SlideShare a Scribd company logo
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
BÙI THỊ THANH LÊ
c¸c ®iÒu kiÖn nu«i con nu«i
theo luËt nu«i con nu«i n¨m 2010
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
BÙI THỊ THANH LÊ
c¸c ®iÒu kiÖn nu«i con nu«i
theo luËt nu«i con nu«i n¨m 2010
Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự
Mã số: 60 38 01 03
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN PHƢƠNG LAN
HÀ NỘI - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Bùi Thị Thanh Lê
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục biểu đồ
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NUÔI CON NUÔI VÀ
ĐIỀU KIỆN NUÔI CON NUÔI........................................................ 6
1.1. Khái niệm nuôi con nuôi và ý nghĩa của việc nuôi con nuôi .......... 6
1.1.1. Khái niệm nuôi con nuôi...................................................................... 6
1.1.2. Ý nghĩa của việc nuôi con nuôi............................................................ 9
1.2. Khái niệm về điều kiện nuôi con nuôi ............................................11
1.3. Các yếu tố ảnh hƣởng đến việc quy định điều kiện nuôi con nuôi ...12
1.4. Sự cần thiết quy định điều kiện nuôi con nuôi ..............................15
Chƣơng 2: CÁC ĐIỀU KIỆN ĐỂ VIỆC NUÔI CON NUÔI CÓ GIÁ
TRỊ PHÁP LÝ THEO LUẬT NUÔI CON NUÔI NĂM 2010.....19
2.1. Điều kiện đối với ngƣời đƣợc nhận làm con nuôi .........................19
2.2. Điều kiện đối với ngƣời nhận nuôi con nuôi..................................24
2.3. Điều kiện về ý chí của các bên chủ thể...........................................37
2.3.1. Sự thể hiện ý chí của người nhận nuôi con nuôi................................37
2.3.2. Sự thể hiện ý chí của cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ của người
được cho làm con nuôi .......................................................................38
2.3.3. Sự thể hiện ý chí của người được nhận làm con nuôi........................42
2.3.4. Sự thể hiện ý chí của Nhà nước .........................................................42
2.4. Đăng ký việc nuôi con nuôi..............................................................43
2.4.1. Đăng ký việc nuôi con nuôi trong nước.............................................44
2.4.2. Đăng ký việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.............................49
2.4.3. Vấn đề nuôi con nuôi thực tế và đăng ký nuôi con nuôi thực tế........59
Chƣơng 3: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CÁC ĐIỀU KIỆN NUÔI
CON NUÔI VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT VỀ VẤN ĐỀ NÀY ....................................................64
3.1. Thực trạng thực hiện pháp luật về điều kiện nuôi con nuôi........64
3.2. Thực tiễn thực hiện vấn đề đăng ký nuôi con nuôi thực tế..........71
3.3. Một số vấn đề còn tồn tại trong việc áp dụng điều kiện nuôi
con nuôi.............................................................................................76
3.3.1. Những khó khăn, vướng mắc.............................................................76
3.3.2. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trên....................................82
3.4. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về điều kiện nuôi
con nuôi.............................................................................................83
3.4.1. Kiến nghị hoàn thiện thể chế pháp luật về điều kiện nuôi con nuôi .........83
3.4.2. Giải pháp về tổ chức, thực hiện..........................................................85
KẾT LUẬN....................................................................................................87
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................89
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Công ước LaHay 1993: Công ước LaHay về bảo vệ trẻ em và hợp
tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế
Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo
dục trẻ em:
Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
năm 2004
Luật HN&GĐ năm 2000: Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000
Luật Nuôi con nuôi: Luật Nuôi con nuôi năm 2010
Nghị định 158/2005/NĐ-CP: Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày
27/12/2005 của Chính phủ về đăng ký và
quản lý hộ tịch
Nghị định 19/2011/NĐ-CP: Nghị định số 19/2011/NĐ-CP ngày
21/3/2011 của Chính phủ quy định chi tiết thi
hành một số điều của Luật Nuôi con nuôi
Nghị định 68/2002/NĐ-CP: Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày
10/7/2002 của Chính phủ về việc quy định
chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn
nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và
gia đình có yếu tố nước ngoài
Nghị định 69/2006/NĐ-CP: Nghị định số 69/2006/NĐ-CP ngày 21/7/2006
của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một
số điều của Nghị định số 68/2002/NĐ-CP
ngày 10 tháng 7 năm 2002 của Chính phủ quy
định chi tiết thi hành một số điều của Luật
Hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và
gia đình có yếu tố nước ngoài
Sở LĐTBXH: Sở Lao động thương binh xã hội
UBND: Ủy ban nhân dân
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Số hiệu biểu đồ Tên biểu đồ Trang
Biểu đồ 3.1: So sánh số lượng trẻ em được cho làm con nuôi
trong nước và số lượng trẻ em được cho làm con
nuôi ở nước ngoài 64
Biểu đồ 3.2: Thể hiện kết quả đăng ký nuôi con nuôi thực tế 72
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trẻ em là một nhóm xã hội non nớt, dễ bị tổn thương nhất, được toàn
thể cộng đồng quốc tế quan tâm và bảo vệ. Một trong những quyền cơ bản
của trẻ em được pháp luật quy định, bảo vệ là quyền được sống, được chăm
sóc, nuôi dưỡng trong môi trường gia đình. Tuy nhiên không phải tất cả trẻ
em sinh ra đều có cha mẹ và đều may mắn được sống trong môi trường gia
đình. Trong xã hội còn nhiều trẻ em bị bỏ rơi, mồ côi, khuyết tật, sống trong
các gia đình nghèo không có điều kiện nuôi dưỡng, cần một mái ấm gia đình
thay thế. Một trong những biện pháp bảo đảm cho trẻ em một gia đình thay
thế là cho trẻ làm con nuôi. Cho trẻ em làm con nuôi được xem là một giải
pháp bảo vệ trẻ em, không để trẻ em phải sống lang thang, thiếu điều kiện
phát triển. Theo báo cáo của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, hiện nay
cả nước có khoảng 1,5 triệu trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt cần được chăm sóc,
giúp đỡ bằng nhiều biện pháp khác nhau trong đó có việc tìm gia đình thay
thế cho trẻ em ở trong nước và ở nước ngoài. Sự ra đời của Luật Nuôi con
nuôi năm 2010 nói chung và việc quy định các điều kiện nuôi con nuôi nói
riêng đã tạo điều kiện cho các cá nhân, gia đình có nhu cầu muốn nhận nuôi
con nuôi, đồng thời cũng tạo cho các em có hoàn cảnh đặc biệt được sống
trong gia đình giống như môi trường gia đình gốc của mình. Việc quy định
các điều kiện nuôi con nuôi là cần thiết để đảm bảo cho trẻ em được nhận
nuôi được sống trong môi trường gia đình an toàn, lành mạnh, được yêu
thương chăm sóc. Đây cũng chính là một biện pháp nhằm ngăn ngừa các hành
vi lợi dụng việc cho – nhận con nuôi vào mục đích khác như: hành vi trục lợi
từ việc nuôi con nuôi, buôn bán trẻ em…
Tuy nhiên, việc hiểu và áp dụng các điều kiện nuôi con nuôi vào thực tế
2
còn gặp những vướng mắc, bất cập như: việc xác nhận các điều kiện nuôi con
nuôi, lập hồ sơ đăng ký nuôi con nuôi, khó khăn trong việc theo dõi và quản
lý báo cáo tình hình phát triển của con nuôi, vướng mắc phát sinh trong việc
đăng ký nuôi con nuôi hay giải quyết tình trạng nuôi con nuôi thực tế... Vì
vậy, để đảm bảo được mục đích và ý nghĩa của việc nuôi con nuôi thì các điều
kiện của người nhận nuôi và trẻ em được nhận làm con nuôi cần được quy
định chặt chẽ, được nghiên cứu và hoàn thiện để giải quyết những khó khăn,
vướng mắc phát sinh khi áp dụng các quy định này vào thực tế. Đây là lý do
tôi chọn đề tài: “Các điều kiện nuôi con nuôi theo Luật nuôi con nuôi năm
2010” là đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
2.1. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài là phân tích làm rõ những vấn đề lý luận
về điều kiện nuôi con nuôi, các điều kiện của việc nuôi con nuôi theo Luật nuôi
con nuôi năm 2010, thực tiễn áp dụng các điều kiện nuôi con nuôi trong giải
quyết việc cho nhận con nuôi, qua đó đánh giá mặt tích cực và hạn chế của các
quy định về điệu kiện nuôi con nuôi, đề xuất những giải pháp hoàn thiện quy
định pháp luật về các điều kiện nuôi con nuôi ở Việt Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích trên, cần thực hiện những nhiệm vụ nghiên cứu sau:
- Tìm hiểu những vấn đề lý luận cơ bản về nuôi con nuôi và các điều kiện
của việc nuôi con nuôi, sự cần thiết phải quy định điều kiện nuôi con nuôi.
- Phân tích các điều kiện nuôi con nuôi theo Luật nuôi con nuôi năm
2010, có sự so sánh với các quy định của pháp luật trước đây, đồng thời đánh
giá mặt tích cực và hạn chế của các quy định này.
- Tìm hiểu một số nét về thực trạng áp dụng các điều kiện nuôi con
nuôi tại Việt Nam hiện nay, trên cơ sở đó phát hiện những vướng mắc bất cập
và đề xuất kiến nghị hoàn thiện pháp luật.
3
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là một số vấn đề lý luận về nuôi con
nuôi và điều kiện nuôi con theo Luật nuôi con nuôi năm 2010, thực trạng áp
dụng điều kiện nuôi con nuôi trong thực tế.
Luận văn tập trung phân tích các điều kiện nuôi con nuôi theo quy định
trong Luật nuôi con nuôi năm 2010, bao gồm các điều kiện đối với các chủ
thể có liên quan trong việc cho nhận con nuôi (điều kiện nội dung) và thủ tục,
trình tự, thẩm quyền đăng ký việc nuôi con nuôi (điều kiện hình thức) để đảm
bảo cho việc nuôi con nuôi có giá trị pháp lý làm phát sinh quan hệ cha mẹ và
con giữa hai bên. Khi phân tích, có sự so sánh với Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2000 quy định về vấn đề này.
4. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề nuôi con nuôi đã nhận được sự quan tâm nghiên cứu của rất
nhiều nhà nghiên cứu luật học. Có rất nhiều những bài viết về vấn đề nuôi con
nuôi và bảo vệ quyền trẻ em trong lĩnh vực nuôi con nuôi như: bài viết "Về
chế định nuôi con nuôi trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000" của Ngô
Thị Hường, Tạp chí Luật học số 3 năm 2001; bài viết "Tăng cường bảo đảm
quyền trẻ em được sống trong gia đình", của Hà Đình Bốn, Dân chủ và pháp
luật 2009 (Số chuyên đề pháp luật về nuôi con nuôi); “Một số vấn đề về điều
kiện nuôi con nuôi” của TS. Nguyễn Phương Lan, Tạp chí Luật học số tháng
3 năm 2009... Đây là những bài viết nói lên sự cần thiết phải bảo vệ quyền trẻ
em, quyền được sống trong môi trường gia đình. Theo đó, việc hoàn thiện các
điều kiện nuôi con nuôi trong việc cho – nhận con nuôi là một yêu cầu cần
thiết để đảm bảo mục đích này.
Mặt khác còn có các công trình nghiên cứu chuyên sâu về lĩnh vực nuôi
con nuôi như: Luận án tiến sĩ về “Cơ sở lý luận và thực tiễn của chế định
pháp lý về nuôi con nuôi ở Việt Nam” của Nguyễn Phương Lan năm 2007 –
4
Trường Đại học Luật Hà Nội; Luận văn thạc sĩ “Nuôi con nuôi theo pháp luật
Việt Nam”, của Bùi Thị Hương năm 2011 – Khoa Luật – Đại học quốc gia Hà
Nội... Những luận văn, luận án trên đã tiếp tục nêu lên tầm quan trọng của
việc nghiên cứu và hoàn thiện các quy định về pháp luật nuôi con nuôi và các
điều kiện nuôi con nuôi đảm bảo cho trẻ em được nuôi dưỡng, chăm sóc trong
môi trường gia đình.
Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện pháp luật nuôi con nuôi nói
chung và các điều kiện nuôi con nuôi nói riêng vẫn thực sự cần thiết. Việc
nghiên cứu sẽ chỉ ra những mặt tích cực, mặt hạn chế khi áp dụng điều kiện
nuôi con nuôi vào thực tế, vừa đề ra được những giải pháp hoàn thiện pháp
luật về các điều kiện nuôi con nuôi góp phần bảo vệ tốt hơn quyền lợi trẻ em
được nhận làm con nuôi, cũng như mục đích, ý nghĩa của việc nuôi con nuôi.
5. Tính mới và những đóng góp của luận văn
- Luận văn là công trình nghiên cứu có tính chất chuyên sâu và toàn
diện về điều kiện nuôi con nuôi theo Luật Nuôi con nuôi năm 2010.
- Trên cơ sở nghiên cứu các điều kiện nuôi con nuôi, luận văn đã có sự
đánh giá, phân tích một số nét về thực trạng thực hiện pháp luật về điều kiện
nuôi con nuôi từ sau khi Luật Nuôi con nuôi có hiệu lực cho đến nay, chỉ ra
những mặt tích cực và hạn chế của các quy định này, đồng thời đóng góp
những kiến nghị hoàn thiện pháp luật về các điều kiện nuôi con nuôi.
6. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước về quyền trẻ em và bảo vệ
trẻ em trong lĩnh vực nuôi con nuôi.
Về phương pháp nghiên cứu: luận văn sử dụng các phương pháp như
phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, phương pháp phân tích, so
sánh; phương pháp tổng hợp, điều tra xã hội học.
5
7. Kết cấu cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn kết cấu gồm ba chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về nuôi con nuôi và điều kiện nuôi
con nuôi.
Chương 2: Các điều kiện để việc nuôi con nuôi có giá trị pháp lý theo
Luật nuôi con nuôi năm 2010.
Chương 3: Thực trạng thực hiện điều kiện nuôi con nuôi và một số
kiến nghị hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.
6
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NUÔI CON NUÔI
VÀ ĐIỀU KIỆN NUÔI CON NUÔI
1.1. Khái niệm nuôi con nuôi và ý nghĩa của việc nuôi con nuôi
1.1.1. Khái niệm nuôi con nuôi
Nuôi con nuôi là hiện tượng tồn tại trong mọi chế độ xã hội và xuất
hiện từ rất lâu trong lịch sử nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của con người,
thể hiện mối quan hệ gắn bó của con người với nhau.
Khái niệm nuôi con nuôi có thể được xem xét dưới hai góc độ: góc độ
xã hội và góc độ pháp lý.
* Dưới góc độ xã hội
Trong cuộc sống xã hội có rất nhiều trường hợp cá nhân hoặc gia đình
nhận một đứa trẻ làm con nuôi. Việc nhận con nuôi có thể xuất phát từ nhiều
lý do như: người nhận nuôi không có con; từ tình yêu thương với những đứa
trẻ mồ côi, không nơi nương tựa; từ phong tục tập quán của địa phương hoặc
để tích đức về sau cho con cái… Việc hình thành quan hệ cha mẹ con trong
trường hợp này một mặt đáp ứng nhu cầu về tình cảm giữa người nhận nuôi
và người được nhận nuôi, thể hiện sự yêu thương, muốn giúp đỡ cưu mang trẻ
em mồ côi, trẻ em bất hạnh; mặt khác nó còn thể hiện lòng nhân ái, sự hướng
thiện của con người với những giá trị đạo đức tốt đẹp. Mặc dù đã hình thành
quan hệ cha mẹ và con trên thực tế, các bên đều thực hiện đầy đủ các quyền
và nghĩa vụ cha mẹ và con đối với nhau nhưng do các bên không đăng ký tại
cơ quan nhà nước có thẩm quyền nên quan hệ nuôi con nuôi không được công
nhận có giá trị pháp lý.
Việc hình thành những quan hệ như trên đã tạo ra các hình thức nuôi
con nuôi như: nuôi con nuôi theo phong tục tập quán, nuôi con nuôi lập tự,
7
nuôi con nuôi trên danh nghĩa, nuôi con nuôi lấy phúc… Trên thực tế, quan
hệ nuôi con nuôi này mặc dù không có sự công nhận của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền nhưng vẫn tồn tại mối quan hệ cha mẹ con giữa người nhận nuôi
và người được nhận nuôi.
Như vậy, dưới góc độ xã hội thì nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ
cha mẹ và con trên thực tế giữa người nhận nuôi và người được nhận nuôi
nhằm đáp ứng những nhu cầu về tình cảm và lợi ích giữa người nhận nuôi và
người được nhận nuôi mà không có sự công nhận của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền.
* Dưới góc độ pháp lý
Dưới góc độ pháp lý, nuôi con nuôi có thể được hiểu: là sự kiện pháp
lý hoặc là quan hệ pháp luật. Trong phạm vi luận văn này, nuôi con nuôi
được hiểu dưới góc độ là sự kiện pháp lý. Việc nuôi con nuôi bao gồm tập
hợp các sự kiện pháp lý. Chỉ khi nào hội tụ đủ các sự kiện này quan hệ nuôi
con nuôi mới phát sinh hiệu lực pháp lý. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền
chỉ có thể công nhận việc nuôi con nuôi khi các bên đương sự thể hiện rõ
ràng ý chí của mình đồng thời đáp ứng đầy đủ các điều kiện cần thiết của
việc nuôi con nuôi. Nói cách khác, cơ quan nhà nước có thẩm quyền chỉ có
thể công nhận việc nuôi con nuôi khi các sự kiện cấu thành đã hội tụ đầy đủ
và được liên kết lại với nhau tại thời điểm phát sinh quan hệ pháp luật về
nuôi con nuôi. Vì vậy có thể nói dưới góc độ pháp lý nuôi con nuôi là sự
kiện pháp lý, là một cấu thành sự kiện.
Về lý luận, sự kiện pháp lý là những sự kiện xảy ra trong thực tế được
pháp luật quy định rõ các quyền và nghĩa vụ. Có nghĩa là những hoàn cảnh,
tình huống điều kiện của đời sống thực tế được pháp luật ghi nhận trong các
quy phạm pháp luật gắn liền với việc làm phát sinh, thay đổi và chấm dứt
quyền và nghĩa vụ của các chủ thể cụ thể khi chúng xảy ra.
8
Với tư cách là một sự kiện pháp lý, điều kiện nuôi con nuôi bao gồm
các điều kiện về nội dung và điều kiện về hình thức. Hai điều kiện này có mối
quan hệ với nhau và tạo ra hiệu lực pháp lý của quan hệ nuôi con nuôi. Vì
vậy, sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ pháp luật nuôi con nuôi khi nó đáp
ứng được các yếu tố sau: các điều kiện về chủ thể của việc nuôi con nuôi; sự
thể hiện ý chí của người nhận nuôi con nuôi, ý chí của cha mẹ đẻ hoặc người
giám hộ của trẻ em được cho làm con nuôi, ý chí của bản thân người con nuôi
(điều kiện nội dung) và ý chí của nhà nước công nhận việc xác lập quan hệ
nuôi con nuôi (điều kiện hình thức).
- Về chủ thể: người nhận nuôi, người được nhận nuôi, cha mẹ đẻ phải
đáp ứng được các điều kiện của việc nuôi con nuôi. Các điều kiện này được
pháp luật quy định và bắt buộc các chủ thể phải đáp ứng khi mong muốn xác
lập quan hệ nuôi con nuôi. Việc đáp ứng đầy đủ các điều kiện nuôi con nuôi
do pháp luật quy định chính là một điều kiện để các bên tham gia vào sự kiện
pháp lý phát sinh quan hệ nuôi con nuôi.
- Về sự thể hiện ý chí của các bên liên quan: các chủ thể ngoài việc đáp
ứng được các điều kiện của việc nuôi con nuôi thì cần phải thể hiện ý chí của
mình trong việc cho – nhận con nuôi.
+ Sự thể hiện ý chí của người nhận nuôi con nuôi. Người nhận nuôi con
nuôi phải thể hiện ý chí của mình về việc mong muốn nhận nuôi đứa trẻ và
thiết lập quan hệ cha mẹ và con với đứa trẻ đó.
+ Sự thể hiện ý chí của cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ của trẻ em được
cho làm con nuôi. Ý chí của những người này trong việc cho trẻ em làm con
nuôi phải tự nguyện, không có bất cứ sự tác động, dụ dỗ, ép buộc nào.
+ Sự thể hiện ý chí của bản thân người được nhận làm con nuôi. Pháp
luật quy định khi trẻ em đạt đến một độ tuổi nhất định (từ 9 tuổi trở lên), trẻ
em có quyền thể hiện ý chí độc lập, quyết định vấn đề có liên quan đến cuộc
9
sống của mình. Sự đồng ý làm con nuôi của trẻ trong trường hợp này là điều
kiện bắt buộc để việc nuôi con nuôi có giá trị pháp lý. Quy định này thể hiện
quyền cơ bản của trẻ em trong việc bày tỏ ý kiến của mình.
- Ý chí của nhà nước được thể hiện qua việc công nhận hay không
công nhận việc nuôi con nuôi thông qua thủ tục đăng ký việc nuôi con nuôi
hay từ chối việc đăng ký nuôi con nuôi. Việc nuôi con nuôi được công nhận
tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền làm phát sinh hiệu lực pháp lý của việc
nuôi con nuôi.
Như vậy, dưới góc độ là một sự kiện pháp lý, nuôi con nuôi được
hiểu là việc một người hoặc hai người là vợ chồng nhận nuôi một người
khác không do họ sinh ra, nhằm xác lập quan hệ cha mẹ và con giữa người
nhận nuôi và người được nhận nuôi trên cơ sở phù hợp với các quy định
của pháp luật.
1.1.2. Ý nghĩa của việc nuôi con nuôi
Việc ban hành Luật Nuôi con nuôi cũng như quy định mục đích của
việc nuôi con nuôi đã thể hiện truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tình yêu
thương, tinh thần trách nhiệm, mối quan hệ tương thân tương ái giúp đỡ lẫn
nhau giữa con người với con người. Đặc biệt trong hoàn cảnh đất nước còn
chịu những di chứng nặng nề của chiến tranh, điều kiện kinh tế - xã hội còn
khó khăn, mức thu nhập của người dân còn thấp, nhiều trẻ em có hoàn cảnh
đặc biệt cần có mái ấm gia đình, thì vấn đề nuôi con nuôi càng trở lên cấp
thiết trong đời sống xã hội, đảm bảo cho trẻ em được lớn lên trong môi
trường gia đình, trong bầu không khí hạnh phúc để trở thành người có ích
cho xã hội. Trong thời gian qua, có rất nhiều trẻ em bị bỏ rơi khi vừa mới
sinh ra, rất nhiều trẻ em bị dị tật bẩm sinh hoặc bị di chứng do ảnh hưởng
của chiến tranh để lại, trẻ em là con của các gia đình nghèo mà cha mẹ để
không có đủ điều kiện để chăm sóc con cái. Các em phải sớm lăn lộn với
10
đời, tự bươn chải làm đủ các nghề để kiếm sống như bán vé số, đánh giầy,
ăn xin... Với môi trường đó các em dễ bị các phần tử xấu dụ dỗ, không ít
những đứa trẻ đã kiếm sống bằng nghề móc túi, cướp giật, trộm cắp... và các
em sẽ trở thành gánh nặng của xã hội. Vì vậy, việc các em được nhận làm
con nuôi có ý nghĩa rất quan trọng không chỉ riêng với cuộc đời của các em
mà còn có ý nghĩa đối với toàn xã hội. Việc nuôi con nuôi không chỉ là biện
pháp tốt nhất, phù hợp và có lợi nhất đối với trẻ em mà còn là cách thực hiện
hợp pháp quyền làm cha mẹ của cá nhân.
Việc nhận nuôi con nuôi góp phần làm giảm gánh nặng của nhà nước
trước tình trạng trẻ em lang thang, không nơi nương tựa, không nguồn nuôi
dưỡng, hạn chế trẻ em có thể có hành vi vi phạm pháp luật hay mắc các tệ nạn
xã hội do thiếu sự quan tâm, giáo dục… Đây là cơ sở để đảm bảo sự ổn định,
phát triển của đất nước đồng thời cũng giảm đi gánh nặng đối với ngân sách
nhà nước vì không phải đưa các em vào cơ sở bảo trợ xã hội mà vẫn đảm bảo
được lợi ích tốt nhất cho trẻ em.
Mặt khác, việc nhận nuôi con nuôi đem lại cho đứa trẻ một gia đình, ở
đó đứa trẻ được hưởng sự yêu thương, chăm sóc, nuôi dưỡng như những đứa
trẻ khác. Chúng sẽ không bị mặc cảm về hoàn cảnh của mình, có điều kiện tốt
nhất để phát triển nhân cách, trí tuệ của bản thân. Đây cũng là một biện pháp
đảm bảo quyền cơ bản của trẻ em – quyền được sống trong môi trường gia
đình. Còn đối với người nhận nuôi, việc nuôi con nuôi đem lại cho họ một
đứa con phù hợp với nguyện vọng của họ. Đặc biệt đối với những cặp vợ
chồng vô sinh, việc nhận con nuôi giúp họ thực hiện quyền làm cha mẹ của
mình, họ được chăm lo, được thể hiện tình cảm của của những người làm cha
mẹ với đứa con.
Việc nuôi con nuôi sẽ đáp ứng một cách hài hòa lợi ích của cả hai bên
người nhận nuôi và người được nhận nuôi. Người nhận nuôi thỏa mãn được
11
nhu cầu tình cảm, tinh thần một cách đầy đủ, trọn vẹn của một người làm cha,
làm mẹ. Đối với trẻ em được nhận làm con nuôi là việc được chăm sóc, được
nuôi dưỡng được sống trong tình yêu thương trong một gia đình, nơi có vai
trò quan trọng đối với sự hình thành và phát triển nhân cách mỗi con người.
Nếu nhân cách của con người bao gồm hai mặt đức và tài, thì gia đình là nơi
nuôi dưỡng đạo đức và gieo mầm tài năng. Vì vậy việc nuôi con nuôi sẽ tạo
cho trẻ em được sống dưới mái ấm gia đình, góp phần vào việc xây dựng và
ươm mầm tài năng cho đất nước.
1.2. Khái niệm về điều kiện nuôi con nuôi
Pháp luật là sự thể hiện ý chí của nhà nước nhằm điều chỉnh những nhu
cầu của cá nhân phát sinh từ đời sống thực tế. Ở mỗi giai đoạn lịch sử khác
nhau sự điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi khác nhau. Khi chưa có nhà nước
và pháp luật thì việc nuôi con nuôi diễn ra tự nhiên, dựa vào nhu cầu tình cảm
của cá nhân mà không bị chi phối bởi các điều kiện nuôi con nuôi. Khi xã hội
hình thành giai cấp, xuất hiện nhà nước và pháp luật, lúc này việc nuôi con
nuôi được gắn với lợi ích của trẻ em, của gia đình và lợi ích của giai cấp
thống trị. Vì vậy, pháp luật sẽ quan tâm điều chỉnh bằng việc quy định các
điều kiện nuôi con nuôi để đảm bảo lợi ích của các bên liên quan và duy trì
trật tự công cộng của xã hội.
Mặt khác, việc nuôi con nuôi được xác lập trên cơ sở ý chí, tình cảm
của các bên mà không gắn với quan hệ tự nhiên thuần túy về mặt sinh học
huyết thống nên việc xác lập quan hệ nuôi con nuôi phải gắn liền với các
điều kiện cụ thể để tạo môi trường sống lành mạnh, an toàn cho trẻ. Các
điều kiện này được quy định bởi các quy phạm pháp luật mà người nhận
nuôi con nuôi và con nuôi phải đáp ứng. Các điều kiện này gắn với nhân
thân, hoàn cảnh...của các chủ thể để đảm bảo quan hệ nuôi con nuôi xác lập
phù hợp với ý chí, nguyện vọng của các bên. Nếu chủ thể của quan hệ nuôi
12
con nuôi không đáp ứng được các điều kiện đó thì quan hệ nuôi con nuôi
không có giá trị pháp lý.
Dưới góc độ pháp lý, điều kiện nuôi con nuôi là sự thể hiện ý chí của
nhà nước thông qua các quy phạm pháp luật quy định các điều kiện cần có
đối với các chủ thể có liên quan trong việc cho - nhận con nuôi phù hợp với
mục đích của việc nuôi con nuôi và trên cơ sở đó việc nuôi con nuôi được
công nhận là hợp pháp.
1.3. Các yếu tố ảnh hƣởng đến việc quy định điều kiện nuôi con nuôi
- Điều kiện kinh tế, xã hội trong một giai đoạn nhất định ảnh hưởng
trực tiếp đến việc quy định các điều kiện nuôi con nuôi. Tuy nuôi con nuôi là
một chế định có lịch sử lâu đời, nhưng bản chất của việc nuôi con nuôi đã có
những thay đổi lớn qua từng thời kì. Thời kỳ đầu, nuôi con nuôi chủ yếu là
biện pháp đảm bảo cho các cặp vợ chồng hiếm muộn không có con có người
nối dõi tông đường, thờ cúng tổ tiên. Việc nuôi con nuôi lúc đó vì lợi ích của
gia đình người nhận nuôi mà chưa xuất phát từ lợi ích của trẻ em được nhận
nuôi. Công ước của Liên Hợp Quốc về quyền của trẻ em năm 1989 ra đời đã
đánh dấu cuộc cách mạng tư tưởng về quyền trẻ em. Công ước khẳng định trẻ
em phải được coi là trung tâm bảo vệ đã góp phần làm thay đổi mục đích của
việc nuôi con nuôi từ chỗ “đem lại cho gia đình một trẻ em” đã chuyển thành
“đem lại cho trẻ em một gia đình”. Vì vậy, khung pháp luật về nuôi con nuôi
cũng như quy định về các điều kiện nuôi con nuôi được xây dựng và có ý
nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ quyền, lợi ích của trẻ em.
- Quy định điều kiện nuôi con nuôi xuất phát từ ý chí của Nhà nước
trong việc điều chỉnh quan hệ gia đình nói chung và quan hệ nuôi con nuôi
nói riêng. Việc nuôi con nuôi có ảnh hưởng sâu sắc không chỉ đối với các bên
chủ thể mà còn làm hình thành một gia đình mới – một cấu trúc cơ bản của xã
hội, nên nó ảnh hưởng tới sự ổn định và phát triển của một đất nước. Đặt ra
13
các điều kiện đối với các bên chủ thể trong việc xác lập quan hệ nuôi con nuôi
nhằm định hướng, tạo ra khung pháp lý cơ bản cho việc nuôi con nuôi, để
việc nuôi con nuôi được thực hiện với mục đích nhân đạo, bảo vệ các quyền
cơ bản của con người đặc biệt là của trẻ em, phù hợp với các chuẩn mực đạo
đức của xã hội và lợi ích chung của đất nước.
Mặt khác, đường lối chủ trương của Nhà nước có ảnh hưởng sâu sắc tới
mọi mặt của đời sống xã hội, trong đó có việc nuôi con nuôi, là cơ sở để quy
định các điều kiện nuôi con nuôi. Chính sách xã hội có thể tác động theo hai
