SlideShare a Scribd company logo
1 of 50
Download to read offline
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
VŨ KIM DUNG
PHÁP LUẬT VỀ NUÔI CON NUÔI CÓ YẾU TỐ
NƢỚC NGOÀI CỦA VIỆT NAM TRONG MỐI
TƢƠNG QUAN VỚI CÔNG ƢỚC LAHAY
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2013
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
VŨ KIM DUNG
PHÁP LUẬT VỀ NUÔI CON NUÔI CÓ YẾU TỐ
NƢỚC NGOÀI CỦA VIỆT NAM TRONG MỐI
TƢƠNG QUAN VỚI CÔNG ƢỚC LAHAY
Chuyên ngành: Luật Dân sự
Mã số: 60 38 30
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS Vũ Đức Long
HÀ NỘI - 2013
MỤC LỤC
Trang
Trang bìa phụ
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU........................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài.........................................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu...................................................................................7
3. Mục tiêu và phạm vi nghiên cứu..................................................................8
4. Phương pháp nghiên cứu .............................................................................9
5. Những đóng góp, ý nghĩa của Luận văn ......................................................9
6. Cơ cấu của luận văn ....................................................................................9
Chƣơng 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
VIỆT NAM TRONG LĨNH VỰC NUÔI CON NUÔI CÓ YẾU
TỐ NƢỚC NGOÀI..........................................................................11
1.1. Khái niệm về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài .............................11
1.2. Nguyên tắc giải quyết nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ................15
1.3. Điều kiện đối với người nhận con nuôi và người được cho làm con nuôi..21
1.4. Trình tự, thủ tục giải quyết nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ........28
1.5. Cơ quan quản lý nhà nước về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài........34
1.6. Hệ quả pháp lý của nuôi con nuôi quốc tế..........................................35
Chƣơng 2: NHỮNG TIẾN BỘ VÀ HẠN CHẾ CỦA PHÁP LUẬT
VIỆT NAM SO VỚI QUY ĐỊNH CỦA CÔNG ƢỚC LAHAY ....38
2.1. Khái quát chung về Công ước Lahay.................................................38
2.2. Những khuyến nghi ̣của Ủ y ban Lahay ..............................................42
2.3. Những điểm tương đồng và bất câ ̣p của pháp luâ ̣t Viê ̣t Nam so với
quy đi ̣
nh của Công ước Lahay ...........................................................46
Chƣơng 3: THỰC TRẠNG, GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG HIỆU QUẢ
THỰC THI LUẬT NUÔI CON NUÔI VÀ CAM KẾT CỦA
VIỆT NAM KHI THAM GIA CÔNG ƢỚC LAHAY .................. 57
3.1. Kết quả thực thi các quy định của pháp luật Việt Nam về nuôi con
nuôi có yếu tố nước ngoài thời gian qua ............................................57
3.2. Những tồn tại, bất cập trong quá trình giải quyết nuôi con nuôi
quốc tế theo quy định của Luật Nuôi con nuôi và theo yêu cầu của
Công ước Lahay ................................................................................62
3.3. Những thách thức khi thực thi Công ước Lahay tại Việt Nam ...........73
3.4. Một số giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả thực thi Luật Nuôi
con nuôi và Công ước Lahay .............................................................75
KẾT LUẬN..................................................................................................83
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................85
PHỤ LỤC
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nuôi con nuôi nói chung, nuôi con nuôi quốc tế nói riêng là một vấn đề
xã hội mang tính nhân đạo sâu sắc. Quan hệ nuôi con nuôi quốc tế đã xuất
hiện từ rất lâu trên thế giới do nhu cầu thực tiễn của đời sống xã hội và trong
giai đoạn hiện nay, khi xu hướng hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa đang phát
triển mạnh thì hoạt động nuôi con nuôi quốc tế cũng ngày càng mở rộng.
Ở Việt Nam, nuôi con nuôi quốc tế bắt đầu xuất hiện từ khoảng những
năm 70 thế kỷ 20 [26]. Cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ tại Việt Nam đóng
vai trò khởi xướng cho hoạt động nuôi con nuôi quốc tế với những số liệu
được ghi nhận đầu tiên vào năm 1962 và tăng mạnh vào giai đoạn 1972-1976.
Theo số liệu do tổ chức Dịch vụ xã hội quốc tế (ISS) cung cấp, từ năm 1962-
2001 đã có trên 7.000 trẻ em Việt Nam được nhận làm con nuôi tại Mỹ. Từ
năm 2002-2008, đã có 8.357 trẻ em Việt Nam được giải quyết làm con nuôi
tại 8 nước Mỹ, Canada, Pháp, Đan Mạch, Thụy Sỹ, Ailen, Italy và Thụy Điển.
Liên tục trong nhiều năm của giai đoạn này, Việt Nam là Nước gốc xếp thứ 5
hoặc 6 trên thế giới về số lượng trẻ em được giải quyết làm con nuôi người
nước ngoài và là đối tác lớn thứ nhất hoặc thứ hai về số lượng trẻ em được
nhận làm con nuôi tại một số Nước nhận như Italy, Pháp, Ailen.
Cùng với quá trình xây dựng và phát triển đất nước, đặc biệt từ khi thực
hiện đường lối đổi mới của Đảng, các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ
nuôi con nuôi quốc tế đã được hình thành, hoàn thiện và góp phần quan trọng
vào việc đảm bảo thực hiện quyền của trẻ em là được chăm sóc, nuôi dưỡng
và giáo dục trong môi trường gia đình, mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế ở cấp
độ chính phủ vì mục đích nhân đạo và bảo vệ lợi ích tốt nhất cho những trẻ
em có hoàn cảnh đặc biệt.
2
Nghị định số 184/CP ngày 30/11/1994 của Chính phủ quy định về thủ
tục kết hôn, nhận con ngoài giá thú, nuôi con nuôi, nhận đỡ đầu giữa công dân
Việt Nam và người nước ngoài có thể coi là văn bản quy phạm pháp luật đầu
tiên quy định cụ thể về trình tự, thủ tục giải quyết nuôi con nuôi quốc tế tại
Việt Nam. Tuy nhiên, sau một thời gian thực hiện, Nghị định số 184/CP đã
bộc lộ nhiều điểm hạn chế như: hình thức xin con nuôi quốc tế theo Nghị định
chủ yếu dưới dạng xin đích danh, thẩm quyền giải quyết nuôi con nuôi quốc
tế thuộc về Uỷ ban Nhân dân tỉnh/thành, Sở Tư pháp là cơ quan đầu mối trực
tiếp tiếp nhận, nghiên cứu và giải quyết hồ sơ. Cách quy định như vậy dẫn
đến tình trạng giải quyết mang tính khép kín và không thống nhất ở các địa
phương, khó quản lý và tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân làm môi giới
giữa người nhận con nuôi và trẻ em được nuôi; các quy định về hồ sơ của
người nước ngoài xin nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi chưa phù hợp với
quy định về hợp pháp hóa lãnh sự thời điểm đó; có những loại giấy tờ đương
sự không thể hoàn tất vì có sự khác biệt giữa quy định của pháp luật Việt
Nam và hệ thống hành chính của nước nhận. Những khúc mắc về thủ tục đã
dẫn tới thực tế là có người đủ điều kiện nhưng không thể nhận trẻ em Việt
Nam làm con nuôi. Đồng thời, việc nhận con nuôi trên cơ sở giấy tờ không
trung thực do phải "lách luật" gây ảnh hưởng không nhỏ tới sự tôn nghiêm
của pháp luật và lợi ích của trẻ em [8].
Trước những bất cập nêu trên, nhiều văn bản quy phạm pháp luật sau
đó đã lần lượt được ban hành nhằm tăng cường quản lý thống nhất, chặt chẽ
và vì lợi ích tốt nhất của trẻ em trong công tác quản lý nhà nước và giải quyết
nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam. Lần đầu tiên, quan hệ nuôi
con nuôi có yếu tố nước ngoài đã được luật hóa thông qua một số điều của
Luật Hôn nhân- Gia đình năm 2000. Ngày 10/7/2002, Chính phủ đã ban hành
Nghị định số 68/2002/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật
3
Hôn nhân và Gia đình về quan hệ hôn nhân gia đình có yếu tố nước ngoài.
Việc ban hành Nghị định 68/2002/NĐ-CP là một bước cải cách đáng ghi nhận
về lĩnh vực pháp lý trong công tác quản lý và giải quyết nuôi con nuôi quốc tế
tại Việt Nam. Ngày 21/7/2006, Chính phủ ban hành Nghị định số
69/2006/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 68/2002/NĐ-
CP. Việc thực hiện Nghị định 68/2002/NĐ-CP (đã sửa đổi) đã tạo nên những
chuyển biến đáng kể trong lĩnh vực giải quyết nuôi con nuôi quốc tế, góp
phần thiết lập trật tự trong hoạt động của các tổ chức con nuôi quốc tế tại Việt
Nam, kiểm soát chặt chẽ và thống nhất các thủ tục giải quyết nuôi con nuôi
quốc tế, thống nhất đầu mối quản lý và giải quyết nuôi con nuôi có yếu tố
nước ngoài, cải thiện đáng kể đời sống của trẻ em tại hàng trăm cơ sở nuôi
dưỡng trên phạm vi toàn quốc. Quan hệ hợp tác của Việt Nam trong lĩnh vực
con nuôi quốc tế được nâng lên một tầm vóc mới và mở rộng nhanh chóng
với 13 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó có những đối tác lớn như Hợp
chủng quốc Hoa Kỳ, Cộng hòa Pháp, Cộng hòa Italy, Cộng hòa Ailen, Vương
quốc Tây Ban Nha, Liên bang Thụy Sỹ, Vương quốc Thụy Điển, Canada...
Tuy nhiên, trong giai đoạn phát triển mới của đất nước, đặc biệt là
trước nhu cầu hợp tác lớn giữa Việt Nam và các nước nhận, việc thực hiện
pháp luật về nuôi con nuôi, đặc biệt là con nuôi quốc tế tiếp tục bộc lộ những
hạn chế, bất cập, cụ thể là: các vấn đề về nuôi con nuôi chưa được quy định
một cách thống nhất trong một đạo luật, bởi vậy có sự chồng chéo, mâu thuẫn
với nhau, làm giảm hiệu lực áp dụng trong thực tiễn. Khung pháp lý về nuôi
con nuôi trong nước và nuôi con nuôi quốc tế đồng thời tồn tại nhưng lại được
quy định tản mạn trong những văn bản pháp luật khác nhau, do vậy chưa có
sự gắn kết giữa nuôi con nuôi trong nước và con nuôi quốc tế. Quy trình, thủ
tục giải quyết nuôi con nuôi theo quy định của Nghị định số 68/2002/NĐ-CP
bộc lộ những kẽ hở cho một số cá, tổ chức làm sai lệch hồ sơ trẻ em vì mục
4
đích trục lợi, vi phạm nguyên tắc vì lợi ích tốt nhất của trẻ và gây ảnh hưởng
xấu đến phương diện nhân đạo của hoạt động này. Do thẩm quyền giải quyết
tập trung quá lớn vào một số cá nhân nên trong hệ thống cơ sở nuôi dưỡng
gây nên tình trạng nhũng nhiễu, đẩy chi phí đen liên quan đến nuôi con nuôi
quốc tế lên mức cao. Quá trình cấp phép ồ ạt cho các tổ chức con nuôi nước
ngoài hoạt động tại Việt Nam gắn liền với yêu cầu hỗ trợ nhân đạo bắt buộc
dẫn đến thực tế cạnh tranh gay gắt giữa các tổ chức tại từng trung tâm bảo trợ
xã hội để có thể được giới thiệu nhiều trẻ em. Điều này đi ngược với những
nguyên tắc cơ bản của Công ước Lahay năm 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác
trong lĩnh vực con nuôi quốc tế và pháp luật của nhiều nước là thành viên
Công ước. Nếu tiếp tục giữ cơ chế cũ với nhiều hạn chế như vậy sẽ dẫn đến
sự vi phạm tất yếu các nguyên tắc bảo vệ quyền trẻ em, đồng thời ảnh hưởng
nghiêm trọng đến uy tín của Việt Nam trong mối quan hệ hợp tác với các
nước phát triển khác.
Chính vì vậy, yêu cầu tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về nuôi
con nuôi nói chung, đặc biệt là nuôi con nuôi quốc tế nói riêng trở nên vô
cùng cấp bách. Cần ban hành một đạo luật riêng về nuôi con nuôi nhằm tạo
khuôn khổ pháp lý thống nhất, ổn định, có giá trị áp dụng lâu dài, nâng cao
trách nhiệm của các ngành, các cấp, cơ quan, tổ chức và xã hội trong việc
chăm sóc và bảo vệ trẻ em. Việc ban hành Luật Nuôi con nuôi sẽ đáp ứng nhu
cầu thực tiễn ngày càng tăng của quan hệ nuôi con nuôi quốc tế, gắn kết hoạt
động nuôi con nuôi trong nước với nuôi con nuôi quốc tế, bảo vệ lợi ích của
các chủ thể, bao gồm cả trẻ em được nuôi và người nhận con nuôi theo hướng
tạo dựng môi trường gia đình ổn định, hài hòa, hạnh phúc và phát triển. Hoàn
thiện hệ thống pháp luật về nuôi con nuôi quốc tế của Việt Nam theo hướng
nội luật hóa những quy phạm quốc tế là việc làm cần thiết nhằm thực thi
những cam kết trước cộng đồng quốc tế về tôn trọng và bảo vệ quyền trẻ em.
5
Luật Nuôi con nuôi được Quốc hội khóa XII thông qua ngày
17/6/2010, tại Kỳ họp thứ 7 đã đánh dấu một bước phát triển mới trong công
tác quản lý và giải quyết nuôi con nuôi nói chung, nuôi con nuôi có yếu tố
nước ngoài nói riêng. Luật Nuôi con nuôi đã được xây dựng trên quan điểm
xuyên suốt là bảo đảm phù hợp với chủ trương, đường lối, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước về công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em, bảo đảm
việc giải quyết nuôi con nuôi trên tinh thần nhân đạo, vì lợi ích tốt nhất của
những trẻ em cần được bảo vệ và chăm sóc đặc biệt.
Cùng với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật trong nước, để tạo hành
lang pháp lý ổn định lâu dài cho công tác bảo vệ trẻ em được cho làm con
nuôi người nước ngoài, thúc đẩy quan hệ hợp tác từ cấp độ song phương sang
đa phương trên tinh thần nhân đạo và vì lợi ích tốt nhất của trẻ em Việt Nam
có hoàn cảnh khó khăn, ngăn ngừa và chống hành vi mua bán trẻ em hoặc lợi
dụng nuôi con nuôi vì mục đích trục lợi, ngày 7/12/2010, Việt Nam đã ký
tham gia Công ước về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực con nuôi quốc
tế (Công ước Lahay). Ngày 18/7/2011, Chủ tịch nước đã ký Quyết định số
1103/2011/QĐ-CTN phê chuẩn toàn văn Công ước. Theo quy định tại Điều
46, Công ước sẽ có hiệu lực thi hành tại Việt Nam từ ngày 1/2/2012.
Công ước Lahay là một trong 34 điều ước quốc tế đa phương quan
trọng thuộc lĩnh vực tư pháp quốc tế được Hội nghị Lahay về tư pháp quốc tế
thông qua ngày 29/5/1993. Đến tháng 7/2012, đã có 86 quốc gia trở thành
thành viên của Công ước [32] và đây là Công ước Lahay về hợp tác tư pháp
quốc tế có số lượng nước thành viên lớn nhất trong hệ thống điều ước của Hội
nghị Lahay cho đến nay. Trong khu vực Đông Nam Á, các quốc gia láng
giềng như Thái Lan, Trung Quốc, Campuchia, Philippin đều đã trở thành
thành viên của Công ước cách đây nhiều năm. Có thể nói, Công ước Lahay là
điều ước quốc tế đa phương đã dung hòa tối đa lợi ích của các nước cho và
6
nước nhận con nuôi quốc tế, nhất thể hóa ở mức độ cao về những khác biệt
trong pháp luật của các nước về nuôi con nuôi quốc tế. Tham gia Công ước
Lahay, Việt Nam không chỉ có cơ hội mở rộng hợp tác quốc tế trong lĩnh vực
nuôi con nuôi quốc tế mà đồng thời khẳng định quan điểm nhất quán và sự
cam kết mạnh mẽ của Nhà nước trong việc tăng cường bảo vệ trẻ em được
giải quyết làm con nuôi người nước ngoài, tranh thủ kinh nghiệm quốc tế, sự
hỗ trợ kỹ thuật và nhân đạo để hoàn thiện cơ chế quản lý, nâng cao chất lượng
chăm sóc trẻ em và bảo đảm quyền được nuôi dưỡng trong môi trường gia
đình của trẻ em.
Trong bối cảnh bắt đầu thực thi Luật Nuôi con nuôi với những cải cách
toàn diện về quy trình, thủ tục, đồng thời chuyển đổi từ mô hình hợp tác song
phương sang cơ chế hợp tác đa phương trong lĩnh vực con nuôi quốc tế, việc
phân tích, đánh giá những điểm phù hợp, chưa phù hợp của pháp luật Việt
Nam trong mối quan hệ với quy định của Công ước Lahay để thấy được
những thuận lợi, khó khăn trong quá trình thực thi Luật Nuôi con nuôi và thực
thi Công ước, đề xuất những khuyến nghị nhằm tiếp tục nội luật hóa Công
ước vì mục tiêu bảo vệ lợi ích tốt nhất cho những trẻ em được giải quyết làm
con nuôi người nước ngoài là việc làm có ý nghĩa thời sự và thực tiễn cao.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, tác giả đã lựa chọn đề tài "Pháp luật
về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài của Việt Nam trong mối tương quan
với Công ước Lahay" làm luận văn thạc sỹ luật học. Việc nghiên cứu đề tài
không chỉ mang tính lý luận mà còn có giá trị ứng dụng cao trong công tác
quản lý nhà nước về nuôi con nuôi quốc tế hiện nay, đặc biệt là trong công tác
hoàn thiện thể chế, nâng cao hiệu quả thực thi các quy trình thủ tục giải quyết
nuôi con nuôi quốc tế theo tiêu chuẩn của Công ước Lahay và quy định của
pháp luật Việt Nam, phân định rõ vai trò trách nhiệm của Cơ quan con nuôi
trung ương trong việc thực hiện các nghĩa vụ của Công ước, đồng thời tăng
7
cường trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền hữu quan ở cấp trung ương
và địa phương trong quá trình giải quyết nuôi con nuôi, nâng cao nhận thức xã
hội và hiệu quả, chất lượng bảo vệ và chăm sóc trẻ em.
2. Tình hình nghiên cứu
Quan hệ pháp luật về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam
cũng như những nội dung cơ bản của Công ước Lahay đã được nhiều nhà
khoa học nghiên cứu dưới những giác độ khác nhau. Kể từ khi Nhà nước thực
hiện đường lối đổi mới và hội nhập đến nay, cùng với việc ban hành Luật Hôn
nhân và Gia đình và nhiều văn bản quy phạm điều chỉnh quan hệ nuôi con
nuôi có yếu tố nước ngoài khác, đã có nhiều diễn đàn, công trình nghiên cứu
về chế định nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, trong đó có thể điểm một số
công trình như:
- Chuyên đề “Chế định nuôi con nuôi trong pháp luật Việt Nam và
quốc tế” của Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý-Bộ Tư pháp năm 1998;
- Đề tài “Pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài-thực
trạng và phương hướng hoàn thiện” của thạc sỹ Phạm Thùy Dương năm 2006;
- Đề án triển khai Công ước Lahay do Bộ Tư pháp chủ trì soạn thảo
trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt thực hiện giai đoạn 2012-2015.
- Báo cáo sơ kết 5 năm tình hình thực hiện Nghị định số 68/2002/NĐ-CP
trong lĩnh vực con nuôi quốc tế-Cục Con nuôi quốc tế, Bộ Tư pháp, tháng 9/2008.
- Báo cáo đánh giá “Nhận con nuôi từ Việt Nam-những phát hiện và
khuyến nghị của đánh giá” do Tổ chức ISS thực hiện năm 2009;
- Sách “Tìm hiểu Công ước Lahay về nuôi con nuôi” của Cục Con nuôi
quốc tế xuất bản năm 2007.
- Sách “Pháp luật về nuôi con nuôi của Việt Nam và một số nước trên
thế giới” của Cục Con nuôi-Bộ Tư pháp biên soạn năm 2009;
8
- Số chuyên đề của Tạp chí Dân chủ và Pháp luật về Pháp luật về nuôi
con nuôi xuất bản năm 2009 và năm 2011;
- Sách hướng dẫn thực thi Công ước-Ủy ban Lahay xuất bản năm 2012.
- Tài liệu “Hội thảo Bảo đảm quyền trẻ em và thực hiện việc nuôi con
nuôi quốc tế tại Việt Nam” do Cục Con nuôi Bộ Tư pháp tổ chức tháng 1/2010.
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu, các bài viết, các diễn đàn này
mới chỉ đề cập đến các chế định về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt
Nam hoặc xem xét các nguyên tắc về hợp tác nuôi con nuôi quốc tế của Công
ước Lahay một cách riêng rẽ, thiếu sự gắn kết, liên hệ, so sánh để thấy được
những điểm tương đồng hay xung đột giữa hai hệ thống pháp luật trong nước
và quốc tế một cách tổng thể và cập nhật.
3. Mục tiêu và phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu, tìm ra những điểm tương đồng và khác
biệt trong các quy định của pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi quốc tế với
các nguyên tắc cơ bản và nội dung của Công ước Lahay, từ đó đưa ra những
khuyến nghị để tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về nuôi con nuôi trong
nước, tăng cường hiệu quả thực thi Luật Nuôi con nuôi và Công ước Lahay
tại Việt Nam.
Với mục tiêu nêu trên, phạm vi nghiên cứu của Luận văn chỉ tập trung
vào các quy định của Luật Nuôi con nuôi, Nghị định số 19/2011/NĐ-CP ngày
21/3/2011 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Nuôi con nuôi và
Công ước Lahay năm 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác quốc tế trong lĩnh vực
con nuôi quốc tế.
Việc nghiên cứu tập trung vào khía cạnh pháp lý, có thể đối chiếu
với thực tiễn trong năm đầu tiên áp dụng Luật Nuôi con nuôi (từ 1/1/2011)
và năm đầu tiên khi Công ước có hiệu lực thi hành tại Việt Nam (từ
1/2/2012) để làm sâu sắc hơn những điểm còn bất cập trong các quy định
9
của pháp luật hiện hành và từ đó nhấn mạnh yêu cầu cần tiếp tục hoàn thiện
theo hướng hài hòa hơn với quy định của Công ước Lahay và mang tính
khả thi cao hơn trong thực tiễn.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch
sử của Chủ nghĩa Mác-Lê nin, những tư tưởng chủ đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam và tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước pháp quyền. Trong
đó, một số phương pháp nghiên cứu cụ thể được vận dụng bao gồm: phương
pháp tổng hợp, phân tích, so sánh, diễn dịch, quy nạp, trích dẫn... để đạt được
mục tiêu nghiên cứu đề ra.
5. Những đóng góp, ý nghĩa của Luận văn
Thông qua việc trình bày một cách logic và khái quát về những quy
định của pháp luật hiện hành trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế của Việt
Nam trong mối tương quan với các nguyên tắc, yêu cầu cơ bản của Công ước
Lahay, luận văn sẽ làm sáng tỏ những điểm tương đồng, những điểm còn bất
cập trong các quy phạm pháp luật hiện hành, từ đó thấy được những thuận lợi,
khó khăn trong quá trình thực thi Luật Nuôi con nuôi và Công ước Lahay tại
Việt Nam. Trên cơ sở những bất cập đó, luận văn sẽ đề xuất những giải pháp
mang tính khả thi để hoàn thiện hệ thống pháp luật trong nước về nuôi con
nuôi quốc tế nhằm nâng cao hiệu quả thực thi Luật Nuôi con nuôi và Công
ước Lahay trong những năm tiếp theo, góp phần tích cực cho công tác bảo vệ
trẻ em nói chung, bảo vệ những trẻ em được cho làm con nuôi quốc tế nói
riêng trên nền tảng của tư tưởng nhân đạo.
6. Cơ cấu của luận văn
Ngoài những phần chung như Lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo, luận văn gồm ba phần chính như sau:
10
Chƣơng 1: Khái quát chung về quy định của pháp luật Việt Nam
trong lĩnh vực nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài
1.1. Khái niệm về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
1.2. Nguyên tắc giải quyết nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
1.3. Điều kiện đối với người nhận con nuôi và người được cho làm con nuôi
1.4. Trình tự, thủ tục giải quyết nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
1.5. Cơ quan quản lý nhà nước về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
1.6. Hệ quả pháp lý của việc giải quyết con nuôi có yếu tố nước ngoài
Chƣơng 2: Nhƣ̃ng tiến bộvà ha ̣n chế của pháp luâ ̣t Viê ̣
t Nam so vớ i
quy đi ̣
nh củ a Công ƣớ c Lahay
2.1 . Khái quát chung về công ước Lahay
2.2. Những khuyến nghị của Ủy ban Lahay
2.3. Những điểm tương đồng và bất cập của pháp luật Việt Nam so với
quy định của Công ước Lahay
Chƣơng 3: Thƣ̣c tra ̣ng, giải pháp tăng cƣờng hiê ̣
u quả thƣ̣c thi Luâ ̣t
Nuôi con nuôi và cam kết của Việt Nam khi tham gia Công ƣớ c Lahay
3.1. Kết quả thực thi các quy định của pháp luật về nuôi con nuôi có
yếu tố nước ngoài thời gian qua
3.2. Những tồn tại, bất cập trong quá trình giải quyết nuôi con nuôi quốc
tế theo quy định của Luật Nuôi con nuôi và theo yêu cầu của Công ước Lahay
3.3. Những thách thức khi thực thi Công ước Lahay tại Việt Nam.
3.4. Một số giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả thực thi Luật Nuôi con
nuôi và Công ước Lahay
11
Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM
TRONG LĨNH VỰC NUÔI CON NUÔI CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI
1.1. Khái niệm về nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài
Nuôi con nuôi là một quá trình khi một người đảm đương vai trò nuôi
nấng đối với một người khác, và bằng cách đó, mọi quyền hạn và trách nhiệm
của cha mẹ đẻ đã được chuyển dịch một cách ổn định lâu dài sang cho người
đảm nhận việc nuôi dưỡng. Khác với việc giám hộ hay các hệ thống khác
được xây dựng nhằm mục đích tạo điều kiện cho công tác chăm sóc trẻ em,
việc nhận nuôi nhằm thiết lập sự thay đổi bền vững về vị thế pháp lý giữa
người nhận nuôi và trẻ em được nuôi dưỡng, đồng thời đòi hỏi xã hội thừa
nhận những thay đổi đó thông qua các hình thức công nhận về tôn giáo hay
pháp luật [34].
Nuôi con nuôi có lịch sử phát triển lâu dài ở Châu Âu và gắn liền với
vấn đề thừa kế của Triều đại Rom và Nhà thờ Công giáo. Dấu ấn đầu tiên về
phương diện pháp lý của hoạt động nuôi con nuôi được tìm thấy ở Bộ luật
Hammurabi thế kỷ XVIII trước Công nguyên [4]. Bộ luật đã quy định chi tiết
về quyền, nghĩa vụ của người được nhận làm con nuôi. Đế chế Rom cổ đại
cũng đã có những tài liệu ghi nhận về hoạt động nuôi con nuôi thông qua Đạo
luật Justinianus.
Trong thế giới cổ đại, nuôi con nuôi chủ yếu vì lợi ích kinh tế và chính
trị của người nhận con nuôi, đó là công cụ pháp lý để củng cố các quan hệ
chính trị giữa những gia đình vương giả, tạo ra người thừa kế và quản lý gia
sản. Nhiều tài liệu cũng chỉ ra rằng, người Ấn Độ và Trung Quốc cổ đại cũng
có truyền thống nhận nuôi con nuôi chủ yếu vì mục đích tôn giáo và tập tục
văn hóa. Người Ấn Độ thiên về việc nhận nuôi con trai để thực hiện nghi lễ
12
ma chay, trong khi đó, người Trung Quốc cổ đại chủ yếu chỉ nhận nuôi con
trai để duy trì việc thờ cúng tổ tiên [31].
Qua nhiều thế kỷ, việc nuôi con nuôi đã có sự chuyển hóa về bản chất,
từ hình thức nhận con nuôi trưởng thành vì mục đích có người thừa kế sang
nhận trẻ em làm con để tạo dựng gia đình, chuyển từ việc đảm bảo sự tiếp nối
của dòng họ thông qua con nuôi sang mô hình quan hệ xã hội mang cảm xúc
mãnh liệt. Từ thế kỷ XVII, việc nuôi con nuôi đã được coi như một giải pháp
đối với vấn đề của xã hội-đó là vấn đề trẻ em không có gia đình. Ở đâu có trẻ
em cần tìm cha mẹ thì ở đó có việc nuôi con nuôi. Xét về phương diện pháp
lý, việc nuôi con nuôi nhằm xác lập quan hệ cha mẹ và con lâu dài, bền vững,
đảm bảo con nuôi được chăm sóc, giáo dục trong môi trường gia đình. Pháp
luật của các nước trên thế giới cũng như của Việt Nam đều hướng tới việc bảo
vệ tốt nhất đối với mối quan hệ này [9].
Khái niệm nuôi con nuôi quốc tế dường như được hình thành cùng với
những hệ quả của Đại chiến thế giới thứ II và thời kỳ Chiến tranh lạnh của thế
kỷ 20. Việc tham gia chiến tranh của binh lính, thủy thủ tại các nước Châu Âu
hay Châu Á đã làm tăng đột biến số trẻ em có hai dòng máu. Bên cạnh đó, sau
Thế chiến thứ hai, số lượng trẻ mồ côi không có khả năng tự chăm lo cho bản
thân đã phát sinh nhu cầu cho nhận con nuôi. Ban đầu, khái niệm cho nhận
con nuôi quốc tế gắn liền với việc nhận con nuôi của các công dân Mỹ đối với
những trẻ em khác chủng tộc trong thời kỳ này, dần dần, cùng với xu thế phát
triển chung của xã hội, khái niệm nuôi con nuôi quốc tế đã được luật hóa và
trở thành một hiện tượng xã hội phổ biến trên thế giới [33, 34]. Nhìn từ góc
độ pháp lý, khái niệm nuôi con nuôi quốc tế ở mỗi nước khác nhau được quy
định khác nhau, tuy nhiên đều phản ánh hiện tượng thực tiễn khi trẻ em có
nhu cầu được chăm sóc, thường là từ các nước chậm hoặc đang phát triển,
13
được gửi từ nước nơi mình thường trú hợp pháp đến các gia đình nhận nuôi
thường trú ở nước khác, thông thường là ở các nước phát triển.
Ở Việt Nam, khái niệm nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài hay còn gọi
là nuôi con nuôi quốc tế-theo cách gọi quốc tế- đã có một quá trình phát triển
cùng với sự hình thành và phát triển của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật
điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài. Luật Hôn nhân
và Gia đình năm 1986 lần đầu tiên đã quy định về những vấn đề liên quan tới
quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài. Theo đó, quan hệ gia đình
