến vấn đề thuế thu nhập cá nhân .
6. Ý nghĩa của luận văn
- Đây là công trình nghiên cứu khoa học cụ thể về những quy định của
pháp luật về thuế thu nhập cá nhân và thực tiễn thực hiện tại địa phương cụ thể.
- Đánh giá sự phù hợp của pháp luật đối với hoạt động thực hiện pháp
luật trên thực tế, rút ra những điểm bất cập, khó khăn trong quá trình thực
hiện quy định cụ thể của pháp luật, đề xuất phương hướng và giải pháp cụ thể
nhằm nâng cao hiệu quả của Luật này trong thời gian tới, góp phần tăng thu
ngân sách nhà nước, tạo lập công bằng xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về thuế thu nhập cá nhân và những
quy định của pháp luật về thuế thu nhập cá nhân.
Chương 2: Thực tiễn thực hiện pháp luật về thuế thu nhập cá nhân trên
địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp
luật về thuế thu nhập cá nhân.
11. 11
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN VÀ NHỮNG QUY ĐỊNH
CỦA PHÁP LUẬT VỀ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN
1.1.1. Khái niệm thuế thu nhập cá nhân
Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã chứng minh rằng, việc
đánh thuế nói chung và thuế thu nhập cá nhân nói riêng là một tất yếu khách
quan, gắn liền với sự ra đời, tồn tại của một nhà nước. Mỗi nhà nước ở một
giai đoạn lịch sử có bản chất, chức năng và nhiệm vụ cụ thể khác nhau.
Nhưng để duy trì sự tồn tại của mình, Nhà nước cần có nguồn tài chính để chi
tiêu, trước hết là chi tiêu để duy trì và củng cố bộ máy cai trị từ trung ương
đến địa phương thuộc phạm vi lãnh thổ mà nhà nước đó cai quản, chi cho các
công việc thuộc chức năng nhà nước như: quốc phòng, an ninh, chi cho xây
dựng và phát triển cơ sở hạ tầng, chi cho các vấn đề phúc lợi công cộng, về sự
nghiệp, về xã hội trước mắt và lâu dài.
Để có nguồn tài chính đáp ứng nhu cầu chi tiêu, nhà nước thường sử
dụng các hình thức động viên khác nhau. Hình thức nhà nước dùng quyền lực
chính trị buộc dân đóng góp để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của mình - đó chính
là thuế [74, tr. 6].
Theo tên gọi trước đây thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao
được hiểu là một loại thuế đánh vào cá nhân có thu nhập, và chỉ cá nhân nào
có thu nhập cao hơn người khác mới phải nộp thuế, còn những cá nhân có thu
nhập thấp hơn không phải nộp thuế. Hiện nay vẫn nhiều người vẫn gọi thuế
thu nhập cá nhân là thuế thu nhập cao, dẫn đến hiểu sai bản chất của loại thuế
này và đánh giá không đúng vai trò của nó.
12. 12
Thu nhập cá nhân trong kinh tế là thuật ngữ đề cập đến các khoản thu
nhập của một cá nhân kiếm được trong một niên độ thời gian nhất định từ tiền
lương, đầu tư và các khoản khác, nó là tổng hợp của tất cả các thu nhập thực
nhận bởi tất cả các cá nhân hoặc hộ gia đình. Còn theo cách hiểu thông
thường thì "thu nhập cá nhân" là khoản thu nhập mà một người có được bằng
hoạt động của mình.
Như vậy, thuế thu nhập cá nhân là loại thuế mà nhà nước thu trực
tiếp trên thu nhập nhận được của cá nhân trong một khoảng thời gian nhất
định, thường là một năm hoặc từng lần phát sinh.
Đối với những quốc gia có nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị
trường thì thuế thu nhập cá nhân là một sắc thuế có tầm quan trọng trong việc
huy động nguồn thu ngân sách và thực hiện công bằng xã hội.
Thuế thu nhập cá nhân lần đầu tiên ra đời ở Anh (1841), sau đến Nhật
(1887), Đức (1889), Mỹ (1913). Trung Quốc, thuế thu nhập cá nhân ra đời từ
năm 1941 nhưng đến năm 1955 mới trở thành sắc thuế độc lập; Ở Pháp, thuế
thu nhập cá nhân ra đời năm 1961; Liên Xô năm 1922, Hàn Quốc 1974 và cho
đến nay theo thống kê của ERNT&YOUNG tại "the global Excutive" hiện
nay thế giới có hơn 136 nước áp dụng thuế suất thuế thu nhập cá nhân . Thuế
thu nhập cá nhân trên thế giới thông thường đánh vào cả cá nhân kinh doanh
và cá nhân không kinh doanh. Thuế này được coi là sắc thuế đặc biệt vì có lưu
ý đến hoàn cảnh của các cá nhân có thu nhập phải nộp thuế thông qua việc
xác định miễn, giảm thuế hoặc khoản miễn trừ đặc biệt.
Theo quy định của Điều 2 Luật thuế thu nhập cá nhân thì "đối tượng
nộp thuế thu nhập cá nhân là công dân Việt Nam, người nước ngoài, người
không quốc tịch có thu nhập phát sinh theo quy định tại Điều 3 Luật thuế thu
nhập cá nhân đều phải nộp thuế" [55]. Như vậy, thuế thu nhập cá nhân cũng là
thuế đánh trên khoản thu nhập của chủ thể nhất định nhưng thuế thu nhập cá
13. 13
nhân khác với thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân chỉ đánh
vào những cá nhân có thu nhập quy định tại Điều 3 Luật thuế thu nhập cá
nhân còn thuế thu nhập doanh nghiệp thì đánh vào mọi doanh nghiệp có thu
nhập. Vì vậy đối tượng miễn thuế thu nhập cá nhân là những khoản thu nhập
của cá nhân chứ không phải cá nhân có thu nhập, đối tượng miễn thuế thu
nhập doanh nghiệp là doanh nghiệp có thu nhập được miễn thuế chứ không
phải khoản thu nhập của doanh nghiệp.
1.1.2. Đặc trƣng của thuế thu nhập cá nhân
Sự ra đời của thuế thu nhập cá nhân bắt nguồn từ hai yêu cầu cơ bản là
đảm bảo nhu cầu xã hội và tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước.
Thuế thu nhập cá nhân có những đặc trưng cơ bản sau:
- Thuế thu nhập cá nhân là một loại thuế đánh trực tiếp vào thu nhập
của cá nhân. Do đó đối tượng nộp thuế thu nhập cá nhân không có khả năng
chuyển giao nghĩa vụ nộp thuế sang cho đối tượng khác tại thời điểm đánh thuế.
- Thuế thu nhập cá nhân có diện đánh thuế rất rộng, thể hiện ở hai
khía cạnh:
Một là, thu nhập chịu thuế là toàn bộ các khoản thu nhập của đối
tượng nộp thuế không phân biệt thu nhập đó phát sinh có nguồn gốc trong
nước hay nước ngoài. Chính vì vậy, nguồn thu cho ngân sách nhà nước từ
thuế thu nhập cá nhân là rất lớn.
Hai là, đối tượng kê khai nộp thuế thu nhập cá nhân là những người
có thu nhập, bao gồm cả công dân của nước sở tại và người nước ngoài cư trú
thường xuyên hay không thường xuyên nhưng có số ngày có mặt, làm việc,
có thu nhập theo mức độ quy định của luật thuế thu nhập cá nhân. Với quy
định này việc bỏ sót đối tượng nộp thuế rất ít xảy ra. Nhà nước dễ dàng quản
lý được thu nhập của dân cư và áp dụng các chính sách thuế phù hợp.
14. 14
- Thuế thu nhập cá nhân là loại thuế thu nhập nhưng khác với thuế thu
nhập doanh nghiệp ở chỗ thuế thu nhập doanh nghiệp đánh trên khoản thu
doanh nghiệp có được sau khi trừ chi phí phát sinh từ hoạt động doanh nghiệp
còn thuế thu nhập cá nhân thì thu nhập tính thuế là khoản thu của cá nhân
không những được khấu trừ chi phí cuộc sống của đối tượng nộp thuế (tái tạo
sức lao động) mà còn được loại trừ một số khoản thu nhập khác như thu nhập
mang tính trợ cấp xã hội, chi phí nuôi con, nuôi dưỡng cha mẹ già, lưu ý đến
hoàn cảnh của cá nhân có thu nhập nộp thuế thông qua việc xác định miễn,
giảm thuế hoặc khoản miễn trừ đặc biệt. Đây là những khoản khấu trừ mang
tính chất nghĩa vụ của người nộp thuế được pháp luật quy định vì các nghĩa
vụ này các chủ thể chỉ thực hiện được khi gắn liền với thu nhập của mỗi cá
nhân. Việc thực hiện quy định này cũng nhằm đảm bảo thực hiện các quy
định pháp luật khác mà nhà nước đã ban hành.
- Góc độ kỹ thuật tính thuế thu nhập cá nhân khá phức tạp, áp dụng
phương pháp lũy tiến bởi diện đánh thuế rất rộng, việc tính thuế gắn liền với
hoàn cảnh cá nhân, chính sách xã hội cụ thể mới đảm bảo được công bằng xã
hội, người có thu nhập cao hơn thì trước và sau khi nộp thuế họ vẫn còn một
khoản thu nhập cao hơn so với người có thu nhập thấp hơn khi chưa nộp thuế.
Đây là điều kiện khuyến khích các cá nhân tích cực lao động sản xuất để tăng
thu nhập đồng nghĩa với việc nhà nước tăng nguồn thu từ thuế.
1.1.3. Vai trò của thuế thu nhập cá nhân
Thuế thu nhập cá nhân là sắc thuế trực thu có diện đánh thuế rộng, nên
việc ban hành sắc thuế ảnh hưởng rất lớn đến nhà nước cũng như đối tượng
nộp thuế.
1.1.3.1. Đối với nhà nước
Thứ nhất, thuế thu nhập cá nhân trở thành công cụ vô cùng cần thiết
và hữu hiệu trong việc kiểm soát thu nhập của các tầng lớp dân cư, thực hiện
15. 15
công bằng xã hội và quản lý, điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Để kiểm soát thu
nhập dân cư nhà nước sử dụng đồng thời hai cơ chế là cơ chế tự kê khai nộp
thuế và cơ chế quản lý tiền công, tiền lương, báo cáo quyết toán kinh doanh...
tuy chưa thực sự chính xác nhưng là căn cứ thống kê thu nhập của nhân dân
phục vụ cho định hướng chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và
Nhà nước phù hợp hơn.