hướng: thúc đẩy, khuyến khích việc nhận nuôi con nuôi hoặc hạn chế, kìm
hãm việc nhận nuôi con nuôi. Các biện pháp, chính sách có ảnh hưởng trực
tiếp tới việc nuôi con nuôi như: biện pháp hỗ trợ kinh tế, phúc lợi xã hội cho
người nhận con nuôi, kế hoạch dân số và kế hoạch hóa gia đình, khuyến khích
nhận các trẻ em mồ côi, khuyết tật, mắc bệnh hiểm nghèo làm con nuôi...Do
vậy, tùy theo đường lối chủ trương của nhà nước trong từng thời kỳ có tác
động tới việc nuôi con nuôi cũng như quy định các điều kiện nuôi con nuôi
đối với các chủ thể tham gia vào quan hệ này.
- Việc quy định điều kiện nuôi con nuôi bị chi phối bởi các nguyên tắc
điều chỉnh pháp luật đối với việc nuôi con nuôi, trong đó nguyên tắc đảm bảo
cho trẻ em được sống trong môi trường gia đình gốc là một nguyên tắc cơ bản
chi phối việc quy định các điều kiện nuôi con nuôi. Bởi nuôi con nuôi chỉ
thực sự cần thiết và vì lợi ích của trẻ được cho làm con nuôi khi trẻ em đó
không thể được nuôi dưỡng, chăm sóc trong gia đình ruột thịt của mình vì
những lý do nhất định. Chỉ khi đó việc cho – nhận trẻ em làm con nuôi mới
phù hợp với quyền của trẻ em được sống trong gia đình, phù hợp với nguyên
tắc: “Trẻ em không bị buộc cách ly khỏi cha mẹ trái với ý muốn của cha mẹ,
trừ trường hợp một sự cách ly như thế là cần thiết cho lợi ích tốt nhất của trẻ
em” [24, Điều 9]. Ngay cả trong trường hợp phải cách ly khỏi cha mẹ thì ý
14
muốn của trẻ em cũng phải được quan tâm trước tiên khi trẻ em có khả năng
thể hiện ý chí của mình. Vì vậy, việc đưa trẻ em ra khỏi gia đình ruột thịt của
mình để làm con nuôi người khác chỉ có thể xuất phát từ lợi ích của chính trẻ
em, không phải mọi trẻ em đều được cho làm con nuôi người khác. Trẻ em
chỉ được cho làm con nuôi khi không có sự chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục
của gia đình do bố mẹ đã chết, bị mất tích, không xác định được hoặc đều bị
mất năng lực hành vi dân sự hoặc khi cha mẹ đẻ của trẻ tuy còn sống nhưng
không thể có điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ. Lúc này cho trẻ em làm con
nuôi là giải pháp tốt nhất cho lợi ích của trẻ. Do đó, quy định về các điều kiện
của việc cho – nhận con nuôi phải xuất phát từ nguyên tắc cơ bản này.
- Phong tục tập quán, truyền thống văn hóa, đạo đức, lối sống cũng ảnh
hưởng đến việc quy định các điều kiện của việc nuôi con nuôi. Việc nuôi con
nuôi chịu ảnh hưởng sâu đậm của những truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta
như tương thân tương ái, lá lành đùm lá rách, cưu mang, đùm bọc những trẻ
em lang thang, cơ nhỡ, không nơi nương tựa. Tuy nhiên, với ảnh hưởng tiêu
cực của cơ chế thị trường, những nét truyền thống tốt đẹp của dân tộc đang bị
đe dọa nghiêm trọng. Những giá trị nhân văn và giá trị tinh thần có phần bị
xem nhẹ và coi thường, dẫn đến sự thay đổi trong hành vi xử sự của con
người theo xu hướng thực dụng, vụ lợi. Việc giữ gìn được những truyền thống
văn hóa có giá trị tốt đẹp của dân tộc như tính cộng đồng, lòng nhân ái...có
ảnh hưởng tích cực đến việc nuôi con nuôi.
Đạo đức, lối sống cũng ảnh hưởng không nhỏ đến tình trạng nuôi con
nuôi. Trong xã hội phong kiến, quan niệm về chuẩn mực đạo đức rất khắt khe.
Ngày nay sự hiểu biết của con người ngày càng mở rộng, chất lượng cuộc
sống được cải thiện và nâng cao, quan niệm sống, cách sống của con người có
nhiều thay đổi, trở lên phóng khoáng, tự do, cởi mở hơn đặc biệt là giới trẻ.
Sự trưởng thành về tình dục của nam nữ thanh niên sớm hơn, nhưng lại không
15
được giáo dục để có sự hiểu biết cần thiết về an toàn tình dục cũng như các
biện pháp phòng tránh thai và sức khỏe sinh sản. Do đó tình trạng trẻ em gái
chưa thành niên mang thai là một hiện tượng tương đối phổ biến và đáng lo
ngại. Những đứa trẻ được sinh ra bởi cha mẹ không có quan hệ hôn nhân,
không có điều kiện kinh tế, người mẹ không có hiểu biết và khả năng cần thiết
tối thiểu để nuôi dưỡng trẻ sơ sinh, hơn nữa người mẹ trẻ bị áp lực bởi những
định kiến xã hội nên dẫn đến việc người mẹ trẻ bỏ rơi con ngay sau khi sinh
tại cơ sở y tế, trên đường phố hoặc các trung tâm nuôi dưỡng trẻ... Những trẻ
em này là đối tượng có thể được cho làm con nuôi. Việc cho trẻ em làm con
nuôi trong những trường hợp này thường xảy ra do sự bồng bột thiếu suy
nghĩ, chín chắn. Do đó, việc quy định các điều kiện về sự thể hiện ý chí của
cha mẹ đẻ trong việc cho con đi làm con nuôi là cần thiết.
- Dựa trên các văn bản pháp luật quốc tế về quyền trẻ em, quy định các
điều kiện nuôi con nuôi cho phù hợp với pháp luật quốc tế về nuôi con nuôi
như: Công ước Lahay 1993 về bảo vệ quyền trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực
nuôi con nuôi quốc tế… Những văn bản này được coi là cơ sở pháp lý quan
trọng để quy định các điều kiện nuôi con nuôi theo hướng tiệm cận với pháp
luật nuôi con nuôi quốc tế.
1.4. Sự cần thiết quy định điều kiện nuôi con nuôi
Một trong những quyền cơ bản của trẻ em được pháp luật bảo vệ là
quyền được sống, được chăm sóc, nuôi dưỡng trong môi trường gia đình – nơi
có vai trò quan trọng đối với sự hình thành và phát triển nhân cách mỗi con
người. Nhưng không phải tất cả trẻ em sinh ra đều có cha mẹ và đều có may
mắn được sống trong môi trường gia đình. Vì vậy, việc tìm một gia đình thay
thế cho trẻ thiếu may mắn được xem là biện pháp đảm bảo tốt nhất cho trẻ.
Nó vừa thể hiện sự tôn trọng những quyền cơ bản của trẻ, vừa đảm bảo cho
trẻ được yêu thương, chăm sóc, nuôi dưỡng trong môi trường gia đình. Tuy
16
nhiên, mối quan hệ gia đình trong quan hệ nuôi con nuôi xác lập xuất phát từ
ý chí chủ quan của con người, không dựa trên quan hệ huyết thống tự nhiên
nên lợi ích của trẻ em được cho làm con nuôi có thể không được đảm bảo
hoặc việc nuôi con nuôi được xác nhằm những mục đích vụ lợi khác, làm biến
đổi bản chất, mục đích tốt đẹp của việc nuôi con nuôi. Để bảo vệ tốt các
quyền và lợi ích chính đáng của trẻ em được nhận làm con nuôi cần có các
quy định pháp luật điều chỉnh, trong đó việc quy định các điều kiện của việc
nuôi con nuôi là cần thiết bởi những lý do sau:
- Việc cho – nhận con nuôi là một quan hệ ý chí, xuất phát từ ý chí, tình
cảm của các bên chủ thể mà không phải là một quan hệ tự nhiên thuần túy về
mặt sinh học. Mục đích của việc nuôi con nuôi là bảo đảm quyền, lợi ích của
người con nuôi và người nhận nuôi, nhưng trên hết là lợi ích của trẻ em được
cho làm con nuôi. Về mặt xã hội, việc cho - nhận con nuôi có thể xuất phát từ
nhiều lý do khác nhau, bị chi phối bởi quan điểm của mỗi cá nhân về lợi ích,
đạo đức, niềm tin, giá trị xã hội cùng với tình cảm, hoàn cảnh cụ thể của họ.
Song về mặt pháp lý, việc cho – nhận con nuôi được xem xét trên cơ sở lợi
ích tốt nhất của con nuôi chưa thành niên. Vì vậy, việc quy định các điều kiện
của việc nuôi con nuôi là một yêu cầu khách quan và cần thiết để bảo vệ lợi
ích của người được nhận nuôi. Các điều kiện đối với các bên chủ thể càng
chặt chẽ, càng đảm bảo trẻ em được chăm sóc, nuôi dưỡng trong điều kiện tốt
nhất để mục đích nuôi con nuôi đạt được.
- Quy định các điều kiện nuôi con nuôi đặc biệt là quy định các điều
kiện của người nhận nuôi sẽ tạo ra một môi trường gia đình an toàn, lành
mạnh trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ. Việc đáp ứng đầy đủ các
điều kiện nuôi con nuôi của người nhận nuôi đảm bảo người nhận nuôi có đủ
tư cách đạo đức, hiểu biết, kinh tế và thật sự mong muốn được yêu thương,
chăm sóc trẻ. Người nhận nuôi sẽ ý thức được việc sẽ nhận nuôi một đứa trẻ
17
phù hợp với nguyện vọng của mình để có trách nhiệm trong việc giáo dục trẻ
và xây dựng tình cảm gắn bó chặt chẽ với trẻ trong quan hệ cha mẹ và con.
- Việc quy định các điều kiện đối với trẻ em được nhận làm con nuôi về
độ tuổi, hoàn cảnh gia đình...mới được cho làm con nuôi sẽ đảm bảo quyền
trẻ em được sống trong gia đình gốc ruột thịt của mình. Về nguyên tắc, trẻ em
phải được ưu tiên sống trong gia đình gốc ruột thịt của mình, không phải mọi
trẻ em đều được cho làm con nuôi. Trẻ em chỉ được cho làm con nuôi khi
không có sự chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục của gia đình do bố mẹ đã chết, bị
mất tích, không xác định được hoặc đều bị mất năng lực hành vi dân sự hoặc
khi cha mẹ đẻ của trẻ tuy còn sống nhưng không thể có điều kiện chăm sóc,
nuôi dưỡng trẻ. Trường hợp trẻ em đang được sống trong gia đình với bố mẹ
đẻ của mình, nhận được đầy đủ sự yêu thương, chăm sóc về vật chất lẫn tinh
thần thì vấn đề cho trẻ em đó làm con nuôi không cần đặt ra. Việc cho con
làm con nuôi, dù phù hợp với nguyện vọng của cha mẹ đẻ, vẫn phải xuất phát
từ lợi ích của con, chứ không phải lợi ích của cha mẹ đẻ. Quy định điều kiện
đối với trẻ được nhận làm con nuôi còn nhằm đảm bảo việc giữ gìn gốc gác
dân tộc, văn hóa, ngôn ngữ của trẻ. Bởi vì việc cho trẻ làm con nuôi ở nước
ngoài chỉ được coi là giải pháp cuối cùng khi không thể tìm một gia đình
thích hợp cho trẻ tại nước gốc.
- Quy định điều kiện nuôi con nuôi sẽ tạo ra khung pháp lý, một hành
lang pháp lý để bảo vệ đứa trẻ được cho làm con nuôi. Bởi trẻ em là người
chưa trưởng thành đầy đủ về thể chất và tinh thần nên cần được chăm sóc,
nuôi dưỡng, giáo dục để có thể phát triển bình thường. Nếu việc xác lập quan
hệ nuôi con nuôi diễn ra một cách tự do, các bên không đáp ứng các điều kiện
nhất định thì việc cho nhận con nuôi rất dễ bị biến dạng, bị lợi dụng để thực
hiện những hành vi bắt cóc, chiếm đoạt, mua bán trẻ em hoặc nhằm những
mục đích trục lợi khác, không phù hợp với mục đích của việc nuôi con. Ví dụ:
18
cho con làm con nuôi để được xuất cảnh đi nước ngoài, cho làm con nuôi của
thương binh, người có công với cách mạng để được hưởng chế độ ưu tiên, đãi
ngộ của nhà nước đối với những người này... Thực chất đây là những hành vi
lợi dụng sơ hở của pháp luật để trục lợi mà không nhằm mục đích xác lập
quan hệ cha mẹ và con giữa hai bên. Vì vậy, pháp luật cần quy định những
điều kiện cần thiết của người được nhận làm con nuôi để bảo vệ quyền, lợi ích
của trẻ, đồng thời ngăn chặn những hiện tượng tiêu cực, lợi dụng việc cho –
nhận con nuôi nhằm những mục đích vụ lợi khác.
- Do quan hệ nuôi con nuôi bị chi phối trước hết bởi ý chí, tình cảm của
các bên chủ thể nên sự điều chỉnh của pháp luật có ý nghĩa quan trọng. Các
điều kiện nuôi con nuôi là cơ sở pháp lý để cơ quan nhà nước có thẩm quyền
công nhận một quan hệ nuôi con nuôi là hợp pháp, vừa là cơ sở để giải quyết
các tranh chấp phát sinh trong quan hệ nuôi con nuôi. Nếu các bên chủ thể vi
phạm một trong các điều kiện nuôi con nuôi thì việc nuôi con nuôi không
được công nhận, không có giá trị pháp lý và không làm phát sinh quyền và
nghĩa vụ trong quan hệ cha mẹ - con. Vì thế các bên có liên quan phải ý thức
hành vi của mình và xác định được những xử sự cần thiết đúng pháp luật khi
muốn xác lập quan hệ nuôi con nuôi. Mặt khác, các điều kiện nuôi con nuôi là
cơ sở pháp lý để xác định quan hệ nuôi con nuôi là hợp pháp hay không
không hợp pháp. Trên cơ sở đó giải quyết các tranh chấp phát sinh từ việc
nuôi con nuôi. Ví dụ: tranh chấp về nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng; tranh
chấp về thừa kế tài sản.
19
Chương 2
CÁC ĐIỀU KIỆN ĐỂ VIỆC NUÔI CON NUÔI CÓ GIÁ TRỊ PHÁP LÝ
THEO LUẬT NUÔI CON NUÔI NĂM 2010
2.1. Điều kiện đối với ngƣời đƣợc nhận làm con nuôi
Theo quy định tại Điều 8 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 thì điều kiện
đối với người được nhận làm con nuôi được quy định như sau:
- Người được nhận làm con nuôi là “trẻ em dưới 16 tuổi” [30, Điều 8, Khoản 1].
Khoản 1 Điều 68 Luật HN & GĐ năm 2000 quy định người được nhận làm
con nuôi là “người từ mười lăm tuổi trở xuống” [26]. Việc tăng tuổi của
người người được nhận làm nuôi theo Luật Nuôi con nuôi là phù hợp với mục
đích của việc nuôi con nuôi và phù hợp với các văn bản khác về độ tuổi của
trẻ em. Điều này thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất, trẻ em dưới 16 tuổi là người chưa có năng lực hành vi dân sự
đầy đủ, chưa nhận thức được đầy đủ hậu quả hành vi của mình. Việc thiết lập
quan hệ nuôi con nuôi sẽ đảm bảo cho người con nuôi có được sự chăm sóc,
giáo dục của cha mẹ nuôi. Việc nhận người trên 16 tuổi hoặc người đã thành
niên làm con nuôi làm cho việc nuôi con nuôi không còn đúng với mục đích
của việc nuôi con nuôi. Những người trên 16 tuổi đã có thể tự lập kiếm sống
nuôi bản thân và thông thường người nhận con nuôi cũng mong muốn nhận
nuôi những trẻ em dưới 16 tuổi, vừa tạo cho các em một mái ấm gia đình, vừa
thuận lợi trong việc nuôi dưỡng, phát triển tình cảm gắn bó giữa cha mẹ nuôi
và con nuôi.
Thứ hai, theo quy định của Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
thì “trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi trở xuống” [30]. Trong khi độ
tuổi của trẻ em được nhận làm con nuôi cần phù hợp với quy định về độ tuổi
của trẻ em. Do đó, Luật nuôi con nuôi đã quy định tuổi của người được nhận
20
làm con nuôi thành “trẻ em dưới 16 tuổi”, cao hơn so với Luật HN & GĐ
năm 2000 là cần thiết và hợp lý, tạo cơ hội cho những trẻ em từ 15 tuổi đến
dưới 16 tuổi được nhận làm con nuôi.
Thứ ba, mục đích của việc nuôi con nuôi hướng tới đối tượng chủ yếu
là trẻ em, tạo điều kiện cho trẻ em được chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục
trong môi trường gia đình. Quy định người được nhận làm con nuôi là trẻ em
dưới 16 tuổi tạo điều kiện cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt có cơ hội được
nhận làm con nuôi, được sống trong môi trường gia đình với sự bảo vệ, chăm
sóc, nuôi dưỡng của cha mẹ nuôi.
So với quy định của các nước về độ tuổi của trẻ được cho làm con nuôi,
quy định của Việt Nam về vấn đề này khá tương đồng. Theo pháp luật Trung
Quốc trẻ em dưới 14 tuổi có thể được nhận làm con nuôi hay pháp luật Cộng
hòa Pháp quy định độ tuổi của trẻ em được nhận làm con nuôi là dưới 15 tuổi.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 8 Luật nuôi con nuôi, trong trường hợp
người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi có thể được cho làm con nuôi nếu thuộc
một trong các trường hợp sau:
a) Được cha dượng, mẹ kế nhận làm con nuôi;
b) Được cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận làm con nuôi.”
Quy định này đảm bảo việc nuôi con nuôi phù hợp với nguyên tắc trẻ
em được sống trong môi trường gia đình gốc của mình, tạo điều kiện cho trẻ
em được sống trong gia đình có mối quan hệ huyết thống hoặc gia đình có
quan hệ họ hàng với trẻ. Luật HN & GĐ năm 2000 quy định trường hợp ngoại
lệ đối với người được nhận làm con nuôi đó là: “Người trên 15 tuổi có thể
được nhận làm con nuôi nếu là thương binh, người tàn tật, người mất năng
lực hành vi dân sự hoặc làm con nuôi của người già yếu cô đơn” [26]. Ý
tưởng của quy định này là rất tốt đẹp, phù hợp với truyền thống đạo đức của
dân tộc, tạo điều kiện cho những người có hoàn cảnh trên được nuôi dưỡng,
21
chăm sóc, có một chỗ dựa về kinh tế. Tuy nhiên, điều luật này lại không có
tính khả thi cao vì trên thực tế rất ít trường hợp như trên xảy ra. Việc đưa
những người này vào các trung tâm bảo trợ xã hội, các tổ chức từ thiện sẽ phù
hợp hơn. Vì vậy, Luật nuôi con nuôi năm 2010 đã bỏ đi quy định này.
Như vậy, trừ trường hợp ngoại lệ được quy định tại khoản 2 Điều 8
Luật Nuôi con nuôi thì đối tượng của việc nuôi con nuôi là trẻ em. Quy định
này phù hợp với mục đích nuôi con nuôi, bảo đảm tính thống nhất của hệ
thống pháp luật trong nước, đồng thời vẫn bảo đảm thực hiện nghiêm chỉnh
cam kết quốc tế khi nước ta gia nhập Công ước Lahay 1993 về bảo vệ quyền
trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế.
- Người được nhận làm con nuôi chỉ được cho làm con nuôi trong
trường hợp: “của một người độc thân hoặc của cả hai người là vợ chồng”
(khoản 3 Điều 8 Luật nuôi con nuôi). Như vậy, Luật nuôi con nuôi quy định
trẻ em được cho làm con nuôi trong hai trường hợp: làm con nuôi của một
người độc thân hoặc làm con nuôi của vợ chồng. Trường hợp trẻ em làm con
nuôi của một người độc thân, người con nuôi sẽ trở thành con riêng của người
đó. Người con nuôi sẽ được yêu thương, chăm sóc của người cha hoặc người
mẹ nuôi của mình. Trường hợp thứ hai, trẻ em làm con nuôi của vợ chồng,
người con nuôi đó sẽ trở thành con chung của cả hai vợ chồng. Luật không
cho phép người đang có vợ hoặc có chồng nhận con nuôi riêng, vợ chồng chỉ
có thể nhận nuôi con nuôi chung và việc nhận con nuôi cần có sự thống nhất
của cả hai vợ chồng, do cả hai vợ chồng cùng nhận nuôi. Vợ chồng nhận nuôi
con nuôi phải có hôn nhân hợp pháp, có nghĩa là hai bên nam, nữ có đầy đủ
các điều kiện kết hôn theo quy định và được đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà
nước có thẩm quyền. Do đó, trường hợp hai bên nam nữ chung sống với nhau
như vợ chồng nhưng chưa đăng ký kết hôn thì không được nhận con nuôi.
Việc nhận con riêng của vợ hoặc chồng làm con nuôi thì đứa con này sẽ trở
22
thành con chung của cả hai vợ chồng. Quy định này nhằm đảm bảo cho trẻ
được cho làm con nuôi có một môi trường gia đình trọn vẹn, có sự yêu
thương đầy đủ của tất cả các thành viên trong gia đình, tạo điều kiện cho trẻ
em được sống trong môi trường gia đình tự nhiên như gia đình gốc của mình,
đảm bảo cho người con nuôi về nơi ăn chốn ở, về sự hòa hợp và sự ổn định
thống nhất trong cách sống, cách chăm sóc giáo dục con nuôi.
Quy định này cũng phù hợp với pháp luật các nước trên thế giới là
không được phép làm con nuôi hai lần. Nuôi con nuôi hai lần có nghĩa là đứa
trẻ làm con nuôi của người này (lần 1), sau đó người này lại cho đứa trẻ làm
con nuôi của một người khác nữa (lần 2). Việc nuôi con nuôi hai lần như vậy
sẽ dẫn đến tình trạng lạm dụng việc nuôi con nuôi để buôn bán trẻ em vào
những mục đích xấu khác và sẽ không kiểm soát được việc nuôi con nuôi, nếu
có chuyện gì xảy ra sẽ rất khó quy trách nhiệm cho bên nào. Tuy nhiên, pháp
luật các nước cũng như pháp luật Việt Nam chỉ quy định tại thời điểm trẻ em
đang được cho làm con nuôi thì không được phép cho làm con nuôi người
khác. Nhưng nếu quan hệ nuôi con nuôi đó đã chấm dứt và đứa trẻ đó vẫn có
đủ các điều kiện về độ tuổi, hoàn cảnh để được cho làm con nuôi thì vẫn có
thể được nhận làm con nuôi của một người khác.
Tại Luật nuôi con nuôi quy định: “Nhà nước khuyến khích việc nhận
trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khác làm con
nuôi” [30, Điều 8, Khoản 4], đã khẳng định tính nhân đạo của việc nuôi con
nuôi. Bởi những trẻ em mồ côi, bị bỏ rơi hoặc có hoàn cảnh đặc biệt rất cần
được sự quan tâm nuôi dưỡng của cha, mẹ của một gia đình mà bản thân
những trẻ em đó đã thiếu hoặc chính sách của Nhà nước không thể đảm bảo
cho các em được hưởng đầy đủ các quyền cơ bản của trẻ em.
Tuy nhiên, ngoài những điều kiện trên Luật nuôi con nuôi không có
quy định nào khác về điều kiện đối với người được nhận làm con nuôi. Quy
23
định này sẽ dẫn đến cách hiểu là mọi trẻ em dưới 16 tuổi trở xuống đều có
thể được cho làm con nuôi. Điều này không đúng với mục đích của việc cho
– nhận con nuôi là chỉ cho trẻ làm con nuôi khi trẻ không có sự chăm sóc,
nuôi dưỡng, giáo dục của gia đình do bố mẹ đã chết, bị mất tích, không xác
định được hoặc đều bị mất năng lực hành vi dân sự hoặc khi cha mẹ đẻ của
trẻ tuy còn sống nhưng không thể có điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ.
Khi đó việc cho trẻ làm con nuôi mới là biện pháp tốt nhất và vì lợi ích của
trẻ. Mặt khác, quy định như trên còn dẫn đến hiện tượng lợi dụng việc cho –
nhận con nuôi nhằm mục đích trục lợi khác mà không nhằm xác lập quan hệ
cha mẹ - con giữa người nhận nuôi và người được nhận nuôi. Ví dụ như việc
cho con làm con nuôi của người thương binh, bệnh binh, có công với cách
mạng, người dân tộc thiểu số để được hưởng chính sách ưu đãi. Trường hợp
này mặc dù việc cho con nuôi được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm
quyền nhưng người con nuôi vẫn sống với cha mẹ đẻ, quan hệ nuôi con nuôi
trên thực tế không tồn tại. Hoặc nguy hiểm hơn, trẻ em cho làm con nuôi còn
bị lợi dụng vào mục đích khác như buôn bán trẻ em ra nước ngoài, để bóc
lột sức lao động hay lạm dụng tình dục đối với trẻ em. Vì vậy, pháp luật
nuôi con nuôi cần quy định điều kiện về hoàn cảnh của trẻ được nhận làm
con nuôi, để việc nuôi con nuôi không bị biến dạng, không đúng với bản
chất và mục đích nhân đạo của nó.
Trước khi luật Nuôi con nuôi có hiệu lực, Luật HN &GĐ năm 2000
cũng chỉ quy định về độ tuổi của của người được nhận làm con nuôi, tuy
nhiên về điều kiện đối với trẻ em cho làm con nuôi nước ngoài lại quy định
rất cụ thể trong Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10/7/2002 và Nghị định
số 69/2006/NĐ-CP ngày 21/7/2006 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị
định 68/2002/NĐ-CP, đó là: trẻ em được nhận làm con nuôi phải là trẻ em từ
mười lăm tuổi trở xuống. Trẻ em từ trên mười lăm tuổi đến dưới 16 tuổi có
24
thể được nhận làm con nuôi nếu là trẻ em tàn tật, trẻ em mất năng lực hành vi
dân sự. Như vậy, trẻ em được nhận làm con nuôi nước ngoài phải là trẻ em
đang sống tại các cơ sở nuôi dưỡng được thành lập hợp pháp hoặc trẻ em
đang sống tại các gia đình nếu thuộc trường hợp trẻ em mồ côi; trẻ em khuyết
tật, tàn tật; trẻ em mất năng lực hành vi dân sự; trẻ em mắc bệnh hiểm nghèo
khác; trẻ em là nạn nhân của chất độc hóa học; trẻ em nhiễm HIV/AIDS hoặc
những trẻ em sống tại gia đình mà có quan hệ họ hàng thân thích với người
xin nhận con nuôi hoặc có anh chị em ruột đang làm con nuôi của người xin
nhận con nuôi cũng thuộc trường hợp được cho làm con nuôi nước ngoài.
Quy định về diện trẻ em làm con nuôi người nước ngoài hẹp và chặt chẽ hơn.
Nhưng với quy định này nhiều trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn sẽ
không thể có điều kiện được nhận làm con nuôi người nước ngoài nếu không
được nhận vào các cơ sở nuôi dưỡng hoặc có quan hệ họ hàng thân thích với
người nhận nuôi.
Theo Luật Nuôi con nuôi, người được nhận làm con nuôi ở nước ngoài
đều phải đáp ứng các điều kiện tại Điều 8 Luật Nuôi con nuôi. Tuy nhiên,
người được nhận nuôi chỉ được cho làm con nuôi ở nước ngoài nếu đã thực
hiện tất cả các biện pháp tìm kiếm gia đình nuôi dưỡng trẻ em ở trong nước
theo quy định tại Điều 15 Luật Nuôi con nuôi mà không tìm được khi hết thời
hạn luật định, trừ trường hợp trẻ em được xin đích danh (theo Điều 28 Luật
Nuôi con nuôi). Quy định này đảm bảo nguyên tắc tôn trọng quyền được sống
trong môi trường gia đình gốc của trẻ em.
2.2. Điều kiện đối với ngƣời nhận nuôi con nuôi
Điều kiện đối với người nhận nuôi con nuôi được quy định tại khoản 1
Điều 14 Luật nuôi con nuôi năm 2010, bao gồm các điều kiện sau:
- Người nhận nuôi con nuôi phải “có năng lực hành vi dân sự đầy đủ”
[30, Điều 14, Khoản 1, Điểm 1]. Theo quy định tại Bộ luật dân sự năm 2005
25
thì “Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng cá nhân bằng hành vi
của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự của mình” [28, Điều 17].
Người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ là người đáp ứng đủ hai điều kiện:
đủ 18 tuổi trở lên; không phải là người mất năng lực hành vi dân sự (người do
bị tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được
hành vi của mình và có quyết định của Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi
dân sự), và không phải là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự (người do
nghiện rượu hoặc nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của
gia đình, bị Tòa án tuyên bố là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự).
Quy định người nhận con nuôi là người có năng lực hành vi dân sự đầy
đủ là cần thiết, đảm bảo sự thể hiện ý chí tự nguyện của người nhận nuôi,
cũng như khả năng nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con nuôi của cha mẹ nuôi.
Nếu người nhận con nuôi không có năng lực hành vi dân sự hoặc bị mất năng
lực hành vi dân sự thì họ không nhận thức được trách nhiệm làm cha, làm mẹ
của họ, họ không thể hiện ý chí của mình một cách đúng đắn trong quyết định
nhận con nuôi, và trong quá trình nuôi dưỡng sẽ không thể đảm bảo cho
người con nuôi có được cuộc sống bình thường, mục đích của việc nuôi con
nuôi không đạt được. Người nhận nuôi con nuôi bị coi là không đủ điều kiện
khi họ là người đang bị hạn chế một số quyền của cha, mẹ đối với con chưa
thành niên hoặc đang chấp hành quyết định xử lý hành chính tại cơ sở giáo
dục, cơ sở chữa bệnh; Người đang chấp hành hình phạt tù; Người chưa được
xóa án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân
phẩm, danh dự của người khác; ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ
chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình; dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa
chấp người chưa thanh niên vi phạm pháp luật; mua bán, đánh tráo, chiếm
đoạt trẻ em. Những người trong trường hợp này đang bị hạn chế năng lực dân
sự một phần, họ không có quyền quyết định những vấn đề quan trọng liên
26
quan đến quyền tài sản, quyền nhân thân. Nên theo quy định những người này
không được nhận nuôi con nuôi.
- Về độ tuổi người nhận nuôi con nuôi phải “hơn con nuôi từ 20 tuổi
trở lên” [30, Điều 14, khoản 1, điểm b].
Luật Nuôi con nuôi đã kế thừa quy định này từ Luật HN & GĐ năm
2000. Đây là điều kiện cần thiết để cha mẹ nuôi có thể đảm đương các nghĩa
vụ đối với con nuôi. Giữa người nhận nuôi và con nuôi phải tuân theo những
điều kiện nhất định về độ tuổi để đảm bảo có sự chênh lệch và khoảng cách
cần thiết giữa hai thế hệ. Có như vậy việc nuôi con nuôi mới đảm bảo được
mục đích là: xác lập quan hệ cha mẹ và con, đảm bảo cho người được nhận
làm con nuôi được trông nom, nuôi dưỡng, giáo dục phù hợp với đạo đức xã
hội. Hơn nữa, về mặt sinh học, giữa hai thế hệ kế cận luôn có một khoảng
cách tuổi tác mới đảm bảo được sự tôn trọng và khả năng nuôi dưỡng giáo
dục con cái. Đồng thời, quy định này cũng nhằm tránh trường hợp người nhận
nuôi con nuôi có mục đích khác như lạm dụng tình dục với người con nuôi.
Nếu một người là con nuôi của cả hai vợ chồng thì cả cha nuôi, mẹ nuôi đều
phải hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên. Tuy nhiên, theo khoản 3 Điều 14 Luật
Nuôi con nuôi, trường hợp cha dượng nhận con riêng của vợ, mẹ kế nhận con
riêng của chồng làm con nuôi hoặc cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận cháu làm
con nuôi thì không áp dụng quy định khoảng cách về độ tuổi. Quy định này
đã đảm bảo trẻ em được sống trong môi trường gia đình họ hàng thân thích
với cha hoặc mẹ đẻ hoặc cô, dì, chú, bác ruột thịt của mình.
Tuy nhiên, Luật Nuôi con nuôi chỉ quy định khoảng cách về độ tuổi
giữa con nuôi và cha mẹ nuôi mà không quy định độ tuổi tối thiểu của người
nhận nuôi con nuôi. Việc quy định độ tuổi tối thiểu đối với người nhận nuôi
con nuôi là cần thiết bởi bản chất của việc nuôi con nuôi là hình thành quan