có yếu tố nước ngoài được nêu tóm tắt: “Những vấn đề về quan hệ vợ chồng,
quan hệ tài sản, quan hệ cha mẹ và con, huỷ việc kết hôn, ly hôn, nuôi con
nuôi và đỡ đầu giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài do Hội đồng
Nhà nước quy định”-Điều 53 và “Trong trường hợp đã có hiệp định tương trợ
tư pháp và pháp lý về hôn nhân và gia đình giữa Việt Nam và nước ngoài, thì
tuân theo những quy định của các hiệp định đó”-Điều 54.
Luật Hôn nhân và Gia đình sửa đổi năm 2000 đã quy định chi tiết hơn
về quan hệ hôn nhân gia đình có yếu tố nước ngoài, trong đó, quan hệ hôn
nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài là quan hệ hôn nhân và gia đình (i)
giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài; (ii) giữa người nước ngoài với
nhau thường trú ở Việt Nam; (iii) giữa công dân Việt Nam với nhau mà căn
cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài hoặc
tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài (Điều 8 khoản 14).
Có thể thấy, mặc dù đã được luật hóa nhưng các quy định này vẫn
mang tính liệt kê, chưa thể hiện rõ bản chất cũng như phản ánh đấy đủ những
khía cạnh pháp lý của quan hệ nuôi con nuôi quốc tế. Chính vì vậy, nhiều văn
bản pháp lý đã tiếp tục được ban hành để hướng dẫn cụ thể hơn việc giải
quyết nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài như Quyết định số 145/HĐBT ngày
29/4/1992 của Hội đồng Bộ trưởng quy định tạm thời về việc cho người nước
14
ngoài nhận con nuôi là trẻ em mồ côi, bị bỏ rơi, bị tàn tật ở các cơ sở nuôi
dưỡng do ngành lao động-thương binh và xã hội quản lý; Pháp lệnh hôn nhân
và gia đình ngày 2/12/1993 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về hôn
nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài; Nghị định số
184/CP ngày 30/11/1994 của Chính phủ quy định về thủ tục kết hôn, nhận
con ngoài giá thú, nuôi con nuôi, nhận đỡ đầu giữa công dân Việt Nam và
người nước ngoài; Nghị định 68/2002/NĐ-CP ngày 10/7/2002 của Chính phủ
quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và Gia đình về quan
hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài. Cho đến năm 2010, cùng với
việc ra đời của Luật Nuôi con nuôi, có thể nói, lần đầu tiên khái niệm nuôi
con nuôi quốc tế đã được luật hóa một cách đầy đủ nhất, rõ ràng nhất với chi
tiết cụ thể như sau: “Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là việc nuôi con nuôi
giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, giữa người nước ngoài với
nhau thường trú ở Việt Nam, giữa công dân Việt Nam với nhau mà một bên
định cư ở nước ngoài”-khoản 5 Điều 3 Luật Nuôi con nuôi.
Như vậy, nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài (hay nuôi con nuôi quốc
tế) theo quy định của pháp luật Việt Nam được xác định trên hai yếu tố căn
bản: quốc tịch và nơi cư trú của các bên tham gia quan hệ này. Yếu tố quốc
tịch thể hiện: việc nuôi con nuôi được xác lập giữa một bên là công dân Việt
Nam và một bên là người nước ngoài. Bên cạnh đó, nuôi con nuôi có yếu tố
nước ngoài còn được áp dụng giải quyết khi các bên tham gia quan hệ cùng
quốc tịch nhưng nơi cư trú vào thời điểm xác lập quan hệ nuôi con nuôi khác
nhau-cùng là công dân Việt Nam nhưng một bên không định cư tại Việt Nam-
hoặc cùng là công dân nước ngoài nhưng đang thường trú ở Việt Nam.
Với quy định hiện hành, chủ thể tham gia quan hệ nuôi con nuôi có yếu
tố nước ngoài của Việt Nam có phạm vi áp dụng tương đối rộng so với một số
nước cho trẻ em khác (Nước gốc). Ví dụ, Bộ luật Gia đình năm 2007 của Liên
15
Bang Nga quy định nuôi con nuôi quốc tế chỉ dựa vào yếu tố quốc tịch, cụ thể
là: nuôi con nuôi quốc tế là việc nhận trẻ em là công dân Nga làm con nuôi
của người nước ngoài hoặc người không có quốc tịch, hoặc việc công dân
Nga nhận trẻ em nước ngoài làm con nuôi (Điều 165). Luật Con nuôi của
Guatemala năm 2007 quy định nuôi con nuôi quốc tế chỉ dựa vào yếu tố nơi
cư trú, cụ thể là: con nuôi quốc tế được hiểu là việc nhận con nuôi theo đó trẻ
thường trú hợp pháp ở Guatemala được đưa đến một nước khác làm con nuôi
(Điều 2 khoản b). Luật Nuôi con nuôi của một số nước khác như Trung Quốc,
Thái Lan, Hàn Quốc không đưa ra khái niệm con nuôi quốc tế nhưng có
những quy định điều chỉnh việc nhận trẻ em Trung Quốc, Hàn Quốc, Thái
Lan làm con nuôi của người nước ngoài. Điều này cho thấy, ở các Nước gốc,
quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài thường được áp dụng dựa trên
một yếu tố hoặc là quốc tịch hoặc là nơi cư trú của các bên tham gia quan hệ
này, yếu tố nơi cư trú của trẻ em vào thời điểm xác lập quan hệ con nuôi
không được nhấn mạnh như trong quy định của pháp luật Việt Nam.
1.2. Nguyên tắc giải quyết nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài
Với mục đích thiết lập quan hệ pháp lý lâu dài, bền vững giữa cha mẹ
nuôi và con nuôi như quan hệ giữa cha, mẹ và con ruột, pháp luật về nuôi con
nuôi của Việt Nam đã được xây dựng trên những nguyên tắc mang tính xuyên
suốt đó là phải phù hợp với các chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật
của Nhà nước về công tác bảo vệ trẻ em, vì lợi ích tốt nhất của trẻ em được
nhận làm con nuôi và quyền lợi chính đáng của người xin nhận con nuôi.
Xuất phát từ mục đích nêu trên, kế thừa những ưu thế của pháp luật
nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài trong suốt thời gian qua, trên tinh thần nội
luật hóa pháp luật quốc tế về lĩnh vực này, các nguyên tắc giải quyết nuôi con
nuôi áp dụng cho cả việc giải quyết nuôi con nuôi trong nước hay con nuôi
quốc tế được nêu tại Điều 4 Luật Nuôi con nuôi bao gồm:
16
1. Khi giải quyết việc nuôi con nuôi cần tôn trọng quyền của trẻ em
được sống trong môi trường gia đình gốc.
2. Việc nuôi con nuôi phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người
được nhận làm con nuôi và người nhận con nuôi, tự nguyện, bình đẳng, không
phân biệt nam nữ, không trái pháp luật và đạo đức xã hội.
3. Chỉ cho làm con nuôi người ở nước ngoài khi không thể tìm được gia
đình thay thế ở trong nước.
1.2.1. Nguyên tắc thứ nhất: Khi giải quyết việc nuôi con nuôi cần tôn
trọng quyền của trẻ em được sống trong môi trường gia đình gốc
Đây là một trong những nguyên tắc được xây dựng trên cơ sở thống
nhất với nguyên tắc bảo đảm quyền được sống chung với cha mẹ của trẻ em
đã được quy định tại Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004,
đồng thời đảm bảo tính hài hòa hóa các quy định của pháp luật quốc tế liên
quan tới quyền của trẻ em mà Việt Nam đã tham gia, cụ thể như Tuyên bố của
Liên Hợp Quốc về các nguyên tắc pháp lý và xã hội liên quan đến phúc lợi và
bảo vệ trẻ em- “Ưu tiên hàng đầu đối với trẻ em là phải được cha mẹ đẻ chăm
sóc”; Công ước Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em-“tin tưởng rằng, gia đình với
tư cách là nhóm xã hội cơ bản và là môi trường tự nhiên cho sự phát triển và
hạnh phúc của tất cả các thành viên gia đình, đặc biệt là trẻ em”.
Môi trường gia đình là môi trường tốt nhất bảo đảm cho sự phát triển
về nhân cách, trí tuệ và vun đắp những truyền thống tương thân tương ái, gắn
bó yêu thương của gia đình Việt Nam cho trẻ. Trẻ em là tương lai của đất
nước, gia đình là hạt nhân của xã hội. Chính vì vậy, Đảng, Nhà nước đã có
nhiều chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế gia đình, đề cao vai trò gia đình,
đảm bảo cho trẻ em được nuôi dưỡng, chăm sóc tốt nhất ngay trong chính gia
đình gốc của mình. Không ai, không tổ chức nào có quyền tách rời trẻ em ra
khỏi gia đình gốc của mình. Những hành vi mua chuộc, mua bán hoặc bắt cóc
17
trẻ em, kể cả là hành vi do chính cha hoặc mẹ đẻ của trẻ em gây ra cũng sẽ bị
pháp luật trừng trị nghiêm khắc.
Đối với trẻ em không còn cha mẹ hoặc cha mẹ ruột không còn khả
năng nuôi dưỡng, vì lợi ích tốt nhất của trẻ, việc chăm sóc và giáo dục trẻ em
sẽ được ưu tiên chuyển giao cho họ hàng thân thích nhằm tiếp tục duy trì môi
trường quen thuộc và an toàn nhất đối với trẻ em. Tuân thủ nguyên tắc này,
việc giải quyết cho trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi làm con nuôi họ hàng thân
thích như cô, cậu, dì, chú, bác ruột hoặc cha dượng, mẹ kế sẽ được ưu tiên và
áp dụng thủ tục đơn giản và ngắn gọn hơn nhiều đối với việc cho nhận con
nuôi trong nước hoặc con nuôi có yếu tố nước ngoài thông thường.
Nguyên tắc tôn trọng quyền được sống trong môi trường gia đình gốc
khi giải quyết nuôi con nuôi nói chung, nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
nói riêng còn tạo cơ hội nâng cao ý thức trách nhiệm, đề cao truyền thống lá
lành đùm lá rách của từng thành viên trong gia đình, họ hàng nội ngoại của
trẻ em. Trước khi đặt trách nhiệm chăm sóc thay thế đối với những trẻ em bị
bỏ rơi, bị mồ côi, những thành viên trong gia đình mở rộng của trẻ như cô,
cậu, dì, chú bác, ông bà… sẽ là những người được ưu tiên giao quyền giám hộ
đối với trẻ. Chỉ khi không thể tìm được thân nhân nuôi dưỡng, trẻ em mới
được đưa vào các cơ sở nuôi dưỡng được thành lập hợp pháp hoặc được giải
quyết làm con nuôi.
1.2.2. Nguyên tắc thứ hai: Việc nuôi con nuôi phải bảo đảm quyền,
lợi ích hợp pháp của người được nhận làm con nuôi và người nhận con
nuôi, tự nguyện, bình đẳng, không phân biệt nam nữ, không trái pháp luật
và đạo đức xã hội
Trong xã hội hiện đại có rất nhiều hình thức chăm sóc được pháp luật
quy định nhằm đảm bảo việc chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục đối với
những trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, không được sống trong môi trường
18
gốc của mình. Bên cạnh các hình thức chăm sóc thay thế như nuôi dưỡng tại
cơ sở bảo trợ xã hội, chăm sóc tại các gia đình nhận nuôi, cho nhận con nuôi
được coi là hình thức chăm sóc thay thế mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc và
có tính ưu việt vượt trội bởi nó tạo cho trẻ một môi trường nuôi dưỡng ổn
định, bền chặt với tình yêu thương hài hòa của cha-mẹ nuôi và những người
họ hàng thân thích. Tuy nhiên, bất kỳ hình thức chăm sóc nào trước khi
được thực hiện hoặc được pháp luật thừa nhận đều phải đảm bảo nguyên tắc
căn bản là vì lợi ích tốt nhất của trẻ em cũng như vì quyền và lợi hợp pháp
của người nhận nuôi.
So với thực tiễn giải quyết nuôi con nuôi trước đây, nguyên tắc này đã
quan tâm hơn đến lợi ích của người nhận con nuôi. Lợi ích tốt nhất của trẻ em
phải là mục đích, là ưu tiên hàng đầu nhưng không phải là duy nhất trong
quan hệ nuôi con nuôi mà còn phải tính đến lợi ích hợp pháp của người xin
nhận con nuôi. Quan hệ nuôi dưỡng chỉ có thể phát triển tốt đẹp, bền chặt khi
cả hai bên chủ thể được bảo đảm những quyền và lợi ích hợp pháp trên cơ sở
bình đẳng, tự nguyện. Trẻ em được nhận nuôi được yêu thương, được chăm
sóc, được giáo dục bởi cha mẹ nuôi, ngược lại, cha mẹ nuôi cũng có nhu cầu
được yêu thương, kính trọng, gắn bó từ đứa con mà mình đã đón nhận về. Sợi
dây tình cảm này chỉ có thể bền chặt khi cả hai cùng được pháp luật bảo vệ và
được xây dựng trên nền tảng bình đẳng và tự nguyện.
Việc đón nhận một trẻ em xa lạ về gia đình để yêu thương, chăm sóc
cho đến khi trưởng thành đòi hỏi người làm cha, làm mẹ phải có nhiều kỹ
năng, kiến thức, nhất là với những gia đình không có khả năng sinh con vì họ
sẽ thiếu hụt những kinh nghiệm và sự nhạy bén bản năng. Chính vì vậy, việc
tư vấn, tập huấn trang bị những kiến thức, kỹ năng cần thiết cho người nhận
con nuôi để họ nhận thức đầy đủ về trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi khi
quyết định tham gia quan hệ nuôi con nuôi có ý nghĩa vô cùng quan trọng,
19
quyết định căn bản đến sự thành công của mỗi trường hợp nuôi con nuôi. Sự
tự nguyện tham gia quan hệ nuôi con nuôi chỉ có thể là kết quả của một quá
trình nhận thức đầy đủ về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của cả cha mẹ nuôi
lẫn trẻ em được nhận nuôi (đối với trẻ từ đủ 9 tuổi trở lên). Tự nguyện có
nghĩa là sự chấp nhận vô điều kiện, thông suốt về tư tưởng, vui vẻ về tinh
thần, không chịu bất kỳ sự ép buộc hay bị ảnh hưởng nào (bị lừa dối, hiểu
lầm, cưỡng ép, trao đổi lợi ích…) của những người tham gia quan hệ nuôi con
nuôi. Thực tế cho thấy, thiếu sự tự nguyện, trẻ em có thể trở thành hàng hóa
của một quá trình trao đổi lợi ích, mục đích của việc nuôi con nuôi sẽ mất đi
bản chất nhân đạo và trở thành hành vi thiếu đạo đức, trục lợi cần phải ngăn
chặn và lên án.
Một yếu tố căn bản khác cần đặc biệt chú trọng khi giải quyết nuôi con
nuôi quốc tế đó là việc xác lập quan hệ cha-mẹ con không có sự phân biệt
nam nữ, phải bình đẳng, không được trái pháp luật và trái đạo đức xã hội. Đây
cũng là nguyên tắc chung khi xác lập các quan hệ dân sự. Tuy nhiên, nguyên
tắc này đặc biệt quan trọng khi đối tượng của quan hệ dân sự là con người, là
yếu tố trung tâm của mọi vận động xã hội và là nguồn nhân lực tương lai của
mỗi quốc gia. Mục đích của việc giải quyết nuôi con nuôi là tìm một mái ấm
cho trẻ, do vậy, trẻ em mới có quyền lựa chọn những gia đình phù hợp nhất
với đặc điểm, điều kiện của mình chứ không phải là đối tượng để các cặp vợ
chồng lựa chọn, cân nhắc khi nhận nuôi. Xuất phát từ mục tiêu này, một trong
những điều cấm của pháp luật về nuôi con nuôi của tất cả các nước là người
xin nhận con nuôi không được lựa chọn giới tính của trẻ em. Tất cả những
người xin nhận con nuôi, không phân biệt giới tính, hoàn cảnh kinh tế, nguồn
gốc gia đình, trình độ học vấn, khi đáp ứng những điều kiện luật định đều có
cơ hội bình đẳng như nhau để được giới thiệu nuôi một trẻ em có đặc điểm
phù hợp với nguyện vọng của mình và nhu cầu của trẻ em.
20
Việc nhấn mạnh khía cạnh hợp pháp, đạo đức xã hội trong quá trình
giải quyết nuôi con nuôi là nhằm ngăn ngừa khả năng buôn bán, bóc lột sức
lao động trẻ em hay lợi dụng các chính sách ưu đãi của Nhà nước đối với
những người có công thông qua hình thức nuôi con nuôi. Cuộc sống là tổng
hòa của nhiều mối quan hệ, lợi ích. Vì vậy, khi giải quyết nuôi con nuôi, dù
xuất phát từ lợi ích của trẻ em có nhu cầu được nhận nuôi, các cơ quan có
thẩm quyền cũng phải suy xét kỹ lưỡng để đảm bảo tính hợp pháp, tuân thủ
nghiêm túc các quy định của pháp luật, không đi ngược với truyền thống, đạo
đức xã hội. Việc nhận nuôi con nuôi trong mọi trường hợp cũng không được
làm đảo lộn ngôi thứ trong gia đình, ảnh hưởng tới thứ bậc trong quan hệ
huyết thống như ông bà không thể nhận cháu làm con nuôi, anh chị em không
thể nhận nhau làm cha/mẹ/con nuôi.
1.2.3. Nguyên tắc thứ 3: Chỉ cho làm con nuôi người nước ngoài khi
không thể tìm được gia đình thay thế ở trong nước
Đây là một nguyên tắc mới được quy định trong Luật Nuôi con nuôi.
Nguyên tắc này vừa thể hiện sự thống nhất về tư tưởng tôn trọng quyền của
trẻ em được sống trong môi trường gia đình gốc như đã nêu ở nguyên tắc thứ
nhất, vừa thể hiện sự tôn trọng nguyên tắc chung của cộng đồng quốc tế: “mỗi
nước cần ưu tiên tiến hành các biện pháp thích hợp để trẻ em có thể được
chăm sóc trong gia đình gốc của mình”-Công ước Lahay năm 1993 về bảo vệ
trẻ em và hợp tác quốc tế trong lĩnh vực con nuôi. Chỉ sau khi đã nỗ lực tìm
kiếm các gia đình nhận nuôi trong cộng đồng, trong địa bàn hay trên phạm vi
toàn quốc mà không thể thành công thì mới tính đến việc cho trẻ em làm con
nuôi người nước ngoài và phải đảm bảo rằng việc cho trẻ em làm con nuôi
người nước ngoài là giải pháp cuối cùng vì lợi ích tốt nhất của trẻ em.
Để thực hiện nguyên tắc này, Luật Nuôi con nuôi cũng đã quy định đầy
đủ về trách nhiệm, trình tự thủ tục tìm mái ấm gia đình thay thế trong nước
21
cho trẻ em. Khi một trẻ em bị bỏ rơi, mồ côi, việc tiếp tục nuôi dưỡng trẻ cần
ưu tiên dành cho những người cùng sống trong cộng đồng, sau đó mở rộng
đến phạm vi tỉnh/thành và cuối cùng là tìm mái ấm gia đình người Việt Nam
nhận nuôi. Như vậy, yếu tố văn hóa, dân tộc, truyền thống, tập quán đã được
đặt thành những tiêu chí ưu tiên hàng đầu khi tìm kiếm gia đình nuôi dưỡng
thay thế đối với những trẻ em Việt Nam không được chăm sóc trong gia đình
gốc của mình.
1.3. Điều kiện đối với ngƣời nhận con nuôi và ngƣời đƣợc cho làm
con nuôi
So với các quy định của pháp luật trước đây, cụ thể là với các quy định
của Nghị định số 68/2002/NĐ-CP thì điều kiện đối với người nhận con nuôi
và điều kiện để trẻ em Việt Nam được giải quyết làm con nuôi người nước
ngoài có nhiều điểm mới và chặt chẽ hơn. Cụ thể là:
1.3.1. Điều kiện đối với người nhận con nuôi có yếu tố nước ngoài
Điều 29 Luật Nuôi con nuôi đã quy định rõ điều kiện đối với người
nhận con nuôi khi tham gia quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, trong
đó dẫn chiếu đến Điều 14 của Luật Nuôi con nuôi về điều kiện của người
nhận con nuôi khi tham gia quan hệ nuôi con nuôi trong nước. Nói một cách
khái quát, để có thể tham gia quan hệ nuôi con nuôi nước ngoài, người xin
nhận con nuôi phải thỏa mãn các điều kiện cơ bản như sau:
a) Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ.
b) Hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên.
c) Có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở bảo đảm việc chăm sóc,
nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi.
d) Có tư cách, đạo đức tốt.
Ngoài những điều kiện tối thiểu nêu trên, tùy từng đối tượng, trường
hợp cụ thể, người nhận con nuôi còn phải thỏa mãn các điều kiện như sau:
22
- Nếu là trường hợp cha dượng, mẹ kế nhận con riêng của vợ/chồng
làm con nuôi; cô/cậu/dì/chú/bác ruột nhận cháu làm con nuôi thì không áp
dụng điều kiện về khoảng cách độ tuổi (20 tuổi) và điều kiện về sức khỏe,
kinh tế, chỗ ở như đã nêu tại điểm b, c ở trên.
Việc quy định đủ các điều kiện về sức khỏe, về khoảng cách độ tuổi, về
kinh tế, đạo đức đã thể hiện nhất quán quan điểm của Đảng, Nhà nước trong
việc tạo lập một môi trường nuôi dưỡng thay thế ổn định, an toàn, hội tụ đầy
đủ những điều kiện sống căn bản để có thể nuôi dưỡng, chăm sóc và phát
triển cho những trẻ em có hoàn cảnh khó khăn không được sống trong gia
đình gốc của mình. Tuy nhiên, thực hiện nhất quán quan điểm ưu tiên cho trẻ
được phát triển trong môi trường gốc của mình, nếu trẻ em không còn cha mẹ
nuôi dưỡng, quyền chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ sẽ được ưu tiên trước hết cho
những người thân thích của trẻ như cha dượng, mẹ kế, cô cậu dì chú bác ruột.
Trong môi trường cùng huyết thống hoặc có quan hệ hôn nhân thì khoảng
cách về độ tuổi, điều kiện kinh tế, sức khỏe không phải là những yếu tố quyết
định bởi suy cho cùng, những người thân thuộc của trẻ sẽ là những người
mang lại tình yêu thương vô điều kiện, sẵn sàng hy sinh để chăm lo vun đắp
cho tương lai của trẻ. Đó là môi trường an toàn, gần gũi nhất, ít xáo trộn nhất
đối với trẻ khi bị tách khỏi cha mẹ ruột của mình. Quy định như vậy cũng thể
hiện rõ truyền thống văn hóa dân tộc trong việc đề cao tình cảm gia đình với
đạo lý “một giọt máu đào hơn ao nước lã”.
- Trường hợp người nhận con nuôi là người Việt Nam định cư ở nước
ngoài, người nước ngoài thường trú ở nước ngoài, nếu muốn nhận trẻ em Việt
Nam làm con nuôi thì bên cạnh việc đáp ứng các điều kiện nêu trên còn phải
thỏa mãn các điều kiện của nước nơi người xin nhận con nuôi thường trú.
Pháp luật Việt Nam đã kết hợp giữa luật nơi thường trú của người nhận
con nuôi và luật Việt Nam để xác định điều kiện của người nhận con nuôi .
23
Vấn đề áp dụng pháp luâ ̣t để xác đi ̣
nh điều kiê ̣n đối với người xin nhâ ̣n con
nuôi đã trải qua một quá trình hoàn thiê ̣n trên cơ sở các hiê ̣p đi ̣
nh hợp tác
song phương trong lĩnh vực con nuôi quốc tế . Vì vậy, về căn bản , viê ̣c quy
đi ̣
nh những điều kiê ̣n như hiê ̣n nay không ta ̣o ra sự xáo trộn nào so với các
quy đi ̣
nh của pháp luâ ̣t trước đây đối với viê ̣c giải quyết nuôi con nuôi có yếu
tố nước ngoài . Đặc biệt, Viê ̣t Nam vẫn bảo lưu quan điểm không giải quyết
nuôi con nuôi đối với người đồng t ính thông qua quy định tại Điều 8 khoản 3
“một người chỉ được làm con nuôi của một người độc thân hoă ̣c của cả hai
người là vợ chồng” . Theo quy đi ̣
nh của Luâ ̣t Hôn nhân và Gia đình , Điều 10
khoản 5 thì những người cùng giới tính là đối tượng bị cấm kết hôn . Từ các
quy đi ̣
nh trên cho thấy , tuy không trực tiếp quy đi ̣ nh ta ̣i Luâ ̣t Nuôi con nuôi
nhưng pháp luâ ̣t về giải quyết nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài (cũng như
trong nước ) của Việt Nam không áp dụng cho người có quan hệ hôn nhân
đồng giớ i.
Để đảm bảo các điều kiện đối với người xin nhận con nuôi, pháp luật
Việt Nam đã quy định rõ những loại giấy tờ mà người nhận con nuôi phải
nộp tại cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam, trong đó phải có một số loại
giấy tờ pháp lý quan trọng như Giấy phép cho nhận nuôi con nuôi Việt
Nam do cơ quan có thẩm quyền của Nước nhận cấp, bản điều tra gia cảnh
của người xin nhận con nuôi do cán bộ xã hội được ủy quyền thực hiện,
phiếu lý lịch tư pháp, giấy xác nhận thu nhập, xác nhận tình trạng sức
khỏe... Bằng cách quy định các loại giấy tờ cần thiết, cơ quan có thẩm
quyền của Việt Nam đã tạo được cơ sở pháp lý và cơ sở khoa học xã hội để
đánh giá mức độ phù hợp của người xin nhận con nuôi đối với từng trẻ em
Việt Nam cần tìm mái ấm gia đình thay thế. Đối với trẻ có nhu cầu đặc
biệt, Việt Nam yêu cầu cơ quan có thẩm quyền của Nước nhận phải ghi rõ
trong Quyết định cho nhận con nuôi về việc người xin nhận con nuôi đủ
24
điều kiện để nhận nuôi trẻ có nhu cầu đặc biệt, bên cạnh đó, điều kiện kinh
tế và trình độ hiểu biết về các bệnh hiểm nghèo của người xin nhận con
nuôi sẽ được chú trọng hơn khi giải quyết nuôi con nuôi.
Thực tiễn giải quyết nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài trong những
năm qua cho thấy, quy định của các nước về điều kiện đối với người xin nhận
con nuôi rất khác nhau. Hầu hết các nước đều quy đi ̣
nh về độtuổi của người
xin nhâ ̣n con nuôi : Pháp luật của Nga quy định khoảng cách giữa con nuôi và
người nhâ ̣n nuôi l à 16 tuổi; Pháp quy định người xin nhận con nuôi phải từ 28
tuổi trở lên (nếu là vợ chồng thì áp dụng độ tuổi cho vợ hoặc chồng) và
khoảng cách tối thiểu giữa người nhận con nuôi và người được nhận làm con
nuôi là 15 tuổi, nếu trẻ em là con riêng của vợ chồng thì khoảng cách này chỉ
là 10 tuổi; Italy quy định khoảng cách tuổi giữa người nhận con nuôi và người
được nhâ ̣n tối đa không quá 45 tuổi (không áp dụng nếu người xin nhận con
nuôi đã có con nhỏ); Ailen quy định người xin nhận con nuôi phải từ đủ 21
tuổi trở lên; Đan Mạch quy định người xin nhận con nuôi phải từ đủ 25 tuổi
(một số trường hợp đặc biệt thì có thể cho phép người từ đủ 18 tuổi nhận con
nuôi). Với những nước tâ ̣p trung vào chính sách dân số , độtuổi của người xin
nhâ ̣n con nuôi còn có những quy đi ̣
nh cứ ng như người xin nhâ ̣n con nuôi phải
là người không có khả năng sinh con và từ 30 tuổi trở lên.
Ngoài những quy định về độ tuổi, pháp luật của các nước cũng quy
định rất khác nhau về điều kiện liên quan tới tình trạng hôn nhân của người
xin con nuôi. Italy chỉ cho phép các cặp vợ chồng đã kết hôn từ đủ 3 năm
hoặc đã chung sống ổn định như vợ chồng từ đủ 3 năm trở lên được phép xin
nhận con nuôi. Pháp luật của Mỹ, Canađa đều cho phép những người độc thân
xin nhận con nuôi nếu đáp ứng đầy đủ các yêu cầu pháp luật quy định. Riêng
pháp luật Tây Ban Nha cho phép người đồng tính nhận nuôi con nuôi.
- Trường hợp người xin nhận con nuôi là công dân Việt Nam xin nhận
25
trẻ em là công dân người nước ngoài thì bên cạnh việc thỏa mãn các điều kiện
của pháp luật Việt Nam còn phải thỏa mãn các điều kiện của nước nơi trẻ em
thường trú.
Qua thực tiễn quản lý và giải quyết nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
kể từ khi thành lập Cục Con nuôi-Bộ Tư pháp đến nay cho thấy chưa có
trường hợp công dân Việt Nam nhận con nuôi là trẻ em người nước ngoài.
1.3.2. Điều kiện đối với người được nhận làm con nuôi nước ngoài
Theo quy định của Luật Nuôi con nuôi (Điều 8), người được nhận làm
con nuôi phải thỏa mãn những điều kiện nhất định như sau:
1. Trẻ em dưới 16 tuổi.
2. Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi nếu thuộc một trong các trường
hợp sau đây:
a) Được cha dượng, mẹ kế nhận làm con nuôi;
b) Được cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận làm con nuôi;
Bên cạnh quy định tại Điều 8, điều kiện đối với người được nhận làm
con nuôi quốc tế còn được quy định rải rác trong một số điều luật khác như:
khoản 2 Điều 15 về trách nhiệm tìm gia đình thay thế cho trẻ em; khoản 1
Điều 18 về các loại giấy tờ của người được giới thiệu làm con nuôi trong
nước; Điều 32 về hồ sơ của người được giới thiệu làm con nuôi nước ngoài
của Luật Nuôi con nuôi, Điều 3 và Điều 14 Nghị định số 19/2011/NĐ-CP
ngày 21 tháng 3 năm 2011 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật
Nuôi con nuôi.
Cách quy định của các văn bản quy phạm pháp luật hiện nay về điều
kiện của người được nhận làm con nuôi, xét từ kỹ thuật lập pháp, còn nhiều
hạn chế bởi chưa có những quy định tập trung, cụ thể và đầy đủ tại một
điều luật hay một văn bản luật về nội dung này. Mặc dù tên của điều luật là
“Người được nhận làm con nuôi”-Điều 8- nhưng tại Điều này, Luật chỉ đưa
26
ra điều kiện duy nhất về độ tuổi. Rải rác ở các điều luật khác, điều kiện của
người được giới thiệu làm con nuôi nước ngoài tiếp tục được thể hiện
thông qua các loại giấy tờ trong hồ sơ của người được giới thiệu làm con
nuôi nước ngoài.
Từ những quy định hiện hành có thể hiểu, bên cạnh điều kiện về độ tuổi
quy định tại Điều 8 Luật Nuôi con nuôi, người được coi là đủ điều kiện giới
thiệu làm con nuôi nước ngoài phải thỏa mãn những điều kiện khác như:
- Phải là trẻ em được nuôi dưỡng tại các cơ sở nuôi dưỡng thành lập
hợp pháp vì các lý do khác nhau như: trẻ bị bỏ rơi, trẻ em mồ côi nhưng
không có người nuôi dưỡng hoặc trẻ có cha mẹ đẻ, người thân thích nhưng
không có khả năng nuôi dưỡng trẻ em và trẻ em đó phải được tiếp nhận vào
cơ sở nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật.
- Những trẻ em bình thường, khỏe mạnh ở cơ sở nuôi dưỡng nêu trên
phải được đăng thông báo tìm mái ấm gia đình thay thế theo trình tự thủ
tục của pháp luật nhưng không được người trong nước nhận. Chỉ khi hết
thời hạn đăng thông báo mà không có người trong nước nhận nuôi thì
những trẻ em này sẽ được đưa vào danh sách đủ điều kiện để giới thiệu làm
con nuôi người nước ngoài.
- Những trẻ em khuyết tật, trẻ em mắc bệnh hiểm nghèo, nhiễm HIV.
- Trẻ em là con riêng của vợ/chồng trong độ tuổi dưới 18 tuổi.
- Trẻ em là anh/chị/em ruột với trẻ em đã được nhận làm con nuôi
người nước ngoài trong độ tuổi dưới 16 tuổi.
- Trẻ em có quan hệ ruột thịt với người xin nhận con nuôi trong quan
hệ cô/cậu/dì/chú/bác.
So với quy định của pháp luật trước đây, Luật Nuôi con nuôi đã có
những cải cách đáng kể trong việc quy định rõ điều kiện đối với người được
nhận làm con nuôi. Với quy định người được nhận làm con nuôi là trẻ em