Hiện nay trên thế giới sự phân chia giàu nghèo, bất bình đẳng xã hội
ngày càng rõ rệt. Mặc dù các khoản thu nhập cá nhân có được là do năng lực
và sức lao động của mình bỏ ra, tuy nhiên các cá nhân không có thu nhập cao
(không phải nộp thuế) phải chịu ảnh hưởng trực tiếp những hệ lũy xã hội phát
sinh từ người có thu nhập cao hơn như sinh hoạt phí, giá điện, xăng, phí môi
trường, chi phí về y tế, giáo dục... tăng cao và các loại thuế khác phục vụ cho
nhu cầu tái cấu trúc xã hội. Đây là những nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn đối
kháng trong xã hội. Để giải quyết vấn đề này, các nước đã dùng nhiều hình
thức và biện pháp khác nhau trong đó thuế thu nhập cá nhân được xem như
công cụ hữu hiệu để điều tiết bớt thu nhập của người có thu nhập cao, nhằm
đảm bảo công bằng xã hội. Thuế thu nhập cá nhân góp phần đáng kể đối với
việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế, bởi lẽ thuế thu nhập cá nhân là một giải pháp
để tăng cường hoặc giảm bớt điều tiết thu nhập của các tầng lớp dân cư là cho
tổng cầu của xã hội giảm hoặc tăng, từ đó có tác dụng co hẹp hoặc kích thích
kinh tế phát triển.
Thứ hai, thuế thu nhập cá nhân là nguồn thu quan trọng của ngân sách
nhà nước. Dù không phải là mục tiêu chủ yếu song việc thực hiện chính sách
thuế nói chung và chính sách thuế thu nhập cá nhân nói riêng đã tạo nguồn
thu vững chắc cho hầu hết tất cả các quốc gia trên thế giới. Cùng với xu
hướng phát triển kinh tế ngày càng tăng, thu nhập ngày càng nhiều thì việc cải
thiện nguồn ngân sách nhà nước bằng việc thực hiện Luật thuế thu nhập cá
nhân là không thể phủ nhận.
16. 16
Thứ ba, việc xây dựng và hoàn thiện chính sách thuế thu nhập cá nhân
góp phần hoàn thiện, khắc phục nhược điểm của một số chính sách thuế, đáp
ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập kinh tế quốc tế. Một số thuế gián
thu như thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt đều có nhiều nhược điểm là
có tính lũy thoái và ảnh hưởng đến người nghèo nhiều hơn người giàu vì khi
tiêu thụ cùng một lượng hàng hóa mọi người không phân biệt giàu nghèo đều
phải chịu một mức thuế như nhau. Việc tính thuế thu nhập cá nhân theo
phương pháp lũy tiến từng phần khắc phục được nhược điểm này.
Thứ tư, thuế thu nhập cá nhân góp phần hạn chế sự thất thu thuế thu
nhập doanh nghiệp: Trong doanh nghiệp thường tồn tại cả thuế thu nhập
doanh nghiệp và thuế thu nhập cá nhân. Giữa hai loại thuế này luôn luôn tồn
tại mối quan hệ gắn bó với nhau. Thuế thu nhập cá nhân còn góp phần hạn
chế sự thất thu thuế thu nhập doanh nghiệp khi có sự thông đồng giữa các
doanh nghiệp hay giữa doanh nghiệp với cá nhân. Trong trường hợp doanh
nghiệp kê khai cao hơn thực tế những chi phí phải trả cho các cá nhân để làm
giảm thu nhập tính thuế của doanh nghiệp hòng trốn thuế thu nhập doanh
nghiệp thì cá nhân hưởng những khoản trả nói trên sẽ phải nộp thuế thu nhập
cá nhân đối với thu nhập nhận được kê khai tăng thêm đó. Thu nhập doanh
nghiệp tăng thường kéo theo sự tăng lên của thuế thu nhập doanh nghiệp và
thuế thu nhập cá nhân.
1.1.3.2. Đối với người nộp thuế
Trong xu hướng hiện nay, thu nhập của dân cư có sự chênh lệch
nhau, số đông dân cư có thu nhập thấp nhưng cũng có một số cá nhân có thu
nhập cao, nhất là các cá nhân làm việc tại doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài, khu chế xuất, ngành nghề giải trí hoặc cá nhân nước ngoài làm việc
tại Việt Nam. Tuy nhiên chỉ những cá nhân có thu nhập chịu thuế được quy
định trong thuế thu nhập cá nhân mới phải nộp thuế. Đồng thời việc xác định
17. 17
thu nhập chịu thuế luôn trên nguyên tắc khấu trừ trước khi tính thuế. Quy
định nêu trên đã thể hiện nguyên tắc công bằng và khả năng nộp thuế của
người có thu nhập. Cụ thể, tất cả các cá nhân có thu nhập (trừ trường hợp
miễn, giảm thuế) không kể người Việt Nam hay nước ngoài, công chức hay
hành nghề tự do đều phải nộp thuế; người có thu nhập thấp hơn chưa phải
nộp thuế, người có thu nhập cao hơn thì hưởng các nguồn lợi nhiều hơn, làm
phát sinh chi phí chung xã hội lớn hơn nên phải nộp thuế nhiều hơn; người
có thu nhập như nhau nhưng có hoàn cảnh khác nhau thì phải nộp thuế
khác nhau.
Để thấy rõ vai trò trên của thuế thu nhập cá nhân có thể sử dụng
đường cong Lorenz dưới đây (hình 1.1)
Hình 1.1: Ảnh hưởng của thuế đến sự công bằng trong phân phối thu nhập
Đồ thị trên cho thấy đường cong Lorenz càng gần đường phân giác thì
càng phản ánh sự phân phối công bằng. Điều đó được trợ giúp bởi thuế lũy
tiến thông qua việc thực hiện thuế thu nhập cá nhân để đảm bảo rút ngắn
khoảng cách phân hóa giàu nghèo trong xã hội.
`Cũng như những sắc thuế khác, thuế thu nhập cá nhân là sắc thuế
mang lại nguồn ngân sách khá lớn cho nhiều quốc gia trên thế giới. Cho
Thu nhập được
phân phối công bằng
Thu nhập trước thuế
Thu nhập sau thuế
Dân cư %
GDP %
18. 18
đến nay có hơn 180 nước trên thế giới đã áp dụng Luật thuế thu nhập cá
nhân, tỷ trọng thuế thu nhập chiếm khoảng 13-40% tổng số thu ngân sách
tùy theo quan điểm đánh thuế của từng nước. Chẳng hạn như ở Mỹ, Nhật
Bản, Anh, Pháp, Đức... là 30-40%; Các nước trong khối ASEAN như Thái
Lan, Malaysia, Philippines... chiếm khoảng 13-14% [51]. Ở Việt Nam
thuế thu nhập cá nhân ra đời muộn và nguồn thu từ thuế thu nhập cá nhân
chiếm khoảng 3-7% tổng thu ngân sách [28]. Tuy là nguồn thu không lớn,
nhưng đây cũng là nguồn thu quan trọng để nhà nước sử dụng tái đầu tư
vào các công trình như điện, đường, trường, trạm và các hoạt động xã hội
cũng như xây dựng an ninh quốc phòng góp phần nâng cao đời sống của
bản thân người nộp thuế nói riêng và toàn thể nhân dân nói chung đặc biệt
trong giai đoạn nền kinh tế thế giới và trong nước gặp nhiều khó khăn như
hiện nay.
Tuy nhiên, thuế thu nhập cá nhân là sắc thuế đánh trực tiếp trên thu
nhập cá nhân nên ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống và hoàn cảnh gia đình
của người nộp thuế. Hơn nữa việc xác định thu nhập chịu thuế hiện nay rất
khó nhất là đối với những thu nhập từ ngành, nghề tự do, vì vậy chưa đảm
bảo được nhu cầu phân phối lại thu nhập quốc dân qua thuế, chưa đáp ứng
được công bằng xã hội, tạo tâm lý phân bua trong một số bộ phận người
nộp thuế.
1.2. NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN
1.2.1. Quan điểm, mục tiêu, yêu cầu ban hành Luật thuế thu nhập
cá nhân
Quan điểm, mục tiêu, yêu cầu ban hành Luật thuế thu nhập cá nhân ở
Việt Nam được nêu rõ trong Tờ trình Quốc hội số 134/TTr-CP ngày 17 tháng 10
năm 2006 của Chính phủ.
19. 19
1.2.1.1. Quan điểm, mục tiêu xây dựng Luật thuế thu nhập cá nhân
Thứ nhất, đảm bảo công bằng trong điều tiết thu nhập của các tầng lớp
dân cư trong xã hội. Tính công bằng trong chính sách thuế thu nhập cá nhân
biểu hiện ở chỗ: các cá nhân có thu nhập ngang nhau thì phải được nộp thuế
như nhau (công bằng theo chiều ngang); các cá nhân có thu nhập khác nhau
thì phải nộp thuế khác nhau (công bằng theo chiều dọc). Đối với thuế thu
nhập cá nhân, công bằng theo chiều dọc nghĩa là điều tiết thu nhập nhiều hơn
đối với những người có thu nhập cao hơn. Muốn thực hiện sự công bằng trong
thực thi thuế thu nhập cá nhân cần xác định đúng đắn đối tượng nộp thuế, thu
nhập chịu thuế, mức thuế phải nộp và các khoản giảm trừ.
Thứ hai, đảm bảo động viên một cách hợp lý thu nhập dân cư, khuyến
khích mọi cá nhân ra sức lao động, sản xuất kinh doanh, gia tăng thu nhập
làm giàu chính đáng. Việc ban hành thuế thu nhập cá nhân phải thể hiện được
tính hợp lý đối với tất cả các khoản thu nhập dân cư, chỉ đánh thuế sau khi đã
tính toán các khoản khấu trừ cho cá nhân phù hợp, đồng thời mức thuế suất
phản ánh được quyền lợi cá nhân nhận được sau khi đánh thuế. Nếu mức thuế
suất quá cao, tức là khoản thu nhập còn lại sau khi nộp thuế quá thấp sẽ dẫn
đến tâm lý không muốn làm việc để có thêm thu nhập hoặc tìm cách trốn các
nghĩa vụ thuế.
Thứ ba, ban hành và áp dụng thuế thu nhập cá nhân có tính đến bước
đi phù hợp với tình hình nước ta và thông lệ quốc tế; kế thừa những quy định
có tính chọn lọc những quy định trong chính sách thuế hiện hành. Thuế thu
nhập cá nhân ở Việt Nam ra đời muộn so với nhiều quốc gia trên thế giới,
song nguồn thu nhập bình quân đầu người dân cư chưa cao, việc quản lý thu
nhập của dân cư cũng rất khó khăn. Vì vậy khi ban hành luật thuế, nhà nước
phải tính đến các đặc trưng riêng của thu nhập dân cư, các quy định pháp luật
hiện hành trong nước nhằm đạt hiệu quả thi hành luật cao. Tuy nhiên, do nhu
cầu hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện các điều ước quốc tế mà Việt Nam
20. 20
tham gia hoặc ký kết, các chính sách thuế nói chung và thuế thu nhập cá nhân
nói riêng cũng phải tính đến sự phù hợp với thông lệ quốc tế.