hệ cha mẹ và con hợp pháp giữa hai bên, do đó tuổi của người nuôi phải
27
“tương xứng, phù hợp với tuổi có thể làm cha mẹ về mặt sinh học”. Đồng
thời, người nhận nuôi phải đạt tới một độ tuổi tối thiểu nhất định thì mới có
được kinh nghiệm, hiểu biết, điều kiện kinh tế phù hợp và quan trọng nhất là
nhận thức rõ về nhu cầu nhận nuôi con nuôi của mình. Mặt khác, việc quy
định độ tuổi tối đa của người nhận nuôi cũng có ý nghĩ không nhỏ. Bởi khi
tuổi đã càng cao thì khả năng chăm sóc, giáo dục con nuôi sẽ giảm dần, điều
này ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của con nuôi. Con nuôi sẽ không có được
sự chăm sóc tốt nhất, hơn nữa sẽ không phù hợp với tự nhiên khi trẻ ở với các
cặp vợ chồng đã quá tuổi sinh nở [19].
Việc quy định độ tuổi tối thiểu của người được nhận nuôi đã được quy
định trong pháp luật nước ta thời kỳ Pháp thuộc. Trong Dân luật giản yếu
Nam Kỳ quy định điều kiện đối với người nuôi phải quá 25 tuổi không kể là
đàn ông hay đàn bà, đã lập gia đình hay chưa. Trong Dân luật Bắc kỳ và Dân
luật Trung kỳ thì người người nuôi phải là người đã thành niên tức là trên 21
tuổi (Điều 185 Dân luật Bắc Kỳ) và trên 30 tuổi (Điều 183 Hoàng Việt Trung
kỳ hộ luật). Theo Luật gia đình ngày 2/5/1959 dưới chế độ Ngô Đình Diệm,
khi một người đứng nuôi độc thân thì ít nhất phải 25 tuổi. Nếu họ đã có gia
đình thì việc nuôi con nuôi phải được cả hai vợ chồng ưng thuận và một trong
hai người ít nhất phải 25 tuổi (Điều 117), không đòi hỏi họ phải không có
con. Bộ Dân luật 1972 quy định điều kiện độ tuổi còn khắt khe hơn. Theo Bộ
Dân luật 1972: “Đàn ông hay đàn bà trên 35 tuổi mới được lập con nuôi và
phải hơn con nuôi ít nhất 20 tuổi, trừ khi có sự đặc miễn của nguyên thủ quốc
gia” [32, Điều 248]. Nếu hai vợ chồng lập con nuôi, thì bắt buộc họ phải có
đủ ba điều kiện: ở với nhau đã 10 năm, không có con và một trong hai người
phải thỏa mãn điều kiện về độ tuổi trên 35 tuổi.
Hầu hết pháp luật các nước trên thế giới đều quy định về tuổi của người
nhận con nuôi. Chẳng hạn như Hàn Quốc quy định người thành niên có thể
28
nhận nuôi con nuôi; Trung Quốc quy định người từ 30 tuổi trở lên có thể nhận
nuôi con nuôi; Phần Lan quy định người từ 25 tuổi trở lên có thể nhận con
nuôi; theo pháp luật Cộng hòa Pháp bất cứ ai trên 28 tuổi đều có thể nhận con
nuôi và người nhận trẻ em làm con nuôi phải hơn trẻ em từ 15 tuổi trở lên và
nếu trẻ em là con riêng của vợ hoặc chồng thì khoảng cách về độ tuổi có thể
cho phép hơn con nuôi từ 10 tuổi… Việc quy định độ tuổi tối thiểu để có thể
nhận con nuôi tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, xã hội khác nhau của mỗi nước,
vì đến một độ tuổi nào đó con người mới có được nhận thức về trách nhiệm
làm cha, làm mẹ và kinh nghiệm tâm lý xã hội, có đủ khả năng tài chính để
gánh vác trách nhiệm đó. Ngoài ra, pháp luật các nước còn quy định độ tuổi
chênh lệch giữa người nhận nuôi con nuôi và người được làm con nuôi như
Pháp quy định người nuôi con nuôi phải nhiều hơn con nuôi 15 tuổi. Pháp luật
Trung Quốc quy định về điều kiện đối với người nhận con nuôi có phần khắt
khe hơn, đó là người nhận nuôi phải không có con, nếu người đàn ông độc thân
muốn nhận một bé gái làm con nuôi thì phải hơn con nuôi ít nhất là 40 tuổi.
Do vậy, Luật nuôi con nuôi của Việt Nam nên có quy định độ tuổi tối
thiểu của người nhận nuôi con nuôi kết hợp với quy định về khoảng cách độ
tuổi giữa hai bên cho phù hợp hơn với thực tế.
- Người nhận nuôi con nuôi phải “có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở đảm
bảo việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi” [30 Điều 14, khoản 1, điểm c].
Điều này có nghĩa là người nhận nuôi con nuôi muốn nhận con nuôi phải
chứng minh được mình có đủ điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở ổn định.
Đây là một điều kiện có ý nghĩa quan trọng. Người nhận nuôi có sức khỏe thì
mới có thể chăm sóc tốt cho đứa trẻ được nhận làm con nuôi. Nếu người nhận
nuôi không có sức khỏe, bản thân người nhận nuôi không thể tự chăm sóc cho
bản thân mình thì không thể chăm sóc được cho con nuôi. Mặt khác, hầu hết
những trẻ đi làm con nuôi của người khác là những trẻ em mồ côi, không nơi
29
nương tựa, bị tàn tật hoặc là những đứa trẻ có gia đình nhưng gia đình quá
nghèo, gặp nhiều khó khăn về kinh tế, bố mẹ đẻ không thể nuôi dưỡng, dạy
dỗ con, nên phải dứt ruột cho đứa con mà mình mang nặng đẻ đau làm con
nuôi người khác với hy vọng và mong muốn con mình sẽ được sống trong
một gia đình ấm no, hạnh phúc, được nuôi dưỡng, giáo dục, chăm sóc tốt hơn.
Nếu gia đình nhận nuôi không có điều kiện kinh tế thì cuộc sống của trẻ
không được đảm bảo, việc nuôi con nuôi cũng không còn ý nghĩa, mục đích
của việc nuôi con nuôi không đạt được.
Trường hợp cha dượng, mẹ kế nhận con riêng của vợ hoặc chồng làm
con nuôi hoặc cô, dì, chú, bác, cậu ruột nhận cháu làm con nuôi thì điều kiện
về kinh tế, sức khỏe không cần đặt ra. Quy định này đã tạo điều kiện cho trẻ
em được sống cùng cha đẻ hoặc mẹ đẻ, hoặc gia đình họ hàng mở rộng, đảm
bảo quyền được sống trong gia đình huyết thống của trẻ, điều đó tạo điều kiện
thuận lợi cho trẻ trong môi trường gia đình mới. Điều này cũng phù hợp với
phong tục tập quán, truyền thống đạo đức của dân tộc, vừa phù hợp với các
văn bản pháp lý quốc tế về nuôi con nuôi.
Tuy nhiên, luật không quy định cụ thể thế nào là “có điều kiện kinh tế”
nên trong quá trình thực hiện mỗi nơi lại áp dụng một cách khác nhau. Có địa
phương chỉ cần đương sự chứng minh mình có việc làm là được. Có địa
phương lại yêu cầu đương sự phải có thu nhập ở mức nhất định. Việc xác
định chỗ ở như thế nào để bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục
con nuôi cũng rất khó khăn. Chính vì thế, không dễ dàng để xác minh điều
kiện nuôi con nuôi vì người dân thường không trình bày đúng với điều kiện
hoàn cảnh thực tế của mình. Do Luật không quy định rõ nên khó khăn trong
việc áp dụng, không có sự thống nhất giữa các địa phương. Mặt khác, tại
Khoản 3 Điều 14 Luật quy định, trường hợp cha dượng nhận con riêng của
vợ, mẹ kế nhận con riêng của chồng làm con nuôi hoặc cô, dì, chú, bác, cậu
30
ruột nhận cháu làm con nuôi thì không áp dụng quy định về khoảng cách độ
tuổi và điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở theo quy định tại điểm b và c tại
Khoản 1 điều này. Nhưng Luật lại không quy định rõ vợ của chú, bác, cậu
ruột hoặc chồng của cô, dì có được áp dụng quy định này không. Vì khi cháu
được cô, dì, chú, bác, cậu ruột nhận làm con nuôi có thể có hai khả năng:
người đó là người độc thân nhưng có thể họ là người đã có vợ hoặc có chồng.
Trong khi đó Luật Nuôi con nuôi chỉ công nhận việc nuôi con nuôi chung của
cả hai vợ chồng mà không cho phép một bên vợ hoặc chồng nhận con nuôi
riêng. Do đó, trong trường hợp này việc nhận cháu ruột làm con nuôi phải
được sự đồng ý của người chồng hoặc người vợ của người nhận nuôi và đứa
trẻ sẽ trở thành con chung của cả hai vợ chồng cô, dì, chú, bác, cậu ruột đó.
Vì vậy, người vợ của chú, bác, cậu ruột hoặc người chồng của cô, dì ruột của
trẻ vẫn phải đáp ứng các điều kiện của người nhận nuôi con nuôi. Trong
trường hợp này người vợ của chú, bác, cậu ruột hoặc người chồng của cô, dì
ruột của trẻ sẽ áp dụng quy định về điều kiện của người nhận nuôi theo khoản
1 Điều 14 Luật Nuôi con nuôi hay được áp dụng theo khoản 3 Điều 14 như
cô, dì, chú, bác, cậu ruột của người cháu đó. Luật Nuôi con nuôi nên có quy
định cụ thể hơn trong trường hợp này.
Ngoài ra, Luật Nuôi con nuôi cũng không cấm những người nhận con
nuôi mắc các bệnh hiểm nghèo có nguy cơ lây nhiễm cao sang người khác
như: nhiễm HIV/ADIS, các bệnh viêm gan, lao… được nhận nuôi con nuôi.
Xét về lợi ích lâu dài của trẻ em được nhận nuôi, pháp luật cần quy định
những người mắc các bệnh trên không được nhận nuôi con nuôi để đảm bảo
sức khỏe của trẻ em, vì thể chất của trẻ còn non nớt nên không có khả năng để
tự bảo vệ mình, có nhiều nguy cơ bị nhiễm bệnh hơn. Việc cấm những người
này được nhận con nuôi là cần thiết để bảo đảm sự an toàn về tính mạng, sức
khỏe, bảo đảm trẻ em được cho làm con nuôi được sống trong điều kiện tốt
nhất, được phát triển một cách toàn diện nhất.
31
- Người nhận nuôi con nuôi “phải có tư cách đạo đức tốt” (điểm d
khoản 1 Điều 14 Luật Nuôi con nuôi). Đây cũng là một điều kiện có ý nghĩa
rất quan trọng trong việc nuôi con nuôi. Bởi tư cách đạo đức của bố mẹ nuôi
có ảnh hưởng trực tiếp đến việc hình thành nhân cách của trẻ, đặc biệt là khi
trẻ còn nhỏ tuổi, khả năng nhận thức còn chưa ổn định. Việc xác định điều
kiện về tư cách đạo đức để tránh những trường hợp cha mẹ nuôi có những
hành vi ngược đãi, phân biệt đối xử với con nuôi, xâm phạm, làm tổn thương
đến người con nuôi. Người nhận nuôi có tư cách đạo đức tốt sẽ đảm bảo cho
con nuôi có môi trường an toàn, lành mạnh để trẻ được phát triển tốt về thể
chất, trí tuệ và nhân cách.
Để đảm bảo tư cách của người nhận nuôi, Khoản 2 Điều 14 Luật Nuôi
con nuôi đã quy định những người không được nhận nuôi con nuôi là:
- Đang bị hạn chế một số quyền của cha mẹ đối với con chưa thành niên;
- Người đang chấp hành quyết định xử lý hành chính tại cơ sở giáo dục,
cơ sở chữa bệnh;
- Người đang chấp hành hình phạt tù;
- Người chưa được xóa án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính
mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của người khác; ngược đãi hoặc hành hạ
ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình; dụ dỗ,
ép buộc hoặc chứa chấp người chưa thanh niên vi phạm pháp luật; mua bán,
đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em.
Đây là quy định kế thừa từ Luật HN & GĐ năm 2000, những người
trên đã có hành vi với những mức độ khác nhau xâm phạm đến sức khỏe, tính
mạng, danh dự, nhân phẩm của người khác trong đó có trẻ em, đang bị hạn
chế một số quyền của cha mẹ đối với con chưa thành niên hoặc đang phải
chấp hành hình phạt tù. Họ thường có lối sống buông thả, nhận thức lệch lạc
về giá trị đạo đức dẫn đến có những hành vi vi phạm đạo đức hoặc nghiện các
32
chất kích thích như thuốc lắc, ma túy… gây hủy hoại sức khỏe, trí tuệ con
người nên đang bị xử lý hành chính tại các cơ sở giáo dưỡng, cơ sở chữa
bệnh. Khi một đứa trẻ chưa có khả năng nhận thức ổn định sống với những
người cha mẹ nuôi đó sẽ dễ bị ảnh hưởng bởi lối sống thiếu lành mạnh, do đó
đứa trẻ sau này lớn lên có nguy cơ phạm tội cao hơn. Vì vậy, xét về tư cách
đạo đức những người này không đủ điều kiện để nhận nuôi con nuôi.
Điều 13 Luật Nuôi con nuôi cũng quy định rõ cấm ông bà nhận cháu
làm con nuôi, hoặc anh chị em ruột nhận nhau làm con nuôi để tránh sự đảo
lộn ngôi thứ, thứ bậc trong gia đình. Việc ông bà nhận cháu làm con nuôi thì
người cháu lại trở thành “con”, ông bà trở thành “bố mẹ” hoặc anh chị em
ruột với nhau lại trở thành “cha mẹ và con”. Cần phân biệt rõ việc nuôi con
nuôi với việc nuôi dưỡng. Việc nuôi con nuôi phải làm phát sinh quan hệ
cha mẹ và con, còn việc nuôi dưỡng chỉ là nghĩa vụ giữa các thành viên
trong gia đình với nhau. Trường hợp cha mẹ bị chết hoặc mất năng lực hành
vi dân sự thì ông bà nội, ông bà ngoại có nghĩa vụ nuôi dưỡng, chăm sóc
cháu hoặc anh, chị có nghĩa vụ nuôi dưỡng, chăm sóc em – đó là trách
nhiệm nuôi dưỡng giữa các thành viên trong gia đình mà không cần phải xác
lập quan hệ nuôi con nuôi mới ràng buộc trách nhiệm của các bên. Việc quy
định này nhằm ngăn chặn việc nuôi con nuôi vì các mục đích khác không
phù hợp với mục đích xác lập quan hệ cha mẹ và con dựa trên sự chăm sóc
nuôi dưỡng trẻ em. Ví dụ việc anh chị xác lập quan hệ nuôi con nuôi với em
chỉ để nhằm mục đích thừa kế tài sản, hoặc lợi dụng danh nghĩa cha mẹ nuôi
để quản lý, định đoạt tài sản của người được nhận nuôi hoặc nhằm mục đích
bảo lãnh cho trẻ đi nước ngoài. Tuy nhiên, trong thực tế có trường hợp
người nhận nuôi và con nuôi có quan hệ huyết thống trực hệ chẳng hạn
người cha hoặc mẹ có con đẻ ngoài giá thú rồi sau đó nhận đứa con đó làm
con nuôi để hợp pháp hóa quan hệ cha mẹ và con. Việc một người nhận con
33
đẻ ngoài giá thú làm con nuôi có thể do nhiều nguyên nhân, nhưng điều đó
xâm phạm đến quyền trẻ em, quyền được biết về nguồn gốc của mình. Do
vậy, đối với trường hợp khi phát hiện ra con nuôi chính là con đẻ ngoài giá
thú của vợ/chồng thì nên giải quyết như thế nào? Theo quan điểm cá nhân,
luật nên quy định việc cấm nhận con đẻ ngoài giá thú của vợ hoặc chồng làm
con nuôi để ngăn chặn hiện tượng này.
Các điều kiện đối với người nhận con nuôi có yếu tố nước ngoài: Trước
khi có Luật Nuôi con nuôi thì các điều kiện nuôi con nuôi trong nước được
quy định trong Luật HN & GĐ năm 2000 và các văn bản hướng dẫn thi hành,
còn các điều kiện nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài chủ yếu quy định trong
Nghị định số 68/2002/NĐ-CP và Nghị định số 69/2006/NĐ-CP và các điều
kiện này là khác nhau đối với cả người được nhận nuôi và người nhận con
nuôi. Hiện nay, về cơ bản, điều kiện của việc nuôi con nuôi trong nước và
việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài không có sự phân biệt. Điều kiện của
người nhận nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài phân biệt thành hai trường
hợp (Điều 29 Luật Nuôi con nuôi): đối với người Việt Nam định cư ở nước
ngoài, người nước ngoài thường trú ở nước ngoài nhận người Việt Nam làm
con nuôi phải có đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật nước nơi người
đó thường trú và quy định tại Điều 14 Luật Nuôi con nuôi; đối với công dân
Việt Nam nhận người nước ngoài làm con nuôi phải có đủ các điều kiện theo
quy định tại Điều 14 của Luật Nuôi con nuôi và pháp luật của nước nơi người
được nhận làm con nuôi thường trú. Như vậy, Luật Nuôi con nuôi đã áp dụng
hệ thuộc luật nơi cư trú của người nhận nuôi là nơi pháp luật có hiệu lực đối
với việc nuôi con nuôi. Ví dụ: một người có quốc tịch Pháp nhận trẻ em Việt
Nam làm con nuôi, nhưng người đó thường trú ở Đức thì việc xác định các
điều kiện của người nhận nuôi được áp dụng theo pháp luật Đức. Việc áp
dụng pháp luật nơi thường trú của người nước ngoài xin nhận con nuôi là
34
hoàn toàn phù hợp, bởi nước nơi cha mẹ nuôi thường trú chính là nơi con
nuôi sinh sống. Pháp luật của nước nơi cha mẹ nuôi thường trú điều chỉnh sẽ
đảm bảo được quyền lợi của trẻ được nhận nuôi trong việc theo dõi, giám sát
việc nuôi con nuôi. Mặt khác, việc áp dụng pháp luật nơi thường trú của
người nhận nuôi trong Luật Nuôi con nuôi đã giải quyết tình trạng mâu thuẫn
giữa các quy định trước đây về vấn đề này.
Luật HN & GĐ năm 2000 quy định người nước ngoài xin nhận trẻ em
Việt Nam phải đáp ứng các điều kiện của người nhận nuôi con nuôi theo quy
định tại Điều 69 Luật HN & GĐ và pháp luật của nước mà người đó là công
dân (Khoản 1 Điều 105 Luật HN & GĐ). Tức là dựa trên quy định của pháp
luật nơi người đó mang quốc tịch. Tuy nhiên, tại khoản 1 Điều 37 Nghị định
68/2002/NĐ-CP thì việc xác định điều kiện của người xin nhận con nuôi lại
dựa trên quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật nơi người đó thường
trú. Quy định tại khoản 1 Điều 29 Luật Nuôi con nuôi cũng hoàn toàn phù
hợp với quy định áp dụng pháp luật nơi thường trú của cha mẹ nuôi quy định
tại Điều 2 Công ước Lahay 1993 và các hiệp định song phương Việt Nam đã
ký kết với các nước.
Việc một trẻ em được cho làm con nuôi người nước ngoài có ảnh
hưởng sâu sắc làm thay đổi cơ bản số phận của đứa trẻ. Mặc dù còn có quan
niệm cho rằng nuôi con nuôi nước ngoài sẽ tạo cho con nuôi một cuộc sống
vật chất đầy đủ hơn. Tuy nhiên, với một môi trường hoàn toàn mới khác biệt
về ngôn ngữ, văn hóa trẻ sẽ phải cần sự hòa nhập tốt hơn. Nếu bố mẹ nuôi
không thực sự quan tâm, chăm sóc và hướng dẫn trẻ thích nghi với môi
trường mới thì trẻ dễ có cảm giác cô lập, tự ti về bản thân. Điều này ảnh
hưởng không tốt đến sự phát triển sức khỏe, trí tuệ, nhân cách của trẻ. Vì vậy,
các điều kiện của cha mẹ nuôi người nước ngoài cần chặt chẽ, phù hợp với
pháp luật Việt Nam và cả pháp luật nơi người đó thường trú để đảm bảo cho
35
trẻ em được sống trong môi trường gia đình tốt nhất, được phát triển toàn diện
về sức khỏe, trí tuệ, nhân cách.
Người nước ngoài nhận nuôi con nuôi là trẻ em Việt Nam trong hai
trường hợp:
* Xin con nuôi thông thường: là những trường hợp quy định tại khoản
1, khoản 3 và khoản 4 Điều 28 Luật Nuôi con nuôi bao gồm:
- Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài
thường trú ở nước cùng là thành viên của điều ước quốc tế về nuôi
con nuôi với Việt Nam nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi;
- Công dân Việt Nam thường trú ở trong nước nhận trẻ em
nước ngoài làm con nuôi.
- Người nước ngoài thường trú ở Việt Nam nhận con nuôi ở
Việt Nam.
Về nguyên tắc, người xin nhận con nuôi phải thường trú ở
những nước là thành viên của điều ước quốc tế hợp tác về nuôi con
nuôi với Việt Nam và đáp ứng đủ các điều kiện của người nhận
nuôi con nuôi theo Luật Nuôi con nuôi, cũng như pháp luật của
nước nơi người nhận nuôi thường trú [30.
* Xin con nuôi đích danh: người nhận nuôi con nuôi ngoài việc phải
thỏa mãn các điều kiện như đối với trường hợp xin con nuôi thông thường
còn phải thuộc một trong các trường quy định tại khoản 2 Điều 28 Luật Nuôi
con nuôi, đó là:
Người nhận nuôi là người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước
ngoài thường trú ở nước ngoài nhưng là cha dượng, mẹ kế của người được
nhận là con nuôi hoặc là cô, dì, cậu, chú, bác ruột của cháu được nhận nuôi
con nuôi (Điểm a,b khoản 2 Điều 28 Luật Nuôi con nuôi). Quy định này đã
đáp ứng được tình hình thực tế, tạo điều kiện cho người con được sống với
36
cha hoặc mẹ đẻ ở nước ngoài, tạo cơ hội để đứa trẻ được hưởng quyền lợi của
người con trong quan hệ gia đình, trong môi trường gia đình gốc tại nước
ngoài. Sự điều chỉnh này cũng phù hợp với quy định tại Điều 5 Luật Nuôi con
nuôi khi lựa chọn gia đình thay thế cho trẻ sẽ ưu tiên người nhận nuôi là cha
dượng, mẹ kế, cô, cậu, chú, dì, bác ruột của người nhận nuôi.
Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài thường trú ở
nước ngoài đã có con nuôi được xin đích danh trẻ là anh, chị, em ruột của con
nuôi làm con nuôi (Điểm c khoản 2 Điều 28 Luật Nuôi con nuôi). Quy định
này nhằm đảm bảo cho những trẻ là anh, chị, em ruột của nhau được sống gần
nhau, được yêu thương, chăm sóc cùng nhau, tạo cho trẻ có một gia đình
giống như gia đình ruột thịt trong nước của trẻ.
Hiện nay, nhà nước đang khuyến khích việc nhận các trẻ em có hoàn
cảnh đặc biệt làm con nuôi (khoản 4 Điều 8 Luật Nuôi con nuôi). Vì vậy, việc
người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài thường trú ở nước
ngoài xin nhận đích danh trẻ em khuyết tật, nhiễm HIV/AIDS hoặc mắc các
bệnh hiểm nghèo khác làm con nuôi (Điểm d khoản 2 Điều 28 Luật Nuôi con
nuôi) được tạo điều kiện và khuyến khích. Quy định này tạo điều kiện cho các
trẻ em được chữa bệnh, phục hồi chức năng, được hưởng nhiều ưu đãi về
chính sách xã hội dành cho trẻ em của những nước phát triển mà ở Việt Nam
do điều kiện phát triển kinh tế chưa thực hiện được. Ví dụ trẻ em ở Đức khi
sinh ra sẽ được nhà nước nuôi đến hết 18 tuổi, được đi học và khám chữa
bệnh miễn phí…
Một trường hợp người nhận nuôi được xin nhận con nuôi đích danh quy
định tại điểm đ khoản 2 Điều 28 Luật Nuôi con nuôi phải “Là người nước ngoài
đang làm việc, học tập ở Việt Nam trong thời gian ít nhất là 01 năm” [30. Thời
gian ít nhất 1 năm được hiểu là thời gian sống và làm việc liên tục tại Việt Nam
ít nhất là 1 năm. Trước kia tại mục 8 Nghị định 69/2006/NĐ-CP quy định
37
người nước ngoài đang làm việc, học tập tại Việt Nam trong thời gian ít nhất là
6 tháng. Việc tăng khoảng thời gian sống và làm việc liên tục của người nước
ngoài lên thành 1 năm của Luật Nuôi con nuôi đã làm chặt chẽ thêm các điều
kiện đối với người nước ngoài muốn nhận con nuôi đích danh tại Việt Nam.
Bởi một người nước ngoài đến sống tại Việt Nam cần một khoảng thời gian
nhất định mới hiểu được văn hóa, phong tục, con người Việt Nam. Khoảng thời
gian ít nhất 1 năm là khoảng thời gian tối thiểu hợp lý để họ hiểu được văn hóa,
con người Việt. Sau đó, khi họ nhận nuôi một trẻ em Việt Nam sẽ đảm bảo việc
nuôi dưỡng, giáo dục phù hợp với trẻ, giúp trẻ dễ dàng thích nghi với môi
trường văn hóa, ngôn ngữ, phong tục của người nhận nuôi.
Như vậy, trường hợp người nước ngoài muốn nhận đích danh một trẻ
em làm con nuôi ngoài việc thỏa mãn các điều kiện tại Điều 29 Luật Nuôi con
nuôi còn đồng thời thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều
28 Luật Nuôi con nuôi.
2.3. Điều kiện về ý chí của các bên chủ thể
Sự thể hiện ý chí của các bên chủ thể có liên quan là yếu tố thiết yếu
cần thiết, tạo cơ sở để giải quyết việc nuôi con nuôi. Chỉ khi việc nuôi con
nuôi là sự thể hiện đúng ý chí tự nguyện của các chủ thể thì việc nuôi con
nuôi mới thực sự bền vững, mới tạo cho trẻ em một mái ấm mà ở đó trẻ em
được nuôi dưỡng, chăm sóc tốt nhất.
2.3.1. Sự thể hiện ý chí của người nhận nuôi con nuôi
Ý chí của người nhận nuôi con nuôi phải trên cơ sở tự nguyện, có suy
nghĩ kỹ càng trước khi quyết định nhận nuôi con nuôi (khoản 3 Điều 21 Luật
Nuôi con nuôi). Sự tự nguyện đó phải xuất phát từ nhu cầu tình cảm, tinh thần
của người nhận nuôi con nuôi và phù hợp với lợi ích của người được nhận
làm con nuôi thì mới được coi là hợp pháp. Nếu việc nhận nuôi con nuôi xuất
phát từ những động cơ, mục đích trái pháp luật, trái đạo đức sẽ không được
công nhận có giá trị pháp lí.
38
Ý chí của người nhận nuôi thể hiện qua đơn xin nhận nuôi con nuôi.
Trong đơn người nhận nuôi con nuôi bày tỏ mong muốn nhận một đứa trẻ làm
con nuôi với những đặc điểm cụ thể về giới tính, tuổi, tình trạng gia đình, sức
khỏe… Nguyện vọng đó của người nhận nuôi về nguyên tắc được cơ quan có
thẩm quyền tôn trọng và đáp ứng nếu có đối tượng trẻ em thích hợp. Người
nhận nuôi con nuôi có thể trình bày nguyện vọng của mình xin đích danh một
trẻ em nào đó từ cơ sở nuôi dưỡng hoặc từ gia đình. Việc xin đích danh được
thực hiện trong những điều kiện nhất định được Luật Nuôi con nuôi quy định
cụ thể. Ví dụ: Người nhận nuôi muốn nhận đích danh một trẻ phải là trẻ em bị
bỏ rơi, mồ côi, không nơi nương tự hoặc có các hoàn cảnh đặc biệt khác làm
con nuôi hoặc cha dượng, mẹ kế nhận con riêng của vợ/chồng làm con nuôi.
Chỉ khi người xin nuôi con nuôi không bày tỏ ý muốn của mình về đứa trẻ cụ
thể muốn nhận nuôi mà chỉ thể hiện nguyện vọng xin nuôi con nuôi thì khi đó
cơ quan có thẩm quyền có thể giới thiệu bất cứ trẻ em nào cho họ.
Đối với người nhận nuôi con nuôi là người độc thân thì người nhận
nuôi có quyền độc lập thể hiện ý chí tự nguyện của mình về việc nuôi con
nuôi trong đơn xin nhận nuôi con nuôi. Trong trường hợp cả hai vợ chồng
cùng nhận nuôi con nuôi thì sự thể hiện ý chí mong muốn nhận nuôi con nuôi
phải là ý chí chung của cả hai vợ chồng. Hai vợ chồng phải thoả thuận và
thống nhất được về việc nhận nuôi con nuôi. Trong đơn xin nhận nuôi con
nuôi phải đứng tên cả hai vợ chồng với tư cách là cha nuôi và mẹ nuôi và con
nuôi là con chung của cả hai vợ chồng.
2.3.2. Sự thể hiện ý chí của cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ của người
được cho làm con nuôi
Luật Nuôi con nuôi quy định:
Việc nhận nuôi con nuôi phải được sự đồng ý của cha mẹ đẻ
của người được nhận làm con nuôi; nếu cha đẻ hoặc mẹ đẻ đã chết,
Đề tài: Các điều kiện nuôi con nuôi theo Luật nuôi con nuôi, HOT
Đề tài: Các điều kiện nuôi con nuôi theo Luật nuôi con nuôi, HOT
Đề tài: Các điều kiện nuôi con nuôi theo Luật nuôi con nuôi, HOT
Đề tài: Các điều kiện nuôi con nuôi theo Luật nuôi con nuôi, HOT
Đề tài: Các điều kiện nuôi con nuôi theo Luật nuôi con nuôi, HOT
Đề tài: Các điều kiện nuôi con nuôi theo Luật nuôi con nuôi, HOT
Đề tài: Các điều kiện nuôi con nuôi theo Luật nuôi con nuôi, HOT
Đề tài: Các điều kiện nuôi con nuôi theo Luật nuôi con nuôi, HOT
Đề tài: Các điều kiện nuôi con nuôi theo Luật nuôi con nuôi, HOT
Đề tài: Các điều kiện nuôi con nuôi theo Luật nuôi con nuôi, HOT
Đề tài: Các điều kiện nuôi con nuôi theo Luật nuôi con nuôi, HOT
Đề tài: Các điều kiện nuôi con nuôi theo Luật nuôi con nuôi, HOT
Đề tài: Các điều kiện nuôi con nuôi theo Luật nuôi con nuôi, HOT
Đề tài: Các điều kiện nuôi con nuôi theo Luật nuôi con nuôi, HOT
Đề tài: Các điều kiện nuôi con nuôi theo Luật nuôi con nuôi, HOT
Đề tài: Các điều kiện nuôi con nuôi theo Luật nuôi con nuôi, HOT
Đề tài: Các điều kiện nuôi con nuôi theo Luật nuôi con nuôi, HOT
Đề tài: Các điều kiện nuôi con nuôi theo Luật nuôi con nuôi, HOT
Đề tài: Các điều kiện nuôi con nuôi theo Luật nuôi con nuôi, HOT
Đề tài: Các điều kiện nuôi con nuôi theo Luật nuôi con nuôi, HOT
Đề tài: Các điều kiện nuôi con nuôi theo Luật nuôi con nuôi, HOT
Đề tài: Các điều kiện nuôi con nuôi theo Luật nuôi con nuôi, HOT
Đề tài: Các điều kiện nuôi con nuôi theo Luật nuôi con nuôi, HOT
Đề tài: Các điều kiện nuôi con nuôi theo Luật nuôi con nuôi, HOT
Đề tài: Các điều kiện nuôi con nuôi theo Luật nuôi con nuôi, HOT
Đề tài: Các điều kiện nuôi con nuôi theo Luật nuôi con nuôi, HOT
Đề tài: Các điều kiện nuôi con nuôi theo Luật nuôi con nuôi, HOT
Đề tài: Các điều kiện nuôi con nuôi theo Luật nuôi con nuôi, HOT
Đề tài: Các điều kiện nuôi con nuôi theo Luật nuôi con nuôi, HOT
Đề tài: Các điều kiện nuôi con nuôi theo Luật nuôi con nuôi, HOT
Đề tài: Các điều kiện nuôi con nuôi theo Luật nuôi con nuôi, HOT
Đề tài: Các điều kiện nuôi con nuôi theo Luật nuôi con nuôi, HOT
Đề tài: Các điều kiện nuôi con nuôi theo Luật nuôi con nuôi, HOT
Đề tài: Các điều kiện nuôi con nuôi theo Luật nuôi con nuôi, HOT
Đề tài: Các điều kiện nuôi con nuôi theo Luật nuôi con nuôi, HOT
Đề tài: Các điều kiện nuôi con nuôi theo Luật nuôi con nuôi, HOT
Đề tài: Các điều kiện nuôi con nuôi theo Luật nuôi con nuôi, HOT
Đề tài: Các điều kiện nuôi con nuôi theo Luật nuôi con nuôi, HOT
Đề tài: Các điều kiện nuôi con nuôi theo Luật nuôi con nuôi, HOT
Đề tài: Các điều kiện nuôi con nuôi theo Luật nuôi con nuôi, HOT
Đề tài: Các điều kiện nuôi con nuôi theo Luật nuôi con nuôi, HOT
Đề tài: Các điều kiện nuôi con nuôi theo Luật nuôi con nuôi, HOT
Đề tài: Các điều kiện nuôi con nuôi theo Luật nuôi con nuôi, HOT
Đề tài: Các điều kiện nuôi con nuôi theo Luật nuôi con nuôi, HOT
Đề tài: Các điều kiện nuôi con nuôi theo Luật nuôi con nuôi, HOT
Đề tài: Các điều kiện nuôi con nuôi theo Luật nuôi con nuôi, HOT
Đề tài: Các điều kiện nuôi con nuôi theo Luật nuôi con nuôi, HOT
Đề tài: Các điều kiện nuôi con nuôi theo Luật nuôi con nuôi, HOT
Đề tài: Các điều kiện nuôi con nuôi theo Luật nuôi con nuôi, HOT
Đề tài: Các điều kiện nuôi con nuôi theo Luật nuôi con nuôi, HOT
Đề tài: Các điều kiện nuôi con nuôi theo Luật nuôi con nuôi, HOT
Đề tài: Các điều kiện nuôi con nuôi theo Luật nuôi con nuôi, HOT
Đề tài: Các điều kiện nuôi con nuôi theo Luật nuôi con nuôi, HOT