27
dưới 16 tuổi (trước đây, luật quy định dưới 15 tuổi), Luật Nuôi con nuôi đã
tạo sự thống nhất với khái niệm trẻ em của Luật Chăm sóc bảo vệ trẻ em
2004. Bên cạnh đó, Luật đã quy định một số trường hợp ngoại lệ như trường
hợp nhận con nuôi của những người họ hàng ruột thịt, của cha dượng hay mẹ
kế thì điều kiện về độ tuổi có thể được mở rộng đến dưới 18 tuổi. Đây là một
quy định tiên tiến của Luật nhằm bảo đảm nguyên tắc trẻ được ưu tiên nuôi
dưỡng trong môi trường gia đình gốc của mình. Một điểm mới nữa của Luật
hiện hành là trường hợp cô/cậu/dì/chú/bác ruột nhận cháu làm con nuôi thì
không cần phải chứng minh cha mẹ đẻ của trẻ em không đủ điều kiện nuôi
con như trước đây.
Cùng với điều kiện về độ tuổi, Luật cũng đã quy định điều kiện mang
tính nguyên tắc đối với người được nhận làm con nuôi đó là: một người chỉ có
thể được nhận làm con nuôi của một người độc thân hoặc hai người là vợ
chồng (khác giới tính). Như vậy, dù trẻ em có nhu cầu tìm mái ấm gia đình để
chăm sóc, nuôi dưỡng nhưng mỗi trẻ em chỉ có thể được giới thiệu làm con
nuôi của một gia đình, cho dù gia đình có cả cha lẫn mẹ hay gia đình chỉ có
cha hoặc mẹ độc thân. Quy định này hoàn toàn phù hợp với quy định của
pháp luật quốc tế nhằm bảo đảm quyền, lợi ích của cả người nhận con nuôi và
trẻ em được nhận nuôi thông qua hình thức cho nhận con nuôi trọn vẹn.
Nhìn chung, pháp luật của các nước có quy định khá khác nhau về độ
tuổi của trẻ em được nhận làm con nuôi. Pháp luật Malaysia và Singapore quy
định người được nhận làm con nuôi dưới 21 tuổi. Luật của Trung Quốc quy
định trẻ em dưới 14 tuổi, Pháp quy định trẻ em dưới 15 tuổi có thể được cho
làm con nuôi.
Luật Nuôi con nuôi cũng đã có những quy định chi tiết về hồ sơ của
người được nhận làm con nuôi nhằm đảm bảo các nguyên tắc giải quyết nuôi
con nuôi và các điều kiện đối với người được nhận làm con nuôi. So với các
28
quy định pháp luật trước đây, Luật Nuôi con nuôi đã bổ sung một số giấy tờ
quan trọng khác như văn bản về đặc điểm, sở thích, thói quen đáng lưu ý của
trẻ em; tài liệu chứng minh đã thực hiện việc tìm gia đình thay thế trong nước
cho trẻ em nhưng không có người nhận. Những văn bản này sẽ giúp cho
những cơ quan, cá nhân có thẩm quyền hiểu biết sâu sắc hơn về những đặc
điểm cá nhân của trẻ, từ đó tìm kiếm những gia đình phù hợp cho trẻ, đảm
bảo sự hòa nhập sau nhận nuôi con nuôi giữa cha mẹ và con. Đồng thời, việc
yêu cầu hồ sơ trẻ em giới thiệu làm con nuôi nước ngoài phải có văn bản
chứng minh việc đã tìm mái ấm gia đình trong nước nhưng không thành công
sẽ đảm bảo thực thi nguyên tắc ưu tiên nuôi dưỡng trẻ em trong môi trường
gia đình gốc của mình.
1.4. Trình tự, thủ tục giải quyết nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài
1.4.1. Những điểm mới so với quy định của pháp luật về nuôi con
nuôi trước đây
Trình tự giải quyết nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài được quy định
tại Luật Nuôi con nuôi và Nghị định số 19/2011/NĐ-CP có nhiều điểm thay
đổi căn bản so với quy định của pháp luật trước đây. Có thể tóm tắt những
điểm mới căn bản như sau:
- Tạo sự liên thông giữa việc giải quyết nuôi con nuôi trong nước với
nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, đảm bảo nguyên tắc việc giải quyết cho
trẻ em làm con nuôi người nước ngoài là biện pháp cuối cùng khi không thể
tìm được mái ấm gia đình thay thế trong nước. Tính ưu việt này thể hiện ở
chỗ, trong suốt quá trình giải quyết nuôi con nuôi không đích danh, ở bất kỳ
công đoạn nào trước khi có Quyết định cho trẻ em Việt Nam làm con nuôi
người nước ngoài, nếu có người trong nước nhận trẻ em làm con nuôi thì việc
giải quyết nuôi con nuôi nước ngoài đối với trẻ em đó sẽ chấm dứt, ưu tiên
giải quyết cho trẻ em làm con nuôi người trong nước.
29
- Đảm bảo việc ghép trẻ em được thực hiện khách quan, tập trung tại
Sở Tư pháp các tỉnh/thành. Hoàn toàn chấm dứt việc can thiệp của các tổ
chức, cán nhân liên quan đối với việc giới thiệu trẻ em làm con nuôi người
nước ngoài, vì vậy hạn chế tối đa những tiêu cực liên quan tới quá trình này.
- Ưu tiên tìm mái ấm gia đình cho những trẻ khuyết tật, trẻ mắc bệnh
hiểm nghèo là đối tượng rất khó có thể tìm mái ấm gia đình thay thế, từ đó tạo
điều kiện để trẻ em được sớm điều trị, chữa bệnh và hòa nhập với cuộc sống.
- Đảm bảo việc giải quyết nuôi con nuôi phải vì lợi ích tốt nhất của trẻ
thông qua quá trình tư vấn pháp lý và tâm lý xã hội đầy đủ đối với người có
thẩm quyền ra quyết định cho trẻ em làm con nuôi người nước ngoài. Trước
khi ra quyết định cho trẻ em làm con nuôi người nước ngoài, người có thẩm
quyền như cha mẹ ruột của trẻ em, người giám hộ phải được giải thích, tư vấn
đầy đủ về quyền, nghĩa vụ sau khi đưa ra quyết định. Pháp luật đồng thời còn
quy định khoảng thời gian 30 ngày để những người liên quan có thể rút lại ý
kiến về việc cho trẻ em.
- Tách bạch giữa hỗ trợ nhân đạo và nuôi con nuôi quốc tế. Mọi khoản
tiền liên quan đến việc giải quyết nuôi con nuôi quốc tế lần đâu tiên được
pháp luật quy định cụ thể gồm lệ phí và chi phí giải quyết nuôi con nuôi, thu
và phân bổ tập trung tại một cơ quan có thẩm quyền cấp trung ương. Các
khoản đóng góp tự nguyện, cho tặng chỉ được thực hiện sau khi hoàn tất mọi
thủ tục cho nhận con nuôi và không thể ảnh hưởng tới việc nuôi con nuôi.
1.4.2. Trình tự, thủ tục giải quyết
Trình tự, thủ tục giải quyết việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
được áp dụng tùy thuộc vào hai yếu tố căn bản, bao gồm đối tượng người xin
nhận con nuôi và đối tượng trẻ em được nhận làm con nuôi. Tổng hợp các
quy định của Điều 28, 36, 40, 41, 42 Luật Nuôi con nuôi, các điều 11, 13, 14,
16, 17, 18, 19, 20, 21 của Nghị định số 19/2011/NĐ-CP ngày 21/3/2011 có
30
thể tách thành hai loại thủ tục xin nhận con nuôi đích danh và không đích
danh. Cụ thể là:
1.4.2.1. Thủ tục đích danh trong trường hợp người xin nhận nuôi con
nuôi có quan hệ họ hàng thân thích với trẻ em được giới thiệu làm con nuôi
như là cha dượng/mẹ kế, cô/cậu/dì/chú/bác ruột của trẻ em; có con nuôi là
anh/chị em ruột của trẻ được giới thiệu làm con nuôi: Người nhận con nuôi có
thể nộp hồ sơ trực tiếp ở Cục Con nuôi. Hồ sơ phải được lập thành 02 bộ theo
quy định tại Điều 31 Luật Nuôi con nuôi và 01 bộ hồ sơ của người được nhận
làm con nuôi theo quy định tại Điều 13 Nghị định số 19/2011/NĐ-CP. Lưu ý,
trong hồ sơ, đơn xin nhận con nuôi sẽ áp dụng mẫu xin đích danh (Mẫu
TP/CN-2011/CNNNg.04.a ban hành kèm theo Thông tư số 12/2011/TT-BTP).
Hồ sơ của người xin nhận con nuôi sẽ được đánh giá thẩm định tại Cục Con
nuôi. Nếu được chấp thuận, hồ sơ sẽ được chuyển về Sở Tư pháp tại tỉnh/thành
nơi trẻ em được giới thiệu làm con nuôi đang thường trú. Sở Tư pháp sẽ xác
minh và hướng dẫn gia đình lập hồ sơ trẻ em, báo cáo với Ủy ban Nhân dân
tỉnh/thành để ra Quyết định về việc cho trẻ em Việt Nam làm con nuôi người
nước ngoài. Sau khi có Quyết định, Sở Tư pháp đăng ký việc nuôi con nuôi
theo quy định của pháp luật về đăng ký hộ tịch, tổ chức lễ bàn giao tại trụ sở Sở
Tư pháp, gửi Quyết định và Biên bản bàn giao trẻ em cho Cục Con nuôi và Uỷ
ban Nhân dân xã/phường nơi trẻ em thường trú để lưu (xem Bảng 1.1).
1.4.2.2 Thủ tục đích danh đối với trường hợp người được giới thiệu làm
con nuôi là trẻ em khuyết tật, bệnh tật: căn cứ vào số lượng trẻ em có nhu cầu
đặc biệt cần tìm mái ấm gia đình thay thế, các trung tâm bảo trợ xã hội, cơ sở
nuôi dưỡng phải lập danh sách (gọi là Danh sách 2), báo cáo Sở Lao động-
Thương binh và Xã hội trước khi báo cáo Sở Tư pháp. Sở Tư pháp xem xét,
xác nhận và gửi hồ sơ kèm theo danh sách cho Cục Con nuôi để tìm gia đình
thay thế. Về phía Cục Con nuôi, để tạo thế chủ động, Cục luôn có danh sách
31
những gia đình người nước ngoài sẵn sàng nhận trẻ có nhu cầu đặc biệt được
phân theo loại bệnh, loại dị tật cụ thể thông qua sự hỗ trợ của các Văn phòng
con nuôi nước ngoài tại Việt Nam. Sau khi nhận được danh sách 2, Cục Con
nuôi nghiên cứu, lựa chọn sơ bộ và thông báo cho các tổ chức con nuôi nước
ngoài (thông qua Văn phòng Con nuôi nước ngoài được cấp phép hoạt động
tại Việt Nam) để giới thiệu cho những gia đình đã đăng ký nguyện vọng nhận
nuôi trẻ có nhu cầu đặc biệt. Trên cơ sở thông tin phản hồi từ các tổ chức, Cục
Con nuôi sẽ quyết định tiếp nhận chính thức hồ sơ xin nhận con nuôi trên
nguyên tắc đảm bảo đáp ứng tốt nhất, phù hợp nhất với nhu cầu và tình trạng
sức khỏe của trẻ em. Nếu hồ sơ được chấp thuận, Cục Con nuôi sẽ thông báo
cho người xin nhận con nuôi và Cơ quan con nuôi trung ương Nước nhận về
trẻ em được giới thiệu, trong đó sẽ nêu rõ tình trạng sức khỏe của trẻ để người
nhận nuôi có sự chuẩn bị phù hợp. Sau khi người nhận con nuôi và Cơ quan
con nuôi trung ương của Nước nhận có văn bản xác nhận việc nhận nuôi trẻ
em, Cục Con nuôi sẽ gửi hồ sơ của người xin nhận con nuôi về Sở Tư pháp để
Sở Tư pháp trình Uỷ ban Nhân dân tỉnh/thành ra Quyết định về việc cho trẻ
em Việt Nam làm con nuôi người nước ngoài. Sau khi có Quyết định, Sở Tư
pháp sẽ làm thủ tục đăng ký hộ tịch, tổ chức bàn giao trẻ em, gửi Quyết định
và Biên bản bàn giao cho Cục Con nuôi để cấp Giấy chứng nhận nuôi con
nuôi. Quyết định đồng thời được gửi cho Bộ Ngoại giao để thông báo cho Cơ
quan đại diện ngoại giao của Việt Nam tại Nước nhận để thực hiện các biện
pháp bảo hộ trẻ em trong trường hợp cần thiết (xem Bảng 1.2).
1.4.2.3. Thủ tục đích danh đối với người nước ngoài sống và làm việc
tại Việt Nam từ 1 năm trở lên. Trước hết, người nhận con nuôi có trách nhiệm
chủ động xác định trẻ em đủ điều kiện cho làm con nuôi người nước ngoài,
thu thập những giấy tờ liên quan tới nhân thân của trẻ em và phải được người
có thẩm quyền cấp giấy đồng ý cho trẻ em đó làm con nuôi. Người nhận con
32
nuôi sẽ nộp hồ sơ xin nhận đích danh trẻ em và những giấy tờ ban đầu tại Cục
Con nuôi. Sau khi thẩm định, nếu hồ sơ được chấp thuận, Cục Con nuôi sẽ
gửi hồ sơ của người xin nhận con nuôi về Sở Tư pháp tỉnh/thành, nơi trẻ em
đang thường trú để lập hồ sơ trẻ em và trình Uỷ ban Nhân dân tỉnh/thành ra
Quyết định về việc cho trẻ em Việt Nam làm con nuôi người nước ngoài và
thực hiện các thủ tục tương tự như trường hợp nhận con riêng, cháu ruột.
Không thể phủ nhận thực tế là trước những thay đổi khá căn bản của
pháp luật, nhiều người nước ngoài đã tìm cách vào Việt Nam làm việc với
mục đích chính là để xin nhận con nuôi dưới hình thức xin đích danh này.
Tuy nhiên, để đảm bảo tính nhân đạo và tuân thủ nghiêm quy định của pháp
luật, cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh vực này cần khẩn trương có hướng dẫn
hoặc sửa đổi, bổ sung hợp lý để bảo vệ quyền, lợi ích của đương sự và tính
minh bạch về thủ tục hành chính.
1.4.2.4. Thủ tục xin không đích danh: Đây là loại hình chủ yếu, chiếm
tỷ lệ lớn trong các trường hợp giải quyết nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
trong những năm qua.
Theo quy định của Luật Nuôi con nuôi, quy trình thủ tục giải quyết
nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài có sự kế thừa và liên thông với việc giải
quyết nuôi con nuôi trong nước. Chỉ sau khi đã áp dụng mọi biện pháp tìm
mái ấm gia đình thay thế trong nước nhưng không thành, những trẻ em có nhu
cầu tìm mái ấm gia đình thay thế mới được xác nhận là đủ điều kiện để giới
thiệu làm con nuôi người nước ngoài (Danh sách 1). Danh sách những trẻ em
này do Cục Con nuôi quản lý và thường xuyên được cập nhật theo quy định
của pháp luật.
Định kỳ hàng tháng, hàng quý hoặc 6 tháng, căn cứ vào danh sách 1,
Cục Con nuôi sẽ ấn định số hồ sơ xin nhận nuôi con nuôi trong mối tương
quan hợp lý với số lượng trẻ em hiện có. Sau khi tiếp nhận và thẩm định, hồ
33
sơ của người xin nhận con nuôi sẽ được chuyển về các Sở Tư pháp, nơi đang
có trẻ em đủ điều kiện giới thiệu làm con nuôi nước ngoài. Sau khi nhận hồ sơ
của người xin nhận con nuôi, Sở Tư pháp chủ trì nghiên cứu, nếu cần thì có
thể xin ý kiến tư vấn của các chuyên gia, các ngành hữu quan tham gia quá
giới thiệu trẻ em-sau đây có thể gọi là quá trình ghép trẻ. Kết quả ghép trẻ sẽ
được báo cáo Ủy ban Nhân dân cấp tỉnh. Nếu Ủy ban Nhân dân cấp tỉnh đồng
ý với kết quả ghép trẻ thì thông báo cho Sở Tư pháp để làm thủ tục chuyển hồ
sơ trẻ em và gửi cho Bộ Tư pháp, nếu không đồng ý thì trả lời bằng văn bản
và nêu rõ lý do để Sở Tư pháp thực hiện việc giới thiệu lại. Sau 3 tháng kể từ
ngày Ủy ban Nhân dân tỉnh không đồng ý mà Sở Tư pháp cũng không ghép
trẻ thành công thì Sở Tư pháp chuyển trả hồ sơ của người xin nhận con nuôi
cho Cục Con nuôi kèm theo văn bản nêu rõ lý do.
Cục Con nuôi kiểm tra kết quả ghép trẻ và thông báo cho người nhận
con nuôi và cơ quan có thẩm quyền của nước nơi người nhận con nuôi thường
trú. Sau khi nhận được văn bản đồng ý của người nhận con nuôi và xác nhận
trẻ em sẽ được nhập cảnh và thường trú tại nước nhận, Bộ Tư pháp sẽ thông
báo cho Sở Tư pháp để trình Ủy ban Nhân dân tỉnh ra Quyết định cho trẻ em
làm con nuôi người nước ngoài. Sau khi có Quyết định, Sở Tư pháp phải tổ
chức việc bàn giao trẻ em, đăng ký việc nuôi con nuôi theo quy định của pháp
luật và gửi Quyết định, Biên bản bàn giao cho Bộ Tư pháp lưu (gửi đến Cục
Con nuôi), đồng thời thông báo cho cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam
ở nước ngoài về việc trẻ em được nhận làm con nuôi để thực hiện các biện
pháp bảo vệ khi cần thiết. Bộ Tư pháp sẽ cấp Giấy chứng nhận việc nuôi con
nuôi theo quy định của pháp luật và đến thời điểm này, quy trình giải quyết
việc nuôi con nuôi đối với trẻ em danh sách 1 đã hoàn tất (xem Bảng 1.3).
1.4.2.5. Thủ tục giải quyết nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở khu
vực biên giới và đối với người nước ngoài thường trú tại Việt Nam. Việc giải
34
quyết nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở khu vực biên giới hay đối với
người nước ngoài thường trú tại Việt Nam có đặc thù riêng xét từ góc độ văn
hóa, tập quán, thói quen, trình độ hiểu biết của người dân (thường là dân tộc ít
người) ở khu vực biên giới. Chính vì vậy, Luật Nuôi con nuôi cũng như Nghị
định số 19/2011/NĐ-CP có những quy định riêng tách biệt so với thủ tục,
trình tự giải quyết nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài nói chung.
Việc giải quyết nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở khu vực biên giới
và đối với người nước ngoài thường trú tại Việt Nam được quy định tương tự
như thủ tục giải quyết nuôi con nuôi trong nước, tuy nhiên, thẩm quyền giải
quyết có sự khác biệt. Đó là: đối với việc giải quyết nuôi con nuôi ở khu vực
biên giới do Ủy ban Nhân dân cấp xã thực hiện; đối với người nước ngoài
thường trú tại Việt Nam do Sở Tư pháp thực hiện. Nhìn chung, nuôi con nuôi
có yếu tố nước ngoài ở khu vực biên giới hay đối với người nước ngoài
thường trú tại Việt Nam chiếm tỷ lệ rất nhỏ so với tổng số.
1.5. Cơ quan quản lý nhà nƣớc về nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài
Theo quy định tại Điều 44 Luật Nuôi con nuôi, cơ quan quản lý nhà
nước về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài hiện nay là Bộ Tư pháp, trong đó
Cục Con nuôi là cơ quan giúp việc cho Bộ trong việc thực hiện các nhiệm vụ
quản lý nhà nước và trực tiếp tham gia vào quá trình giải quyết nuôi con nuôi
có yếu tố nước ngoài.
Sau khi tham gia Công ước Lahay, Bộ Tư pháp được Chính phủ chỉ
định là Cơ quan con nuôi trung ương của Việt Nam kể từ ngày 8/9/2011. Cục
Con nuôi Bộ Tư pháp được giao vai trò cơ quan thường trực của Cơ quan con
nuôi trung ương Việt Nam trong việc thực hiện các nghĩa vụ thành viên của
Công ước Lahay.
Cùng với quy định về thẩm quyền quản lý nhà nước về nuôi con nuôi,
Luật Nuôi con nuôi cũng quy định rõ thẩm quyền đăng ký việc nuôi con nuôi
có yếu tố nước ngoài như sau:
35
- Thẩm quyền đăng ký việc nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với
nhau đang tạm trú ở nước ngoài thuộc về Cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài đó. Trường hợp cả hai bên tham gia
quan hệ nuôi con nuôi tạm trú ở nước không có cơ quan đại diện Việt Nam thì
họ có thể nộp đơn xin đăng ký việc nuôi con nuôi tại Cơ quan đại diện nào
thuận tiện nhất.
- Thẩm quyền đăng ký việc nuôi con nuôi giữa một bên là người nước
ngoài thường trú ở nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài với một
bên là trẻ em Việt Nam thuộc về Ủy ban Nhân dân tỉnh/thành phố trực thuộc
trung ương nơi thường trú của người được giới thiệu làm con nuôi.
- Thẩm quyền đăng ký việc nuôi con nuôi giữa một bên là người nước
ngoài thường trú tại Việt Nam và một bên là trẻ em Việt Nam thuộc về Ủy
ban Nhân dân cấp tỉnh/thành nơi trẻ em thường trú.
- Thẩm quyền giải quyết nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở khu vực
biên giới thuộc về Ủy ban Nhân dân cấp xã.
Về cơ bản, thẩm quyền quản lý nhà nước về nuôi con nuôi và thẩm
quyền giải quyết nuôi con nuôi không phải là những vấn đề vướng mắc trong
suốt thời gian qua. Bởi vậy, các quy định về thẩm quyền giải quyết và thẩm
quyền quản lý nhà nước đối với việc giải quyết nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài không có nhiều thay đổi so với các quy định pháp luật trước đây.
1.6. Hệ quả pháp lý của nuôi con nuôi quốc tế
Hê ̣quả pháp lý của viê ̣c nuôi con nuôi được pháp luâ ̣t quy đi ̣
nh với
mục đích đảm bảo sự hòa nhập tốt nhất giữa con nuôi và cha mẹ nuôi sau khi
hoàn tất các thủ tục pháp lý, từ đó bảo vê ̣các quyền , nghĩa vụ giữa cha mẹ và
con cũng như các bên liên quan trong gia đình .
Trước khi Luật Nuôi con nuôi được ban hành, hệ quả pháp lý của việc
nuôi con nuôi được thực hiện theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình
36
năm 2000. Điều 74 Luật Hôn nhân và Gia đình đã quy định “giữa cha mẹ
nuôi và con nuôi có các quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con theo quy định
tại Luật này, kể từ thời điểm đăng ký việc nhận con nuôi…”. Với quy đi ̣
nh
này, mối quan hê ̣ pháp lý giữa con nuôi và cha me ̣đẻ , giữa con nuôi với gia
đình cha me ̣nuôi chưa được đề câ ̣p một cách cụ thể. Chính vì vậy , để khắc
phục những hạn chế này , Luâ ̣t Nuôi con nuôi 2010 đã quy đi ̣
nh về hê ̣quả
pháp lý của việc nuôi con nuôi có y ếu tố nước ngoài như sau (Điều 24): “Kể
từ ngày giao nhâ ̣n con nuôi , giữa cha me ̣nuôi và con nuôi có đầy đủ các
quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con ; giữa con nuôi và các thành viên khác của
gia đình cha me ̣nuôi cũng có các quyề n, nghĩa vụ đối với nhau theo quy định
của pháp luật về hôn nhân và gia đình , pháp luật dân sự và các quy định khác
của pháp luật có liên quan . Trừ trường hợp giữa cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi có
thỏa thuận khác, kể từ ngày giao nhận con nuôi, cha mẹ đẻ không còn quyền,
nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng, cấp dưỡng, đại diện theo pháp luật, bồi
thường thiệt hại, quản lý, định đoạt tài sản riêng (nếu có) của con đã cho đi
làm con nuôi”.
Bên cạnh đó, để đảm bảo sự hòa nhập toàn diện của trẻ em trong gia
đình cha mẹ nuôi, pháp luật còn cho phép thay đổi họ, tên của con nuôi theo
họ, tên của cha mẹ nuôi. Nếu trẻ em được nhận làm con nuôi là trẻ bị bỏ rơi
thì dân tộc của trẻ cũng có thể được thay đổi theo dân tộc của cha nuôi, mẹ
nuôi. Vấn đề dân tộc là vấn đề mang tính bản sắc văn hóa, huyết thống, bởi
vậy, việc thay đổi dân tộc của trẻ chỉ đặt ra trong trường hợp trẻ được nhận
làm con nuôi là trẻ bị bỏ rơi, những trẻ em được nhận nuôi từ gia đình, trẻ rõ
nguồn gốc thì không áp dụng quy định này.
Việc quy định rõ hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi quốc tế là một
bước tiến vượt bậc so với các quy định pháp luật trước đây. Các quy định này
vừa thể hiện tính kế thừa, vừa đảm bảo sự hài hòa, tương thích với pháp luật
37
quốc tế, đảm bảo quyền và lợi ích tốt nhất cho trẻ em cả trên phương diện
pháp lý, cả trên phương diện tinh thần.
Tóm lại: Cùng với việc ban hành và thực thi Luật Nuôi con nuôi, việc
giải quyết nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam đã có những thay
đổi căn bản, đặc biệt là những thay đổi về quy trình, thủ tục so với các quy
định của pháp luật trước đây. Những điểm mới này đã giúp cho hoạt động
nuôi con nuôi quốc tế ở Việt Nam vừa đảm bảo tính công khai, minh bạch,
thống nhất, chặt chẽ, vừa góp phần quan trọng vào việc bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của trẻ em được giải quyết làm con nuôi người nước ngoài.
38
Chương 2
NHỮNG TIẾN BỘ VÀ HẠN CHẾ CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM
SO VỚI QUY ĐỊNH CỦA CÔNG ƢỚC LAHAY
2.1. Khái quát chung về Công ƣớc Lahay
Công ước Lahay được Hội nghị Lahay về Tư pháp quốc tế thông qua
tại khóa họp thứ 17 Hội nghị Lahay về tư pháp quốc tế vào ngày 29 tháng 5
năm 1993 và có hiệu lực từ ngày 01 tháng 5 năm 1995. Đây là điều ước quốc
tế đa phương quan trọng, tạo nên những chuẩn mực để bảo đảm việc giải
quyết nuôi con nuôi quốc tế được tiến hành vì lợi ích tốt nhất của trẻ em, đồng
thời thiết lập cơ chế hợp tác giữa các quốc gia để ngăn ngừa tệ nạn bắt cóc,
buôn bán trẻ em. Sau khi Fiji là quốc gia mới nhất ký tham gia công ước, tính
đến hết tháng 8/2012, đã có 89 quốc gia là thành viên của Công ước [32].
Việt Nam coi Công ước Lahay và Công ước quốc tế về quyền trẻ em là
cơ sở pháp lý quan trọng trong quá trình hợp tác với các nước vì mục tiêu bảo
vệ tốt nhất lợi ích của trẻ em, trong đó có những trẻ em được giải quyết làm
con nuôi người nước ngoài. Chính vì vậy, ngày 07 tháng 12 năm 2010, Việt
Nam đã ký Công ước Lahay, ngày 18 tháng 7 năm 2011 Chủ tịch nước đã ký
Quyết định số 1103/2011/QĐ-CTN phê chuẩn toàn văn Công ước và ngày 1
tháng 11 năm 2011, Việt Nam đã nộp lưu chiểu văn bản phê chuẩn Công ước.
Theo quy định tại Điều 46 của Công ước Lahay, thì Công ước có hiệu lực đối
với Việt Nam từ ngày 01 tháng 2 năm 2012.
Nội dung Công ước gồm Lời nói đầu, 7 Chương và 48 Điều đề cập các
vấn đề cơ bản như: phạm vi áp dụng Công ước; yêu cầu đối với nuôi con nuôi
quốc tế; cơ quan nhà nước và các tổ chức có thẩm quyền trong lĩnh vực nuôi
con nuôi quốc tế; yêu cầu về thủ tục cho nhận con nuôi; công nhận việc nuôi
con nuôi và hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi.
39
Công ước không đặt riêng một điều khoản nào để nói về nguyên tắc
giải quyết nuôi con nuôi quốc tế, tuy nhiên, những nguyên tắc này được
phản ánh xuyên suốt trong toàn bộ nội dung Công ước, từ phạm vi áp dụng,
yêu cầu đối với nuôi con nuôi quốc tế, yêu cầu về thủ tục, các quy định
chung… Những nguyên tắc chung của Công ước Lahay được áp dụng cho
tất cả các tổ chức hoặc cá nhân tham gia hoạt động nuôi con nuôi quốc tế
theo quy định của Công ước Lahay cho dù đó là các nước thành viên, cơ
quan trung ương, cơ quan công quyền, tổ chức được cấp phép hay bất cứ cá
nhân, tổ chức, người trung gian nào được cơ quan có thẩm quyền cho phép
hoạt động trong lĩnh vực này.
Điều đặc biệt là trong quá trình thực thi Công ước, các nguyên tắc
này phải được tuân thủ một cách chặt chẽ và không tách biệt. Tức là mọi
nguyên tắc đều có sự gắn kết và chỉ khi áp dụng các nguyên tắc cùng một
lúc mới có thể đạt được các mục tiêu của Công ước là bảo vệ trẻ em và hợp
tác trong lĩnh vực con nuôi quốc tế. Có thể khái quát các nguyên tắc cơ bản
của Công ước như sau [14]:
a. Đảm bảo việc nuôi con nuôi được thực hiện vì lợi ích tốt nhất của trẻ
em và tôn trọng các quyền cơ bản của trẻ.
Có thể khẳng định rằng, tất cả các mục tiêu hay biện pháp bảo vệ mà
Công ước đặt ra đều trực tiếp hướng đến việc bảo vệ lợi ích tốt nhất của trẻ.
Ví dụ, Công ước đã đặt ra những nghĩa vụ hỗ trợ việc bảo vệ những lợi ích tốt
nhất của trẻ em, trong đó bao gồm việc bảo đảm rằng trẻ em thực sự đủ điều
kiện để cho làm con nuôi; xác định rõ những thỏa thuận quy định tại Điều 17
được đưa ra là để giải quyết được việc nuôi con nuôi; bảo vệ những thông tin
về trẻ em và gia đình gốc của trẻ; chỉ ghép trẻ với gia đình thực sự có khả
năng đáp ứng đúng nhu cầu của trẻ. Ngoài những nguyên tắc bảo vệ chung
này, hoàn cảnh của trẻ phải được xem xét kỹ trong từng trường hợp cụ thể.
40
Có hai nguyên tắc bổ trợ quan trọng cho nguyên tắc tổng quát đó là lợi
ích tốt nhất của trẻ em phải được xem xét đầu tiên: nguyên tắc nuôi dưỡng
(Điều 4) và nguyên tắc không phân biệt đối xử (Điều 26). Áp dụng nguyên tắc
không phân biệt đối xử sẽ bảo vệ những lợi ích tốt nhất của trẻ bằng cách đảm
bảo rằng ở Nước nhận trẻ em sẽ có đầy đủ các quyền và được bảo vệ như trẻ
em được nhận nuôi trong nước. Trong thực tế, trẻ em làm con nuôi quốc tế
nên có tất cả các quyền và phải được bảo vệ như bất kỳ trẻ em nào là công
dân của Nước nhận.
b. Ưu tiên việc nuôi dưỡng trẻ em trong môi trường gia đình gốc, ổn
định và lâu dài.
Khi một trẻ em, vì nhiều lý do khác nhau mà không được cha mẹ đẻ
nuôi dưỡng thì việc chăm sóc trẻ em trong gia đình ruột thịt như cô, cậu,
dì, chú, bác phải được ưu tiên trước; gia đình nuôi dưỡng lâu dài phải được
ưu tiên hơn gia đình chỉ nhận nuôi có thời hạn; con nuôi trong nước hoặc
hình thức chăm sóc tại gia đình phải được ưu tiên hơn con nuôi quốc tế.
Việc thực hiện nguyên tắc này sẽ bảo vệ lợi ích tốt nhất của trẻ em bằng
cách chủ động giữ cho trẻ em được nuôi dưỡng trong môi trường gia đình
có chung nguồn gốc huyết thống, văn hóa, tập quán, từ đó giúp trẻ dễ dàng
hình thành nhân cách và phát triển hài hòa nhất, sau đó phải ưu tiên xem
xét việc nuôi dưỡng trẻ bởi các gia đình trong nước trước khi trẻ em được
giới thiệu làm con nuôi nước ngoài.
Ở những quốc gia có nền kinh tế phát triển, mô hình nuôi dưỡng tập
trung đối với trẻ em như nuôi dưỡng tại các cơ sở bảo trợ xã hội đã và đang
dần được xóa bỏ, thay vào đó là mô hình chăm sóc của gia đình với quy mô từ
3-5 trẻ/nhóm. Trong đó, mỗi nhóm trẻ sẽ do cả nữ và nam nhân viên chăm sóc
để dần hình thành trong trẻ ý thức về vai trò của người cha, người mẹ trong
gia đình. Các cán bộ chăm sóc trẻ em phải là những nhân viên mẫn cán, được
PHÁP LUẬT VỀ NUÔI CON NUÔI CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI CỦA VIỆT NAM TRONG MỐI TƢƠNG QUAN VỚI CÔNG ƢỚC LAHAY.pdf
PHÁP LUẬT VỀ NUÔI CON NUÔI CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI CỦA VIỆT NAM TRONG MỐI TƢƠNG QUAN VỚI CÔNG ƢỚC LAHAY.pdf
PHÁP LUẬT VỀ NUÔI CON NUÔI CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI CỦA VIỆT NAM TRONG MỐI TƢƠNG QUAN VỚI CÔNG ƢỚC LAHAY.pdf
PHÁP LUẬT VỀ NUÔI CON NUÔI CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI CỦA VIỆT NAM TRONG MỐI TƢƠNG QUAN VỚI CÔNG ƢỚC LAHAY.pdf
PHÁP LUẬT VỀ NUÔI CON NUÔI CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI CỦA VIỆT NAM TRONG MỐI TƢƠNG QUAN VỚI CÔNG ƢỚC LAHAY.pdf
PHÁP LUẬT VỀ NUÔI CON NUÔI CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI CỦA VIỆT NAM TRONG MỐI TƢƠNG QUAN VỚI CÔNG ƢỚC LAHAY.pdf