Thứ tư, đảm bảo huy động nguồn lực để nhà nước giải quyết tốt hơn
các vấn đề xã hội. Thuế là công cụ quan trọng có khả năng tạo nguồn thu cho
ngân sách nhà nước, đáp ứng nhu cầu chi tiêu ngày càng tăng của nhà nước và
giải quyết các vấn đề xã hội. Nhất là trong điều kiện hiện nay khi vai trò của
nhà nước không chỉ đơn thuần điều chỉnh kinh tế - xã hội bằng các biện pháp
hành chính và ngày càng sử dụng nhiều biện pháp kinh tế để can thiệp và điều
chỉnh các hoạt động kinh tế - xã hội. Đối với thuế thu nhập cá nhân, có hai
cách để đảm bảo tăng mức thu thuế cho ngân sách nhà nước là tăng thuế suất
và mở rộng diện đánh thuế. Trong đó, cách thứ hai đảm bảo tính khả thi và
hiệu quả hơn vì xu hướng mở rộng diện đánh thuế, giảm bớt thuế suất tối đa
hiện nay đang là trào lưu cải cách chung của các nước trên thế giới và đã
được chứng minh qua thực tiễn thành công ở nhiều quốc gia.
1.2.1.2. Yêu cầu của Luật thuế thu nhập cá nhân
Một là, nắm thông tin về thu nhập dân cư, từng bước quản lý tiến tới
kiểm soát thu nhập, phục vụ cho công tác hoạch định chính sách phát triển
kinh tế - xã hội của Đảng và nhà nước trong từng thời kỳ. Hiện nay, việc
hoạch định chính sách phát triển kinh tế - xã hội gặp không ít khó khăn là do
nhiều nguyên nhân, trong đó việc nhà nước chưa có cơ chế hữu hiệu để kiểm
soát thu nhập và nắm thông tin thu nhập dân cư là một trong những nguyên
nhân quan trọng. Việc thực hiện Luật thuế thu nhập cá nhân là một trong
những giải pháp hữu hiệu để nhà nước có thể thể nắm thông tin và tiến tới
kiểm soát thu nhập. Bởi vì, muốn thu thuế thu nhập cá nhân thì nhà nước phải
biết được các khoản thu mà cá nhân có được trong quá trình hoạt động của
mình. Việc kiểm soát thu nhập thông qua chính sách thuế sẽ có hiệu quả hơn
nhiều so với việc điều tra thu nhập thông qua các kênh thông tin, khảo sát xã
hội và các báo cáo mang tính định ước của các cơ quan, tổ chức.
21. 21
Hai là, đảm bảo đơn giản dễ thực hiện, dễ kiểm tra, minh bạch và
công khai.
Đây là yêu cầu cơ bản trong mọi chính sách thuế nói chung và thuế
thu nhập cá nhân nói riêng trong quy trình thủ tục kê khai, nộp thuế và quản
lý hành chính thuế, từng bước áp dụng công nghệ thông tin hiện đại, tạo điều
kiện cho cả đối tượng nộp thuế và cơ quan thuế, qua đó góp phần thúc đẩy
quá trình cải cách hành chính và hiện đại hóa công tác quản lý thu thuế. Đây
cũng là những yêu cầu cơ bản của quá trình quốc tế hóa hệ thống chính sách
thuế trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta hiện nay và trong
tương lai.
Ba là, phù hợp với thực tiễn và hệ thống pháp luật của Việt Nam, phù
hợp với thông lệ quốc tế. Thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam ra đời trong điều
kiện nhiều sắc thuế trong nước đã phát triển và tương đối hoàn thiện, thuế thu
nhập cá nhân của các nước trên thế giới chiếm vai trò quan trọng trong tổng
thu nhập quốc dân và việc đẩy mạnh kinh tế quốc tế cũng như sự chuyển dịch
lao động giữa các quốc gia diễn ra mạnh mẽ. Việc ban hành một chính sách
thuế mới phải phù hợp với chính sách pháp luật trong nước và thông lệ quốc
tế là yêu cầu quan trọng đảm bảo tính khả thi khi được ban hành và tạo điều
kiện thuận lợi hội nhập kinh tế quốc tế.
1.2.2. Nội dung của pháp luật về thuế thu nhập cá nhân
1.2.2.1. Đối tượng nộp thuế
Thuế thu nhập cá nhân là một loại thuế trực thu nên đối tượng chịu
thuế cũng chính là đối tượng nộp thuế. Việc xác định đối tượng nộp thuế là cơ
sở để vận dụng cách tính thuế cho phù hợp. Đối với cá nhân thì "nguồn phát
sinh thu nhập" và "nơi cư trú" có thể là ở các quốc gia khác nhau. Vì vậy, để
xác định đối tượng nộp thuế, thông thường dựa vào hai tiêu thức là "nguồn
phát sinh thu nhập" và "nơi cư trú".
22. 22
Tiêu thức "nơi cư trú" quy định một cá nhân phải nộp thuế đối với mọi
khoản thu nhập phát sinh từ mọi nơi trên thế giới tại nước mà cá nhân được
xác nhận là cư trú.
Tiêu thức "nguồn phát sinh thu nhập" lại quy định, một cá nhân chỉ
phải nộp thuế thu nhập cá nhân tại Quốc gia phát sinh nguồn thu nhập đó.
Từ trước đến nay, việc tính thuế thu nhập cá nhân của các quốc gia
trên thế giới chủ yếu dựa vào tiêu thức "nơi cư trú". Bởi vì việc tính thuế thu
nhập cá nhân theo tiêu thức "nguồn phát sinh thu nhập" rất phức tạp đối với
việc xác định thu nhập cá nhân, khoản miễn trừ khi cá nhân đó có nguồn thu
nhập và nơi cư trú ở nhiều quốc gia khác nhau. Dựa vào tiêu thức "nơi cư trú"
việc tính thuế thu nhập cá nhân đơn giản hơn rất nhiều vì dù các khoản thu
nhập đó thường được chuyển về nơi cư trú hoặc thông qua hợp đồng lao
động, vì vậy nhà nước vẫn có thể kiểm soát được thu nhập. Đồng thời các
khoản khấu trừ thông thường phát sinh từ nơi cư trú nên việc tính thuế thu
nhập cá nhân cũng tương đối chính xác đối với những đối tượng này. Tuy
nhiên, trong Luật thuế thu nhập cá nhân của mỗi nước lại có khái niệm khác
nhau về nơi cư trú:
Nhật Bản đưa ra một định nghĩa tương đối phức tạp, trong đó có 3
khái niệm khác nhau là cá nhân cư trú thường xuyên, cá nhân cư trú không
thường xuyên và cá nhân không cư trú, cụ thể là: Cá nhân cư trú thường
xuyên là cá nhân định cư thường xuyên ở Nhật Bản liên tục trong vòng 5 năm;
cá nhân cư trú không thường xuyên là cá nhân không có ý định cư trú thường
xuyên tại Nhật Bản nhưng có nơi cư trú ở Nhật Bản từ 1 năm trở lên nhưng
không quá 5 năm; cá nhân không cư trú là cá nhân không có nơi định cư tại
Nhật Bản và sống tại Nhật Bản ít hơn 1 năm. Các cá nhân nước ngoài đến Nhật
Bản sẽ được coi là có nơi cư trú tại Nhật Bản trừ khi các hợp đồng lao động
hoặc các giấy tờ khác ghi rõ rằng họ sẽ ở lại Nhật Bản ít hơn 1 năm. Các cá nhân
cư trú thường xuyên bị đánh thuế trên thu nhập từ mọi nguồn; các cá nhân cư
23. 23
trú không thường xuyên bị đánh thuế trên thu nhập có nguồn gốc từ nước ngoài
nhưng được trả tại Nhật Bản hoặc được chuyển đến Nhật Bản; các cá nhân
không cư trú chỉ phải nộp thuế đối với thu nhập có nguồn gốc từ Nhật Bản. Ở
Pháp, một người được coi là cư trú tại Pháp nếu coi pháp là nơi ở chính, hành
nghề chính hay có các trung tâm quyền lợi đặt tại Pháp hoặc thường xuyên có
mặt tại Pháp hơn 06 tháng trong một năm hoặc Pháp là nơi mang lại phần lớn
thu nhập. Ở Hàn Quốc, cá nhân cư trú tại Hàn Quốc là người có nhà ở Hàn
Quốc hoặc cư trú tại Hàn Quốc 01 năm trở lên. Ở Hồng Kông, mọi cá nhân
không phân biệt "cư trú" hay "không cư trú" chỉ phải nộp thuế thu nhập cá
nhân ở Hồng Kông đối với các khoản thu nhập phát sinh ở nước này. Luật
thuế thu nhập cá nhân của Mỹ lại quy định: cá nhân cư trú là công dân Mỹ và
những người cư trú ở Mỹ tối thiểu 330 ngày đêm [62, tr. 13-14].
Như vậy, tùy theo chính sách và trình độ quản lý mà mỗi quốc gia sẽ
đưa ra quy định của mình cho phù hợp.
Đối với những cá nhân không cư trú mà có phát sinh thu nhập tại nước
đó thì hầu hết các quốc gia sử dụng tiêu thức "nguồn phát sinh thu nhập" để
đánh thuế thu nhập cá nhân. Cách tính thuế theo nguồn phát sinh thu nhập chỉ
thích hợp với những nước có nhiều người nước ngoài đến làm việc và đầu tư,
hầu như không đánh thuế đối với công dân nước họ đi làm hoặc đầu tư ở nước
ngoài vì nếu đánh thuế với những đối tượng này thì công dân nước họ bị đánh
thuế thu nhập cá nhân hai lần.
Theo quy định tại Điều 2 Luật thuế thu nhập cá nhân thì đối tượng nộp
thuế là cá nhân có cư trú tại Việt Nam đáp ứng hai điều kiện:
(1) có mặt tại Việt Nam từ 183 ngày trở lên tính trong một
năm dương lịch hoặc trong 12 tháng liên tục kể từ ngày đầu tiên có
mặt tại Việt Nam; và (2) có nơi ở thường xuyên tại Việt Nam, bao
gồm có nơi đăng ký thường trú hoặc có nhà thuê để ở tại Việt Nam
theo hợp đồng thuê có thời hạn [55].
24. 24
Luật thuế thu nhập cá nhân số 26/2012/QH13 đã bổ sung quy định
"thời hạn của hợp đồng thuê nhà để ở trên hợp đồng là 183 ngày trở lên" [60],
nhưng quá trình triển khai vẫn phát sinh bất cập là người Việt Nam có nơi ở
thường trú tại Việt Nam mà đi công tác, học tập, lao động tại nước ngoài từ
183 ngày trở lên, người nước ngoài là đối tượng cư trú tại nước ngoài đến
Việt Nam từ 183 ngày trở lên đều có thể là đối tượng cư trú của 2 nước và là
đối tượng nộp thuế thu nhập cá nhân tại Việt Nam trên thu nhập toàn cầu.