More Related Content

What's hot

Pháp luật về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài của Việt Nam, HAY
Pháp luật về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài của Việt Nam, HAYPháp luật về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài của Việt Nam, HAY
Pháp luật về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài của Việt Nam, HAY
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận văn: Hợp đồng mua bán tài sản hình thành trong tương lai, 9đ
Luận văn: Hợp đồng mua bán tài sản hình thành trong tương lai, 9đLuận văn: Hợp đồng mua bán tài sản hình thành trong tương lai, 9đ
Luận văn: Hợp đồng mua bán tài sản hình thành trong tương lai, 9đ
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Báo Cáo Thực Tập Pháp Luật Về Căn Cứ Ly Hôn Tại Tòa Án.docx
Báo Cáo Thực Tập Pháp Luật Về Căn Cứ Ly Hôn Tại Tòa Án.docxBáo Cáo Thực Tập Pháp Luật Về Căn Cứ Ly Hôn Tại Tòa Án.docx
Báo Cáo Thực Tập Pháp Luật Về Căn Cứ Ly Hôn Tại Tòa Án.docx
Viết Thuê Đề Tài Trọn Gói Zalo: 0973287149
 
200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Ngành Luật Tại Tòa Án, 9 Điểm
200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Ngành Luật Tại Tòa Án, 9 Điểm200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Ngành Luật Tại Tòa Án, 9 Điểm
200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Ngành Luật Tại Tòa Án, 9 Điểm
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Dân Sự, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Dân Sự, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Dân Sự, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Dân Sự, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận văn: Chế độ tài sản vợ chồng theo luật hôn nhân, HOT
Luận văn: Chế độ tài sản vợ chồng theo luật hôn nhân, HOTLuận văn: Chế độ tài sản vợ chồng theo luật hôn nhân, HOT
Luận văn: Chế độ tài sản vợ chồng theo luật hôn nhân, HOT
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Đề tài: Thực tiễn áp dụng pháp luật về trong việc đăng ký kết hôn tại UBND Ph...
Đề tài: Thực tiễn áp dụng pháp luật về trong việc đăng ký kết hôn tại UBND Ph...Đề tài: Thực tiễn áp dụng pháp luật về trong việc đăng ký kết hôn tại UBND Ph...
Đề tài: Thực tiễn áp dụng pháp luật về trong việc đăng ký kết hôn tại UBND Ph...
Dịch vụ viết thuê Khóa Luận - ZALO 0932091562
 
Luận văn: Pháp luật về giải quyết tranh chấp, khiếu nại về đất đai
Luận văn: Pháp luật về giải quyết tranh chấp, khiếu nại về đất đaiLuận văn: Pháp luật về giải quyết tranh chấp, khiếu nại về đất đai
Luận văn: Pháp luật về giải quyết tranh chấp, khiếu nại về đất đai
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận văn: Giải quyết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Luận văn: Giải quyết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất Luận văn: Giải quyết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Luận văn: Giải quyết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOTLuận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOT
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Giải quyết tranh chấp tài sản trong các vụ án ly hôn
Luận văn: Giải quyết tranh chấp tài sản trong các vụ án ly hônLuận văn: Giải quyết tranh chấp tài sản trong các vụ án ly hôn
Luận văn: Giải quyết tranh chấp tài sản trong các vụ án ly hôn
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Xóa án tích theo pháp luật hình sự tỉnh Phú Thọ, HAY - Gửi miễn phí...
Luận văn: Xóa án tích theo pháp luật hình sự tỉnh Phú Thọ, HAY - Gửi miễn phí...Luận văn: Xóa án tích theo pháp luật hình sự tỉnh Phú Thọ, HAY - Gửi miễn phí...
Luận văn: Xóa án tích theo pháp luật hình sự tỉnh Phú Thọ, HAY - Gửi miễn phí...
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận Văn Thạc Sĩ Hậu Quả Pháp Lý Của Ly Hôn Theo Luật Hôn Nhân
Luận Văn Thạc Sĩ  Hậu Quả Pháp Lý Của Ly Hôn Theo Luật Hôn NhânLuận Văn Thạc Sĩ  Hậu Quả Pháp Lý Của Ly Hôn Theo Luật Hôn Nhân
Luận Văn Thạc Sĩ Hậu Quả Pháp Lý Của Ly Hôn Theo Luật Hôn Nhân
Nhận Viết Đề Tài Thuê trangluanvan.com
 
Luận văn: Pháp luật về bảo vệ tài nguyên rừng ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Pháp luật về bảo vệ tài nguyên rừng ở Việt Nam, HOTLuận văn: Pháp luật về bảo vệ tài nguyên rừng ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Pháp luật về bảo vệ tài nguyên rừng ở Việt Nam, HOT
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Luận văn thạc sĩ: Đương sự trong vụ án dân sự, HAY
Luận văn thạc sĩ: Đương sự trong vụ án dân sự, HAYLuận văn thạc sĩ: Đương sự trong vụ án dân sự, HAY
Luận văn thạc sĩ: Đương sự trong vụ án dân sự, HAY
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Đề Tài Thực Tập Pháp Luật Về Quyền Nuôi Con Nuôi Tại Việt Nam.docx
Đề Tài Thực Tập Pháp Luật Về Quyền Nuôi Con Nuôi Tại Việt Nam.docxĐề Tài Thực Tập Pháp Luật Về Quyền Nuôi Con Nuôi Tại Việt Nam.docx
Đề Tài Thực Tập Pháp Luật Về Quyền Nuôi Con Nuôi Tại Việt Nam.docx
Zalo/Tele: 0973.287.149 Dịch vụ viết thuê đề tài trọn gói
 
Luận văn: Giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
Luận văn: Giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hônLuận văn: Giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
Luận văn: Giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
Viết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 
Luận văn: Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất theo pháp luật
Luận văn: Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất theo pháp luậtLuận văn: Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất theo pháp luật
Luận văn: Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất theo pháp luật
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Giao kết hợp đồng thương mại theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Giao kết hợp đồng thương mại theo pháp luật Việt NamLuận văn: Giao kết hợp đồng thương mại theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Giao kết hợp đồng thương mại theo pháp luật Việt Nam
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.14...
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.14...BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.14...
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.14...
OnTimeVitThu
 

What's hot (20)

Pháp luật về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài của Việt Nam, HAY
Pháp luật về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài của Việt Nam, HAYPháp luật về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài của Việt Nam, HAY
Pháp luật về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài của Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Hợp đồng mua bán tài sản hình thành trong tương lai, 9đ
Luận văn: Hợp đồng mua bán tài sản hình thành trong tương lai, 9đLuận văn: Hợp đồng mua bán tài sản hình thành trong tương lai, 9đ
Luận văn: Hợp đồng mua bán tài sản hình thành trong tương lai, 9đ
 
Báo Cáo Thực Tập Pháp Luật Về Căn Cứ Ly Hôn Tại Tòa Án.docx
Báo Cáo Thực Tập Pháp Luật Về Căn Cứ Ly Hôn Tại Tòa Án.docxBáo Cáo Thực Tập Pháp Luật Về Căn Cứ Ly Hôn Tại Tòa Án.docx
Báo Cáo Thực Tập Pháp Luật Về Căn Cứ Ly Hôn Tại Tòa Án.docx
 
200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Ngành Luật Tại Tòa Án, 9 Điểm
200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Ngành Luật Tại Tòa Án, 9 Điểm200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Ngành Luật Tại Tòa Án, 9 Điểm
200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Ngành Luật Tại Tòa Án, 9 Điểm
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Dân Sự, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Dân Sự, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Dân Sự, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Dân Sự, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 
Luận văn: Chế độ tài sản vợ chồng theo luật hôn nhân, HOT
Luận văn: Chế độ tài sản vợ chồng theo luật hôn nhân, HOTLuận văn: Chế độ tài sản vợ chồng theo luật hôn nhân, HOT
Luận văn: Chế độ tài sản vợ chồng theo luật hôn nhân, HOT
 
Đề tài: Thực tiễn áp dụng pháp luật về trong việc đăng ký kết hôn tại UBND Ph...
Đề tài: Thực tiễn áp dụng pháp luật về trong việc đăng ký kết hôn tại UBND Ph...Đề tài: Thực tiễn áp dụng pháp luật về trong việc đăng ký kết hôn tại UBND Ph...
Đề tài: Thực tiễn áp dụng pháp luật về trong việc đăng ký kết hôn tại UBND Ph...
 
Luận văn: Pháp luật về giải quyết tranh chấp, khiếu nại về đất đai
Luận văn: Pháp luật về giải quyết tranh chấp, khiếu nại về đất đaiLuận văn: Pháp luật về giải quyết tranh chấp, khiếu nại về đất đai
Luận văn: Pháp luật về giải quyết tranh chấp, khiếu nại về đất đai
 
Luận văn: Giải quyết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Luận văn: Giải quyết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất Luận văn: Giải quyết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Luận văn: Giải quyết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
 
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOTLuận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOT
 
Luận văn: Giải quyết tranh chấp tài sản trong các vụ án ly hôn
Luận văn: Giải quyết tranh chấp tài sản trong các vụ án ly hônLuận văn: Giải quyết tranh chấp tài sản trong các vụ án ly hôn
Luận văn: Giải quyết tranh chấp tài sản trong các vụ án ly hôn
 
Luận văn: Xóa án tích theo pháp luật hình sự tỉnh Phú Thọ, HAY - Gửi miễn phí...
Luận văn: Xóa án tích theo pháp luật hình sự tỉnh Phú Thọ, HAY - Gửi miễn phí...Luận văn: Xóa án tích theo pháp luật hình sự tỉnh Phú Thọ, HAY - Gửi miễn phí...
Luận văn: Xóa án tích theo pháp luật hình sự tỉnh Phú Thọ, HAY - Gửi miễn phí...
 
Luận Văn Thạc Sĩ Hậu Quả Pháp Lý Của Ly Hôn Theo Luật Hôn Nhân
Luận Văn Thạc Sĩ  Hậu Quả Pháp Lý Của Ly Hôn Theo Luật Hôn NhânLuận Văn Thạc Sĩ  Hậu Quả Pháp Lý Của Ly Hôn Theo Luật Hôn Nhân
Luận Văn Thạc Sĩ Hậu Quả Pháp Lý Của Ly Hôn Theo Luật Hôn Nhân
 
Luận văn: Pháp luật về bảo vệ tài nguyên rừng ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Pháp luật về bảo vệ tài nguyên rừng ở Việt Nam, HOTLuận văn: Pháp luật về bảo vệ tài nguyên rừng ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Pháp luật về bảo vệ tài nguyên rừng ở Việt Nam, HOT
 
Luận văn thạc sĩ: Đương sự trong vụ án dân sự, HAY
Luận văn thạc sĩ: Đương sự trong vụ án dân sự, HAYLuận văn thạc sĩ: Đương sự trong vụ án dân sự, HAY
Luận văn thạc sĩ: Đương sự trong vụ án dân sự, HAY
 
Đề Tài Thực Tập Pháp Luật Về Quyền Nuôi Con Nuôi Tại Việt Nam.docx
Đề Tài Thực Tập Pháp Luật Về Quyền Nuôi Con Nuôi Tại Việt Nam.docxĐề Tài Thực Tập Pháp Luật Về Quyền Nuôi Con Nuôi Tại Việt Nam.docx
Đề Tài Thực Tập Pháp Luật Về Quyền Nuôi Con Nuôi Tại Việt Nam.docx
 
Luận văn: Giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
Luận văn: Giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hônLuận văn: Giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
Luận văn: Giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
 
Luận văn: Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất theo pháp luật
Luận văn: Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất theo pháp luậtLuận văn: Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất theo pháp luật
Luận văn: Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất theo pháp luật
 
Luận văn: Giao kết hợp đồng thương mại theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Giao kết hợp đồng thương mại theo pháp luật Việt NamLuận văn: Giao kết hợp đồng thương mại theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Giao kết hợp đồng thương mại theo pháp luật Việt Nam
 
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.14...
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.14...BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.14...
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.14...
 