More Related Content

Similar to PHÁP LUẬT VỀ NUÔI CON NUÔI CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI CỦA VIỆT NAM TRONG MỐI TƢƠNG QUAN VỚI CÔNG ƢỚC LAHAY.pdf

Similar to PHÁP LUẬT VỀ NUÔI CON NUÔI CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI CỦA VIỆT NAM TRONG MỐI TƢƠNG QUAN VỚI CÔNG ƢỚC LAHAY.pdf (20)

Đề tài: Các điều kiện nuôi con nuôi theo Luật nuôi con nuôi, HOT
Đề tài: Các điều kiện nuôi con nuôi theo Luật nuôi con nuôi, HOTĐề tài: Các điều kiện nuôi con nuôi theo Luật nuôi con nuôi, HOT
Đề tài: Các điều kiện nuôi con nuôi theo Luật nuôi con nuôi, HOT
 
Luận văn: Quản lý nhà nước về nhận con nuôi có yếu tố nước ngoài
Luận văn: Quản lý nhà nước về nhận con nuôi có yếu tố nước ngoàiLuận văn: Quản lý nhà nước về nhận con nuôi có yếu tố nước ngoài
Luận văn: Quản lý nhà nước về nhận con nuôi có yếu tố nước ngoài
 
Luận văn: Quản lý đối với người không quốc tịch ở Việt Nam, HAY
Luận văn: Quản lý đối với người không quốc tịch ở Việt Nam, HAYLuận văn: Quản lý đối với người không quốc tịch ở Việt Nam, HAY
Luận văn: Quản lý đối với người không quốc tịch ở Việt Nam, HAY
 
Pháp luật về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài của Việt Nam, HAY
Pháp luật về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài của Việt Nam, HAYPháp luật về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài của Việt Nam, HAY
Pháp luật về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài của Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Kết hôn đồng giới theo pháp luật một số quốc gia, HOT
Luận văn: Kết hôn đồng giới theo pháp luật một số quốc gia, HOTLuận văn: Kết hôn đồng giới theo pháp luật một số quốc gia, HOT
Luận văn: Kết hôn đồng giới theo pháp luật một số quốc gia, HOT
 
Luận văn: Đăng ký Kết hôn có yếu tố nước ngoài, HOT!
Luận văn: Đăng ký Kết hôn có yếu tố nước ngoài, HOT!Luận văn: Đăng ký Kết hôn có yếu tố nước ngoài, HOT!
Luận văn: Đăng ký Kết hôn có yếu tố nước ngoài, HOT!
 
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Luật Hiến pháp, HAY
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Luật Hiến pháp, HAYBÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Luật Hiến pháp, HAY
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Luật Hiến pháp, HAY
 
Thực Tiễn Áp Dụng Pháp Luật Về Nuôi Con Nuôi Có Yếu Tố Nước Ngoài Ở Việt Nam ...
Thực Tiễn Áp Dụng Pháp Luật Về Nuôi Con Nuôi Có Yếu Tố Nước Ngoài Ở Việt Nam ...Thực Tiễn Áp Dụng Pháp Luật Về Nuôi Con Nuôi Có Yếu Tố Nước Ngoài Ở Việt Nam ...
Thực Tiễn Áp Dụng Pháp Luật Về Nuôi Con Nuôi Có Yếu Tố Nước Ngoài Ở Việt Nam ...
 
Luận án: Thừa kế theo pháp luật theo Bộ luật Dân sự 2015, HAY
Luận án: Thừa kế theo pháp luật theo Bộ luật Dân sự 2015, HAYLuận án: Thừa kế theo pháp luật theo Bộ luật Dân sự 2015, HAY
Luận án: Thừa kế theo pháp luật theo Bộ luật Dân sự 2015, HAY
 
BÀI MẪU Khóa luận Luật tố tụng hình sự, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận Luật tố tụng hình sự, HAY, 9 ĐIỂMBÀI MẪU Khóa luận Luật tố tụng hình sự, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận Luật tố tụng hình sự, HAY, 9 ĐIỂM
 
Quyền có quốc tịch Việt Nam của người Việt Nam ở nước ngoài - Gửi miễn phí qu...
Quyền có quốc tịch Việt Nam của người Việt Nam ở nước ngoài - Gửi miễn phí qu...Quyền có quốc tịch Việt Nam của người Việt Nam ở nước ngoài - Gửi miễn phí qu...
Quyền có quốc tịch Việt Nam của người Việt Nam ở nước ngoài - Gửi miễn phí qu...
 
Đề tài: Pháp luật về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài, HOT
Đề tài: Pháp luật về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài, HOTĐề tài: Pháp luật về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài, HOT
Đề tài: Pháp luật về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài, HOT
 
QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CHA, MẸ VỚI CON SAU LY HÔN THEO LUẬT HÔN NHÂN GIA ĐÌNH VIỆT...
QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CHA, MẸ VỚI CON SAU LY HÔN THEO LUẬT HÔN NHÂN GIA ĐÌNH VIỆT...QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CHA, MẸ VỚI CON SAU LY HÔN THEO LUẬT HÔN NHÂN GIA ĐÌNH VIỆT...
QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CHA, MẸ VỚI CON SAU LY HÔN THEO LUẬT HÔN NHÂN GIA ĐÌNH VIỆT...
 
Pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
Pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoàiPháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
Pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
 
Luận Văn Chế Độ Tài Sản Của Vợ Chồng Theo Thỏa Thuận Luật Hôn Nhân
Luận Văn Chế Độ Tài Sản Của Vợ Chồng Theo Thỏa Thuận Luật Hôn NhânLuận Văn Chế Độ Tài Sản Của Vợ Chồng Theo Thỏa Thuận Luật Hôn Nhân
Luận Văn Chế Độ Tài Sản Của Vợ Chồng Theo Thỏa Thuận Luật Hôn Nhân
 
Luận Văn Thạc Sĩ Pháp Luật Về Bảo Vệ Người Tiêu Dùng Ở Việt Nam.docx
Luận Văn Thạc Sĩ Pháp Luật Về Bảo Vệ Người Tiêu Dùng Ở Việt Nam.docxLuận Văn Thạc Sĩ Pháp Luật Về Bảo Vệ Người Tiêu Dùng Ở Việt Nam.docx
Luận Văn Thạc Sĩ Pháp Luật Về Bảo Vệ Người Tiêu Dùng Ở Việt Nam.docx
 
Luận văn: Bình đẳng giới trong pháp luật hôn nhân - gia đình, HOT
Luận văn: Bình đẳng giới trong pháp luật hôn nhân - gia đình, HOTLuận văn: Bình đẳng giới trong pháp luật hôn nhân - gia đình, HOT
Luận văn: Bình đẳng giới trong pháp luật hôn nhân - gia đình, HOT
 
Luận Văn Thạc Sĩ Pháp Luật Về Bảo Vệ Người Tiêu Dùng Ở Việt Nam
Luận Văn Thạc Sĩ Pháp Luật Về Bảo Vệ Người Tiêu Dùng Ở Việt NamLuận Văn Thạc Sĩ Pháp Luật Về Bảo Vệ Người Tiêu Dùng Ở Việt Nam
Luận Văn Thạc Sĩ Pháp Luật Về Bảo Vệ Người Tiêu Dùng Ở Việt Nam
 
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ kết hôn đồng giới, HAY
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ kết hôn đồng giới, HAYBÀI MẪU Luận văn thạc sĩ kết hôn đồng giới, HAY
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ kết hôn đồng giới, HAY
 
Hôn nhân đồng tính dưới góc độ quyền con người.pdf
Hôn nhân đồng tính dưới góc độ quyền con người.pdfHôn nhân đồng tính dưới góc độ quyền con người.pdf
Hôn nhân đồng tính dưới góc độ quyền con người.pdf
 

More from NuioKila

More from NuioKila (20)

Pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdf
Pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdfPháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdf
Pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdf
 
BÁO CÁO Kết quả tham vấn cộng đồng về tính hợp pháp của gỗ và các sản phẩm gỗ...
BÁO CÁO Kết quả tham vấn cộng đồng về tính hợp pháp của gỗ và các sản phẩm gỗ...BÁO CÁO Kết quả tham vấn cộng đồng về tính hợp pháp của gỗ và các sản phẩm gỗ...
BÁO CÁO Kết quả tham vấn cộng đồng về tính hợp pháp của gỗ và các sản phẩm gỗ...
 