Mặc dù không dẫn đến tình trạng cá nhân là đối tượng cư trú của 2 nước như
nêu trên bị đánh thuế trùng và không làm tăng thêm số thuế thu được (do đã
được khắc phục bằng việc áp dụng Hiệp định tránh đánh thuế hai lần mà Việt
Nam đã tham gia hoặc ký kết), tuy nhiên quy định này vẫn phát sinh thủ tục
hành chính gây phiền hà cho người nộp thuế và phức tạp trong quản lý thu thuế.
1.2.2.2. Thu nhập chịu thuế
Để đánh giá đúng và chính xác tiêu chí của việc ban hành Luật thuế
thu nhập cá nhân mà từng nước áp dụng như: Sắc thuế này có thực sự công
bằng không, thuế này đem lại nguồn thu như thế nào cho ngân sách thì việc
xác định các loại thu nhập chịu thuế là vấn đề mang tính quyết định. Thu nhập
chịu thuế là một khoản thu nhập nằm trong diện chịu thuế thu nhập cá nhân
theo quy định trong chính sách thuế thu nhập cá nhân của từng quốc gia. Để
tính được thuế thu nhập cá nhân mà đối tượng nộp thuế phải nộp, trước tiên
phải xác định được những khoản thu nhập nào là thu nhập chịu thuế và cách
tính thu nhập, sau đó trừ các khoản miễn trừ, khấu trừ...(nếu có) cơ quan thuế
xác định được thu nhập tính thuế, áp dụng thuế suất theo quy định sẽ xác định
được số thuế phải nộp.
Thu nhập cá nhân được hiểu là giá trị vật chất cá nhân kiếm được
trong một khoảng thời gian (thường là 01 năm) sau khi đã khấu trừ các chi phí
để tạo ra thu nhập đó.
25. 25
Thu nhập được phân loại theo các căn cứ khác nhau để xác định đối
tượng tính thuế:
- Theo thời gian: Thu nhập được chia thành thu nhập thường xuyên và
không thường xuyên
- Theo nguồn tạo ra thu nhập: Thu nhập từ lao động, thu nhập từ đầu
tư và thu nhập khác.
+ Thu nhập từ lao động: Là khoản thu nhập thường xuyên nhận được
dưới dạng như thu nhập từ tiền công, tiền lương, kinh doanh, hành nghề tự do
hoặc các khoản thù lao cá nhân nhận được trong quá trình lao động.
+ Thu nhập từ đầu tư: Lãi cổ phần, lãi cho vay,...
+ Thu nhập khác: Lãi từ chuyển nhượng tài sản, thu nhập từ quà biếu,
quà tặng, tiền nhuận bút, trúng xổ số,...
- Theo chủ thể hưởng thu nhập: Thu nhập công ty, thu nhập Chính
phủ, thu nhập cá nhân...
Thu nhập cá nhân có rất nhiều loại, nhưng không phải nước nào cũng
đưa tất cả các nguồn thu nhập chịu thuế thu nhập cá nhân. Việc quy định thu
nhập và mức độ chịu thuế phụ thuộc vào quan điểm, mục tiêu điều tiết thu
nhập, mục tiêu kinh tế, chính trị xã hội của từng quốc gia trong từng điều
kiện hoàn cảnh cụ thể. Thu nhập từ lao động hầu như bị đánh thuế ở tất cả
các quốc gia trên thế giới tuy mức độ chịu thuế có thể khác nhau, thu nhập
từ đầu tư và thu nhập khác thì pháp luật mỗi quốc gia có những quy định
khác nhau. Vì vậy cùng một khoản thu nhập có thể ở quốc gia này bị đánh
thuế thu nhập cá nhân nhưng quốc gia khác có thể là không.
Thu nhập chịu thuế được quy định tại Điều 3 Luật thuế thu nhập cá
nhân số 04/2007/QH12 và Khoản 1 Điều 1 Luật số 26/2012/QH13 sửa đổi bổ
sung một số điều Luật thuế cá nhân. Theo quy định tại các điều này, thu nhập
chịu thuế thu nhập cá nhân được chia thành các nhóm thu nhập:
26. 26
Thu nhập từ tiền lương, tiền công; thu nhập từ kinh doanh
hộ gia đình, cá nhân; thu nhập từ đầu tư vốn; chuyển nhượng chứng
khoán; thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản; thu nhập từ trúng
thưởng xổ số, casino và trúng thưởng khác; thu nhập từ bản quyền,
nhượng quyền thương mại; thu nhập từ thừa kế, quà tặng là chứng
khoán, phần vốn trong các tổ chức kinh tế, bất động sản và các tài
sản khác phải đăng ký quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng [55], [60]
Một trong những nguyên tắc cơ bản khi tính thuế thu nhập cá nhân là
đối tượng tính thuế phải là thu nhập do người đóng thuế toàn quyền sử dụng
theo quy định của pháp luật. Điều đó cũng có nghĩa là đối tượng tính thuế là
thu nhập đã khấu trừ các khoản chi phí cần thiết để tạo ra thu nhập đó với một
số giới hạn nhất định. Tùy theo đặc điểm kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia mà
quy định những khoản khấu trừ phù hợp. Tuy nhiên, về cơ bản các nước đều
áp dụng nguyên tắc chung là: Tất cả các chi phí trực tiếp liên quan đến việc
tạo ra thu nhập cá nhân đều được khấu trừ để xác định thu nhập thực nhận
được, sau đó trừ một số khoản mang tính chất xã hội trước khi tính thuế.
- Các khoản khấu trừ có tính chất kinh tế: Cá nhân có các khoản thu
sẽ phải trả những chi phí này. Do vậy, sẽ có một khoản tiền trong các khoản
thu của cá nhân mà cá nhân chỉ tạm thời sở hữu chứ không được toàn quyền
sử dụng tương ứng với chi phí này. Khoản tiền này sẽ nhanh chóng được chuyển
quyền sở hữu khi người đó chi trả các chi phí trên. Như vậy, các chi phí để
tạo ra thu nhập cần được khấu trừ để xác định thu nhập của mỗi cá nhân.
+ Đối với thu nhập từ các hoạt động thương mại, công nghiệp, dịch
vụ của các hộ kinh doanh cá thể không thuộc diện tính thuế thu nhập doanh
nghiệp. Nguyên tắc khấu trừ là tất các chi phí cần thiết và liên quan trực tiếp
đến hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ để tạo ra thu nhập mà người nộp
thuế đã thực hiện bao gồm: lương công nhân, chi phí thuê mướn, tiền trợ cấp,
27. 27
chi phí mua vật tư, nguyên liệu, chi phí bảo hiểm, các chi phí về dịch vụ cung
cấp từ bên ngoài, khấu hao máy móc, thiết bị, nhà xưởng..
Quy định chung về khấu trừ các phí tổn này là chi phí đã thực sự chi
trả và cần thiết liên quan trực tiếp đến quá trình tạo ra thu nhập. Trong thực tế,
rất khó xác định ranh giới được khấu trừ hay không được khấu trừ nên thông
thường phải có những khống chế hay giới hạn tối đa rất tỷ mỉ, chặt chẽ thì
mới có thể quản lý được. Về nguyên tắc một cá nhân phải có các chứng từ
hợp lệ để chứng minh được các chi phí mà mình phải bỏ ra liên quan trực tiếp
đến việc tạo ra thu nhập. Tuy nhiên, việc quản lý được chi phí rất khó. Nhiều
trường hợp cá nhân không có đủ chứng từ hợp lệ để chứng minh chi phí mình
bỏ ra, đối với những trường hợp này Nhà nước sẽ khoán một chi phí định mức
cho cá nhân theo một số tiêu chuẩn nhất định gọi là thuế khoán. Tuy nhiên,
việc áp dụng hình thức thuế khoán cũng không có một quy định cụ thể nên
hầu hết chỉ dựa vào tính áp đặt chủ quan của cơ quan thuế.
+ Đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công, trợ cấp xã hội và các
khoản thu nhập tương tự. Để xác định tính thuế đối với những loại thu nhập
này thông thường pháp luật quy định cho phép trừ ra khỏi thu nhập một mức
nào đó gọi là chi phí nghề nghiệp như các khoản bảo hiểm xã hội, bảo hiểm
tuổi già. Vì đây là những khoản thu nhập cố định và là thu nhập chính của cá
nhân, những khoản thu nhập này cá nhân chỉ có được trong một khoảng thời
gian nhất định (thường ở độ tuổi lao động), đối với các cá nhân có thu nhập từ
các ngành nghề đặc biệt như ca sĩ, diễn viên, bác sĩ thì thời gian thực hiện
công việc có thu nhập ngắn hơn và mức độ rủi ro nghề nghiệp cũng cao hơn
vì vậy mức chi phí được tính nhiều hơn.
+ Đối với thu nhập từ lãi cổ phần, lãi cho vay... Đối tượng tính thuế là
số lãi thu được sau khi trừ chi phí. Đối với khoản thu nhập này cá nhân có thu
nhập phải bỏ ra một khoản vốn nhất định để đầu tư, vì vậy chỉ có thể đánh
28. 28
thuế sau khi cá nhân đã trừ đi khoản đầu tư ban đầu (bao gồm cả vốn và chi
phí). Trong trường hợp đầu tư không có lãi thì không thể đánh thuế vì cá nhân
không có thu nhập.
+ Đối với thu nhập từ thừa kế. Đây là khoản thu nhập tính thuế có tính
chất đặc biệt do người thừa kế phải chịu trách nhiệm cả về những khoản nợ
của người để lại di sản thừa kế. Do đó, đối tượng tính thuế là số chênh lệch
dương giữa tài sản thừa kế và các khoản nợ của người để lại di sản thừa kế,
ngoài ra tùy theo quan hệ thừa kế, người thừa kế có thể được miễn hoặc trừ
thêm một khoản không phải tính thuế. Đây là khoản thu nhập cá nhân có được
mà không phải bỏ sức lao động hay bỏ vốn ban đầu, vì vậy di sản thừa kế là
khoản thu mà cá nhân nhận được. Tuy nhiên có nhiều trường hợp người thừa
kế phải thực hiện các nghĩa vụ trong tương lai với người để lại di sản như
nghĩa vụ thờ cúng hoặc phần di sản cá nhân được hưởng lại không được tự sử
dụng mà phục vụ mục đích chung, trong trường hợp này mặc dù có thu nhập
nhưng khoản thu đó được miễn hoặc giảm trừ là hợp lý.
- Các khoản chi tiêu mang tính chất xã hội, khoa học, những thu nhập
mang tính chất trợ cấp xã hội, giúp những người có hoàn cảnh khó khăn,
người nghèo không nơi nương tựa, người tàn tật... Những khoản chi của cá
nhân được xem xét để khấu trừ để xác định thu nhập nộp thuế là:
+ Những chi phí đặc biệt. Chi phí có tính chất tiêu dùng như khấu trừ
cho bản thân người nộp thuế, khấu trừ cho người phụ thuộc, bảo hiểm y tế,
các khoản đóng góp bắt buộc theo luật định như tiền nuôi dưỡng bố mẹ, tiền
nuôi dưỡng con cái,...những khoản chi này được xem là những khoản chi phí
đặc biệt bởi vì đây là những khoản chi phí không phát sinh trực tiếp trong quá
trình tạo ra thu nhập mà là những khoản chi phí phục vụ tái tạo sức lao động
để tạo ra thu nhập cho cá nhân nộp thuế hoặc những khoản chi phí chủ thể
phải thực hiện nghĩa vụ đối với các chủ thể khác. Những khoản chi phí này là
29. 29
những khoản chi bắt buộc chủ thể phải thực hiện thông thường được pháp luật
quy định trong giới hạn nhất định.