Similar to Đề tài: Các điều kiện nuôi con nuôi theo Luật nuôi con nuôi, HOT

Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt NamLuận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận án: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở Việt Nam, HAY - Gửi miễn phí qu...
Luận án: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở Việt Nam, HAY - Gửi miễn phí qu...Luận án: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở Việt Nam, HAY - Gửi miễn phí qu...
Luận án: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở Việt Nam, HAY - Gửi miễn phí qu...
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận văn: Quản lý nhà nước về nhận con nuôi có yếu tố nước ngoài
Luận văn: Quản lý nhà nước về nhận con nuôi có yếu tố nước ngoàiLuận văn: Quản lý nhà nước về nhận con nuôi có yếu tố nước ngoài
Luận văn: Quản lý nhà nước về nhận con nuôi có yếu tố nước ngoài
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
Pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoàiPháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
Pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
Dịch Vụ Viết Thuê Luận Văn Zalo : 0932.091.562
 
Báo cáo thực tập tại toà án nhân dân huyện thoại sơn
 Báo cáo thực tập tại toà án nhân dân huyện thoại sơn  Báo cáo thực tập tại toà án nhân dân huyện thoại sơn
Báo cáo thực tập tại toà án nhân dân huyện thoại sơn
Luanvantot.com 0934.573.149
 
Luận Văn Ngành Luật Học Về Quyền Trẻ Em Việt Nam
Luận Văn Ngành Luật Học Về Quyền Trẻ Em Việt NamLuận Văn Ngành Luật Học Về Quyền Trẻ Em Việt Nam
Luận Văn Ngành Luật Học Về Quyền Trẻ Em Việt Nam
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Luan van thu tuc hanh chinh trong nuoi con nuoi theo phap luat
Luan van thu tuc hanh chinh trong nuoi con nuoi theo phap luatLuan van thu tuc hanh chinh trong nuoi con nuoi theo phap luat
Luan van thu tuc hanh chinh trong nuoi con nuoi theo phap luat
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
PHÁP LUẬT VỀ NUÔI CON NUÔI CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI CỦA VIỆT NAM TRONG MỐI TƢƠNG ...
PHÁP LUẬT VỀ NUÔI CON NUÔI CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI CỦA VIỆT NAM TRONG MỐI TƢƠNG ...PHÁP LUẬT VỀ NUÔI CON NUÔI CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI CỦA VIỆT NAM TRONG MỐI TƢƠNG ...
PHÁP LUẬT VỀ NUÔI CON NUÔI CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI CỦA VIỆT NAM TRONG MỐI TƢƠNG ...
NuioKila
 
Đề tài: Gia đình theo luật hôn nhân và gia đình Việt Nam, HOT
Đề tài: Gia đình theo luật hôn nhân và gia đình Việt Nam, HOTĐề tài: Gia đình theo luật hôn nhân và gia đình Việt Nam, HOT
Đề tài: Gia đình theo luật hôn nhân và gia đình Việt Nam, HOT
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
GIA ĐÌNH THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM.pdf
GIA ĐÌNH THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM.pdfGIA ĐÌNH THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM.pdf
GIA ĐÌNH THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM.pdf
NuioKila
 
Khoá Luận Luật Hôn Nhân Và Gia Đình về Bảo Vệ Trẻ em
Khoá Luận Luật Hôn Nhân Và Gia Đình về Bảo Vệ Trẻ emKhoá Luận Luật Hôn Nhân Và Gia Đình về Bảo Vệ Trẻ em
Khoá Luận Luật Hôn Nhân Và Gia Đình về Bảo Vệ Trẻ em
Dịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
thuc-tien-ap-dung-phap-luat-ve-nuoi-con-nuoi-co-yeu-to-nuoc-ngoai-o-viet-nam-...
thuc-tien-ap-dung-phap-luat-ve-nuoi-con-nuoi-co-yeu-to-nuoc-ngoai-o-viet-nam-...thuc-tien-ap-dung-phap-luat-ve-nuoi-con-nuoi-co-yeu-to-nuoc-ngoai-o-viet-nam-...
thuc-tien-ap-dung-phap-luat-ve-nuoi-con-nuoi-co-yeu-to-nuoc-ngoai-o-viet-nam-...
huynhminhquan
 
Khóa luận: Hình thức giao đất có thu tiền sử dụng đất, HAY
Khóa luận: Hình thức giao đất có thu tiền sử dụng đất, HAYKhóa luận: Hình thức giao đất có thu tiền sử dụng đất, HAY
Khóa luận: Hình thức giao đất có thu tiền sử dụng đất, HAY
Viết Thuê Khóa Luận _ ZALO 0917.193.864 default
 
Thực Tiễn Áp Dụng Pháp Luật Về Nuôi Con Nuôi Có Yếu Tố Nước Ngoài Ở Việt Nam ...
Thực Tiễn Áp Dụng Pháp Luật Về Nuôi Con Nuôi Có Yếu Tố Nước Ngoài Ở Việt Nam ...Thực Tiễn Áp Dụng Pháp Luật Về Nuôi Con Nuôi Có Yếu Tố Nước Ngoài Ở Việt Nam ...
Thực Tiễn Áp Dụng Pháp Luật Về Nuôi Con Nuôi Có Yếu Tố Nước Ngoài Ở Việt Nam ...
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Quyền trẻ em trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền
Quyền trẻ em trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyềnQuyền trẻ em trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền
Quyền trẻ em trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận án: Quyền trẻ em trong xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam
Luận án: Quyền trẻ em trong xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt NamLuận án: Quyền trẻ em trong xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam
Luận án: Quyền trẻ em trong xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Cấp Dưỡng Sau Ly Hôn Theo Pháp Luật Việt Nam, HAY
Cấp Dưỡng Sau Ly Hôn Theo Pháp Luật Việt Nam, HAYCấp Dưỡng Sau Ly Hôn Theo Pháp Luật Việt Nam, HAY
Cấp Dưỡng Sau Ly Hôn Theo Pháp Luật Việt Nam, HAY
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CHA, MẸ VỚI CON SAU LY HÔN THEO LUẬT HÔN NHÂN GIA ĐÌNH VIỆT...
QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CHA, MẸ VỚI CON SAU LY HÔN THEO LUẬT HÔN NHÂN GIA ĐÌNH VIỆT...QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CHA, MẸ VỚI CON SAU LY HÔN THEO LUẬT HÔN NHÂN GIA ĐÌNH VIỆT...
QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CHA, MẸ VỚI CON SAU LY HÔN THEO LUẬT HÔN NHÂN GIA ĐÌNH VIỆT...
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Luận văn: Thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em, HOT
Luận văn: Thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em, HOTLuận văn: Thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em, HOT
Luận văn: Thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em, HOT
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em ở việt nam hiện nay 6834408
Thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em ở việt nam hiện nay 6834408Thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em ở việt nam hiện nay 6834408
Thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em ở việt nam hiện nay 6834408
jackjohn45
 

Similar to Đề tài: Các điều kiện nuôi con nuôi theo Luật nuôi con nuôi, HOT (20)

Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt NamLuận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
Luận văn: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
 
Luận án: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở Việt Nam, HAY - Gửi miễn phí qu...
Luận án: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở Việt Nam, HAY - Gửi miễn phí qu...Luận án: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở Việt Nam, HAY - Gửi miễn phí qu...
Luận án: Quyền trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở Việt Nam, HAY - Gửi miễn phí qu...
 
Luận văn: Quản lý nhà nước về nhận con nuôi có yếu tố nước ngoài
Luận văn: Quản lý nhà nước về nhận con nuôi có yếu tố nước ngoàiLuận văn: Quản lý nhà nước về nhận con nuôi có yếu tố nước ngoài
Luận văn: Quản lý nhà nước về nhận con nuôi có yếu tố nước ngoài
 
Pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
Pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoàiPháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
Pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
 
Báo cáo thực tập tại toà án nhân dân huyện thoại sơn
 Báo cáo thực tập tại toà án nhân dân huyện thoại sơn  Báo cáo thực tập tại toà án nhân dân huyện thoại sơn
Báo cáo thực tập tại toà án nhân dân huyện thoại sơn
 
Luận Văn Ngành Luật Học Về Quyền Trẻ Em Việt Nam
Luận Văn Ngành Luật Học Về Quyền Trẻ Em Việt NamLuận Văn Ngành Luật Học Về Quyền Trẻ Em Việt Nam
Luận Văn Ngành Luật Học Về Quyền Trẻ Em Việt Nam
 
Luan van thu tuc hanh chinh trong nuoi con nuoi theo phap luat
Luan van thu tuc hanh chinh trong nuoi con nuoi theo phap luatLuan van thu tuc hanh chinh trong nuoi con nuoi theo phap luat
Luan van thu tuc hanh chinh trong nuoi con nuoi theo phap luat
 
PHÁP LUẬT VỀ NUÔI CON NUÔI CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI CỦA VIỆT NAM TRONG MỐI TƢƠNG ...
PHÁP LUẬT VỀ NUÔI CON NUÔI CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI CỦA VIỆT NAM TRONG MỐI TƢƠNG ...PHÁP LUẬT VỀ NUÔI CON NUÔI CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI CỦA VIỆT NAM TRONG MỐI TƢƠNG ...
PHÁP LUẬT VỀ NUÔI CON NUÔI CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI CỦA VIỆT NAM TRONG MỐI TƢƠNG ...
 
Đề tài: Gia đình theo luật hôn nhân và gia đình Việt Nam, HOT
Đề tài: Gia đình theo luật hôn nhân và gia đình Việt Nam, HOTĐề tài: Gia đình theo luật hôn nhân và gia đình Việt Nam, HOT
Đề tài: Gia đình theo luật hôn nhân và gia đình Việt Nam, HOT
 
GIA ĐÌNH THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM.pdf
GIA ĐÌNH THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM.pdfGIA ĐÌNH THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM.pdf
GIA ĐÌNH THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM.pdf
 
Khoá Luận Luật Hôn Nhân Và Gia Đình về Bảo Vệ Trẻ em
Khoá Luận Luật Hôn Nhân Và Gia Đình về Bảo Vệ Trẻ emKhoá Luận Luật Hôn Nhân Và Gia Đình về Bảo Vệ Trẻ em
Khoá Luận Luật Hôn Nhân Và Gia Đình về Bảo Vệ Trẻ em
 
thuc-tien-ap-dung-phap-luat-ve-nuoi-con-nuoi-co-yeu-to-nuoc-ngoai-o-viet-nam-...
thuc-tien-ap-dung-phap-luat-ve-nuoi-con-nuoi-co-yeu-to-nuoc-ngoai-o-viet-nam-...thuc-tien-ap-dung-phap-luat-ve-nuoi-con-nuoi-co-yeu-to-nuoc-ngoai-o-viet-nam-...
thuc-tien-ap-dung-phap-luat-ve-nuoi-con-nuoi-co-yeu-to-nuoc-ngoai-o-viet-nam-...
 
Khóa luận: Hình thức giao đất có thu tiền sử dụng đất, HAY
Khóa luận: Hình thức giao đất có thu tiền sử dụng đất, HAYKhóa luận: Hình thức giao đất có thu tiền sử dụng đất, HAY
Khóa luận: Hình thức giao đất có thu tiền sử dụng đất, HAY
 
Thực Tiễn Áp Dụng Pháp Luật Về Nuôi Con Nuôi Có Yếu Tố Nước Ngoài Ở Việt Nam ...
Thực Tiễn Áp Dụng Pháp Luật Về Nuôi Con Nuôi Có Yếu Tố Nước Ngoài Ở Việt Nam ...Thực Tiễn Áp Dụng Pháp Luật Về Nuôi Con Nuôi Có Yếu Tố Nước Ngoài Ở Việt Nam ...
Thực Tiễn Áp Dụng Pháp Luật Về Nuôi Con Nuôi Có Yếu Tố Nước Ngoài Ở Việt Nam ...
 
Quyền trẻ em trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền
Quyền trẻ em trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyềnQuyền trẻ em trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền
Quyền trẻ em trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền
 
Luận án: Quyền trẻ em trong xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam
Luận án: Quyền trẻ em trong xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt NamLuận án: Quyền trẻ em trong xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam
Luận án: Quyền trẻ em trong xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam
 
Cấp Dưỡng Sau Ly Hôn Theo Pháp Luật Việt Nam, HAY
Cấp Dưỡng Sau Ly Hôn Theo Pháp Luật Việt Nam, HAYCấp Dưỡng Sau Ly Hôn Theo Pháp Luật Việt Nam, HAY
Cấp Dưỡng Sau Ly Hôn Theo Pháp Luật Việt Nam, HAY
 
QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CHA, MẸ VỚI CON SAU LY HÔN THEO LUẬT HÔN NHÂN GIA ĐÌNH VIỆT...
QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CHA, MẸ VỚI CON SAU LY HÔN THEO LUẬT HÔN NHÂN GIA ĐÌNH VIỆT...QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CHA, MẸ VỚI CON SAU LY HÔN THEO LUẬT HÔN NHÂN GIA ĐÌNH VIỆT...
QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CHA, MẸ VỚI CON SAU LY HÔN THEO LUẬT HÔN NHÂN GIA ĐÌNH VIỆT...
 
Luận văn: Thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em, HOT
Luận văn: Thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em, HOTLuận văn: Thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em, HOT
Luận văn: Thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em, HOT
 
Thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em ở việt nam hiện nay 6834408
Thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em ở việt nam hiện nay 6834408Thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em ở việt nam hiện nay 6834408
Thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em ở việt nam hiện nay 6834408
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

Smartbiz_He thong MES nganh may mac_2024june
Smartbiz_He thong MES nganh may mac_2024juneSmartbiz_He thong MES nganh may mac_2024june
Smartbiz_He thong MES nganh may mac_2024june
SmartBiz
 
Giải phẫu tim sau đại học- LÊ QUANG TUYỀN
Giải phẫu tim sau đại học- LÊ QUANG TUYỀNGiải phẫu tim sau đại học- LÊ QUANG TUYỀN
Giải phẫu tim sau đại học- LÊ QUANG TUYỀN
linh miu
 
Quan Tri Doi Moi Sang Tao_ Innovation Management
Quan Tri Doi Moi Sang Tao_ Innovation ManagementQuan Tri Doi Moi Sang Tao_ Innovation Management
Quan Tri Doi Moi Sang Tao_ Innovation Management
ChuPhan32
 
PLĐC-chương 1 (1).ppt của trường ĐH Ngoại thương
PLĐC-chương 1 (1).ppt của trường  ĐH Ngoại thươngPLĐC-chương 1 (1).ppt của trường  ĐH Ngoại thương
PLĐC-chương 1 (1).ppt của trường ĐH Ngoại thương
hieutrinhvan27052005
 
insulin cho benh nhan nam vien co tang duong huyet
insulin cho benh nhan nam vien co tang duong huyetinsulin cho benh nhan nam vien co tang duong huyet
insulin cho benh nhan nam vien co tang duong huyet
lmhong80
 
Chương 3 Linh kien ban dan và KD dien tu - Copy.ppt
Chương 3 Linh kien ban dan và KD dien tu - Copy.pptChương 3 Linh kien ban dan và KD dien tu - Copy.ppt
Chương 3 Linh kien ban dan và KD dien tu - Copy.ppt
PhiTrnHngRui
 
40 câu hỏi - đáp Bộ luật dân sự năm 2015 (1).doc
40 câu hỏi - đáp Bộ  luật dân sự năm  2015 (1).doc40 câu hỏi - đáp Bộ  luật dân sự năm  2015 (1).doc
40 câu hỏi - đáp Bộ luật dân sự năm 2015 (1).doc
NguynDimQunh33
 
BÀI TẬP BỔ TRỢ TIẾNG ANH I-LEARN SMART WORLD 9 CẢ NĂM CÓ TEST THEO UNIT NĂM H...
BÀI TẬP BỔ TRỢ TIẾNG ANH I-LEARN SMART WORLD 9 CẢ NĂM CÓ TEST THEO UNIT NĂM H...BÀI TẬP BỔ TRỢ TIẾNG ANH I-LEARN SMART WORLD 9 CẢ NĂM CÓ TEST THEO UNIT NĂM H...
BÀI TẬP BỔ TRỢ TIẾNG ANH I-LEARN SMART WORLD 9 CẢ NĂM CÓ TEST THEO UNIT NĂM H...
Nguyen Thanh Tu Collection
 
CHUYÊN ĐỀ DẠY THÊM HÓA HỌC LỚP 10 - SÁCH MỚI - FORM BÀI TẬP 2025 (DÙNG CHUNG ...
CHUYÊN ĐỀ DẠY THÊM HÓA HỌC LỚP 10 - SÁCH MỚI - FORM BÀI TẬP 2025 (DÙNG CHUNG ...CHUYÊN ĐỀ DẠY THÊM HÓA HỌC LỚP 10 - SÁCH MỚI - FORM BÀI TẬP 2025 (DÙNG CHUNG ...
CHUYÊN ĐỀ DẠY THÊM HÓA HỌC LỚP 10 - SÁCH MỚI - FORM BÀI TẬP 2025 (DÙNG CHUNG ...
Nguyen Thanh Tu Collection
 
FSSC 22000 version 6_Seminar_FINAL end.pptx
FSSC 22000 version 6_Seminar_FINAL end.pptxFSSC 22000 version 6_Seminar_FINAL end.pptx
FSSC 22000 version 6_Seminar_FINAL end.pptx
deviv80273
 
Sinh-12-Chuyên-2022-2023.dành cho ôn thi hsg
Sinh-12-Chuyên-2022-2023.dành cho ôn thi hsgSinh-12-Chuyên-2022-2023.dành cho ôn thi hsg
Sinh-12-Chuyên-2022-2023.dành cho ôn thi hsg
vivan030207
 
Văn 7. Truyện ngụ ngôn Rùa và thỏ+ Viết PT nhân vật.docx
Văn 7. Truyện ngụ ngôn Rùa và thỏ+ Viết PT nhân vật.docxVăn 7. Truyện ngụ ngôn Rùa và thỏ+ Viết PT nhân vật.docx
Văn 7. Truyện ngụ ngôn Rùa và thỏ+ Viết PT nhân vật.docx
metamngoc123
 
THONG BAO nop ho so xet tuyen TS6 24-25.pdf
THONG BAO nop ho so xet tuyen TS6 24-25.pdfTHONG BAO nop ho so xet tuyen TS6 24-25.pdf
THONG BAO nop ho so xet tuyen TS6 24-25.pdf
QucHHunhnh
 
Biểu tượng trăng và bầu trời trong tác phẩm của Nguyễn Quang Thiều
Biểu tượng trăng và bầu trời trong tác phẩm của Nguyễn Quang ThiềuBiểu tượng trăng và bầu trời trong tác phẩm của Nguyễn Quang Thiều
Biểu tượng trăng và bầu trời trong tác phẩm của Nguyễn Quang Thiều
lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Halloween vocabulary for kids in primary school
Halloween vocabulary for kids in primary schoolHalloween vocabulary for kids in primary school
Halloween vocabulary for kids in primary school
AnhPhm265031
 
LỊCH SỬ 12 - CHUYÊN ĐỀ 10 - TRẮC NGHIỆM.pptx
LỊCH SỬ 12 - CHUYÊN ĐỀ 10 - TRẮC NGHIỆM.pptxLỊCH SỬ 12 - CHUYÊN ĐỀ 10 - TRẮC NGHIỆM.pptx
LỊCH SỬ 12 - CHUYÊN ĐỀ 10 - TRẮC NGHIỆM.pptx
12D241NguynPhmMaiTra
 
100 DẪN CHỨNG NGHỊ LUẬN XÃ HỘiI HAY.docx
100 DẪN CHỨNG NGHỊ LUẬN XÃ HỘiI HAY.docx100 DẪN CHỨNG NGHỊ LUẬN XÃ HỘiI HAY.docx
100 DẪN CHỨNG NGHỊ LUẬN XÃ HỘiI HAY.docx
khanhthy3000
 
Ngân hàng điện tử số ptit - giảng viên cô Hà
Ngân hàng điện tử số ptit - giảng viên cô HàNgân hàng điện tử số ptit - giảng viên cô Hà
Ngân hàng điện tử số ptit - giảng viên cô Hà
onLongV
 

Recently uploaded (18)

Smartbiz_He thong MES nganh may mac_2024june
Smartbiz_He thong MES nganh may mac_2024juneSmartbiz_He thong MES nganh may mac_2024june
Smartbiz_He thong MES nganh may mac_2024june
 
Giải phẫu tim sau đại học- LÊ QUANG TUYỀN
Giải phẫu tim sau đại học- LÊ QUANG TUYỀNGiải phẫu tim sau đại học- LÊ QUANG TUYỀN
Giải phẫu tim sau đại học- LÊ QUANG TUYỀN
 
Quan Tri Doi Moi Sang Tao_ Innovation Management
Quan Tri Doi Moi Sang Tao_ Innovation ManagementQuan Tri Doi Moi Sang Tao_ Innovation Management
Quan Tri Doi Moi Sang Tao_ Innovation Management
 
PLĐC-chương 1 (1).ppt của trường ĐH Ngoại thương
PLĐC-chương 1 (1).ppt của trường  ĐH Ngoại thươngPLĐC-chương 1 (1).ppt của trường  ĐH Ngoại thương
PLĐC-chương 1 (1).ppt của trường ĐH Ngoại thương
 
insulin cho benh nhan nam vien co tang duong huyet
insulin cho benh nhan nam vien co tang duong huyetinsulin cho benh nhan nam vien co tang duong huyet
insulin cho benh nhan nam vien co tang duong huyet
 
Chương 3 Linh kien ban dan và KD dien tu - Copy.ppt
Chương 3 Linh kien ban dan và KD dien tu - Copy.pptChương 3 Linh kien ban dan và KD dien tu - Copy.ppt
Chương 3 Linh kien ban dan và KD dien tu - Copy.ppt
 
40 câu hỏi - đáp Bộ luật dân sự năm 2015 (1).doc
40 câu hỏi - đáp Bộ  luật dân sự năm  2015 (1).doc40 câu hỏi - đáp Bộ  luật dân sự năm  2015 (1).doc
40 câu hỏi - đáp Bộ luật dân sự năm 2015 (1).doc
 
BÀI TẬP BỔ TRỢ TIẾNG ANH I-LEARN SMART WORLD 9 CẢ NĂM CÓ TEST THEO UNIT NĂM H...
BÀI TẬP BỔ TRỢ TIẾNG ANH I-LEARN SMART WORLD 9 CẢ NĂM CÓ TEST THEO UNIT NĂM H...BÀI TẬP BỔ TRỢ TIẾNG ANH I-LEARN SMART WORLD 9 CẢ NĂM CÓ TEST THEO UNIT NĂM H...
BÀI TẬP BỔ TRỢ TIẾNG ANH I-LEARN SMART WORLD 9 CẢ NĂM CÓ TEST THEO UNIT NĂM H...
 
CHUYÊN ĐỀ DẠY THÊM HÓA HỌC LỚP 10 - SÁCH MỚI - FORM BÀI TẬP 2025 (DÙNG CHUNG ...
CHUYÊN ĐỀ DẠY THÊM HÓA HỌC LỚP 10 - SÁCH MỚI - FORM BÀI TẬP 2025 (DÙNG CHUNG ...CHUYÊN ĐỀ DẠY THÊM HÓA HỌC LỚP 10 - SÁCH MỚI - FORM BÀI TẬP 2025 (DÙNG CHUNG ...
CHUYÊN ĐỀ DẠY THÊM HÓA HỌC LỚP 10 - SÁCH MỚI - FORM BÀI TẬP 2025 (DÙNG CHUNG ...
 
FSSC 22000 version 6_Seminar_FINAL end.pptx
FSSC 22000 version 6_Seminar_FINAL end.pptxFSSC 22000 version 6_Seminar_FINAL end.pptx
FSSC 22000 version 6_Seminar_FINAL end.pptx
 
Sinh-12-Chuyên-2022-2023.dành cho ôn thi hsg
Sinh-12-Chuyên-2022-2023.dành cho ôn thi hsgSinh-12-Chuyên-2022-2023.dành cho ôn thi hsg
Sinh-12-Chuyên-2022-2023.dành cho ôn thi hsg
 
Văn 7. Truyện ngụ ngôn Rùa và thỏ+ Viết PT nhân vật.docx
Văn 7. Truyện ngụ ngôn Rùa và thỏ+ Viết PT nhân vật.docxVăn 7. Truyện ngụ ngôn Rùa và thỏ+ Viết PT nhân vật.docx
Văn 7. Truyện ngụ ngôn Rùa và thỏ+ Viết PT nhân vật.docx
 
THONG BAO nop ho so xet tuyen TS6 24-25.pdf
THONG BAO nop ho so xet tuyen TS6 24-25.pdfTHONG BAO nop ho so xet tuyen TS6 24-25.pdf
THONG BAO nop ho so xet tuyen TS6 24-25.pdf
 
Biểu tượng trăng và bầu trời trong tác phẩm của Nguyễn Quang Thiều
Biểu tượng trăng và bầu trời trong tác phẩm của Nguyễn Quang ThiềuBiểu tượng trăng và bầu trời trong tác phẩm của Nguyễn Quang Thiều
Biểu tượng trăng và bầu trời trong tác phẩm của Nguyễn Quang Thiều
 
Halloween vocabulary for kids in primary school
Halloween vocabulary for kids in primary schoolHalloween vocabulary for kids in primary school
Halloween vocabulary for kids in primary school
 
LỊCH SỬ 12 - CHUYÊN ĐỀ 10 - TRẮC NGHIỆM.pptx
LỊCH SỬ 12 - CHUYÊN ĐỀ 10 - TRẮC NGHIỆM.pptxLỊCH SỬ 12 - CHUYÊN ĐỀ 10 - TRẮC NGHIỆM.pptx
LỊCH SỬ 12 - CHUYÊN ĐỀ 10 - TRẮC NGHIỆM.pptx
 
100 DẪN CHỨNG NGHỊ LUẬN XÃ HỘiI HAY.docx
100 DẪN CHỨNG NGHỊ LUẬN XÃ HỘiI HAY.docx100 DẪN CHỨNG NGHỊ LUẬN XÃ HỘiI HAY.docx
100 DẪN CHỨNG NGHỊ LUẬN XÃ HỘiI HAY.docx
 
Ngân hàng điện tử số ptit - giảng viên cô Hà
Ngân hàng điện tử số ptit - giảng viên cô HàNgân hàng điện tử số ptit - giảng viên cô Hà
Ngân hàng điện tử số ptit - giảng viên cô Hà
 