A study on common mistakes committed by Vietnamese learners in pronouncing En...
A study on common mistakes committed by Vietnamese learners in pronouncing En...A study on common mistakes committed by Vietnamese learners in pronouncing En...
A study on common mistakes committed by Vietnamese learners in pronouncing En...
 
[123doc] - thu-nghiem-cai-tien-chi-tieu-du-bao-khong-khi-lanh-cac-thang-cuoi-...
[123doc] - thu-nghiem-cai-tien-chi-tieu-du-bao-khong-khi-lanh-cac-thang-cuoi-...[123doc] - thu-nghiem-cai-tien-chi-tieu-du-bao-khong-khi-lanh-cac-thang-cuoi-...
[123doc] - thu-nghiem-cai-tien-chi-tieu-du-bao-khong-khi-lanh-cac-thang-cuoi-...
 
THỬ NGHIỆM CẢI TIẾN CHỈ TIÊU DỰ BÁO KHÔNG KHÍ LẠNH CÁC THÁNG CUỐI MÙA ĐÔNG BẰ...
THỬ NGHIỆM CẢI TIẾN CHỈ TIÊU DỰ BÁO KHÔNG KHÍ LẠNH CÁC THÁNG CUỐI MÙA ĐÔNG BẰ...THỬ NGHIỆM CẢI TIẾN CHỈ TIÊU DỰ BÁO KHÔNG KHÍ LẠNH CÁC THÁNG CUỐI MÙA ĐÔNG BẰ...
THỬ NGHIỆM CẢI TIẾN CHỈ TIÊU DỰ BÁO KHÔNG KHÍ LẠNH CÁC THÁNG CUỐI MÙA ĐÔNG BẰ...
 
Nhu cầu lập pháp của hành pháp.pdf
Nhu cầu lập pháp của hành pháp.pdfNhu cầu lập pháp của hành pháp.pdf
Nhu cầu lập pháp của hành pháp.pdf
 
KẾ HOẠCH DẠY HỌC CỦA TỔ CHUYÊN MÔN MÔN HỌC SINH HỌC - CÔNG NGHỆ.pdf
KẾ HOẠCH DẠY HỌC CỦA TỔ CHUYÊN MÔN MÔN HỌC SINH HỌC - CÔNG NGHỆ.pdfKẾ HOẠCH DẠY HỌC CỦA TỔ CHUYÊN MÔN MÔN HỌC SINH HỌC - CÔNG NGHỆ.pdf
KẾ HOẠCH DẠY HỌC CỦA TỔ CHUYÊN MÔN MÔN HỌC SINH HỌC - CÔNG NGHỆ.pdf
 
KIẾN TRÚC BIỂU HIỆN TẠI VIỆT NAM.pdf
KIẾN TRÚC BIỂU HIỆN TẠI VIỆT NAM.pdfKIẾN TRÚC BIỂU HIỆN TẠI VIỆT NAM.pdf
KIẾN TRÚC BIỂU HIỆN TẠI VIỆT NAM.pdf
 
QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG Y TẾ TỈNH NINH THUẬN.pdf
QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG Y TẾ TỈNH NINH THUẬN.pdfQUY HOẠCH PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG Y TẾ TỈNH NINH THUẬN.pdf
QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG Y TẾ TỈNH NINH THUẬN.pdf
 
NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG BỘ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ...
NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG BỘ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ...NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG BỘ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ...
NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG BỘ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ...
 
TIỂU LUẬN Phân tích các loại nguồn của luật tư La Mã và so sánh với các nguồn...
TIỂU LUẬN Phân tích các loại nguồn của luật tư La Mã và so sánh với các nguồn...TIỂU LUẬN Phân tích các loại nguồn của luật tư La Mã và so sánh với các nguồn...
TIỂU LUẬN Phân tích các loại nguồn của luật tư La Mã và so sánh với các nguồn...
 
Nuevo enfoque de aprendizajesemi-supervisado para la identificaciónde secuenci...
Nuevo enfoque de aprendizajesemi-supervisado para la identificaciónde secuenci...Nuevo enfoque de aprendizajesemi-supervisado para la identificaciónde secuenci...
Nuevo enfoque de aprendizajesemi-supervisado para la identificaciónde secuenci...
 
Inefficiency in engineering change management in kimberly clark VietNam co., ...
Inefficiency in engineering change management in kimberly clark VietNam co., ...Inefficiency in engineering change management in kimberly clark VietNam co., ...
Inefficiency in engineering change management in kimberly clark VietNam co., ...
 
An Investigation into culrural elements via linguistic means in New Headway t...
An Investigation into culrural elements via linguistic means in New Headway t...An Investigation into culrural elements via linguistic means in New Headway t...
An Investigation into culrural elements via linguistic means in New Headway t...
 
An evaluation of the translation of the film Rio based on Newmarks model.pdf
An evaluation of the translation of the film Rio based on Newmarks model.pdfAn evaluation of the translation of the film Rio based on Newmarks model.pdf
An evaluation of the translation of the film Rio based on Newmarks model.pdf
 
Teachers and students views on grammar presentation in the course book Englis...
Teachers and students views on grammar presentation in the course book Englis...Teachers and students views on grammar presentation in the course book Englis...
Teachers and students views on grammar presentation in the course book Englis...
 
11th graders attitudes towards their teachers written feedback.pdf
11th graders attitudes towards their teachers written feedback.pdf11th graders attitudes towards their teachers written feedback.pdf
11th graders attitudes towards their teachers written feedback.pdf
 
Phân tích tài chính Công ty Cổ phần VIWACO.pdf
Phân tích tài chính Công ty Cổ phần VIWACO.pdfPhân tích tài chính Công ty Cổ phần VIWACO.pdf
Phân tích tài chính Công ty Cổ phần VIWACO.pdf
 
Ngói Champa ở di tích Triền Tranh (Duy Xuyên Quảng Nam).pdf
Ngói Champa ở di tích Triền Tranh (Duy Xuyên Quảng Nam).pdfNgói Champa ở di tích Triền Tranh (Duy Xuyên Quảng Nam).pdf
Ngói Champa ở di tích Triền Tranh (Duy Xuyên Quảng Nam).pdf
 
ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VẬN HÀNH LƯỚI ĐIỆN PHÂN PHỐI TÂY NAM ...
ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VẬN HÀNH LƯỚI ĐIỆN PHÂN PHỐI TÂY NAM ...ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VẬN HÀNH LƯỚI ĐIỆN PHÂN PHỐI TÂY NAM ...
ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VẬN HÀNH LƯỚI ĐIỆN PHÂN PHỐI TÂY NAM ...
 

Recently uploaded

Tẩy trắng răng - dental bleaching slideshare
Tẩy trắng răng - dental bleaching slideshareTẩy trắng răng - dental bleaching slideshare
Tẩy trắng răng - dental bleaching slideshare
HuyBo25
 
VẤN ĐỀ 12 VI PHẠM HÀNH CHÍNH VÀ.pptx
VẤN ĐỀ 12 VI PHẠM HÀNH CHÍNH VÀ.pptxVẤN ĐỀ 12 VI PHẠM HÀNH CHÍNH VÀ.pptx
VẤN ĐỀ 12 VI PHẠM HÀNH CHÍNH VÀ.pptx
Gingvin36HC
 

Recently uploaded (20)

4.NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 3.pptx
4.NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 3.pptx4.NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 3.pptx
4.NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 3.pptx
 
Đào tạo, bồi dưỡng phát triển viên chức Đài Truyền hình Việt Nam
Đào tạo, bồi dưỡng phát triển viên chức Đài Truyền hình Việt NamĐào tạo, bồi dưỡng phát triển viên chức Đài Truyền hình Việt Nam
Đào tạo, bồi dưỡng phát triển viên chức Đài Truyền hình Việt Nam
 
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 31-39)...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 31-39)...40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 31-39)...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 31-39)...
 
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN...
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN...CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN...
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN...
 
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT VẬT LÝ 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT VẬT LÝ 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT VẬT LÝ 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT VẬT LÝ 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
 
Báo cáo tốt nghiệp Kế toán tiền gửi ngân hàng tại công ty TNHH Một Thành Viên...
Báo cáo tốt nghiệp Kế toán tiền gửi ngân hàng tại công ty TNHH Một Thành Viên...Báo cáo tốt nghiệp Kế toán tiền gửi ngân hàng tại công ty TNHH Một Thành Viên...
Báo cáo tốt nghiệp Kế toán tiền gửi ngân hàng tại công ty TNHH Một Thành Viên...
 
NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 1 B 1 2024.pptx
NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 1 B 1 2024.pptxNGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 1 B 1 2024.pptx
NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 1 B 1 2024.pptx
 
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường từ ô nhiễm hữu cơ nước thải các...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường từ ô nhiễm hữu cơ nước thải các...Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường từ ô nhiễm hữu cơ nước thải các...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường từ ô nhiễm hữu cơ nước thải các...
 
Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3
Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3
Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3
 
Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...
Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...
Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...
 
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Kế toán tiền mặt tại Công ty trách nhiệm hữu hạn ...
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Kế toán tiền mặt tại Công ty trách nhiệm hữu hạn ...Báo cáo thực tập tốt nghiệp Kế toán tiền mặt tại Công ty trách nhiệm hữu hạn ...
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Kế toán tiền mặt tại Công ty trách nhiệm hữu hạn ...
 
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT HÓA HỌC 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT HÓA HỌC 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT HÓA HỌC 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT HÓA HỌC 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
 
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TOÁN 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯỜNG...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TOÁN 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯỜNG...TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TOÁN 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯỜNG...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TOÁN 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯỜNG...
 
35 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM ...
35 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM ...35 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM ...
35 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM ...
 
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bày về triế...
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bày về triế...Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bày về triế...
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bày về triế...
 
Trích dẫn theo Harvard với Microsoft Word
Trích dẫn theo Harvard với Microsoft WordTrích dẫn theo Harvard với Microsoft Word
Trích dẫn theo Harvard với Microsoft Word
 
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá thực trạng an toàn vệ sinh lao động và rủi ro lao...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá thực trạng an toàn vệ sinh lao động và rủi ro lao...Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá thực trạng an toàn vệ sinh lao động và rủi ro lao...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá thực trạng an toàn vệ sinh lao động và rủi ro lao...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Tẩy trắng răng - dental bleaching slideshare
Tẩy trắng răng - dental bleaching slideshareTẩy trắng răng - dental bleaching slideshare
Tẩy trắng răng - dental bleaching slideshare
 
VẤN ĐỀ 12 VI PHẠM HÀNH CHÍNH VÀ.pptx
VẤN ĐỀ 12 VI PHẠM HÀNH CHÍNH VÀ.pptxVẤN ĐỀ 12 VI PHẠM HÀNH CHÍNH VÀ.pptx
VẤN ĐỀ 12 VI PHẠM HÀNH CHÍNH VÀ.pptx
 

PHÁP LUẬT VỀ NUÔI CON NUÔI CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI CỦA VIỆT NAM TRONG MỐI TƢƠNG QUAN VỚI CÔNG ƢỚC LAHAY.pdf