+ Các khoản phúc lợi xã hội như những chi phí bắt buộc bao gồm
những khoản về thuốc chữa bệnh, thiên tai, dịch họa hoặc chi phí của người
tàn tật... thu nhập được sử dụng trong các trường hợp này thường được miễn
thuế thu nhập cá nhân, những quy định này là để bảo đảm có sự bình đẳng với
những người không phải chi những chi phí này.
Tất cả các khoản chi phí trên thường được các nước quy định một giới
hạn khấu trừ cụ thể gọi là "suất miễn thu". Các quốc gia trên thế giới quy định
cụ thể những khoản thu được miễn thuế, ngoài những khoản thu miễn thuế đó
ra thì tất cả các khoản thu còn lại đều bị đánh thuế. Việc quy định này giúp cơ
quan nhà nước dễ dàng quản lý các khoản thu của cá nhân đồng thời xác định
chính xác thu nhập chịu thuế, tránh trường hợp "đánh thuế sót". Còn cách quy
định của pháp luật Việt Nam nêu rõ thu nhập chịu thuế, cách quy định này có
thể giúp cơ quan có thẩm quyền dễ dàng xác định được các loại thu nhập chịu
thuế nhưng không thể quản lý được các khoản thu. Đồng thời có nhiều khoản
thu nhập phát sinh mà nhà làm luật không thể trù liệu trước hoặc phát sinh sau
khi ban hành luật thuế lại không phải nộp thuế, dẫn đến hệ quả là "đánh thuế
sót". Nếu muốn thu thuế đối với các khoản thu này cơ quan có thẩm quyền lại
phải sửa đổi luật đã ban hành làm tốn kém ngân sách nhà nước và gây khó
khăn, phiền hà đối với cơ quan thuế và nhân dân.
1.2.2.3. Phương pháp tính thuế
Thuế thu nhập cá nhân thường được chia thành: thuế thu nhập cá nhân
theo khoản và thuế thu nhập cá nhân tổng hợp.
- Thuế thu nhập cá nhân theo khoản: Là việc đánh thuế dựa trên tổng
thu nhập của từng nguồn riêng biệt. Thuế thu nhập cá nhân theo khoản tồn tại
bởi 2 nguyên tắc: tính thuế độc lập và tương ứng với mỗi nguồn thu nhập là
30. 30
một mức thuế suất. Vì vậy căn cứ vào nguồn gốc, đặc điểm thu nhập để điều
chỉnh mức thuế suất cho phù hợp.
- Thuế thu nhập cá nhân tổng hợp: Loại thuế này được tính trên tổng
thu nhập tương ứng với tổng số các khoản thu nhập cộng lại. Với cách tính
này thì người có thu nhập cao hơn thì phải nộp thuế nhiều hơn.
Để xác định số thuế thu nhập cá nhân phải nộp phải dựa vào thu nhập
tính thuế và thuế suất. Tùy theo quan điểm về mục đích sử dụng thuế thu nhập
cá nhân của mỗi quốc gia, thuế thu nhập cá nhân được tính theo bảng tính
thuế lũy tiến hoặc tính thuế bằng một tỷ lệ phần trăm nhất định. Để áp dụng
mức thuế phù hợp với từng loại thu nhập cần phải sử dụng các phương pháp
tính thuế khác nhau.
Phương pháp tính thuế thu nhập cá nhân được áp dụng chủ yếu ở Việt
Nam là phương pháp tính thuế theo lũy tiến từng phần và phương pháp tính
thuế theo lũy tiến toàn phần.
- Phương pháp tính thuế lũy tiến từng phần: Thuế suất được sử dụng
trong phương pháp này là phương pháp lũy tiến từng phần, theo phương pháp
này thì thuế suất tăng dần theo từng phần tăng lên của cơ sở thuế. Với cách
tính thuế này, cơ sở tính thuế được chia thành nhiều bậc theo mức độ tăng
dần. Ứng với mỗi lần tăng lên trong từng bậc thuế là một mức thuế suất biên.
Số thuế mà đối tượng phải nộp bằng tổng số thuế tính theo từng bậc. Tuy việc
tính toán và kiểm tra thuế phải nộp theo phương pháp này là khá phức tạp
nhưng cách tính này lại đảm bảo số thuế phải nộp tăng dần, không bị đột biến
cùng với tốc độ tăng của cơ sở thuế, đảm bảo tính công bằng theo chiều dọc
cao và có tác dụng lớn trong việc điều tiết thu nhập.
Phương pháp tính thuế này được áp dụng đối với các khoản thu nhập từ
kinh doanh, tiền lương, tiền công trừ các khoản đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm
y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp đối với một số
31. 31
ngành, nghề phải tham gia bảo hiểm bắt buộc, quỹ hưu trí tự nguyện, các khoản
giảm trừ gia cảnh và giảm trừ đối với các khoản đóng góp từ thiện nhân đạo.
Bảng 1.1: Biểu thuế lũy tiến từng phần
Bậc
thuế
Phần thu nhập tính thuế/năm
(triệu đồng)
Phần thu nhập tính
thuế/tháng (triệu đồng)
Thuế
suất (%)
1 Đến 60 Đến 5 5
2 Trên 60 đến 120 Trên 5 đến 10 10
3 Trên 120 đến 216 Trên 10 đến 18 15
4 Trên 216 đến 384 Trên 18 đến 32 20
5 Trên 384 đến 624 Trên 32 đến 52 25
6 Trên 624 đến 960 Trên 52 đến 80 30
7 Trên 960 Trên 80 35
Nguồn: Luật thuế thu nhập cá nhân, 2007.
- Phương pháp tính thuế lũy tiến toàn phần: Theo phương pháp này,
biểu thuế cũng được chia thành nhiều bậc ứng với mỗi mức tăng lên của thuế
suất nhưng toàn bộ cơ sở thuế được áp dụng một thuế suất chung tương ứng.
Phương pháp tính thuế suất lũy tiến toàn phần cho phép xác định số thuế phải
nộp đơn giản nhanh chóng. Tuy nhiên, cách tính này có nhược điểm là gây ra
sự thay đổi có tính chất đột biến về tổng số thuế phải nộp của các đối tượng
nộp thuế. Mặc dù giá trị cơ sở thuế thay đổi không đáng kể nhưng người chịu
thuế lại phải nộp một thuế suất tương ứng tăng lên cho toàn bộ cơ sở thuế. Do
đó, số thuế phải nộp tăng cao, sự tăng thuế này dẫn đến phản ứng tiêu cực từ
phía đối tượng nộp thuế, làm giảm vai trò của thuế.
Phương pháp tính thuế này được áp dụng đối với những khoản thu
nhập mang tính chất đột biến gồm đầu tư vốn, chuyển nhượng vốn, chuyển
nhượng bất động sản, trúng thưởng, tiền bản quyền, nhượng quyền thương
mại, nhận thừa kế, quà tặng.
32. 32
Bảng 1.2: Biểu thuế toàn phần
Thu nhập tính thuế Thuế suất (%)
a) Thu nhập từ đầu tư vốn 5
b) Thu nhập từ bản quyền, nhượng quyền thương mại 5
c) Thu nhập từ trúng thưởng 10
d) Thu nhập từ thừa kế, quà tặng 10
đ) Thu nhập từ chuyển nhượng vốn quy định tại khoản 1 Điều
13 của Luật thuế thu nhập cá nhân 2007
20
Thu nhập từ chuyển nhượng chứng khoán quy định tại khoản 2
Điều 13 của Luật thuế thu nhập cá nhân 2007
0,1
e) Thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản quy định tại khoản
1 Điều 14 của Luật thuế thu nhập cá nhân 2007
25
Thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản quy định tại khoản 2
Điều 14 của Luật thuế thu nhập cá nhân 2007
2
Nguồn: Luật thuế thu nhập cá nhân, 2007.
Luật thuế thu nhập cá nhân số 04/2007/QH12 quy định có 10 khoản
thu nhập chịu thuế. Có nhiều loại thu nhập có hai phương pháp tính thuế như:
thu nhập hộ gia đình, cá nhân kinh doanh; thu nhập từ chuyển nhượng bất
động sản; thu nhập từ chuyển nhượng chứng khoán... [55].
Đối với thu nhập từ kinh doanh hộ gia đình, cá nhân kinh doanh. Có
hai phương pháp tính thuế: Phương pháp thứ nhất áp dụng với hộ gia đình, cá
nhân thực hiện đầy đủ chế độ kế toán, hóa đơn chứng từ thì thuế thu nhập cá
nhân được xác định trên cơ sở doanh thu trừ (-) chi phí; trừ (-) gia cảnh; trừ (-)
các khoản nộp bảo hiểm xã hội; trừ (-) các khoản đóng góp quỹ từ thiện, nhân
đạo, khuyến học; nhân (x) với thuế suất (gồm 7 bậc theo biểu thuế suất lũy
tiến từng phần). Phương pháp thứ hai áp dụng đối với hộ gia đình, cá nhân
kinh doanh chưa áp dụng đầy đủ chế độ kế toán, hóa đơn chứng từ thì thuế
thu nhập cá nhân được xác định trên cơ sở: Doanh thu ấn định, nhân (x) tỷ lệ
33. 33
thu nhập chịu thuế của từng ngành, nghề (quy định cho 6 khu vực) trừ (-) gia
cảnh và các khoản giảm trừ khác; nhân (x) với thuế suất (gồm 7 bậc theo biểu
thuế suất lũy tiến từng phần).
Đối với thu nhập từ chuyển nhượng chứng khoán:có hai phương pháp
tính thuế, thị trường chứng khoán từ năm 2009 đến nay luôn giảm điểm so với
giá chuyển nhượng chứng khoán giảm; các nhà đầu tư chuyển nhượng chứng
khoán lỗ nhưng vẫn phải nộp thuế trên thuế suất 0,1% giá chuyển nhượng
(khấu trừ tại nguồn). Rất ít nhà đầu tư là cá nhân thực hiện việc quyết toán và
áp dụng mức thuế suất 20% chênh lệch giữa giá bán và giá mua do phải thực
hiện chế độ kế toán, hóa đơn, chứng từ và rất khó xác định giá bán bình quân
mỗi mã chứng khoán bán ra khi quyết toán thuế.
Đối với thu nhập từ hoạt động chuyển nhượng bất động sản (nhà, đất).