Đề tài: Các điều kiện nuôi con nuôi theo Luật nuôi con nuôi, HOT

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT BÙI THỊ THANH LÊ c¸c ®iÒu kiÖn nu«i con nu«i theo luËt nu«i con nu«i n¨m 2010 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT BÙI THỊ THANH LÊ c¸c ®iÒu kiÖn nu«i con nu«i theo luËt nu«i con nu«i n¨m 2010 Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự Mã số: 60 38 01 03 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN PHƢƠNG LAN HÀ NỘI - 2015
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Bùi Thị Thanh Lê
  • 4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục biểu đồ MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NUÔI CON NUÔI VÀ ĐIỀU KIỆN NUÔI CON NUÔI........................................................ 6 1.1. Khái niệm nuôi con nuôi và ý nghĩa của việc nuôi con nuôi .......... 6 1.1.1. Khái niệm nuôi con nuôi...................................................................... 6 1.1.2. Ý nghĩa của việc nuôi con nuôi............................................................ 9 1.2. Khái niệm về điều kiện nuôi con nuôi ............................................11 1.3. Các yếu tố ảnh hƣởng đến việc quy định điều kiện nuôi con nuôi ...12 1.4. Sự cần thiết quy định điều kiện nuôi con nuôi ..............................15 Chƣơng 2: CÁC ĐIỀU KIỆN ĐỂ VIỆC NUÔI CON NUÔI CÓ GIÁ TRỊ PHÁP LÝ THEO LUẬT NUÔI CON NUÔI NĂM 2010.....19 2.1. Điều kiện đối với ngƣời đƣợc nhận làm con nuôi .........................19 2.2. Điều kiện đối với ngƣời nhận nuôi con nuôi..................................24 2.3. Điều kiện về ý chí của các bên chủ thể...........................................37 2.3.1. Sự thể hiện ý chí của người nhận nuôi con nuôi................................37 2.3.2. Sự thể hiện ý chí của cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ của người được cho làm con nuôi .......................................................................38 2.3.3. Sự thể hiện ý chí của người được nhận làm con nuôi........................42 2.3.4. Sự thể hiện ý chí của Nhà nước .........................................................42
  • 5. 2.4. Đăng ký việc nuôi con nuôi..............................................................43 2.4.1. Đăng ký việc nuôi con nuôi trong nước.............................................44 2.4.2. Đăng ký việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.............................49 2.4.3. Vấn đề nuôi con nuôi thực tế và đăng ký nuôi con nuôi thực tế........59 Chƣơng 3: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CÁC ĐIỀU KIỆN NUÔI CON NUÔI VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ VẤN ĐỀ NÀY ....................................................64 3.1. Thực trạng thực hiện pháp luật về điều kiện nuôi con nuôi........64 3.2. Thực tiễn thực hiện vấn đề đăng ký nuôi con nuôi thực tế..........71 3.3. Một số vấn đề còn tồn tại trong việc áp dụng điều kiện nuôi con nuôi.............................................................................................76 3.3.1. Những khó khăn, vướng mắc.............................................................76 3.3.2. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trên....................................82 3.4. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về điều kiện nuôi con nuôi.............................................................................................83 3.4.1. Kiến nghị hoàn thiện thể chế pháp luật về điều kiện nuôi con nuôi .........83 3.4.2. Giải pháp về tổ chức, thực hiện..........................................................85 KẾT LUẬN....................................................................................................87 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................89
  • 6. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT Công ước LaHay 1993: Công ước LaHay về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em: Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 Luật HN&GĐ năm 2000: Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 Luật Nuôi con nuôi: Luật Nuôi con nuôi năm 2010 Nghị định 158/2005/NĐ-CP: Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch Nghị định 19/2011/NĐ-CP: Nghị định số 19/2011/NĐ-CP ngày 21/3/2011 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Nuôi con nuôi Nghị định 68/2002/NĐ-CP: Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10/7/2002 của Chính phủ về việc quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài Nghị định 69/2006/NĐ-CP: Nghị định số 69/2006/NĐ-CP ngày 21/7/2006 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10 tháng 7 năm 2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài Sở LĐTBXH: Sở Lao động thương binh xã hội UBND: Ủy ban nhân dân
  • 7. DANH MỤC BIỂU ĐỒ Số hiệu biểu đồ Tên biểu đồ Trang Biểu đồ 3.1: So sánh số lượng trẻ em được cho làm con nuôi trong nước và số lượng trẻ em được cho làm con nuôi ở nước ngoài 64 Biểu đồ 3.2: Thể hiện kết quả đăng ký nuôi con nuôi thực tế 72
  • 8. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trẻ em là một nhóm xã hội non nớt, dễ bị tổn thương nhất, được toàn thể cộng đồng quốc tế quan tâm và bảo vệ. Một trong những quyền cơ bản của trẻ em được pháp luật quy định, bảo vệ là quyền được sống, được chăm sóc, nuôi dưỡng trong môi trường gia đình. Tuy nhiên không phải tất cả trẻ em sinh ra đều có cha mẹ và đều may mắn được sống trong môi trường gia đình. Trong xã hội còn nhiều trẻ em bị bỏ rơi, mồ côi, khuyết tật, sống trong các gia đình nghèo không có điều kiện nuôi dưỡng, cần một mái ấm gia đình thay thế. Một trong những biện pháp bảo đảm cho trẻ em một gia đình thay thế là cho trẻ làm con nuôi. Cho trẻ em làm con nuôi được xem là một giải pháp bảo vệ trẻ em, không để trẻ em phải sống lang thang, thiếu điều kiện phát triển. Theo báo cáo của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, hiện nay cả nước có khoảng 1,5 triệu trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt cần được chăm sóc, giúp đỡ bằng nhiều biện pháp khác nhau trong đó có việc tìm gia đình thay thế cho trẻ em ở trong nước và ở nước ngoài. Sự ra đời của Luật Nuôi con nuôi năm 2010 nói chung và việc quy định các điều kiện nuôi con nuôi nói riêng đã tạo điều kiện cho các cá nhân, gia đình có nhu cầu muốn nhận nuôi con nuôi, đồng thời cũng tạo cho các em có hoàn cảnh đặc biệt được sống trong gia đình giống như môi trường gia đình gốc của mình. Việc quy định các điều kiện nuôi con nuôi là cần thiết để đảm bảo cho trẻ em được nhận nuôi được sống trong môi trường gia đình an toàn, lành mạnh, được yêu thương chăm sóc. Đây cũng chính là một biện pháp nhằm ngăn ngừa các hành vi lợi dụng việc cho – nhận con nuôi vào mục đích khác như: hành vi trục lợi từ việc nuôi con nuôi, buôn bán trẻ em… Tuy nhiên, việc hiểu và áp dụng các điều kiện nuôi con nuôi vào thực tế
  • 9. 2 còn gặp những vướng mắc, bất cập như: việc xác nhận các điều kiện nuôi con nuôi, lập hồ sơ đăng ký nuôi con nuôi, khó khăn trong việc theo dõi và quản lý báo cáo tình hình phát triển của con nuôi, vướng mắc phát sinh trong việc đăng ký nuôi con nuôi hay giải quyết tình trạng nuôi con nuôi thực tế... Vì vậy, để đảm bảo được mục đích và ý nghĩa của việc nuôi con nuôi thì các điều kiện của người nhận nuôi và trẻ em được nhận làm con nuôi cần được quy định chặt chẽ, được nghiên cứu và hoàn thiện để giải quyết những khó khăn, vướng mắc phát sinh khi áp dụng các quy định này vào thực tế. Đây là lý do tôi chọn đề tài: “Các điều kiện nuôi con nuôi theo Luật nuôi con nuôi năm 2010” là đề tài luận văn thạc sĩ của mình. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài 2.1. Mục đích nghiên cứu của đề tài Mục đích nghiên cứu của đề tài là phân tích làm rõ những vấn đề lý luận về điều kiện nuôi con nuôi, các điều kiện của việc nuôi con nuôi theo Luật nuôi con nuôi năm 2010, thực tiễn áp dụng các điều kiện nuôi con nuôi trong giải quyết việc cho nhận con nuôi, qua đó đánh giá mặt tích cực và hạn chế của các quy định về điệu kiện nuôi con nuôi, đề xuất những giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về các điều kiện nuôi con nuôi ở Việt Nam hiện nay. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện mục đích trên, cần thực hiện những nhiệm vụ nghiên cứu sau: - Tìm hiểu những vấn đề lý luận cơ bản về nuôi con nuôi và các điều kiện của việc nuôi con nuôi, sự cần thiết phải quy định điều kiện nuôi con nuôi. - Phân tích các điều kiện nuôi con nuôi theo Luật nuôi con nuôi năm 2010, có sự so sánh với các quy định của pháp luật trước đây, đồng thời đánh giá mặt tích cực và hạn chế của các quy định này. - Tìm hiểu một số nét về thực trạng áp dụng các điều kiện nuôi con nuôi tại Việt Nam hiện nay, trên cơ sở đó phát hiện những vướng mắc bất cập và đề xuất kiến nghị hoàn thiện pháp luật.
  • 10. 3 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài Đối tượng nghiên cứu của đề tài là một số vấn đề lý luận về nuôi con nuôi và điều kiện nuôi con theo Luật nuôi con nuôi năm 2010, thực trạng áp dụng điều kiện nuôi con nuôi trong thực tế. Luận văn tập trung phân tích các điều kiện nuôi con nuôi theo quy định trong Luật nuôi con nuôi năm 2010, bao gồm các điều kiện đối với các chủ thể có liên quan trong việc cho nhận con nuôi (điều kiện nội dung) và thủ tục, trình tự, thẩm quyền đăng ký việc nuôi con nuôi (điều kiện hình thức) để đảm bảo cho việc nuôi con nuôi có giá trị pháp lý làm phát sinh quan hệ cha mẹ và con giữa hai bên. Khi phân tích, có sự so sánh với Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định về vấn đề này. 4. Tình hình nghiên cứu đề tài Vấn đề nuôi con nuôi đã nhận được sự quan tâm nghiên cứu của rất nhiều nhà nghiên cứu luật học. Có rất nhiều những bài viết về vấn đề nuôi con nuôi và bảo vệ quyền trẻ em trong lĩnh vực nuôi con nuôi như: bài viết "Về chế định nuôi con nuôi trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000" của Ngô Thị Hường, Tạp chí Luật học số 3 năm 2001; bài viết "Tăng cường bảo đảm quyền trẻ em được sống trong gia đình", của Hà Đình Bốn, Dân chủ và pháp luật 2009 (Số chuyên đề pháp luật về nuôi con nuôi); “Một số vấn đề về điều kiện nuôi con nuôi” của TS. Nguyễn Phương Lan, Tạp chí Luật học số tháng 3 năm 2009... Đây là những bài viết nói lên sự cần thiết phải bảo vệ quyền trẻ em, quyền được sống trong môi trường gia đình. Theo đó, việc hoàn thiện các điều kiện nuôi con nuôi trong việc cho – nhận con nuôi là một yêu cầu cần thiết để đảm bảo mục đích này. Mặt khác còn có các công trình nghiên cứu chuyên sâu về lĩnh vực nuôi con nuôi như: Luận án tiến sĩ về “Cơ sở lý luận và thực tiễn của chế định pháp lý về nuôi con nuôi ở Việt Nam” của Nguyễn Phương Lan năm 2007 –
  • 11. 4 Trường Đại học Luật Hà Nội; Luận văn thạc sĩ “Nuôi con nuôi theo pháp luật Việt Nam”, của Bùi Thị Hương năm 2011 – Khoa Luật – Đại học quốc gia Hà Nội... Những luận văn, luận án trên đã tiếp tục nêu lên tầm quan trọng của việc nghiên cứu và hoàn thiện các quy định về pháp luật nuôi con nuôi và các điều kiện nuôi con nuôi đảm bảo cho trẻ em được nuôi dưỡng, chăm sóc trong môi trường gia đình. Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện pháp luật nuôi con nuôi nói chung và các điều kiện nuôi con nuôi nói riêng vẫn thực sự cần thiết. Việc nghiên cứu sẽ chỉ ra những mặt tích cực, mặt hạn chế khi áp dụng điều kiện nuôi con nuôi vào thực tế, vừa đề ra được những giải pháp hoàn thiện pháp luật về các điều kiện nuôi con nuôi góp phần bảo vệ tốt hơn quyền lợi trẻ em được nhận làm con nuôi, cũng như mục đích, ý nghĩa của việc nuôi con nuôi. 5. Tính mới và những đóng góp của luận văn - Luận văn là công trình nghiên cứu có tính chất chuyên sâu và toàn diện về điều kiện nuôi con nuôi theo Luật Nuôi con nuôi năm 2010. - Trên cơ sở nghiên cứu các điều kiện nuôi con nuôi, luận văn đã có sự đánh giá, phân tích một số nét về thực trạng thực hiện pháp luật về điều kiện nuôi con nuôi từ sau khi Luật Nuôi con nuôi có hiệu lực cho đến nay, chỉ ra những mặt tích cực và hạn chế của các quy định này, đồng thời đóng góp những kiến nghị hoàn thiện pháp luật về các điều kiện nuôi con nuôi. 6. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước về quyền trẻ em và bảo vệ trẻ em trong lĩnh vực nuôi con nuôi. Về phương pháp nghiên cứu: luận văn sử dụng các phương pháp như phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, phương pháp phân tích, so sánh; phương pháp tổng hợp, điều tra xã hội học.
  • 12. 5 7. Kết cấu cấu của Luận văn Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn kết cấu gồm ba chương như sau: Chương 1: Những vấn đề lý luận về nuôi con nuôi và điều kiện nuôi con nuôi. Chương 2: Các điều kiện để việc nuôi con nuôi có giá trị pháp lý theo Luật nuôi con nuôi năm 2010. Chương 3: Thực trạng thực hiện điều kiện nuôi con nuôi và một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.
  • 13. 6 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NUÔI CON NUÔI VÀ ĐIỀU KIỆN NUÔI CON NUÔI 1.1. Khái niệm nuôi con nuôi và ý nghĩa của việc nuôi con nuôi 1.1.1. Khái niệm nuôi con nuôi Nuôi con nuôi là hiện tượng tồn tại trong mọi chế độ xã hội và xuất hiện từ rất lâu trong lịch sử nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của con người, thể hiện mối quan hệ gắn bó của con người với nhau. Khái niệm nuôi con nuôi có thể được xem xét dưới hai góc độ: góc độ xã hội và góc độ pháp lý. * Dưới góc độ xã hội Trong cuộc sống xã hội có rất nhiều trường hợp cá nhân hoặc gia đình nhận một đứa trẻ làm con nuôi. Việc nhận con nuôi có thể xuất phát từ nhiều lý do như: người nhận nuôi không có con; từ tình yêu thương với những đứa trẻ mồ côi, không nơi nương tựa; từ phong tục tập quán của địa phương hoặc để tích đức về sau cho con cái… Việc hình thành quan hệ cha mẹ con trong trường hợp này một mặt đáp ứng nhu cầu về tình cảm giữa người nhận nuôi và người được nhận nuôi, thể hiện sự yêu thương, muốn giúp đỡ cưu mang trẻ em mồ côi, trẻ em bất hạnh; mặt khác nó còn thể hiện lòng nhân ái, sự hướng thiện của con người với những giá trị đạo đức tốt đẹp. Mặc dù đã hình thành quan hệ cha mẹ và con trên thực tế, các bên đều thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ cha mẹ và con đối với nhau nhưng do các bên không đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền nên quan hệ nuôi con nuôi không được công nhận có giá trị pháp lý. Việc hình thành những quan hệ như trên đã tạo ra các hình thức nuôi con nuôi như: nuôi con nuôi theo phong tục tập quán, nuôi con nuôi lập tự,
  • 14. 7 nuôi con nuôi trên danh nghĩa, nuôi con nuôi lấy phúc… Trên thực tế, quan hệ nuôi con nuôi này mặc dù không có sự công nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng vẫn tồn tại mối quan hệ cha mẹ con giữa người nhận nuôi và người được nhận nuôi. Như vậy, dưới góc độ xã hội thì nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha mẹ và con trên thực tế giữa người nhận nuôi và người được nhận nuôi nhằm đáp ứng những nhu cầu về tình cảm và lợi ích giữa người nhận nuôi và người được nhận nuôi mà không có sự công nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. * Dưới góc độ pháp lý Dưới góc độ pháp lý, nuôi con nuôi có thể được hiểu: là sự kiện pháp lý hoặc là quan hệ pháp luật. Trong phạm vi luận văn này, nuôi con nuôi được hiểu dưới góc độ là sự kiện pháp lý. Việc nuôi con nuôi bao gồm tập hợp các sự kiện pháp lý. Chỉ khi nào hội tụ đủ các sự kiện này quan hệ nuôi con nuôi mới phát sinh hiệu lực pháp lý. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền chỉ có thể công nhận việc nuôi con nuôi khi các bên đương sự thể hiện rõ ràng ý chí của mình đồng thời đáp ứng đầy đủ các điều kiện cần thiết của việc nuôi con nuôi. Nói cách khác, cơ quan nhà nước có thẩm quyền chỉ có thể công nhận việc nuôi con nuôi khi các sự kiện cấu thành đã hội tụ đầy đủ và được liên kết lại với nhau tại thời điểm phát sinh quan hệ pháp luật về nuôi con nuôi. Vì vậy có thể nói dưới góc độ pháp lý nuôi con nuôi là sự kiện pháp lý, là một cấu thành sự kiện. Về lý luận, sự kiện pháp lý là những sự kiện xảy ra trong thực tế được pháp luật quy định rõ các quyền và nghĩa vụ. Có nghĩa là những hoàn cảnh, tình huống điều kiện của đời sống thực tế được pháp luật ghi nhận trong các quy phạm pháp luật gắn liền với việc làm phát sinh, thay đổi và chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các chủ thể cụ thể khi chúng xảy ra.
  • 15. 8 Với tư cách là một sự kiện pháp lý, điều kiện nuôi con nuôi bao gồm các điều kiện về nội dung và điều kiện về hình thức. Hai điều kiện này có mối quan hệ với nhau và tạo ra hiệu lực pháp lý của quan hệ nuôi con nuôi. Vì vậy, sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ pháp luật nuôi con nuôi khi nó đáp ứng được các yếu tố sau: các điều kiện về chủ thể của việc nuôi con nuôi; sự thể hiện ý chí của người nhận nuôi con nuôi, ý chí của cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ của trẻ em được cho làm con nuôi, ý chí của bản thân người con nuôi (điều kiện nội dung) và ý chí của nhà nước công nhận việc xác lập quan hệ nuôi con nuôi (điều kiện hình thức). - Về chủ thể: người nhận nuôi, người được nhận nuôi, cha mẹ đẻ phải đáp ứng được các điều kiện của việc nuôi con nuôi. Các điều kiện này được pháp luật quy định và bắt buộc các chủ thể phải đáp ứng khi mong muốn xác lập quan hệ nuôi con nuôi. Việc đáp ứng đầy đủ các điều kiện nuôi con nuôi do pháp luật quy định chính là một điều kiện để các bên tham gia vào sự kiện pháp lý phát sinh quan hệ nuôi con nuôi. - Về sự thể hiện ý chí của các bên liên quan: các chủ thể ngoài việc đáp ứng được các điều kiện của việc nuôi con nuôi thì cần phải thể hiện ý chí của mình trong việc cho – nhận con nuôi. + Sự thể hiện ý chí của người nhận nuôi con nuôi. Người nhận nuôi con nuôi phải thể hiện ý chí của mình về việc mong muốn nhận nuôi đứa trẻ và thiết lập quan hệ cha mẹ và con với đứa trẻ đó. + Sự thể hiện ý chí của cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ của trẻ em được cho làm con nuôi. Ý chí của những người này trong việc cho trẻ em làm con nuôi phải tự nguyện, không có bất cứ sự tác động, dụ dỗ, ép buộc nào. + Sự thể hiện ý chí của bản thân người được nhận làm con nuôi. Pháp luật quy định khi trẻ em đạt đến một độ tuổi nhất định (từ 9 tuổi trở lên), trẻ em có quyền thể hiện ý chí độc lập, quyết định vấn đề có liên quan đến cuộc
  • 16. 9 sống của mình. Sự đồng ý làm con nuôi của trẻ trong trường hợp này là điều kiện bắt buộc để việc nuôi con nuôi có giá trị pháp lý. Quy định này thể hiện quyền cơ bản của trẻ em trong việc bày tỏ ý kiến của mình. - Ý chí của nhà nước được thể hiện qua việc công nhận hay không công nhận việc nuôi con nuôi thông qua thủ tục đăng ký việc nuôi con nuôi hay từ chối việc đăng ký nuôi con nuôi. Việc nuôi con nuôi được công nhận tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền làm phát sinh hiệu lực pháp lý của việc nuôi con nuôi. Như vậy, dưới góc độ là một sự kiện pháp lý, nuôi con nuôi được hiểu là việc một người hoặc hai người là vợ chồng nhận nuôi một người khác không do họ sinh ra, nhằm xác lập quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận nuôi và người được nhận nuôi trên cơ sở phù hợp với các quy định của pháp luật. 1.1.2. Ý nghĩa của việc nuôi con nuôi Việc ban hành Luật Nuôi con nuôi cũng như quy định mục đích của việc nuôi con nuôi đã thể hiện truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tình yêu thương, tinh thần trách nhiệm, mối quan hệ tương thân tương ái giúp đỡ lẫn nhau giữa con người với con người. Đặc biệt trong hoàn cảnh đất nước còn chịu những di chứng nặng nề của chiến tranh, điều kiện kinh tế - xã hội còn khó khăn, mức thu nhập của người dân còn thấp, nhiều trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt cần có mái ấm gia đình, thì vấn đề nuôi con nuôi càng trở lên cấp thiết trong đời sống xã hội, đảm bảo cho trẻ em được lớn lên trong môi trường gia đình, trong bầu không khí hạnh phúc để trở thành người có ích cho xã hội. Trong thời gian qua, có rất nhiều trẻ em bị bỏ rơi khi vừa mới sinh ra, rất nhiều trẻ em bị dị tật bẩm sinh hoặc bị di chứng do ảnh hưởng của chiến tranh để lại, trẻ em là con của các gia đình nghèo mà cha mẹ để không có đủ điều kiện để chăm sóc con cái. Các em phải sớm lăn lộn với
  • 17. 10 đời, tự bươn chải làm đủ các nghề để kiếm sống như bán vé số, đánh giầy, ăn xin... Với môi trường đó các em dễ bị các phần tử xấu dụ dỗ, không ít những đứa trẻ đã kiếm sống bằng nghề móc túi, cướp giật, trộm cắp... và các em sẽ trở thành gánh nặng của xã hội. Vì vậy, việc các em được nhận làm con nuôi có ý nghĩa rất quan trọng không chỉ riêng với cuộc đời của các em mà còn có ý nghĩa đối với toàn xã hội. Việc nuôi con nuôi không chỉ là biện pháp tốt nhất, phù hợp và có lợi nhất đối với trẻ em mà còn là cách thực hiện hợp pháp quyền làm cha mẹ của cá nhân. Việc nhận nuôi con nuôi góp phần làm giảm gánh nặng của nhà nước trước tình trạng trẻ em lang thang, không nơi nương tựa, không nguồn nuôi dưỡng, hạn chế trẻ em có thể có hành vi vi phạm pháp luật hay mắc các tệ nạn xã hội do thiếu sự quan tâm, giáo dục… Đây là cơ sở để đảm bảo sự ổn định, phát triển của đất nước đồng thời cũng giảm đi gánh nặng đối với ngân sách nhà nước vì không phải đưa các em vào cơ sở bảo trợ xã hội mà vẫn đảm bảo được lợi ích tốt nhất cho trẻ em. Mặt khác, việc nhận nuôi con nuôi đem lại cho đứa trẻ một gia đình, ở đó đứa trẻ được hưởng sự yêu thương, chăm sóc, nuôi dưỡng như những đứa trẻ khác. Chúng sẽ không bị mặc cảm về hoàn cảnh của mình, có điều kiện tốt nhất để phát triển nhân cách, trí tuệ của bản thân. Đây cũng là một biện pháp đảm bảo quyền cơ bản của trẻ em – quyền được sống trong môi trường gia đình. Còn đối với người nhận nuôi, việc nuôi con nuôi đem lại cho họ một đứa con phù hợp với nguyện vọng của họ. Đặc biệt đối với những cặp vợ chồng vô sinh, việc nhận con nuôi giúp họ thực hiện quyền làm cha mẹ của mình, họ được chăm lo, được thể hiện tình cảm của của những người làm cha mẹ với đứa con. Việc nuôi con nuôi sẽ đáp ứng một cách hài hòa lợi ích của cả hai bên người nhận nuôi và người được nhận nuôi. Người nhận nuôi thỏa mãn được
  • 18. 11 nhu cầu tình cảm, tinh thần một cách đầy đủ, trọn vẹn của một người làm cha, làm mẹ. Đối với trẻ em được nhận làm con nuôi là việc được chăm sóc, được nuôi dưỡng được sống trong tình yêu thương trong một gia đình, nơi có vai trò quan trọng đối với sự hình thành và phát triển nhân cách mỗi con người. Nếu nhân cách của con người bao gồm hai mặt đức và tài, thì gia đình là nơi nuôi dưỡng đạo đức và gieo mầm tài năng. Vì vậy việc nuôi con nuôi sẽ tạo cho trẻ em được sống dưới mái ấm gia đình, góp phần vào việc xây dựng và ươm mầm tài năng cho đất nước. 1.2. Khái niệm về điều kiện nuôi con nuôi Pháp luật là sự thể hiện ý chí của nhà nước nhằm điều chỉnh những nhu cầu của cá nhân phát sinh từ đời sống thực tế. Ở mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau sự điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi khác nhau. Khi chưa có nhà nước và pháp luật thì việc nuôi con nuôi diễn ra tự nhiên, dựa vào nhu cầu tình cảm của cá nhân mà không bị chi phối bởi các điều kiện nuôi con nuôi. Khi xã hội hình thành giai cấp, xuất hiện nhà nước và pháp luật, lúc này việc nuôi con nuôi được gắn với lợi ích của trẻ em, của gia đình và lợi ích của giai cấp thống trị. Vì vậy, pháp luật sẽ quan tâm điều chỉnh bằng việc quy định các điều kiện nuôi con nuôi để đảm bảo lợi ích của các bên liên quan và duy trì trật tự công cộng của xã hội. Mặt khác, việc nuôi con nuôi được xác lập trên cơ sở ý chí, tình cảm của các bên mà không gắn với quan hệ tự nhiên thuần túy về mặt sinh học huyết thống nên việc xác lập quan hệ nuôi con nuôi phải gắn liền với các điều kiện cụ thể để tạo môi trường sống lành mạnh, an toàn cho trẻ. Các điều kiện này được quy định bởi các quy phạm pháp luật mà người nhận nuôi con nuôi và con nuôi phải đáp ứng. Các điều kiện này gắn với nhân thân, hoàn cảnh...của các chủ thể để đảm bảo quan hệ nuôi con nuôi xác lập phù hợp với ý chí, nguyện vọng của các bên. Nếu chủ thể của quan hệ nuôi
  • 19. 12 con nuôi không đáp ứng được các điều kiện đó thì quan hệ nuôi con nuôi không có giá trị pháp lý. Dưới góc độ pháp lý, điều kiện nuôi con nuôi là sự thể hiện ý chí của nhà nước thông qua các quy phạm pháp luật quy định các điều kiện cần có đối với các chủ thể có liên quan trong việc cho - nhận con nuôi phù hợp với mục đích của việc nuôi con nuôi và trên cơ sở đó việc nuôi con nuôi được công nhận là hợp pháp. 1.3. Các yếu tố ảnh hƣởng đến việc quy định điều kiện nuôi con nuôi - Điều kiện kinh tế, xã hội trong một giai đoạn nhất định ảnh hưởng trực tiếp đến việc quy định các điều kiện nuôi con nuôi. Tuy nuôi con nuôi là một chế định có lịch sử lâu đời, nhưng bản chất của việc nuôi con nuôi đã có những thay đổi lớn qua từng thời kì. Thời kỳ đầu, nuôi con nuôi chủ yếu là biện pháp đảm bảo cho các cặp vợ chồng hiếm muộn không có con có người nối dõi tông đường, thờ cúng tổ tiên. Việc nuôi con nuôi lúc đó vì lợi ích của gia đình người nhận nuôi mà chưa xuất phát từ lợi ích của trẻ em được nhận nuôi. Công ước của Liên Hợp Quốc về quyền của trẻ em năm 1989 ra đời đã đánh dấu cuộc cách mạng tư tưởng về quyền trẻ em. Công ước khẳng định trẻ em phải được coi là trung tâm bảo vệ đã góp phần làm thay đổi mục đích của việc nuôi con nuôi từ chỗ “đem lại cho gia đình một trẻ em” đã chuyển thành “đem lại cho trẻ em một gia đình”. Vì vậy, khung pháp luật về nuôi con nuôi cũng như quy định về các điều kiện nuôi con nuôi được xây dựng và có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ quyền, lợi ích của trẻ em. - Quy định điều kiện nuôi con nuôi xuất phát từ ý chí của Nhà nước trong việc điều chỉnh quan hệ gia đình nói chung và quan hệ nuôi con nuôi nói riêng. Việc nuôi con nuôi có ảnh hưởng sâu sắc không chỉ đối với các bên chủ thể mà còn làm hình thành một gia đình mới – một cấu trúc cơ bản của xã hội, nên nó ảnh hưởng tới sự ổn định và phát triển của một đất nước. Đặt ra