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VŨ KIM DUNG PHÁP LUẬT VỀ NUÔI CON NUÔI CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI CỦA VIỆT NAM TRONG MỐI TƢƠNG QUAN VỚI CÔNG ƢỚC LAHAY LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2013
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VŨ KIM DUNG PHÁP LUẬT VỀ NUÔI CON NUÔI CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI CỦA VIỆT NAM TRONG MỐI TƢƠNG QUAN VỚI CÔNG ƢỚC LAHAY Chuyên ngành: Luật Dân sự Mã số: 60 38 30 LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS Vũ Đức Long HÀ NỘI - 2013
  • 3. MỤC LỤC Trang Trang bìa phụ Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU........................................................................................................1 1. Lý do chọn đề tài.........................................................................................1 2. Tình hình nghiên cứu...................................................................................7 3. Mục tiêu và phạm vi nghiên cứu..................................................................8 4. Phương pháp nghiên cứu .............................................................................9 5. Những đóng góp, ý nghĩa của Luận văn ......................................................9 6. Cơ cấu của luận văn ....................................................................................9 Chƣơng 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM TRONG LĨNH VỰC NUÔI CON NUÔI CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI..........................................................................11 1.1. Khái niệm về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài .............................11 1.2. Nguyên tắc giải quyết nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ................15 1.3. Điều kiện đối với người nhận con nuôi và người được cho làm con nuôi..21 1.4. Trình tự, thủ tục giải quyết nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ........28 1.5. Cơ quan quản lý nhà nước về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài........34 1.6. Hệ quả pháp lý của nuôi con nuôi quốc tế..........................................35 Chƣơng 2: NHỮNG TIẾN BỘ VÀ HẠN CHẾ CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM SO VỚI QUY ĐỊNH CỦA CÔNG ƢỚC LAHAY ....38 2.1. Khái quát chung về Công ước Lahay.................................................38 2.2. Những khuyến nghi ̣của Ủ y ban Lahay ..............................................42 2.3. Những điểm tương đồng và bất câ ̣p của pháp luâ ̣t Viê ̣t Nam so với quy đi ̣ nh của Công ước Lahay ...........................................................46
  • 4. Chƣơng 3: THỰC TRẠNG, GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG HIỆU QUẢ THỰC THI LUẬT NUÔI CON NUÔI VÀ CAM KẾT CỦA VIỆT NAM KHI THAM GIA CÔNG ƢỚC LAHAY .................. 57 3.1. Kết quả thực thi các quy định của pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài thời gian qua ............................................57 3.2. Những tồn tại, bất cập trong quá trình giải quyết nuôi con nuôi quốc tế theo quy định của Luật Nuôi con nuôi và theo yêu cầu của Công ước Lahay ................................................................................62 3.3. Những thách thức khi thực thi Công ước Lahay tại Việt Nam ...........73 3.4. Một số giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả thực thi Luật Nuôi con nuôi và Công ước Lahay .............................................................75 KẾT LUẬN..................................................................................................83 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................85 PHỤ LỤC
  • 5. 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Nuôi con nuôi nói chung, nuôi con nuôi quốc tế nói riêng là một vấn đề xã hội mang tính nhân đạo sâu sắc. Quan hệ nuôi con nuôi quốc tế đã xuất hiện từ rất lâu trên thế giới do nhu cầu thực tiễn của đời sống xã hội và trong giai đoạn hiện nay, khi xu hướng hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa đang phát triển mạnh thì hoạt động nuôi con nuôi quốc tế cũng ngày càng mở rộng. Ở Việt Nam, nuôi con nuôi quốc tế bắt đầu xuất hiện từ khoảng những năm 70 thế kỷ 20 [26]. Cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ tại Việt Nam đóng vai trò khởi xướng cho hoạt động nuôi con nuôi quốc tế với những số liệu được ghi nhận đầu tiên vào năm 1962 và tăng mạnh vào giai đoạn 1972-1976. Theo số liệu do tổ chức Dịch vụ xã hội quốc tế (ISS) cung cấp, từ năm 1962- 2001 đã có trên 7.000 trẻ em Việt Nam được nhận làm con nuôi tại Mỹ. Từ năm 2002-2008, đã có 8.357 trẻ em Việt Nam được giải quyết làm con nuôi tại 8 nước Mỹ, Canada, Pháp, Đan Mạch, Thụy Sỹ, Ailen, Italy và Thụy Điển. Liên tục trong nhiều năm của giai đoạn này, Việt Nam là Nước gốc xếp thứ 5 hoặc 6 trên thế giới về số lượng trẻ em được giải quyết làm con nuôi người nước ngoài và là đối tác lớn thứ nhất hoặc thứ hai về số lượng trẻ em được nhận làm con nuôi tại một số Nước nhận như Italy, Pháp, Ailen. Cùng với quá trình xây dựng và phát triển đất nước, đặc biệt từ khi thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi quốc tế đã được hình thành, hoàn thiện và góp phần quan trọng vào việc đảm bảo thực hiện quyền của trẻ em là được chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trong môi trường gia đình, mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế ở cấp độ chính phủ vì mục đích nhân đạo và bảo vệ lợi ích tốt nhất cho những trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt.
  • 6. 2 Nghị định số 184/CP ngày 30/11/1994 của Chính phủ quy định về thủ tục kết hôn, nhận con ngoài giá thú, nuôi con nuôi, nhận đỡ đầu giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài có thể coi là văn bản quy phạm pháp luật đầu tiên quy định cụ thể về trình tự, thủ tục giải quyết nuôi con nuôi quốc tế tại Việt Nam. Tuy nhiên, sau một thời gian thực hiện, Nghị định số 184/CP đã bộc lộ nhiều điểm hạn chế như: hình thức xin con nuôi quốc tế theo Nghị định chủ yếu dưới dạng xin đích danh, thẩm quyền giải quyết nuôi con nuôi quốc tế thuộc về Uỷ ban Nhân dân tỉnh/thành, Sở Tư pháp là cơ quan đầu mối trực tiếp tiếp nhận, nghiên cứu và giải quyết hồ sơ. Cách quy định như vậy dẫn đến tình trạng giải quyết mang tính khép kín và không thống nhất ở các địa phương, khó quản lý và tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân làm môi giới giữa người nhận con nuôi và trẻ em được nuôi; các quy định về hồ sơ của người nước ngoài xin nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi chưa phù hợp với quy định về hợp pháp hóa lãnh sự thời điểm đó; có những loại giấy tờ đương sự không thể hoàn tất vì có sự khác biệt giữa quy định của pháp luật Việt Nam và hệ thống hành chính của nước nhận. Những khúc mắc về thủ tục đã dẫn tới thực tế là có người đủ điều kiện nhưng không thể nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi. Đồng thời, việc nhận con nuôi trên cơ sở giấy tờ không trung thực do phải "lách luật" gây ảnh hưởng không nhỏ tới sự tôn nghiêm của pháp luật và lợi ích của trẻ em [8]. Trước những bất cập nêu trên, nhiều văn bản quy phạm pháp luật sau đó đã lần lượt được ban hành nhằm tăng cường quản lý thống nhất, chặt chẽ và vì lợi ích tốt nhất của trẻ em trong công tác quản lý nhà nước và giải quyết nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam. Lần đầu tiên, quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài đã được luật hóa thông qua một số điều của Luật Hôn nhân- Gia đình năm 2000. Ngày 10/7/2002, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 68/2002/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật
  • 7. 3 Hôn nhân và Gia đình về quan hệ hôn nhân gia đình có yếu tố nước ngoài. Việc ban hành Nghị định 68/2002/NĐ-CP là một bước cải cách đáng ghi nhận về lĩnh vực pháp lý trong công tác quản lý và giải quyết nuôi con nuôi quốc tế tại Việt Nam. Ngày 21/7/2006, Chính phủ ban hành Nghị định số 69/2006/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 68/2002/NĐ- CP. Việc thực hiện Nghị định 68/2002/NĐ-CP (đã sửa đổi) đã tạo nên những chuyển biến đáng kể trong lĩnh vực giải quyết nuôi con nuôi quốc tế, góp phần thiết lập trật tự trong hoạt động của các tổ chức con nuôi quốc tế tại Việt Nam, kiểm soát chặt chẽ và thống nhất các thủ tục giải quyết nuôi con nuôi quốc tế, thống nhất đầu mối quản lý và giải quyết nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, cải thiện đáng kể đời sống của trẻ em tại hàng trăm cơ sở nuôi dưỡng trên phạm vi toàn quốc. Quan hệ hợp tác của Việt Nam trong lĩnh vực con nuôi quốc tế được nâng lên một tầm vóc mới và mở rộng nhanh chóng với 13 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó có những đối tác lớn như Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, Cộng hòa Pháp, Cộng hòa Italy, Cộng hòa Ailen, Vương quốc Tây Ban Nha, Liên bang Thụy Sỹ, Vương quốc Thụy Điển, Canada... Tuy nhiên, trong giai đoạn phát triển mới của đất nước, đặc biệt là trước nhu cầu hợp tác lớn giữa Việt Nam và các nước nhận, việc thực hiện pháp luật về nuôi con nuôi, đặc biệt là con nuôi quốc tế tiếp tục bộc lộ những hạn chế, bất cập, cụ thể là: các vấn đề về nuôi con nuôi chưa được quy định một cách thống nhất trong một đạo luật, bởi vậy có sự chồng chéo, mâu thuẫn với nhau, làm giảm hiệu lực áp dụng trong thực tiễn. Khung pháp lý về nuôi con nuôi trong nước và nuôi con nuôi quốc tế đồng thời tồn tại nhưng lại được quy định tản mạn trong những văn bản pháp luật khác nhau, do vậy chưa có sự gắn kết giữa nuôi con nuôi trong nước và con nuôi quốc tế. Quy trình, thủ tục giải quyết nuôi con nuôi theo quy định của Nghị định số 68/2002/NĐ-CP bộc lộ những kẽ hở cho một số cá, tổ chức làm sai lệch hồ sơ trẻ em vì mục
  • 8. 4 đích trục lợi, vi phạm nguyên tắc vì lợi ích tốt nhất của trẻ và gây ảnh hưởng xấu đến phương diện nhân đạo của hoạt động này. Do thẩm quyền giải quyết tập trung quá lớn vào một số cá nhân nên trong hệ thống cơ sở nuôi dưỡng gây nên tình trạng nhũng nhiễu, đẩy chi phí đen liên quan đến nuôi con nuôi quốc tế lên mức cao. Quá trình cấp phép ồ ạt cho các tổ chức con nuôi nước ngoài hoạt động tại Việt Nam gắn liền với yêu cầu hỗ trợ nhân đạo bắt buộc dẫn đến thực tế cạnh tranh gay gắt giữa các tổ chức tại từng trung tâm bảo trợ xã hội để có thể được giới thiệu nhiều trẻ em. Điều này đi ngược với những nguyên tắc cơ bản của Công ước Lahay năm 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực con nuôi quốc tế và pháp luật của nhiều nước là thành viên Công ước. Nếu tiếp tục giữ cơ chế cũ với nhiều hạn chế như vậy sẽ dẫn đến sự vi phạm tất yếu các nguyên tắc bảo vệ quyền trẻ em, đồng thời ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín của Việt Nam trong mối quan hệ hợp tác với các nước phát triển khác. Chính vì vậy, yêu cầu tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về nuôi con nuôi nói chung, đặc biệt là nuôi con nuôi quốc tế nói riêng trở nên vô cùng cấp bách. Cần ban hành một đạo luật riêng về nuôi con nuôi nhằm tạo khuôn khổ pháp lý thống nhất, ổn định, có giá trị áp dụng lâu dài, nâng cao trách nhiệm của các ngành, các cấp, cơ quan, tổ chức và xã hội trong việc chăm sóc và bảo vệ trẻ em. Việc ban hành Luật Nuôi con nuôi sẽ đáp ứng nhu cầu thực tiễn ngày càng tăng của quan hệ nuôi con nuôi quốc tế, gắn kết hoạt động nuôi con nuôi trong nước với nuôi con nuôi quốc tế, bảo vệ lợi ích của các chủ thể, bao gồm cả trẻ em được nuôi và người nhận con nuôi theo hướng tạo dựng môi trường gia đình ổn định, hài hòa, hạnh phúc và phát triển. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về nuôi con nuôi quốc tế của Việt Nam theo hướng nội luật hóa những quy phạm quốc tế là việc làm cần thiết nhằm thực thi những cam kết trước cộng đồng quốc tế về tôn trọng và bảo vệ quyền trẻ em.
  • 9. 5 Luật Nuôi con nuôi được Quốc hội khóa XII thông qua ngày 17/6/2010, tại Kỳ họp thứ 7 đã đánh dấu một bước phát triển mới trong công tác quản lý và giải quyết nuôi con nuôi nói chung, nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài nói riêng. Luật Nuôi con nuôi đã được xây dựng trên quan điểm xuyên suốt là bảo đảm phù hợp với chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em, bảo đảm việc giải quyết nuôi con nuôi trên tinh thần nhân đạo, vì lợi ích tốt nhất của những trẻ em cần được bảo vệ và chăm sóc đặc biệt. Cùng với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật trong nước, để tạo hành lang pháp lý ổn định lâu dài cho công tác bảo vệ trẻ em được cho làm con nuôi người nước ngoài, thúc đẩy quan hệ hợp tác từ cấp độ song phương sang đa phương trên tinh thần nhân đạo và vì lợi ích tốt nhất của trẻ em Việt Nam có hoàn cảnh khó khăn, ngăn ngừa và chống hành vi mua bán trẻ em hoặc lợi dụng nuôi con nuôi vì mục đích trục lợi, ngày 7/12/2010, Việt Nam đã ký tham gia Công ước về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực con nuôi quốc tế (Công ước Lahay). Ngày 18/7/2011, Chủ tịch nước đã ký Quyết định số 1103/2011/QĐ-CTN phê chuẩn toàn văn Công ước. Theo quy định tại Điều 46, Công ước sẽ có hiệu lực thi hành tại Việt Nam từ ngày 1/2/2012. Công ước Lahay là một trong 34 điều ước quốc tế đa phương quan trọng thuộc lĩnh vực tư pháp quốc tế được Hội nghị Lahay về tư pháp quốc tế thông qua ngày 29/5/1993. Đến tháng 7/2012, đã có 86 quốc gia trở thành thành viên của Công ước [32] và đây là Công ước Lahay về hợp tác tư pháp quốc tế có số lượng nước thành viên lớn nhất trong hệ thống điều ước của Hội nghị Lahay cho đến nay. Trong khu vực Đông Nam Á, các quốc gia láng giềng như Thái Lan, Trung Quốc, Campuchia, Philippin đều đã trở thành thành viên của Công ước cách đây nhiều năm. Có thể nói, Công ước Lahay là điều ước quốc tế đa phương đã dung hòa tối đa lợi ích của các nước cho và
  • 10. 6 nước nhận con nuôi quốc tế, nhất thể hóa ở mức độ cao về những khác biệt trong pháp luật của các nước về nuôi con nuôi quốc tế. Tham gia Công ước Lahay, Việt Nam không chỉ có cơ hội mở rộng hợp tác quốc tế trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế mà đồng thời khẳng định quan điểm nhất quán và sự cam kết mạnh mẽ của Nhà nước trong việc tăng cường bảo vệ trẻ em được giải quyết làm con nuôi người nước ngoài, tranh thủ kinh nghiệm quốc tế, sự hỗ trợ kỹ thuật và nhân đạo để hoàn thiện cơ chế quản lý, nâng cao chất lượng chăm sóc trẻ em và bảo đảm quyền được nuôi dưỡng trong môi trường gia đình của trẻ em. Trong bối cảnh bắt đầu thực thi Luật Nuôi con nuôi với những cải cách toàn diện về quy trình, thủ tục, đồng thời chuyển đổi từ mô hình hợp tác song phương sang cơ chế hợp tác đa phương trong lĩnh vực con nuôi quốc tế, việc phân tích, đánh giá những điểm phù hợp, chưa phù hợp của pháp luật Việt Nam trong mối quan hệ với quy định của Công ước Lahay để thấy được những thuận lợi, khó khăn trong quá trình thực thi Luật Nuôi con nuôi và thực thi Công ước, đề xuất những khuyến nghị nhằm tiếp tục nội luật hóa Công ước vì mục tiêu bảo vệ lợi ích tốt nhất cho những trẻ em được giải quyết làm con nuôi người nước ngoài là việc làm có ý nghĩa thời sự và thực tiễn cao. Xuất phát từ những lý do nêu trên, tác giả đã lựa chọn đề tài "Pháp luật về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài của Việt Nam trong mối tương quan với Công ước Lahay" làm luận văn thạc sỹ luật học. Việc nghiên cứu đề tài không chỉ mang tính lý luận mà còn có giá trị ứng dụng cao trong công tác quản lý nhà nước về nuôi con nuôi quốc tế hiện nay, đặc biệt là trong công tác hoàn thiện thể chế, nâng cao hiệu quả thực thi các quy trình thủ tục giải quyết nuôi con nuôi quốc tế theo tiêu chuẩn của Công ước Lahay và quy định của pháp luật Việt Nam, phân định rõ vai trò trách nhiệm của Cơ quan con nuôi trung ương trong việc thực hiện các nghĩa vụ của Công ước, đồng thời tăng
  • 11. 7 cường trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền hữu quan ở cấp trung ương và địa phương trong quá trình giải quyết nuôi con nuôi, nâng cao nhận thức xã hội và hiệu quả, chất lượng bảo vệ và chăm sóc trẻ em. 2. Tình hình nghiên cứu Quan hệ pháp luật về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam cũng như những nội dung cơ bản của Công ước Lahay đã được nhiều nhà khoa học nghiên cứu dưới những giác độ khác nhau. Kể từ khi Nhà nước thực hiện đường lối đổi mới và hội nhập đến nay, cùng với việc ban hành Luật Hôn nhân và Gia đình và nhiều văn bản quy phạm điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài khác, đã có nhiều diễn đàn, công trình nghiên cứu về chế định nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, trong đó có thể điểm một số công trình như: - Chuyên đề “Chế định nuôi con nuôi trong pháp luật Việt Nam và quốc tế” của Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý-Bộ Tư pháp năm 1998; - Đề tài “Pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài-thực trạng và phương hướng hoàn thiện” của thạc sỹ Phạm Thùy Dương năm 2006; - Đề án triển khai Công ước Lahay do Bộ Tư pháp chủ trì soạn thảo trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt thực hiện giai đoạn 2012-2015. - Báo cáo sơ kết 5 năm tình hình thực hiện Nghị định số 68/2002/NĐ-CP trong lĩnh vực con nuôi quốc tế-Cục Con nuôi quốc tế, Bộ Tư pháp, tháng 9/2008. - Báo cáo đánh giá “Nhận con nuôi từ Việt Nam-những phát hiện và khuyến nghị của đánh giá” do Tổ chức ISS thực hiện năm 2009; - Sách “Tìm hiểu Công ước Lahay về nuôi con nuôi” của Cục Con nuôi quốc tế xuất bản năm 2007. - Sách “Pháp luật về nuôi con nuôi của Việt Nam và một số nước trên thế giới” của Cục Con nuôi-Bộ Tư pháp biên soạn năm 2009;
  • 12. 8 - Số chuyên đề của Tạp chí Dân chủ và Pháp luật về Pháp luật về nuôi con nuôi xuất bản năm 2009 và năm 2011; - Sách hướng dẫn thực thi Công ước-Ủy ban Lahay xuất bản năm 2012. - Tài liệu “Hội thảo Bảo đảm quyền trẻ em và thực hiện việc nuôi con nuôi quốc tế tại Việt Nam” do Cục Con nuôi Bộ Tư pháp tổ chức tháng 1/2010. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu, các bài viết, các diễn đàn này mới chỉ đề cập đến các chế định về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam hoặc xem xét các nguyên tắc về hợp tác nuôi con nuôi quốc tế của Công ước Lahay một cách riêng rẽ, thiếu sự gắn kết, liên hệ, so sánh để thấy được những điểm tương đồng hay xung đột giữa hai hệ thống pháp luật trong nước và quốc tế một cách tổng thể và cập nhật. 3. Mục tiêu và phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu, tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt trong các quy định của pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi quốc tế với các nguyên tắc cơ bản và nội dung của Công ước Lahay, từ đó đưa ra những khuyến nghị để tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về nuôi con nuôi trong nước, tăng cường hiệu quả thực thi Luật Nuôi con nuôi và Công ước Lahay tại Việt Nam. Với mục tiêu nêu trên, phạm vi nghiên cứu của Luận văn chỉ tập trung vào các quy định của Luật Nuôi con nuôi, Nghị định số 19/2011/NĐ-CP ngày 21/3/2011 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Nuôi con nuôi và Công ước Lahay năm 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác quốc tế trong lĩnh vực con nuôi quốc tế. Việc nghiên cứu tập trung vào khía cạnh pháp lý, có thể đối chiếu với thực tiễn trong năm đầu tiên áp dụng Luật Nuôi con nuôi (từ 1/1/2011) và năm đầu tiên khi Công ước có hiệu lực thi hành tại Việt Nam (từ 1/2/2012) để làm sâu sắc hơn những điểm còn bất cập trong các quy định
  • 13. 9 của pháp luật hiện hành và từ đó nhấn mạnh yêu cầu cần tiếp tục hoàn thiện theo hướng hài hòa hơn với quy định của Công ước Lahay và mang tính khả thi cao hơn trong thực tiễn. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác-Lê nin, những tư tưởng chủ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước pháp quyền. Trong đó, một số phương pháp nghiên cứu cụ thể được vận dụng bao gồm: phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh, diễn dịch, quy nạp, trích dẫn... để đạt được mục tiêu nghiên cứu đề ra. 5. Những đóng góp, ý nghĩa của Luận văn Thông qua việc trình bày một cách logic và khái quát về những quy định của pháp luật hiện hành trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế của Việt Nam trong mối tương quan với các nguyên tắc, yêu cầu cơ bản của Công ước Lahay, luận văn sẽ làm sáng tỏ những điểm tương đồng, những điểm còn bất cập trong các quy phạm pháp luật hiện hành, từ đó thấy được những thuận lợi, khó khăn trong quá trình thực thi Luật Nuôi con nuôi và Công ước Lahay tại Việt Nam. Trên cơ sở những bất cập đó, luận văn sẽ đề xuất những giải pháp mang tính khả thi để hoàn thiện hệ thống pháp luật trong nước về nuôi con nuôi quốc tế nhằm nâng cao hiệu quả thực thi Luật Nuôi con nuôi và Công ước Lahay trong những năm tiếp theo, góp phần tích cực cho công tác bảo vệ trẻ em nói chung, bảo vệ những trẻ em được cho làm con nuôi quốc tế nói riêng trên nền tảng của tư tưởng nhân đạo. 6. Cơ cấu của luận văn Ngoài những phần chung như Lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm ba phần chính như sau:
  • 14. 10 Chƣơng 1: Khái quát chung về quy định của pháp luật Việt Nam trong lĩnh vực nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài 1.1. Khái niệm về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài 1.2. Nguyên tắc giải quyết nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài 1.3. Điều kiện đối với người nhận con nuôi và người được cho làm con nuôi 1.4. Trình tự, thủ tục giải quyết nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài 1.5. Cơ quan quản lý nhà nước về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài 1.6. Hệ quả pháp lý của việc giải quyết con nuôi có yếu tố nước ngoài Chƣơng 2: Nhƣ̃ng tiến bộvà ha ̣n chế của pháp luâ ̣t Viê ̣ t Nam so vớ i quy đi ̣ nh củ a Công ƣớ c Lahay 2.1 . Khái quát chung về công ước Lahay 2.2. Những khuyến nghị của Ủy ban Lahay 2.3. Những điểm tương đồng và bất cập của pháp luật Việt Nam so với quy định của Công ước Lahay Chƣơng 3: Thƣ̣c tra ̣ng, giải pháp tăng cƣờng hiê ̣ u quả thƣ̣c thi Luâ ̣t Nuôi con nuôi và cam kết của Việt Nam khi tham gia Công ƣớ c Lahay 3.1. Kết quả thực thi các quy định của pháp luật về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài thời gian qua 3.2. Những tồn tại, bất cập trong quá trình giải quyết nuôi con nuôi quốc tế theo quy định của Luật Nuôi con nuôi và theo yêu cầu của Công ước Lahay 3.3. Những thách thức khi thực thi Công ước Lahay tại Việt Nam. 3.4. Một số giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả thực thi Luật Nuôi con nuôi và Công ước Lahay
  • 15. 11 Chương 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM TRONG LĨNH VỰC NUÔI CON NUÔI CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI 1.1. Khái niệm về nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài Nuôi con nuôi là một quá trình khi một người đảm đương vai trò nuôi nấng đối với một người khác, và bằng cách đó, mọi quyền hạn và trách nhiệm của cha mẹ đẻ đã được chuyển dịch một cách ổn định lâu dài sang cho người đảm nhận việc nuôi dưỡng. Khác với việc giám hộ hay các hệ thống khác được xây dựng nhằm mục đích tạo điều kiện cho công tác chăm sóc trẻ em, việc nhận nuôi nhằm thiết lập sự thay đổi bền vững về vị thế pháp lý giữa người nhận nuôi và trẻ em được nuôi dưỡng, đồng thời đòi hỏi xã hội thừa nhận những thay đổi đó thông qua các hình thức công nhận về tôn giáo hay pháp luật [34]. Nuôi con nuôi có lịch sử phát triển lâu dài ở Châu Âu và gắn liền với vấn đề thừa kế của Triều đại Rom và Nhà thờ Công giáo. Dấu ấn đầu tiên về phương diện pháp lý của hoạt động nuôi con nuôi được tìm thấy ở Bộ luật Hammurabi thế kỷ XVIII trước Công nguyên [4]. Bộ luật đã quy định chi tiết về quyền, nghĩa vụ của người được nhận làm con nuôi. Đế chế Rom cổ đại cũng đã có những tài liệu ghi nhận về hoạt động nuôi con nuôi thông qua Đạo luật Justinianus. Trong thế giới cổ đại, nuôi con nuôi chủ yếu vì lợi ích kinh tế và chính trị của người nhận con nuôi, đó là công cụ pháp lý để củng cố các quan hệ chính trị giữa những gia đình vương giả, tạo ra người thừa kế và quản lý gia sản. Nhiều tài liệu cũng chỉ ra rằng, người Ấn Độ và Trung Quốc cổ đại cũng có truyền thống nhận nuôi con nuôi chủ yếu vì mục đích tôn giáo và tập tục văn hóa. Người Ấn Độ thiên về việc nhận nuôi con trai để thực hiện nghi lễ
  • 16. 12 ma chay, trong khi đó, người Trung Quốc cổ đại chủ yếu chỉ nhận nuôi con trai để duy trì việc thờ cúng tổ tiên [31]. Qua nhiều thế kỷ, việc nuôi con nuôi đã có sự chuyển hóa về bản chất, từ hình thức nhận con nuôi trưởng thành vì mục đích có người thừa kế sang nhận trẻ em làm con để tạo dựng gia đình, chuyển từ việc đảm bảo sự tiếp nối của dòng họ thông qua con nuôi sang mô hình quan hệ xã hội mang cảm xúc mãnh liệt. Từ thế kỷ XVII, việc nuôi con nuôi đã được coi như một giải pháp đối với vấn đề của xã hội-đó là vấn đề trẻ em không có gia đình. Ở đâu có trẻ em cần tìm cha mẹ thì ở đó có việc nuôi con nuôi. Xét về phương diện pháp lý, việc nuôi con nuôi nhằm xác lập quan hệ cha mẹ và con lâu dài, bền vững, đảm bảo con nuôi được chăm sóc, giáo dục trong môi trường gia đình. Pháp luật của các nước trên thế giới cũng như của Việt Nam đều hướng tới việc bảo vệ tốt nhất đối với mối quan hệ này [9]. Khái niệm nuôi con nuôi quốc tế dường như được hình thành cùng với những hệ quả của Đại chiến thế giới thứ II và thời kỳ Chiến tranh lạnh của thế kỷ 20. Việc tham gia chiến tranh của binh lính, thủy thủ tại các nước Châu Âu hay Châu Á đã làm tăng đột biến số trẻ em có hai dòng máu. Bên cạnh đó, sau Thế chiến thứ hai, số lượng trẻ mồ côi không có khả năng tự chăm lo cho bản thân đã phát sinh nhu cầu cho nhận con nuôi. Ban đầu, khái niệm cho nhận con nuôi quốc tế gắn liền với việc nhận con nuôi của các công dân Mỹ đối với những trẻ em khác chủng tộc trong thời kỳ này, dần dần, cùng với xu thế phát triển chung của xã hội, khái niệm nuôi con nuôi quốc tế đã được luật hóa và trở thành một hiện tượng xã hội phổ biến trên thế giới [33, 34]. Nhìn từ góc độ pháp lý, khái niệm nuôi con nuôi quốc tế ở mỗi nước khác nhau được quy định khác nhau, tuy nhiên đều phản ánh hiện tượng thực tiễn khi trẻ em có nhu cầu được chăm sóc, thường là từ các nước chậm hoặc đang phát triển,