Có hai phương pháp tính thuế, trên thực tế hầu hết các trường hợp chuyển
nhượng nhà đất đều áp dụng phương pháp nộp 2% trên giá trị chuyển nhượng,
các bên thường làm hợp đồng có giá tương đương với giá đất ấn định của cơ
quan có thẩm quyền tại thời điểm chuyển nhượng để trốn thuế; trường hợp
nộp thuế 25% trên giá trị chênh lệch không nhiều do người chuyển nhượng
không đủ hóa đơn chứng từ chứng minh giá mua và các chi phí liên quan;
việc xác định giá chuyển nhượng gặp nhiểu khó khăn cho người bán, người
mua thanh toán với nhau bằng tiền mặt, vàng, ngoại tệ... khi kê khai thuế
thường kê khai giá thấp hơn so với giá chuyển nhượng thực tế. Ngoài ra nhiều
trường hợp trốn thuế bằng cách làm hợp đồng đổi nhà, đổi đất...
Như vậy, việc pháp luật quy định hai phương pháp tính thuế đối với
một khoản thu nhập là không đảm bảo minh bạch, dễ phát sinh lợi dụng, tiêu
cực. Trên thực tế để quản lý loại thu nhập này cơ quan thuế phải ban hành
trên 40 thủ tục về thuế, điều đó không những làm tăng áp lực công việc cho
cán bộ ngành thuế mà còn tăng gánh nặng hành chính cho người dân khi thực
hiện luật thuế.
34. 34
1.2.2.4. Miễn, giảm thuế
Tùy theo trình độ phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nước, tình hình
biến động kinh tế ở mỗi thời điểm mà các nước quy định việc miễn thuế, giảm
thuế cho phù hợp.
Ví dụ ở Mỹ quy định "suất miễn, giảm thu nhập" cho người nộp thuế
trong trường hợp này phải chứng minh được rằng mình phải cung cấp quá nửa
sự hỗ trợ cho cá nhân ăn theo thì sẽ được miễn thu 2350 USD/năm. Mức này
được xác định theo tỷ lệ lạm phát từng năm có sự điều chỉnh [29].
- Ở Việt Nam việc miễn thuế không xác định trên tiêu chí chi phí của
người nộp thuế mà xác định trên thu nhập chịu thuế. Theo đó, Luật thuế thu
nhập cá nhân ở Việt Nam phân ra làm 2 loại thu nhập là thu nhập chịu thuế và
thu nhập miễn thuế.
Trường hợp miễn thuế thu nhập cá nhân được quy định tại Điều 4
Luật thuế thu nhập cá nhân số 04/2007/QH12 và Luật thuế thu nhập cá nhân
số 26/2012/QH13 Theo quy định tại điều này nhiều khoản thu nhập có tính
chất tương tự như các khoản thu nhập chịu thuế quy định trong luật nhưng
không phải nộp thuế.
Thứ nhất, Khoản 2 Điều 4 Luật thuế thu nhập cá nhân quy định: Miễn
thuế đối với thu nhập từ nhà ở, quyền sử dụng đất ở gắn với tài sản trên đất
của cá nhân chỉ có một nhà ở, đất duy nhất" [55]. Tuy nhiên, các cơ quan nhà
nước khó có thể xác định được nhà ở, đất mà cá nhân chuyển nhượng là duy
nhất mà chủ yếu dựa vào tờ khai thuế và cam kết của cá nhân chuyển nhượng
nhà ở, đất ở nên không tránh khỏi việc trốn thuế.
Thứ hai, việc quy định không đánh thuế từ lãi tiền gửi đối với người
gửi tiền tại tổ chức tín dụng là không phù hợp, vì đây cũng là một khoản thu
nhập của cá nhân, gửi tiền tại ngân hàng cũng là một hình thức đầu tư phát sinh
lợi nhuận cũng giống như tổ chức tín dụng cho vay tiền phải nộp thuế lãi cho vay.
35. 35
Thứ ba, Khoản 6 Điều 4 Luật thuế thu nhập cá nhân quy định: "Thu
nhập từ chuyển đổi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân được nhà nước
giao để sản xuất" là thu nhập miễn thuế" [55]. Đây là những quy định phù hợp
nhằm khuyến khích và tạo điều kiện cho nông dân khi tiến hành chuyển đổi
đất nông nghiệp để phát triển các ngành nghề có thu nhập cao nhằm nâng cao
đời sống của họ so với các cá nhân làm ngành nghề khác. Song trên thực tế
quản lý thu cho thấy có trường hợp chưa hợp lý đó là hộ gia đình, cá nhân
không phải là nông dân mà trước đây được nhà nước giao đất nông nghiệp
hoặc nhận chuyển nhượng đất nông nghiệp để sản xuất nhưng không trực tiếp
sản xuất mà thuê người sản xuất nông nghiệp, nay chuyển đổi đất nông
nghiệp có phát sinh thu nhập nhưng không nộp thuế.
- Giảm thuế là một hình thức giảm nhẹ trách nhiệm thuế đối với đối
tượng nộp thuế, hình thức giảm thuế được áp dụng trong từng trường hợp và
từng thời điểm nhất định theo quy định của pháp luật. Việc giảm thuế nói
chung và thuế thu nhập cá nhân nói riêng ở Việt Nam thường được áp dụng
chung cho một nhóm đối tượng trong từng thời điểm nhất định. Đối với từng
cá nhân riêng biệt chỉ giảm thuế khi cá nhân đó chứng minh mình thuộc đối
tượng giảm thuế theo quy định.
Điều 5 Luật thuế thu nhập cá nhân số 04/2007/QH12 quy định: "Đối
tượng nộp thuế gặp khó khăn do thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn, bệnh hiểm nghèo
ảnh hưởng đến khả năng nộp thuế thì được xét giảm thuế tương ứng với mức
độ thiệt hại nhưng không vượt quá số thuế phải nộp" [55]. Đây là quy định cần
thiết để giảm gánh nặng và chia sẻ một phần khó khăn với đối tượng nộp thuế
khi họ gặp rủi ro. Nhưng quy định nêu trên chưa thực sự rõ ràng giữa trường hợp
miễn thuế và giảm thuế. Bởi vì nếu mức độ thiệt hại mà cá nhân gặp phải ít thì
số tiền nộp thuế được giảm một phần. Nếu mức độ thiệt hại mà cá nhân gặp phải
nhiều thì mức độ giảm là bằng số thuế phải nộp (tức không phải nộp thuế) gọi là
miễn thuế. Hơn nữa Luật quy định mức độ giảm thuế tương ứng với mức độ
36. 36
thiệt hại, tức là bản thân cá nhân được giảm thuế hoặc cơ quan có thẩm quyền
phải xác minh thiệt hại. Tuy nhiên, thẩm quyền xác minh thiệt hại hiện nay vẫn
chưa được quy định rõ, đồng thời thiệt hại xảy ra và thời điểm quyết toán thuế
thu nhập cá nhân không phải lúc nào cũng xảy ra đồng thời. Vì thế trong quá
trình triển khai quy định đã gây lúng túng cho cơ quan có thẩm quyền và cá
nhân được giảm thuế trong việc xác định mức độ thiệt hại ở trường hợp nêu trên.
1.2.2.5. Kỳ tính thuế
Việc xác định thời gian tính thuế là vấn đề hết sức quan trọng trong
quá trình xây dựng và thực hiện Luật thuế bởi vì thời điểm tính thuế phải là
thời điểm thuận lợi cho công tác quản lý thu cũng như việc kê khai và nộp
thuế của người dân và phải đảm bảo giá trị của đồng tiền nộp thuế trước tình
trạng lãm phát, đảm bảo việc chi tiêu theo kế hoạch của nhà nước, tránh được
việc chiếm đoạt tiền thuế.
Thông thường, các nước xác định mức thuế phải nộp từng năm. Ưu
điểm của việc sử dụng khoảng thời gian năm là đảm bảo nguồn thu nhập
thường xuyên của Chính phủ để trang trải các chi phí vì các kế hoạch kinh tế -
xã hội của Chính phủ được đặt ra và thực hiện trong từng năm. Dự kiến nguồn
thu ngân sách cũng được đặt ra hàng năm. Đây là khoảng thời gian hợp lý cho
các cơ quan, tổ chức và cá nhân thực hiện vì hệ thống kế toán ở các doanh
nghiệp, đơn vị kinh tế thường tiến hành hạch toán, quyết toán thu chi của đơn
vị vào thời điểm cuối năm tài chính.
Kỳ tính thuế được quy định tại Điều 7 Luật thuế thu nhập cá nhân số
04/2007/QH12. Theo đó kỳ tính thuế được chia làm hai trường hợp là đối với
cá nhân cư trú và cá nhân không cư trú.
Tùy theo từng loại thu nhập mà áp dụng kỳ tính thuế cho cá nhân cư
trú theo năm hoặc theo lần phát sinh thu nhập. Một số trường hợp đặc biệt,
tùy thuộc vào sự lựa chọn của đối tượng nộp thuế hoặc cơ quan nhà nước có
37. 37
thẩm quyền có thể áp dụng kỳ tính thuế theo năm hoặc theo lần phát sinh thu
nhập. Những quy định này là phù hợp với đối với cả cơ quan nhà nước và đối
tượng nộp thuế vì thu nhập chịu thuế có nhiều loại khác nhau, có loại phát
sinh định kỳ, đồng đều như tiền lương, tiền công, thu nhập từ sản xuất kinh
doanh...đối với những khoản thu nhập này thì kỳ tính thuế hàng năm là phù
hợp nhất vì những khoản thu nhập này là các khoản thu nhập thường xuyên,
gắn liền với điều kiện đời sống của người nộp thuế (cơ sở chính xác định thu
nhập bình quân một người/năm) hơn nữa các khoản thu này liên tục thay đổi
và không hoàn toàn cân bằng giữa các thời điểm. Đối với những khoản thu
nhập phát sinh đột biến, không thường xuyên như thu từ trúng xổ số, quà
tặng, quà biếu, thừa kế...thì kỳ tính thuế phù hợp là tính thuế theo lần phát
sinh thu nhập. Vì đây là những khoản thu "tăng thêm" của cá nhân chứ không
phải khoản thu thường xuyên từ hoạt động của một người.
Kỳ tính thuế đối với cá nhân không cư trú được tính theo từng lần phát
sinh thu nhập áp dụng đối với tất cả thu nhập chịu thuế trong đó có khoản thu
từ tiền công, tiền lương. Thu nhập của cá nhân không cư trú không mang tính
chất "đột biến" nhưng việc áp dụng kỳ tính thuế trên từng lần thu nhập là phù
hợp. Vì cá nhân không cư trú chỉ có mặt ở Việt Nam dưới 183 ngày/năm hoặc
có hợp đồng thuê nhà có thời hạn dưới 183 ngày/năm nếu áp dụng kỳ tính
thuế theo năm thì khó có thể thu thuế nếu cá nhân đó hết hạn hợp đồng làm
việc và cư trú tại Việt Nam trước thời điểm quyết toán thuế thu nhập cá nhân.