  • 20. 13 các điều kiện đối với các bên chủ thể trong việc xác lập quan hệ nuôi con nuôi nhằm định hướng, tạo ra khung pháp lý cơ bản cho việc nuôi con nuôi, để việc nuôi con nuôi được thực hiện với mục đích nhân đạo, bảo vệ các quyền cơ bản của con người đặc biệt là của trẻ em, phù hợp với các chuẩn mực đạo đức của xã hội và lợi ích chung của đất nước. Mặt khác, đường lối chủ trương của Nhà nước có ảnh hưởng sâu sắc tới mọi mặt của đời sống xã hội, trong đó có việc nuôi con nuôi, là cơ sở để quy định các điều kiện nuôi con nuôi. Chính sách xã hội có thể tác động theo hai hướng: thúc đẩy, khuyến khích việc nhận nuôi con nuôi hoặc hạn chế, kìm hãm việc nhận nuôi con nuôi. Các biện pháp, chính sách có ảnh hưởng trực tiếp tới việc nuôi con nuôi như: biện pháp hỗ trợ kinh tế, phúc lợi xã hội cho người nhận con nuôi, kế hoạch dân số và kế hoạch hóa gia đình, khuyến khích nhận các trẻ em mồ côi, khuyết tật, mắc bệnh hiểm nghèo làm con nuôi...Do vậy, tùy theo đường lối chủ trương của nhà nước trong từng thời kỳ có tác động tới việc nuôi con nuôi cũng như quy định các điều kiện nuôi con nuôi đối với các chủ thể tham gia vào quan hệ này. - Việc quy định điều kiện nuôi con nuôi bị chi phối bởi các nguyên tắc điều chỉnh pháp luật đối với việc nuôi con nuôi, trong đó nguyên tắc đảm bảo cho trẻ em được sống trong môi trường gia đình gốc là một nguyên tắc cơ bản chi phối việc quy định các điều kiện nuôi con nuôi. Bởi nuôi con nuôi chỉ thực sự cần thiết và vì lợi ích của trẻ được cho làm con nuôi khi trẻ em đó không thể được nuôi dưỡng, chăm sóc trong gia đình ruột thịt của mình vì những lý do nhất định. Chỉ khi đó việc cho – nhận trẻ em làm con nuôi mới phù hợp với quyền của trẻ em được sống trong gia đình, phù hợp với nguyên tắc: “Trẻ em không bị buộc cách ly khỏi cha mẹ trái với ý muốn của cha mẹ, trừ trường hợp một sự cách ly như thế là cần thiết cho lợi ích tốt nhất của trẻ em” [24, Điều 9]. Ngay cả trong trường hợp phải cách ly khỏi cha mẹ thì ý
  • 21. 14 muốn của trẻ em cũng phải được quan tâm trước tiên khi trẻ em có khả năng thể hiện ý chí của mình. Vì vậy, việc đưa trẻ em ra khỏi gia đình ruột thịt của mình để làm con nuôi người khác chỉ có thể xuất phát từ lợi ích của chính trẻ em, không phải mọi trẻ em đều được cho làm con nuôi người khác. Trẻ em chỉ được cho làm con nuôi khi không có sự chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục của gia đình do bố mẹ đã chết, bị mất tích, không xác định được hoặc đều bị mất năng lực hành vi dân sự hoặc khi cha mẹ đẻ của trẻ tuy còn sống nhưng không thể có điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ. Lúc này cho trẻ em làm con nuôi là giải pháp tốt nhất cho lợi ích của trẻ. Do đó, quy định về các điều kiện của việc cho – nhận con nuôi phải xuất phát từ nguyên tắc cơ bản này. - Phong tục tập quán, truyền thống văn hóa, đạo đức, lối sống cũng ảnh hưởng đến việc quy định các điều kiện của việc nuôi con nuôi. Việc nuôi con nuôi chịu ảnh hưởng sâu đậm của những truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta như tương thân tương ái, lá lành đùm lá rách, cưu mang, đùm bọc những trẻ em lang thang, cơ nhỡ, không nơi nương tựa. Tuy nhiên, với ảnh hưởng tiêu cực của cơ chế thị trường, những nét truyền thống tốt đẹp của dân tộc đang bị đe dọa nghiêm trọng. Những giá trị nhân văn và giá trị tinh thần có phần bị xem nhẹ và coi thường, dẫn đến sự thay đổi trong hành vi xử sự của con người theo xu hướng thực dụng, vụ lợi. Việc giữ gìn được những truyền thống văn hóa có giá trị tốt đẹp của dân tộc như tính cộng đồng, lòng nhân ái...có ảnh hưởng tích cực đến việc nuôi con nuôi. Đạo đức, lối sống cũng ảnh hưởng không nhỏ đến tình trạng nuôi con nuôi. Trong xã hội phong kiến, quan niệm về chuẩn mực đạo đức rất khắt khe. Ngày nay sự hiểu biết của con người ngày càng mở rộng, chất lượng cuộc sống được cải thiện và nâng cao, quan niệm sống, cách sống của con người có nhiều thay đổi, trở lên phóng khoáng, tự do, cởi mở hơn đặc biệt là giới trẻ. Sự trưởng thành về tình dục của nam nữ thanh niên sớm hơn, nhưng lại không
  • 22. 15 được giáo dục để có sự hiểu biết cần thiết về an toàn tình dục cũng như các biện pháp phòng tránh thai và sức khỏe sinh sản. Do đó tình trạng trẻ em gái chưa thành niên mang thai là một hiện tượng tương đối phổ biến và đáng lo ngại. Những đứa trẻ được sinh ra bởi cha mẹ không có quan hệ hôn nhân, không có điều kiện kinh tế, người mẹ không có hiểu biết và khả năng cần thiết tối thiểu để nuôi dưỡng trẻ sơ sinh, hơn nữa người mẹ trẻ bị áp lực bởi những định kiến xã hội nên dẫn đến việc người mẹ trẻ bỏ rơi con ngay sau khi sinh tại cơ sở y tế, trên đường phố hoặc các trung tâm nuôi dưỡng trẻ... Những trẻ em này là đối tượng có thể được cho làm con nuôi. Việc cho trẻ em làm con nuôi trong những trường hợp này thường xảy ra do sự bồng bột thiếu suy nghĩ, chín chắn. Do đó, việc quy định các điều kiện về sự thể hiện ý chí của cha mẹ đẻ trong việc cho con đi làm con nuôi là cần thiết. - Dựa trên các văn bản pháp luật quốc tế về quyền trẻ em, quy định các điều kiện nuôi con nuôi cho phù hợp với pháp luật quốc tế về nuôi con nuôi như: Công ước Lahay 1993 về bảo vệ quyền trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế… Những văn bản này được coi là cơ sở pháp lý quan trọng để quy định các điều kiện nuôi con nuôi theo hướng tiệm cận với pháp luật nuôi con nuôi quốc tế. 1.4. Sự cần thiết quy định điều kiện nuôi con nuôi Một trong những quyền cơ bản của trẻ em được pháp luật bảo vệ là quyền được sống, được chăm sóc, nuôi dưỡng trong môi trường gia đình – nơi có vai trò quan trọng đối với sự hình thành và phát triển nhân cách mỗi con người. Nhưng không phải tất cả trẻ em sinh ra đều có cha mẹ và đều có may mắn được sống trong môi trường gia đình. Vì vậy, việc tìm một gia đình thay thế cho trẻ thiếu may mắn được xem là biện pháp đảm bảo tốt nhất cho trẻ. Nó vừa thể hiện sự tôn trọng những quyền cơ bản của trẻ, vừa đảm bảo cho trẻ được yêu thương, chăm sóc, nuôi dưỡng trong môi trường gia đình. Tuy
  • 23. 16 nhiên, mối quan hệ gia đình trong quan hệ nuôi con nuôi xác lập xuất phát từ ý chí chủ quan của con người, không dựa trên quan hệ huyết thống tự nhiên nên lợi ích của trẻ em được cho làm con nuôi có thể không được đảm bảo hoặc việc nuôi con nuôi được xác nhằm những mục đích vụ lợi khác, làm biến đổi bản chất, mục đích tốt đẹp của việc nuôi con nuôi. Để bảo vệ tốt các quyền và lợi ích chính đáng của trẻ em được nhận làm con nuôi cần có các quy định pháp luật điều chỉnh, trong đó việc quy định các điều kiện của việc nuôi con nuôi là cần thiết bởi những lý do sau: - Việc cho – nhận con nuôi là một quan hệ ý chí, xuất phát từ ý chí, tình cảm của các bên chủ thể mà không phải là một quan hệ tự nhiên thuần túy về mặt sinh học. Mục đích của việc nuôi con nuôi là bảo đảm quyền, lợi ích của người con nuôi và người nhận nuôi, nhưng trên hết là lợi ích của trẻ em được cho làm con nuôi. Về mặt xã hội, việc cho - nhận con nuôi có thể xuất phát từ nhiều lý do khác nhau, bị chi phối bởi quan điểm của mỗi cá nhân về lợi ích, đạo đức, niềm tin, giá trị xã hội cùng với tình cảm, hoàn cảnh cụ thể của họ. Song về mặt pháp lý, việc cho – nhận con nuôi được xem xét trên cơ sở lợi ích tốt nhất của con nuôi chưa thành niên. Vì vậy, việc quy định các điều kiện của việc nuôi con nuôi là một yêu cầu khách quan và cần thiết để bảo vệ lợi ích của người được nhận nuôi. Các điều kiện đối với các bên chủ thể càng chặt chẽ, càng đảm bảo trẻ em được chăm sóc, nuôi dưỡng trong điều kiện tốt nhất để mục đích nuôi con nuôi đạt được. - Quy định các điều kiện nuôi con nuôi đặc biệt là quy định các điều kiện của người nhận nuôi sẽ tạo ra một môi trường gia đình an toàn, lành mạnh trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ. Việc đáp ứng đầy đủ các điều kiện nuôi con nuôi của người nhận nuôi đảm bảo người nhận nuôi có đủ tư cách đạo đức, hiểu biết, kinh tế và thật sự mong muốn được yêu thương, chăm sóc trẻ. Người nhận nuôi sẽ ý thức được việc sẽ nhận nuôi một đứa trẻ
  • 24. 17 phù hợp với nguyện vọng của mình để có trách nhiệm trong việc giáo dục trẻ và xây dựng tình cảm gắn bó chặt chẽ với trẻ trong quan hệ cha mẹ và con. - Việc quy định các điều kiện đối với trẻ em được nhận làm con nuôi về độ tuổi, hoàn cảnh gia đình...mới được cho làm con nuôi sẽ đảm bảo quyền trẻ em được sống trong gia đình gốc ruột thịt của mình. Về nguyên tắc, trẻ em phải được ưu tiên sống trong gia đình gốc ruột thịt của mình, không phải mọi trẻ em đều được cho làm con nuôi. Trẻ em chỉ được cho làm con nuôi khi không có sự chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục của gia đình do bố mẹ đã chết, bị mất tích, không xác định được hoặc đều bị mất năng lực hành vi dân sự hoặc khi cha mẹ đẻ của trẻ tuy còn sống nhưng không thể có điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ. Trường hợp trẻ em đang được sống trong gia đình với bố mẹ đẻ của mình, nhận được đầy đủ sự yêu thương, chăm sóc về vật chất lẫn tinh thần thì vấn đề cho trẻ em đó làm con nuôi không cần đặt ra. Việc cho con làm con nuôi, dù phù hợp với nguyện vọng của cha mẹ đẻ, vẫn phải xuất phát từ lợi ích của con, chứ không phải lợi ích của cha mẹ đẻ. Quy định điều kiện đối với trẻ được nhận làm con nuôi còn nhằm đảm bảo việc giữ gìn gốc gác dân tộc, văn hóa, ngôn ngữ của trẻ. Bởi vì việc cho trẻ làm con nuôi ở nước ngoài chỉ được coi là giải pháp cuối cùng khi không thể tìm một gia đình thích hợp cho trẻ tại nước gốc. - Quy định điều kiện nuôi con nuôi sẽ tạo ra khung pháp lý, một hành lang pháp lý để bảo vệ đứa trẻ được cho làm con nuôi. Bởi trẻ em là người chưa trưởng thành đầy đủ về thể chất và tinh thần nên cần được chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục để có thể phát triển bình thường. Nếu việc xác lập quan hệ nuôi con nuôi diễn ra một cách tự do, các bên không đáp ứng các điều kiện nhất định thì việc cho nhận con nuôi rất dễ bị biến dạng, bị lợi dụng để thực hiện những hành vi bắt cóc, chiếm đoạt, mua bán trẻ em hoặc nhằm những mục đích trục lợi khác, không phù hợp với mục đích của việc nuôi con. Ví dụ:
  • 25. 18 cho con làm con nuôi để được xuất cảnh đi nước ngoài, cho làm con nuôi của thương binh, người có công với cách mạng để được hưởng chế độ ưu tiên, đãi ngộ của nhà nước đối với những người này... Thực chất đây là những hành vi lợi dụng sơ hở của pháp luật để trục lợi mà không nhằm mục đích xác lập quan hệ cha mẹ và con giữa hai bên. Vì vậy, pháp luật cần quy định những điều kiện cần thiết của người được nhận làm con nuôi để bảo vệ quyền, lợi ích của trẻ, đồng thời ngăn chặn những hiện tượng tiêu cực, lợi dụng việc cho – nhận con nuôi nhằm những mục đích vụ lợi khác. - Do quan hệ nuôi con nuôi bị chi phối trước hết bởi ý chí, tình cảm của các bên chủ thể nên sự điều chỉnh của pháp luật có ý nghĩa quan trọng. Các điều kiện nuôi con nuôi là cơ sở pháp lý để cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận một quan hệ nuôi con nuôi là hợp pháp, vừa là cơ sở để giải quyết các tranh chấp phát sinh trong quan hệ nuôi con nuôi. Nếu các bên chủ thể vi phạm một trong các điều kiện nuôi con nuôi thì việc nuôi con nuôi không được công nhận, không có giá trị pháp lý và không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ trong quan hệ cha mẹ - con. Vì thế các bên có liên quan phải ý thức hành vi của mình và xác định được những xử sự cần thiết đúng pháp luật khi muốn xác lập quan hệ nuôi con nuôi. Mặt khác, các điều kiện nuôi con nuôi là cơ sở pháp lý để xác định quan hệ nuôi con nuôi là hợp pháp hay không không hợp pháp. Trên cơ sở đó giải quyết các tranh chấp phát sinh từ việc nuôi con nuôi. Ví dụ: tranh chấp về nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng; tranh chấp về thừa kế tài sản.
  • 26. 19 Chương 2 CÁC ĐIỀU KIỆN ĐỂ VIỆC NUÔI CON NUÔI CÓ GIÁ TRỊ PHÁP LÝ THEO LUẬT NUÔI CON NUÔI NĂM 2010 2.1. Điều kiện đối với ngƣời đƣợc nhận làm con nuôi Theo quy định tại Điều 8 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 thì điều kiện đối với người được nhận làm con nuôi được quy định như sau: - Người được nhận làm con nuôi là “trẻ em dưới 16 tuổi” [30, Điều 8, Khoản 1]. Khoản 1 Điều 68 Luật HN & GĐ năm 2000 quy định người được nhận làm con nuôi là “người từ mười lăm tuổi trở xuống” [26]. Việc tăng tuổi của người người được nhận làm nuôi theo Luật Nuôi con nuôi là phù hợp với mục đích của việc nuôi con nuôi và phù hợp với các văn bản khác về độ tuổi của trẻ em. Điều này thể hiện ở chỗ: Thứ nhất, trẻ em dưới 16 tuổi là người chưa có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, chưa nhận thức được đầy đủ hậu quả hành vi của mình. Việc thiết lập quan hệ nuôi con nuôi sẽ đảm bảo cho người con nuôi có được sự chăm sóc, giáo dục của cha mẹ nuôi. Việc nhận người trên 16 tuổi hoặc người đã thành niên làm con nuôi làm cho việc nuôi con nuôi không còn đúng với mục đích của việc nuôi con nuôi. Những người trên 16 tuổi đã có thể tự lập kiếm sống nuôi bản thân và thông thường người nhận con nuôi cũng mong muốn nhận nuôi những trẻ em dưới 16 tuổi, vừa tạo cho các em một mái ấm gia đình, vừa thuận lợi trong việc nuôi dưỡng, phát triển tình cảm gắn bó giữa cha mẹ nuôi và con nuôi. Thứ hai, theo quy định của Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em thì “trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi trở xuống” [30]. Trong khi độ tuổi của trẻ em được nhận làm con nuôi cần phù hợp với quy định về độ tuổi của trẻ em. Do đó, Luật nuôi con nuôi đã quy định tuổi của người được nhận
  • 27. 20 làm con nuôi thành “trẻ em dưới 16 tuổi”, cao hơn so với Luật HN & GĐ năm 2000 là cần thiết và hợp lý, tạo cơ hội cho những trẻ em từ 15 tuổi đến dưới 16 tuổi được nhận làm con nuôi. Thứ ba, mục đích của việc nuôi con nuôi hướng tới đối tượng chủ yếu là trẻ em, tạo điều kiện cho trẻ em được chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trong môi trường gia đình. Quy định người được nhận làm con nuôi là trẻ em dưới 16 tuổi tạo điều kiện cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt có cơ hội được nhận làm con nuôi, được sống trong môi trường gia đình với sự bảo vệ, chăm sóc, nuôi dưỡng của cha mẹ nuôi. So với quy định của các nước về độ tuổi của trẻ được cho làm con nuôi, quy định của Việt Nam về vấn đề này khá tương đồng. Theo pháp luật Trung Quốc trẻ em dưới 14 tuổi có thể được nhận làm con nuôi hay pháp luật Cộng hòa Pháp quy định độ tuổi của trẻ em được nhận làm con nuôi là dưới 15 tuổi. Theo quy định tại khoản 2 Điều 8 Luật nuôi con nuôi, trong trường hợp người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi có thể được cho làm con nuôi nếu thuộc một trong các trường hợp sau: a) Được cha dượng, mẹ kế nhận làm con nuôi; b) Được cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận làm con nuôi.” Quy định này đảm bảo việc nuôi con nuôi phù hợp với nguyên tắc trẻ em được sống trong môi trường gia đình gốc của mình, tạo điều kiện cho trẻ em được sống trong gia đình có mối quan hệ huyết thống hoặc gia đình có quan hệ họ hàng với trẻ. Luật HN & GĐ năm 2000 quy định trường hợp ngoại lệ đối với người được nhận làm con nuôi đó là: “Người trên 15 tuổi có thể được nhận làm con nuôi nếu là thương binh, người tàn tật, người mất năng lực hành vi dân sự hoặc làm con nuôi của người già yếu cô đơn” [26]. Ý tưởng của quy định này là rất tốt đẹp, phù hợp với truyền thống đạo đức của dân tộc, tạo điều kiện cho những người có hoàn cảnh trên được nuôi dưỡng,
  • 28. 21 chăm sóc, có một chỗ dựa về kinh tế. Tuy nhiên, điều luật này lại không có tính khả thi cao vì trên thực tế rất ít trường hợp như trên xảy ra. Việc đưa những người này vào các trung tâm bảo trợ xã hội, các tổ chức từ thiện sẽ phù hợp hơn. Vì vậy, Luật nuôi con nuôi năm 2010 đã bỏ đi quy định này. Như vậy, trừ trường hợp ngoại lệ được quy định tại khoản 2 Điều 8 Luật Nuôi con nuôi thì đối tượng của việc nuôi con nuôi là trẻ em. Quy định này phù hợp với mục đích nuôi con nuôi, bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật trong nước, đồng thời vẫn bảo đảm thực hiện nghiêm chỉnh cam kết quốc tế khi nước ta gia nhập Công ước Lahay 1993 về bảo vệ quyền trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế. - Người được nhận làm con nuôi chỉ được cho làm con nuôi trong trường hợp: “của một người độc thân hoặc của cả hai người là vợ chồng” (khoản 3 Điều 8 Luật nuôi con nuôi). Như vậy, Luật nuôi con nuôi quy định trẻ em được cho làm con nuôi trong hai trường hợp: làm con nuôi của một người độc thân hoặc làm con nuôi của vợ chồng. Trường hợp trẻ em làm con nuôi của một người độc thân, người con nuôi sẽ trở thành con riêng của người đó. Người con nuôi sẽ được yêu thương, chăm sóc của người cha hoặc người mẹ nuôi của mình. Trường hợp thứ hai, trẻ em làm con nuôi của vợ chồng, người con nuôi đó sẽ trở thành con chung của cả hai vợ chồng. Luật không cho phép người đang có vợ hoặc có chồng nhận con nuôi riêng, vợ chồng chỉ có thể nhận nuôi con nuôi chung và việc nhận con nuôi cần có sự thống nhất của cả hai vợ chồng, do cả hai vợ chồng cùng nhận nuôi. Vợ chồng nhận nuôi con nuôi phải có hôn nhân hợp pháp, có nghĩa là hai bên nam, nữ có đầy đủ các điều kiện kết hôn theo quy định và được đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Do đó, trường hợp hai bên nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng nhưng chưa đăng ký kết hôn thì không được nhận con nuôi. Việc nhận con riêng của vợ hoặc chồng làm con nuôi thì đứa con này sẽ trở
  • 29. 22 thành con chung của cả hai vợ chồng. Quy định này nhằm đảm bảo cho trẻ được cho làm con nuôi có một môi trường gia đình trọn vẹn, có sự yêu thương đầy đủ của tất cả các thành viên trong gia đình, tạo điều kiện cho trẻ em được sống trong môi trường gia đình tự nhiên như gia đình gốc của mình, đảm bảo cho người con nuôi về nơi ăn chốn ở, về sự hòa hợp và sự ổn định thống nhất trong cách sống, cách chăm sóc giáo dục con nuôi. Quy định này cũng phù hợp với pháp luật các nước trên thế giới là không được phép làm con nuôi hai lần. Nuôi con nuôi hai lần có nghĩa là đứa trẻ làm con nuôi của người này (lần 1), sau đó người này lại cho đứa trẻ làm con nuôi của một người khác nữa (lần 2). Việc nuôi con nuôi hai lần như vậy sẽ dẫn đến tình trạng lạm dụng việc nuôi con nuôi để buôn bán trẻ em vào những mục đích xấu khác và sẽ không kiểm soát được việc nuôi con nuôi, nếu có chuyện gì xảy ra sẽ rất khó quy trách nhiệm cho bên nào. Tuy nhiên, pháp luật các nước cũng như pháp luật Việt Nam chỉ quy định tại thời điểm trẻ em đang được cho làm con nuôi thì không được phép cho làm con nuôi người khác. Nhưng nếu quan hệ nuôi con nuôi đó đã chấm dứt và đứa trẻ đó vẫn có đủ các điều kiện về độ tuổi, hoàn cảnh để được cho làm con nuôi thì vẫn có thể được nhận làm con nuôi của một người khác. Tại Luật nuôi con nuôi quy định: “Nhà nước khuyến khích việc nhận trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khác làm con nuôi” [30, Điều 8, Khoản 4], đã khẳng định tính nhân đạo của việc nuôi con nuôi. Bởi những trẻ em mồ côi, bị bỏ rơi hoặc có hoàn cảnh đặc biệt rất cần được sự quan tâm nuôi dưỡng của cha, mẹ của một gia đình mà bản thân những trẻ em đó đã thiếu hoặc chính sách của Nhà nước không thể đảm bảo cho các em được hưởng đầy đủ các quyền cơ bản của trẻ em. Tuy nhiên, ngoài những điều kiện trên Luật nuôi con nuôi không có quy định nào khác về điều kiện đối với người được nhận làm con nuôi. Quy
  • 30. 23 định này sẽ dẫn đến cách hiểu là mọi trẻ em dưới 16 tuổi trở xuống đều có thể được cho làm con nuôi. Điều này không đúng với mục đích của việc cho – nhận con nuôi là chỉ cho trẻ làm con nuôi khi trẻ không có sự chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục của gia đình do bố mẹ đã chết, bị mất tích, không xác định được hoặc đều bị mất năng lực hành vi dân sự hoặc khi cha mẹ đẻ của trẻ tuy còn sống nhưng không thể có điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ. Khi đó việc cho trẻ làm con nuôi mới là biện pháp tốt nhất và vì lợi ích của trẻ. Mặt khác, quy định như trên còn dẫn đến hiện tượng lợi dụng việc cho – nhận con nuôi nhằm mục đích trục lợi khác mà không nhằm xác lập quan hệ cha mẹ - con giữa người nhận nuôi và người được nhận nuôi. Ví dụ như việc cho con làm con nuôi của người thương binh, bệnh binh, có công với cách mạng, người dân tộc thiểu số để được hưởng chính sách ưu đãi. Trường hợp này mặc dù việc cho con nuôi được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng người con nuôi vẫn sống với cha mẹ đẻ, quan hệ nuôi con nuôi trên thực tế không tồn tại. Hoặc nguy hiểm hơn, trẻ em cho làm con nuôi còn bị lợi dụng vào mục đích khác như buôn bán trẻ em ra nước ngoài, để bóc lột sức lao động hay lạm dụng tình dục đối với trẻ em. Vì vậy, pháp luật nuôi con nuôi cần quy định điều kiện về hoàn cảnh của trẻ được nhận làm con nuôi, để việc nuôi con nuôi không bị biến dạng, không đúng với bản chất và mục đích nhân đạo của nó. Trước khi luật Nuôi con nuôi có hiệu lực, Luật HN &GĐ năm 2000 cũng chỉ quy định về độ tuổi của của người được nhận làm con nuôi, tuy nhiên về điều kiện đối với trẻ em cho làm con nuôi nước ngoài lại quy định rất cụ thể trong Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10/7/2002 và Nghị định số 69/2006/NĐ-CP ngày 21/7/2006 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 68/2002/NĐ-CP, đó là: trẻ em được nhận làm con nuôi phải là trẻ em từ mười lăm tuổi trở xuống. Trẻ em từ trên mười lăm tuổi đến dưới 16 tuổi có
  • 31. 24 thể được nhận làm con nuôi nếu là trẻ em tàn tật, trẻ em mất năng lực hành vi dân sự. Như vậy, trẻ em được nhận làm con nuôi nước ngoài phải là trẻ em đang sống tại các cơ sở nuôi dưỡng được thành lập hợp pháp hoặc trẻ em đang sống tại các gia đình nếu thuộc trường hợp trẻ em mồ côi; trẻ em khuyết tật, tàn tật; trẻ em mất năng lực hành vi dân sự; trẻ em mắc bệnh hiểm nghèo khác; trẻ em là nạn nhân của chất độc hóa học; trẻ em nhiễm HIV/AIDS hoặc những trẻ em sống tại gia đình mà có quan hệ họ hàng thân thích với người xin nhận con nuôi hoặc có anh chị em ruột đang làm con nuôi của người xin nhận con nuôi cũng thuộc trường hợp được cho làm con nuôi nước ngoài. Quy định về diện trẻ em làm con nuôi người nước ngoài hẹp và chặt chẽ hơn. Nhưng với quy định này nhiều trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn sẽ không thể có điều kiện được nhận làm con nuôi người nước ngoài nếu không được nhận vào các cơ sở nuôi dưỡng hoặc có quan hệ họ hàng thân thích với người nhận nuôi. Theo Luật Nuôi con nuôi, người được nhận làm con nuôi ở nước ngoài đều phải đáp ứng các điều kiện tại Điều 8 Luật Nuôi con nuôi. Tuy nhiên, người được nhận nuôi chỉ được cho làm con nuôi ở nước ngoài nếu đã thực hiện tất cả các biện pháp tìm kiếm gia đình nuôi dưỡng trẻ em ở trong nước theo quy định tại Điều 15 Luật Nuôi con nuôi mà không tìm được khi hết thời hạn luật định, trừ trường hợp trẻ em được xin đích danh (theo Điều 28 Luật Nuôi con nuôi). Quy định này đảm bảo nguyên tắc tôn trọng quyền được sống trong môi trường gia đình gốc của trẻ em. 2.2. Điều kiện đối với ngƣời nhận nuôi con nuôi Điều kiện đối với người nhận nuôi con nuôi được quy định tại khoản 1 Điều 14 Luật nuôi con nuôi năm 2010, bao gồm các điều kiện sau: - Người nhận nuôi con nuôi phải “có năng lực hành vi dân sự đầy đủ” [30, Điều 14, Khoản 1, Điểm 1]. Theo quy định tại Bộ luật dân sự năm 2005
  • 32. 25 thì “Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự của mình” [28, Điều 17]. Người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ là người đáp ứng đủ hai điều kiện: đủ 18 tuổi trở lên; không phải là người mất năng lực hành vi dân sự (người do bị tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình và có quyết định của Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự), và không phải là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự (người do nghiện rượu hoặc nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình, bị Tòa án tuyên bố là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự). Quy định người nhận con nuôi là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ là cần thiết, đảm bảo sự thể hiện ý chí tự nguyện của người nhận nuôi, cũng như khả năng nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con nuôi của cha mẹ nuôi. Nếu người nhận con nuôi không có năng lực hành vi dân sự hoặc bị mất năng lực hành vi dân sự thì họ không nhận thức được trách nhiệm làm cha, làm mẹ của họ, họ không thể hiện ý chí của mình một cách đúng đắn trong quyết định nhận con nuôi, và trong quá trình nuôi dưỡng sẽ không thể đảm bảo cho người con nuôi có được cuộc sống bình thường, mục đích của việc nuôi con nuôi không đạt được. Người nhận nuôi con nuôi bị coi là không đủ điều kiện khi họ là người đang bị hạn chế một số quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên hoặc đang chấp hành quyết định xử lý hành chính tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh; Người đang chấp hành hình phạt tù; Người chưa được xóa án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của người khác; ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình; dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa thanh niên vi phạm pháp luật; mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em. Những người trong trường hợp này đang bị hạn chế năng lực dân sự một phần, họ không có quyền quyết định những vấn đề quan trọng liên