  • 17. 13 được gửi từ nước nơi mình thường trú hợp pháp đến các gia đình nhận nuôi thường trú ở nước khác, thông thường là ở các nước phát triển. Ở Việt Nam, khái niệm nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài hay còn gọi là nuôi con nuôi quốc tế-theo cách gọi quốc tế- đã có một quá trình phát triển cùng với sự hình thành và phát triển của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài. Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986 lần đầu tiên đã quy định về những vấn đề liên quan tới quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài. Theo đó, quan hệ gia đình có yếu tố nước ngoài được nêu tóm tắt: “Những vấn đề về quan hệ vợ chồng, quan hệ tài sản, quan hệ cha mẹ và con, huỷ việc kết hôn, ly hôn, nuôi con nuôi và đỡ đầu giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài do Hội đồng Nhà nước quy định”-Điều 53 và “Trong trường hợp đã có hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý về hôn nhân và gia đình giữa Việt Nam và nước ngoài, thì tuân theo những quy định của các hiệp định đó”-Điều 54. Luật Hôn nhân và Gia đình sửa đổi năm 2000 đã quy định chi tiết hơn về quan hệ hôn nhân gia đình có yếu tố nước ngoài, trong đó, quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài là quan hệ hôn nhân và gia đình (i) giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài; (ii) giữa người nước ngoài với nhau thường trú ở Việt Nam; (iii) giữa công dân Việt Nam với nhau mà căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài (Điều 8 khoản 14). Có thể thấy, mặc dù đã được luật hóa nhưng các quy định này vẫn mang tính liệt kê, chưa thể hiện rõ bản chất cũng như phản ánh đấy đủ những khía cạnh pháp lý của quan hệ nuôi con nuôi quốc tế. Chính vì vậy, nhiều văn bản pháp lý đã tiếp tục được ban hành để hướng dẫn cụ thể hơn việc giải quyết nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài như Quyết định số 145/HĐBT ngày 29/4/1992 của Hội đồng Bộ trưởng quy định tạm thời về việc cho người nước
  • 18. 14 ngoài nhận con nuôi là trẻ em mồ côi, bị bỏ rơi, bị tàn tật ở các cơ sở nuôi dưỡng do ngành lao động-thương binh và xã hội quản lý; Pháp lệnh hôn nhân và gia đình ngày 2/12/1993 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài; Nghị định số 184/CP ngày 30/11/1994 của Chính phủ quy định về thủ tục kết hôn, nhận con ngoài giá thú, nuôi con nuôi, nhận đỡ đầu giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài; Nghị định 68/2002/NĐ-CP ngày 10/7/2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và Gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài. Cho đến năm 2010, cùng với việc ra đời của Luật Nuôi con nuôi, có thể nói, lần đầu tiên khái niệm nuôi con nuôi quốc tế đã được luật hóa một cách đầy đủ nhất, rõ ràng nhất với chi tiết cụ thể như sau: “Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là việc nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, giữa người nước ngoài với nhau thường trú ở Việt Nam, giữa công dân Việt Nam với nhau mà một bên định cư ở nước ngoài”-khoản 5 Điều 3 Luật Nuôi con nuôi. Như vậy, nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài (hay nuôi con nuôi quốc tế) theo quy định của pháp luật Việt Nam được xác định trên hai yếu tố căn bản: quốc tịch và nơi cư trú của các bên tham gia quan hệ này. Yếu tố quốc tịch thể hiện: việc nuôi con nuôi được xác lập giữa một bên là công dân Việt Nam và một bên là người nước ngoài. Bên cạnh đó, nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài còn được áp dụng giải quyết khi các bên tham gia quan hệ cùng quốc tịch nhưng nơi cư trú vào thời điểm xác lập quan hệ nuôi con nuôi khác nhau-cùng là công dân Việt Nam nhưng một bên không định cư tại Việt Nam- hoặc cùng là công dân nước ngoài nhưng đang thường trú ở Việt Nam. Với quy định hiện hành, chủ thể tham gia quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài của Việt Nam có phạm vi áp dụng tương đối rộng so với một số nước cho trẻ em khác (Nước gốc). Ví dụ, Bộ luật Gia đình năm 2007 của Liên
  • 19. 15 Bang Nga quy định nuôi con nuôi quốc tế chỉ dựa vào yếu tố quốc tịch, cụ thể là: nuôi con nuôi quốc tế là việc nhận trẻ em là công dân Nga làm con nuôi của người nước ngoài hoặc người không có quốc tịch, hoặc việc công dân Nga nhận trẻ em nước ngoài làm con nuôi (Điều 165). Luật Con nuôi của Guatemala năm 2007 quy định nuôi con nuôi quốc tế chỉ dựa vào yếu tố nơi cư trú, cụ thể là: con nuôi quốc tế được hiểu là việc nhận con nuôi theo đó trẻ thường trú hợp pháp ở Guatemala được đưa đến một nước khác làm con nuôi (Điều 2 khoản b). Luật Nuôi con nuôi của một số nước khác như Trung Quốc, Thái Lan, Hàn Quốc không đưa ra khái niệm con nuôi quốc tế nhưng có những quy định điều chỉnh việc nhận trẻ em Trung Quốc, Hàn Quốc, Thái Lan làm con nuôi của người nước ngoài. Điều này cho thấy, ở các Nước gốc, quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài thường được áp dụng dựa trên một yếu tố hoặc là quốc tịch hoặc là nơi cư trú của các bên tham gia quan hệ này, yếu tố nơi cư trú của trẻ em vào thời điểm xác lập quan hệ con nuôi không được nhấn mạnh như trong quy định của pháp luật Việt Nam. 1.2. Nguyên tắc giải quyết nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài Với mục đích thiết lập quan hệ pháp lý lâu dài, bền vững giữa cha mẹ nuôi và con nuôi như quan hệ giữa cha, mẹ và con ruột, pháp luật về nuôi con nuôi của Việt Nam đã được xây dựng trên những nguyên tắc mang tính xuyên suốt đó là phải phù hợp với các chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước về công tác bảo vệ trẻ em, vì lợi ích tốt nhất của trẻ em được nhận làm con nuôi và quyền lợi chính đáng của người xin nhận con nuôi. Xuất phát từ mục đích nêu trên, kế thừa những ưu thế của pháp luật nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài trong suốt thời gian qua, trên tinh thần nội luật hóa pháp luật quốc tế về lĩnh vực này, các nguyên tắc giải quyết nuôi con nuôi áp dụng cho cả việc giải quyết nuôi con nuôi trong nước hay con nuôi quốc tế được nêu tại Điều 4 Luật Nuôi con nuôi bao gồm:
  • 20. 16 1. Khi giải quyết việc nuôi con nuôi cần tôn trọng quyền của trẻ em được sống trong môi trường gia đình gốc. 2. Việc nuôi con nuôi phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người được nhận làm con nuôi và người nhận con nuôi, tự nguyện, bình đẳng, không phân biệt nam nữ, không trái pháp luật và đạo đức xã hội. 3. Chỉ cho làm con nuôi người ở nước ngoài khi không thể tìm được gia đình thay thế ở trong nước. 1.2.1. Nguyên tắc thứ nhất: Khi giải quyết việc nuôi con nuôi cần tôn trọng quyền của trẻ em được sống trong môi trường gia đình gốc Đây là một trong những nguyên tắc được xây dựng trên cơ sở thống nhất với nguyên tắc bảo đảm quyền được sống chung với cha mẹ của trẻ em đã được quy định tại Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004, đồng thời đảm bảo tính hài hòa hóa các quy định của pháp luật quốc tế liên quan tới quyền của trẻ em mà Việt Nam đã tham gia, cụ thể như Tuyên bố của Liên Hợp Quốc về các nguyên tắc pháp lý và xã hội liên quan đến phúc lợi và bảo vệ trẻ em- “Ưu tiên hàng đầu đối với trẻ em là phải được cha mẹ đẻ chăm sóc”; Công ước Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em-“tin tưởng rằng, gia đình với tư cách là nhóm xã hội cơ bản và là môi trường tự nhiên cho sự phát triển và hạnh phúc của tất cả các thành viên gia đình, đặc biệt là trẻ em”. Môi trường gia đình là môi trường tốt nhất bảo đảm cho sự phát triển về nhân cách, trí tuệ và vun đắp những truyền thống tương thân tương ái, gắn bó yêu thương của gia đình Việt Nam cho trẻ. Trẻ em là tương lai của đất nước, gia đình là hạt nhân của xã hội. Chính vì vậy, Đảng, Nhà nước đã có nhiều chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế gia đình, đề cao vai trò gia đình, đảm bảo cho trẻ em được nuôi dưỡng, chăm sóc tốt nhất ngay trong chính gia đình gốc của mình. Không ai, không tổ chức nào có quyền tách rời trẻ em ra khỏi gia đình gốc của mình. Những hành vi mua chuộc, mua bán hoặc bắt cóc
  • 21. 17 trẻ em, kể cả là hành vi do chính cha hoặc mẹ đẻ của trẻ em gây ra cũng sẽ bị pháp luật trừng trị nghiêm khắc. Đối với trẻ em không còn cha mẹ hoặc cha mẹ ruột không còn khả năng nuôi dưỡng, vì lợi ích tốt nhất của trẻ, việc chăm sóc và giáo dục trẻ em sẽ được ưu tiên chuyển giao cho họ hàng thân thích nhằm tiếp tục duy trì môi trường quen thuộc và an toàn nhất đối với trẻ em. Tuân thủ nguyên tắc này, việc giải quyết cho trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi làm con nuôi họ hàng thân thích như cô, cậu, dì, chú, bác ruột hoặc cha dượng, mẹ kế sẽ được ưu tiên và áp dụng thủ tục đơn giản và ngắn gọn hơn nhiều đối với việc cho nhận con nuôi trong nước hoặc con nuôi có yếu tố nước ngoài thông thường. Nguyên tắc tôn trọng quyền được sống trong môi trường gia đình gốc khi giải quyết nuôi con nuôi nói chung, nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài nói riêng còn tạo cơ hội nâng cao ý thức trách nhiệm, đề cao truyền thống lá lành đùm lá rách của từng thành viên trong gia đình, họ hàng nội ngoại của trẻ em. Trước khi đặt trách nhiệm chăm sóc thay thế đối với những trẻ em bị bỏ rơi, bị mồ côi, những thành viên trong gia đình mở rộng của trẻ như cô, cậu, dì, chú bác, ông bà… sẽ là những người được ưu tiên giao quyền giám hộ đối với trẻ. Chỉ khi không thể tìm được thân nhân nuôi dưỡng, trẻ em mới được đưa vào các cơ sở nuôi dưỡng được thành lập hợp pháp hoặc được giải quyết làm con nuôi. 1.2.2. Nguyên tắc thứ hai: Việc nuôi con nuôi phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người được nhận làm con nuôi và người nhận con nuôi, tự nguyện, bình đẳng, không phân biệt nam nữ, không trái pháp luật và đạo đức xã hội Trong xã hội hiện đại có rất nhiều hình thức chăm sóc được pháp luật quy định nhằm đảm bảo việc chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục đối với những trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, không được sống trong môi trường
  • 22. 18 gốc của mình. Bên cạnh các hình thức chăm sóc thay thế như nuôi dưỡng tại cơ sở bảo trợ xã hội, chăm sóc tại các gia đình nhận nuôi, cho nhận con nuôi được coi là hình thức chăm sóc thay thế mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc và có tính ưu việt vượt trội bởi nó tạo cho trẻ một môi trường nuôi dưỡng ổn định, bền chặt với tình yêu thương hài hòa của cha-mẹ nuôi và những người họ hàng thân thích. Tuy nhiên, bất kỳ hình thức chăm sóc nào trước khi được thực hiện hoặc được pháp luật thừa nhận đều phải đảm bảo nguyên tắc căn bản là vì lợi ích tốt nhất của trẻ em cũng như vì quyền và lợi hợp pháp của người nhận nuôi. So với thực tiễn giải quyết nuôi con nuôi trước đây, nguyên tắc này đã quan tâm hơn đến lợi ích của người nhận con nuôi. Lợi ích tốt nhất của trẻ em phải là mục đích, là ưu tiên hàng đầu nhưng không phải là duy nhất trong quan hệ nuôi con nuôi mà còn phải tính đến lợi ích hợp pháp của người xin nhận con nuôi. Quan hệ nuôi dưỡng chỉ có thể phát triển tốt đẹp, bền chặt khi cả hai bên chủ thể được bảo đảm những quyền và lợi ích hợp pháp trên cơ sở bình đẳng, tự nguyện. Trẻ em được nhận nuôi được yêu thương, được chăm sóc, được giáo dục bởi cha mẹ nuôi, ngược lại, cha mẹ nuôi cũng có nhu cầu được yêu thương, kính trọng, gắn bó từ đứa con mà mình đã đón nhận về. Sợi dây tình cảm này chỉ có thể bền chặt khi cả hai cùng được pháp luật bảo vệ và được xây dựng trên nền tảng bình đẳng và tự nguyện. Việc đón nhận một trẻ em xa lạ về gia đình để yêu thương, chăm sóc cho đến khi trưởng thành đòi hỏi người làm cha, làm mẹ phải có nhiều kỹ năng, kiến thức, nhất là với những gia đình không có khả năng sinh con vì họ sẽ thiếu hụt những kinh nghiệm và sự nhạy bén bản năng. Chính vì vậy, việc tư vấn, tập huấn trang bị những kiến thức, kỹ năng cần thiết cho người nhận con nuôi để họ nhận thức đầy đủ về trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi khi quyết định tham gia quan hệ nuôi con nuôi có ý nghĩa vô cùng quan trọng,
  • 23. 19 quyết định căn bản đến sự thành công của mỗi trường hợp nuôi con nuôi. Sự tự nguyện tham gia quan hệ nuôi con nuôi chỉ có thể là kết quả của một quá trình nhận thức đầy đủ về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của cả cha mẹ nuôi lẫn trẻ em được nhận nuôi (đối với trẻ từ đủ 9 tuổi trở lên). Tự nguyện có nghĩa là sự chấp nhận vô điều kiện, thông suốt về tư tưởng, vui vẻ về tinh thần, không chịu bất kỳ sự ép buộc hay bị ảnh hưởng nào (bị lừa dối, hiểu lầm, cưỡng ép, trao đổi lợi ích…) của những người tham gia quan hệ nuôi con nuôi. Thực tế cho thấy, thiếu sự tự nguyện, trẻ em có thể trở thành hàng hóa của một quá trình trao đổi lợi ích, mục đích của việc nuôi con nuôi sẽ mất đi bản chất nhân đạo và trở thành hành vi thiếu đạo đức, trục lợi cần phải ngăn chặn và lên án. Một yếu tố căn bản khác cần đặc biệt chú trọng khi giải quyết nuôi con nuôi quốc tế đó là việc xác lập quan hệ cha-mẹ con không có sự phân biệt nam nữ, phải bình đẳng, không được trái pháp luật và trái đạo đức xã hội. Đây cũng là nguyên tắc chung khi xác lập các quan hệ dân sự. Tuy nhiên, nguyên tắc này đặc biệt quan trọng khi đối tượng của quan hệ dân sự là con người, là yếu tố trung tâm của mọi vận động xã hội và là nguồn nhân lực tương lai của mỗi quốc gia. Mục đích của việc giải quyết nuôi con nuôi là tìm một mái ấm cho trẻ, do vậy, trẻ em mới có quyền lựa chọn những gia đình phù hợp nhất với đặc điểm, điều kiện của mình chứ không phải là đối tượng để các cặp vợ chồng lựa chọn, cân nhắc khi nhận nuôi. Xuất phát từ mục tiêu này, một trong những điều cấm của pháp luật về nuôi con nuôi của tất cả các nước là người xin nhận con nuôi không được lựa chọn giới tính của trẻ em. Tất cả những người xin nhận con nuôi, không phân biệt giới tính, hoàn cảnh kinh tế, nguồn gốc gia đình, trình độ học vấn, khi đáp ứng những điều kiện luật định đều có cơ hội bình đẳng như nhau để được giới thiệu nuôi một trẻ em có đặc điểm phù hợp với nguyện vọng của mình và nhu cầu của trẻ em.
  • 24. 20 Việc nhấn mạnh khía cạnh hợp pháp, đạo đức xã hội trong quá trình giải quyết nuôi con nuôi là nhằm ngăn ngừa khả năng buôn bán, bóc lột sức lao động trẻ em hay lợi dụng các chính sách ưu đãi của Nhà nước đối với những người có công thông qua hình thức nuôi con nuôi. Cuộc sống là tổng hòa của nhiều mối quan hệ, lợi ích. Vì vậy, khi giải quyết nuôi con nuôi, dù xuất phát từ lợi ích của trẻ em có nhu cầu được nhận nuôi, các cơ quan có thẩm quyền cũng phải suy xét kỹ lưỡng để đảm bảo tính hợp pháp, tuân thủ nghiêm túc các quy định của pháp luật, không đi ngược với truyền thống, đạo đức xã hội. Việc nhận nuôi con nuôi trong mọi trường hợp cũng không được làm đảo lộn ngôi thứ trong gia đình, ảnh hưởng tới thứ bậc trong quan hệ huyết thống như ông bà không thể nhận cháu làm con nuôi, anh chị em không thể nhận nhau làm cha/mẹ/con nuôi. 1.2.3. Nguyên tắc thứ 3: Chỉ cho làm con nuôi người nước ngoài khi không thể tìm được gia đình thay thế ở trong nước Đây là một nguyên tắc mới được quy định trong Luật Nuôi con nuôi. Nguyên tắc này vừa thể hiện sự thống nhất về tư tưởng tôn trọng quyền của trẻ em được sống trong môi trường gia đình gốc như đã nêu ở nguyên tắc thứ nhất, vừa thể hiện sự tôn trọng nguyên tắc chung của cộng đồng quốc tế: “mỗi nước cần ưu tiên tiến hành các biện pháp thích hợp để trẻ em có thể được chăm sóc trong gia đình gốc của mình”-Công ước Lahay năm 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác quốc tế trong lĩnh vực con nuôi. Chỉ sau khi đã nỗ lực tìm kiếm các gia đình nhận nuôi trong cộng đồng, trong địa bàn hay trên phạm vi toàn quốc mà không thể thành công thì mới tính đến việc cho trẻ em làm con nuôi người nước ngoài và phải đảm bảo rằng việc cho trẻ em làm con nuôi người nước ngoài là giải pháp cuối cùng vì lợi ích tốt nhất của trẻ em. Để thực hiện nguyên tắc này, Luật Nuôi con nuôi cũng đã quy định đầy đủ về trách nhiệm, trình tự thủ tục tìm mái ấm gia đình thay thế trong nước
  • 25. 21 cho trẻ em. Khi một trẻ em bị bỏ rơi, mồ côi, việc tiếp tục nuôi dưỡng trẻ cần ưu tiên dành cho những người cùng sống trong cộng đồng, sau đó mở rộng đến phạm vi tỉnh/thành và cuối cùng là tìm mái ấm gia đình người Việt Nam nhận nuôi. Như vậy, yếu tố văn hóa, dân tộc, truyền thống, tập quán đã được đặt thành những tiêu chí ưu tiên hàng đầu khi tìm kiếm gia đình nuôi dưỡng thay thế đối với những trẻ em Việt Nam không được chăm sóc trong gia đình gốc của mình. 1.3. Điều kiện đối với ngƣời nhận con nuôi và ngƣời đƣợc cho làm con nuôi So với các quy định của pháp luật trước đây, cụ thể là với các quy định của Nghị định số 68/2002/NĐ-CP thì điều kiện đối với người nhận con nuôi và điều kiện để trẻ em Việt Nam được giải quyết làm con nuôi người nước ngoài có nhiều điểm mới và chặt chẽ hơn. Cụ thể là: 1.3.1. Điều kiện đối với người nhận con nuôi có yếu tố nước ngoài Điều 29 Luật Nuôi con nuôi đã quy định rõ điều kiện đối với người nhận con nuôi khi tham gia quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, trong đó dẫn chiếu đến Điều 14 của Luật Nuôi con nuôi về điều kiện của người nhận con nuôi khi tham gia quan hệ nuôi con nuôi trong nước. Nói một cách khái quát, để có thể tham gia quan hệ nuôi con nuôi nước ngoài, người xin nhận con nuôi phải thỏa mãn các điều kiện cơ bản như sau: a) Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. b) Hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên. c) Có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi. d) Có tư cách, đạo đức tốt. Ngoài những điều kiện tối thiểu nêu trên, tùy từng đối tượng, trường hợp cụ thể, người nhận con nuôi còn phải thỏa mãn các điều kiện như sau:
  • 26. 22 - Nếu là trường hợp cha dượng, mẹ kế nhận con riêng của vợ/chồng làm con nuôi; cô/cậu/dì/chú/bác ruột nhận cháu làm con nuôi thì không áp dụng điều kiện về khoảng cách độ tuổi (20 tuổi) và điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở như đã nêu tại điểm b, c ở trên. Việc quy định đủ các điều kiện về sức khỏe, về khoảng cách độ tuổi, về kinh tế, đạo đức đã thể hiện nhất quán quan điểm của Đảng, Nhà nước trong việc tạo lập một môi trường nuôi dưỡng thay thế ổn định, an toàn, hội tụ đầy đủ những điều kiện sống căn bản để có thể nuôi dưỡng, chăm sóc và phát triển cho những trẻ em có hoàn cảnh khó khăn không được sống trong gia đình gốc của mình. Tuy nhiên, thực hiện nhất quán quan điểm ưu tiên cho trẻ được phát triển trong môi trường gốc của mình, nếu trẻ em không còn cha mẹ nuôi dưỡng, quyền chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ sẽ được ưu tiên trước hết cho những người thân thích của trẻ như cha dượng, mẹ kế, cô cậu dì chú bác ruột. Trong môi trường cùng huyết thống hoặc có quan hệ hôn nhân thì khoảng cách về độ tuổi, điều kiện kinh tế, sức khỏe không phải là những yếu tố quyết định bởi suy cho cùng, những người thân thuộc của trẻ sẽ là những người mang lại tình yêu thương vô điều kiện, sẵn sàng hy sinh để chăm lo vun đắp cho tương lai của trẻ. Đó là môi trường an toàn, gần gũi nhất, ít xáo trộn nhất đối với trẻ khi bị tách khỏi cha mẹ ruột của mình. Quy định như vậy cũng thể hiện rõ truyền thống văn hóa dân tộc trong việc đề cao tình cảm gia đình với đạo lý “một giọt máu đào hơn ao nước lã”. - Trường hợp người nhận con nuôi là người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài thường trú ở nước ngoài, nếu muốn nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi thì bên cạnh việc đáp ứng các điều kiện nêu trên còn phải thỏa mãn các điều kiện của nước nơi người xin nhận con nuôi thường trú. Pháp luật Việt Nam đã kết hợp giữa luật nơi thường trú của người nhận con nuôi và luật Việt Nam để xác định điều kiện của người nhận con nuôi .
  • 27. 23 Vấn đề áp dụng pháp luâ ̣t để xác đi ̣ nh điều kiê ̣n đối với người xin nhâ ̣n con nuôi đã trải qua một quá trình hoàn thiê ̣n trên cơ sở các hiê ̣p đi ̣ nh hợp tác song phương trong lĩnh vực con nuôi quốc tế . Vì vậy, về căn bản , viê ̣c quy đi ̣ nh những điều kiê ̣n như hiê ̣n nay không ta ̣o ra sự xáo trộn nào so với các quy đi ̣ nh của pháp luâ ̣t trước đây đối với viê ̣c giải quyết nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài . Đặc biệt, Viê ̣t Nam vẫn bảo lưu quan điểm không giải quyết nuôi con nuôi đối với người đồng t ính thông qua quy định tại Điều 8 khoản 3 “một người chỉ được làm con nuôi của một người độc thân hoă ̣c của cả hai người là vợ chồng” . Theo quy đi ̣ nh của Luâ ̣t Hôn nhân và Gia đình , Điều 10 khoản 5 thì những người cùng giới tính là đối tượng bị cấm kết hôn . Từ các quy đi ̣ nh trên cho thấy , tuy không trực tiếp quy đi ̣ nh ta ̣i Luâ ̣t Nuôi con nuôi nhưng pháp luâ ̣t về giải quyết nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài (cũng như trong nước ) của Việt Nam không áp dụng cho người có quan hệ hôn nhân đồng giớ i. Để đảm bảo các điều kiện đối với người xin nhận con nuôi, pháp luật Việt Nam đã quy định rõ những loại giấy tờ mà người nhận con nuôi phải nộp tại cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam, trong đó phải có một số loại giấy tờ pháp lý quan trọng như Giấy phép cho nhận nuôi con nuôi Việt Nam do cơ quan có thẩm quyền của Nước nhận cấp, bản điều tra gia cảnh của người xin nhận con nuôi do cán bộ xã hội được ủy quyền thực hiện, phiếu lý lịch tư pháp, giấy xác nhận thu nhập, xác nhận tình trạng sức khỏe... Bằng cách quy định các loại giấy tờ cần thiết, cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam đã tạo được cơ sở pháp lý và cơ sở khoa học xã hội để đánh giá mức độ phù hợp của người xin nhận con nuôi đối với từng trẻ em Việt Nam cần tìm mái ấm gia đình thay thế. Đối với trẻ có nhu cầu đặc biệt, Việt Nam yêu cầu cơ quan có thẩm quyền của Nước nhận phải ghi rõ trong Quyết định cho nhận con nuôi về việc người xin nhận con nuôi đủ
  • 28. 24 điều kiện để nhận nuôi trẻ có nhu cầu đặc biệt, bên cạnh đó, điều kiện kinh tế và trình độ hiểu biết về các bệnh hiểm nghèo của người xin nhận con nuôi sẽ được chú trọng hơn khi giải quyết nuôi con nuôi. Thực tiễn giải quyết nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài trong những năm qua cho thấy, quy định của các nước về điều kiện đối với người xin nhận con nuôi rất khác nhau. Hầu hết các nước đều quy đi ̣ nh về độtuổi của người xin nhâ ̣n con nuôi : Pháp luật của Nga quy định khoảng cách giữa con nuôi và người nhâ ̣n nuôi l à 16 tuổi; Pháp quy định người xin nhận con nuôi phải từ 28 tuổi trở lên (nếu là vợ chồng thì áp dụng độ tuổi cho vợ hoặc chồng) và khoảng cách tối thiểu giữa người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi là 15 tuổi, nếu trẻ em là con riêng của vợ chồng thì khoảng cách này chỉ là 10 tuổi; Italy quy định khoảng cách tuổi giữa người nhận con nuôi và người được nhâ ̣n tối đa không quá 45 tuổi (không áp dụng nếu người xin nhận con nuôi đã có con nhỏ); Ailen quy định người xin nhận con nuôi phải từ đủ 21 tuổi trở lên; Đan Mạch quy định người xin nhận con nuôi phải từ đủ 25 tuổi (một số trường hợp đặc biệt thì có thể cho phép người từ đủ 18 tuổi nhận con nuôi). Với những nước tâ ̣p trung vào chính sách dân số , độtuổi của người xin nhâ ̣n con nuôi còn có những quy đi ̣ nh cứ ng như người xin nhâ ̣n con nuôi phải là người không có khả năng sinh con và từ 30 tuổi trở lên. Ngoài những quy định về độ tuổi, pháp luật của các nước cũng quy định rất khác nhau về điều kiện liên quan tới tình trạng hôn nhân của người xin con nuôi. Italy chỉ cho phép các cặp vợ chồng đã kết hôn từ đủ 3 năm hoặc đã chung sống ổn định như vợ chồng từ đủ 3 năm trở lên được phép xin nhận con nuôi. Pháp luật của Mỹ, Canađa đều cho phép những người độc thân xin nhận con nuôi nếu đáp ứng đầy đủ các yêu cầu pháp luật quy định. Riêng pháp luật Tây Ban Nha cho phép người đồng tính nhận nuôi con nuôi. - Trường hợp người xin nhận con nuôi là công dân Việt Nam xin nhận
  • 29. 25 trẻ em là công dân người nước ngoài thì bên cạnh việc thỏa mãn các điều kiện của pháp luật Việt Nam còn phải thỏa mãn các điều kiện của nước nơi trẻ em thường trú. Qua thực tiễn quản lý và giải quyết nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài kể từ khi thành lập Cục Con nuôi-Bộ Tư pháp đến nay cho thấy chưa có trường hợp công dân Việt Nam nhận con nuôi là trẻ em người nước ngoài. 1.3.2. Điều kiện đối với người được nhận làm con nuôi nước ngoài Theo quy định của Luật Nuôi con nuôi (Điều 8), người được nhận làm con nuôi phải thỏa mãn những điều kiện nhất định như sau: 1. Trẻ em dưới 16 tuổi. 2. Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây: a) Được cha dượng, mẹ kế nhận làm con nuôi; b) Được cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận làm con nuôi; Bên cạnh quy định tại Điều 8, điều kiện đối với người được nhận làm con nuôi quốc tế còn được quy định rải rác trong một số điều luật khác như: khoản 2 Điều 15 về trách nhiệm tìm gia đình thay thế cho trẻ em; khoản 1 Điều 18 về các loại giấy tờ của người được giới thiệu làm con nuôi trong nước; Điều 32 về hồ sơ của người được giới thiệu làm con nuôi nước ngoài của Luật Nuôi con nuôi, Điều 3 và Điều 14 Nghị định số 19/2011/NĐ-CP ngày 21 tháng 3 năm 2011 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Nuôi con nuôi. Cách quy định của các văn bản quy phạm pháp luật hiện nay về điều kiện của người được nhận làm con nuôi, xét từ kỹ thuật lập pháp, còn nhiều hạn chế bởi chưa có những quy định tập trung, cụ thể và đầy đủ tại một điều luật hay một văn bản luật về nội dung này. Mặc dù tên của điều luật là “Người được nhận làm con nuôi”-Điều 8- nhưng tại Điều này, Luật chỉ đưa
  • 30. 26 ra điều kiện duy nhất về độ tuổi. Rải rác ở các điều luật khác, điều kiện của người được giới thiệu làm con nuôi nước ngoài tiếp tục được thể hiện thông qua các loại giấy tờ trong hồ sơ của người được giới thiệu làm con nuôi nước ngoài. Từ những quy định hiện hành có thể hiểu, bên cạnh điều kiện về độ tuổi quy định tại Điều 8 Luật Nuôi con nuôi, người được coi là đủ điều kiện giới thiệu làm con nuôi nước ngoài phải thỏa mãn những điều kiện khác như: - Phải là trẻ em được nuôi dưỡng tại các cơ sở nuôi dưỡng thành lập hợp pháp vì các lý do khác nhau như: trẻ bị bỏ rơi, trẻ em mồ côi nhưng không có người nuôi dưỡng hoặc trẻ có cha mẹ đẻ, người thân thích nhưng không có khả năng nuôi dưỡng trẻ em và trẻ em đó phải được tiếp nhận vào cơ sở nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật. - Những trẻ em bình thường, khỏe mạnh ở cơ sở nuôi dưỡng nêu trên phải được đăng thông báo tìm mái ấm gia đình thay thế theo trình tự thủ tục của pháp luật nhưng không được người trong nước nhận. Chỉ khi hết thời hạn đăng thông báo mà không có người trong nước nhận nuôi thì những trẻ em này sẽ được đưa vào danh sách đủ điều kiện để giới thiệu làm con nuôi người nước ngoài. - Những trẻ em khuyết tật, trẻ em mắc bệnh hiểm nghèo, nhiễm HIV. - Trẻ em là con riêng của vợ/chồng trong độ tuổi dưới 18 tuổi. - Trẻ em là anh/chị/em ruột với trẻ em đã được nhận làm con nuôi người nước ngoài trong độ tuổi dưới 16 tuổi. - Trẻ em có quan hệ ruột thịt với người xin nhận con nuôi trong quan hệ cô/cậu/dì/chú/bác. So với quy định của pháp luật trước đây, Luật Nuôi con nuôi đã có những cải cách đáng kể trong việc quy định rõ điều kiện đối với người được nhận làm con nuôi. Với quy định người được nhận làm con nuôi là trẻ em