TIỂU KẾT CHƢƠNG 1
Trước nhu cầu phát triển kinh tế xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế,
việc Quốc hội ban hành Luật thuế thu nhập cá nhân là hoàn toàn phù hợp,
không những mang lại nguồn ngân sách tương đối lớn cho nhà nước trong bối
cảnh kinh tế trong nước còn khó khăn mà đã góp phần đảm bảo công bằng và
điều tiết thu nhập của các tầng lớp dân cư.
38. 38
Trong quá trình thực hiện Luật thuế thu nhập cá nhân thời gian qua,
các cơ quan nhà nước đã liên tiếp ban hành nhiều văn bản hướng dẫn thi hành
thay thế những văn bản chưa phù hợp như: Chính phủ đã ban hành Nghị định
số 106/2010/NĐ-CP ngày 28/10/2010 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị
định số:85/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 và Nghị định số 100/2008/NĐ-CP. Bộ
Tài chính ban hành gần 20 thông tư hướng dẫn cụ thể và tháo gỡ những khó
khăn, vướng mắc khi triển khai thực hiện. Quốc hội có Nghị quyết số
08/2011/QH13 ngày 06/8/2011, Nghị quyết số 29/2012/QH13 về việc ban
hành một số giải pháp bổ sung về thuế nhằm tháo gỡ khó khăn cho doanh
nghiệp và cá nhân góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế năm 2011, 2012, Luật
số 26/2012/QH13 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế thu nhập
cá nhân và Chính phủ, Bộ Tài chính, Tổng cục Thuế đã kịp thời có các văn
bản hướng dẫn thi hành. Tuy nhiên, pháp luật về thuế thu nhập cá nhân ở Việt
Nam vẫn còn không ít bất cập, ảnh hưởng đến quá trình thực hiện pháp luật
về thuế thu nhập cá nhân của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và công dân.
39. 39
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NGÃI
2.1. CÔNG TÁC THỰC HIỆN LUẬT THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN
Quảng Ngãi là địa phương nằm trong vùng kinh tế trọng điểm miền
trung được Chính phủ chọn khu vực Dung Quất để xây dựng nhà máy lọc dầu
đầu tiên của cả nước, góp phần đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch
nhanh cơ cấu kinh tế tỉnh theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Ước đến
ngày 30 tháng 6 năm 2012, trên địa bàn tỉnh có 3.638 doanh nghiệp, trong đó
có 3.529 doanh nghiệp nhỏ và vừa. Thu nhập bình quân đầu người GĐP năm
2012 là 1726 USD/ người/năm (GĐP cả nước năm 2012 khoảng 1540
USD/người/năm) [49].
Xuất phát từ tình hình kinh tế xã hội nêu trên, Qua hơn ba năm triển
khai thực hiện Luật thuế thu nhập cá nhân trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi đã đạt
được những kết quả sau đây.
2.1.1. Công tác triển khai
Công tác triển khai thực hiện Luật thuế thu nhập cá nhân được tiến
hành từ đầu năm 2008 và có nhiều thuận lợi do có sự chỉ đạo, lãnh đạo của
Đảng, Chính phủ, Bộ Tài chính và sự phối hợp của các Bộ, ngành, chính
quyền địa phương các cấp. Ngay sau khi có chỉ thị 22/2008/CT-TTg ngày 15
tháng 7 năm 2008 của Thủ tướng Chính phủ về việc triển khai thực hiện Luật
thuế thu nhập cá nhân. Tỉnh Quảng Ngãi đã thành lập Ban chỉ đạo triển khai
thực hiện Luật thuế thu nhập cá nhân. Theo đó ban chỉ đạo đã ban hành kế
hoạch chi tiết triển khai thực hiện. Mặc dù Luật thuế thu nhập cá nhân mới
40. 40
được triển khai, còn nhiều hạn chế và khó khăn, song việc triển khai và thực
hiện Luật thuế thu nhập cá nhân đã đạt được một số kết quả nhất định:
Trong việc nâng cao nhận thức về thuế thu nhập cá nhân. Thông qua
công tác tuyên truyền phổ biến, tập huấn Luật thuế thu nhập cá nhân tại cục
thuế và các chi cục thuế nhận thức về vai trò, tầm quan trọng của thuế thu
nhập cá nhân cho cán bộ, công chức, viên chức đang công tác tại cơ quan thuế
và đơn vị trực thuộc từng bước được nâng cao. Cụ thể: Đã tổ chức 87 lớp về
chính sách thuế thu nhập cá nhân cho 100% cán bộ công chức ngành thuế,
100% cán bộ phụ trách thuế thu nhập cá nhân là chuyên trách. Tạo sự thống
nhất đồng bộ của cán bộ ngành thuế trên địa bàn tỉnh về cách hiểu, cách áp
dụng các văn bản pháp luật về thuế thu nhập cá nhân, giúp cho việc triển khai
và thực thi pháp luật về thuế thu nhập cá nhân nhanh chóng và hiệu quả [1].
Tuy nhiên để đánh giá nhận thức của cán bộ ngành thuế về thuế thu nhập cá
nhân cần phải tiến hành khảo sát ý kiến trực tiếp, song cho đến nay ở Quảng
Ngãi vẫn chưa thực hiện cuộc khảo sát nào để lấy ý kiến cán bộ ngành thuế về
vấn đề này nên không thể đánh giá chính xác trình độ nhận thức của cán bộ
ngành thuế về thuế thu nhập cá nhân.
Trong việc tuyên truyền, phổ biến nâng cao kiến thức về thuế thu nhập
cá nhân cho đối tượng nộp thuế. Đối với việc tuyên truyền, hướng dẫn, nâng
cao ý thức pháp luật về thuế thu nhập cá nhân cho các tổ chức và cá nhân:
Trong hơn ba năm triển khai thực hiện Luật thuế thu nhập cá nhân Ban chỉ
đạo nói riêng và Cục thuế Quảng Ngãi nói chung đã phối hợp với các cơ
quan, cơ quan truyền thông, đài phát thanh truyền hình đăng tải tin, bài, ảnh,
phóng sự...những nội dung của Luật thuế thu nhập cá nhân; Thực hiện các
hình thức tuyên truyền khác như: áp phích, băng rôn, khẩu hiệu trên đường
phố, xe hoa cổ động...; triển khai "Ki-ốt thông tin thuế", thiết lập các đường
dây nóng ở Cục thuế và Chi cục thuế trực thuộc. Phân công cán bộ có năng
lực chuyên môn tiến hành hướng dẫn cho người nộp thuế các thủ tục hành
41. 41
chính thuế, kê khai thuế. Năm 2010 đã phối hợp với Sở Tư pháp tổ chức cuộc
thi "Tìm hiểu pháp luật về thuế thu nhập cá nhân", cuộc thi đã thu hút trên
20.700 người lao động trên địa bàn tỉnh tham gia. Đã tập huấn cho trên
10.000 lượt người nộp thuế, trong các đợt tập huấn đã cung cấp miễn phí cho
người nộp thuế trên 6.000 tập tài liệu về thuế thu nhập cá nhân. Đã in và cấp
phát trên 18.000 ấn phẩm, tờ rơi tuyên truyền, hướng dẫn về thuế thu nhập cá
nhân. Đã trực tiếp trả lời, hướng dẫn các thủ tục hành chính thuế, cách kê khai
thuế, tính thuế, nộp thuế... cho hơn 4.162 lượt người (trong đó bằng văn bản
48 lượt, trực tiếp tại cơ quan thuế 2.235 lượt, qua điện thoại 1.879 lượt). Ngay
từ thời gian đầu triển khai thực hiện luật, cục thuế đã thành lập các nhóm
công tác thường xuyên nằm tại địa phương trọng điểm để chỉ đạo công tác
triển khai; nắm tình hình các vướng mắc trong quá trình triển khai để báo cáo
Ban chỉ đạo; hướng dẫn, giải đáp kịp thời các vướng mắc về chính sách, công
tác quản lý thuế thu nhập cá nhân đối với cơ quan thuế; với tổ chức cá nhân
chi trả thu nhập và người nộp thuế [1, tr. 2].
Tuy nhiên việc tuyên truyền, phổ biến Luật thuế thu nhập cá nhân
cũng còn nhiều hạn chế, hầu hết các hoạt động tư vấn chủ yếu tập trung vào
các tổ chức chi trả thu nhập mà chưa tư vấn trực tiếp đến đối tượng nộp thuế.
Do đó phần lớn việc kê khai và quyết toán thuế cũng chỉ thông qua tổ chức
chi trả thu nhập, bản thân đối tượng nộp thuế hầu như không trực tiếp kê khai.
Công tác tuyên truyền vận động thông qua các phương tiện truyền thông, phát
tài liệu... phạm vi nhỏ hẹp và phân tán, chưa có chiến lược, kế hoạch và mục
tiêu rõ ràng.
- Trong công tác đăng ký thuế và cấp mã số thuế thu nhập cá nhân. Để
xác định đối tượng nộp thuế, người phụ thuộc ngay từ cuối năm 2008 đã tổ chức
triển khai việc đăng ký thuế, cấp mã số thuế, kê khai người phụ thuộc. Tính đến
hết năm 2012 toàn tỉnh đã cấp mã số thuế thu nhập cá nhân cho 95.446 mã số
thuế trong đó tổ chức chi trả thu nhập là 2.586 và cá nhân là 92.860 [46, tr. 2].
42. 42
Biểu đồ 2.1: Biểu đồ tổng số lao động và mã số thuế đã cấp đến năm 2012
Nguồn: Cục Thuế tỉnh Quảng Ngãi.
Qua biểu đồ trên chúng ta thấy, tổng số mã số thuế thu nhập cá nhân
được cấp là quá ít so với tổng số lao động trên địa bàn tỉnh (Tổng số lao động
ước tính đến hết năm 2012 là 1.322.700 nhưng chỉ khoảng 7% được cấp mã
số thuế). Đây là con số đáng báo động, bởi vì song song với việc đăng ký mã
số thuế các cá nhân sẽ tiến hành kê khai thu nhập đây là cơ sở để cơ quan thuế
xác định đối tượng nộp thuế. Kết quả trên cũng cho thấy công tác phổ biến
tuyên truyền Luật thuế thu nhập cá nhân trên địa bàn tỉnh chưa thực sự có
hiệu quả, ý thức pháp luật nói chung và sự quan tâm cũng như thực hiện Luật
thuế thu nhập cá nhân của người dân còn rất hạn chế. Phần lớn việc đăng ký
mã số thuế của cá nhân thông qua tổ chức chi trả thu nhập, còn những cá nhân
làm việc và hoạt động độc lập hầu như chưa tự đăng ký mã số thuế và kê khai
thu nhập. Để khuyến khích nhân dân tự giác thực hiện Luật thuế thu nhập cá
nhân cũng như hiểu được mục đích ban hành Luật thuế của Nhà nước là phục
vụ cho lợi ích chung toàn xã hội, coi việc nộp thuế không những là nghĩa vụ
mà đó là yếu tố đảm bảo quyền của mọi công dân, cơ quan có thẩm quyền
trên địa bàn tỉnh cần thực hiện các biện pháp phổ biến, tuyên truyền hiệu quả
và thiết thực hơn nữa trong thời gian tới.