  • 33. 26 quan đến quyền tài sản, quyền nhân thân. Nên theo quy định những người này không được nhận nuôi con nuôi. - Về độ tuổi người nhận nuôi con nuôi phải “hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên” [30, Điều 14, khoản 1, điểm b]. Luật Nuôi con nuôi đã kế thừa quy định này từ Luật HN & GĐ năm 2000. Đây là điều kiện cần thiết để cha mẹ nuôi có thể đảm đương các nghĩa vụ đối với con nuôi. Giữa người nhận nuôi và con nuôi phải tuân theo những điều kiện nhất định về độ tuổi để đảm bảo có sự chênh lệch và khoảng cách cần thiết giữa hai thế hệ. Có như vậy việc nuôi con nuôi mới đảm bảo được mục đích là: xác lập quan hệ cha mẹ và con, đảm bảo cho người được nhận làm con nuôi được trông nom, nuôi dưỡng, giáo dục phù hợp với đạo đức xã hội. Hơn nữa, về mặt sinh học, giữa hai thế hệ kế cận luôn có một khoảng cách tuổi tác mới đảm bảo được sự tôn trọng và khả năng nuôi dưỡng giáo dục con cái. Đồng thời, quy định này cũng nhằm tránh trường hợp người nhận nuôi con nuôi có mục đích khác như lạm dụng tình dục với người con nuôi. Nếu một người là con nuôi của cả hai vợ chồng thì cả cha nuôi, mẹ nuôi đều phải hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên. Tuy nhiên, theo khoản 3 Điều 14 Luật Nuôi con nuôi, trường hợp cha dượng nhận con riêng của vợ, mẹ kế nhận con riêng của chồng làm con nuôi hoặc cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận cháu làm con nuôi thì không áp dụng quy định khoảng cách về độ tuổi. Quy định này đã đảm bảo trẻ em được sống trong môi trường gia đình họ hàng thân thích với cha hoặc mẹ đẻ hoặc cô, dì, chú, bác ruột thịt của mình. Tuy nhiên, Luật Nuôi con nuôi chỉ quy định khoảng cách về độ tuổi giữa con nuôi và cha mẹ nuôi mà không quy định độ tuổi tối thiểu của người nhận nuôi con nuôi. Việc quy định độ tuổi tối thiểu đối với người nhận nuôi con nuôi là cần thiết bởi bản chất của việc nuôi con nuôi là hình thành quan hệ cha mẹ và con hợp pháp giữa hai bên, do đó tuổi của người nuôi phải
  • 34. 27 “tương xứng, phù hợp với tuổi có thể làm cha mẹ về mặt sinh học”. Đồng thời, người nhận nuôi phải đạt tới một độ tuổi tối thiểu nhất định thì mới có được kinh nghiệm, hiểu biết, điều kiện kinh tế phù hợp và quan trọng nhất là nhận thức rõ về nhu cầu nhận nuôi con nuôi của mình. Mặt khác, việc quy định độ tuổi tối đa của người nhận nuôi cũng có ý nghĩ không nhỏ. Bởi khi tuổi đã càng cao thì khả năng chăm sóc, giáo dục con nuôi sẽ giảm dần, điều này ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của con nuôi. Con nuôi sẽ không có được sự chăm sóc tốt nhất, hơn nữa sẽ không phù hợp với tự nhiên khi trẻ ở với các cặp vợ chồng đã quá tuổi sinh nở [19]. Việc quy định độ tuổi tối thiểu của người được nhận nuôi đã được quy định trong pháp luật nước ta thời kỳ Pháp thuộc. Trong Dân luật giản yếu Nam Kỳ quy định điều kiện đối với người nuôi phải quá 25 tuổi không kể là đàn ông hay đàn bà, đã lập gia đình hay chưa. Trong Dân luật Bắc kỳ và Dân luật Trung kỳ thì người người nuôi phải là người đã thành niên tức là trên 21 tuổi (Điều 185 Dân luật Bắc Kỳ) và trên 30 tuổi (Điều 183 Hoàng Việt Trung kỳ hộ luật). Theo Luật gia đình ngày 2/5/1959 dưới chế độ Ngô Đình Diệm, khi một người đứng nuôi độc thân thì ít nhất phải 25 tuổi. Nếu họ đã có gia đình thì việc nuôi con nuôi phải được cả hai vợ chồng ưng thuận và một trong hai người ít nhất phải 25 tuổi (Điều 117), không đòi hỏi họ phải không có con. Bộ Dân luật 1972 quy định điều kiện độ tuổi còn khắt khe hơn. Theo Bộ Dân luật 1972: “Đàn ông hay đàn bà trên 35 tuổi mới được lập con nuôi và phải hơn con nuôi ít nhất 20 tuổi, trừ khi có sự đặc miễn của nguyên thủ quốc gia” [32, Điều 248]. Nếu hai vợ chồng lập con nuôi, thì bắt buộc họ phải có đủ ba điều kiện: ở với nhau đã 10 năm, không có con và một trong hai người phải thỏa mãn điều kiện về độ tuổi trên 35 tuổi. Hầu hết pháp luật các nước trên thế giới đều quy định về tuổi của người nhận con nuôi. Chẳng hạn như Hàn Quốc quy định người thành niên có thể
  • 35. 28 nhận nuôi con nuôi; Trung Quốc quy định người từ 30 tuổi trở lên có thể nhận nuôi con nuôi; Phần Lan quy định người từ 25 tuổi trở lên có thể nhận con nuôi; theo pháp luật Cộng hòa Pháp bất cứ ai trên 28 tuổi đều có thể nhận con nuôi và người nhận trẻ em làm con nuôi phải hơn trẻ em từ 15 tuổi trở lên và nếu trẻ em là con riêng của vợ hoặc chồng thì khoảng cách về độ tuổi có thể cho phép hơn con nuôi từ 10 tuổi… Việc quy định độ tuổi tối thiểu để có thể nhận con nuôi tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, xã hội khác nhau của mỗi nước, vì đến một độ tuổi nào đó con người mới có được nhận thức về trách nhiệm làm cha, làm mẹ và kinh nghiệm tâm lý xã hội, có đủ khả năng tài chính để gánh vác trách nhiệm đó. Ngoài ra, pháp luật các nước còn quy định độ tuổi chênh lệch giữa người nhận nuôi con nuôi và người được làm con nuôi như Pháp quy định người nuôi con nuôi phải nhiều hơn con nuôi 15 tuổi. Pháp luật Trung Quốc quy định về điều kiện đối với người nhận con nuôi có phần khắt khe hơn, đó là người nhận nuôi phải không có con, nếu người đàn ông độc thân muốn nhận một bé gái làm con nuôi thì phải hơn con nuôi ít nhất là 40 tuổi. Do vậy, Luật nuôi con nuôi của Việt Nam nên có quy định độ tuổi tối thiểu của người nhận nuôi con nuôi kết hợp với quy định về khoảng cách độ tuổi giữa hai bên cho phù hợp hơn với thực tế. - Người nhận nuôi con nuôi phải “có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở đảm bảo việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi” [30 Điều 14, khoản 1, điểm c]. Điều này có nghĩa là người nhận nuôi con nuôi muốn nhận con nuôi phải chứng minh được mình có đủ điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở ổn định. Đây là một điều kiện có ý nghĩa quan trọng. Người nhận nuôi có sức khỏe thì mới có thể chăm sóc tốt cho đứa trẻ được nhận làm con nuôi. Nếu người nhận nuôi không có sức khỏe, bản thân người nhận nuôi không thể tự chăm sóc cho bản thân mình thì không thể chăm sóc được cho con nuôi. Mặt khác, hầu hết những trẻ đi làm con nuôi của người khác là những trẻ em mồ côi, không nơi
  • 36. 29 nương tựa, bị tàn tật hoặc là những đứa trẻ có gia đình nhưng gia đình quá nghèo, gặp nhiều khó khăn về kinh tế, bố mẹ đẻ không thể nuôi dưỡng, dạy dỗ con, nên phải dứt ruột cho đứa con mà mình mang nặng đẻ đau làm con nuôi người khác với hy vọng và mong muốn con mình sẽ được sống trong một gia đình ấm no, hạnh phúc, được nuôi dưỡng, giáo dục, chăm sóc tốt hơn. Nếu gia đình nhận nuôi không có điều kiện kinh tế thì cuộc sống của trẻ không được đảm bảo, việc nuôi con nuôi cũng không còn ý nghĩa, mục đích của việc nuôi con nuôi không đạt được. Trường hợp cha dượng, mẹ kế nhận con riêng của vợ hoặc chồng làm con nuôi hoặc cô, dì, chú, bác, cậu ruột nhận cháu làm con nuôi thì điều kiện về kinh tế, sức khỏe không cần đặt ra. Quy định này đã tạo điều kiện cho trẻ em được sống cùng cha đẻ hoặc mẹ đẻ, hoặc gia đình họ hàng mở rộng, đảm bảo quyền được sống trong gia đình huyết thống của trẻ, điều đó tạo điều kiện thuận lợi cho trẻ trong môi trường gia đình mới. Điều này cũng phù hợp với phong tục tập quán, truyền thống đạo đức của dân tộc, vừa phù hợp với các văn bản pháp lý quốc tế về nuôi con nuôi. Tuy nhiên, luật không quy định cụ thể thế nào là “có điều kiện kinh tế” nên trong quá trình thực hiện mỗi nơi lại áp dụng một cách khác nhau. Có địa phương chỉ cần đương sự chứng minh mình có việc làm là được. Có địa phương lại yêu cầu đương sự phải có thu nhập ở mức nhất định. Việc xác định chỗ ở như thế nào để bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con nuôi cũng rất khó khăn. Chính vì thế, không dễ dàng để xác minh điều kiện nuôi con nuôi vì người dân thường không trình bày đúng với điều kiện hoàn cảnh thực tế của mình. Do Luật không quy định rõ nên khó khăn trong việc áp dụng, không có sự thống nhất giữa các địa phương. Mặt khác, tại Khoản 3 Điều 14 Luật quy định, trường hợp cha dượng nhận con riêng của vợ, mẹ kế nhận con riêng của chồng làm con nuôi hoặc cô, dì, chú, bác, cậu
  • 37. 30 ruột nhận cháu làm con nuôi thì không áp dụng quy định về khoảng cách độ tuổi và điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở theo quy định tại điểm b và c tại Khoản 1 điều này. Nhưng Luật lại không quy định rõ vợ của chú, bác, cậu ruột hoặc chồng của cô, dì có được áp dụng quy định này không. Vì khi cháu được cô, dì, chú, bác, cậu ruột nhận làm con nuôi có thể có hai khả năng: người đó là người độc thân nhưng có thể họ là người đã có vợ hoặc có chồng. Trong khi đó Luật Nuôi con nuôi chỉ công nhận việc nuôi con nuôi chung của cả hai vợ chồng mà không cho phép một bên vợ hoặc chồng nhận con nuôi riêng. Do đó, trong trường hợp này việc nhận cháu ruột làm con nuôi phải được sự đồng ý của người chồng hoặc người vợ của người nhận nuôi và đứa trẻ sẽ trở thành con chung của cả hai vợ chồng cô, dì, chú, bác, cậu ruột đó. Vì vậy, người vợ của chú, bác, cậu ruột hoặc người chồng của cô, dì ruột của trẻ vẫn phải đáp ứng các điều kiện của người nhận nuôi con nuôi. Trong trường hợp này người vợ của chú, bác, cậu ruột hoặc người chồng của cô, dì ruột của trẻ sẽ áp dụng quy định về điều kiện của người nhận nuôi theo khoản 1 Điều 14 Luật Nuôi con nuôi hay được áp dụng theo khoản 3 Điều 14 như cô, dì, chú, bác, cậu ruột của người cháu đó. Luật Nuôi con nuôi nên có quy định cụ thể hơn trong trường hợp này. Ngoài ra, Luật Nuôi con nuôi cũng không cấm những người nhận con nuôi mắc các bệnh hiểm nghèo có nguy cơ lây nhiễm cao sang người khác như: nhiễm HIV/ADIS, các bệnh viêm gan, lao… được nhận nuôi con nuôi. Xét về lợi ích lâu dài của trẻ em được nhận nuôi, pháp luật cần quy định những người mắc các bệnh trên không được nhận nuôi con nuôi để đảm bảo sức khỏe của trẻ em, vì thể chất của trẻ còn non nớt nên không có khả năng để tự bảo vệ mình, có nhiều nguy cơ bị nhiễm bệnh hơn. Việc cấm những người này được nhận con nuôi là cần thiết để bảo đảm sự an toàn về tính mạng, sức khỏe, bảo đảm trẻ em được cho làm con nuôi được sống trong điều kiện tốt nhất, được phát triển một cách toàn diện nhất.
  • 38. 31 - Người nhận nuôi con nuôi “phải có tư cách đạo đức tốt” (điểm d khoản 1 Điều 14 Luật Nuôi con nuôi). Đây cũng là một điều kiện có ý nghĩa rất quan trọng trong việc nuôi con nuôi. Bởi tư cách đạo đức của bố mẹ nuôi có ảnh hưởng trực tiếp đến việc hình thành nhân cách của trẻ, đặc biệt là khi trẻ còn nhỏ tuổi, khả năng nhận thức còn chưa ổn định. Việc xác định điều kiện về tư cách đạo đức để tránh những trường hợp cha mẹ nuôi có những hành vi ngược đãi, phân biệt đối xử với con nuôi, xâm phạm, làm tổn thương đến người con nuôi. Người nhận nuôi có tư cách đạo đức tốt sẽ đảm bảo cho con nuôi có môi trường an toàn, lành mạnh để trẻ được phát triển tốt về thể chất, trí tuệ và nhân cách. Để đảm bảo tư cách của người nhận nuôi, Khoản 2 Điều 14 Luật Nuôi con nuôi đã quy định những người không được nhận nuôi con nuôi là: - Đang bị hạn chế một số quyền của cha mẹ đối với con chưa thành niên; - Người đang chấp hành quyết định xử lý hành chính tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh; - Người đang chấp hành hình phạt tù; - Người chưa được xóa án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của người khác; ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình; dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa thanh niên vi phạm pháp luật; mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em. Đây là quy định kế thừa từ Luật HN & GĐ năm 2000, những người trên đã có hành vi với những mức độ khác nhau xâm phạm đến sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm của người khác trong đó có trẻ em, đang bị hạn chế một số quyền của cha mẹ đối với con chưa thành niên hoặc đang phải chấp hành hình phạt tù. Họ thường có lối sống buông thả, nhận thức lệch lạc về giá trị đạo đức dẫn đến có những hành vi vi phạm đạo đức hoặc nghiện các
  • 39. 32 chất kích thích như thuốc lắc, ma túy… gây hủy hoại sức khỏe, trí tuệ con người nên đang bị xử lý hành chính tại các cơ sở giáo dưỡng, cơ sở chữa bệnh. Khi một đứa trẻ chưa có khả năng nhận thức ổn định sống với những người cha mẹ nuôi đó sẽ dễ bị ảnh hưởng bởi lối sống thiếu lành mạnh, do đó đứa trẻ sau này lớn lên có nguy cơ phạm tội cao hơn. Vì vậy, xét về tư cách đạo đức những người này không đủ điều kiện để nhận nuôi con nuôi. Điều 13 Luật Nuôi con nuôi cũng quy định rõ cấm ông bà nhận cháu làm con nuôi, hoặc anh chị em ruột nhận nhau làm con nuôi để tránh sự đảo lộn ngôi thứ, thứ bậc trong gia đình. Việc ông bà nhận cháu làm con nuôi thì người cháu lại trở thành “con”, ông bà trở thành “bố mẹ” hoặc anh chị em ruột với nhau lại trở thành “cha mẹ và con”. Cần phân biệt rõ việc nuôi con nuôi với việc nuôi dưỡng. Việc nuôi con nuôi phải làm phát sinh quan hệ cha mẹ và con, còn việc nuôi dưỡng chỉ là nghĩa vụ giữa các thành viên trong gia đình với nhau. Trường hợp cha mẹ bị chết hoặc mất năng lực hành vi dân sự thì ông bà nội, ông bà ngoại có nghĩa vụ nuôi dưỡng, chăm sóc cháu hoặc anh, chị có nghĩa vụ nuôi dưỡng, chăm sóc em – đó là trách nhiệm nuôi dưỡng giữa các thành viên trong gia đình mà không cần phải xác lập quan hệ nuôi con nuôi mới ràng buộc trách nhiệm của các bên. Việc quy định này nhằm ngăn chặn việc nuôi con nuôi vì các mục đích khác không phù hợp với mục đích xác lập quan hệ cha mẹ và con dựa trên sự chăm sóc nuôi dưỡng trẻ em. Ví dụ việc anh chị xác lập quan hệ nuôi con nuôi với em chỉ để nhằm mục đích thừa kế tài sản, hoặc lợi dụng danh nghĩa cha mẹ nuôi để quản lý, định đoạt tài sản của người được nhận nuôi hoặc nhằm mục đích bảo lãnh cho trẻ đi nước ngoài. Tuy nhiên, trong thực tế có trường hợp người nhận nuôi và con nuôi có quan hệ huyết thống trực hệ chẳng hạn người cha hoặc mẹ có con đẻ ngoài giá thú rồi sau đó nhận đứa con đó làm con nuôi để hợp pháp hóa quan hệ cha mẹ và con. Việc một người nhận con
  • 40. 33 đẻ ngoài giá thú làm con nuôi có thể do nhiều nguyên nhân, nhưng điều đó xâm phạm đến quyền trẻ em, quyền được biết về nguồn gốc của mình. Do vậy, đối với trường hợp khi phát hiện ra con nuôi chính là con đẻ ngoài giá thú của vợ/chồng thì nên giải quyết như thế nào? Theo quan điểm cá nhân, luật nên quy định việc cấm nhận con đẻ ngoài giá thú của vợ hoặc chồng làm con nuôi để ngăn chặn hiện tượng này. Các điều kiện đối với người nhận con nuôi có yếu tố nước ngoài: Trước khi có Luật Nuôi con nuôi thì các điều kiện nuôi con nuôi trong nước được quy định trong Luật HN & GĐ năm 2000 và các văn bản hướng dẫn thi hành, còn các điều kiện nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài chủ yếu quy định trong Nghị định số 68/2002/NĐ-CP và Nghị định số 69/2006/NĐ-CP và các điều kiện này là khác nhau đối với cả người được nhận nuôi và người nhận con nuôi. Hiện nay, về cơ bản, điều kiện của việc nuôi con nuôi trong nước và việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài không có sự phân biệt. Điều kiện của người nhận nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài phân biệt thành hai trường hợp (Điều 29 Luật Nuôi con nuôi): đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài thường trú ở nước ngoài nhận người Việt Nam làm con nuôi phải có đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật nước nơi người đó thường trú và quy định tại Điều 14 Luật Nuôi con nuôi; đối với công dân Việt Nam nhận người nước ngoài làm con nuôi phải có đủ các điều kiện theo quy định tại Điều 14 của Luật Nuôi con nuôi và pháp luật của nước nơi người được nhận làm con nuôi thường trú. Như vậy, Luật Nuôi con nuôi đã áp dụng hệ thuộc luật nơi cư trú của người nhận nuôi là nơi pháp luật có hiệu lực đối với việc nuôi con nuôi. Ví dụ: một người có quốc tịch Pháp nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi, nhưng người đó thường trú ở Đức thì việc xác định các điều kiện của người nhận nuôi được áp dụng theo pháp luật Đức. Việc áp dụng pháp luật nơi thường trú của người nước ngoài xin nhận con nuôi là
  • 41. 34 hoàn toàn phù hợp, bởi nước nơi cha mẹ nuôi thường trú chính là nơi con nuôi sinh sống. Pháp luật của nước nơi cha mẹ nuôi thường trú điều chỉnh sẽ đảm bảo được quyền lợi của trẻ được nhận nuôi trong việc theo dõi, giám sát việc nuôi con nuôi. Mặt khác, việc áp dụng pháp luật nơi thường trú của người nhận nuôi trong Luật Nuôi con nuôi đã giải quyết tình trạng mâu thuẫn giữa các quy định trước đây về vấn đề này. Luật HN & GĐ năm 2000 quy định người nước ngoài xin nhận trẻ em Việt Nam phải đáp ứng các điều kiện của người nhận nuôi con nuôi theo quy định tại Điều 69 Luật HN & GĐ và pháp luật của nước mà người đó là công dân (Khoản 1 Điều 105 Luật HN & GĐ). Tức là dựa trên quy định của pháp luật nơi người đó mang quốc tịch. Tuy nhiên, tại khoản 1 Điều 37 Nghị định 68/2002/NĐ-CP thì việc xác định điều kiện của người xin nhận con nuôi lại dựa trên quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật nơi người đó thường trú. Quy định tại khoản 1 Điều 29 Luật Nuôi con nuôi cũng hoàn toàn phù hợp với quy định áp dụng pháp luật nơi thường trú của cha mẹ nuôi quy định tại Điều 2 Công ước Lahay 1993 và các hiệp định song phương Việt Nam đã ký kết với các nước. Việc một trẻ em được cho làm con nuôi người nước ngoài có ảnh hưởng sâu sắc làm thay đổi cơ bản số phận của đứa trẻ. Mặc dù còn có quan niệm cho rằng nuôi con nuôi nước ngoài sẽ tạo cho con nuôi một cuộc sống vật chất đầy đủ hơn. Tuy nhiên, với một môi trường hoàn toàn mới khác biệt về ngôn ngữ, văn hóa trẻ sẽ phải cần sự hòa nhập tốt hơn. Nếu bố mẹ nuôi không thực sự quan tâm, chăm sóc và hướng dẫn trẻ thích nghi với môi trường mới thì trẻ dễ có cảm giác cô lập, tự ti về bản thân. Điều này ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển sức khỏe, trí tuệ, nhân cách của trẻ. Vì vậy, các điều kiện của cha mẹ nuôi người nước ngoài cần chặt chẽ, phù hợp với pháp luật Việt Nam và cả pháp luật nơi người đó thường trú để đảm bảo cho
  • 42. 35 trẻ em được sống trong môi trường gia đình tốt nhất, được phát triển toàn diện về sức khỏe, trí tuệ, nhân cách. Người nước ngoài nhận nuôi con nuôi là trẻ em Việt Nam trong hai trường hợp: * Xin con nuôi thông thường: là những trường hợp quy định tại khoản 1, khoản 3 và khoản 4 Điều 28 Luật Nuôi con nuôi bao gồm: - Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài thường trú ở nước cùng là thành viên của điều ước quốc tế về nuôi con nuôi với Việt Nam nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi; - Công dân Việt Nam thường trú ở trong nước nhận trẻ em nước ngoài làm con nuôi. - Người nước ngoài thường trú ở Việt Nam nhận con nuôi ở Việt Nam. Về nguyên tắc, người xin nhận con nuôi phải thường trú ở những nước là thành viên của điều ước quốc tế hợp tác về nuôi con nuôi với Việt Nam và đáp ứng đủ các điều kiện của người nhận nuôi con nuôi theo Luật Nuôi con nuôi, cũng như pháp luật của nước nơi người nhận nuôi thường trú [30. * Xin con nuôi đích danh: người nhận nuôi con nuôi ngoài việc phải thỏa mãn các điều kiện như đối với trường hợp xin con nuôi thông thường còn phải thuộc một trong các trường quy định tại khoản 2 Điều 28 Luật Nuôi con nuôi, đó là: Người nhận nuôi là người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài thường trú ở nước ngoài nhưng là cha dượng, mẹ kế của người được nhận là con nuôi hoặc là cô, dì, cậu, chú, bác ruột của cháu được nhận nuôi con nuôi (Điểm a,b khoản 2 Điều 28 Luật Nuôi con nuôi). Quy định này đã đáp ứng được tình hình thực tế, tạo điều kiện cho người con được sống với
  • 43. 36 cha hoặc mẹ đẻ ở nước ngoài, tạo cơ hội để đứa trẻ được hưởng quyền lợi của người con trong quan hệ gia đình, trong môi trường gia đình gốc tại nước ngoài. Sự điều chỉnh này cũng phù hợp với quy định tại Điều 5 Luật Nuôi con nuôi khi lựa chọn gia đình thay thế cho trẻ sẽ ưu tiên người nhận nuôi là cha dượng, mẹ kế, cô, cậu, chú, dì, bác ruột của người nhận nuôi. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài thường trú ở nước ngoài đã có con nuôi được xin đích danh trẻ là anh, chị, em ruột của con nuôi làm con nuôi (Điểm c khoản 2 Điều 28 Luật Nuôi con nuôi). Quy định này nhằm đảm bảo cho những trẻ là anh, chị, em ruột của nhau được sống gần nhau, được yêu thương, chăm sóc cùng nhau, tạo cho trẻ có một gia đình giống như gia đình ruột thịt trong nước của trẻ. Hiện nay, nhà nước đang khuyến khích việc nhận các trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt làm con nuôi (khoản 4 Điều 8 Luật Nuôi con nuôi). Vì vậy, việc người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài thường trú ở nước ngoài xin nhận đích danh trẻ em khuyết tật, nhiễm HIV/AIDS hoặc mắc các bệnh hiểm nghèo khác làm con nuôi (Điểm d khoản 2 Điều 28 Luật Nuôi con nuôi) được tạo điều kiện và khuyến khích. Quy định này tạo điều kiện cho các trẻ em được chữa bệnh, phục hồi chức năng, được hưởng nhiều ưu đãi về chính sách xã hội dành cho trẻ em của những nước phát triển mà ở Việt Nam do điều kiện phát triển kinh tế chưa thực hiện được. Ví dụ trẻ em ở Đức khi sinh ra sẽ được nhà nước nuôi đến hết 18 tuổi, được đi học và khám chữa bệnh miễn phí… Một trường hợp người nhận nuôi được xin nhận con nuôi đích danh quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 28 Luật Nuôi con nuôi phải “Là người nước ngoài đang làm việc, học tập ở Việt Nam trong thời gian ít nhất là 01 năm” [30. Thời gian ít nhất 1 năm được hiểu là thời gian sống và làm việc liên tục tại Việt Nam ít nhất là 1 năm. Trước kia tại mục 8 Nghị định 69/2006/NĐ-CP quy định
  • 44. 37 người nước ngoài đang làm việc, học tập tại Việt Nam trong thời gian ít nhất là 6 tháng. Việc tăng khoảng thời gian sống và làm việc liên tục của người nước ngoài lên thành 1 năm của Luật Nuôi con nuôi đã làm chặt chẽ thêm các điều kiện đối với người nước ngoài muốn nhận con nuôi đích danh tại Việt Nam. Bởi một người nước ngoài đến sống tại Việt Nam cần một khoảng thời gian nhất định mới hiểu được văn hóa, phong tục, con người Việt Nam. Khoảng thời gian ít nhất 1 năm là khoảng thời gian tối thiểu hợp lý để họ hiểu được văn hóa, con người Việt. Sau đó, khi họ nhận nuôi một trẻ em Việt Nam sẽ đảm bảo việc nuôi dưỡng, giáo dục phù hợp với trẻ, giúp trẻ dễ dàng thích nghi với môi trường văn hóa, ngôn ngữ, phong tục của người nhận nuôi. Như vậy, trường hợp người nước ngoài muốn nhận đích danh một trẻ em làm con nuôi ngoài việc thỏa mãn các điều kiện tại Điều 29 Luật Nuôi con nuôi còn đồng thời thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 28 Luật Nuôi con nuôi. 2.3. Điều kiện về ý chí của các bên chủ thể Sự thể hiện ý chí của các bên chủ thể có liên quan là yếu tố thiết yếu cần thiết, tạo cơ sở để giải quyết việc nuôi con nuôi. Chỉ khi việc nuôi con nuôi là sự thể hiện đúng ý chí tự nguyện của các chủ thể thì việc nuôi con nuôi mới thực sự bền vững, mới tạo cho trẻ em một mái ấm mà ở đó trẻ em được nuôi dưỡng, chăm sóc tốt nhất. 2.3.1. Sự thể hiện ý chí của người nhận nuôi con nuôi Ý chí của người nhận nuôi con nuôi phải trên cơ sở tự nguyện, có suy nghĩ kỹ càng trước khi quyết định nhận nuôi con nuôi (khoản 3 Điều 21 Luật Nuôi con nuôi). Sự tự nguyện đó phải xuất phát từ nhu cầu tình cảm, tinh thần của người nhận nuôi con nuôi và phù hợp với lợi ích của người được nhận làm con nuôi thì mới được coi là hợp pháp. Nếu việc nhận nuôi con nuôi xuất phát từ những động cơ, mục đích trái pháp luật, trái đạo đức sẽ không được công nhận có giá trị pháp lí.
  • 45. 38 Ý chí của người nhận nuôi thể hiện qua đơn xin nhận nuôi con nuôi. Trong đơn người nhận nuôi con nuôi bày tỏ mong muốn nhận một đứa trẻ làm con nuôi với những đặc điểm cụ thể về giới tính, tuổi, tình trạng gia đình, sức khỏe… Nguyện vọng đó của người nhận nuôi về nguyên tắc được cơ quan có thẩm quyền tôn trọng và đáp ứng nếu có đối tượng trẻ em thích hợp. Người nhận nuôi con nuôi có thể trình bày nguyện vọng của mình xin đích danh một trẻ em nào đó từ cơ sở nuôi dưỡng hoặc từ gia đình. Việc xin đích danh được thực hiện trong những điều kiện nhất định được Luật Nuôi con nuôi quy định cụ thể. Ví dụ: Người nhận nuôi muốn nhận đích danh một trẻ phải là trẻ em bị bỏ rơi, mồ côi, không nơi nương tự hoặc có các hoàn cảnh đặc biệt khác làm con nuôi hoặc cha dượng, mẹ kế nhận con riêng của vợ/chồng làm con nuôi. Chỉ khi người xin nuôi con nuôi không bày tỏ ý muốn của mình về đứa trẻ cụ thể muốn nhận nuôi mà chỉ thể hiện nguyện vọng xin nuôi con nuôi thì khi đó cơ quan có thẩm quyền có thể giới thiệu bất cứ trẻ em nào cho họ. Đối với người nhận nuôi con nuôi là người độc thân thì người nhận nuôi có quyền độc lập thể hiện ý chí tự nguyện của mình về việc nuôi con nuôi trong đơn xin nhận nuôi con nuôi. Trong trường hợp cả hai vợ chồng cùng nhận nuôi con nuôi thì sự thể hiện ý chí mong muốn nhận nuôi con nuôi phải là ý chí chung của cả hai vợ chồng. Hai vợ chồng phải thoả thuận và thống nhất được về việc nhận nuôi con nuôi. Trong đơn xin nhận nuôi con nuôi phải đứng tên cả hai vợ chồng với tư cách là cha nuôi và mẹ nuôi và con nuôi là con chung của cả hai vợ chồng. 2.3.2. Sự thể hiện ý chí của cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ của người được cho làm con nuôi Luật Nuôi con nuôi quy định: Việc nhận nuôi con nuôi phải được sự đồng ý của cha mẹ đẻ của người được nhận làm con nuôi; nếu cha đẻ hoặc mẹ đẻ đã chết,