  • 31. 27 dưới 16 tuổi (trước đây, luật quy định dưới 15 tuổi), Luật Nuôi con nuôi đã tạo sự thống nhất với khái niệm trẻ em của Luật Chăm sóc bảo vệ trẻ em 2004. Bên cạnh đó, Luật đã quy định một số trường hợp ngoại lệ như trường hợp nhận con nuôi của những người họ hàng ruột thịt, của cha dượng hay mẹ kế thì điều kiện về độ tuổi có thể được mở rộng đến dưới 18 tuổi. Đây là một quy định tiên tiến của Luật nhằm bảo đảm nguyên tắc trẻ được ưu tiên nuôi dưỡng trong môi trường gia đình gốc của mình. Một điểm mới nữa của Luật hiện hành là trường hợp cô/cậu/dì/chú/bác ruột nhận cháu làm con nuôi thì không cần phải chứng minh cha mẹ đẻ của trẻ em không đủ điều kiện nuôi con như trước đây. Cùng với điều kiện về độ tuổi, Luật cũng đã quy định điều kiện mang tính nguyên tắc đối với người được nhận làm con nuôi đó là: một người chỉ có thể được nhận làm con nuôi của một người độc thân hoặc hai người là vợ chồng (khác giới tính). Như vậy, dù trẻ em có nhu cầu tìm mái ấm gia đình để chăm sóc, nuôi dưỡng nhưng mỗi trẻ em chỉ có thể được giới thiệu làm con nuôi của một gia đình, cho dù gia đình có cả cha lẫn mẹ hay gia đình chỉ có cha hoặc mẹ độc thân. Quy định này hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật quốc tế nhằm bảo đảm quyền, lợi ích của cả người nhận con nuôi và trẻ em được nhận nuôi thông qua hình thức cho nhận con nuôi trọn vẹn. Nhìn chung, pháp luật của các nước có quy định khá khác nhau về độ tuổi của trẻ em được nhận làm con nuôi. Pháp luật Malaysia và Singapore quy định người được nhận làm con nuôi dưới 21 tuổi. Luật của Trung Quốc quy định trẻ em dưới 14 tuổi, Pháp quy định trẻ em dưới 15 tuổi có thể được cho làm con nuôi. Luật Nuôi con nuôi cũng đã có những quy định chi tiết về hồ sơ của người được nhận làm con nuôi nhằm đảm bảo các nguyên tắc giải quyết nuôi con nuôi và các điều kiện đối với người được nhận làm con nuôi. So với các
  • 32. 28 quy định pháp luật trước đây, Luật Nuôi con nuôi đã bổ sung một số giấy tờ quan trọng khác như văn bản về đặc điểm, sở thích, thói quen đáng lưu ý của trẻ em; tài liệu chứng minh đã thực hiện việc tìm gia đình thay thế trong nước cho trẻ em nhưng không có người nhận. Những văn bản này sẽ giúp cho những cơ quan, cá nhân có thẩm quyền hiểu biết sâu sắc hơn về những đặc điểm cá nhân của trẻ, từ đó tìm kiếm những gia đình phù hợp cho trẻ, đảm bảo sự hòa nhập sau nhận nuôi con nuôi giữa cha mẹ và con. Đồng thời, việc yêu cầu hồ sơ trẻ em giới thiệu làm con nuôi nước ngoài phải có văn bản chứng minh việc đã tìm mái ấm gia đình trong nước nhưng không thành công sẽ đảm bảo thực thi nguyên tắc ưu tiên nuôi dưỡng trẻ em trong môi trường gia đình gốc của mình. 1.4. Trình tự, thủ tục giải quyết nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài 1.4.1. Những điểm mới so với quy định của pháp luật về nuôi con nuôi trước đây Trình tự giải quyết nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài được quy định tại Luật Nuôi con nuôi và Nghị định số 19/2011/NĐ-CP có nhiều điểm thay đổi căn bản so với quy định của pháp luật trước đây. Có thể tóm tắt những điểm mới căn bản như sau: - Tạo sự liên thông giữa việc giải quyết nuôi con nuôi trong nước với nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, đảm bảo nguyên tắc việc giải quyết cho trẻ em làm con nuôi người nước ngoài là biện pháp cuối cùng khi không thể tìm được mái ấm gia đình thay thế trong nước. Tính ưu việt này thể hiện ở chỗ, trong suốt quá trình giải quyết nuôi con nuôi không đích danh, ở bất kỳ công đoạn nào trước khi có Quyết định cho trẻ em Việt Nam làm con nuôi người nước ngoài, nếu có người trong nước nhận trẻ em làm con nuôi thì việc giải quyết nuôi con nuôi nước ngoài đối với trẻ em đó sẽ chấm dứt, ưu tiên giải quyết cho trẻ em làm con nuôi người trong nước.
  • 33. 29 - Đảm bảo việc ghép trẻ em được thực hiện khách quan, tập trung tại Sở Tư pháp các tỉnh/thành. Hoàn toàn chấm dứt việc can thiệp của các tổ chức, cán nhân liên quan đối với việc giới thiệu trẻ em làm con nuôi người nước ngoài, vì vậy hạn chế tối đa những tiêu cực liên quan tới quá trình này. - Ưu tiên tìm mái ấm gia đình cho những trẻ khuyết tật, trẻ mắc bệnh hiểm nghèo là đối tượng rất khó có thể tìm mái ấm gia đình thay thế, từ đó tạo điều kiện để trẻ em được sớm điều trị, chữa bệnh và hòa nhập với cuộc sống. - Đảm bảo việc giải quyết nuôi con nuôi phải vì lợi ích tốt nhất của trẻ thông qua quá trình tư vấn pháp lý và tâm lý xã hội đầy đủ đối với người có thẩm quyền ra quyết định cho trẻ em làm con nuôi người nước ngoài. Trước khi ra quyết định cho trẻ em làm con nuôi người nước ngoài, người có thẩm quyền như cha mẹ ruột của trẻ em, người giám hộ phải được giải thích, tư vấn đầy đủ về quyền, nghĩa vụ sau khi đưa ra quyết định. Pháp luật đồng thời còn quy định khoảng thời gian 30 ngày để những người liên quan có thể rút lại ý kiến về việc cho trẻ em. - Tách bạch giữa hỗ trợ nhân đạo và nuôi con nuôi quốc tế. Mọi khoản tiền liên quan đến việc giải quyết nuôi con nuôi quốc tế lần đâu tiên được pháp luật quy định cụ thể gồm lệ phí và chi phí giải quyết nuôi con nuôi, thu và phân bổ tập trung tại một cơ quan có thẩm quyền cấp trung ương. Các khoản đóng góp tự nguyện, cho tặng chỉ được thực hiện sau khi hoàn tất mọi thủ tục cho nhận con nuôi và không thể ảnh hưởng tới việc nuôi con nuôi. 1.4.2. Trình tự, thủ tục giải quyết Trình tự, thủ tục giải quyết việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài được áp dụng tùy thuộc vào hai yếu tố căn bản, bao gồm đối tượng người xin nhận con nuôi và đối tượng trẻ em được nhận làm con nuôi. Tổng hợp các quy định của Điều 28, 36, 40, 41, 42 Luật Nuôi con nuôi, các điều 11, 13, 14, 16, 17, 18, 19, 20, 21 của Nghị định số 19/2011/NĐ-CP ngày 21/3/2011 có
  • 34. 30 thể tách thành hai loại thủ tục xin nhận con nuôi đích danh và không đích danh. Cụ thể là: 1.4.2.1. Thủ tục đích danh trong trường hợp người xin nhận nuôi con nuôi có quan hệ họ hàng thân thích với trẻ em được giới thiệu làm con nuôi như là cha dượng/mẹ kế, cô/cậu/dì/chú/bác ruột của trẻ em; có con nuôi là anh/chị em ruột của trẻ được giới thiệu làm con nuôi: Người nhận con nuôi có thể nộp hồ sơ trực tiếp ở Cục Con nuôi. Hồ sơ phải được lập thành 02 bộ theo quy định tại Điều 31 Luật Nuôi con nuôi và 01 bộ hồ sơ của người được nhận làm con nuôi theo quy định tại Điều 13 Nghị định số 19/2011/NĐ-CP. Lưu ý, trong hồ sơ, đơn xin nhận con nuôi sẽ áp dụng mẫu xin đích danh (Mẫu TP/CN-2011/CNNNg.04.a ban hành kèm theo Thông tư số 12/2011/TT-BTP). Hồ sơ của người xin nhận con nuôi sẽ được đánh giá thẩm định tại Cục Con nuôi. Nếu được chấp thuận, hồ sơ sẽ được chuyển về Sở Tư pháp tại tỉnh/thành nơi trẻ em được giới thiệu làm con nuôi đang thường trú. Sở Tư pháp sẽ xác minh và hướng dẫn gia đình lập hồ sơ trẻ em, báo cáo với Ủy ban Nhân dân tỉnh/thành để ra Quyết định về việc cho trẻ em Việt Nam làm con nuôi người nước ngoài. Sau khi có Quyết định, Sở Tư pháp đăng ký việc nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật về đăng ký hộ tịch, tổ chức lễ bàn giao tại trụ sở Sở Tư pháp, gửi Quyết định và Biên bản bàn giao trẻ em cho Cục Con nuôi và Uỷ ban Nhân dân xã/phường nơi trẻ em thường trú để lưu (xem Bảng 1.1). 1.4.2.2 Thủ tục đích danh đối với trường hợp người được giới thiệu làm con nuôi là trẻ em khuyết tật, bệnh tật: căn cứ vào số lượng trẻ em có nhu cầu đặc biệt cần tìm mái ấm gia đình thay thế, các trung tâm bảo trợ xã hội, cơ sở nuôi dưỡng phải lập danh sách (gọi là Danh sách 2), báo cáo Sở Lao động- Thương binh và Xã hội trước khi báo cáo Sở Tư pháp. Sở Tư pháp xem xét, xác nhận và gửi hồ sơ kèm theo danh sách cho Cục Con nuôi để tìm gia đình thay thế. Về phía Cục Con nuôi, để tạo thế chủ động, Cục luôn có danh sách
  • 35. 31 những gia đình người nước ngoài sẵn sàng nhận trẻ có nhu cầu đặc biệt được phân theo loại bệnh, loại dị tật cụ thể thông qua sự hỗ trợ của các Văn phòng con nuôi nước ngoài tại Việt Nam. Sau khi nhận được danh sách 2, Cục Con nuôi nghiên cứu, lựa chọn sơ bộ và thông báo cho các tổ chức con nuôi nước ngoài (thông qua Văn phòng Con nuôi nước ngoài được cấp phép hoạt động tại Việt Nam) để giới thiệu cho những gia đình đã đăng ký nguyện vọng nhận nuôi trẻ có nhu cầu đặc biệt. Trên cơ sở thông tin phản hồi từ các tổ chức, Cục Con nuôi sẽ quyết định tiếp nhận chính thức hồ sơ xin nhận con nuôi trên nguyên tắc đảm bảo đáp ứng tốt nhất, phù hợp nhất với nhu cầu và tình trạng sức khỏe của trẻ em. Nếu hồ sơ được chấp thuận, Cục Con nuôi sẽ thông báo cho người xin nhận con nuôi và Cơ quan con nuôi trung ương Nước nhận về trẻ em được giới thiệu, trong đó sẽ nêu rõ tình trạng sức khỏe của trẻ để người nhận nuôi có sự chuẩn bị phù hợp. Sau khi người nhận con nuôi và Cơ quan con nuôi trung ương của Nước nhận có văn bản xác nhận việc nhận nuôi trẻ em, Cục Con nuôi sẽ gửi hồ sơ của người xin nhận con nuôi về Sở Tư pháp để Sở Tư pháp trình Uỷ ban Nhân dân tỉnh/thành ra Quyết định về việc cho trẻ em Việt Nam làm con nuôi người nước ngoài. Sau khi có Quyết định, Sở Tư pháp sẽ làm thủ tục đăng ký hộ tịch, tổ chức bàn giao trẻ em, gửi Quyết định và Biên bản bàn giao cho Cục Con nuôi để cấp Giấy chứng nhận nuôi con nuôi. Quyết định đồng thời được gửi cho Bộ Ngoại giao để thông báo cho Cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam tại Nước nhận để thực hiện các biện pháp bảo hộ trẻ em trong trường hợp cần thiết (xem Bảng 1.2). 1.4.2.3. Thủ tục đích danh đối với người nước ngoài sống và làm việc tại Việt Nam từ 1 năm trở lên. Trước hết, người nhận con nuôi có trách nhiệm chủ động xác định trẻ em đủ điều kiện cho làm con nuôi người nước ngoài, thu thập những giấy tờ liên quan tới nhân thân của trẻ em và phải được người có thẩm quyền cấp giấy đồng ý cho trẻ em đó làm con nuôi. Người nhận con
  • 36. 32 nuôi sẽ nộp hồ sơ xin nhận đích danh trẻ em và những giấy tờ ban đầu tại Cục Con nuôi. Sau khi thẩm định, nếu hồ sơ được chấp thuận, Cục Con nuôi sẽ gửi hồ sơ của người xin nhận con nuôi về Sở Tư pháp tỉnh/thành, nơi trẻ em đang thường trú để lập hồ sơ trẻ em và trình Uỷ ban Nhân dân tỉnh/thành ra Quyết định về việc cho trẻ em Việt Nam làm con nuôi người nước ngoài và thực hiện các thủ tục tương tự như trường hợp nhận con riêng, cháu ruột. Không thể phủ nhận thực tế là trước những thay đổi khá căn bản của pháp luật, nhiều người nước ngoài đã tìm cách vào Việt Nam làm việc với mục đích chính là để xin nhận con nuôi dưới hình thức xin đích danh này. Tuy nhiên, để đảm bảo tính nhân đạo và tuân thủ nghiêm quy định của pháp luật, cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh vực này cần khẩn trương có hướng dẫn hoặc sửa đổi, bổ sung hợp lý để bảo vệ quyền, lợi ích của đương sự và tính minh bạch về thủ tục hành chính. 1.4.2.4. Thủ tục xin không đích danh: Đây là loại hình chủ yếu, chiếm tỷ lệ lớn trong các trường hợp giải quyết nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài trong những năm qua. Theo quy định của Luật Nuôi con nuôi, quy trình thủ tục giải quyết nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài có sự kế thừa và liên thông với việc giải quyết nuôi con nuôi trong nước. Chỉ sau khi đã áp dụng mọi biện pháp tìm mái ấm gia đình thay thế trong nước nhưng không thành, những trẻ em có nhu cầu tìm mái ấm gia đình thay thế mới được xác nhận là đủ điều kiện để giới thiệu làm con nuôi người nước ngoài (Danh sách 1). Danh sách những trẻ em này do Cục Con nuôi quản lý và thường xuyên được cập nhật theo quy định của pháp luật. Định kỳ hàng tháng, hàng quý hoặc 6 tháng, căn cứ vào danh sách 1, Cục Con nuôi sẽ ấn định số hồ sơ xin nhận nuôi con nuôi trong mối tương quan hợp lý với số lượng trẻ em hiện có. Sau khi tiếp nhận và thẩm định, hồ
  • 37. 33 sơ của người xin nhận con nuôi sẽ được chuyển về các Sở Tư pháp, nơi đang có trẻ em đủ điều kiện giới thiệu làm con nuôi nước ngoài. Sau khi nhận hồ sơ của người xin nhận con nuôi, Sở Tư pháp chủ trì nghiên cứu, nếu cần thì có thể xin ý kiến tư vấn của các chuyên gia, các ngành hữu quan tham gia quá giới thiệu trẻ em-sau đây có thể gọi là quá trình ghép trẻ. Kết quả ghép trẻ sẽ được báo cáo Ủy ban Nhân dân cấp tỉnh. Nếu Ủy ban Nhân dân cấp tỉnh đồng ý với kết quả ghép trẻ thì thông báo cho Sở Tư pháp để làm thủ tục chuyển hồ sơ trẻ em và gửi cho Bộ Tư pháp, nếu không đồng ý thì trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do để Sở Tư pháp thực hiện việc giới thiệu lại. Sau 3 tháng kể từ ngày Ủy ban Nhân dân tỉnh không đồng ý mà Sở Tư pháp cũng không ghép trẻ thành công thì Sở Tư pháp chuyển trả hồ sơ của người xin nhận con nuôi cho Cục Con nuôi kèm theo văn bản nêu rõ lý do. Cục Con nuôi kiểm tra kết quả ghép trẻ và thông báo cho người nhận con nuôi và cơ quan có thẩm quyền của nước nơi người nhận con nuôi thường trú. Sau khi nhận được văn bản đồng ý của người nhận con nuôi và xác nhận trẻ em sẽ được nhập cảnh và thường trú tại nước nhận, Bộ Tư pháp sẽ thông báo cho Sở Tư pháp để trình Ủy ban Nhân dân tỉnh ra Quyết định cho trẻ em làm con nuôi người nước ngoài. Sau khi có Quyết định, Sở Tư pháp phải tổ chức việc bàn giao trẻ em, đăng ký việc nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật và gửi Quyết định, Biên bản bàn giao cho Bộ Tư pháp lưu (gửi đến Cục Con nuôi), đồng thời thông báo cho cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài về việc trẻ em được nhận làm con nuôi để thực hiện các biện pháp bảo vệ khi cần thiết. Bộ Tư pháp sẽ cấp Giấy chứng nhận việc nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật và đến thời điểm này, quy trình giải quyết việc nuôi con nuôi đối với trẻ em danh sách 1 đã hoàn tất (xem Bảng 1.3). 1.4.2.5. Thủ tục giải quyết nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở khu vực biên giới và đối với người nước ngoài thường trú tại Việt Nam. Việc giải
  • 38. 34 quyết nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở khu vực biên giới hay đối với người nước ngoài thường trú tại Việt Nam có đặc thù riêng xét từ góc độ văn hóa, tập quán, thói quen, trình độ hiểu biết của người dân (thường là dân tộc ít người) ở khu vực biên giới. Chính vì vậy, Luật Nuôi con nuôi cũng như Nghị định số 19/2011/NĐ-CP có những quy định riêng tách biệt so với thủ tục, trình tự giải quyết nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài nói chung. Việc giải quyết nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở khu vực biên giới và đối với người nước ngoài thường trú tại Việt Nam được quy định tương tự như thủ tục giải quyết nuôi con nuôi trong nước, tuy nhiên, thẩm quyền giải quyết có sự khác biệt. Đó là: đối với việc giải quyết nuôi con nuôi ở khu vực biên giới do Ủy ban Nhân dân cấp xã thực hiện; đối với người nước ngoài thường trú tại Việt Nam do Sở Tư pháp thực hiện. Nhìn chung, nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở khu vực biên giới hay đối với người nước ngoài thường trú tại Việt Nam chiếm tỷ lệ rất nhỏ so với tổng số. 1.5. Cơ quan quản lý nhà nƣớc về nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài Theo quy định tại Điều 44 Luật Nuôi con nuôi, cơ quan quản lý nhà nước về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài hiện nay là Bộ Tư pháp, trong đó Cục Con nuôi là cơ quan giúp việc cho Bộ trong việc thực hiện các nhiệm vụ quản lý nhà nước và trực tiếp tham gia vào quá trình giải quyết nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Sau khi tham gia Công ước Lahay, Bộ Tư pháp được Chính phủ chỉ định là Cơ quan con nuôi trung ương của Việt Nam kể từ ngày 8/9/2011. Cục Con nuôi Bộ Tư pháp được giao vai trò cơ quan thường trực của Cơ quan con nuôi trung ương Việt Nam trong việc thực hiện các nghĩa vụ thành viên của Công ước Lahay. Cùng với quy định về thẩm quyền quản lý nhà nước về nuôi con nuôi, Luật Nuôi con nuôi cũng quy định rõ thẩm quyền đăng ký việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài như sau:
  • 39. 35 - Thẩm quyền đăng ký việc nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với nhau đang tạm trú ở nước ngoài thuộc về Cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài đó. Trường hợp cả hai bên tham gia quan hệ nuôi con nuôi tạm trú ở nước không có cơ quan đại diện Việt Nam thì họ có thể nộp đơn xin đăng ký việc nuôi con nuôi tại Cơ quan đại diện nào thuận tiện nhất. - Thẩm quyền đăng ký việc nuôi con nuôi giữa một bên là người nước ngoài thường trú ở nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài với một bên là trẻ em Việt Nam thuộc về Ủy ban Nhân dân tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương nơi thường trú của người được giới thiệu làm con nuôi. - Thẩm quyền đăng ký việc nuôi con nuôi giữa một bên là người nước ngoài thường trú tại Việt Nam và một bên là trẻ em Việt Nam thuộc về Ủy ban Nhân dân cấp tỉnh/thành nơi trẻ em thường trú. - Thẩm quyền giải quyết nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở khu vực biên giới thuộc về Ủy ban Nhân dân cấp xã. Về cơ bản, thẩm quyền quản lý nhà nước về nuôi con nuôi và thẩm quyền giải quyết nuôi con nuôi không phải là những vấn đề vướng mắc trong suốt thời gian qua. Bởi vậy, các quy định về thẩm quyền giải quyết và thẩm quyền quản lý nhà nước đối với việc giải quyết nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài không có nhiều thay đổi so với các quy định pháp luật trước đây. 1.6. Hệ quả pháp lý của nuôi con nuôi quốc tế Hê ̣quả pháp lý của viê ̣c nuôi con nuôi được pháp luâ ̣t quy đi ̣ nh với mục đích đảm bảo sự hòa nhập tốt nhất giữa con nuôi và cha mẹ nuôi sau khi hoàn tất các thủ tục pháp lý, từ đó bảo vê ̣các quyền , nghĩa vụ giữa cha mẹ và con cũng như các bên liên quan trong gia đình . Trước khi Luật Nuôi con nuôi được ban hành, hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi được thực hiện theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình
  • 40. 36 năm 2000. Điều 74 Luật Hôn nhân và Gia đình đã quy định “giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có các quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con theo quy định tại Luật này, kể từ thời điểm đăng ký việc nhận con nuôi…”. Với quy đi ̣ nh này, mối quan hê ̣ pháp lý giữa con nuôi và cha me ̣đẻ , giữa con nuôi với gia đình cha me ̣nuôi chưa được đề câ ̣p một cách cụ thể. Chính vì vậy , để khắc phục những hạn chế này , Luâ ̣t Nuôi con nuôi 2010 đã quy đi ̣ nh về hê ̣quả pháp lý của việc nuôi con nuôi có y ếu tố nước ngoài như sau (Điều 24): “Kể từ ngày giao nhâ ̣n con nuôi , giữa cha me ̣nuôi và con nuôi có đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con ; giữa con nuôi và các thành viên khác của gia đình cha me ̣nuôi cũng có các quyề n, nghĩa vụ đối với nhau theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình , pháp luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan . Trừ trường hợp giữa cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi có thỏa thuận khác, kể từ ngày giao nhận con nuôi, cha mẹ đẻ không còn quyền, nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng, cấp dưỡng, đại diện theo pháp luật, bồi thường thiệt hại, quản lý, định đoạt tài sản riêng (nếu có) của con đã cho đi làm con nuôi”. Bên cạnh đó, để đảm bảo sự hòa nhập toàn diện của trẻ em trong gia đình cha mẹ nuôi, pháp luật còn cho phép thay đổi họ, tên của con nuôi theo họ, tên của cha mẹ nuôi. Nếu trẻ em được nhận làm con nuôi là trẻ bị bỏ rơi thì dân tộc của trẻ cũng có thể được thay đổi theo dân tộc của cha nuôi, mẹ nuôi. Vấn đề dân tộc là vấn đề mang tính bản sắc văn hóa, huyết thống, bởi vậy, việc thay đổi dân tộc của trẻ chỉ đặt ra trong trường hợp trẻ được nhận làm con nuôi là trẻ bị bỏ rơi, những trẻ em được nhận nuôi từ gia đình, trẻ rõ nguồn gốc thì không áp dụng quy định này. Việc quy định rõ hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi quốc tế là một bước tiến vượt bậc so với các quy định pháp luật trước đây. Các quy định này vừa thể hiện tính kế thừa, vừa đảm bảo sự hài hòa, tương thích với pháp luật
  • 41. 37 quốc tế, đảm bảo quyền và lợi ích tốt nhất cho trẻ em cả trên phương diện pháp lý, cả trên phương diện tinh thần. Tóm lại: Cùng với việc ban hành và thực thi Luật Nuôi con nuôi, việc giải quyết nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam đã có những thay đổi căn bản, đặc biệt là những thay đổi về quy trình, thủ tục so với các quy định của pháp luật trước đây. Những điểm mới này đã giúp cho hoạt động nuôi con nuôi quốc tế ở Việt Nam vừa đảm bảo tính công khai, minh bạch, thống nhất, chặt chẽ, vừa góp phần quan trọng vào việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của trẻ em được giải quyết làm con nuôi người nước ngoài.
  • 42. 38 Chương 2 NHỮNG TIẾN BỘ VÀ HẠN CHẾ CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM SO VỚI QUY ĐỊNH CỦA CÔNG ƢỚC LAHAY 2.1. Khái quát chung về Công ƣớc Lahay Công ước Lahay được Hội nghị Lahay về Tư pháp quốc tế thông qua tại khóa họp thứ 17 Hội nghị Lahay về tư pháp quốc tế vào ngày 29 tháng 5 năm 1993 và có hiệu lực từ ngày 01 tháng 5 năm 1995. Đây là điều ước quốc tế đa phương quan trọng, tạo nên những chuẩn mực để bảo đảm việc giải quyết nuôi con nuôi quốc tế được tiến hành vì lợi ích tốt nhất của trẻ em, đồng thời thiết lập cơ chế hợp tác giữa các quốc gia để ngăn ngừa tệ nạn bắt cóc, buôn bán trẻ em. Sau khi Fiji là quốc gia mới nhất ký tham gia công ước, tính đến hết tháng 8/2012, đã có 89 quốc gia là thành viên của Công ước [32]. Việt Nam coi Công ước Lahay và Công ước quốc tế về quyền trẻ em là cơ sở pháp lý quan trọng trong quá trình hợp tác với các nước vì mục tiêu bảo vệ tốt nhất lợi ích của trẻ em, trong đó có những trẻ em được giải quyết làm con nuôi người nước ngoài. Chính vì vậy, ngày 07 tháng 12 năm 2010, Việt Nam đã ký Công ước Lahay, ngày 18 tháng 7 năm 2011 Chủ tịch nước đã ký Quyết định số 1103/2011/QĐ-CTN phê chuẩn toàn văn Công ước và ngày 1 tháng 11 năm 2011, Việt Nam đã nộp lưu chiểu văn bản phê chuẩn Công ước. Theo quy định tại Điều 46 của Công ước Lahay, thì Công ước có hiệu lực đối với Việt Nam từ ngày 01 tháng 2 năm 2012. Nội dung Công ước gồm Lời nói đầu, 7 Chương và 48 Điều đề cập các vấn đề cơ bản như: phạm vi áp dụng Công ước; yêu cầu đối với nuôi con nuôi quốc tế; cơ quan nhà nước và các tổ chức có thẩm quyền trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế; yêu cầu về thủ tục cho nhận con nuôi; công nhận việc nuôi con nuôi và hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi.
  • 43. 39 Công ước không đặt riêng một điều khoản nào để nói về nguyên tắc giải quyết nuôi con nuôi quốc tế, tuy nhiên, những nguyên tắc này được phản ánh xuyên suốt trong toàn bộ nội dung Công ước, từ phạm vi áp dụng, yêu cầu đối với nuôi con nuôi quốc tế, yêu cầu về thủ tục, các quy định chung… Những nguyên tắc chung của Công ước Lahay được áp dụng cho tất cả các tổ chức hoặc cá nhân tham gia hoạt động nuôi con nuôi quốc tế theo quy định của Công ước Lahay cho dù đó là các nước thành viên, cơ quan trung ương, cơ quan công quyền, tổ chức được cấp phép hay bất cứ cá nhân, tổ chức, người trung gian nào được cơ quan có thẩm quyền cho phép hoạt động trong lĩnh vực này. Điều đặc biệt là trong quá trình thực thi Công ước, các nguyên tắc này phải được tuân thủ một cách chặt chẽ và không tách biệt. Tức là mọi nguyên tắc đều có sự gắn kết và chỉ khi áp dụng các nguyên tắc cùng một lúc mới có thể đạt được các mục tiêu của Công ước là bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực con nuôi quốc tế. Có thể khái quát các nguyên tắc cơ bản của Công ước như sau [14]: a. Đảm bảo việc nuôi con nuôi được thực hiện vì lợi ích tốt nhất của trẻ em và tôn trọng các quyền cơ bản của trẻ. Có thể khẳng định rằng, tất cả các mục tiêu hay biện pháp bảo vệ mà Công ước đặt ra đều trực tiếp hướng đến việc bảo vệ lợi ích tốt nhất của trẻ. Ví dụ, Công ước đã đặt ra những nghĩa vụ hỗ trợ việc bảo vệ những lợi ích tốt nhất của trẻ em, trong đó bao gồm việc bảo đảm rằng trẻ em thực sự đủ điều kiện để cho làm con nuôi; xác định rõ những thỏa thuận quy định tại Điều 17 được đưa ra là để giải quyết được việc nuôi con nuôi; bảo vệ những thông tin về trẻ em và gia đình gốc của trẻ; chỉ ghép trẻ với gia đình thực sự có khả năng đáp ứng đúng nhu cầu của trẻ. Ngoài những nguyên tắc bảo vệ chung này, hoàn cảnh của trẻ phải được xem xét kỹ trong từng trường hợp cụ thể.
  • 44. 40 Có hai nguyên tắc bổ trợ quan trọng cho nguyên tắc tổng quát đó là lợi ích tốt nhất của trẻ em phải được xem xét đầu tiên: nguyên tắc nuôi dưỡng (Điều 4) và nguyên tắc không phân biệt đối xử (Điều 26). Áp dụng nguyên tắc không phân biệt đối xử sẽ bảo vệ những lợi ích tốt nhất của trẻ bằng cách đảm bảo rằng ở Nước nhận trẻ em sẽ có đầy đủ các quyền và được bảo vệ như trẻ em được nhận nuôi trong nước. Trong thực tế, trẻ em làm con nuôi quốc tế nên có tất cả các quyền và phải được bảo vệ như bất kỳ trẻ em nào là công dân của Nước nhận. b. Ưu tiên việc nuôi dưỡng trẻ em trong môi trường gia đình gốc, ổn định và lâu dài. Khi một trẻ em, vì nhiều lý do khác nhau mà không được cha mẹ đẻ nuôi dưỡng thì việc chăm sóc trẻ em trong gia đình ruột thịt như cô, cậu, dì, chú, bác phải được ưu tiên trước; gia đình nuôi dưỡng lâu dài phải được ưu tiên hơn gia đình chỉ nhận nuôi có thời hạn; con nuôi trong nước hoặc hình thức chăm sóc tại gia đình phải được ưu tiên hơn con nuôi quốc tế. Việc thực hiện nguyên tắc này sẽ bảo vệ lợi ích tốt nhất của trẻ em bằng cách chủ động giữ cho trẻ em được nuôi dưỡng trong môi trường gia đình có chung nguồn gốc huyết thống, văn hóa, tập quán, từ đó giúp trẻ dễ dàng hình thành nhân cách và phát triển hài hòa nhất, sau đó phải ưu tiên xem xét việc nuôi dưỡng trẻ bởi các gia đình trong nước trước khi trẻ em được giới thiệu làm con nuôi nước ngoài. Ở những quốc gia có nền kinh tế phát triển, mô hình nuôi dưỡng tập trung đối với trẻ em như nuôi dưỡng tại các cơ sở bảo trợ xã hội đã và đang dần được xóa bỏ, thay vào đó là mô hình chăm sóc của gia đình với quy mô từ 3-5 trẻ/nhóm. Trong đó, mỗi nhóm trẻ sẽ do cả nữ và nam nhân viên chăm sóc để dần hình thành trong trẻ ý thức về vai trò của người cha, người mẹ trong gia đình. Các cán bộ chăm sóc trẻ em phải là những nhân viên mẫn cán, được