43. 43
2.1.2. Kết quả đạt đƣợc
Thứ nhất, Luật thuế thu nhập cá nhân đã góp phần đảm bảo công bằng
trong việc điều tiết thu nhập của các tầng lớp dân cư trong xã hội
Theo quy định của Luật thuế thu nhập cá nhân mức giảm trừ gia cảnh
trước khi tính thuế đối với thu nhập từ kinh doanh, thu nhập từ tiền lương, tiền
công của cá nhân cư trú (mức giảm trừ gia cảnh cho bản thân người nộp thuế
4 triệu đồng / tháng; cho mỗi người phụ thuộc là 1,6 triệu đồng; từ 01/7/2013
mức giảm trừ gia cảnh cho người nộp thuế là 9 triệu đồng/người/tháng; cho
mỗi người phụ thuộc là 3,6 triệu đồng/người/tháng). Người có thu nhập thấp
hơn mức giảm trừ gia cảnh thì chưa phải nộp thuế. Người có thu nhập cao
hơn mức giảm trừ gia cảnh thì phải nộp thuế theo biểu thuế lũy tiến từng phần
gồm 7 bậc (5%; 10%; 15%; 20%; 25%; 30%; 35%).
Quy định nêu trên đã biểu hiện nguyên tắc công bằng và khả năng nộp
thuế của người có thu nhập, cụ thể: Người có thu nhập thấp thì chưa phải nộp
thuế, người có thu nhập cao hơn thì phải nộp thuế nhiều hơn, người có thu
nhập như nhau nhưng có hoàn cảnh khác nhau thì mức độ nộp thuế khác nhau.
Theo số liệu thống kê của Cục thuế Quảng Ngãi trong 3 năm từ 2010
đến 2012, số người có thu nhập từ tiền công tiền lương phải nộp thuế thu nhập
cá nhân trên địa bàn tỉnh như sau:
Bảng 2.1: Số người có thu nhập từ tiền công tiền lương phải nộp thuế
Đơn vị: Người
Năm 2010 2011 2012
Số người có thu nhập từ tiền lương,
tiền công nộp thuế
5800 6400 7500
Bậc 1 4350 4480 5325
Bậc2 1450 1920 2176
Nguồn: Cục thuế tỉnh Quảng Ngãi.
44. 44
Biểu đồ 2.2: Biểu đồ tỷ lệ số người nộp thuế ở bậc 1, bậc 2 với số thuế đã nộp
Nguồn: Cục thuế tỉnh Quảng Ngãi.
Biểu đồ trên cho thấy số người có thu nhập phải nộp thuế bậc 1 chiếm
tỷ trọng lớn (năm 2010 khoảng 75%, năm 2011 khoảng 70%, năm 2012
khoảng 71%), nhưng số thuế nộp không lớn so với số thuế thu được từ tiền
lương, tiền công (năm 2010 khoảng 9%, năm 2011 khoảng 8%, năm 2012
khoảng 10,2%). Số người nộp thuế thu nhập từ tiền lương, tiền công ở bậc 2
trở lên chiếm tỷ trọng không lớn (năm 2010 khoảng 25%, năm 2011 khoảng
30%, năm 2012 khoảng 29%) nhưng số thuế nộp chiếm tỷ trọng lớn (năm
2010 khoảng 91%, năm 2012 khoảng 92%, năm 2013 khoảng 89,8%). Điều
này chứng tỏ Luật thuế thu nhập cá nhân đã góp phần đảm bảo sự công bằng
cho nhân dân trên địa bàn tỉnh. Mặc dù thu nhập của cá nhân có được là nhờ
sức lao động, trình độ học vấn, hoàn cảnh gia đình, năng lực trong sản xuất
kinh doanh... của mỗi cá nhân. Xét về khía cạnh thu nhập cá nhân thì việc chỉ
đánh thuế nhiều hơn đối với cá nhân có thu nhập cao hơn là biện pháp chế tài
áp đặt. Nhưng xét về khía cạnh bình đẳng xã hội thì đây là biện pháp phù hợp
nhằm bảo vệ quyền lợi ích cho cá nhân có thu nhập thấp. Bởi lẽ, cá nhân có
thu nhập cao sẽ được hưởng nhiều hơn các dịch vụ công cộng, họ được sống
ở những nơi mà nhà nước đầu tư cơ sở hạ tầng tốt hơn, đồng thời nhu cầu đời
sống của cá nhân này ngày càng lớn dẫn đến giá mặt hàng tiêu dùng như
xăng, ga, điện, nước và chi phí môi trường ngày càng tăng điều này ảnh
45. 45
hưởng trực tiếp đến mức chi tiêu của những cá nhân có thu nhập thấp. Hơn
nữa để có nguồn thu phục vụ tái cấu trúc xã hội cho phù hợp với nhu cầu đời
sống tăng cao, nhà nước phải tiến hành tăng các loại thuế và bản thân người
có thu nhập thấp hơn cũng phải nộp các loại thuế này giống như người có thu
nhập cao hơn. Điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến quyền lợi của người có thu
nhập thấp. Vì vậy người có thu nhập cao hơn phải nộp thuế nhiều hơn là phù
hợp và đảm bảo công bằng.
Qua hơn 3 năm thực hiện Luật thuế thu nhập cá nhân ngoài việc kế
thừa có chọn lọc các chính sách điều tiết thu nhập trước đây (Pháp lệnh thuế
thu nhập đối với người có thu nhập cao, thuế thu nhập doanh nghiệp đối với
hộ gia đình, cá nhân kinh doanh, thuế chuyển quyền sử dụng đất), đã bổ sung
điều tiết đối với: thu nhập từ đầu tư vốn; thu nhập từ chuyển nhượng vốn,
chuyển nhượng chứng khoán; thu nhập từ thừa kế, quà tặng là chứng khoán,
phần vốn góp trong tổ chức kinh tế, chuyển nhượng bất động sản, trúng thưởng,
thuê nhà... góp phần đảm bảo công bằng xã hội, giảm khoảng cách thu nhập
giữa các tầng lớp dân cư, tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Tiền thuế
thu được do bổ sung điều tiết đối các khoản thu nhập được thể hiện như sau:
Biểu đồ 2.3: Biểu đồ số thuế thu nhập cá nhân thu được bổ sung điều tiết
đối với các khoản thu nhập
Nguồn: Cục thuế tỉnh Quảng Ngãi.
46. 46
Biểu đồ trên cho thấy thuế thu nhập cá nhân thu được bổ sung điều tiết
đối với các khoản thu nhập tại tỉnh Quảng Ngãi qua các năm mặc dù tăng
nhưng không có sự đồng đều và chỉ chiếm tỷ trọng rất nhỏ so với thuế thu
nhập cá nhân thu được từ tiền công tiền lương của người lao động. Điều này
phản ánh đúng tình hình kinh tế của cả nước nói chung và tỉnh Quảng Ngãi
nói riêng, đồng thời thể hiện thực trạng quản lý thu nhập cá nhân của cơ quan
thuế trên địa bàn tỉnh trong thời gian qua. Bởi lẽ kinh tế của cả nước trong các
năm từ 2009 đến nay liên tục biến động, nhiều hoạt động diễn ra cầm chừng
thậm chí "đóng băng" như hoạt động chuyển nhượng bất động sản, môi giới
chứng khoán... điều này kéo giá thuê nhà giảm sút, hoạt động quà biếu, quà
tặng cũng giảm theo. Mặc dù Đảng và Nhà nước đã có sự quan tâm, đầu tư về
vật chất và nguồn nhân lực vào Quảng Ngãi, song do điều kiện kinh tế - xã
hội và lịch sử hình thành và phát triển còn nhiều hạn chế nên Quảng Ngãi vẫn
là tỉnh nghèo, mức sống bình quân thấp, hoạt động đầu tư vốn của cá nhân
không nhiều, hoạt động chuyển nhượng bất động sản chưa mang tính chất
kinh doanh mà chủ yếu phục vụ nhu cầu đời sống, nhu cầu thuê nhà ít và giá
cho thuê nhà không cao, giá trị quà biếu, tặng không cao như các khu vực
khác. Hơn nữa với cơ chế quản lý nguồn thu nhập nói chung hiện nay chủ yếu
trên cơ sở tự khai báo của đối tượng nộp thuế, các cơ quan chức năng của tỉnh
chủ yếu chỉ nắm được thu nhập của đối tượng làm công ăn lương còn các thu
nhập khác nếu cá nhân có thu nhập không kê khai hoặc cố ý "lách luật" thì cơ
quan thuế cũng khó có thể kiểm soát được.
Thứ hai, thuế thu nhập cá nhân đã từng bước góp phần thực hiện kiểm
soát thu nhập dân cư trên địa bàn tỉnh
Tính đến hết năm 2012, cục thuế và các chi cục thuế tỉnh Quảng Ngãi
đã hoàn thành việc cấp mã số thuế cho 95.446 mã số thuế [46, tr. 3]. Thông qua
việc thực hiện khấu trừ, kê khai, nộp thuế và quyết toán thuế của tổ chức chi trả
thu nhập được cấp mã số thuế; việc kê khai, nộp thuế của cá nhân được cấp
47. 47
mã số thuế có thu nhập thuộc 10 loại thu nhập chịu thuế theo quy định của
Luật, cơ quan thuế có thể quản lý, kiểm soát thu nhập của đối tượng nộp thuế,
nắm được tương đối đầy đủ thông tin về thu nhập từ tiền lương, tiền công của
cơ quan hành chính sự nghiệp; các tổ chức là doanh nghiệp trả cho người lao
động trong biên chế hoặc hợp đồng lao động dài hạn. Riêng đối với thu nhập
từ đầu tư vốn, từ chuyển nhượng vốn, thu nhập từ bản quyền, nhượng quyền
thương mại; thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản, do việc thanh toán hiện
nay chủ yếu là dùng tiền mặt, vàng, ngoại tệ... khó có thể kiểm soát nên bước
đầu mới nắm được thông tin và kiểm soát được trong trường hợp cá nhân chuyển
nhượng cho tổ chức mà tổ chức này cần hóa đơn, chứng từ để hạch toán.
Thứ ba, thuế thu nhập cá nhân đã góp phần đảm bảo huy động nguồn
thu cho ngân sách nhà nước
Theo báo cáo của ban chỉ đạo Luật thuế thu nhập cá nhân kết quả thu
thuế thu nhập cá nhân trong 3 năm như sau:
Biểu đồ 2.4: Đồ thị tổng thuế thu nhập cá nhân của tỉnh Quảng Ngãi
huy động nguồn lực cho ngân sách nhà nước trong 3 năm
Nguồn: Cục thuế tỉnh Quảng Ngãi.
Kết quả trên cho thấy, thuế thu nhập cá nhân mà tỉnh Quảng Ngãi thu
được trong 3 năm không có sự thay đổi đáng kể trong khi đó mức thu nhập